Professional Documents
Culture Documents
Chuc Nang Cu Phap Cua Mot So Vai Nghia Trong Cau
Chuc Nang Cu Phap Cua Mot So Vai Nghia Trong Cau
Chuc Nang Cu Phap Cua Mot So Vai Nghia Trong Cau
Ông Trương Vĩnh Ký cho rằng “tiếng Việt không có cách hiểu theo nghĩa hẹp như
tiếng Latin. Vì cách là sự biến hình trong vĩ tố của từ tùy theo cái vai trò mà nó đảm đương
trong câu; nhưng trong tiếng Việt, cái mà sự biến hình ấy chỉ rõ lại được biểu hiện bằng
những tiểu tố tiền vị, và dĩ nhiên đó không phải là cách thực sự. Tuy nhiên sự phân chia theo
từng cách là tiện lợi và chính xác; dù danh từ cách không thích hợp và đúng đắn, song ông
vẫn dùng nó theo phép loại suy cho dễ hiểu và định nghĩa cách là những vị trí khác nhau của
một danh từ tùy theo cái cương vị làm chính hay bổ ngữ cho một từ khác”. Đối với từng
cách, ông cho biết có thể diễn đạt ý nghĩa của cách ấy bằng những phương tiện gì khác
phương tiện chủ yếu. Như khi nói về công cụ cách, bên cạnh “Cột bằng dây”, ông còn cho
“Dùng dây mà cột”, “Lấy dây mà cột”. Điều này cho thấy rằng khi dùng khái niệm cách,
ông hiểu nó như ý nghĩa ngữ pháp nhiều hơn là một hình thức ngữ pháp. Như vậy ông không
chỉ gán mô hình ngữ pháp tiếng Latin cho tiếng Việt mà còn hiểu rõ khả năng và cách thức
sử dụng khái niệm Cách cho những thứ tiếng không biến hình, điều mà gần một thế kỷ sau
các nhà ngôn ngữ học phương Tây mới nghĩ đến.
Hạn chế của ông Trương Vĩnh Ký là điều dễ hiểu vì vào thời gian đó người ta chưa
biết chú ý đến nghĩa của câu, và chưa biết rằng cách là một ý nghĩa phổ quát trong ngôn ngữ
nhân loại, mà mọi thứ tiếng trên trái đất đều phải có cách diễn đạt và phân biệt. Tuy nhiên có
thể nói ông Trương Vĩnh Ký là người đi trước các nhà ngôn ngữ học trong việc mô tả các
phương tiện diễn đạt ý nghĩa Cách trong ngôn ngữ không biến hình xuất phát từ mặt sở biểu
và được xem là người tiên phong trong việc xây dựng nền Ngữ pháp cách tiếng Việt.
Tiếp theo phải kể đến tác giả Nguyễn Đức Dân trong công trình nghiên cứu “Mô hình
ngôn ngữ” [1977] và “Ngôn ngữ học: khuynh hướng- lĩnh vực- khái niệm”[1986], tác giả đã
giới thiệu một số vấn đề về ngữ pháp cách như sau:
a. Sự nhầm lẫn của Chomsky khi đem phạm trù ngữ pháp (NP, VP) xếp lẫn với chức
năng ngữ pháp (trạng ngữ thời gian và nơi chốn).
b. Fillmore đặt vấn đề cần phải coi trọng hơn nữa những phạm trù sâu không nổi lên
bề mặt nhưng có thể phát hiện được bằng các thao tác cú pháp. Cơ sở của nó là lý thuyết về
các cách (The Case for Case).
c. Thuật ngữ “Cách” và ý nghĩa của nó trong ngôn ngữ.
d. Hệ thống cách mang tính phổ quát đối với mọi ngôn ngữ gồm có các cách:
1. Tác nhân (Agent): kẻ hành động, ví dụ : Ba làm vỡ cửa sổ.
2. Người cảm nhận (Experiencer): kẻ chịu đựng, trải qua một tình huống về tâm lý,
tình cảm, nó đối lập với tác nhân. Ví dụ: Tôi lạnh.
3. Công cụ (Instrument): công cụ, nguyên nhân trực tiếp của sự kiện.
Ví dụ: Tôi dùng dao thái khoai.
4. Đối tượng (Object): đối tượng chịu tác động.
Ví dụ: Bé Hai lớn như thổi.
5. Vị trí (Lieu): nơi xảy ra hành động. Ví dụ: Xoa đầu ai.
6. Gốc (Root): từ điểm đó, nơi đó, người đó mà định hướng đến nơi khác. Ví dụ: Cô
Ba bán hoa.
7. Đích (Goal): nơi đó người ta thực hiện hành động.
Ví dụ: Tâm mắng Ba.
8. Kết quả (Result): vật nảy sinh nhờ kết quả của hành động.
Ví dụ: Cô Ba làm bánh.
9. Thời gian (Time): thời gian xảy ra hành động,. Ví dụ: Mùa đông lạnh.
Tác giả Nguyễn Đức Dân nhận xét rằng trong công trình 1966, Fillmore còn cho có
Tặng cách (Datif), nhưng đến năm 1971, ông đã tùy từng trường hợp mà xếp cách Datif vào
cách Experiencer, cách Object hoặc cách Goal. Fillmore đã đưa ra ba nguyên lý để xác định
cách, gồm: Chỉ có một thí dụ cho mệnh đề; một động từ có thể có nhiều vai khác nhau; thực
hiện sự “phân bố bổ túc”.
e. Phân loại động từ theo cách. Từ cách làm này cho thấy sự đối lập hình thức giữa
chủ ngữ và vị ngữ không còn nữa, và do đó những bất hợp lý do chúng gây ra cũng bị mất đi.
Điều này được xem là điểm cống hiến đáng kể nhất về ngữ pháp cách và ngữ nghĩa của
Fillmore .
f. Mối quan hệ giữa cấu trúc chìm và cấu trúc bề mặt, và phương pháp chuyển từ cấu
trúc bề sâu sang cấu trúc bề mặt.
g. Khả năng ứng dụng của Ngữ pháp cách. [Dẫn theo 30: 101-102]
Ngoài các công trình nêu trên, có thể kể đến công trình Tiếng Việt- sơ thảo ngữ pháp
chức năng của Cao Xuân Hạo [1991]. Trong cuốn sách này, từ trang 81 đến trang 96, Cao
Xuân Hạo đã vẽ lại bức tranh lịch sử nghiên cứu vai nghĩa từ người khởi xướng là L.
Tesnière [1959], điểm qua những mốc quan trọng với những đóng góp đáng chú ý riêng của
một số nhà ngôn ngữ gồm C. J Fillmore [1968, 1971 và 1977], D.Ha [1970], Trần Trọng Hải
[1972], Nguyễn Đăng Liêm [1973], M. Clark [1974 và 1978], S.C. Dik [1978] và M.A.K.
Halliday [1985]. Có thể nói, tác phẩm Tiếng Việt- sơ thảo ngữ pháp chức năng của Cao
Xuân Hạo [1991] là công trình đã phác thảo những nét định hướng đầy đủ cho nhiều nghiên
cứu về sau có liên quan đến ngữ pháp chức năng trong tiếng Việt nói chung và các vai nghĩa
trong tiếng Việt nói riêng.
Tiếp theo, có thể kể tên một số công trình tiêu biểu như “Ngữ pháp chức năng tiếng
Việt- Quyển I- Câu trong tiếng Việt” của tập thể các tác giả Hoàng Xuân Tâm- Nguyễn Văn
Bằng- Bùi Tất tươm- Cao Xuân Hạo (chủ biên), “Câu chủ- vị tiếng Việt” của Lê Xuân
Thại… Trong các công trình này, các tác giả trên cơ sở học tập, kế thừa kết quả nghiên cứu
của một số nhà ngữ pháp chức năng trên thế giới như L. Tesnière, C.J. Fillmore, W. Chafe,
S.C. Dik…đã bước đầu đưa ra một danh sách các vai nghĩa trong tiếng Việt.
Gần đây, một số công trình ngữ pháp tiếng Việt như Câu chủ- vị tiếng Việt” (Lê Xuân
Thại), “Thành phần câu tiếng Việt” (Nguyễn Minh Thuyết- Nguyễn Văn Hiệp), “Ngữ pháp
chức năng (Vị từ hành động)” (Nguyễn Thị Quy), “Ngữ pháp tiếng Việt- tập 2”, “Giáo trình
ngữ pháp tiếng Việt (theo định hướng ngữ pháp chức năng)” (Diệp Quang Ban)… đã thể
hiện rõ sự vận dụng ngữ pháp chức năng vào việc nghiên cứu, lý giải các hiện tượng ngữ
pháp với cấu trúc nghĩa (cụ thể là mối quan hệ giữa các chức năng cú pháp và các vai nghĩa).
Trong “Câu chủ - vị tiếng Việt” [44], Lê Xuân Thại đã xác định được các vai nghĩa có
thể đứng vị trí chủ ngữ trong câu tiếng Việt: 1. Kẻ hoạt động, 2. Đối tượng của hoạt động, 3.
Kẻ tiếp nhận, 4. Công cụ của hoạt động, 5. Vị trí. Tác giả Lê Xuân Thại cũng cho rằng việc
các vai nghĩa trên (trừ vai kẻ hoạt động) đứng ở vị trí chủ ngữ thì “kéo theo sự thay đổi ý
nghĩa và cấu tạo của vị ngữ so với vị ngữ khi kẻ hoạt động đứng làm chủ ngữ và cũng từ đó
mà ý nghĩa của câu cũng có chỗ thay đổi”. [44: 152]
Nguyễn Thị Quy [41] do chỉ giới hạn trong phạm vi vị từ hành động tiếng Việt nên
chỉ xem xét một số tham thể như: đối tượng bị tác động, đích, nơi chốn, thời gian, người
hưởng lợi, công cụ, người hưởng lợi, công cụ, người tiếp nhận.
Tác giả Hoàng Văn Vân, với tác phẩm Ngữ pháp kinh nghiệm cú tiếng Việt mô tả theo
quan điểm chức năng hệ thống [2005], đã thuyết minh cho quan điểm mà Halliday [1985 và
1994] tự hào gọi là “hệ thống tính” trong cách phân tích ngữ pháp của các ngôn ngữ trên thế
giới dựa trên quan điểm chức năng, đặc biệt là cách phân tích câu. Theo Hoàng Văn Vân
[2005], các vai nghĩa sau đây có trong tiếng Việt: Hành thể, Đích thể, Lợi thể, Tiếp thể,
Khách thể, Khiến thể, Cảm thể, Hiện tượng, Đương thể, Thuộc tính, Tạo thuộc tính thể, Giá
trị, Biểu hiện, Bị đồng nhất thể, Đồng nhất thể, Hiện hữu thể, Phát ngôn thể, Tiếp ngôn thể,
Đồng nhất thể, Hiện hữu thể, Ngôn thể, Dung môi, Cương vực, Ứng thể, Chu cảnh gồm
Phạm vi, Định vị, Phong cách, Nguyên nhân, Đồng hành, Vấn đề, Vai diễn và Quan điểm.
Nguyễn Thị Ảnh [2002], không giống Hoàng Văn Vân, chỉ tìm hiểu những vai nghĩa
có thể làm Đề trong câu tiếng Việt và tiếng Anh để so sánh chúng với nhau. Theo tác giả này
“sự khác biệt, cái làm nên nhu cầu đối chiếu, được thể hiện chủ yếu ở sự khác biệt của Đề.
Với phần thuyết sự khác biệt này dường như không đáng kể”; do đó luận án của Nguyễn Thị
Ảnh “bỏ qua việc thảo luận về phần Thuyết và xem đối chiếu cấu trúc Đề- Thuyết trong câu
tiếng Việt dựa trên khảo sát và kết quả nghiên cứu phần Đề”. Theo Nguyễn Thị Ảnh [2002],
các vai nghĩa sau đây có thể làm Đề trong câu tiếng Việt: Tác thể, Hành thể, Lực, Động thể,
Nghiệm thể, Đương thể, Đối thể, Mục tiêu, Tiếp thể, Đích, Nguồn, Công cụ, Thời gian, Nơi
chốn, và Điều kiện.
Cao Xuân Hạo, Hoàng Dũng và Bùi Mạnh Hùng [2003] nêu lên 22 vai nghĩa cần phân
biệt hơn cả mà học sinh trung học cơ sở tại Việt Nam phải nắm cho được: Người hành động,
Người tác động, Lực tác động, Người thể nghiệm, Người/vật trải qua sự biến, Người/vật bị
tác động, Vật tạo tác, Người/vật mang trạng thái, Người nhận, người hưởng lợi, nơi chốn,
Đích, Hướng, Nguồn, Lối đi, Phương thức, Công cụ, Thời gian, Khoảng cách không gian,
Nguyên nhân, Điều kiện, Trở ngại và Người/vật tồn tại. Việc trình bày của các tác giả trong
tiểu mục này là chỗ dựa hết sức quan trọng và đáng tin cậy để chúng tôi đi vào nghiên cứu
một số vai nghĩa trong luận văn này.
Việc nghiên cứu vai nghĩa gần đây ở Việt Nam cũng được một số tác giả quan tâm.
Tác giả Nguyễn Thị Lương, trong cuốn “Câu tiếng Việt”[2006], đã nghiên cứu câu từ góc độ
ba bình diện: ngữ pháp- ngữ nghĩa- ngữ dụng. Và theo đó, ở bình diện ngữ nghĩa, tác giả đã
vận dụng lí thuyết vị tố- tham thể của ngữ pháp chức năng và lý thuyết hành động nói để
nghiên cứu hai thành phần tạo nên nghĩa tường minh của câu: nghĩa miêu tả và nghĩa tình
thái. Tác giả đưa ra khái niệm nghĩa miêu tả của câu “là nghĩa biểu hiện sự vật, việc, hiện
tượng (gọi chung là sự tình) trong thực tế khách quan được phản ánh vào trong câu, qua lăng
kính chủ quan của người nói (viết)..” [38:133]. Với việc tìm hiểu tìm hiểu cấu trúc nghĩa
miêu tả, phân loại các thành tố trong cấu trúc nghĩa miêu tả. Đặc biệt là tác giả đã chỉ ra mối
quan hệ của cấu trúc vị tố- tham thể với cấu trúc ngữ pháp của câu. Đồng thời tác giả cũng
đã đề cập đến vai nghĩa của các thành phần: chủ ngữ, trạng ngữ , bổ ngữ, khởi ngữ. Đây
cũng là gợi ý và chỗ dựa quan trọng cho những vai nghĩa được chọn trong luận văn.
Tác giả Nguyễn Văn Hiệp, trong cuốn “Cơ sở ngữ nghĩa phân tích cú pháp” [2008]
cũng đã đưa cả chương 2 để nghiên cứu, tìm hiểu về nghĩa miêu tả. Đầu tiên là việc tìm hiểu
cấu trúc vị từ - tham thể của câu dựa vào việc điểm lại ngữ pháp của Tesnière, về khái niệm
vị từ. Đặc biệt là việc định nghĩa vai nghĩa từ quan điểm của Fillmore (1968), đưa ra danh
sách các vai nghĩa của Fillmore và danh sách các vai nghĩa cơ bản được hầu hết các nhà
nghiên cứu thừa nhận. Hơn thế nữa, tác giả cho thấy sự thể hiện hình thức của vai nghĩa và
đánh dấu các vai nghĩa, phân loại các kiểu sự tình, sự đồ chiếu của cấu trúc vai nghĩa lên cấu
trúc cú pháp.
Ngoài ra vấn đề vai nghĩa cũng được trình bày rải rác trong các bài viết trên tạp chí
Ngôn ngữ: Vai nghĩa phương tiện và các chức năng ngữ pháp của nó trong câu tiếng Việt
(Lê Thị Lan Anh- Ngôn ngữ số 4, 2002); Tìm hiểu chức năng ngữ pháp và vai trò thông báo
của vai nghĩa thời gian trong câu tiếng Việt (Bùi Thị Thanh Lương- Ngôn ngữ số 4, 2002);
Phương pháp nhận diện vai nghĩa của các tham thể trong cấu trúc nghĩa biểu hiện của câu
với vị từ đa trị như cho, tặng, gửi (Lâm Quang Đông- Ngôn ngữ số 7, 2006).
Điểm qua các công trình nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy các nhà ngôn ngữ học đã
đưa ra danh sách các vai nghĩa. Tuy vậy, đó vẫn là một danh sách hiện nay còn để ngỏ. Đồng
thời việc tìm hiểu các vai nghĩa trong cấu trúc nghĩa biểu hiện của câu tiếng Việt cũng mới
chỉ nghiên cứu ở việc phân tích phân loại các vai nghĩa chủ yếu trên bình diện ngữ nghĩa mà
còn ít công trình chuyên sâu về mối quan hệ của các vai nghĩa và chức năng cú pháp của nó
khi được hiện thực hóa trong câu. Vì vậy, cần có những công trình đi sâu nghiên cứu về chức
năng ngữ pháp của vai nghĩa trong câu tiếng Việt.
3. Nhiệm vụ của luận văn
Luận văn này có những nhiệm vụ cụ thể như sau:
- Trình bày khái niệm về vai nghĩa, chức năng cú pháp, mối quan hệ giữa vai nghĩa và
chức năng cú pháp.
- Điểm qua danh sách các vai nghĩa, chọn một số vai nghĩa phổ biến trong khung vị
ngữ (vai nghĩa đối thể- patient; vai nghĩa tạo thể - factitive; vai nghĩa vị trí - locative; vai
nghĩa nguồn – source; vai nghĩa phương thức – manner).
- Tìm hiểu, miêu tả chức năng cú pháp tương ứng với những vai nghĩa (đã chọn) trong
câu tiếng Việt (qua ngữ liệu tiếng Việt).
4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu
4.1. Phương pháp nghiên cứu:
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng một số các thủ pháp và phương pháp
nghiên cứu khoa học chung như:
- Thu thập, phân loại tài liệu
- Khảo sát, phân tích tài liệu
Ngoài các thủ pháp như trên, luận văn còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu
ngôn ngữ học sau:
- Phương pháp phân tích ngữ nghĩa, cú pháp
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp miêu tả
4.2. Nguồn ngữ liệu:
Nguồn ngữ liệu chủ yếu được thu thập từ các tác phẩm văn học, các giáo trình nghiên
cứu ngữ pháp- ngữ nghĩa tiếng Việt, từ điển tiếng Việt.
5. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu và phần Kết luận, phần Nội dung chính của luận văn được
phân thành hai chương:
Chương một: Những cơ sở lý thuyết
Trong chương này, luận văn sẽ trình bày khái niệm vai nghĩa theo các nhà ngôn ngữ
trên thế giới và các nhà Việt ngữ học; những vai nghĩa phổ biến trong khung vị ngữ; cấu trúc
cú pháp và một số chức năng cú pháp của câu; cấu tạo ngữ pháp của chu tố và diễn tố; mối
quan hệ giữa vai nghĩa với chức năng cú pháp của câu.
Chương hai: Một số vai nghĩa với chức năng cú pháp của nó trong câu tiếng Việt
Ở chương hai, luận văn miêu tả chức năng cú pháp của một số vai nghĩa: vai đối thể;
vai tạo thể; vai phương thức; vai nguồn; vai vị trí- không gian.
Chương 1:
NHỮNG CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1.1. Khái niệm vai nghĩa
Khái niệm vai nghĩa đã được các nhà ngôn ngữ dùng với nhiều thuật ngữ khác nhau:
cases (cách), semantic relations (quan hệ ngữ nghĩa), roles hay case-roles (vai nghĩa); hoặc
thematic roles, theta-roles (vai tham tố), như phái ngữ pháp cải biến (transformational
grammar) thường gọi.
Luận văn chọn “vai nghĩa” (roles) vì thuật ngữ này ngắn gọn và dễ dàng gắn nó với
khái niệm “phân vai” (role assignment) của vị từ ngôn liệu trong khung vị ngữ của câu.
Theo tác giả Tô Minh Thanh [44: 37] thì nhìn chung chưa có một định nghĩa nhất
quán dành cho vai nghĩa.
Theo W. Wilkin [1998; 191-192], vai nghĩa “là thành phần thể hiện về mặt tinh thần
các vật thể và khái niệm”. Cùng quan điểm này có D. L. F. Nilsen [1973], S. DeLancey
[1982] và R. Jackendoff [1983]. Các tác giả này ít nhiều đều đánh đồng vai nghĩa (role) với
các phạm trù của nhận thức (cognitive categories) và vì vậy mà vai nghĩa phải neo đậu vào
bến bờ của nhận thức” [Schlessinger,1995: 4] giống như cách thức mà ngôn ngữ lồng ý
nghĩa vào âm thanh vậy và do đó bắt buộc âm thanh phải chở tải ý nghĩa.
Theo C.J. Fillmore, một sự tình gồm một vị từ trung tâm và quây quần quanh nó là các
ngữ đoạn biểu thị những cách ngữ nghĩa hay vai nghĩa (semantic role) nào đó. Fillmore đã
đưa ra một số vai nghĩa mà ông cho là có tính phổ quát, có thể tìm thấy trong mọi ngôn ngữ,
phản ánh một phương diện chung trong cách thức chúng ta tri nhận về thế giới: “Ý niệm về
cách bao gồm một tập hợp khái niệm phổ quát, được giả định là bẩm sinh, xác định những
kiểu tri nhận nào đó của con người về những sự tình đang diễn ra quanh họ, tri nhận những
vấn đề như ai thực hiện nó, nó xảy ra đối với ai và cái gì thay đổi” (Fillmore 1968, 24) [28:
41].
