Chuc Nang Cu Phap Cua Mot So Vai Nghia Trong Cau

You might also like

Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 126

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Thị Đức

CHỨC NĂNG CÚ PHÁP


CỦA MỘT SỐ VAI NGHĨA
TRONG CÂU TIẾNG VIỆT

Chuyên ngành : Ngôn ngữ học


Mã số : 60 22 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:


PGS.TS. DƯ NGỌC NGÂN

Thành phố Hồ Chí Minh - 2010


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài và mục đích nghiên cứu
Câu là đơn vị ngôn ngữ được ngôn ngữ học nói chung, ngữ pháp học nói riêng quan
tâm nghiên cứu từ rất sớm. Ngữ pháp cổ điển cũng như một số khuynh hướng ngôn ngữ học
hiện đại như cấu trúc luận, ngữ pháp tạo sinh coi câu là đơn vị cấu trúc lớn nhất trong tổ
chức ngữ pháp của một ngôn ngữ. Theo đó, việc nghiên cứu ngữ pháp thường chú trọng về
đặc trưng cấu trúc của câu. Nói cách khác, câu chủ yếu được xem xét trên bình diện ngữ
pháp với các vấn đề như: các thành phần ngữ pháp của câu, các kiểu cấu tạo ngữ pháp của
câu và các quan hệ ngữ pháp trong câu. Kết quả nhiều vấn đề về câu chưa được giải quyết
đặc biệt là các vấn đề có liên quan đến nghĩa và hoạt động hành chức của câu.
Xuất phát từ chức năng giao tiếp và một phần lí thuyết dụng học về sự tương tác ngôn
từ (phần liên quan đến ngữ pháp), ngữ pháp chức năng không chỉ chú ý đến mặt hình thức
mà còn chú ý đến mặt nghĩa và mặt chức năng của ngôn ngữ. Với ngữ pháp chức năng, các
hiện tượng ngôn ngữ đã được các nhà ngôn ngữ học xem xét trên cả ba bình diện: ngữ pháp-
ngữ nghĩa- ngữ dụng, đặc biệt là mặt ngữ nghĩa.
Từ khuynh hướng nghiên cứu này, câu không chỉ được coi là đơn vị cấu trúc mà còn
là đơn vị của ngôn ngữ được con người trực tiếp sử dụng làm phương tiện giao tiếp. Nói
cách khác, câu không phải là thứ câu trừu tượng mà gắn với tình huống ngữ cảnh cụ thể, đó
là câu- phát ngôn. Ở đây, câu được xem xét đồng thời trên cả ba bình diện: kết học, nghĩa
học- dụng học. Bình diện kết học chủ yếu xem xét cấu trúc cú pháp của câu với nhiệm vụ
trung tâm là xác định các chức năng cú pháp trong câu. Bình diện kết học được xem xét
trong mối quan hệ chặt chẽ với bình diện nghĩa học của câu. Ngữ pháp chức năng đã cho
thấy rõ mối quan hệ giữa cấu trúc cú pháp với cấu trúc nghĩa (nghĩa miêu tả) của câu. Đó là
mối quan hệ giữa một bên là nội dung (cấu trúc nghĩa) và một bên là hình thức (cấu trúc cú
pháp) của câu. Các chức năng cú pháp của câu thực chất là do các vai nghĩa chi phối khi
chúng được hiện thực hóa trong câu.
Gần đây, giới Việt ngữ học đã có một số công trình nghiên cứu về vấn đề vai nghĩa
trong mối quan hệ với chức năng cú pháp của các thành phần câu và kết quả đạt được tương
đối khả quan. Một số công trình nghiên cứu bước đầu đã khảo sát và lý giải về mối quan hệ
giữa vai nghĩa và chức năng cú pháp. Tuy nhiên, phạm vi nghiên cứu cũng mới chỉ dừng lại
ở một số vai nghĩa và chức năng cú pháp tương ứng trong câu. Tiếp thu những thành tựu đó,
chúng tôi muốn đi sâu vào tìm hiểu mối quan hệ của vai nghĩa với chức năng cú pháp trong
câu. Đó là lý do chúng tôi chọn đề tài “Chức năng cú pháp của một số vai nghĩa trong câu
tiếng Việt” làm đề tài nghiên cứu.
Việc nghiên cứu đề tài này có các ý nghĩa sau đây:
- Về mặt lý luận: Tiếp thu những thành tựu nghiên cứu về ngữ nghĩa học cú pháp, đặc
biệt là cấu trúc nghĩa của câu, tìm hiểu khái niệm vai nghĩa (tham tố của vị từ), chọn một số
vai nghĩa phổ biến trong cấu trúc nghĩa của câu, miêu tả những chức năng cú pháp ứng với
các vai nghĩa này.
- Về mặt thực tiễn: Kết quả của luận văn có thể có giá trị tham khảo về cấu trúc nghĩa,
cấu trúc cú pháp của câu tiếng Việt. Luận văn có thể góp thêm ngữ liệu cho việc nghiên cứu,
học tập về ngữ pháp tiếng Việt.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1. Việc nghiên cứu các vai nghĩa
Việc nghiên cứu về vai nghĩa có thể nói là được bắt đầu khá sớm. Đầu tiên, chúng ta
phải kể đến lý thuyết diễn trị của nhà ngôn ngữ học người Pháp L.Tesnière. L.Tesnière được
biết đến với tác phẩm chính là Elements de syntaxe structurale được xuất bản vào năm 1959.
Trong tác phẩm này, ông đã đưa ra khái niệm diễn trị (valence) và các khái niệm có liên
quan khác trong đó có diễn tố (actants) và chu tố (circumstants) vào nghĩa học của cú pháp.
“Cú pháp dựa trên nghĩa học”(semantically based syntax) của L.Tesnière đã khiến ông trở
thành một trong những người sáng lập ra lý thuyết diễn trị (valency theory) – cách phân tích
câu dựa trên cấu trúc nghĩa của các vai (role) [Dẫn theo 44: 4]. Theo ông, “Cấu trúc cú pháp
của câu xoay quanh vị từ và các diễn tố (actants) làm bổ ngữ cho nó. Chủ ngữ chẳng qua là
một trong các bổ ngữ đó. Mỗi vị từ biểu hiện “một màn kịch nhỏ”, nó có một diễn trị
(valence) riêng được thể hiện trong số lượng các diễn tố của nó [Dẫn theo 23: 81]. Các vị từ
khác nhau cơ bản về số lượng các diễn tố trong vị ngữ. Điều này có nghĩa là dựa trên tiềm
lực cú pháp- ngữ nghĩa của vị từ để phân loại chúng thành:
- Vị từ vô trị (avalents) không có diễn tố nào trong câu và vì vậy mà (ngữ đoạn) vị từ
là phương tiện từ vựng- cú pháp duy nhất biểu hiện sự tình. Ví dụ như vị từ pleut, il pleut
‘mưa’ không có diễn tố nào.
- Vị từ đơn trị (monovalents) có một diễn tố, ví dụ như: tomber ‘ngã’.
- Vị từ song trị (bivalents) có hai diễn tố, ví dụ như: frapper ‘đánh’.
- Vị từ tam trị (trivalents) như donner ‘cho’
L.Tesnière đã phân biệt diễn tố và chu tố- cái vẽ nên bối cảnh (setting)- và các chi tiết
phụ họa (incidental details) của các sự tình mà vị từ miêu tả; vì vậy mà toàn bộ một câu vẽ
nên một màn kịch nhỏ (mini drama) và diễn đạt trực tiếp một sự tình trọn vẹn. Công trình
này của L.Tesnière là theo quan điểm cú pháp dựa trên nghĩa học và về nguyên tắc diễn tố do
vị từ quy định còn chu tố là yếu tố phụ mang tính tiềm năng có trong bất kỳ câu nào, bất
chấp vị từ với kiểu diễn trị gì đang thực sự chiếm giữ vị trí trung tâm của vị ngữ trong câu.
Chính vì dựa trên nguyên tắc như vậy mà L.Tesnière đã đơn giản hóa vấn đề: ông khẳng
định mã hóa diễn tố- cái yếu tố bắt buộc phải đi kèm theo vị từ trong vị ngữ của câu- là danh
ngữ, còn trạng ngữ mã hóa chu tố- cái yếu tố không bắt buộc phải hiển lộ trong câu. Đây
chính là hạn chế của L.Tesnière. Nhưng đóng góp của L.Tesnière và những người kế tục ông
là đã đưa lý thuyết diễn trị mà ông tìm ra những tiềm năng cú pháp ngữ nghĩa khác nhau của
cùng một vị từ. Ngữ pháp truyền thống trước đó cũng đã nhận ra tiềm năng cú pháp của vị từ
nhưng lại chỉ phân chia chúng chủ yếu thành ra vị từ ngoại động và vị từ nội động.
