Câu 3.1: Cho biết các loại thời hiệu trong lĩnh vực thừa kế ở Việt Nam?

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 3

*Án lệ số 26/2018/AL

Câu 3.1: Cho biết các loại thời hiệu trong lĩnh vực thừa kế ở Việt Nam?
Có 3 loại thời hiệu theo Điều 623 Bộ luật dân sự 2015 quy định:
“1. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động
sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này thì di
sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó. Trường hợp không có người
thừa kế đang quản lý di sản thì di sản được giải quyết như sau:
a) Di sản thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu theo quy định tại Điều
236 của Bộ luật này;
b) Di sản thuộc về Nhà nước, nếu không có người chiếm hữu quy định tại điểm a
khoản này.
2. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc
bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
3. Thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết
để lại là 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.”
Câu 3.2. Thời điểm mở thừa kế đối với di sản của cụ T là năm nào? Đoạn nào của
Quyết định tạo lập thành Án lệ số 26/2018/AL cho câu trả lời?
* Thời điểm mở thừa kế đối với di sản của cụ T: Năm 1972, cụ T chết nên theo khoản
1 Điều 611 Bộ luật Dân sự 2015 thì thời điểm mở thừa kế đối với di sản của cụ T là năm
1972
CSPL: Theo khoản 1 Điều 611 Bộ luật Dân sự 2015:
"1. Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Trường hợp Tòa ản
tuyên bố một người là đã chết thì thời điểm mở thừa kế là ngày được xác định tại
khoản 2 Điều 71 của Bộ luật này"
* Đoạn của Quyết định tạo lập thành Án lệ 26/2018/AL cho câu trả lời trên:
“[7] Như vậy kể từ ngày Bộ luật Dân sự năm 2015 có hiệu lực thi hành, Tòa án áp
dụng quy định tại Điều 623 Bộ luật Dân sự năm 2015 để xác định thời hiệu đối với
trường hợp mở thừa kế trước ngày 01-01-2017. Căn cứ quy định tại khoản 4 Điều 36
Pháp lệnh thưa kể ngày 30-8-1990 và Bộ luật Dân sự năm 2015, trong trường hợp này
thời hiệu khởi kiện chia di sản của cụ T cho các đồng thira kể vẫn còn theo quy định của
pháp luật."
Câu 3.3. Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của Bộ luật Dân sự
2015 cho di sản của cụ T có cơ sở văn bản nào không? Có thuyết phục không? Vì
sao?
- Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của Bộ luật Dân sự 2015 cho
di sản của cụ T là không có cơ sở văn bản pháp luật, đồng thời hướng giải quyết trên là
chưa thuyết phục.
- Vì mặc dù áp dụng thời hiệu 30 năm cho di sản của cụ T sẽ bảo đảm quyền lợi cho
những người được chia thừa kế, tạo điều kiện cho Tòa án xử lý một cách triệt để trong
trường hợp hết thời hiệu thì Tòa án sẽ không thụ lý và gây ra những hậu quả về sau (hết
thời hiệu nhưng vẫn còn tranh chấp về thừa kế).
- Theo điểm d khoản 1 Điều 688 Bộ luật Dân sự 2015 (thời hiệu được áp dụng theo
quy định của Bộ luật này) có quy định đối với giao dịch dân sự được xác lập trước ngày
Bộ luật này có hiệu lực thì việc áp dụng pháp luật được quy định ở điểm a, b, c của khoản
1 của Điều này. Và phải lưu ý rằng, khoản 1 Điều 688 nêu trên áp dụng đối với “Giao
dịch dân sự".
- CSPL: Điều 116 Bộ luật Dân sự 2015 quy định: “Giao dịch dân sự là hợp đồng
hoặc hành vì pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ
dân sự."
- Vụ việc trong Án lệ 26/2018/AL, không có giao dịch dân sự vì không có hợp đồng
nào được xem xét, đồng thời đây cũng là tranh chấp về thừa kế không có di chúc nên
cũng không có hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền,
nghĩa vụ dân sự (di chúc). Vậy nên không thể áp dụng thời hiệu theo quy định của Bộ
luật Dân sự 2015 như lập luận của Hội đồng thẩm phán.
Câu 3.4: Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của BLDS 2015 cho
di sản của cụ T với thời điểm bắt đầu từ thời điểm Pháp lệnh thừa kế năm 1990
được công bố có cơ sở văn bản nào không? Có thuyết phục không? Vì sao?
- Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của Bộ luật Dân sự 2015 cho di
sản của cụ T với thời điểm bắt đầu từ thời điểm Pháp lệnh thưa kể năm 1990 được công
bố là không có cơ sở văn bản và hướng giải quyết trên là chưa thuyết phục.
- CSPL:
+ Thứ nhất, khoản 1, khoản 4 Điều 36 Pháp lệnh thừa kế số 44-LCT/HĐNN8 ngày
10/9/1990 quy định:
"Điều 36: Thời hiệu khởi kiện về thừa kế
1. Trong thời hạn mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế, người thừa kế có quyền
khởi kiện để yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thia kế của mình hoặc bác bỏ
quyền thừa kế của người khác.

4. Đối với các việc thưa kể đã mở trước ngày ban hành Pháp lệnh này thì thời
hạn quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều này được tỉnh từ ngày công bố Pháp
lệnh này."
+ Thứ hai, khoản 1 Điều 623 BLDS 2015 quy định:
"Điều 623. Thời hiệu thừa kế
1. Thời hiệu để người thừa kể yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động
san, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này thì di
sản thuộc về người thừa kế dạng quản lý di sản đó. Trường hợp không có người
thừa kể đang quản lý di san thị di sản được giải quyết như sau:
a) Di sản thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu theo quy định tại Điều
236 của Bộ luật này;
b) Di sản thuộc về Nhà nước, nếu không có người chiếm hữu quy định tại điểm a
khoản này."
- Do thời điểm mở thừa kế tính từ khi cụ T chết là năm 1972, trước ngày ban hành
Pháp lệnh thừa kế số 44-LCT/HĐNN8 ngày 10/09/1990 nên thời điểm mở thừa kế được
xác định là ngày công bố pháp lệnh trên (10/09/1990) theo khoản 4 Điều 36. Căn cứ vào
khoản 1 Điều 623 BLDS 2015, quyền khởi kiện về thừa kế vẫn còn hiệu lực do thời hiệu
để người thừa kế yêu cầu chia di sản vẫn chưa quá 30 năm, cụ thể là 20 năm. Tuy nhiên,
hướng giải quyết trên lại chưa thuyết phục vì vào thời điểm khởi kiện thì BLDS 2015
chưa chính thức có hiệu lực.
- Nếu áp dụng theo khoản 1, khoản 4 Điều 36 Pháp lệnh trên thì thời hiệu người thưa
kể yêu cầu chia di sản là 10 năm kể từ ngày mở thừa kế (10/09/1990).
 Do đó, thời hiệu người thừa kể yêu cầu chia di sản chấm dứt kể từ ngày
10/09/2000, thời điểm khởi kiện là ngày 02/11/2010 nên quyền khởi kiện về thừa kế
không còn hiệu lực nữa.

You might also like