Định nghĩa của Fillmore cho thấy tác giả nhấn mạnh tính phổ quát của vai nghĩa: nếu
kết cấu bẩm sinh của miền nhận thức là giống nhau ở mọi người và nếu vai nghĩa là những
khái niệm nhận thức cơ bản (cognitive primitives) thì chẳng phải đó là các phổ niệm
(universals). Theo định nghĩa trên của Fillmore về vai nghĩa thì chúng ta có thể hiểu là vai
nghĩa tồn tại trong nhận thức nhưng độc lập với ngôn ngữ và có lẽ là có trước ngôn ngữ và
rằng hệ thống ngôn ngữ có sử dụng các vai nghĩa thì tồn tại độc lập với các vai này.
Tác giả I.M. Schlesinger [1995: 24] “đề nghị […] coi các vai nghĩa là những kết cấu
ngôn ngữ không nhất thiết phải tồn tại trong miền nhận thức dù có thể được định nghĩa bằng
khái niệm trong miền nhận thức.” [Dẫn theo 44: 38]
Như vậy, Schlesinger lại cho vai nghĩa là những kết cấu ngôn ngữ (linguistic
constructs), cụ thể là những kết cấu ngữ nghĩa (semantic constructs) chứ không nhất thiết
phải là những kết cấu nhận thức (cognitive constructs). Ý kiến này đã để ngỏ cái khả năng là
vai nghĩa có thể mang tính cụ thể của riêng từng ngôn ngữ (language-specific).
Cách đề xuất của Schlesinger coi vai nghĩa là những kết cấu ngôn ngữ dẫn đến việc
phải xác định tiêu chuẩn nhận diện các vai nghĩa và xem chúng hoạt động như thế nào dưới
tác động của quy tắc ngữ pháp của một ngôn ngữ cụ thể như tiếng Anh chẳng hạn. Ví dụ vai
Tác thể trong tiếng Anh có thể được xác định nhờ những khái niệm nhận thức cơ bản, chính
là các đặc điểm của vai nghĩa này, như [+ hành động (activity)], [+ chủ định (volitition)] và
[+ý định (intention)] và [+ động vật (anymacy)].
Như vậy, quan điểm của Schlesinger coi vai nghĩa là những kết cấu ngôn ngữ. Quan
điểm này cũng có thể rất hữu ích cho việc phân tích một số vai nghĩa trong câu tiếng Việt.
Theo tác giả Cao Xuân Hạo, câu biểu hiện một sự tình (hay sự thể). Nội dung (nghĩa
biểu hiện) của nó có thể hình dung như một “cảnh” (một màn kịch ngắn) diễn trên sân khấu.
Cái cảnh ấy có một nội dung nhất định: trên sân khấu hiện ra quang cảnh nào đấy (một sự
tình tĩnh), rồi lại diễn ra một sự việc nào đấy (một sự tình động). Các nhân/ vật (đọc là “nhân
và vật” hoặc là “nhân hay vật”) có mặt trên sân khấu được gọi là tham tố của sự tình hay vai
(“vai nghĩa”). [27: 51]
Như vậy, các tham tố là các vai nghĩa trong một màn kịch nhỏ của một sự thể.
Tác giả Hoàng Dũng và Bùi Mạnh Hùng cũng đã định nghĩa vai nghĩa là “quan hệ ngữ
nghĩa của ngữ danh từ đối với vị từ trong câu, là cách thức mà thực thể do ngữ danh từ biểu
thị góp phần vào sự tình được câu diễn đạt.” [17: 134]
Vấn đề vai nghĩa là một vấn đề phức tạp và đã được khảo sát, nghiên cứu theo nhiều
quan điểm khác nhau. Nhìn chung, các nhà ngôn ngữ chưa có sự thống nhất cao trong việc
xác định và miêu tả các vai nghĩa.
Vấn đề danh sách các vai nghĩa và tên gọi của các vai nghĩa cũng còn chưa có sự
thống nhất ở các nhà nghiên cứu. Theo tác giả Nguyễn Văn Hiệp [28: 46], có tình hình này
bởi các lí do sau:
- Thứ nhất, hiện nay nhiều tác giả khác nhau khi nghiên cứu vai nghĩa đã nêu ra một
danh sách khác nhau. Thường thấy, là một danh sách khoảng vài chục vai, nhưng cũng có thể
lên đến hàng trăm vai (Dixon 1992).
- Thứ hai, tên gọi của các vai có thể khác nhau. Có tình trạng một số tác giả dùng
chung tên gọi vai nghĩa, nhưng quan niệm khác nhau. Lại có tình trạng dùng tên gọi vai
nghĩa khác nhau, nhưng quan niệm lại giống nhau…
Và cũng theo tác giả Nguyễn Văn Hiệp [28: 46], ngoài ra cũng phải tính đến khả năng
là một ngữ đoạn nào đó trong câu có thể đảm nhận hơn một vai nghĩa, tức nhìn từ góc độ này
thì có thể cho rằng nó biểu thị vai nghĩa x, nhưng nhìn từ góc độ khác lại có thể cho rằng nó
biểu thị vai nghĩa y.
Trước những vấn đề phức tạp như trên, luận văn bước đầu chỉ tìm hiểu một số vai
nghĩa đã được các nhà nghiên cứu tương đối thống nhất về tên gọi như các vai: đối thể, tạo
thể, phương thức, vị trí, nguồn.
1.2. Những vai nghĩa phổ biến trong khung vị ngữ
1.2.1. Khung vị ngữ
Theo Cao Xuân Hạo (1991: 103- 106), nghĩa của câu không đơn giản là một phép
cộng nghĩa của các từ ngữ trong câu. Nghĩa của câu là một cấu trúc có nhiều tầng. Các tầng
nghĩa trong câu phối hợp với nhau tạo ra nghĩa hành chức (nội dung thông báo) của câu.
[Dẫn theo 21: 23]
Cao Xuân Hạo quan niệm “nghĩa chính là cái điều được truyền đạt trong lời nói”
[23:17] gồm nội dung hay ý nghĩa- nghĩa nguyên văn và nghĩa ngôn trung. Ông phê phán
quan điểm cho nghĩa của câu chỉ là tổng các nghĩa của từ kết hợp lại mà thành. Ông ủng hộ
quan điểm của Dik “lớp nghĩa học là lớp nghĩa của ‘sự tình’ được biểu thị và những ‘vai trò’
tham gia vào sự tình ấy. Ở đây có những tham tố (participants) của sự tình, gồm có các diễn
tố (actants) và những chu tố (circumstants). Các diễn tố là những vai trò tất yếu được giả
định sẵn trong nghĩa từ vựng của vị từ. Chẳng hạn một vị từ cho tất nhiên giả định một chủ
thể của hành động “cho” (hay hành thể), một đối thể là vật được đem cho và một tiếp thể tức
người nhận tặng phẩm. Các chu tố làm thành cái cảnh trí ở xung quanh các tham tố không
được giả định một cách tất nhiên trong khung vị ngữ. Đó là các điều kiện thời gian, không
gian, là cách thức, phương tiện, hoặc là những nhân vật có liên quan,”v.v.. [23:21]
Cũng theo tác giả Cao Xuân Hạo (1991) “các sự tình, được biểu hiện trong ngôn ngữ
bằng những câu mà hạt nhân là khung vị ngữ, gồm lõi vị ngữ, (mà trung tâm là vị từ) và các
tham tố của nó trong đó có một tham tố làm đề (hay tiểu đề nếu câu có nhiều bậc cấu trúc đề-
thuyết)” trước hết có thể chia ra làm ba loại sau: câu tồn tại, nhận định rằng trong một thế
giới hay một nơi nào đó có một cái gì; câu chỉ sự tình động hay sự việc biến cố; câu chỉ sự
tình tĩnh hay tình hình. từ đó ông phân loại câu theo vị từ Hành động (vô tác, chuyển tác),
Quá trình (vô tác, chuyển tác), Trạng thái, Quan hệ với số lượng các diễn tố và vai nghĩa của
các diễn tố cùng với một vài chu tố. [23: 433]
Như vậy, trong khung vị ngữ, vị từ là yếu tố cốt lõi và quây quần xung quanh là các
tham tố biểu thị một số vai nghĩa nào đó hay có thể gọi là cấu trúc vị từ- tham tố. Có những
vai nghĩa mang tính bắt buộc, bị quy định bởi bản chất từ vựng- ngữ pháp của vị từ trung
tâm, theo cái nghĩa là những vị từ có bản chất từ vựng- ngữ pháp khác nhau sẽ quy định các
vai nghĩa bắt buộc khác nhau. Nhưng cũng có những vai nghĩa mang tính tùy nghi, tức
không chịu sự quy định bắt buộc như vậy. Trong ngữ pháp của Tesnière, những vai nghĩa bắt
buộc sẽ được hiện thực hóa thông qua những ngữ đoạn được coi là diễn tố, còn những vai
nghĩa tùy nghi thì được hiện thực hóa thông qua các ngữ đoạn được gọi là chu tố. Việc đánh
giá một vai nghĩa là bắt buộc hay tùy nghi phải đặt trong quan hệ với vị từ trung tâm.
1.2.2. Vị từ và các tham tố
1.2.2.1. Vị từ
Các nhà nghiên cứu theo quan điểm chức năng cho rằng trong khung vị ngữ không
nên đồng nhất khái niệm vị từ với hai từ loại (bao gồm động từ và tính từ) theo cách hiểu
thông thường. Ở đây vị từ được hiểu là yếu tố ngôn ngữ chỉ đặc trưng và quan hệ với tư cách
chức năng ngữ nghĩa; trong quan hệ với các tham tố (tham thể) mới xuất hiện khái niệm vị
từ.
Vị từ với cách hiểu như trên sẽ do các từ loại khác đảm nhiệm có thể là động từ, tính
từ và cũng có thể là danh từ. Theo tác giả Diệp Quang Ban thì Anna Siewierska- một tác giả
có công trình nghiên cứu về ngữ pháp chức năng- đã từng nhận xét: “Trong ngữ pháp chức
năng, toàn bộ các vị từ chia thành ba loại: thuộc động từ, thuộc tính từ và thuộc danh từ” [tr
22- Ngữ pháp chức năng- 1991] [Dẫn theo 1:14]. Tất nhiên thực tế sử dụng ngôn ngữ cho
thấy vị từ thường do tính từ và động từ thể hiện.
Nó học bài.
Tôi đọc sách.
Em bé gầy yếu quá.
Bông hoa này rất đẹp.
Trường hợp danh từ đảm nhận chức năng làm vị từ là trường hợp rất hạn hữu. Hầu
như ta chỉ gặp vị từ là danh từ trong các kiểu câu:
- Anh công nhân, em bác sĩ.
- Nhà ấy vợ giáo viên, chồng kỹ sư.
Hoặc - Mưa !
- Chuột !
Tuy nhiên những trường hợp hiếm hoi này lại là những bằng chứng giúp chúng ta
khẳng định một cách chắc chắn: vị từ trong khung vị ngữ (cấu trúc vị từ- tham thể) không
phải là từ loại mà là chức năng nghĩa trong quan hệ với các tham thể.
Với cách hiểu như trên, vị từ trong cấu trúc khung vị ngữ được phân loại không giống
với cách phân loại vị từ thông thường. Đã có nhiều cách phân loại vị từ nhưng chủ yếu các
nhà ngữ pháp chức năng căn cứ vào hai tiêu chí đã được nhà ngôn ngữ học S.C. Dik (1978)
sử dụng để phân loại các sự tình dựa vào sự tổng hợp hai cặp đối lập (+/-ĐỘNG -
dynamism), (+/-CHỦ Ý - control).
Dựa vào hai tiêu chí trên, vị từ và sự tình mà câu phản ánh được chia làm bốn loại,
mỗi loại mang hai đặc trưng:
Vị từ hành động mang đặc trưng [+ ĐỘNG] và [+ CHỦ Ý]: là các vị từ chỉ hành động
(đi, chạy, nhảy, kêu, gào, đánh, đập, chọc, khuân, vác, xây, đắp..)
- Vị từ quá trình mang đặc trưng [+ ĐỘNG] và [- CHỦ Ý]: đó là các loại vi từ chỉ quá
trình (rơi, khô, héo, phai, thấm,ngấm, chảy, trôi,..)
- Vị từ tư thế mang đặc trưng [- ĐỘNG] và [+ CHỦ Ý]: là loại vị từ chỉ tư thế (ngồi,
quỳ, đứng, cúi, nằm, lom khom, …)
- Vị từ trạng thái mang đặc trưng [- ĐỘNG] và [- CHỦ ĐỘNG]: là các vị từ chỉ trạng
thái, tính chất, quan hệ (lo, sợ, vui, mừng, to, nhỏ, đẹp, xấu, là, của, vì, để, bằng…)
1.2.2.2 Tham tố (hoặc vai nghĩa)
Các nhà nghiên cứu đã khá thống nhất cho rằng tham tố (tham thể) là tất cả các thực
thể (được biểu hiện bằng các danh từ hoặc tương đương danh từ) tham gia vào sự tình, chịu
sự chi phối trực tiếp của ý nghĩa của vị từ hoặc phải được vị từ chấp nhận.
Theo tác giả Diệp Quang Ban, cấu trúc nghĩa biểu hiện của câu gồm có phần chỉ sự
thể (nêu đặc trưng hay quan hệ) và các vai nghĩa nằm trong phạm vi bao quát của sự thể ấy.
Phần sự thể thường do vị tố (Diệp Quang Ban thường dùng thuật ngữ vị tố tương đương với
thuật ngữ vị từ) thực hiện và diễn đạt đặc trưng hay quan hệ. [Dẫn theo 21: 27]
Cũng theo Diệp Quang Ban, tham thể là những thực thể tham gia vào sự thể (sự việc)
như là bộ phận cần thiết của sự thể, bộ phận nằm trong sự thể. Tham thể có quan hệ với sự
thể theo kiểu do sự thể ấn định, tức là một sự thể cụ thể chỉ có thể diễn ra nhờ sự có mặt của
một hoặc những tham thể nào đó, một sự thể khác có thể diễn ra không cần đến sự có mặt
của tham thể nào cả. Chẳng hạn sự đánh nhau nhất thiết phải có hai bên tham gia. [Dẫn theo
21: 28]
Cao Xuân Hạo khi dẫn ra tư tưởng của S. C. Dik có khẳng định: “Theo S. C. Dik
(1981) một cấu trúc chủ -vị hạt nhân (nuclear predication) xét toàn bộ biểu thị một sự tình
(state of affairs) được xác định bởi cái thuộc tính hay mối quan hệ do vị ngữ biểu thị liên kết
với các thực thể do các danh tố biểu thị” [23: 91].
Cũng theo S. C. Dik “Một kết cấu vị ngữ hạt nhân bao gồm một vị từ gắn kết với một
số thích hợp các ngữ định danh để lắp đầy vị trí các tham tố của vị từ đó. Kết cấu vị ngữ hạt
nhân xác định một tập hợp các sự tình, trong đó thuộc tính hay quan hệ của nó được vị từ chỉ
định, có hiệu lực đối với những ngữ định danh cụ thể mà vị từ được ứng dụng.” [14: 39]
Theo S. C. Dik thì việc miêu tả các biểu thức ngôn ngữ học trong ngữ pháp chức năng
bắt đầu với cấu trúc của kết cấu vị ngữ. Về cấu trúc chung của kết cấu vị ngữ, chúng ta cần
phân biệt một bên là kết cấu vị ngữ hạt nhân và một bên là kết cấu vị ngữ mở rộng.
Căn cứ vào kết cấu vị ngữ hạt nhân xác định một tập hợp các sự tình, chúng ta có thể
tạo thành một kết cấu vị ngữ mở rộng bằng cách thêm vào một hay nhiều chu tố cho kết cấu
vị ngữ hạt nhân đó.
Trong khung vị ngữ, các tham tố nêu đặc trưng bằng các chức năng nghĩa trong mối
quan hệ với vị từ. Do đó, các tham tố còn được gọi là các vai nghĩa. Trên cơ sở xác định các
chức năng nghĩa của các tham tố đối với các loại vị từ mà các tác giả đã đưa ra một danh
sách gồm các tham thể: thể hành động, thể (chịu) quá trình, thể (trong) tư thế, thể (trong)
trạng thái, lực, thể vị trí, thể đích, thể được lợi, thể bị hại, thể liên đới, tham thể không gian,
thời gian, công cụ, phương tiện, nguyên nhân, điều kiện, nghịch đối, mục đích, kết quả…
Các tham thể trên được các nhà nghiên cứu khái quát thành hai loại: tham thể cơ sở và
tham thể mở rộng (thuật ngữ của tác giả Diệp Quang Ban) hoặc diễn tố và chu tố (thuật ngữ
thường dùng của tác giả Cao Xuân Hạo và một số tác giả khác). Ở luận văn này, chúng tôi
dùng thuật ngữ diễn tố và chu tố.
Diễn tố (tham thể cơ sở) còn gọi là các vai nghĩa bắt buộc mà như tư tưởng của Dik đó
là các vai nghĩa trong kết cấu vị ngữ hạt nhân. Các vai nghĩa của chu tố (tham thể mở rộng)
còn gọi là các vai nghĩa mở rộng hay tham thể mở rộng. Nhà ngôn ngữ học Tesnière cũng đã
dùng bộ khái niệm vị từ và các tham tố (arguments) để phân chia các tham tố thành hai loại:
những tham tố bắt buộc phải có được gọi là các diễn tố, còn những tham tố không mang tính
bắt buộc như vậy được gọi là các chu tố.
Diễn tố (actants): Những vai nghĩa tất yếu được giả định sẵn trong nghĩa từ vựng của
vị từ. Nói cách khác đây là những tham tố bắt buộc, xuất hiện do nghĩa của vị từ quy định.
“Diễn tố là tham tố cần và đủ, có số lượng nhất định (cho từng vị từ), cùng với nội
dung của sự tình (do vị từ biểu thị) tạo thành một sự tình, tức là tạo thành cấu trúc nghĩa của
câu” [26: 49]
“Diễn tố là tham tố của vị từ tham gia vào nội dung biểu hiện của khung vị từ như một
nhân vật được giả định một cách tất yếu trong nội dung nghĩa của vị từ, mà nếu thiếu đi cái
sự tình hữu quan không thể thực hiện được, không còn là nó nữa.” [25: 113]
Ví dụ: Chị Dậu vội vàng đặt con xuống đất
Tham tố: Chị Dậu: chủ thể của hành động đặt; con :đối thể của đặt ; xuống đất: tham
tố chỉ đích của hành động đặt – là các tham tố cơ sở (hay diễn tố). Sự có mặt của chúng là
bắt buộc, do nghĩa của vị từ đặt đòi hỏi làm cho nghĩa của câu rõ ràng, đủ ý.
Chẳng hạn trong câu:
Đến rồi !
Tuy vị từ được dùng với từ chỉ thể rồi, người nghe vẫn hiểu là có một người nào hay
một cái gì đó (xe, tàu chẳng hạn) đã đến (hoặc sắp đến) cái chỗ được người nói coi là “ở
đây”.
Do chịu sự ấn định của vị từ nên các tham tố (diễn tố) thường đi với một loại vị từ
nhất định. Chẳng hạn:
- Tham tố chỉ đích đi với vị từ dời chuyển, vị từ tác động làm vật dời chuyển.
- Tham tố chỉ đối thể chịu tác động của hành động: đi với các vị từ chỉ hành động tác
động
- Tham tố chỉ chủ thể cầu khiến, đối thể được cầu khiến: đi với vị từ cầu khiến
- Các tham tố chủ thể trao nhận, tiếp thể, vật được trao nhận: đi với loại vị từ trao
nhận.
- Các tham tố chủ thể hủy diệt, đối thể bị hủy diệt: đi với loại vị từ bị hủy diệt.
Trong khung vị ngữ, mỗi vị từ tùy theo đặc trưng của nó mà đòi hỏi một số lượng nhất
định các diễn tố
Chu tố (circumstants): Đây là những vai nghĩa không tất yếu, không được giả định
sẵn trong nghĩa từ vựng của vị từ. Chúng là những tham tố không bắt buộc, chỉ xuất hiện để
thêm một ý nghĩa nào đó cho khung vị ngữ (thời gian, không gian, cách thức, phương tiện,
mục đích, ý so sánh…). Chúng không do bản chất của vị từ quy định, chúng có thể có mặt ở
nhiều (hay tất cả) các loại vị từ (sự tình).
Ví dụ: Chị Dậu chào chồng bằng hai hàng nước mắt.
Trong cấu trúc miêu tả của ví dụ trên có hai diễn tố : chị Dậu chủ thể của hành động
chào; chồng đối thể được chào; chu tố: bằng hai hàng nước mắt- chỉ phương thức của hành
động chào. Sự có mặt của hai diễn tố là do nội dung ý nghĩa của vị từ chào đòi hỏi, nếu thiếu
nó, cấu trúc nghĩa miêu tả của ví dụ trên sẽ không hoàn chỉnh, khó tồn tại. Còn sự có mặt của
chu tố: bằng hai hàng nước mắt chỉ bổ sung một chi tiết cho cấu trúc nghĩa của ví dụ trên, và
nếu thiếu nó thì cấu trúc nghĩa nòng cốt: Chị Dậu chào chồng vẫn tồn tại được. Sự hiện diện
của chu tố trong câu chỉ tùy thuộc nhu cầu thông tin và tình huống giao tiếp.