Vấn đề vai nghĩa còn được làm rõ bởi C.J. Fillmore, khoảng trước sau 1970, C.J.
Fillmore viết một loạt bài trong đó nổi tiếng nhất là bài mang tên “The case for case” (Tác
dụng của cách) được công bố năm 1968. Trong bài viết của mình, Fillmore chủ trương rằng
có thể xác định một tập hợp các mối quan hệ giữa một vị từ và các tham tố (arguments) của
nó. Fillmore làm rõ thuật ngữ cách như sau: “ Đó là những quan hệ ngữ nghĩa- cú pháp
ngầm, được giả định tạo nên một tập hợp hoàn chỉnh, tồn tại ngầm đối với những ngôn ngữ
có vĩ tố, và dạng thức cách của các mối quan hệ cách vẫn là sự biểu đạt trong ngôn ngữ có
thể thực hiện được nhờ những phụ tố, hoặc nhờ các giới từ, hoặc với các cách khác” [Dẫn
theo 30: 27]. Các mối quan hệ mà Fillmore gọi là quan hệ cách (case relationships) này theo
ông có tính chất phổ quát và có số lượng hữu hạn. Fillmore đã giới thiệu 6 cách sau:
- Agentive (Tác cách), chỉ vai chủ thể của hành động do động từ biểu thị.
- Instrumental (Công cụ cách), chỉ vai công cụ của hành động do động từ biểu thị.
- Dative (Tặng cách), chỉ vai động vật chịu ảnh hưởng của trạng thái hay hành động do
động từ biểu thị.
- Factitive (Hành cách), chỉ vai của vật sinh ra do kết quả của trạng thái hay hành động
do từ biểu thị.
- Locative (Vị trí), chỉ vị trí của trạng thái hay hành động do vị từ biểu thị.
- Objectice (Đối tượng), là cách trung hòa nhất về nghĩa, chỉ bất kỳ vật gì được biểu
thị bằng một danh từ mà vai trò trong hành động hay trạng thái được động từ biểu thị được
chính cách thuyết minh nghĩa của động từ quy định.[Dẫn theo 30: 28]
Trong các công trình tiếp theo, Fillmore [1971 và 1977] dần bổ sung thêm một số cách
“cách”, tức là các “vai nghĩa”, khác:
- Counter- Agent (Lực tác động) là sức mạnh hay sức đối kháng qua đó hành động mà
vị từ biểu thị được tiến hành.
- Source (Nguồn) là điểm xuất phát của hành động hay chuyển động.
- Experiencer (Kẻ thể nghiệm hay Nghiệm thể) tương đương với Cảm thể (Senser) của
M. A. K. Halliday [1994: 117-119] [Dẫn theo 44: 6-7]
- Undergoer (Người/Vật trải qua sự biến) tương đương với Processed (Động thể) của
một số tác giả sau Fillmore.
Trong suốt thập kỉ 70 và thập kỉ 80 của thế kỷ trước, nhiều công trình nghiên cứu ngữ
pháp cách (case grammar) khác được biết đến ở một chừng mực nào đó chúng độc lập với
nhau và độc lập với công trình được coi là đi tiên phong của Fillmore. Trong số những công
trình này phải kể đến W. Chafe [1970], J.M. Anderson [1971], J.T. Platt [1971], R. E.
Longacre [1976], M. Clark [1978], W. A. Cook [1978], S.C. Dik [1978], T. Givón [1984] và
S. Starosta [1988]. Sau đây xin được điểm qua một số bộ vai nghĩa nằm trong các công trình
của giai đoạn này:
Đầu tiên là tác giả R. E. Longacre [1976] đưa ra bộ vai nghĩa gồm Experiencer
(Nghiệm thể), Patient (Đối thể), Agent (Tác thể), Range (Cương vực), Measure (Biện pháp),
Instrument (Công cụ), Locative (Định vị), Source (Nguồn), Goal (Mục tiêu), Path (Lối đi).
Công trình nghiên cứu của W. A. Cook [1978] nêu ít vai hơn trong bộ nghĩa của mình,
gồm: Agent (Tác thể), Experiencer (Nghiệm thể), Benefactive (Lợi thể), Object (Đối thể),
Locative (Định vị).
S. Starosta [1988] cũng trình bày một bộ vai nghĩa khác gồm Patient (Đối thể)-một tên
gọi khác của Object hay theme, Agent (Tác thể), Locus (Địa điểm), Correspondent (Tiếp
thể)- một tên gọi khác của Dative hay Experiencer, và means (Phương tiện).
T. Givón [1984: 126-133] trình bày hai loại vai nghĩa trong các câu- các vai nghĩa
chính (major semantic case- roles) và các vai nghĩa tùy chọn (optional case- roles)- và
khẳng định “…các vai nghĩa chính bắt buộc xuất hiện trong một số kiểu câu. Nghĩa là sự
hiện diện của chúng là quan yếu xét về mặt cú pháp hoặc ngữ nghĩa để giải thích nghĩa cốt
lõi của vị từ.”
Dưới đây là bảng tóm tắt những vai nghĩa chính được trình bày trong công trình của
T.Givón:
- Agent (Tác thể) chỉ người/ vật chủ ý bắt đầu một sự tình.
- Dative (Tiếp thể) chỉ tham thể có nhận thức tiếp nhận một sự việc/trạng thái.
- Patient (Đối thể) chỉ trạng thái hoặc sự thay đổi của trạng thái vô ý thức.
- Locative (Định vị thể) chỉ một điểm cụ thể so với một vị trí hay sự thay đổi vị trí của
một tham tố khác trong câu
Các vai nghĩa tùy chọn của Givón gồm có:
- Benefactive (Lợi thể) chỉ tham tố có nhận thức được hưởng lợi từ hành động hay sự
việc do Tác thể khởi xướng.
- Instrument (Công cụ) chỉ công cụ được Tác thể sử dụng để thực hiện hành động hoặc
tạo ra sự tình hoặc trạng thái hiện có.
- Associative (Liên hội thể) chỉ Đồng tác thể (Co- agent) hay Đồng tiếp thể (Co-
dative) không phải là tiêu điểm chính trong câu.
- Manner (Phương thức) chỉ kiểu hiện trạng của một sự tình.
- Time (Thời gian) gồm cả Duration (Thời đoạn), Repetition (sự lặp lại) và Frequency
(Sự thường xuyên).
- Purpose (Mục đích) chỉ mục đích của hành động mà Tác thể khởi xướng.
Trong số các tác giả tiêu biểu phải kể đến S. C. Dik. Trong công trình Ngữ pháp chức
năng (Functional Grammar) [1978], tác giả đã trình bày khái niệm vị ngữ hạt nhân (nuclear
predication) và vị ngữ mở rộng (extended predication).
Theo Dik “Một kết cấu vị ngữ hạt nhân bao gồm một vị từ gắn kết với một số thích
hợp các ngữ định danh để lắp đầy các vị trí các tham tố của vị từ đó. Kết cấu vị ngữ hạt nhân
xác định một tập hợp các sự tình, trong đó thuộc tính hay quan hệ của nó được vị từ chỉ định,
có hiệu lực đối với những ngữ định danh cụ thể mà (với nó) vị từ được ứng dụng.” [14: 39]
“Căn cứ vào kết cấu vị ngữ hạt nhân xác định một tập hợp các sự tình, chúng ta có thể
tạo thành một kết cấu vị ngữ mở rộng bằng cách thêm vào một hay nhiều chu tố cho kết cấu
vị ngữ hạt nhân đó.” [14: 39]
Cũng theo S.C. Dik [1978], chức năng ngữ nghĩa của chu tố bao gồm:
- các chỉ định phụ thêm cho sự tình hạt nhân: Phương thức, Đặc trưng, Công cụ;
- các quan hệ của sự tình với các tham tố khác: Lợi thể, Liên đới thể;
- các quan hệ của sự tình trong các chiều kích thời gian: Thời gian, Thời đoạn, Tần số;
- Các quan hệ của sự tình trong các chiều kích không gian: Vị trí, Nguồn, Phương
hướng, Lối đi;
- Các quan hệ của sự tình với các sự tình khác: Chu cảnh, Nguyên nhân, Lý do, Mục
đích, Kết quả. [14: 40-41]
S.C. Dik [1978] đã có đóng góp quan trọng trong việc bổ sung hoàn chỉnh hai khái
niệm lớn trong lĩnh vực “vai nghĩa”: Tham tố bắt buộc (obligatory participants) hay diễn tố
(actants) và tham tố tùy chọn (optional participants) hay chu tố (circumstants). Đồng thời,
Dik còn chỉ ra sự chuyển đổi của chu tố thành diễn tố trong một số vị ngữ. Như vậy mối
quan hệ giữa vị ngữ mở rộng và vị ngữ hạt nhân là mềm dẻo chứ không cố định hay cứng
nhắc.
Một đại diện khác là M. A. K. Halliday đã dựa vào mục tiêu chính của ngữ pháp chức
năng là giải thích ngôn ngữ dựa trên cái mà con người hành xử với sự hỗ trợ chính của ngôn
ngữ, nghĩa là con người sử dụng ngôn ngữ như thế nào để giao tiếp trong cuộc sống đời
thường hàng ngày. Ngữ pháp chức năng hệ thống cố gắng đạt được mục tiêu này bằng cách
chấp nhận một số định hướng mang tính ngữ nghĩa và ngữ dụng cao hơn trong ngữ pháp, tức
là coi nghĩa học và dụng học như những bộ phận không thể thiếu trong hệ thống tổ chức của
ngữ pháp. Halliday xử lí vấn đề hệ thống tổ chức của ngữ pháp này bằng cách khẳng định
rằng ngữ pháp của các ngôn ngữ sẵn có trên thế giới đều được tổ chức nhằm biểu đạt trong
cùng một câu ba loại nghĩa mà ông gọi là ba “siêu chức năng (metafunctions)”
[Halliday,1994: 35]: Nghĩa ý niệm (ideational meaning), nghĩa liên nhân (interpersonal
meaning) và nghĩa văn bản (textual meaning) [Halliday, 1985: 53 và 1994: 34]. Đây là chỗ
được coi là nổi bật trong ngữ pháp chức năng của Halliday, cái mà ông gọi có tính hệ thống
(systemic) và vì vậy mà có thể được ứng dụng để miêu tả nhiều, nếu không muốn nói là tất
cả, ngôn ngữ trên thế giới. Cuốn “Dẫn luận ngữ pháp chức năng” được tái bản lần thứ hai
năm 1994 của Halliday, có thể nói, đã trình bày bộ vai nghĩa đầy đủ hơn cả so với bộ vai
nghĩa của các tác giả khác được trình bày ở trên. [Dẫn theo 44: 11]
2.2. Việc nghiên cứu các vai nghĩa (hay tham tố) trong Việt ngữ học.
Hai tác giả Trần Trọng Hải [1972] và Nguyễn Đăng Liêm [1973] đều theo quan điểm
của Fillmore và cùng trình bày “một bộ quan hệ cách” gồm Agentive (Tác thể), Objective
(Đối thể), Dative (Tiếp thể), Instrument (Công cụ), Benefactive (Lợi thể), Commitative (Liên
đới thể), Locative (Định vị), Directional (Hướng), Source (nguồn), Goal (Đích), Extent
(Phạm vi), và Time (Thời gian). [Dẫn theo 44:12]
Tác giả M. Clark [1978] đưa ra một bộ vai nghĩa tương tự: đổi một cách tương ứng
các vai Locative, Directional và Goal, của Trần Trọng Hải và của Nguyễn Đăng Liêm thành
Locative, Goal và Terminus và thêm vai Path (Lối đi). Đóng góp của Clark [1978: 19] là chỉ
rõ rằng “hình thái cách” (case form) là một đặc điểm đặc trưng hóa một tập hợp của những
kiểu đánh dấu cách (case markers), chính là những kiểu hiện thực hóa của các quan hệ cách
(case relations), và rằng “những kiểu đánh dấu cách trong tiếng Việt là trật tự từ và giới từ”.
[Dẫn theo 44: 12]
Chúng ta cũng biết vấn đề nghiên cứu vai nghĩa là vấn đề mới ở Việt Nam nên nó mới
chỉ được đề cập tới ở một số công trình nghiên cứu gần đây về ngữ pháp chức năng hoặc các
công trình ngữ pháp có vận dụng tư tưởng của ngữ pháp chức năng. Nhưng theo tác giả Cao
Xuân Hạo, năm 1983 ông Trương Vĩnh Ký xuất bản cuốn Grammaire de la langue annamite
đã có đề cập đến vấn đề ngữ pháp cách. Với mục đích giúp người phương Tây hiểu ngữ pháp
tiếng Việt, ông đã miêu tả cách biểu hiện các quan hệ ngữ pháp trong khung vị ngữ của câu
bằng những thuật ngữ của các cách tiếng Latin. Các danh từ của tiếng Việt dùng trong câu có
thể kể ở vào một trong 8 cách, đó là:
Ý nghĩa cách Phương thức diễn đạt
1. Nominatif (Danh cách) Ø- (không đánh dấu)
2. Gesnitif (Sinh cách, sở hữu cách) của / Ø
3. Datif (Tặng cách, Dữ cách) cho
4. Accusatif hay Objectif (Đối cách) Ø- (không đánh dấu)
5. Vocatif (Hô cách) ớ- bớ
6. Ablatif (Tác cách, Ly cách) khỏi- bởi
7. Instrumental (Công cụ cách) bằng
8. Locatif (Vị trí cách) nơi, trong…

Ông Trương Vĩnh Ký cho rằng “tiếng Việt không có cách hiểu theo nghĩa hẹp như
tiếng Latin. Vì cách là sự biến hình trong vĩ tố của từ tùy theo cái vai trò mà nó đảm đương
trong câu; nhưng trong tiếng Việt, cái mà sự biến hình ấy chỉ rõ lại được biểu hiện bằng
những tiểu tố tiền vị, và dĩ nhiên đó không phải là cách thực sự. Tuy nhiên sự phân chia theo
từng cách là tiện lợi và chính xác; dù danh từ cách không thích hợp và đúng đắn, song ông
vẫn dùng nó theo phép loại suy cho dễ hiểu và định nghĩa cách là những vị trí khác nhau của
một danh từ tùy theo cái cương vị làm chính hay bổ ngữ cho một từ khác”. Đối với từng
cách, ông cho biết có thể diễn đạt ý nghĩa của cách ấy bằng những phương tiện gì khác
phương tiện chủ yếu. Như khi nói về công cụ cách, bên cạnh “Cột bằng dây”, ông còn cho
“Dùng dây mà cột”, “Lấy dây mà cột”. Điều này cho thấy rằng khi dùng khái niệm cách,
ông hiểu nó như ý nghĩa ngữ pháp nhiều hơn là một hình thức ngữ pháp. Như vậy ông không
chỉ gán mô hình ngữ pháp tiếng Latin cho tiếng Việt mà còn hiểu rõ khả năng và cách thức
sử dụng khái niệm Cách cho những thứ tiếng không biến hình, điều mà gần một thế kỷ sau
các nhà ngôn ngữ học phương Tây mới nghĩ đến.
Hạn chế của ông Trương Vĩnh Ký là điều dễ hiểu vì vào thời gian đó người ta chưa
biết chú ý đến nghĩa của câu, và chưa biết rằng cách là một ý nghĩa phổ quát trong ngôn ngữ
nhân loại, mà mọi thứ tiếng trên trái đất đều phải có cách diễn đạt và phân biệt. Tuy nhiên có
thể nói ông Trương Vĩnh Ký là người đi trước các nhà ngôn ngữ học trong việc mô tả các
phương tiện diễn đạt ý nghĩa Cách trong ngôn ngữ không biến hình xuất phát từ mặt sở biểu
và được xem là người tiên phong trong việc xây dựng nền Ngữ pháp cách tiếng Việt.
Tiếp theo phải kể đến tác giả Nguyễn Đức Dân trong công trình nghiên cứu “Mô hình
ngôn ngữ” [1977] và “Ngôn ngữ học: khuynh hướng- lĩnh vực- khái niệm”[1986], tác giả đã
giới thiệu một số vấn đề về ngữ pháp cách như sau:
a. Sự nhầm lẫn của Chomsky khi đem phạm trù ngữ pháp (NP, VP) xếp lẫn với chức
năng ngữ pháp (trạng ngữ thời gian và nơi chốn).
b. Fillmore đặt vấn đề cần phải coi trọng hơn nữa những phạm trù sâu không nổi lên
bề mặt nhưng có thể phát hiện được bằng các thao tác cú pháp. Cơ sở của nó là lý thuyết về
các cách (The Case for Case).
c. Thuật ngữ “Cách” và ý nghĩa của nó trong ngôn ngữ.
d. Hệ thống cách mang tính phổ quát đối với mọi ngôn ngữ gồm có các cách:
1. Tác nhân (Agent): kẻ hành động, ví dụ : Ba làm vỡ cửa sổ.
2. Người cảm nhận (Experiencer): kẻ chịu đựng, trải qua một tình huống về tâm lý,
tình cảm, nó đối lập với tác nhân. Ví dụ: Tôi lạnh.
3. Công cụ (Instrument): công cụ, nguyên nhân trực tiếp của sự kiện.
Ví dụ: Tôi dùng dao thái khoai.
4. Đối tượng (Object): đối tượng chịu tác động.