Chu tố không trực tiếp chịu sự chi phối của vị từ, không nhất thiết buộc phải có mặt
trong khung vị ngữ. Sự xuất hiện của nó là nhằm bổ sung thêm một phương diện nghĩa,
nhưng vì nằm trong cùng một cấu trúc nghĩa, nên ý nghĩa của nó phải phù hợp với ý nghĩa
của vị từ và phải được vị từ chấp nhận.
Chu tố không có số lượng nhất định như các diễn tố. Các nghĩa chu tố được biểu hiện
trong ngữ pháp thông qua các bổ ngữ, trạng ngữ. Nhưng cũng có khi chu tố lại được biểu
hiện trong Đề.
Theo S. C. Dik [14: 70-71] “chu tố là sự mở rộng tùy chọn của kết cấu vị ngữ hạt
nhân, chỉ ra các bình diện bổ sung của sự tình. Chu tố ‘nhạy cảm’ với bản chất của sự tình
được kết cấu vị ngữ hạt nhân xác định hơn là với bản chất của vị từ được nói đến.”
Chu tố có các chức năng ngữ nghĩa tiêu biểu sau:
- chỉ định chi tiết các sự tình hạt nhân: Phương thức, Đặc trưng, Công cụ;
- quan hệ của sự tình với các tham tố khác: Lợi thể, liên đới thể;
- quan hệ của sự tình với các chiều kích thời gian: Thời gian, Thời đoạn, Tần số.
- quan hệ của sự tình với các chiều kích không gian: Vị trí, Nguồn, Phương hướng,
Lối đi;
- quan hệ của sự tình với các sự tình khác: Chu cảnh, Nguyên nhân, Lý do, Mục đích,
Kết quả.
Sự khác biệt giữa diễn tố (tham thể cơ sở) và chu tố (tham thể mở rộng) là có cơ sở lí
luận- dựa vào sự chi phối/ không chi phối của vị từ với các tham thể. Tuy nhiên trong thực tế
sử dụng, ở những trường hợp cụ thể, có những thực thể khi đi với vị từ này là chu tố, nhưng
khi đi với vị từ khác lại là diễn tố.
Ví dụ:
- Sứ yêu biết bao nhiêu cái chốn này. (1)
- Ở cái chốn này, chúng tôi đã học được nhiều điều bổ ích. (2)
Ở ví dụ (1) cái chốn này do đi với vị từ yêu- chỉ đối tượng được tiếp nhận tình yêu của
chủ thể Sứ nên nó là vai nghĩa bắt buộc, nghĩa là nó bắt buộc phải có mặt thì sự việc mới trọn
nghĩa. Còn trong cấu trúc nghĩa ở ví dụ (2), cái chốn này không chịu sự chi phối trực tiếp của
vị từ học, chỉ có mặt để làm rõ hơn nơi chốn của sự việc chúng tôi đã học được nhiều điều
bổ ích; sự có mặt của nó trong cấu trúc câu của ví dụ (2) là không bắt buộc- bởi vậy nó giữ
vai trò là tham tố không bắt buộc hay vai nghĩa không bắt buộc.
1.2.3. Những vai nghĩa phổ biến
Như trên chúng ta đã nói, trong khung vị ngữ, vị từ là hạt nhân ngữ nghĩa của vị ngữ
(ngữ vị từ). Nói như vậy có nghĩa là vị từ với tư cách là từ biểu hiện nội dung của sự thể đối
với cấu trúc tham tố của vị ngữ.
Cách tiếp cận như trên đã được nhiều nhà ngôn ngữ học tiếp thu và đưa ra danh sách
những vai nghĩa trong khung vị ngữ. Chẳng hạn, Cao Xuân Hạo gọi các diễn tố (vai nghĩa
bắt buộc) bằng các tên gọi như: vai tác thể, vai hành thể, vai động thể, vai lực thể, vai đương
thể, vai đối thể, vai tiếp thể, vai đích,…còn Diệp Quang Ban gọi là thể động, thể tĩnh, thể
cảm nghĩ, thể nói năng, thể mục tiêu, thể tiếp nhận…Còn các chu tố (vai nghĩa mở rộng) Cao
Xuân Hạo gọi là : vai phương thức, vai phương tiện, vai kết quả, vai lối đi…, còn Diệp
Quang Ban gọi là cảnh huống: thời gian, không gian, nguyên nhân, điều kiện, mục đích, kết
quả, đường đi, nghịch đối… [Dẫn theo 38: 149].
Nguyễn Văn Hiệp trong công trình nghiên cứu gần đây nhất (2005), đã liệt kê ra danh
sách các vai nghĩa như sau:
- Vai tác thể (Agent): biểu thị người gây ra hành động.
- Vai nghiệm thể (Expriencer): biểu thị chủ thể trải nghiệm một trạng thái nào đó.
- Vai tiếp thể: (Recipient): biểu thị kẻ tiếp nhận trong hành động trao tặng.
- Vai kẻ hưởng lợi (Benefactive): biểu thị kẻ được hưởng thành quả từ một hành động
do một ai đó thực hiện.
- Vai lực tự nhiên (Force): chỉ tác nhân tự nhiên gây ra một biến cố , thay đổi nào đó.
- Vai bị thể (Patient): chỉ vật, người chịu sự tác động, dẫn đến một thay đổi nào đó. Sự
thay đổi này có thể là sự thay đổi về vật lí, tâm lí…
- Vai công cụ (Instrument): chỉ công cụ được dùng để thực hiện hành động.
- Vai địa điểm, vị trí (Location): chỉ nơi chốn của sự tình, vị trí tồn tại của sự vật.
- Vai điểm xuất phát, hay nguồn của trạng thái (Source): chỉ điểm xuất phát của
chuyển động, hay nguồn của trạng thái.
- Vai điểm đến (Goal): chỉ đích đến của một chuyển động.
- Vai kẻ tham chiếu (Reference): chỉ người hay vật được dùng để tham chiếu trong
một trạng thái, quan hệ.
- Vai kẻ cùng hành động (Comcomitant): chỉ người cùng hành động trong một hành
động.
- Vai hướng chuyển động (Direction) hay lối đi (Path): chỉ hướng của chuyển động.
- Vai thời điểm (Temporal): chỉ thời điểm của sự tình.
- Vai chủ sở hữu (Possessor): chỉ chủ sở hữu của sự vật.
- Vai thời lượng (Duration): chỉ thời gian kéo dài của hành động
- Vai nội dung (Content): chỉ nội dung của sự hiểu biết.
- Vai thể chuyển động (Theme): chỉ một thực thể tồn tại ở một vị trí nào đó, hoặc thực
thể chuyển động, chịu một sự thay đổi về một vị trí do một tác nhân nào đó.
Một số vai khác có tính chất ngoại vi cũng được tác giả thừa nhận, như vai cách thức
(manner), vai nguyên nhân (cause), vai mục đích (purpose).
Như vậy, danh sách các vai nghĩa trong khung vị ngữ được các tác giả đưa ra hầu hết
đều chưa có sự thống nhất về tên gọi. Ở luận văn này chúng tôi có thể dựa vào cách gọi tên
một số vai nghĩa của tác giả Cao Xuân Hạo, đây cũng là một số tên gọi tương đối được phổ
biến, để tìm hiểu chức năng cú pháp của các vai nghĩa: vai đối thể, vai tạo thể, vai phương
thức, vai vị trí- không gian, vai nguồn.
1.3. Cấu trúc cú pháp và một số chức năng cú pháp của câu
Nếu như cấu trúc vị từ - tham tố là cấu trúc nghĩa biểu hiện của câu thì cấu trúc cú
pháp là loại cấu trúc của câu xét ở bình diện cú pháp. Đây chính là bình diện tổ chức nên một
câu theo đúng đặc trưng của nó để phân biệt những đơn vị khác như: từ, cụm từ hoặc đoạn
văn, văn bản. Có thể thấy cấu trúc cú pháp của câu là vấn đề được ngữ pháp học quan tâm và
nghiên cứu từ rất sớm. Trong ngữ pháp cổ điển, do xem câu là đơn vị cấu trúc lớn nhất trong
tổ chức ngữ pháp của một ngôn ngữ, nên việc nghiên cứu cấu trúc cú pháp của câu thành vấn
đề trung tâm của ngữ pháp học nói riêng và ngôn ngữ học nói chung.
Khác với các đơn vị như: âm vị, hình vị, từ, cụm từ, câu là đơn vị mang chức năng
thông báo (đơn vị thông báo nhỏ nhất). Điều đó có nghĩa câu luôn phải phản ánh sự việc
trong thế giới khách quan. Và sự việc luôn có cấu trúc của nó (cấu trúc đặc trưng- tham thể)
nên khi đi vào trong câu nó vẫn đòi hỏi được tồn tại dưới dạng cấu trúc (cấu trúc vị từ- tham
tố). Do đó, khi tạo câu phản ánh sự việc, nghĩa là dùng từ ngữ để diễn đạt cấu trúc sự việc
cần diễn đạt, các từ ngữ trong câu cũng phải được tổ chức theo những quy tắc ngữ pháp của
một ngôn ngữ nhất định tạo nên cấu trúc cú pháp của câu. Nói cách khác, câu không phải là
phép cộng đơn giản của các từ ngữ đứng cạnh nhau trên trục tuyến tính mà là tổng thể của
các yếu tố này, trong các yếu tố có quan hệ mật thiết với nhau cũng góp phần tạo nên một
thông báo hoàn chỉnh. Nếu trong cấu trúc sự việc, các tham thể giữ những chức năng nghĩa
nhất định trong mối quan hệ với vị từ (nêu đặc trưng sự việc) thì trong cấu trúc cú pháp của
câu, các từ ngữ diễn đạt các yếu tố của sự việc cũng giữ các chức năng cú pháp (vai trò cú
pháp) nhất định trong quan hệ đối với nhau. Các chức năng cú pháp ấy được phạm trù hóa
gọi là thành phần câu.
Cấu trúc cú pháp không phải chỉ duy nhất đề cập đến vấn đề các chức năng cú pháp
của câu, tuy nhiên ta có thể khẳng định đây là một vấn đề lớn, vấn đề trung tâm của cấu trúc
cú pháp. Cứ nhìn qua quang cảnh chung của việc nghiên cứu các thành phần câu chúng ta
cũng có thể thấy điều đó. Chỉ điểm qua việc nghiên cứu các thành phần câu của câu tiếng
Việt cũng làm cho ta thấy choáng ngợp trước vấn đề phức tạp này. Hầu như mỗi nhà nghiên
cứu đều có cách kiến giải khác nhau về thành phần câu. Chúng ta khó tìm thấy hai quan điểm
hoàn toàn thống nhất về vấn đề này. Không khác nhau trong quan niệm, cách định nghĩa về
thành phần câu thì các tác giả lại chưa hoàn toàn nhất trí với nhau về các tiêu chí xác định
thành phần câu. Bên cạnh đó, các vấn đề như: số lượng các thành phần câu, cương vị cú
pháp của các thành phần câu cũng chưa hoàn toàn thống nhất.
Trước một vấn đề phức tạp như vậy, trong khuôn khổ một luận văn thạc sĩ, chúng tôi
không có tham vọng giải quyết vấn đề này. Ở đây, để phục vụ cho luận văn, chúng tôi chỉ
căn cứ vào một số tiêu chí để xác định thành phần câu đã được thống nhất ở các nhà nghiên
cứu, trên cơ sở ấy đi vào một số thành phần câu như: chủ ngữ, bổ ngữ, trạng ngữ, đề ngữ, là
các thành phần câu có quan hệ đến các vai nghĩa- đối tượng khảo sát của luận văn.
Về tiêu chí xác định thành phần câu thì loại ý kiến được đa số các nhà nghiên cứu tán
thành và sử dụng là: coi thành phần câu là một phạm trù ngữ pháp, do đó xác định thành
phần câu phải dựa cả vào tiêu chí ngữ nghĩa lẫn tiêu chí hình thức. Theo ý kiến của hai tác
giả Nguyễn Minh Thuyết và Nguyễn Văn Hiệp khi trình bày giải pháp liên quan đến thành
phần câu thì phân tích câu phải xuất phát từ câu, và nhất thiết phải khu biệt cho được từng
thành phần được phân xuất từ câu một cách hình thức. Và “mỗi thành phần câu cần được
xác định bằng một thủ pháp hình thức”; “cố gắng sao cho những phạm trù được xác định
bằng các thủ pháp hình thức như đã nói có nghĩa” [52: 74]. Sau đây là ý kiến của tác giả Bùi
Minh Toán trong giáo trình ngôn ngữ học- Tập II” về thành phần câu:
“Như thế các thành phần câu như chủ ngữ, vị ngữ, định ngữ, bổ ngữ, trạng
ngữ,…cũng đều là các phạm trù ngữ pháp. Mỗi phạm trù này cũng có thể chia ra các phạm
trù nhỏ hơn như bổ ngữ thì có bổ ngữ gián tiếp hay trực tiếp. Điều quan trọng là dù ở mức
độ cao thấp, rộng hay hẹp, mỗi phạm trù này đều là sự thống nhất giữa ý nghĩa ngữ pháp và
hình thức ngữ pháp. Từ đó, điều cần chú ý trong nghiên cứu và học tập ngữ pháp là: việc
phân xuất và xác định các phạm trù ngữ pháp phải được tiến hành trên cơ sở sự thống nhất
giữa ý nghĩa ngữ pháp và hình thức biểu hiện của nó”. [87-14] [Dẫn theo 1: 29].
Tiêu chí ngữ nghĩa cho việc xác định thành phần câu đã được sự thống nhất cao ở
nhiều nhà nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt. Các tác giả đều cho rằng tiêu chí ngữ nghĩa để
xác định thành phần câu là ý nghĩa ngữ pháp khái quát của các thành phần câu (ý nghĩa ngữ
pháp chức năng).
Tuy nhiên, việc chọn tiêu chí hình thức nào để nhận diện được các thành phần câu lại
còn là một vấn đề đang gây nhiều tranh cãi giữa các nhà nghiên cứu. Nghiên cứu các công
trình về ngữ pháp tiếng Việt từ trước tới nay, chúng tôi thấy việc sử dụng các tiêu chí hình
thức có chú ý tới đặc điểm loại hình của tiếng Việt được nhiều nhà ngôn ngữ học đồng tình
hơn cả. Tiếng Việt là loại hình ngôn ngữ đơn lập, cho nên các tiêu chí hình thức để xác định
thành phần câu có thể sử dụng là: trật tự từ, hư từ và ngữ điệu. Trong luận văn này, chúng tôi
cũng vận dụng các tiêu chí này để nhận diện một số thành phần câu mà trong phạm vi luận
văn cần bàn đến.
Sau đây là việc nhận diện một số thành phần câu dựa vào sự tổng hợp hai tiêu chí nói
trên.
1.3.1. Chủ ngữ
Theo các nhà Việt ngữ học thì chủ ngữ được xếp vào một trong hai thành phần nòng
cốt (thành phần chính) của câu có quan hệ qua lại với thành phần vị ngữ, nêu lên đối tượng
mà đặc trưng hay quan hệ của nó được nói đến ở vị ngữ.
Trong công trình nghiên cứu “Thành phần câu”, tác giả Nguyễn Minh Thuyết và
Nguyễn Văn Hiệp đã cho rằng “chủ ngữ là bộ phận của nòng cốt câu biểu thị chủ thể ngữ
pháp của vị ngữ, tạo ra cùng vị ngữ một kết cấu có khả năng nguyên nhân hóa.”
Về ngữ nghĩa, chủ ngữ là thành phần câu có ý nghĩa ngữ pháp khái quát là biểu thị đối
tượng thông báo của câu. “Ý nghĩa của chủ ngữ là ý nghĩa biểu thị đối tượng. Đối tượng này
có quan hệ với vị ngữ về phương diện chủ thể của hành động, chủ thể tiếp nhận, chủ thể
phẩm chất” [40: 111]
Diệp Quang Ban Cũng cho rằng: “Trong tiếng Việt, có thể hiểu chủ ngữ là một trong
hai thành phần chính của câu có quan hệ qua lại với vị ngữ, chỉ ra cái đối tượng mà câu đề
cập đến.” [4: 113].
“Chủ ngữ và vị ngữ gắn bó với nhau bằng quan hệ chủ- vị. Trong mối quan hệ này,
chủ ngữ là thành phần biểu hiện đối tượng được thông báo trong câu…” [63-20] [Dẫn theo
1: 30]
Về tiêu chí hình thức: chủ ngữ chủ yếu được nhận diện dựa vào yếu tố trật tự từ và hư
từ.
Trong tiếng Việt, chủ ngữ thường ở vị trí đi trước vị ngữ. Tác giả Diệp Quang Ban
khẳng định “Trong định nghĩa về chủ ngữ của tiếng Việt không thể không nêu đặc trưng phổ
biến về vị trí không gian đứng trước vị ngữ của chủ ngữ” [4: 113]
Ngoài vị trí đứng trước vị ngữ, trong một số trường hợp, chủ ngữ lại xuất hiện ở vị trí
sau vị ngữ trong chuỗi tuyến tính (tất nhiên đó là trường hợp bị chi phối về mục đích tu từ
hoặc ngữ cảnh tính huống). Chẳng hạn:
- Bỗng từ đằng xa, tiến lại mấy chú bé.
Trong câu, chúng ta có thể dễ dàng nhận ra chủ ngữ khi dựa vào phương thức hư từ.
Thành phần chủ ngữ thường không chấp nhận các quan hệ từ đứng trước nó. Còn ở phía sau
thì có thể chú ý ý kiến sau của tác giả Bùi Minh Toán “Về hư từ …chủ ngữ (nếu được biểu
hiện bằng danh từ) thì có thể xác định bằng các từ chỉ định (này, kia, đó, nọ…). Tác dụng
của các hư từ này là để biểu hiện rõ tính xác định của chủ ngữ”. [10: 91]
2.3.2.1. Vị trí
Khi đảm nhiệm chức năng trạng ngữ của câu, trạng ngữ phương thức nằm ở vị trí của
trạng ngữ trong câu. Vị trí phổ biến nhất là vị trí trước nòng cốt câu. Ví dụ:
(126) Cầm cái áo màu ấp vào ngực, vợ Lưu bước xổ ra đường, chạy sang hè phố bên
kia! [70: 264]
(127) Bằng cái dáng bộ sợ hãi, chị Dậu đón lấy bộ quần áo và xách đôi guốc, và đi
qua phía sau trại lệ. [84: 130]
(128) Sượng sùng, chị nhích xa anh, đi gần người vú. [83: 352]
(129) Ngần ngại, chị đặt mê nón lên đầu, cúi chào vợ chồng ông Nghị và ông giáo.
[84: 44]
Ngoài vị trí trên đứng ở đầu câu, trạng ngữ phương thức còn có vị trí đi sau nòng cốt
câu như:
(130) Bà đi trong đêm tối, tay cầm một cái xị không. [64: 59]
2.3.2.2. Cấu tạo của trạng ngữ phương thức
Cũng như bổ ngữ phương thức, trạng ngữ phương thức có cấu tạo cũng khá đa dạng,
nó có thể là một tính từ, tính ngữ, có thể là động ngữ hoặc nó một danh ngữ.
* Trạng ngữ phương thức được cấu tạo là tính từ. Ví dụ:
(131) Uể oải, chị bế cái Tỉu lên sườn và lừ thừ đi ra ngoài cổng, để ngóng xem chồng
đã về chưa. [84: 19]
Qua khảo sát ngữ liệu, chúng tôi thấy trường hợp trạng ngữ phương thức là tính từ có
cấu tạo hai âm tiết hoặc láy hai âm tiết hoặc láy lại bốn âm tiết xuất hiện khá nhiều. Ví dụ:
(132) Khép nép, chị Dậu ngồi phệt xuống mặt thềm gạch. [84: 34]
(133) Hào hứng, Thu Phong ngồi ôm cây ắc-coóc-đê-ông kể một đoạn ba đào trong
cái đời làm nghệ sĩ trẻ tuổi của anh. [83: 386]
(134) Luống cuống, chị Dậu vội đứng dậy. [84: 51]
(135) Mừng mừng tủi tủi, Trần Văn bắt tay Nhật Tân, nắm chặt lấy, như đứa trẻ vớ
được vật gì đấy không rời ra. [83: 340]
* Trạng ngữ phương thức được cấu tạo là một tính ngữ. Ví dụ:
(136) Rất nhanh chóng, diện tẩu đặt hơi nghiêng trên chụp đèn, đồng thời tay trái nhà
sư nữ dùng mũi tiêm vào cóng thuốc rồi nướng trên ngọn lửa thon thon. [70: 176]
(137) Nhanh như cắt, chị Dậu giật ngay được gậy của hắn. [84: 105]
Rất nhanh chóng ở ví dụ (16) là trạng ngữ được cấu tạo là một tính ngữ. Trường hợp ở
ví dụ (137) trạng ngữ phương thức nhanh như cắt là một tính ngữ được cấu tạo dạng so sánh.
* Trạng ngữ phương thức còn được cấu tạo là một động ngữ. Ví dụ:
(138) Phản ứng một cách tự nhiên, Thắng nằm rạp xuống, bụng ép lên đám bùn lõng
bõng. [80: 101]
(139) Chống tay lên trán, chị như nghĩ ngợi phân vân. [84: 64]
(140) Chào chồng bằng hai hàng nước mắt, chị Dậu lủi thủi trở ra với cái mẹt, cái rổ
và cái mê nón. [84: 83]
*Trạng ngữ phương thức được cấu tạo là một ngữ đoạn giới từ có mở đầu bằng giới từ
bằng hoặc với. Ví dụ:
(141) Bằng cái dáng bộ vui vẻ, nhẹ nhàng, nó đặt một bát lên chõng. [84: 61]
(142) Bằng cái sắc mặt ôn hòa dễ dãi, Nghị Quế nhìn vào mặt chị Dậu. [84: 72]
(143) Với vẻ mặt băn khoăn, cái Tí lại bưng bát khoai chìa tận mặt mẹ. [84: 62]
* Trạng ngữ phương thức còn được cấu tạo là một tiểu cú. Ví dụ:
(144) Chân nọ đá chân kia, chị lại trở về ngồi ở đầu phản. [84: 96]
(145) Mắt nhắm mắt mở, Thu Phong chạy ra. [83: 442]
(Dẫn lại ví dụ 130) Bà đi trong đêm tối, tay cầm một cái xị không. [64: 59]
(146) Lòng bình tĩnh và sung sướng, chị kéo khăn se sẽ đắp lại cho con thật kỹ lượt
nữa, rồi đứng dậy bước xuống phiến đá. [64: 157]
* Trạng ngữ phương thức có cấu tạo là một ngữ cố định. Ví dụ:
(147) Ba chân bốn cẳng, anh ấy chạy vội lại phía người gọi, hạ hai càng xuống. [67:
53]
Như vậy, vai nghĩa phương thức khi được ngữ pháp hóa trong câu có thể đảm nhận
các chức năng cú pháp như: bổ ngữ, trạng ngữ. Trong những chức năng đó, chức năng chủ
yếu, được sử dụng nhiều nhất là chức năng bổ ngữ.
Có thể hình dung những chức năng cú pháp mà vai nghĩa phương thức đảm nhận qua
bảng tổng hợp sau đây:
Bảng 2.3: Bảng tổng hợp số lượng các chức năng cú pháp của vai nghĩa phương
thức
Chức năng cú pháp Số lượng Tỉ lệ %
Chức năng bổ ngữ 318 85
Chức năng trạng ngữ 58 15
Tổng số 376 100
(214) Tường được (chủ nhà) treo (đầy) tranh. [Dẫn theo 7: 151]
Chủ ngữ vị trí khúc sông này và ở ví dụ (213), là chủ ngữ vị trí trong câu quan hệ. Còn
ở ví dụ (214) tường là chủ ngữ vị trí bị động. Tuy nhiên kiểu câu có chủ ngữ vị trí bị động
như ở ví dụ (214) không tự nhiên và rất hiếm gặp trong cách nói của người Việt.
Qua khảo sát ngữ liệu, chúng tôi còn thấy xuất hiện một số trường hợp về hình thức là
chủ ngữ vị trí nhưng xét về nghĩa thì đây chỉ là cách nói hoán dụ. Ví dụ: (215) Chỗ này chào
chị Quỳ, chỗ kia chào chị Quỳ. [63: 76]
Chỗ này trong ví dụ (215) đảm nhận chức năng chủ ngữ. Nhưng xét về nghĩa thì chỗ
này chỉ là cách nói hoán dụ chỉ những người ở chỗ này, hay ở chỗ kia.
2.4.3.2. Cấu tạo của chủ ngữ vị trí
Chủ ngữ vị trí chủ yếu được cấu tạo là danh từ hoặc danh ngữ. Ví dụ:
(216) Dưới chân cầu là bến nước, nơi lớn lên một chút chiều chiều Hường thường ra
đó giặt đồ. [88: 24]
(217) Đằng trước là một sanh vừa gan, vừa phổi vừa tiết để trên rổ lòng. [84: 13]
(218) Bên kia bàu nước là những đụn cát dọc biển, trông xa như một bức tường thành
sáng lóa. [87: 550]
2.4.4. Chức năng đề ngữ
Đề ngữ có ý nghĩa khái quát là thành phần câu nêu lên chủ đề, nêu lên đề tài chính của
câu. Do vậy, vai nghĩa vị trí có thể xuất hiện trong chức năng đề ngữ của câu. Tuy nhiên, qua
khảo sát, chúng tôi thấy hầu như trong văn bản không mấy khi sử dụng cách nói về đề ngữ
do vai nghĩa vị trí đảm nhận. Trong ngữ liệu khảo sát của chúng tôi, đề ngữ vị trí chỉ xuất
hiện 1 trường hợp, chiếm tỉ lệ 0,4% trong tổng số 276 ngữ liệu về vai vị trí.
Thông thường, khi đóng vai trò đề ngữ trong câu, vai nghĩa vị trí thường đứng ở vị trí
phổ biến nhất của đề ngữ, vị trí trước nòng cốt câu. Ví dụ:
(219) Nhưng chỗ này bọn chúng lại không ngờ tới. [64: 14]
(220) Ngoài đó (thì) tôi không ở.
(221) Ở trong buồng (thì) tôi không thích nằm.
Về cấu tạo, đề ngữ vị trí thường có cấu tạo là tổ hợp từ vị trí, có những tác tử vị trí
đánh dấu chỗ, trong, ngoài, ở trong, ở ngoài… như ở ví dụ (219), (220), (221).
Tóm lại, vai vị trí có thể đảm nhận các chức năng như bổ ngữ, trạng ngữ, chủ ngữ, đề
ngữ và thường có cấu tạo là những tổ hợp từ vị trí, có những tác tử chỉ vị trí đánh dấu.
Bảng 2.4: Bảng tổng hợp số lượng các chức năng cú pháp của vai nghĩa vị trí
Chức năng cú pháp Số lượng Tỉ lệ %
Chức năng bổ ngữ 169 61
Chức năng trạng ngữ 96 35
Chức năng chủ ngữ 10 4
Chức năng đề ngữ 1 0,4
Tổng số 265 100
Bảng 2.5: Bảng tổng hợp số lượng các chức năng cú pháp của vai nghĩa nguồn
Chức năng cú pháp Số lượng Tỉ lệ %
Chức năng bổ ngữ 89 89
Chức năng trạng ngữ 12 12
Tổng số 101 100
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2
Chương 2 lần lượt tìm hiểu các chức năng cú pháp của năm vai nghĩa được chọn: vai
nghĩa đối thể, vai nghĩa tạo thể, vai nghĩa phương thức, vai nghĩa vị trí và vai nghĩa nguồn.
- Vai nghĩa vị trí khi được hiện thực hóa trong câu có thể đảm nhận chức năng cú
pháp: chức năng bổ ngữ, chức năng chủ ngữ, chức năng đề ngữ. Trong các chức năng cú
pháp mà vai nghĩa đối thể đảm nhận, chức năng chủ yếu là chức năng bổ ngữ.
- Vai nghĩa tạo thể cũng có thể đảm nhận các chức năng cú pháp giống vai đối thể:
chức năng bổ ngữ, chức năng chủ ngữ, chức năng đề ngữ. Và qua ngữ liệu khảo sát, chúng
tôi thấy, chức năng chủ yếu của vai tạo thể là chức năng bổ ngữ.
- Vai phương thức là vai nghĩa có thể đảm nhận các chức năng cú pháp như: chức
năng bổ ngữ, chức năng trạng ngữ và đây cũng chính là hai chức năng chủ yếu của vai nghĩa
này.
- Vai nghĩa vị trí là vai nghĩa xuất hiện nhiều trong câu. Vì vậy, nó có thể đảm nhận
các chức năng cú pháp: chức năng bổ ngữ, chức năng trạng ngữ, chức năng chủ ngữ, chức
năng đề ngữ. chức năng chủ yếu của vai nghĩa này là chức năng bổ ngữ và trạng ngữ.
- Vai nguồn có thể đảm nhận chức năng bổ ngữ và trạng ngữ nhưng chủ yếu là xuất
hiện ở vai trò bổ ngữ. Trong ngữ liệu khảo sát, chức năng trạng ngữ của vai nghĩa nguồn rất
ít thấy.
- Có thể hình dung chức năng cú pháp của các vai nghĩa đảm nhận trong bảng tổng kết
sau đây:
Bảng 2.6: Bảng tổng kết các chức năng cú pháp của các vai nghĩa đảm nhận trong
câu tiếng Việt
Chức năng cú pháp Chức năng Chức năng Chức năng Chức năng
bổ ngữ trạng ngữ chủ ngữ đề ngữ
Vai nghĩa
Vai nghĩa đối thể + - + +
Vai tạo thể + - + +
Vai phương thức + + - -
Vai vị trí + + + +
Vai nguồn + + - -
KẾT LUẬN
Vai nghĩa là một khái niệm mới trong ngôn ngữ học gắn liền với sự ra đời và phát
triển của ngữ nghĩa học và một khuynh hướng ngữ pháp học mới là ngữ pháp chức năng.
Việc nghiên cứu vai nghĩa trên các bình diện: ngữ nghĩa, ngữ pháp, ngữ dụng theo quan
điểm ngữ pháp chức năng cũng là một vấn đề còn rất mới. Trên cơ sở kế thừa những kết quả
nghiên cứu của các tác giả đi trước, qua việc khảo sát, thống kê và phân tích ngữ liệu, luận
văn đã trình bày một số vấn đề có tính chất lý luận làm cơ sở cho luận văn (ở chương 1)
như: khái niệm vai nghĩa, tìm hiểu khung vị ngữ và các vai nghĩa phổ biến trong khung vị
ngữ, vấn đề cấu trúc cú pháp của câu và một số chức năng cú pháp của câu, cấu tạo của diễn
tố và chu tố, mối quan hệ giữa vai nghĩa và các chức năng cú pháp cú pháp của câu. Vận
dụng những kiến thức lý thuyết, luận văn đã khảo sát một số vai nghĩa như : vai đối thể, vai
tạo thể, vai phương thức, vai vị trí, vai nguồn trong mối quan hệ với các chức năng cú pháp
của câu tiếng Việt. Việc khảo sát, phân tích các chức năng cú pháp của các vai nghĩa được
tiến hành ở hai mặt vị trí và cấu tạo của thành tố cú pháp biểu thị vai nghĩa. Từ những kết
quả đạt được của luận văn, chúng tôi nhận thấy:
1. Vấn đề vai nghĩa là vấn đề phức tạp đã được nghiên cứu theo nhiều quan điểm khác
nhau. Nhìn chung, việc định nghĩa, miêu tả và gọi tên các vai nghĩa chưa có sự thống nhất
cao giữa các nhà nghiên cứu. Luận văn chọn cách hiểu vai nghĩa tương đối thống nhất là
“quan hệ ngữ nghĩa của ngữ danh từ đối với vị từ trong câu, là cách thức mà thực thể do
ngữ danh từ biểu thị góp phần vào sự tình được câu diễn đạt” .
- Khung vị ngữ bao gồm vị từ và các tham tố của vị từ. Các tham tố nêu đặc trưng
bằng các chức năng nghĩa trong mối quan hệ với vị từ. Các tham tố chính là các vai nghĩa
trong khung vị ngữ. Các vai nghĩa được khái quát thành hai loại: vai nghĩa bắt buộc (diễn tố)
và vai nghĩa không bắt buộc (chu tố).
- Cấu trúc cú pháp thuộc bình diện ngữ pháp. Trong cấu trúc cú pháp của câu, các từ
ngữ diễn đạt các yếu tố của sự việc giữ các chức năng cú pháp. Các thành tố đảm nhiệm
chức năng cú pháp được gọi là thành phần câu. Dựa vào tiêu chí ngữ nghĩa và hình thức,
chúng tôi xác định một số thành phần câu được thống nhất ở các nhà nghiên cứu như: chủ
ngữ, vị ngữ, đề ngữ, trạng ngữ, bổ ngữ. Tuy nhiên, thành phần trạng ngữ và bổ ngữ là hai
thành phần câu mà các nhà nghiên cứu Việt ngữ học còn nhiều ý kiến chưa thống nhất.
- Trong khung vị ngữ, vị từ là yếu tố quyết định sự xuất hiện của diễn tố và chu tố. Có
những vị từ đơn trị với sự xuất hiện của một diễn tố, có vị từ song trị với sự xuất hiện hai
diễn tố, cũng có những vị từ tam trị với sự xuất hiện ba diễn tố.
- Cấu trúc vị từ- tham tố (hay vai nghĩa) của khung vị ngữ thuộc cấu trúc nghĩa biểu
hiện và nó thuộc bình diện ngữ nghĩa. Các thành phần câu như chủ ngữ, vị ngữ, trạng ngữ,
đề ngữ …. thuộc bình diện ngữ pháp. Hai cấu trúc này có quan hệ với nhau. Khi được hiện
thực hóa trong câu, một số vai nghĩa có thể tương ứng với các thành phần câu như : chủ ngữ,
trạng ngữ, bổ ngữ, đề ngữ…
2. Luận văn đi vào khảo sát trên ngữ liệu tiếng Việt các vai nghĩa đối thể, tạo thể,
phương thức, vị trí, nguồn. Khi được ngữ pháp hóa trong câu tiếng Việt, các vai nghĩa này có
thể đảm nhận các chức năng cú pháp khác nhau như: chức năng bổ ngữ, chức năng trạng
ngữ, chức năng chủ ngữ, chức năng đề ngữ. Cụ thể như sau:
- Vai nghĩa đối thể là vai nghĩa có mặt nhiều nhất trong các sự tình của câu. Vai nghĩa
đối thể có thể đảm nhận các chức năng bổ ngữ, chủ ngữ, đề ngữ. Luận văn khảo sát trên cơ
sở 335 ngữ liệu về vai đối thể (với 350 vai đối thể) trong một số tác phẩm văn học. Kết quả
khảo sát cho thấy, chức năng bổ ngữ chỉ đối tượng tác động là chức năng chủ yếu, chức năng
thường xuyên của vai đối thể (chiếm tỉ lệ 83%).
- Vai nghĩa tạo thể cũng có thể đảm nhận các chức năng cú pháp như: chức năng bổ
ngữ, chức năng chủ ngữ, chức năng đề ngữ. Luận văn khảo sát về vai tạo thể trên tổng số 95
ngữ liệu (với 97 vai tạo thể). Kết quả khảo sát cũng cho thấy, chức năng bổ ngữ cũng là chức
năng chủ yếu của vai nghĩa tạo thể (chiếm 92%). Chức năng đề ngữ là chức năng ít xuất hiện
của vai tạo thể vì chỉ chiếm 1% trong tổng số 97 trường hợp ngữ liệu được khảo sát.
- Vai nghĩa phương thức là vai nghĩa của chu tố nhưng lại xuất hiện khá nhiều trong
câu tiếng Việt. Luận văn khảo sát trên tổng số 331 ngữ liệu (với 376 vai phương thức). Kết
quả khảo sát cho thấy, khi hiện thực hóa trong câu, vai nghĩa phương thức có thể đảm nhận
hai chức năng: chức năng bổ ngữ, chức năng trạng ngữ. Chức năng bổ ngữ là chức năng chủ
yếu, xuất hiện với tần suất khá cao trong văn bản (318 trường hợp, chiếm tỉ lệ 85%). Bên
cạnh đó, luận văn cũng đi khảo sát vị trí của bổ ngữ phương thức ở hai vị trí trước và sau vị
từ và rút ra kết luận: bổ ngữ phương thức có thể xuất hiện và xuất hiện khá cao ở cả hai vị trí
trước và sau vị từ.
- Vai nghĩa vị trí cũng xuất hiện nhiều trong câu tiếng Việt. Luận văn khảo sát 260
ngữ liệu (với 276 vai nghĩa vị trí). Kết quả khảo sát cho thấy vai vị trí có thể đảm nhận các
chức năng cú pháp: chức năng bổ ngữ, chức năng trạng ngữ, chức năng chủ ngữ, chức năng
đề ngữ. Trong các chức năng cú pháp mà vai vị trí đảm nhận, chức năng xuất hiện thường
xuyên nhất là chức năng bổ ngữ và chức năng trạng ngữ.
- Vai nghĩa nguồn là vai nghĩa xuất hiện ít trong câu. Tuy nhiên, chúng cũng có thể
đảm nhận các chức năng cú pháp như: chức năng bổ ngữ, chức năng trạng ngữ. Qua khảo sát
trên 97 ngữ liệu (với 101 vai nghĩa nguồn), chức năng bổ ngữ có số lượng 89 trường hợp,
chiếm 88 %. Từ đó, chúng tôi nhận thấy chức năng bổ ngữ chính là chức năng chủ yếu của
vai nghĩa nguồn.
- Qua việc khảo sát các vai nghĩa: đối thể, tạo thể, phương thức, vị trí, nguồn, luận văn
có thể làm rõ hơn sự đa dạng về nghĩa hay những vấn đề có liên quan về vị trí, tiêu điểm
thông báo hay cấu tạo của các thành tố biểu thị vai nghĩa khi đảm nhận các chức năng cú
pháp trong câu, bổ sung về các chức năng cú pháp, về thành phần ngữ pháp trong câu.
Tuy nhiên, chúng tôi cũng nhận thấy, vấn đề thành phần câu tiếng Việt vẫn còn là một
vấn đề gây nhiều tranh cãi và chưa có sự thống nhất cao. Vì vậy, việc nghiên cứu vấn đề vai
nghĩa trong mối quan hệ với chức năng cú pháp còn là một vấn đề mới và có nhiều phức tạp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Thị Lan Anh (2000), Các vai nghĩa: kẻ tiếp nhận, kẻ hưởng lợi, kẻ tổn thất, kẻ cộng
tác, phương tiện và các chức năng ngữ pháp của chúng trong câu tiếng Việt, Luận văn thạc
sĩ khoa học Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
2. Lê Thị Lan Anh (2002), “Vai nghĩa phương tiện và các chức năng ngữ pháp của nó trong
câu tiếng Việt”, Ngôn ngữ, (4), tr.25-31.
3. Nguyễn Thị Ảnh (2002), So sánh cấu trúc Đề- Thuyết trong câu tiếng Việt và câu tiếng
Anh, Luận án tiến sĩ khoa học Ngữ văn. Đại học KHXH và NV, Tp Hồ Chí Minh.
4. Diệp Quang Ban (1987), Câu đơn tiếng Việt, Nxb Đại học và THCN.
5. Diệp Quang Ban (2004), Ngữ pháp Việt Nam (Phần câu), Nxb ĐH Sư phạm.
6. Diệp Quang Ban (2008), Giáo trình ngữ pháp tiếng Việt (Theo định hướng ngữ pháp chức
năng) (Tập hai: Phần câu), Nxb Giáo dục.
7. Diệp Quang Ban (2008), Ngữ pháp tiếng Việt (Tập hai), Nxb Giáo dục.
8. Dương Hữu Biên (1998), “Quan hệ nghĩa học – chức năng: một phạm trù cần yếu cho việc
phân tích nghĩa của câu”, Ngôn ngữ (5), tr.59-67.
9. Lê Cận, Phan Thiều, Diệp Quang Ban, Hoàng Văn Thung (1983), Giáo trình ngữ pháp
tiếng Việt- Tập II- Cú pháp tiếng Việt – Nxb Giáo dục.
10. Đỗ Hữu Châu- Bùi Minh Toán (1993), Đại cương ngôn ngữ học (Tập II) Nxb Giáo dục.
11. Đỗ Hữu Châu (1982), “Ngữ nghĩa học hệ thống và ngữ nghĩa học hoạt động, Ngôn ngữ
(3), tr.18- 33.
12. Đỗ Hữu Châu (1983), “Ngữ nghĩa học hệ thống và ngữ nghĩa học hoạt động”, Ngôn ngữ
(1), tr.12- 58.
13. Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến (1992), Cơ sở ngôn ngữ học và
tiếng Việt, Nxb Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp Hà Nội.
14. S.C. Dik (Nhóm biên dịch: Nguyễn Vân Phổ, Trần Thủy Vịnh, Nguyễn Hoàng Trung,
Đào Mục Đích, Nguyễn Thanh Phong) (2005), Functional Grammar (Ngữ pháp chức năng),
Nxb ĐH Quốc gia TPHCM.
15. Nguyễn Đức Dân (1987), Lôgích- Ngữ nghĩa- Cú pháp, Nxb Đại học và THCN.
16. Nguyễn Đức Dân (1998), Ngữ dụng học, tập I, Nxb Giáo dục.
17. Hoàng Dũng- Bùi Mạnh Hùng (2007), Giáo trình Dẫn luận ngôn ngữ học, Nxb ĐH Sư
phạm.
18. Đinh Văn Đức (2001), Ngữ pháp tiếng Việt- Từ loại, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
19. Lâm Quang Đông (2005), “Về sự hiện diện/không hiện diện của giới từ cho trong câu
chứa vị từ có ý nghĩa cho/tặng”, Ngôn ngữ (12), tr.26-33.
20. Lâm Quang Đông (2006), “Phương pháp nhận diện vai nghĩa của các tham thể trong cấu
trúc nghĩa biểu hiện của câu với vị từ đa trị như cho, tặng, gửi”, Ngôn ngữ (7), tr.49-58.
21. Lâm Quang Đông (2008), Cấu trúc nghĩa biểu hiện của câu với nhóm vị từ trao/tặng
(trong tiếng Anh và tiếng Việt), Nxb Khoa học xã hội.
22. Nguyễn Thiện Giáp (2005), Lược sử Việt ngữ học, tập 1, Nxb Giáo dục.
23. Cao Xuân Hạo (1991), Tiếng Việt sơ thảo ngữ pháp chức năng, (tập 1), Nxb Khoa học
xã hội.