Ví dụ: Bé Hai lớn như thổi.
5. Vị trí (Lieu): nơi xảy ra hành động. Ví dụ: Xoa đầu ai.
6. Gốc (Root): từ điểm đó, nơi đó, người đó mà định hướng đến nơi khác. Ví dụ: Cô
Ba bán hoa.
7. Đích (Goal): nơi đó người ta thực hiện hành động.
Ví dụ: Tâm mắng Ba.
8. Kết quả (Result): vật nảy sinh nhờ kết quả của hành động.
Ví dụ: Cô Ba làm bánh.
9. Thời gian (Time): thời gian xảy ra hành động,. Ví dụ: Mùa đông lạnh.
Tác giả Nguyễn Đức Dân nhận xét rằng trong công trình 1966, Fillmore còn cho có
Tặng cách (Datif), nhưng đến năm 1971, ông đã tùy từng trường hợp mà xếp cách Datif vào
cách Experiencer, cách Object hoặc cách Goal. Fillmore đã đưa ra ba nguyên lý để xác định
cách, gồm: Chỉ có một thí dụ cho mệnh đề; một động từ có thể có nhiều vai khác nhau; thực
hiện sự “phân bố bổ túc”.
e. Phân loại động từ theo cách. Từ cách làm này cho thấy sự đối lập hình thức giữa
chủ ngữ và vị ngữ không còn nữa, và do đó những bất hợp lý do chúng gây ra cũng bị mất đi.
Điều này được xem là điểm cống hiến đáng kể nhất về ngữ pháp cách và ngữ nghĩa của
Fillmore .
f. Mối quan hệ giữa cấu trúc chìm và cấu trúc bề mặt, và phương pháp chuyển từ cấu
trúc bề sâu sang cấu trúc bề mặt.
g. Khả năng ứng dụng của Ngữ pháp cách. [Dẫn theo 30: 101-102]
Ngoài các công trình nêu trên, có thể kể đến công trình Tiếng Việt- sơ thảo ngữ pháp
chức năng của Cao Xuân Hạo [1991]. Trong cuốn sách này, từ trang 81 đến trang 96, Cao
Xuân Hạo đã vẽ lại bức tranh lịch sử nghiên cứu vai nghĩa từ người khởi xướng là L.
Tesnière [1959], điểm qua những mốc quan trọng với những đóng góp đáng chú ý riêng của
một số nhà ngôn ngữ gồm C. J Fillmore [1968, 1971 và 1977], D.Ha [1970], Trần Trọng Hải
[1972], Nguyễn Đăng Liêm [1973], M. Clark [1974 và 1978], S.C. Dik [1978] và M.A.K.
Halliday [1985]. Có thể nói, tác phẩm Tiếng Việt- sơ thảo ngữ pháp chức năng của Cao
Xuân Hạo [1991] là công trình đã phác thảo những nét định hướng đầy đủ cho nhiều nghiên
cứu về sau có liên quan đến ngữ pháp chức năng trong tiếng Việt nói chung và các vai nghĩa
trong tiếng Việt nói riêng.
Tiếp theo, có thể kể tên một số công trình tiêu biểu như “Ngữ pháp chức năng tiếng
Việt- Quyển I- Câu trong tiếng Việt” của tập thể các tác giả Hoàng Xuân Tâm- Nguyễn Văn
Bằng- Bùi Tất tươm- Cao Xuân Hạo (chủ biên), “Câu chủ- vị tiếng Việt” của Lê Xuân
Thại… Trong các công trình này, các tác giả trên cơ sở học tập, kế thừa kết quả nghiên cứu
của một số nhà ngữ pháp chức năng trên thế giới như L. Tesnière, C.J. Fillmore, W. Chafe,
S.C. Dik…đã bước đầu đưa ra một danh sách các vai nghĩa trong tiếng Việt.
Gần đây, một số công trình ngữ pháp tiếng Việt như Câu chủ- vị tiếng Việt” (Lê Xuân
Thại), “Thành phần câu tiếng Việt” (Nguyễn Minh Thuyết- Nguyễn Văn Hiệp), “Ngữ pháp
chức năng (Vị từ hành động)” (Nguyễn Thị Quy), “Ngữ pháp tiếng Việt- tập 2”, “Giáo trình
ngữ pháp tiếng Việt (theo định hướng ngữ pháp chức năng)” (Diệp Quang Ban)… đã thể
hiện rõ sự vận dụng ngữ pháp chức năng vào việc nghiên cứu, lý giải các hiện tượng ngữ
pháp với cấu trúc nghĩa (cụ thể là mối quan hệ giữa các chức năng cú pháp và các vai nghĩa).
Trong “Câu chủ - vị tiếng Việt” [44], Lê Xuân Thại đã xác định được các vai nghĩa có
thể đứng vị trí chủ ngữ trong câu tiếng Việt: 1. Kẻ hoạt động, 2. Đối tượng của hoạt động, 3.
Kẻ tiếp nhận, 4. Công cụ của hoạt động, 5. Vị trí. Tác giả Lê Xuân Thại cũng cho rằng việc
các vai nghĩa trên (trừ vai kẻ hoạt động) đứng ở vị trí chủ ngữ thì “kéo theo sự thay đổi ý
nghĩa và cấu tạo của vị ngữ so với vị ngữ khi kẻ hoạt động đứng làm chủ ngữ và cũng từ đó
mà ý nghĩa của câu cũng có chỗ thay đổi”. [44: 152]
Nguyễn Thị Quy [41] do chỉ giới hạn trong phạm vi vị từ hành động tiếng Việt nên
chỉ xem xét một số tham thể như: đối tượng bị tác động, đích, nơi chốn, thời gian, người
hưởng lợi, công cụ, người hưởng lợi, công cụ, người tiếp nhận.
Tác giả Hoàng Văn Vân, với tác phẩm Ngữ pháp kinh nghiệm cú tiếng Việt mô tả theo
quan điểm chức năng hệ thống [2005], đã thuyết minh cho quan điểm mà Halliday [1985 và
1994] tự hào gọi là “hệ thống tính” trong cách phân tích ngữ pháp của các ngôn ngữ trên thế
giới dựa trên quan điểm chức năng, đặc biệt là cách phân tích câu. Theo Hoàng Văn Vân
[2005], các vai nghĩa sau đây có trong tiếng Việt: Hành thể, Đích thể, Lợi thể, Tiếp thể,
Khách thể, Khiến thể, Cảm thể, Hiện tượng, Đương thể, Thuộc tính, Tạo thuộc tính thể, Giá
trị, Biểu hiện, Bị đồng nhất thể, Đồng nhất thể, Hiện hữu thể, Phát ngôn thể, Tiếp ngôn thể,
Đồng nhất thể, Hiện hữu thể, Ngôn thể, Dung môi, Cương vực, Ứng thể, Chu cảnh gồm
Phạm vi, Định vị, Phong cách, Nguyên nhân, Đồng hành, Vấn đề, Vai diễn và Quan điểm.
Nguyễn Thị Ảnh [2002], không giống Hoàng Văn Vân, chỉ tìm hiểu những vai nghĩa
có thể làm Đề trong câu tiếng Việt và tiếng Anh để so sánh chúng với nhau. Theo tác giả này
“sự khác biệt, cái làm nên nhu cầu đối chiếu, được thể hiện chủ yếu ở sự khác biệt của Đề.
Với phần thuyết sự khác biệt này dường như không đáng kể”; do đó luận án của Nguyễn Thị
Ảnh “bỏ qua việc thảo luận về phần Thuyết và xem đối chiếu cấu trúc Đề- Thuyết trong câu
tiếng Việt dựa trên khảo sát và kết quả nghiên cứu phần Đề”. Theo Nguyễn Thị Ảnh [2002],
các vai nghĩa sau đây có thể làm Đề trong câu tiếng Việt: Tác thể, Hành thể, Lực, Động thể,
Nghiệm thể, Đương thể, Đối thể, Mục tiêu, Tiếp thể, Đích, Nguồn, Công cụ, Thời gian, Nơi
chốn, và Điều kiện.
Cao Xuân Hạo, Hoàng Dũng và Bùi Mạnh Hùng [2003] nêu lên 22 vai nghĩa cần phân
biệt hơn cả mà học sinh trung học cơ sở tại Việt Nam phải nắm cho được: Người hành động,
Người tác động, Lực tác động, Người thể nghiệm, Người/vật trải qua sự biến, Người/vật bị
tác động, Vật tạo tác, Người/vật mang trạng thái, Người nhận, người hưởng lợi, nơi chốn,
Đích, Hướng, Nguồn, Lối đi, Phương thức, Công cụ, Thời gian, Khoảng cách không gian,
Nguyên nhân, Điều kiện, Trở ngại và Người/vật tồn tại. Việc trình bày của các tác giả trong
tiểu mục này là chỗ dựa hết sức quan trọng và đáng tin cậy để chúng tôi đi vào nghiên cứu
một số vai nghĩa trong luận văn này.