24. Cao Xuân Hạo (1999), Tiếng Việt, mấy vấn đề ngữ âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa, Nxb Giáo
dục.
25. Cao Xuân Hạo (Chủ biên) (2007),Nguyễn Văn Bằng, Hoàng Xuân Tâm, Bùi Tất Tươm,
Ngữ pháp chức năng tiếng Việt (quyển 1) Câu trong tiếng Việt, Nxb Giáo dục
26. Cao Xuân Hạo (Chủ biên) (2006),Nguyễn Văn Bằng, Hoàng Xuân Tâm, Bùi Tất Tươm,
Ngữ pháp chức năng tiếng Việt (quyển 2) Ngữ đoạn và từ loại, Nxb Giáo dục.
27. Cao Xuân Hạo (2003), Tiếng Việt văn Việt người Việt, Nxb Trẻ.
28. Nguyễn Văn Hiệp(2007), Cơ sở ngữ nghĩa phân tích cú pháp, Nxb Giáo dục.
29. Nguyễn Văn Hiệp (2006), “Cấu trúc vị từ- tham thể và nghĩa miêu tả của câu”, Những
vấn đề ngôn ngữ học, tr.51-70, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
30. Bạch Thị Thu Hiền (2004), Tổng luận về ngữ pháp cách, Luận văn thạc sĩ Ngữ văn,
Trường ĐHKHXH & NV, Thành phố Hồ Chí Minh.
31. M.A.K. Halliday (Hoàng Văn Vân dịch) (2001), Dẫn luận ngữ pháp chức năng, Nxb
Đại học Quốc gia Hà Nội.
32. Đinh Trọng Lạc (1999), Phong cách học tiếng Việt, Nxb Giáo dục.
33. Đinh Trọng Lạc (chủ biên), Nguyễn Thái Hòa (2006), Phong cách học tiếng Việt, Nxb
Giáo dục.
34. Lưu Vân Lăng (chủ biên) (1994), Những vấn đề ngữ pháp tiếng Việt hiện đại (Thành tố
tạo câu), Nxb Khoa học Xã hội Hà Nội.
35. Nguyễn Văn Lộc (1993), Kết trị của động từ tiếng Việt, Luận án phó tiến sĩ khoa học
Ngữ văn, Trường ĐH Tổng hợp Hà Nội.
36. Hồ Lê (1991), Cú pháp tiếng Việt, Q.1, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
37. Bùi Thị Thanh Lương (2002), Tìm hiểu chức năng ngữ pháp và vai trò thông báo của vai
nghĩa thời gian trong câu tiếng Việt, Ngôn ngữ số 4.
38. Nguyễn Thị Lương (2006) , Câu trong tiếng Việt, Nxb ĐH Sư phạm.
39. Hoàng Phê (chủ biên) (tái bản 2006), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.
40. Hoàng Trọng Phiến (1980), Ngữ pháp tiếng Việt,(Câu)- Nxb Đại học và THCN
41. Nguyễn Thị Quy(1995), Vị từ hành động tiếng Việt và các tham tố của nó (So sánh với
tiếng Nga và tiếng Anh), Nxb Khoa học xã hội.
42. Nguyễn Thị Quy (2002), Ngữ pháp chức năng tiếng Việt (Vị từ hành động), Nxb Khoa
học xã hội.
43. Nguyễn Hữu Quỳnh (1996), Tiếng Việt hiện đại (ngữ âm, ngữ pháp, phong cách), Trung
tâm biên soạn từ điển bách khoa Việt Nam.
44. Tô Minh Thanh (2005), Cấu trúc câu trần thuật trong tiếng Việt và tiếng Anh, Luận án
tiến sĩ Ngữ văn, Trường Ðại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh.
45. Lê Xuân Thại (1994), Câu chủ-vị tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội
46. Nguyễn Kim Thản (1999), Động từ trong tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội.
47. Nguyễn Kim Thản (2008), Cơ sở ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội.
48. Nguyễn Kim Thản (1964), Nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Việt- tập II, NXB Khoa học xã
hội- Hà Nội.
49. Lý Toàn Thắng (1981), “Giới thiệu lý thuyết phân đoạn thực tại câu”, Ngôn ngữ (1),
tr.46- 54.
50. Lý Toàn Thắng (2004), Lý thuyết trật tự từ trong cú pháp, Nxb ĐH Quốc gia Hà Nội.
51. Lê Quang Thiêm (2008), Ngữ nghĩa học, Nxb Giáo dục.
52. Nguyễn Minh Thuyết, Nguyễn Văn Hiệp (2004), Thành phần câu tiếng Việt, Nxb Giáo
dục.
53. Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn Quốc gia (2000), Ngữ pháp tiếng Việt, NXB
Khoa học xã hội.
54. Ủy Ban KHXH Việt Nam (2000), Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
55. Hoàng Văn Vân (2005), Ngữ pháp kinh nghiệm của cú tiếng Việt: Mô tả theo quan điểm
chức năng hệ thống, NXB Khoa học xã hội.
56. Nguyễn Như Ý (chủ biên) (2003), Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học, NXB Giáo
dục.
Tài liệu trực tuyến
57. http://www.ngonngu.net
58. http://vi.wikipedia.org
59. http://www.linguistlist.org
Tài liệu trích dẫn
60. Trọng Bảo (2003), Ngọn gió sân chùa, Nxb Thanh Niên.
61. Nam Cao (2000), Truyện ngắn chọn lọc, Nxb Văn hóa – Thông tin.
62. Đỗ Hoàng Diệu (2005), Bóng đè, Nxb Đà Nẵng.
63. Nguyễn Minh Châu (2002), Tác phẩm và dư luận, Nxb Văn học.
64. Anh Đức (2007), Hòn đất, Nxb Lao động.
65. Anh Đức (1997), Tuyển tập Anh Đức, tập 1, Nxb Văn học.
66. Nguyễn Công Hoan(2002), Tác phẩm và dư luận, Nxb Văn học.
67. Nguyễn Công Hoan(2005), Truyện ngắn chọn lọc, Nxb Văn học.
68. Nguyễn Công Hoan (2006), Bước đường cùng, Nxb Đồng Nai.
69. Tô Hoài (2003), Những tác phẩm tiêu biểu trước 1945, Nxb Giáo dục.
70. Nguyên Hồng (2003), Những tác phẩm tiêu biểu trước 1945, Nxb Giáo dục.
71. Ma Văn Kháng (2003), Tiểu thuyết 4, Nxb Công an Nhân dân.
72. Nguyễn Khải(2003), Truyện ngắn 2, Nxb Hội nhà văn.
73. Nguyễn Khải (2003), Truyện vừa, Nxb Hội nhà văn.
74. Phan Trọng Luận (2008), Ngữ văn 12, tập 2, Nxb Giáo dục.
75. Phan Trọng Luận (2008), Ngữ văn 11, tập 1, Nxb Giáo dục.
76. Thạch Lam (2008), Truyện ngắn, Nxb Thanh niên.
77. Thạch Lam (2003), Những tác phẩm tiêu biểu trước 1975, Nxb Giáo dục.
78. Hoàng Như Mai, Nguyễn Đăng Mạnh (chủ biên) (2000), Văn học 12, tập 1, Nxb Giáo
dục.
79. Nguyên Ngọc (1973), Đất nước đứng lên, Nxb Giáo dục Giải phóng
80. Nguyễn Trọng Oánh (2003), Đất trắng, Nxb Quân đội Nhân dân.
81. Vũ Trọng Phụng (2003), Những tác phẩm tiêu biểu, Nxb Giáo dục
82. Nguyễn Huy Thiệp (1996), Truyện ngắn chọn lọc, Nxb Hội nhà văn.
83. Nguyễn Huy Tưởng (2004), Sống mãi với thủ đô, Nxb Hội nhà văn.
84. Ngô Tất Tố (2009), Tắt đèn, Nxb Văn học.
85. Đào Thị Thanh Tuyền (2002), Đêm cuối năm, Nxb Hà Nội.
86. Truyện ngắn hay báo Thanh Niên 2008 (2009), Nxb Văn Nghệ.
87. Tuyển văn tác giả nữ Việt Nam (2001), Nxb Phụ nữ.
88. Ngô Thị Thu Vân (2009), Muộn, Nxb Trẻ.
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1: VAI NGHĨA ĐỐI THỂ
2. Núp vấn một điếu thuốc lá bằng lá chuối non của lũ làng phơi khô để dành cho. [79: 109]
3. Mẹ Âu Cơ sinh được năm mươi người con trai, năm mươi người con gái. [87: 894]
4. Những truyện Vĩnh viết đều là chuyện của anh cả. [72: 182]
5. Vũ Minh nghĩ: Chắc là cu cậu thay đổi ý kiến rồi. [83: 399]
6. Bà Chánh thất sinh được hai con trai và bốn con gái. [83: 157]
7. Anh tiểu đội trưởng reo lên: “Có phối hợp rồi”. [83: 406]
8. Tôi viết thư cầu cứu Chinh che chở tinh thần, van xin tình thương để dằn nỗi khủng
292]
10. Tất cả những thức ăn lẫn hương hoa cúng kiếng đều do một tay ni cô làm ra. [87: 362]
11. Viết xong bài báo để ngày mai nộp cho phòng, tôi lôi len ra đan. [87: 819]
12. Anh hát một bài hát viết về vợ anh bây giờ. [85: 85]
13. Còn chị Thao thì chép bài hát vào quyển sổ nhỏ để trên đùi. [87: 529]
14. Nhưng nụ cười ấy tắt ngay trên môi anh. [64: 41]
15. Thày thừa vừa thảo xong tờ biên bản, đệ lên trước mặt quan phủ. [84: 112]
16. Tôi chỉ viết một bức gửi cho dân mà thôi. [66: 187]
18. Nỗi mừng nở thành nụ cười trên miệng ông chủ bút. [67: 76]
21. Tiện cánh cửa đây, các ông ghép qua loa vào làm áo quan. [61: 426]
22. Cũng đã không biết bao tháng nay, tôi cặm cụi để vẽ một bức tranh sơn dầu. [63: 49]
23. Tôi hoàn thành bức chân dung người chiến sĩ “thồ” tranh chỉ trong khoảng nửa tiếng
ảnh truyền thần” người chiến sĩ mà tôi đã vẽ vội vẽ vàng trong cái buổi mờ sáng ở vùng đó,
không những ở trong nước mà ở cả nước ngoài nữa. [63: 56]
26. Bởi vì bà lão bỗng tìm ra một kế. [61: 152]
27. Hắn bới ra từng tội và nhất định sẽ bới ra đến hết. [61: 236]
28. Hắn đơm hai cái dải thật to hình cái bơi chèo. [61: 233]
29. Đầu tiên, cụ nắn nót viết từng dòng chữ về mé tay phải ở tờ giấy , chỗ đề niên hiệu: Bảo
số sau, ông lại cao thượng mà chẳng thèm nói gì. [67: 79]
31. Một tổ chức từ thiện của Pháp cho trường Mỹ thuật một suất học tại Pháp. [72: 284]
32. Báo ông cho ra lúc ba giờ, thì chín giờ tối nó in ngay phụ trương để tranh khách! [67: 79]
33. Phải tới cái thời bấy giờ gia đình ông mới làm được cái nhà vệ sinh riêng dùng nước giội,
ông mới được tắm vòi hoa sen, có vòi lạnh vòi nóng, mới được uống rượu tây mỗi bữa ăn và
nhẫm nháp miếng phó mát vào buổi chiều. [72: 38]
34. Một người đàn ông rón rén đi vào nhà tắm sẽ nói tiếng “đi ra”. [84: 141]
35. Nào ngờ thời thế đổi thay, con trai ông thành con buôn, con dâu ông cũng là con buôn,
vốn liếng của chúng nó là sự liều lĩnh, phản trắc và lừa đảo. [72: 38]
36. Vậy mà con dâu và con trai ông đã nghĩ ra một cách thật tài tình, một tính toán rất xây
dựng, lại hiếu thảo, buộc ông không thể gạt phắt mà phải cân nhắc để lựa chọn. [72: 42]
37. Ông Dzếnh viết bài giới thiệu thơ của bạn trên các báo trong Nam ngoài Bắc. [72: 265]
38. Rồi ông bật kêu một tiếng, nước mắt bỗng trào ra ướt đẫm hai gò má. [72: 43]
39. Ông Vị pha cho mình một ấm trà, vừa hút thuốc vừa ngắm nhìn thằng nhỏ âu yếm, nhớ
tiếc vì nó chính là hình ảnh của ông cách đây đã nửa thế kỷ. [72: 44]
40. Bà Hai sinh được hai trai hai gái. [72: 50]
41. Bà Chánh thất đẻ ba người con gái là bà Tý và bà Tỵ và mẹ hắn là cô Tẹo. [72: 50]
42. Đợt phong quân hàm đầu tiên của quân đội, tôi là thượng úy, Thái cũng là thượng úy, tức
44. Phút chốc con cá chẻm đã làm xong, chỉ còn mổ ruột. [64: 31]
45. Anh Tám rót một chun trà, đặt trước mặt Hai Thép. [64: 42]
46. Hắn ngước nhìn mặt trời, miệng lẩm nhẩm một câu chửi tục chỉ có mỗi mình hắn hiểu, rồi
48. Bấy giờ trong cái nhà bé nhỏ một gian ấy, cô Cà Mỵ đang ngồi bệp trên tấm đệm trải đất,
51. Ông nói không có hầm ở ven rừng thì không thể đánh được. [64:75]
52. Anh em cũng đã đào cho Ngạn một cái hố. [64: 81]
53. Huân lại thổi bài tiêu ưa thích của mình “Tình ca Tây Bắc”. [78: 135]
54. Những cái hố mới đào nằm rải dài theo ven vườn. [64:81]
55. Một chiếc ghế mộc cũ kỹ, có lẽ do người thợ cắt tóc tự đóng lấy, trên thành ghế vắt một
57. Đội hình giặc bỗng dưng biến thành một dọc dài. [64: 90]
58. Đợi ba bốn tên nhập một, anh nổ ngay một phát. [64: 90]
59. Bây giờ tôi kể xen vào một câu chuyện nhỏ, chuyện riêng của tôi. [63: 31]
60. Chúng cắm bốn năm cái lều vải bạt lớn cặp theo suối. [64: 95]
61. Rồi ngoại đi kiếm đu đủ về nạo trộn gỏi cho em ăn. [64: 105]
62. Trung liên rộ lên hàng tràng dài giòn giã. [64: 111]
63. Nấu cháo cho thím Thẩm với chú Út đó chớ! [64: 110]
64. Sứ sung sướng nghĩ: “Vậy là anh em còn sống, còn chiến đấu..” . [64: 199]
65. Quyên phải nói dối nó rằng má nó đi công tác ra ngoài xóm. [64: 208]
66. Rồi, một toán lính giăng ngang lối đi thành một cái hàng rào. [64: 218]
67. Tên thiếu tá ré lên một tiếng như bị ai bóp cổ. [64: 222]
68. Trong hang tối, Quyên ôm cháu, đau đớn nghĩ rằng lần này chắc chắn nó mất mẹ thật rồi.
[64: 224]
69. Đám đưa tang biến thành một cuộc diễu hành đi ngang các nhà, đi ngang vườn cây. [64:
253]
70. Năm hào đôi mới thành đồng bạc được . [66: 169]
71. Bản hội được thiên hạ đồn rằng quan lớn hay nói theo ngôn ngữ bình dân lắm, đại khái
73. Anh Dậu uốn vai ngáp dài một tiếng. [84: 103]
74. Vợ anh đã đẻ được một đứa con trai kháu khỉnh vậy mà anh phải hai bàn tay không đến
76. Vừa hát mấy câu cải lương Nam Kì, hắn vừa đỏng đảnh tiến đến chỗ ông thầy số. [81: 30]
77. Người xưa lại cũng đã nói cả rằng: “Ngu phúc xuẩn thọ”. [81: 188]
78. Xuân Tóc Đỏ vỗ tay đôm đốp như những khi nó thấy bọn quần vợt đánh được một miếng
[81: 32]
80. Người lính ấy sau thành một ông Phó Đoan. [81: 34]
81. Trần Văn Sửu nghe con nói mấy điều hiếu nghĩa ấy thì anh ta cảm xúc quá, nên ngồi khóc
83. Tao tính rằng cái chỗ đầu bếp kia làm cái chuồng gà thì tiện quá! [74: 31]
84. Nó viết một chữ có cái bụng to lên tấm bảng nó mới làm cho Tnú. [74: 43]
86. Người phụ nữ thốt lên một tiếng như tiếng nấc. [74: 85]
87. Hai năm sau, Tâm đẻ đứa con trai. [77: 96]
89. Rồi các anh xem…cả đời tôi, tôi sẽ viết một quyển thôi, những quyển ấy sẽ ăn giải Nôbel
91. Hắn phải viết những bài báo để người ta đọc rồi quên ngay sau lúc đọc. [61: 325]
92. Anh nói cái danh từ Ủy ban bảo vệ với một vẻ quan trọng đặc biệt. [83: 25]
93. Một cái cười rộng, thật thà nở trên môi dày của người áo tím mà Thắng kêu là Dân. [83:
45]
94. Trong đàn con cái đông đúc mà mụ Huệ đã đẻ cho lão như một nguồn lao động trời cho
ấy duy chỉ có một đứa- là chính cái thằng Dũng- lão không hề biết rõ con cái nhà ai, lão
không được phép hỏi mụ vợ, cũng không được phép tìm hỏi người khác. [63: 187]
95. Nó viết một chữ có cái bụng to lên tấm bảng nó mới làm cho Tnú. [74: 43]
PHỤ LỤC 3: VAI NGHĨA PHƯƠNG THỨC
1. Họ đăm đăm nhìn người giáo sư chỉ hơn họ dăm bảy tuổi. [83: 30]
2. Phản ứng một cách tự nhiên, Thắng nằm rạp xuống, bụng ép lên đám bùn lõng bõng. [80:
101]
3. Nhẹ nhàng, tôi mang bình sữa đến. [87: 258]
4. Tuy vậy tôi đã có thể ngồi lái một cách khá vững vàng trên những chặng đường địch đánh
6. Tôi đã lập lại trật tự ở cái đơn vị gồm toàn những người lính cùng giới một cách quá vất
8. Bà già sống đơn độc, xa lánh mọi người, nét mặt lúc nào cũng có vẻ nhẫn nhục chịu
529]
10. Hắn ngồi xếp bằng. [60: 45]
11. Tên biệt kích lặp lại với giọng thản nhiên. [64: 200]
12. Và chị khao khát lý giải một cách thấu đáo hành động quên mình của các anh chiến sĩ.
[87: 334]
13. Trần Văn gật đầu một cách mơ hồ. [83: 36]
14. Loan vâng khe khẽ một cách lễ phép. [83: 40]
15. Dưới con mắt anh, bọn lính viễn chinh trông ngu độn và trẻ con một cách thảm hại. [83:
49]
16. Lễ phép, mẹ con chị Dậu cúi đầu chào. [84: 69]
17. Quyên nói với chị ruột của mình một cách vội vàng và mừng rỡ. [64: 5]
18. Nhẹ và mạnh như con báo, hắn nhảy vọt từ trên giường xuống đất. [61: 445]
19. Hắn nhìn chằm chặp vào cái đùi vịt và chai rượu. [61: 445]
20. Một thằng Tây đập cái roi da vào ủng một cách an nhàn, bên chân nó là hai con chó săn
23. Cô gái nói một cách gay gắt khi nhận thấy vẻ khinh khỉnh, coi thường của anh trung đội
25. Mắt nhắm mắt mở, Thu Phong chạy ra. [83: 442]
26. Anh ngả mũ, nghiêng mình chào, và giục bác sĩ Quán đi. [83: 443]
27. Anh loạng choạng bước qua cành lá. [83: 339]
28. Mừng mừng tủi tủi, Trần Văn bắt tay Nhật Tân, nắm chặt lấy, như đứa trẻ vớ được vật gì
30. Bằng cái dáng bộ sợ hãi, chị Dậu đón lấy bộ quần áo và xách đôi guốc, rồi đi qua phía
404]
33. Mệt mỏi, họ ngồi xuống. [83: 404]
34. Sượng sùng, chị nhích xa anh, đi gần người vú. [83: 352]
35. Nhanh như cắt, Tân lấy khẩu súng lục trên giường chĩa vào mặt Nhật Tân, thét: [83: 274]
36. Một tay vẫn để lên miệng, một tay cầm cuốn sổ, anh đưa lên mắt liếc qua, rồi lại buông
39. Chẳng phải bướng, nhưng cô không thể lấy chồng một cách ép uổng như vậy. [69: 94]
40. Đánh “xoảng” một cái, cái bát ở mâm ông lý cựu bay thẳng sang mâm lý đương, và đánh
“chát” một cái, cái chậu ở chiếu lý đương cũng đập luôn vào cây cột bên cạnh lý cựu. [84:
55]
41. Anh cười tít mắt. [66: 218]
44. Cô từ chối bằng cách để lại chiếc phong bì ở bàn giấy. [66: 224]
45. Mặt tím bầm như quả bồ quân, ông chủ bút lại mở tờ Buổi Sáng ra đọc. [67: 80]
46. Ba cái ly ấy mới giơ lên vừa chạm vào nhau đánh “cốp” một cái chợt ngoài sân có tiếng
49. Cái Tỉu nằm trong lòng mẹ khóc ngặt khóc nghẽo. [84: 19]
50. Thằng Dần khóc nhếch khóc nhác, rầu rĩ kêu đói. [84: 31]
51. Phải nói đến lượt thứ hai, mụ mới dám rón rén đến ngồi ghé vào mép chiếc ghế và cố thu
53. Mị đi cửa sau vào, lé mắt nhìn thấy một người to lớn quỳ trong góc nhà. [74: 10]
57. Lúc ấy, trong nhà đã tối bưng, Mị rón rén bước lại, A Phủ vẫn nhắm mắt, nhưng Mị
59. Và hai người lẳng lặng đỡ nhau lao xuống dốc núi. [74: 11]
60. Nhìn theo bóng Tràng và bóng người đàn bà lủi thủi đi về bến, người trong xóm lạ lắm.
[74: 25]
61. Viên quan hầu Đức và viên quan hầu Nhật đều cùng ghé tâu một cách thì thào “La
63. Xuân tóc đỏ giơ tay lên thề một cách cực kỳ hệ trọng: [81: 163]
64. Người đàn bà theo lời hắn ngồi mớm xuống mép giường. [74: 25]
65. Trừ bà Phó Đoan, ai cũng vỗ tay một cách thành thực. [81: 173]
66. Sau khi chắp tay vái Xuân, vị hội viên ấy khẽ nghiêng đầu chào mọi người một cách
68. Thị đứng trước mặt hắn sưng sỉa nói: [74: 26]
69. Ngoài đầu ngõ có tiếng người húng hắng ho, một bà lào từ ngoài rặng tre lọng khọng đi
71. Xuân Tóc Đỏ vỗ tay đôm đốp như những khi nó thấy bọn quần vợt đánh được một miếng
74. Chị hàng mía làm thinh, Xuân nhồm nhoàm nhai mía, lấy bã ném vào một cái cột đèn.
[81: 30]
75. Ngoài vườn mẹ đang lúi húi giẫy những búi cỏ mọc nham nhở. [74: 30]
76. Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn
78. Rồi, rụt rè, chị lên bậc thềm. [84: 33]
79. Hắn nhổ vu vơ một bãi nước bọt, tủm tỉm cười một mình. [74: 26]
81. Tràng cầm đôi đũa, gợt một miếng bỏ vội vào miệng. [74: 30]
82. Bữa cơm từ đấy không ai nói câu gì, họ cắm đầu ăn cho xong lần, họ tránh nhìn mặt
84. Trong ý nghĩ của hắn vụt hiện ra cái cảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên
86. Hắn nghiến răng vào mà chửi cái đứa đã đẻ ra Chí Phèo. [75: 146]
87. Rón rén, chị Dậu đến cạnh tràng kỷ. [84: 42]
88. Ngần ngại, chị đặt mê nón lên đầu, cúi chào vợ chồng ông Nghị và ông giáo. 84: 44]
89. Bạo dạn, chị Dậu bước lên cửa đình, hạ cái mê nón ở trên đầu xuống. [84: 46]
90. Trái với phong tục nhận tù mỗi ngày, hôm nay viên quan coi ngục nhìn sáu tên tù mới
93. Ông già lúc nãy ôm mặt khóc không ra tiếng. [79: 119]
96. Có cái lối ấy, sáng mồng một tháng nào nó cũng hí hởn sang. [69: 304]
100. Điềm tĩnh, chị nhìn khắp mấy gian đình. [84: 47]
101. Luống cuống, chị Dậu vội đứng dậy. [84: 51]
102. Rất nhanh chóng, diện tẩu đặt hơi nghiêng trên chụp đèn, đồng thời tay trái nhà sư nữ
dung mũi tiêm vào cóng thuốc rồi nướng trên ngọn lửa thon thon. [70: 176]
103. Và mụ lại khóc sướt mướt cắp thúng quần áo đi. [70: 253]
104. Bước khỏi ngưỡng cửa, Mão Chột gieo thình người xuống giường. [70: 242]
105. Hết thảy mọi người đều lố nhố đứng dậy. [84: 55]
106. Bằng cái dáng bộ vui vẻ, nhẹ nhàng, nó đặt một bát lên chõng. [84: 61]
107. Với vẻ mặt băn khoăn, cái Tí lại bưng bát khoai chìa tận mặt mẹ. [84: 62]
108. Thoáng trông ra, lão chủ sòng liền toét miệng cười, chạy vội tới giơ tay khom người
110. Chống tay lên trán, chị như nghĩ ngợi phân vân. [84: 64]
111. Cầm cái áo màu ấp ào ngực, vợ Lưu bước xổ ra đường, chạy sang hè phố bên kia! [70:
264]
112. Xuân Tóc Đỏ thì còn đứng, hai tay gãi sườn nhìn mọi người một cách trịch thượng,
115. Bỗng đùng một cái, tôi nghe tin anh chết. [61: 194]
116. Lúc chia tay, chị có giữ một tấm ảnh của anh San, chị vẫn cất kỹ tấm ảnh ấy ở trong
bóp. [64: 8]
117. Một lát sau là đã thấy ông nói gì toang toang ở gốc đa. [61: 237]
118. Bác Lan mỉm miệng, gượng cười một cách rất chua chát. [67: 38]
119. Nói nôm ra, chú Tam cũng muốn chim chị Tam đáo để. [67: 41]
120. Thấy con bé Thúy đang lặng lẽ, chăm chú làm cái việc nhận dạng đến mức ấy, thì cô
235]
122. Đùng một cái nữa, hắn đưa mấy ông khác lên huyện vì việc lạm dụng tiền công quỹ.
[61: 235]
123. Thị Nở giục hắn ăn nóng. [61: 150]
124. Và hắn định bụng sau kỳ thi tốt nghiệp, được rảnh rang rồi, hắn sẽ bỏ vợ thẳng tay. [61:
215]
125. Ba chân bốn cẳng, anh ấy chạy vội lại phía người gọi, hạ hai càng xuống. [67: 53]
127. Anh xe lại nhấp nhổm chạy rảo cẳng vài bước, rồi lại tiến bước như trước. [67: 55]
128. Rồi nó ngủ khì một mạch đến sáng. [67: 70]
129. Trống ngực đánh thình thịch, nó cuộn tròn nó với ảnh cậu nó vào trong chăn như con
131. Ông chủ bút cũng không đoán được cớ gì, vừa đi đường vừa luẩn quẩn nghĩ. [67: 77]
133. Mà làm báo kiêng nhất một việc là công kích phong trào. [67: 80]
134. Lưu cười cay đắng, anh vẫn ngu quá, ngu như thế làm sao bắt được một kẻ rất ranh
136. Tiếng ông chủ nhiệm nói toang toang như lệnh vỡ, ai cũng nghe thấy. [67: 71]
137. Lưu cười cay đắng, anh vẫn ngu quá, ngu như thế làm sao bắt được một kẻ rất ranh
140. Bây giờ vẫn viết lặt vặt cho đỡ buồn. [72: 36]
141. Chỉ có cô con dâu thì hay dặn: “Ông có đi đâu thì khóa cửa cẩn thận”. [72: 36]
142. Ông sống lặng lẽ, nín nhịn và vẻ mặt lúc nào cũng buồn. [72: 37]
143. Vả lại, ông cũng không mơ mộng theo hướng ấy. [72: 38]
144. Người bố ngồi nghiêng người nhìn con mà nói. [72: 42]
145. Ăn cơm xong bố uống vội chén nước rồi vào phòng riêng. [72: 48]
146. Vì ông không có thói quen làm việc một mình. [72: 48]
147. Nếu phải sống một mình, gánh vác một mình thì em rất hãi. [72: 53]
148. Trả lời ấp úng hoặc không được như lời mẹ dặn lần trước là mẹ quát tháo, nói như đổ
những ông chồng của kháng chiến với những đứa con của kháng chiến”. [72: 62]
150. Thị Nở thì chỉ nhìn trộm hắn rồi lại toe toét cười. [75: 150]
154. Thị ton ton chạy lên nhà nhân ngãi. [75: 152]
155. Thị ngoay ngoáy cái mông đít đi ra về. [75: 152]
156. Thị giẫm chân xuống đất, rồi lại nhảy cẫng lên như thượng đồng. [75: 152]
157. Con bé Thúy đỏ mặt, lúng túng, ngượng nghịu úp tấm ảnh và chiếc gương vào mặt. [64:
9]
158. Quyên cười chúm chím, có vẻ như đắc ý lắm. [64: 12]
159. Hầu như đêm nào Quyên cũng lẻn ra đó, đem cơm cho anh, bàn bạc công việc. [64: 12]
162. Tất cả mọi người tốt đều nhìn Quyên với cặp mắt thương hại. [64: 15]
163. Anh Tám mỉm cười nhìn cô với ánh mắt vui vẻ và thông cảm. [64: 17]
164. Lạ lùng hơn, là năm hôm sau khi được anh Tám cho biết việc ấy, Ngạn trở về rất đột
169. Quyên suy nghĩ một loáng rồi nói như ra lệnh. [64: 19]
171. Cô thành thật kể cho Ngạn nghe, cả tâm trạng của cô lúc đó ra sao. [64: 20]
172. Và anh nói như là nói với ai chứ không phải nói với Quyên. [64: 20]
173. Ngạn nói với giọng ngọt ngào trách móc. [64: 21]
174. Quyên hiểu thế, cô ngồi thừ ra coi thật tội nghiệp. [64: 21]
175. Cô mới bày tỏ cặn kẽ hơn cho Ngạn rõ. [64: 20]
177. Nghe anh Tám nói, Ngạn cười tủm tỉm. [64: 24]
178. Nói xong chú rảo bước như chạy. [64: 24]
180. Cậu thanh niên tên Diệu đáp, cười bẽn lẽn như con gái. [64: 27]
181. Ông già mù thốt hỏi rồi run run đưa tay sờ lên khắp người anh, nắn nót cườm tay anh
184. Têm một miếng trầu mới, mẹ Sáu bỏ vào miệng nhai rau ráu. [64: 32]
185. Quyên từ từ nhắc cằm khỏi vai mẹ, đi ra nhà sau. [64: 37]
186. Quyên cười chúm chím mà không nói sao cả. [64: 38]
188. Nhưng cô cũng vậy, cô cầm dao khứa cá cùm cụp, dáng coi chăm chú lắm. [64: 39]
189. Anh Tám cầm tấm ảnh nhìn chăm chú. [64: 40]
190. Hỏi xong, anh gấp gáp mở thêm một cái cúc áo nữa, tay tháo cái khăn trên đầu xuống
42]
192. Ba Rèn hớn hở, nắm tay Ngạn gặc gặc. [64: 47]
193. Quyên lẹ làng chạy ra nhà sau lấy xanh tuya súng đem ra đưa Ngạn. [64: 49]
195. Trên khoảnh đất trống bị dọn sạch quanh chi khu, bọn lính chạy tới chạy lui. [64: 52]
196. Có tên chưa chi đã lăn kềnh, ngửa mặt lên trời phì phèo điếu thuốc. [64: 52]
197. Bọn lính chủ lực mặc đồ trai di, bọn biệt kích mặc đồ rằn, giày da và giày bố nện rầm
201. Hắn bật nằm ngã ngửa ra trên tấm vải bạt xám. [64:52]
202. Thình lình hắn đưa tay giật phắt mẩu thuốc, vứt đi và ngồi bật dậy. [64:52]
203. Hắn lừ lừ giương đôi mắt trắng dã ngó bọn lính của hắn bấy giờ đang lôi bánh mì ra.
[64: 52]
204. Thằng Xăm uể oải đứng dậy đi theo tên lính đến trước một tấm vải bạt. [64: 52]
205. Tên lính bé choắt ấy xăng xái đặt vào giữa tấm vải bạt một bi đông nặng trịch. [64: 53]
207. Hắn “khà” một cách khoái trá rồi lại xé thịt ăn. [64: 53]
208. Hai Thép vỗ tay đánh bộp một cái: [64: 44]
209. Không chậm trễ, nó nhè nhẹ thò tay tháo trái lựu đạn. [64: 142]
212. Giữa lúc thằng Út đang nằm thao thức nghĩ tới trái lựu đạn thì thằng bé anh nó ở trong
hang Hòn đang trải qua những giờ phút gay go. [64: 143]
213. Thằng xăm hể hả khi nghe những câu ấy. [64: 54]
214. Bọn lính cười nhăn nhở, thích thú. [64: 55]
215. Quyên biết rằng thằng bé rên hử hử như vậy là nó đau lắm. [64: 146]
217. Mọi người lại đưa mắt nhìn Ba Rèn lần nữa. [64: 151]
218. Anh nói chuyện bình thường, kể cho nó nghe hôm nay giặc bị đánh chạy khỏi hang ra
220. Sứ với tay xuống sờ chân con, thấy chân nó cũng lạnh quá. [64: 153]
221. Chị vội vàng kéo chân con kẹp giữa đùi mình. [64: 155]
222. Chị Sứ cầm cây nến, đăm đăm nhìn con nằm ngủ. [64: 155]
223. Đã không biết bao nhiêu lần chị Sứ lặng lẽ ngồi nhìn con mình một cách mê đắm như
64: 57]
227. Bà đi trong đêm tối, tay cầm một cái xị không. [64: 59]
228. Thím đếm nốt cho xong số tiền lẻ còn lại rồi lách qua cửa quầy một cách khó khăn. [64:
60]
229. Rồi bà lập cập đi ra cửa.[ 64: 61]
230. Bà nắm cổ chai rượu thật chặt, lùi lũi bước ra cửa quán. [64: 61]
231. Lát sau, bà rót rót rượu ra chén, uống như uống nước. [64: 62]
232. Chén rượu thứ hai bà uống chậm rãi chứ không uống vội như trước. [64: 67]
234. Họ đi một mạch khỏi xóm Vạn Thanh, băng qua ruộng. [64: 70]
235. Anh giơ tay vỗ độp độp vào tấm cửa lợp lá. [64: 71]
236. Ngạn nghe có tiếng dép lẹp xẹp trên sàn ván đi ra phía cửa. [64: 71]
237. Ngạn thản nhiên đưa gót giày đá khép cánh cửa lại. [ 64: 71]
238. Y mở gói thuốc, rút thuốc cung kính đưa mời Ngạn, Tới và Trọng, rồi đi vào bếp coi
240. Uể oải, chị bế cái Tỉu lên sườn và lừ thừ đi ra ngoài cổng, để ngóng xem chồng đã về
242. Mình y vận một cái xà rông sặc sỡ, sột soạt đi ra, tay cầm lược chải đầu sói sọi chỉ còn
244. Mọi người kể cho Ba Rèn nghe chuyện bắt vợ chồng tên chủ trại đáy, Ba Rèn khoái chí
246. Ông cai lệ thị hùng bằng hai con mắt giương tròn. [84: 25]
247. Anh với tay lấy cây vá dẫy bớt lớp đất trên miệng. [64: 82]
248. Mọi người vừa kéo lá ngụy trang hầm vừa lao xao nói chuyện. [64: 83]
249. Rồi Ba Rèn lại lịch phịch chạy đi. [ 64: 81]
250. Bằng cái sắc mặt ôn hòa dễ dãi, Nghị Quế nhìn vào mặt chị Dậu. [84: 72]
251. Bấy giờ Ba Rèn đã cởi áo buộc thắt ngang đầu. [64: 87]
252. Anh nói chữ “cũng đặng” một cách khó nhọc. [64: 87]
253. Mặc dù nghe súng nổ, bọn chúng vẫn xống lưng chạy tới. [64: 90]
254. Bọn phía sau theo gót chúng chạy dấn lên. [64: 90]
255. Mụ Nghị ngắt lời bằng giọng nói nửa đùa nửa thật. [84: 74]
256. Sấp ngửa, chị chạy vào cổng, quăng cả rổ, mẹt, mê nón xuống sân, rồi vội vàng, chị vào
258. Anh cùng anh em bắn cản hậu, rồi cùng rút theo. [64: 91]
259. Tới đang cõng Thẩm chạy lúp xúp. [64: 91]
260. Ngạn ngó thấy anh em dìu thằng bé con của chú Tư râu đi thất thểu. [64: 92]
262. Một toán vác xoong chảo vừa lấy của đồng bào kéo đi lểnh nghểnh. [64: 94]
263. Đôi bàn tay ấy rờ rẫm người anh, rờ từ gáy dọc xuống lưng anh một cách gấp gấp, như
để coi anh có phải là một Ngạn còn nguyên vẹn không vậy. [64: 96]
264. Con bé nói rối rít. [64: 98]
265. Nó đi lọ mọ như thế mà ai cũng nhận ra và kêu đúng tên nó, nên nó sung sướng. [64:
98]
266. Năm Nhớ ngồi bên thằng bé, tay cầm một cái khăn ve vẩy. [64: 100]
267. Con Thúy bấy giờ cũng rón đến coi. [64: 100]
268. Chào chồng bằng hai hàng nước mắt, chị Dậu lủi thủi trở ra với cái mẹt, cái rổ và cái
270. Rồi hai tay hai đứa, chị ẵm chúng nó vào trong cái phản cập kênh. [84: 84]
271. Nghe có tiếng người ngang qua, mụ vợ cất tiếng nói như rên: [64: 108]
273. Con bé Thúy cười lỏn lẻn trên cổ Quyên. [64: 110]
274. Con bé từ chỗ anh Thẩm mon men đi ra. [64: 110]
275. Con nhỏ đi lơn tơn vô rừng kiếm hái lá đó. [64: 111]
276. Anh hai Thép ghé mắt nhìn qua kẽ đá hở. [64: 110]
277. Anh đếm được sáu thằng giặc nằm sải dọc ngoài cửa hang. [64: 112]
281. Không chậm trễ, nó nhè nhẹ thò tay tháo trái lựu đạn. [64: 142]
282. Con bé lồm cồm bò tới, ôm choàng lấy cổ mẹ. [64: 157]
283. Hai tên Mỹ rời chỗ chị Sứ một cách tiếc rẻ, men xuống suối. [64: 196]
284. Bọn biệt kích khom lưng cõng chúng lội qua. [64: 196]
285. Anh Dậu nhìn vợ bằng những dòng nước mắt thánh thót. [84: 121]
286. Có lẽ chưa lúc nào Sứ yêu Hòn Đất oặn lòng như buổi sáng hôm nay. [64: 198]
288. Rồi thì bà rón rén bước lên xe. [84: 128]
289. Bị treo lơ lửng giữa cây dừa ngã rạp, Sứ luôn chuẩn bị tinh thần cho tới phút cuối cùng.
[64: 217]
290. Chân nọ đá chân kia, chị lại trở về ngồi ở đầu phản. [84: 96]
292. Rồi sau đó anh ngước lên nhìn tôi bằng hai con măt mệt mỏi. [63: 136]
293. Tên thiếu tá ré lên một tiếng như bị ai bóp cổ. [64: 222]
294. Bốn năm người, không ai bảo ai, kẻ trước người sau, lặng lẽ lui về chỗ. [64: 226]
295. Quyên nghe lời anh Hai, cắn cắn ngón tay, bước từng bước một đi vào hang. [64: 226]
296. Bằng cái dáng bộ sợ hãi, chị Dậu đón lấy bộ quần áo và xách đôi guốc rồi đi qua phía
298. Anh nín thở, nép sát sau gốc dừa. [64: 218]
299. Chừng đó mẹ mới bắt đầu bới tóc cho con, nhẹ nhàng và khéo léo. [64: 252]
300. Thế rồi người đàn bà ngoại tình cứ hát các bài “Tôi có hai cái tình” một cách véo von,
303. Xuân Tóc đỏ và người đàn bà kia thì thập thò đứng bên ngoài. [81: 100]
304. Quan phủ đáp bằng giọng nhẹ nhàng. [84: 137]
305. Chỉ còn tiếng cây sắt nện xuống hừ hự. [74: 45]
307. Tiếng cười giần giật của thằng Dục. [74: 47]
308. Tiếng bọn lính kêu thất thanh. [74: 47]
309. Trương tẩn mẩn xếp lại mấy quyển sách trên bàn, để có thì giờ nghĩ ngợi. [76: 277]
310. Miệng chàng cau lại một cách khinh bỉ: [76: 294]
311. Lân vùng vằng đứng dậy bước ra ngoài thềm. [77: 96]
312. Người nhà lý trưởng cười một cách mỉa mai. [84: 103]
313. Bính lập cập lùi dần về phía cầu thang. [70: 36]
314. Vui vẻ, chị Dậu cắp gói quần áo ra hồ. [84: 149]
315. Nhanh như cắt, chị Dậu giật ngay được gậy của hắn. [84: 105]
316. Từ đã hiến mình một cách dè dặt, tâm hồn và xác thịt. [61: 325]
317. Hắn là một nhà văn, trước kia, với cách viết thận trọng của hắn, hắn chỉ kiếm được vừa
đủ để một mình hắn sống một cách eo hẹp, có thể nói là cực khổ. [61: 326]
318. Hắn mỉm cười, đáp lại. [61: 334]
319. Trung cau mặt nhìn Hộ một cách kinh ngạc và khinh bỉ: [61: 336]
320. Trung gật gù cười, vẫn cái cười lặng lẽ của y. [61: 337]
321. Mụ cửu Xung trở vào với cái dáng bộ đắc sách. [84: 148]
322. Thằng Dần ton ton chạy ra núp vào sau mẹ. [84: 145]
325. Dáng nằm thật là khó nhọc và khổ não. [61: 339]
327. Bây giờ anh đang ngồi bắt tréo kheo, hất hàm lên, nghênh trời. [61: 538]
330. Giả điếc như không nghe tiếng, chị Dậu cố phùng đôi má để thổi cho bếp lửa cháy lên.
[84: 148]
331. Anh đứng tần ngần một lúc. [61: 440]
PHỤ LỤC 4: VAI NGHĨA VỊ TRÍ
1. Giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo, nhưng
cả nhà đều ăn rất ngon lành. [74: 31]
2. Ông Phùng Gia Lộc đã hi sinh ở phố Nhà Thờ đêm hôm qua. [83: 444]
3. Trong một góc nhà, bỗng trông thấy một đôi mắt mở thao láo. [83: 404]
4. Ngoài đình bỗng dồn lên một hồi trống dồn dập, vội vã. [74: 32]
5. Trên đất chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía. [75: 95]
6. Cạnh bàn thờ, Giản lặng ngắm bức ảnh người quá cố. [87: 942]
7. Họ đều đã được huấn luyện lái máy bay chiến đấu ở một xứ sở có nhiều tuyết rơi về mùa
đông. [87: 341]
8. Ở đấy, con trai và con gái gặp nhau dạn dĩ hơn, phóng khoáng hơn. [87: 341]
9. Da thịt đâm chồi ở những chỗ khuyết trên thân thể. [87: 321]
10. Bà ngoại với mấy bà gói bánh ở nhà dưới. [84: 9]
11. Mấy đứa trẻ con nhà nghèo cúi lom khom trên mặt đất đi lại tìm tòi. [75: 96]
12. Má và dì Ba ngồi học bài chỗ bàn ăn cơm. [88: 9]
13. Trên bàn bày hai đĩa thịt kho và một thau dưa cải. [88: 100]
14. Nhưng trong cái lều ẩm thấp vẫn chỉ mới hơi lờ mờ. [75: 96]
15. Chợ họp giữa phố vãn từ lâu. [75: 95]
16. Hai đứa bé con dưới đất vẫn khóc tru tréo. [84: 96]
17. Bên kia bàu nước là những đụn cát dọc biển, trông xa như một bức tường thành sáng lóa.
[87: 550]
18. Một tập phong bì đủ các loại và những con tem đẹp Chung để ở ngăn kéo bàn học. [87:
403]
19. Thím Trực ngồi xắt khoai ở đầu hồi lẩm nhẩm đọc theo. [87: 552]
20. Đoạn, tôi nhoài người đẩy cái khối thuốc nổ xuống cái hố đào sẵn ở phía trước ụ đất.