Việc nghiên cứu vai nghĩa gần đây ở Việt Nam cũng được một số tác giả quan tâm.
Tác giả Nguyễn Thị Lương, trong cuốn “Câu tiếng Việt”[2006], đã nghiên cứu câu từ góc độ
ba bình diện: ngữ pháp- ngữ nghĩa- ngữ dụng. Và theo đó, ở bình diện ngữ nghĩa, tác giả đã
vận dụng lí thuyết vị tố- tham thể của ngữ pháp chức năng và lý thuyết hành động nói để
nghiên cứu hai thành phần tạo nên nghĩa tường minh của câu: nghĩa miêu tả và nghĩa tình
thái. Tác giả đưa ra khái niệm nghĩa miêu tả của câu “là nghĩa biểu hiện sự vật, việc, hiện
tượng (gọi chung là sự tình) trong thực tế khách quan được phản ánh vào trong câu, qua lăng
kính chủ quan của người nói (viết)..” [38:133]. Với việc tìm hiểu tìm hiểu cấu trúc nghĩa
miêu tả, phân loại các thành tố trong cấu trúc nghĩa miêu tả. Đặc biệt là tác giả đã chỉ ra mối
quan hệ của cấu trúc vị tố- tham thể với cấu trúc ngữ pháp của câu. Đồng thời tác giả cũng
đã đề cập đến vai nghĩa của các thành phần: chủ ngữ, trạng ngữ , bổ ngữ, khởi ngữ. Đây
cũng là gợi ý và chỗ dựa quan trọng cho những vai nghĩa được chọn trong luận văn.
Tác giả Nguyễn Văn Hiệp, trong cuốn “Cơ sở ngữ nghĩa phân tích cú pháp” [2008]
cũng đã đưa cả chương 2 để nghiên cứu, tìm hiểu về nghĩa miêu tả. Đầu tiên là việc tìm hiểu
cấu trúc vị từ - tham thể của câu dựa vào việc điểm lại ngữ pháp của Tesnière, về khái niệm
vị từ. Đặc biệt là việc định nghĩa vai nghĩa từ quan điểm của Fillmore (1968), đưa ra danh
sách các vai nghĩa của Fillmore và danh sách các vai nghĩa cơ bản được hầu hết các nhà
nghiên cứu thừa nhận. Hơn thế nữa, tác giả cho thấy sự thể hiện hình thức của vai nghĩa và
đánh dấu các vai nghĩa, phân loại các kiểu sự tình, sự đồ chiếu của cấu trúc vai nghĩa lên cấu
trúc cú pháp.
Ngoài ra vấn đề vai nghĩa cũng được trình bày rải rác trong các bài viết trên tạp chí
Ngôn ngữ: Vai nghĩa phương tiện và các chức năng ngữ pháp của nó trong câu tiếng Việt
(Lê Thị Lan Anh- Ngôn ngữ số 4, 2002); Tìm hiểu chức năng ngữ pháp và vai trò thông báo
của vai nghĩa thời gian trong câu tiếng Việt (Bùi Thị Thanh Lương- Ngôn ngữ số 4, 2002);
Phương pháp nhận diện vai nghĩa của các tham thể trong cấu trúc nghĩa biểu hiện của câu
với vị từ đa trị như cho, tặng, gửi (Lâm Quang Đông- Ngôn ngữ số 7, 2006).
Điểm qua các công trình nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy các nhà ngôn ngữ học đã
đưa ra danh sách các vai nghĩa. Tuy vậy, đó vẫn là một danh sách hiện nay còn để ngỏ. Đồng
thời việc tìm hiểu các vai nghĩa trong cấu trúc nghĩa biểu hiện của câu tiếng Việt cũng mới
chỉ nghiên cứu ở việc phân tích phân loại các vai nghĩa chủ yếu trên bình diện ngữ nghĩa mà
còn ít công trình chuyên sâu về mối quan hệ của các vai nghĩa và chức năng cú pháp của nó
khi được hiện thực hóa trong câu. Vì vậy, cần có những công trình đi sâu nghiên cứu về chức
năng ngữ pháp của vai nghĩa trong câu tiếng Việt.
3. Nhiệm vụ của luận văn
Luận văn này có những nhiệm vụ cụ thể như sau:
- Trình bày khái niệm về vai nghĩa, chức năng cú pháp, mối quan hệ giữa vai nghĩa và
chức năng cú pháp.
- Điểm qua danh sách các vai nghĩa, chọn một số vai nghĩa phổ biến trong khung vị
ngữ (vai nghĩa đối thể- patient; vai nghĩa tạo thể - factitive; vai nghĩa vị trí - locative; vai
nghĩa nguồn – source; vai nghĩa phương thức – manner).
- Tìm hiểu, miêu tả chức năng cú pháp tương ứng với những vai nghĩa (đã chọn) trong
câu tiếng Việt (qua ngữ liệu tiếng Việt).
4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu
4.1. Phương pháp nghiên cứu:
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng một số các thủ pháp và phương pháp
nghiên cứu khoa học chung như:
- Thu thập, phân loại tài liệu
- Khảo sát, phân tích tài liệu
Ngoài các thủ pháp như trên, luận văn còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu
ngôn ngữ học sau:
- Phương pháp phân tích ngữ nghĩa, cú pháp
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp miêu tả
4.2. Nguồn ngữ liệu:
Nguồn ngữ liệu chủ yếu được thu thập từ các tác phẩm văn học, các giáo trình nghiên
cứu ngữ pháp- ngữ nghĩa tiếng Việt, từ điển tiếng Việt.
5. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu và phần Kết luận, phần Nội dung chính của luận văn được
phân thành hai chương:
Chương một: Những cơ sở lý thuyết
Trong chương này, luận văn sẽ trình bày khái niệm vai nghĩa theo các nhà ngôn ngữ
trên thế giới và các nhà Việt ngữ học; những vai nghĩa phổ biến trong khung vị ngữ; cấu trúc
cú pháp và một số chức năng cú pháp của câu; cấu tạo ngữ pháp của chu tố và diễn tố; mối
quan hệ giữa vai nghĩa với chức năng cú pháp của câu.
Chương hai: Một số vai nghĩa với chức năng cú pháp của nó trong câu tiếng Việt
Ở chương hai, luận văn miêu tả chức năng cú pháp của một số vai nghĩa: vai đối thể;
vai tạo thể; vai phương thức; vai nguồn; vai vị trí- không gian.
Chương 1:
NHỮNG CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1.1. Khái niệm vai nghĩa
Khái niệm vai nghĩa đã được các nhà ngôn ngữ dùng với nhiều thuật ngữ khác nhau:
cases (cách), semantic relations (quan hệ ngữ nghĩa), roles hay case-roles (vai nghĩa); hoặc
thematic roles, theta-roles (vai tham tố), như phái ngữ pháp cải biến (transformational
grammar) thường gọi.
Luận văn chọn “vai nghĩa” (roles) vì thuật ngữ này ngắn gọn và dễ dàng gắn nó với
khái niệm “phân vai” (role assignment) của vị từ ngôn liệu trong khung vị ngữ của câu.
Theo tác giả Tô Minh Thanh [44: 37] thì nhìn chung chưa có một định nghĩa nhất
quán dành cho vai nghĩa.
Theo W. Wilkin [1998; 191-192], vai nghĩa “là thành phần thể hiện về mặt tinh thần
các vật thể và khái niệm”. Cùng quan điểm này có D. L. F. Nilsen [1973], S. DeLancey
[1982] và R. Jackendoff [1983]. Các tác giả này ít nhiều đều đánh đồng vai nghĩa (role) với
các phạm trù của nhận thức (cognitive categories) và vì vậy mà vai nghĩa phải neo đậu vào
bến bờ của nhận thức” [Schlessinger,1995: 4] giống như cách thức mà ngôn ngữ lồng ý
nghĩa vào âm thanh vậy và do đó bắt buộc âm thanh phải chở tải ý nghĩa.
Theo C.J. Fillmore, một sự tình gồm một vị từ trung tâm và quây quần quanh nó là các
ngữ đoạn biểu thị những cách ngữ nghĩa hay vai nghĩa (semantic role) nào đó. Fillmore đã
đưa ra một số vai nghĩa mà ông cho là có tính phổ quát, có thể tìm thấy trong mọi ngôn ngữ,
phản ánh một phương diện chung trong cách thức chúng ta tri nhận về thế giới: “Ý niệm về
cách bao gồm một tập hợp khái niệm phổ quát, được giả định là bẩm sinh, xác định những
kiểu tri nhận nào đó của con người về những sự tình đang diễn ra quanh họ, tri nhận những
vấn đề như ai thực hiện nó, nó xảy ra đối với ai và cái gì thay đổi” (Fillmore 1968, 24) [28:
41].