[60: 112]
21. Những giọt nước mắt hiếm hoi lăn trên khuôn mặt già nua. [60: 112]
22. Bọn địch bị đánh tan tác ở cánh đồng làng Xuân Trạch. [60: 44]
23. Ở đây người ta thấy chiều lúc xế trưa và gặp đêm khi bên ngoài vẫn sáng. [75: 149]
24. Cạnh dòng suối trôi ngang, hoa dại vàng xuống cả lòng đất. [62: 88]
25. Gần đó là túp lều của cha con ông già Túc. [87: 552]
26. Cuộc sống ở đây đã dạy cho chúng tôi thế nào là sự im lặng. [87: 534]
27. Ngoài đình, trống lại thúc, mõ lại khua, tù và rúc liên thanh bất chỉ. [84: 99]
28. Sau nhà có tiếng người gọi léo xéo. [84: 99]
29. Em ăn bên nhà thằng Thà rồi. [88: 20]
30. Trên bàn thờ Hường từ đó có thêm cái đũa đôi chén. [88: 23]
31. Khúc sông này là nơi ba người đã sống những ngày thơ trẻ bên nhau. [88: 24]
32. Dưới những gốc đa, gốc gạo xù xì, bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những
bóng ma. [74: 24]
33. Hai dãy phố bên, úp súp, tối om, không nhà nào có ánh đèn lửa. [74: 24]
34. Tiếng quạ trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi thê thiết. [74: 24]
35. Trên chòi canh tùng tùng ba tiếng trống báo. [84: 132]
36. Trong phủ, tiếng trống thong thả điểm luôn ba hồi. [84: 126]
37. Sau bức chấn song của cửa sổ trại lệ, chị Dậu thình lình nhòm ra. [84: 127]
38. Nào ở bên chiếc độc bình men đỏ, cái điếu ống vắt vểu vươn cành xe trúc dài thườn
thượt như cái cần câu. [84: 34]
39. Rồi ở trong cái tủ chè chạm dây nho, một rổ trứng gà đầy lùm, ngất nghểu chồng trên bộ
khay chè trắng bong. [84: 35]
40. Rồi ở trước cái sập gụ lên nước, bốn chiếc ghế gụ mặt đá cùng chầu vào chiếc bàn mây
sơn xanh. [84: 35]
41. Và ở đầu cái giường tây sơn quang dầu, quần lĩnh xanh và khăn quàng nhiễu xanh cùng
vắt một chỗ. [84: 35]
42. Trên chiếc tủ đứng, ngọn đèn măng xông im lặng tỏa ra ánh sáng xanh lè. [84: 137]
43. Họ đứng cả trong ngưỡng cửa nhìn ra bàn tán. [74: 25]
44. Tràng đứng tây ngây ra giữa nhà một lúc, chợt hắn thấy sờ sợ. [74: 25]
45. Ngoài đầu ngõ có tiếng người húng hắng ho, một bà lão từ ngoài rặng tre lọng khọng đi
vào. [74: 25]
46. Nó bây giờ là dâu con trong nhà rồi. [74: 29]
47. Làng ở trong tầm đại bác của giặc. [74: 38]
48. Ở chỗ vết thương, nhựa ứa ra tràn trề thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay gắt, rồi dần
dần bầm lại, đen và đặc quyện lại thành từng cục máu lớn. [74: 638]
49. Nơi góc chiếc án thư cũ đã nhợt màu son, một cây đèn đế leo lét rọi vào khuôn mặt nghĩ
ngợi. [75: 109]
50. Bên ngoài, mấy ông Lý dịch vẫn uỗng rượu, vẫn hút thuốc, vẫn quạt phành phạch, vẫn
giở lý luật cãi nhau lộn bậy. [84: 49]
51. Trong khung cửa sổ có nhiều con song kẻ những nét đen thẳng lên nền trời lốm đốm tinh
tú, một ngôi sao hôm nhấp nháy như muốn trụt xuống phía chân trời không định. [75: 109]
52. Trước cửa, treo một bức mành mành, như kiểu những nhà để ở, không buôn bán. [61:
164]
53. Bên này suối Đất- hoa là làng Kông-hoa của Núp, bên kia suối Đất- hoa là làng Ba-lang.
[79: 20]
54. Cạnh chõng, nghi ngút một đám khói bay. [84: 61]
55. Hôm nay lũ người Ba-lang đi bắt cá ở suối Đất-hoa nhiều. [79: 20]
56. Lũ Còn một số người chưa chịu về, trốn ở hai bên bờ suối Đất-hoa, nghe máy bay kêu
thì xuống nước trốn lửa. [79: 21]
57. Người còn lại rúc trong hốc đá không dám ra đi rẫy, ăn trái cây như con thú trong rừng.
[79: 21]
58. Núp ngồi trong nhà rông chờ. [79: 29]
59. Lần đầu tiên Núp nằm bên một người Kinh. [79: 44]
60. Đồng bào núp hai bên bờ suối, sợ run cả người lên. [79: 56]
61. Năm năm nay, lần đầu tiên Núp thấy một người ở trong làng tập trung của Pháp. [79: 76]
62. Một lằn gân tím nổi lên gần bên thái dương. [79: 77]
63. Ông già ngồi trong góc nhà với ba đứa con. [79: 83]
64. Mọi người đã mang gùi đứng cả ở sân làng. [79: 84]
65. Đêm lũ thanh niên không họp ở nhà rông nữa. [79: 92]
66. Núp đi gặp người kinh ở Ba lang đã về. [79: 95]
67. Bok Hồ đứng trên hòn núi đó, chỉ huy cả nước mình đánh giặc. [81: 96]
68. Gió thổi phần phật trên mặt mọi người. [79: 96]
69. Đánh Pháp ở rẫy trước, đánh Pháp trong làng sau. [79: 131]
70. Núp Nằm nghĩ tới anh Thế bây giờ ở ngoài rừng. [79: 97]
71. Chung quanh làng cắm chông như dao mọc, đi một ngày đường cũng chưa hết chông.
[79: 98]
72. Dưới suối cũng có chông, trên cây cũng có chông. [79: 98]
73. Xá lớn lên ở Ba-lang. [79: 99]
74. Thằng bé Ngứt ngồi trên ngưỡng của nhà sàn, nắng rọi vào trong mắt nó. [79: 106]
75. Con nít, đứa ngồi trong lòng anh, đứa bám trên lưng anh, đứa trèo trên vai anh. [79:
108]
76. Núp chỉ huy bảy du kích đánh ở suối Thi om. [79: 134]
77. Bây giờ năm mươi người đã tập họp trước nhà rông. [79: 83]
78. Bộ đội đến đóng ở Kông-hoa, Ba- lang, Ta- lung, đầy núi, đầy rừng. [79: 156]
79. Liêu coi việc làm rẫy ở nhà. [79: 156]
80. Hai dòng nước mắt chảy quanh trên má. [79: 158]
81. Con chim trong rừng nó không nghe tiếng Liêu hát nữa. [79: 158]
82. Nó đến nằm rấp ở một xó bụi ô rô mà rên hừ hừ. [69: 70]
83. Cái xó vườn cỏ dại đằng sau nhà không còn oanh yến dập dìu như xưa nữa. [69: 70]
84. Hôm qua tôi đi mua ở trên chợ Bưởi về một con chó, lông vàng sẫm như lông bò. [69:
75]
85. Hai người ngồi ở vệ ruộng tay tẩn mẩn bứt cỏ mà nói bâng quơ. [69: 308]
86. Tiếng eo óc dậy lên ở khắp xung quanh. [69: 324]
87. Có nhiều thứ máy móc ở trên xe được thay cẩn thận. [69: 309]
88. Hồi bấy giờ, xe đạp còn hiếm lắm, ở vùng này. [69: 309]
89. Ông Nhiêu đánh đụng được một đôi thịt chó bên hàng xóm. [69: 303]
90. Lúc ấy Nhiêu cũng ngồi quay tơ gần đó. [69: 304]
91. Bà Vạng đã nghĩ đến chồng người con gái xấu số của bà ở bên kia sông. [69: 308]
92. Xưa kia, ở các khu tập thể, cấp úy và các ông tá nhỏ được phân nhà sát vòng tường bao
ngoài vì là dãy nhà làm thêm. [72: 293]
93. Là một con thuyền ẩn dưới một vòm hang có nhũ đá lấp lánh. [72: 270]
94. Hắn hẹn sẽ đón tôi tại tạp chí Văn nghệ quân đội là nơi tôi đang ở nhờ. [72: 293]
95. Ông Nhiêu đang ngồi quay cửi thừa ở trước cổng tán. [69: 295]
96. Hôm nay tôi gặp chị Ngây ngoài cổng xóm. [69: 297]
97. Nó lấy chồng làm thư ký ở một làng bên tỉnh Bắc. [69: 299]
98. Ở hai bên con ngươi, nổi lên một cái màng trắng. [69: 299]
99. Cái tin Nghiên chết đắm đò ở bến Hối đưa về đến Hạ Nha thì bà Vạng khóc ngất đi. [69:
299]
100. Tháng tháng, cứ sáng ngày mồng một, ông lại gọi thằng bé con bên nhà hàng xóm sang
“xông” nhà. [69: 300]
101. Bỗng có tiếng gọi nheo nhéo ngoài cổng. [69: 261]
102. Trăng hăm bốn đã lên, nhợt nhạt trên ngọn tre. [69: 324]
103. Vậy mà trong xóm Duối, ở một nếp nhà ba gian, hai chái giữa một khoảng vườn nhỏ,
vẫn còn thấp thoáng ánh đèn và có tiếng dệt cửi, quay tơ. [69: 325]
104. Giọng ấy là giọng thợ cấy mà những người làm ruộng thường hát ở ngoài đồng. [69:
325]
105. Chuyến đò ngang ấy chở tham khách quá, đắm lỉm ngay ở giữa sông. [69: 299]
106. Hai mắt lờ đờ, ướt át trên một sống mũi dọc dừa. [70: 176]
107. Trên cao, những đám mây trắng xốp vừa tản ra, nắng lại bừng lên tưới xuống ào ào.
[70: 248]
108. Ở gian giữa bàn thờ bỗng sáng lên. [70: 248]
109. Trên bục rạp hát, trẻ con cứ sấn sổ cướp lấy cái dùi. [70: 242]
110. Chợt xế rạp hát, trước một sòng tổ tôm điếm, nổi ran một tràng pháo. [70: 242]
111. Trong nhà chùa chỉ lát nữa đèn nến sẽ sáng choang, nhang trầm nghi ngút, người lễ bái
không còn chỗ nào đặt chân. [70: 243]
112. Trên nhà, Mão Chột đương lục sục trở dậy. [70: 250]
113. Bên chùa, tiếng kêu hét, hò reo và đập phá rầm rầm. [70: 251]
114. Trưa mụ Mão gặp cái tý ngoài chợ, mua vàng hương và hơn chục bạc thịt với tiền của
một người bạn Ký Phát giúp cho. [70: 251]
115. Gần cái lỗ hổng cửa sổ chui lọt đầu người nọ, kê cái giường tây mà hai vợ chồng
đương ngồi và chốc nữa sẽ ngủ.
116. Sát cái giường là cái bàn, hai cái ghế đẩu và một cái hòm. [70: 259]
117. Vợ Lưu đi nép dưới hàng hiên, bước rất nhanh chẳng cần biết rõ làm gì. [70: 261]
118. Trên kia, giăng nhởn nhơ như một cô gái non vừa có nhân tình. [61: 263]
119. Ở ngoài ngõ, mẹ con chị Chuột vừa kêu khóc vừa van lạy. [61: 86]
120. Tôi trọ học ở tỉnh lỵ cách làng chừng mười lăm cây số. [61: 408]
121. Nó đã gặp gỡ cái gì ở trên đường làm nó lãng quên anh. [61: 197]
122. Tôi trọ tại một nhà bà dì. [61: 106]
123. Ngoài rừng vọng tiếng suối chảy tràn trên đá và tiếng đôi chim rụt rè ở hai góc rừng.
[63: 30]
124. Xe tôi chạy trên lớp sương bồng bềnh. [63: 38]
125. Lán đội nữ công nhân giữa khu rừng săng lẻ, rất đẹp. [63: 45]
126. Ngoài rừng sâu, đôi chim gọi nhau đã im tiếng, có lẽ chúng đã tìm thấy nhau. [63: 48]
127. Ác thay cái bãi đá tai mèo nằm giữa khúc suối dưới chân núi. [63: 52]
128. Hai bố con ở với nhau trong một cái lều ở bờ sông. [61: 233]
129. Trên chiếc ghế thứ tư, con chó nhảy tót lên, ngồi chồm chỗm, thè lười ngồi nhìn hết
người nọ đến người kia. [67: 18]
130. Cái ấm ngay bàn bên cạnh giường nằm. [67: 67]
131. Tóm lại, một cái dấu hỏi đỏ còn lửng lơ ở cổng tòa án dư luận, như ở bìa cuốn truyện
trinh thám vậy. [67: 75]
132. Nỗi mừng nở thành nụ cười trên miệng ông chủ bút. [67: 76]
133. Nguyên bán lẻ ở Hà Nội cũng đã ngót một vạn tờ mà còn thiếu. [67: 78]
134. Con gái gửi nhà trẻ rồi gửi mẫu giáo. [72: 26]
135. Buổi sáng thằng Bi phải phụ giúp cô ấy bán phở ở cổng trường thương nghiệp cùng với
một chị bạn. [72: 36]
136. Con gái lấy chồng ở Hải Phòng, mỗi năm ông chỉ ra thăm con được một lần, ở lại mươi
ngày rồi về.[72: 36]
137. Con trai ngày trước ở bộ đội, sau ngày xuất ngũ theo bạn bè đi buôn hàng ở biên giới.
[72: 36]
138. Con dâu cũng có cửa hàng bán đồ nhựa ở vườn hoa hàng Đậu, sáng đèo con đi, tối đèo
con về, cả nhà chỉ cùng ăn một bữa tối do ông già đi chợ và thổi nấu. [72: 36]
139. Sáu bảy cây vàng thì chỉ mua được cái lều ở trên phố. [72: 42]
140. Năm còn chiến tranh phá hoại, bà Tý ở với con gái và rể ở trên Vĩnh Phú bị kiết lỵ
nặng. [72: 51]
141. Ông nội xin bố một tấm ảnh cho phóng to đặt trên tủ buýt phê giữa nhà. [72: 52]
142. Đúng dịp ấy bà nội bị cảm nặng, nằm trên giường cả tuần. [72: 53]
143. Bác có hai con trai, một con hy sinh cũng ở chiến trường miền Nam, sau cái chết của
ông chú ruột chừng một năm. [72: 55]
144. Mồ hôi chảy ra trên đầu, trên mặt, những giọt to như giọt nước. [75: 151]
145. Cái hầm thứ hai của anh ở dưới một nấm mả giả nằm giữa một đám mả thật. [64: 13]
146. Nằm trong hầm tối, anh cứ nghĩ sao mẹ không tính đến việc anh có thể hi sinh nay
mai? [64: 14]
147. Không, ở đó không có con ma nào cả. [64: 14]
148. Nhưng chỗ này bọn chúng lại không ngờ tới. [64: 14]
149. Ngạn yên ổn sống ở dưới đó ngót hai tháng rồi mới chuyển vào cư trú.[64- 15]
150. Ngay chiều hôm đó, căn cứ trong rừng bị địch bao vây. [64: 15]
151. Anh em bắt vọp gần đấy nghe bọn biệt kích láo nháo. [64: 15]
152. Cô cảm tưởng như bị một cây gậy của ai bất thình lình phang trúng ngang lưng. [64:
16]
153. Chúng nói một buổi chiều chúng thấy ở giữa rừng có khói bay lên. [64: 18]
154. Cô lần đi trong bóng tối. [64: 19]
155. Dưới hầm, Ngạn mệt quá ngủ thiếp đi. [64: 20]
156. Những ngôi nhà trong xóm, mái lá và ngói đỏ chen nhau coi đông đúc như một thị trấn.
[64: 22]
157. Sau rặng tre ấy, biển cả còn lâu đời hơn, vẫn đang giỡn song, mang mang một màu
xanh lục. [64: 22]
158. Đứng ở đây, khi sóng sủi bọt âu yếm vỗ bờ, Ngạn thấy dưới chân bãi tre như có một
đường viền bằng ren, thỉnh thoảng lại dợn lên. [64: 22]
159. Xóm Hòn đất ở liền ngay chân Hòn. [64: 25]
160. Sau lưng xóm, còn một quãng vườn cây sum suê rồi tới sông Vàm Răng. [64: 25]
161. Ở đây có nhà cất trệt, nhưng cũng có nhà sàn phải đi lên bậc thang. [64: 25]