Định nghĩa của Fillmore cho thấy tác giả nhấn mạnh tính phổ quát của vai nghĩa: nếu
kết cấu bẩm sinh của miền nhận thức là giống nhau ở mọi người và nếu vai nghĩa là những
khái niệm nhận thức cơ bản (cognitive primitives) thì chẳng phải đó là các phổ niệm
(universals). Theo định nghĩa trên của Fillmore về vai nghĩa thì chúng ta có thể hiểu là vai
nghĩa tồn tại trong nhận thức nhưng độc lập với ngôn ngữ và có lẽ là có trước ngôn ngữ và
rằng hệ thống ngôn ngữ có sử dụng các vai nghĩa thì tồn tại độc lập với các vai này.
Tác giả I.M. Schlesinger [1995: 24] “đề nghị […] coi các vai nghĩa là những kết cấu
ngôn ngữ không nhất thiết phải tồn tại trong miền nhận thức dù có thể được định nghĩa bằng
khái niệm trong miền nhận thức.” [Dẫn theo 44: 38]
Như vậy, Schlesinger lại cho vai nghĩa là những kết cấu ngôn ngữ (linguistic
constructs), cụ thể là những kết cấu ngữ nghĩa (semantic constructs) chứ không nhất thiết
phải là những kết cấu nhận thức (cognitive constructs). Ý kiến này đã để ngỏ cái khả năng là
vai nghĩa có thể mang tính cụ thể của riêng từng ngôn ngữ (language-specific).
Cách đề xuất của Schlesinger coi vai nghĩa là những kết cấu ngôn ngữ dẫn đến việc
phải xác định tiêu chuẩn nhận diện các vai nghĩa và xem chúng hoạt động như thế nào dưới
tác động của quy tắc ngữ pháp của một ngôn ngữ cụ thể như tiếng Anh chẳng hạn. Ví dụ vai
Tác thể trong tiếng Anh có thể được xác định nhờ những khái niệm nhận thức cơ bản, chính
là các đặc điểm của vai nghĩa này, như [+ hành động (activity)], [+ chủ định (volitition)] và
[+ý định (intention)] và [+ động vật (anymacy)].
Như vậy, quan điểm của Schlesinger coi vai nghĩa là những kết cấu ngôn ngữ. Quan
điểm này cũng có thể rất hữu ích cho việc phân tích một số vai nghĩa trong câu tiếng Việt.
Theo tác giả Cao Xuân Hạo, câu biểu hiện một sự tình (hay sự thể). Nội dung (nghĩa
biểu hiện) của nó có thể hình dung như một “cảnh” (một màn kịch ngắn) diễn trên sân khấu.
Cái cảnh ấy có một nội dung nhất định: trên sân khấu hiện ra quang cảnh nào đấy (một sự
tình tĩnh), rồi lại diễn ra một sự việc nào đấy (một sự tình động). Các nhân/ vật (đọc là “nhân
và vật” hoặc là “nhân hay vật”) có mặt trên sân khấu được gọi là tham tố của sự tình hay vai
(“vai nghĩa”). [27: 51]
Như vậy, các tham tố là các vai nghĩa trong một màn kịch nhỏ của một sự thể.
Tác giả Hoàng Dũng và Bùi Mạnh Hùng cũng đã định nghĩa vai nghĩa là “quan hệ ngữ
nghĩa của ngữ danh từ đối với vị từ trong câu, là cách thức mà thực thể do ngữ danh từ biểu
thị góp phần vào sự tình được câu diễn đạt.” [17: 134]
Vấn đề vai nghĩa là một vấn đề phức tạp và đã được khảo sát, nghiên cứu theo nhiều
quan điểm khác nhau. Nhìn chung, các nhà ngôn ngữ chưa có sự thống nhất cao trong việc
xác định và miêu tả các vai nghĩa.
Vấn đề danh sách các vai nghĩa và tên gọi của các vai nghĩa cũng còn chưa có sự
thống nhất ở các nhà nghiên cứu. Theo tác giả Nguyễn Văn Hiệp [28: 46], có tình hình này
bởi các lí do sau:
- Thứ nhất, hiện nay nhiều tác giả khác nhau khi nghiên cứu vai nghĩa đã nêu ra một
danh sách khác nhau. Thường thấy, là một danh sách khoảng vài chục vai, nhưng cũng có thể
lên đến hàng trăm vai (Dixon 1992).
- Thứ hai, tên gọi của các vai có thể khác nhau. Có tình trạng một số tác giả dùng
chung tên gọi vai nghĩa, nhưng quan niệm khác nhau. Lại có tình trạng dùng tên gọi vai
nghĩa khác nhau, nhưng quan niệm lại giống nhau…
Và cũng theo tác giả Nguyễn Văn Hiệp [28: 46], ngoài ra cũng phải tính đến khả năng
là một ngữ đoạn nào đó trong câu có thể đảm nhận hơn một vai nghĩa, tức nhìn từ góc độ này
thì có thể cho rằng nó biểu thị vai nghĩa x, nhưng nhìn từ góc độ khác lại có thể cho rằng nó
biểu thị vai nghĩa y.
Trước những vấn đề phức tạp như trên, luận văn bước đầu chỉ tìm hiểu một số vai
nghĩa đã được các nhà nghiên cứu tương đối thống nhất về tên gọi như các vai: đối thể, tạo
thể, phương thức, vị trí, nguồn.
1.2. Những vai nghĩa phổ biến trong khung vị ngữ
1.2.1. Khung vị ngữ
Theo Cao Xuân Hạo (1991: 103- 106), nghĩa của câu không đơn giản là một phép
cộng nghĩa của các từ ngữ trong câu. Nghĩa của câu là một cấu trúc có nhiều tầng. Các tầng
nghĩa trong câu phối hợp với nhau tạo ra nghĩa hành chức (nội dung thông báo) của câu.
[Dẫn theo 21: 23]
Cao Xuân Hạo quan niệm “nghĩa chính là cái điều được truyền đạt trong lời nói”
[23:17] gồm nội dung hay ý nghĩa- nghĩa nguyên văn và nghĩa ngôn trung. Ông phê phán
quan điểm cho nghĩa của câu chỉ là tổng các nghĩa của từ kết hợp lại mà thành. Ông ủng hộ
quan điểm của Dik “lớp nghĩa học là lớp nghĩa của ‘sự tình’ được biểu thị và những ‘vai trò’
tham gia vào sự tình ấy. Ở đây có những tham tố (participants) của sự tình, gồm có các diễn
tố (actants) và những chu tố (circumstants). Các diễn tố là những vai trò tất yếu được giả
định sẵn trong nghĩa từ vựng của vị từ. Chẳng hạn một vị từ cho tất nhiên giả định một chủ
thể của hành động “cho” (hay hành thể), một đối thể là vật được đem cho và một tiếp thể tức
người nhận tặng phẩm. Các chu tố làm thành cái cảnh trí ở xung quanh các tham tố không
được giả định một cách tất nhiên trong khung vị ngữ. Đó là các điều kiện thời gian, không
gian, là cách thức, phương tiện, hoặc là những nhân vật có liên quan,”v.v.. [23:21]
Cũng theo tác giả Cao Xuân Hạo (1991) “các sự tình, được biểu hiện trong ngôn ngữ
bằng những câu mà hạt nhân là khung vị ngữ, gồm lõi vị ngữ, (mà trung tâm là vị từ) và các
tham tố của nó trong đó có một tham tố làm đề (hay tiểu đề nếu câu có nhiều bậc cấu trúc đề-
thuyết)” trước hết có thể chia ra làm ba loại sau: câu tồn tại, nhận định rằng trong một thế
giới hay một nơi nào đó có một cái gì; câu chỉ sự tình động hay sự việc biến cố; câu chỉ sự
tình tĩnh hay tình hình. từ đó ông phân loại câu theo vị từ Hành động (vô tác, chuyển tác),
Quá trình (vô tác, chuyển tác), Trạng thái, Quan hệ với số lượng các diễn tố và vai nghĩa của
các diễn tố cùng với một vài chu tố. [23: 433]
Như vậy, trong khung vị ngữ, vị từ là yếu tố cốt lõi và quây quần xung quanh là các
tham tố biểu thị một số vai nghĩa nào đó hay có thể gọi là cấu trúc vị từ- tham tố. Có những
vai nghĩa mang tính bắt buộc, bị quy định bởi bản chất từ vựng- ngữ pháp của vị từ trung
tâm, theo cái nghĩa là những vị từ có bản chất từ vựng- ngữ pháp khác nhau sẽ quy định các
vai nghĩa bắt buộc khác nhau. Nhưng cũng có những vai nghĩa mang tính tùy nghi, tức
không chịu sự quy định bắt buộc như vậy. Trong ngữ pháp của Tesnière, những vai nghĩa bắt
buộc sẽ được hiện thực hóa thông qua những ngữ đoạn được coi là diễn tố, còn những vai
nghĩa tùy nghi thì được hiện thực hóa thông qua các ngữ đoạn được gọi là chu tố. Việc đánh
giá một vai nghĩa là bắt buộc hay tùy nghi phải đặt trong quan hệ với vị từ trung tâm.