162. Những nhà lớn lợp ngói thường có bậc thang ở hai bên, lên xuống bên nào cũng tiện.
[64: 25]
163. Tại cái gốc me cổ thụ, cách đây không lâu, bọn đồn Hòn Đất đã trói quặt tay một chị
cán bộ vào thân cây rồi dùng đinh đóng suốt qua hai bàn tay chị. [64: 28]
164. Quyên với chiếc gáo có cán đặt trên miệng khạp múc nước đổ vào cái vịm sành da lươn
cạnh đấy, rồi nhấc con cá thả vô. [64: 31]
165. Ông bị đem về xử bắn tại Hòn Đất cùng năm người khác. [64: 39]
166. Nhưng nụ cười ấy tắt ngay trên môi anh. [64: 41]
167. Ngạn uống nước trà trên ván với anh Tám chợt nghe ngoài đường có ai đó nói chuyện
giống như tiếng anh Hai Thép. [64: 42]
168. Cũng trên bộ ván đó, bây giờ mọi người ngồi quây lại. [64: 46]
169. Tôi sẽ ở lại ngoài xóm giúp chỉ đạo bà con đấu tranh chánh trị. [64: 47]
170. Anh Tám cứ ở tại nhà tôi. [64: 47]
171. Bụi bốc mù mịt trên con đường phố nhỏ độc nhất của quận lị. [64: 50]
172. Trên khoảnh đất trống bị dọn sạch quanh chi khu, bọn lính chạy tới chạy lui. [64: 52]
173. Nơi đùi thằng Xăm đeo sề sệ khẩu súng ngắn côn 12, bao da súng màu hung hung gần
giống như màu da mặt của hắn. [64: 50]
174. Bọn còn lại là bọn bảo an và biệt kích thì được lện đóng ở ngoài, trên những khoảnh
ruộng đất trống. [64: 51]
175. Và trên bộ ngực nở nang của hắn lủng lẳng một sợi dây chuyền buộc cái mặt chằn bằng
ngà có nanh vàng chìa ra coi rất dễ sợ. [64: 52]
176. Điếu thuốc trên môi hắn đã cháy muốn hết mà chừng như hắn không hay. [64: 52]
177. Trên tấm vải bạt có trải giấy báo, đặt nửa con gà quay, hai ổ bánh mì lớn và một hộp cá
mòi đã mở nắp. [64: 53]
178. Những chiếc răng vàng trong mồm hắn lóa sáng, nhồm nhoàm. [64: 53]
179. Hắn đưa tay quệt mỡ gà dính ở hai bên mép. [64: 53]
180. Nhưng mặt trời thì vẫn còn đỏ sẫm dưới ven đồng xa. [64: 53]
181. Đằng trước là một sanh vừa gan, vừa phổi vừa tiết để trên rổ lòng. [84: 13]
182. Nơi này một đống, nơi kia một đống. [64: 54]
183. Nó chịu cực khổ ngoài biển đã quen rồi. [64: 54]
184. Ngoài đình, mõ đập chan chát, trống cái đánh thùng thùng, tù và thổi như ếch kêu. [84:
22]
185. Ngọn nến trắng cặm trên phiến đá đang cháy lẹm, run rẩy. [64: 154]
186. Có lẽ bên ngoài đã tang tảng, thế nhưng trong hang bóng tối vẫn còn tràn ngập. [64:
154]
187. Tuy vậy tôi đã có thể ngồi lái một cách khá vững vàng trên những chặng đường địch
đánh phá. [63: 135]
188. Có cô suốt đời sống giữa rừng bom đạn, chỉ diện quần áo trắng. [63: 135]
189. Chị Sứ chợt tỉnh dậy trên phiến đá nghe chân mình lành lạnh.[64: 155]
190. Bảy tám năm nay tình yêu của Sứ là ở đấy, ở nơi đứa con gái bé bỏng, ngoan xinh, nửa
của chị, nửa của chồng chị hiện còn ngoài Bắc. [64: 155]
191. Ngoài đường có tiếng chó sủa xô xát. [84: 25]
192. Cạnh cô đặt một cây đèn dầu có chân, chảy tỏa ra ánh sáng vàng vọt. [64: 61]
193. Rồi ngồi đó, bà ngó bóng mình in trên vách. [64: 62]
194. Lần ấy, bà Cà Xợi thét lên một tiếng rồi cũng ngã lăn bất tỉnh ở giữa đường.[64: 65]
195. Ngoài đường bấy giờ chợt có tiếng chó sủa gâu gâu.[64: 68]
196. Bên trong có tiếng nói chuyện rầm rì. [64: 71]
197. Tiếng nói chuyện bên trong im bặt.[64: 71]
198. Bên trong là gian buồng rộng, có kê một bộ ván ngựa. [64: 72]
199. Trên khay có bộ ấm chén sứ vẽ hình con rồng mày đỏ và một gói thuốc thơm hiệu rubi.
[64: 73]
200. Bọn vịt càng kêu và chạy tán loạn dưới sàn. [64: 74]
201. Tôi tính một người mình ngồi tại miệng hang thủ một cây búa, tụi nó cũng khó vô.[64:
81]
202. Ngạn ngắm kỹ một tên to cao nhất ở giữa đám giặc, bóp cò ngay. [64: 87]
203. Bấy giờ trên ruộng, bọn giặc tiến vào dễ dàng hơn, vì chỗ nào không có chông đều lộ
ra cả. [64: 90]
204. Lát sau, đằng cụm vườn có bóng người liên tiếp chạy vọt ra. [64: 92]
205. Ống tay áo bên trái của thằng bé lòng thong, rách bươm. [64: 92]
206. Tại đây có ba ngách tối om, chạy sâu hút vào trong. [64: 96]
207. Nó vui vẻ, lăng xăng trong vòng tay Ngạn. [64: 99]
208. Hình như được ở trong hang nó thấy thú vị lắm. [64: 98]
209. Còn vết thương nơi bắp chân Thẩm coi vậy chớ không sao….[64: 99]
210. Một tổ ở ngoài miệng hang, hai tổ thủ ở trong. [64: 103]
211. Trong hang có rất ít nước. [64: 99]
212. Anh đếm được sáu thằng giặc nằm sải dọc ngoài cửa hang. [64: 112]
213. Màu tím nhạt trên bầu trời đã chuyển sang màu hồng sen, phơn phớt. [64: 197]
214. Trên bờ suối, bây giờ chỉ còn lại năm bảy tên lính vừa nấu cơm vừa coi chừng chị. [64:
197]
215. Chính tại rẻo đất này, mẹ chị đã hát ru chị ngủ, và đến lúc làm mẹ, chị lại hát ru con
những câu hát ngày xưa. [64: 197]
216. Bên kia suối, tên Mỹ to lớn đang giãy giụa. [64: 200]
217. Nụ cười gian giảo vụt tắt trên khuôn mặt thằng thiếu tá. [64: 205]
218. Trong hang, anh em vẫn ghìm súng đứng đợi. [64: 207]
219. Đằng sau mẹ có tiếng ồn ào của đông đảo bà con và tên lính cứ đi day lui, tay ghìm
khẩu cạc bin. [64: 218]
220. Trong hang, Quyên đã khóc. [64: 224]
221. Bên ngoài chợt có tiếng gì lanh lảnh, ồm ồm. [64: 225]
222. Toán lính tuần đêm đầu tiên bắt gặp đám người đó giữa một khu vườn vú sữa. [64: 253]
223. Tại đây, chị đã khóc, đã cười, đã chơi đánh búng và chuyền đũa. [64: 253]
224. Ở hai bên mép miệng hang, xi măng để đùn đống, vương vãi. [64: 387]
225. Người bên ngoài hỏi dồn người trong hang. [64: 261]
226. Trên mấy cây bàng, một đàn chim sâu, con ngửa cổ uống nước, con đập cánh rũ lông,
kêu hót vang tai. [81: 183]
227. Dưới sân, đám công chúng Pháp Nam ngây thơ, vô lo vô lự vẫn vỗ tay rầm rộ để ủng
hộ Xuân. [81: 168]
228. Trong rừng, anh Quyết dạy Tnú và Mai học chữ. [74: 43]
229. Ngoài phố, đèn đã sáng. [81: 188]
230. Mảnh trăng đã khuất hẳn xuống khu rừng ở sau lưng. [78: 240]
231. Anh nấp ở gốc cây cạnh máng nước đầu làng. [74: 45]
232. Ở chỗ hai con mắt anh bây giờ là hai cục lửa lớn. [74: 45]
233. Lửa đã tắt trên mười đầu ngón tay Tnú. [74: 48]
234. Nhựa ứa ra ở những vết thương đang đọng lại, lóng lánh nắng hè. [74: 48]
235. Những sợi khói nhạt phơ phất bay ra ở miệng lò. [71: 184]
236. Trường tiếp Tiến trên bộ ghế cạnh bàn ngoài. [76: 279]
237. Đèn điện trong thành phố đã bật. [76: 275]
238. Trường thấy trong đôi mắt mở to có một ý oán trách. [76: 275]
239. Tiếng mai bỗng ú ớ trong màn. [76: 341]
240. Anh hình như đã đi bộ nhiều ở ngoài đường, nên quần áo và giầy đầy những bụi. [76:
72]
241. Mảnh trăng khuyết đứng yên ở cuối trời sáng trưng như mảnh bạc. [78: 239]
242. Trong gói giấy, đồ ăn đã hết, chỉ còn những cái vụn nhỏ dính trên mặt giấy bóng mỡ.
[76: 115]
243. Tâm đặt gánh ở trên thềm. [77: 87]
244. Phía sau, có một người ngồi nhờ lên cầu đá xanh đấy. [78: 232]
245. Cây đa cỗi và cái quán gạch vẫn đứng đợi nàng ở đầu làng. [77: 95]
246. Trong làng chẳng có gì thay đổi. [77: 95]
247. Dưới mớ tóc tả tơi, mắt Bính sưng vù, nổ đom đóm, giàn dụa nước mắt. [70: 38]
248. Bính co ro ngồi ở góc tường chờ viên cẩm đòi hỏi. [70: 38]
249. Hắn thức dậy trên cái giường nhà hắn. [61: 338]
250. Cô gái cố ý ngồi sát mé cửa, chiếc làn cói ôm gọn trong lòng, giữa hai chúng tôi để một
quãng cách rộng. [63: 35]
251. Quá nửa đêm, chúng tôi đến gần cầu đá xanh thì trăng lặn. [63: 39]
252. Ngoài vườn, những cành lá hoàng lan , khế, sấu, bưởi, me, reo như nổi sóng. [78: 192]
253. Khung cửa xe phía cô gái ngồi lồng đầy bóng trăng. [78: 239]
254. Mảnh trăng đã khuất hẳn xuống khu rừng ở sau lưng. [78: 240]
255. Ngoài vách kia, tiếng nhạc sinh tiền cúng ma đương rập rờn nhảy múa. [74: 90]
256. Mỗi ngày Mị càng không nói lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa. [74: 91]
257. Tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá! [75: 149]
258. Dưới chân cầu là bến nước, nơi lớn lên một chút chiều chiều Hường thường ra đó giặt
đồ. [88: 24]
259. Còn ở chỗ cây cầu bê tông bắc qua con rạch kia ngày xưa là cây cầu khỉ có cái tay
gượng bằng cây tầm vông. [88: 24]
260. Bên kia sông chỗ có cây gừa nằm ngã gọn de ra mặt nước là nơi Thà đã neo xuồng một
mình uống “quắc cần câu” bữa đám cưới của Phúc với Hường. [88: 24]
PHỤ LỤC 5: VAI NGHĨA NGUỒN
1. Ngoài đầu ngõ có tiếng người húng hắng ho, một bà lão từ ngoài rặng tre lọng khọng đi
vào. [74: 27]
2. Còn Huyến, nghe hai chữ “trí thức” ở miệng nhà sư nữ cụt tay thốt ra, anh chạnh lòng.
[70: 179]
3. Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt. [74: 25]
4. Cháu vẫn mượn sách của các bạn tự học tiếp chương trình cấp 3. [72: 36]
5. Cả bọn lật đật tiến từ xóm giữa vào đình. [84: 11]
6. Tôi mải nói chuyện với chú cháu từ thành phố sang chơi nên chả nghe thấy gì. [72: 34]
7. Tiền mua rượu là tiền của con cái chứ ông làm gì còn tiền. [72: 34]
8. Lững thững ở ngoài tiến vào, nó đặt quang gánh xuống sân đình, và mời ông Lý ra xem.
[84: 13]
9. Nghĩa cho tôi mượn xe hơi của công ty hai buổi tối để đi xem đèn của Hà Nội. [72: 294]
10. Cái nhà này là của quân đội cấp cho vợ chồng ông, đứng tên ông, ông không được quyền
bán nhưng ông và con cháu có quyền ở lại đây mãi mãi. [72: 41]
11. Chuyến tàu điện vét rời khỏi thành phố, tiếng chuông kêu leng keng. [87: 247]
12. Quyên lôi từ trong hốc vách đá ra một cái ba lô nhỏ như cái túi dết may bằng tơ càng
nhuộm màu già. [64 : 358]
13. Nóc bếp láng giềng, ngọn khói bốc lên nghi ngút. [84: 19]
14. Mỗi tiếng “này thách” từ miệng ông cai đã đưa ra, chị Dậu lại được hai ba quả thụi vào
ngực. [84: 28]
15. Có một giám đốc xí nghiệp nhà nước từ Hà Nội vào Sài Gòn công tác nghe nói ông Thái
là người sành điệu về lan liền lại chơi nhờ ông kiếm giùm vài giò lan Dã Hạc của Hawaii.
[72: 62]
16. Ở ngoài thành mới vô thì đứa nào cũng vậy. [64: 26]
17. Hai người mới bước vào thì một con chó phèn to từ trong chạy xổ ra kêu ử ử, cúi liếm
chân hai người và vẫy đuôi rối rít. [64: 27]
18. Hơi nước dưới đồng bốc lên nóng như bơi trong chõ xôi. [84: 31]
19. Trâu bò lũ lượt lôi thợ cày từ ngoài đồng về. [84: 32]
20. Thập thò ngoài cổng, chị nâng vạt áo nâu mốc lau những giọt mồ hôi nhễ nhại trên những
đôi lông mày và mở to đôi mắt quáng nắng nhòm vào trong cổng. [84: 19]
21. Bây giờ tôi hát tạm được như những giọng ca sản xuất từ đất Huế. [87: 323]
22. Từ đằng xa, dì Bình gánh chè thong thả đi tới phía nó. [87: 222]
23. Những phi công vội vã rời cửa hầm. [87: 258]
24. Từ trong nhà, ông quờ quạng chạy ra. [64: 29]
25. Em bé từ lưng trâu ngã lăn xuống. [64: 34]
26. Anh Tám và anh Hai Thép ngồi trong một nhà bên này sông theo dõi cuộc đấu tranh. [64:
34]
27. Đó là thím Cà Xợi, mẹ ruột của thằng Xăm. [64: 35]
28. Tấm hình của cô chụp gởi chú Ba mà cô vừa nói đó thiệt quý. [64: 41]
29. Những câu nói vừa buột ra khỏi miệng, tôi biết là đã rơi tuột đi ngay. [87: 249]
30. Con gà mái ấp cục tác từ trên cửa chuồng nhảy xuống, ưỡn đít bón một bãi phân cho
chậu lan. [84: 32]
31. Năm bé Sương hai tuổi đột nhiên anh nhận được một bức thư từ nước ngoài gửi về. [60:
238]
32. Năm thứ hai đại học, chị rời khỏi trường. [85: 19]
33. Bọn lính từ trên xe nhảy xuống, lũ lượt kéo đi trong vầng bụi. [64: 50]
34. Một mụ thợ cấy ở dưới nhà bếp lật đật vác gậy chạy lên. [84: 33]
35. Ông giáo kéo đôi giày vá từ đầu nhà thờ đi sang. [81: 19]
36. Họ đứng cả trong ngưỡng cửa nhìn ra bàn tán. [74: 25]
37. Một hồi hiệu ốc rúc từ ngoài đình rúc vào. [84: 106]
38. Rồi chiếc ô tô thong thả từ trước công đường chạy ra sau mấy tiếng còi rất lễ phép. [84:
128]
39. Bọn chủ lực từ Sài Gòn xuống còn đưa mắt nhìn xem hai bên phố, chớ bọn biệt kích thì
mặt gầm gầm, lạnh lùng, súng tôm xông và cạc bin của chúng mang đều chúi mũi xuống
đất. [64: 50]
40. Từ đám lính ấy toát ra mùi chua loét của mồ hôi, mùi thuốc lá Bát Tô xanh, mùi rượu
trắng và cả mùi sáp bôi tóc loại rẻ tiền. [64: 52]
41. Trung đội trưởng Hải cũng nhận được một bức thư từ nước ngoài gửi về. [60: 65]
42. Hai cô rời hốc đá đi đến bên xác Đạt. [64: 359]
43. Ra khỏi Hà Nội thì trời mưa tầm tã. [60: 95]
44. Quyên lôi từ trong hốc vách đá ra một cái ba lô nhỏ như cái túi dết may bằng tơ càng
nhuộm màu già. [64: 358]
45. Lệnh cấm là lệnh của Bộ chỉ huy hành quân, nhưng các tên chỉ huy đơn vị không cấm
lính của chúng. [64: 54]
46. Buổi sáng Thư mượn chiếc xe đạp của thím Trực chạy xuống các thôn bên cạnh lấy tin
tức. [87: 551]
47. Máu từ các vết thương của chúng nhểu giọt xuống suối đỏ loang. [64: 201]
48. Gió từ mặt sông thổi lên liu riu lạnh thon thót. [84: 62]
49. Từ bến xe, anh còn phải cuốc bộ gần 5 cây số nữa mới tới nhà. [60: 140]
50. Ông cũng chui ra khỏi xe cho đỡ nóng. [60: 122]
51. Câu chuyện ở bến xe lúc nãy chắc làm cho Hùng phải suy nghĩ nhiều. [60: 122]
52. Bọn biệt kích của thằng Xăm thằng nào cũng chạy giỏi như ngựa. [64: 58]
53. Một toán vác xoong chảo vừa lấy của đồng bào kéo đi lểnh nghểnh. [64: 94]
54. Liên rất thích hai cuốn sách của tôi tặng. [60: 66]
55. Em có đem về cho mấy anh năm xâu tôm lụi của ngoại em gửi. [64: 105]
56. Con bé từ chỗ anh Thẩm mon men đi ra. [64: 110]
57. Căn bệnh này anh mang từ chiến trường Campuchia về và nó đã tái phát cướp đi cuộc
sống của anh. [60: 246]
58. Bọn lính từ trong các lều vải kéo ra, đứng đầy bên bờ suối. [64: 112]
59. Chính tại rẻo đất này, mẹ chị đã hát ru chị ngủ, và đến lúc làm mẹ, chị lại hát ru con
những câu hát ngày xưa. [64: 197]
60. Giữa lúc chị còn mải mê âu yếm với đứa con trong trí tưởng tượng thì mấy tên lính chạy
từ trong hang Hòn về đến suối, lội gấp qua, chạy thẳng đến trước chị. [64: 196]
61. Từ bãi ấy, xông lên một mùi nồng nồng rất khó chịu. [64: 207]
62. Từng trận gió từ cánh đồng thổi vào, ngăn ngắt. [74: 24]
63. Núp ở nhà rông vừa về, tay cầm cái ná, lưng đeo bó tên. [79: 28]
64. Ở tòa báo ra, Hộ đi thẳng tới một hiệu thịt quay. [61: 335]
65. Điền nhớ đến câu thơ của một thi sĩ Tây phương ví khoảng trời sao như một cánh đồng.
[61: 261]
66. Mấy hôm sau, cụ Lý bảo Lý Cường cho hắn năm sào vườn ở bãi sông cắm thuế của một
người làng hôm nọ. [61: 48]
67. Thú thật lần này cầm lá thư của chị Tính, tôi rất sung sướng và cảm động. [63: 33]
68. Từ tấm áo, Quyên nghe rõ mùi mồ hôi âm ấm. [64: 224]
69. Người vú già nghe tiếng động từ ngoài sân gác đi vào. [76: 295]
70. Liên đưa ra một đôi khuyên vàng cô mới gửi đánh ở trên tỉnh. [77: 94]
71. Một đứa bé quần áo cũng chải chuốt ở trong nhà chạy ra. [77: 35]
72. Bọn Pháp trong nhà chạy ra đếm không hết. [79: 30]
73. Tin ở phía bắc Tây Nguyên bộ đội Bok Hồ đánh được đồn Koom-pơ-lông rồi, bắt Pháp
rất nhiều, lấy nhiều súng lớn súng nhỏ. [79: 96]
74. Tin ở dưới Kinh có bốn tỉnh Pháp không chiếm được, người Kinh dưới đó làm rìu rựa,
muối lúa nhiều gởi đi tất cả các nơi cho bộ đội đánh Pháp. [79: 96]
75. Người phụ nữ đứng trong nhà nói với ra. [61: 426]
76. Nó đã lấy tiền của người ta. [61: 8]
77. Những kẻ đã vác cái đòn càn đi ăn cơm của người tứ xứ giở mặt nào cũng được, không
chịu kém cạnh ai nước gì. [61: 417]
78. Đôi mắt soi mói của hắn không thèm soi mói đến cái mũi, cái mồm hay cái áo the có mùi
chua của các ông. [61: 235]
79. Vết những mảnh chai của những của bao nhiêu lần ăn vạ kêu làng, bao nhiêu lần hắn
nhớ làm sao nổi? [61: 49]
80. Và ngửi mồ hôi với mùi phân lợn của những toa tầu hạng tư….[61: 257]
81. Những tiếng khóc của những đứa lóc nhóc theo đứa lớn đi chơi ran lên như ri. [70: 242]
82. Cái roi mây của tên phu điếm lại quất tới tấp lên đám trẻ con. [70: 242]
83. Hột muối của Bok Hồ gửi cho những con người Kông-hoa đánh giặc giỏi ở núi rừng Tây
nguyên, thấm vào bụng, vào lòng, chạy vào trong máu, trong thịt. [79: 139-140]
84. Đồ của các chị ấy mừng đấy. [69: 323]
85. Ấy là người đưa thư của hàng tổng. [69: 308]
86. Ngay đó tiếng rền rĩ của mẹ Kỳ Phát lại vẳng đến. [69: 252]
87. Cái roi mây của tên phu điếm lại quất tới tấp lên đám trẻ con. [70: 242]
88. Ấy là những đoạn tình của bác phu trạm làng Nha. [69: 310]
89. Mảnh tình nhỏ bé của anh Thìn bay nhẹ lên bầu trời. [69: 308]
90. Nỗi căm uất, sự hả dạ và niềm vui sướng của ông Tư mù cho đến bây giờ cũng vẫn
không thay đổi. [64: 30]
91. Sự thật là dân ta đã lấy lại Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp. [78: 59]
92. Anh ấy cười, mắng tôi là đồ trẻ con rồi đuổi tôi đi, bắt buộc tôi phải rời ngay khỏi trung
đoàn ấy. [63: 95]
93. Từ sau rặng núi đá dựng đứng bên trái, bọn chúng ập đến như tiếng sét. [63: 42]
94. Từ dưới đường phố nhìn lên cao, bầu trời Hà Nội cũng chia thành từng đường phố, từng
cửa ô và lấp lánh như lồng kính. [63: 23]
95. Tôi ngồi đợi chị Quỳ từ trên gác xuống. [63: 92]
96. Trông thấy thằng Dũng rời tàu bước lên xe, thế là lão Khúng cứ quýnh cả lên. [63: 188]
97. Tuy vậy, từ trong sâu thẳm của nỗi niềm tâm sự về đường con cái, lão Khúng vẫn có nỗi
dằn vặt. [63: 186]