1.2.2. Vị từ và các tham tố
1.2.2.1. Vị từ
Các nhà nghiên cứu theo quan điểm chức năng cho rằng trong khung vị ngữ không
nên đồng nhất khái niệm vị từ với hai từ loại (bao gồm động từ và tính từ) theo cách hiểu
thông thường. Ở đây vị từ được hiểu là yếu tố ngôn ngữ chỉ đặc trưng và quan hệ với tư cách
chức năng ngữ nghĩa; trong quan hệ với các tham tố (tham thể) mới xuất hiện khái niệm vị
từ.
Vị từ với cách hiểu như trên sẽ do các từ loại khác đảm nhiệm có thể là động từ, tính
từ và cũng có thể là danh từ. Theo tác giả Diệp Quang Ban thì Anna Siewierska- một tác giả
có công trình nghiên cứu về ngữ pháp chức năng- đã từng nhận xét: “Trong ngữ pháp chức
năng, toàn bộ các vị từ chia thành ba loại: thuộc động từ, thuộc tính từ và thuộc danh từ” [tr
22- Ngữ pháp chức năng- 1991] [Dẫn theo 1:14]. Tất nhiên thực tế sử dụng ngôn ngữ cho
thấy vị từ thường do tính từ và động từ thể hiện.
Nó học bài.
Tôi đọc sách.
Em bé gầy yếu quá.
Bông hoa này rất đẹp.
Trường hợp danh từ đảm nhận chức năng làm vị từ là trường hợp rất hạn hữu. Hầu
như ta chỉ gặp vị từ là danh từ trong các kiểu câu:
- Anh công nhân, em bác sĩ.
- Nhà ấy vợ giáo viên, chồng kỹ sư.
Hoặc - Mưa !
- Chuột !
Tuy nhiên những trường hợp hiếm hoi này lại là những bằng chứng giúp chúng ta
khẳng định một cách chắc chắn: vị từ trong khung vị ngữ (cấu trúc vị từ- tham thể) không
phải là từ loại mà là chức năng nghĩa trong quan hệ với các tham thể.
Với cách hiểu như trên, vị từ trong cấu trúc khung vị ngữ được phân loại không giống
với cách phân loại vị từ thông thường. Đã có nhiều cách phân loại vị từ nhưng chủ yếu các
nhà ngữ pháp chức năng căn cứ vào hai tiêu chí đã được nhà ngôn ngữ học S.C. Dik (1978)
sử dụng để phân loại các sự tình dựa vào sự tổng hợp hai cặp đối lập (+/-ĐỘNG -
dynamism), (+/-CHỦ Ý - control).
Dựa vào hai tiêu chí trên, vị từ và sự tình mà câu phản ánh được chia làm bốn loại,
mỗi loại mang hai đặc trưng:
Vị từ hành động mang đặc trưng [+ ĐỘNG] và [+ CHỦ Ý]: là các vị từ chỉ hành động
(đi, chạy, nhảy, kêu, gào, đánh, đập, chọc, khuân, vác, xây, đắp..)
- Vị từ quá trình mang đặc trưng [+ ĐỘNG] và [- CHỦ Ý]: đó là các loại vi từ chỉ quá
trình (rơi, khô, héo, phai, thấm,ngấm, chảy, trôi,..)
- Vị từ tư thế mang đặc trưng [- ĐỘNG] và [+ CHỦ Ý]: là loại vị từ chỉ tư thế (ngồi,
quỳ, đứng, cúi, nằm, lom khom, …)
- Vị từ trạng thái mang đặc trưng [- ĐỘNG] và [- CHỦ ĐỘNG]: là các vị từ chỉ trạng
thái, tính chất, quan hệ (lo, sợ, vui, mừng, to, nhỏ, đẹp, xấu, là, của, vì, để, bằng…)
1.2.2.2 Tham tố (hoặc vai nghĩa)
Các nhà nghiên cứu đã khá thống nhất cho rằng tham tố (tham thể) là tất cả các thực
thể (được biểu hiện bằng các danh từ hoặc tương đương danh từ) tham gia vào sự tình, chịu
sự chi phối trực tiếp của ý nghĩa của vị từ hoặc phải được vị từ chấp nhận.
Theo tác giả Diệp Quang Ban, cấu trúc nghĩa biểu hiện của câu gồm có phần chỉ sự
thể (nêu đặc trưng hay quan hệ) và các vai nghĩa nằm trong phạm vi bao quát của sự thể ấy.
Phần sự thể thường do vị tố (Diệp Quang Ban thường dùng thuật ngữ vị tố tương đương với
thuật ngữ vị từ) thực hiện và diễn đạt đặc trưng hay quan hệ. [Dẫn theo 21: 27]
Cũng theo Diệp Quang Ban, tham thể là những thực thể tham gia vào sự thể (sự việc)
như là bộ phận cần thiết của sự thể, bộ phận nằm trong sự thể. Tham thể có quan hệ với sự
thể theo kiểu do sự thể ấn định, tức là một sự thể cụ thể chỉ có thể diễn ra nhờ sự có mặt của
một hoặc những tham thể nào đó, một sự thể khác có thể diễn ra không cần đến sự có mặt
của tham thể nào cả. Chẳng hạn sự đánh nhau nhất thiết phải có hai bên tham gia. [Dẫn theo
21: 28]
Cao Xuân Hạo khi dẫn ra tư tưởng của S. C. Dik có khẳng định: “Theo S. C. Dik
(1981) một cấu trúc chủ -vị hạt nhân (nuclear predication) xét toàn bộ biểu thị một sự tình
(state of affairs) được xác định bởi cái thuộc tính hay mối quan hệ do vị ngữ biểu thị liên kết
với các thực thể do các danh tố biểu thị” [23: 91].
Cũng theo S. C. Dik “Một kết cấu vị ngữ hạt nhân bao gồm một vị từ gắn kết với một
số thích hợp các ngữ định danh để lắp đầy vị trí các tham tố của vị từ đó. Kết cấu vị ngữ hạt
nhân xác định một tập hợp các sự tình, trong đó thuộc tính hay quan hệ của nó được vị từ chỉ
định, có hiệu lực đối với những ngữ định danh cụ thể mà vị từ được ứng dụng.” [14: 39]
Theo S. C. Dik thì việc miêu tả các biểu thức ngôn ngữ học trong ngữ pháp chức năng
bắt đầu với cấu trúc của kết cấu vị ngữ. Về cấu trúc chung của kết cấu vị ngữ, chúng ta cần
phân biệt một bên là kết cấu vị ngữ hạt nhân và một bên là kết cấu vị ngữ mở rộng.
Căn cứ vào kết cấu vị ngữ hạt nhân xác định một tập hợp các sự tình, chúng ta có thể
tạo thành một kết cấu vị ngữ mở rộng bằng cách thêm vào một hay nhiều chu tố cho kết cấu
vị ngữ hạt nhân đó.
Trong khung vị ngữ, các tham tố nêu đặc trưng bằng các chức năng nghĩa trong mối
quan hệ với vị từ. Do đó, các tham tố còn được gọi là các vai nghĩa. Trên cơ sở xác định các
chức năng nghĩa của các tham tố đối với các loại vị từ mà các tác giả đã đưa ra một danh
sách gồm các tham thể: thể hành động, thể (chịu) quá trình, thể (trong) tư thế, thể (trong)
trạng thái, lực, thể vị trí, thể đích, thể được lợi, thể bị hại, thể liên đới, tham thể không gian,
thời gian, công cụ, phương tiện, nguyên nhân, điều kiện, nghịch đối, mục đích, kết quả…
Các tham thể trên được các nhà nghiên cứu khái quát thành hai loại: tham thể cơ sở và
tham thể mở rộng (thuật ngữ của tác giả Diệp Quang Ban) hoặc diễn tố và chu tố (thuật ngữ
thường dùng của tác giả Cao Xuân Hạo và một số tác giả khác). Ở luận văn này, chúng tôi
dùng thuật ngữ diễn tố và chu tố.
Diễn tố (tham thể cơ sở) còn gọi là các vai nghĩa bắt buộc mà như tư tưởng của Dik đó
là các vai nghĩa trong kết cấu vị ngữ hạt nhân. Các vai nghĩa của chu tố (tham thể mở rộng)
còn gọi là các vai nghĩa mở rộng hay tham thể mở rộng. Nhà ngôn ngữ học Tesnière cũng đã
dùng bộ khái niệm vị từ và các tham tố (arguments) để phân chia các tham tố thành hai loại:
những tham tố bắt buộc phải có được gọi là các diễn tố, còn những tham tố không mang tính
bắt buộc như vậy được gọi là các chu tố.
Diễn tố (actants): Những vai nghĩa tất yếu được giả định sẵn trong nghĩa từ vựng của
vị từ. Nói cách khác đây là những tham tố bắt buộc, xuất hiện do nghĩa của vị từ quy định.
“Diễn tố là tham tố cần và đủ, có số lượng nhất định (cho từng vị từ), cùng với nội
dung của sự tình (do vị từ biểu thị) tạo thành một sự tình, tức là tạo thành cấu trúc nghĩa của
câu” [26: 49]
“Diễn tố là tham tố của vị từ tham gia vào nội dung biểu hiện của khung vị từ như một
nhân vật được giả định một cách tất yếu trong nội dung nghĩa của vị từ, mà nếu thiếu đi cái
sự tình hữu quan không thể thực hiện được, không còn là nó nữa.” [25: 113]
Ví dụ: Chị Dậu vội vàng đặt con xuống đất
Tham tố: Chị Dậu: chủ thể của hành động đặt; con :đối thể của đặt ; xuống đất: tham
tố chỉ đích của hành động đặt – là các tham tố cơ sở (hay diễn tố). Sự có mặt của chúng là
bắt buộc, do nghĩa của vị từ đặt đòi hỏi làm cho nghĩa của câu rõ ràng, đủ ý.
Chẳng hạn trong câu:
Đến rồi !
Tuy vị từ được dùng với từ chỉ thể rồi, người nghe vẫn hiểu là có một người nào hay
một cái gì đó (xe, tàu chẳng hạn) đã đến (hoặc sắp đến) cái chỗ được người nói coi là “ở
đây”.
Do chịu sự ấn định của vị từ nên các tham tố (diễn tố) thường đi với một loại vị từ
nhất định. Chẳng hạn:
- Tham tố chỉ đích đi với vị từ dời chuyển, vị từ tác động làm vật dời chuyển.
- Tham tố chỉ đối thể chịu tác động của hành động: đi với các vị từ chỉ hành động tác
động
- Tham tố chỉ chủ thể cầu khiến, đối thể được cầu khiến: đi với vị từ cầu khiến
- Các tham tố chủ thể trao nhận, tiếp thể, vật được trao nhận: đi với loại vị từ trao
nhận.
- Các tham tố chủ thể hủy diệt, đối thể bị hủy diệt: đi với loại vị từ bị hủy diệt.
Trong khung vị ngữ, mỗi vị từ tùy theo đặc trưng của nó mà đòi hỏi một số lượng nhất
định các diễn tố
Chu tố (circumstants): Đây là những vai nghĩa không tất yếu, không được giả định
sẵn trong nghĩa từ vựng của vị từ. Chúng là những tham tố không bắt buộc, chỉ xuất hiện để
thêm một ý nghĩa nào đó cho khung vị ngữ (thời gian, không gian, cách thức, phương tiện,
mục đích, ý so sánh…). Chúng không do bản chất của vị từ quy định, chúng có thể có mặt ở
nhiều (hay tất cả) các loại vị từ (sự tình).
Ví dụ: Chị Dậu chào chồng bằng hai hàng nước mắt.
Trong cấu trúc miêu tả của ví dụ trên có hai diễn tố : chị Dậu chủ thể của hành động
chào; chồng đối thể được chào; chu tố: bằng hai hàng nước mắt- chỉ phương thức của hành
động chào. Sự có mặt của hai diễn tố là do nội dung ý nghĩa của vị từ chào đòi hỏi, nếu thiếu
nó, cấu trúc nghĩa miêu tả của ví dụ trên sẽ không hoàn chỉnh, khó tồn tại. Còn sự có mặt của
chu tố: bằng hai hàng nước mắt chỉ bổ sung một chi tiết cho cấu trúc nghĩa của ví dụ trên, và
nếu thiếu nó thì cấu trúc nghĩa nòng cốt: Chị Dậu chào chồng vẫn tồn tại được. Sự hiện diện
của chu tố trong câu chỉ tùy thuộc nhu cầu thông tin và tình huống giao tiếp.
Chu tố không trực tiếp chịu sự chi phối của vị từ, không nhất thiết buộc phải có mặt
trong khung vị ngữ. Sự xuất hiện của nó là nhằm bổ sung thêm một phương diện nghĩa,
nhưng vì nằm trong cùng một cấu trúc nghĩa, nên ý nghĩa của nó phải phù hợp với ý nghĩa
của vị từ và phải được vị từ chấp nhận.
Chu tố không có số lượng nhất định như các diễn tố. Các nghĩa chu tố được biểu hiện
trong ngữ pháp thông qua các bổ ngữ, trạng ngữ. Nhưng cũng có khi chu tố lại được biểu
hiện trong Đề.
Theo S. C. Dik [14: 70-71] “chu tố là sự mở rộng tùy chọn của kết cấu vị ngữ hạt
nhân, chỉ ra các bình diện bổ sung của sự tình. Chu tố ‘nhạy cảm’ với bản chất của sự tình
được kết cấu vị ngữ hạt nhân xác định hơn là với bản chất của vị từ được nói đến.”
Chu tố có các chức năng ngữ nghĩa tiêu biểu sau:
- chỉ định chi tiết các sự tình hạt nhân: Phương thức, Đặc trưng, Công cụ;
- quan hệ của sự tình với các tham tố khác: Lợi thể, liên đới thể;
- quan hệ của sự tình với các chiều kích thời gian: Thời gian, Thời đoạn, Tần số.
- quan hệ của sự tình với các chiều kích không gian: Vị trí, Nguồn, Phương hướng,
Lối đi;
- quan hệ của sự tình với các sự tình khác: Chu cảnh, Nguyên nhân, Lý do, Mục đích,
Kết quả.
Sự khác biệt giữa diễn tố (tham thể cơ sở) và chu tố (tham thể mở rộng) là có cơ sở lí
luận- dựa vào sự chi phối/ không chi phối của vị từ với các tham thể. Tuy nhiên trong thực tế
sử dụng, ở những trường hợp cụ thể, có những thực thể khi đi với vị từ này là chu tố, nhưng
khi đi với vị từ khác lại là diễn tố.
Ví dụ:
- Sứ yêu biết bao nhiêu cái chốn này. (1)
- Ở cái chốn này, chúng tôi đã học được nhiều điều bổ ích. (2)
Ở ví dụ (1) cái chốn này do đi với vị từ yêu- chỉ đối tượng được tiếp nhận tình yêu của
chủ thể Sứ nên nó là vai nghĩa bắt buộc, nghĩa là nó bắt buộc phải có mặt thì sự việc mới trọn
nghĩa. Còn trong cấu trúc nghĩa ở ví dụ (2), cái chốn này không chịu sự chi phối trực tiếp của
vị từ học, chỉ có mặt để làm rõ hơn nơi chốn của sự việc chúng tôi đã học được nhiều điều
bổ ích; sự có mặt của nó trong cấu trúc câu của ví dụ (2) là không bắt buộc- bởi vậy nó giữ
vai trò là tham tố không bắt buộc hay vai nghĩa không bắt buộc.
1.2.3. Những vai nghĩa phổ biến
Như trên chúng ta đã nói, trong khung vị ngữ, vị từ là hạt nhân ngữ nghĩa của vị ngữ
(ngữ vị từ). Nói như vậy có nghĩa là vị từ với tư cách là từ biểu hiện nội dung của sự thể đối
với cấu trúc tham tố của vị ngữ.
Cách tiếp cận như trên đã được nhiều nhà ngôn ngữ học tiếp thu và đưa ra danh sách
những vai nghĩa trong khung vị ngữ. Chẳng hạn, Cao Xuân Hạo gọi các diễn tố (vai nghĩa
bắt buộc) bằng các tên gọi như: vai tác thể, vai hành thể, vai động thể, vai lực thể, vai đương
thể, vai đối thể, vai tiếp thể, vai đích,…còn Diệp Quang Ban gọi là thể động, thể tĩnh, thể
cảm nghĩ, thể nói năng, thể mục tiêu, thể tiếp nhận…Còn các chu tố (vai nghĩa mở rộng) Cao
Xuân Hạo gọi là : vai phương thức, vai phương tiện, vai kết quả, vai lối đi…, còn Diệp
Quang Ban gọi là cảnh huống: thời gian, không gian, nguyên nhân, điều kiện, mục đích, kết
quả, đường đi, nghịch đối… [Dẫn theo 38: 149].
Nguyễn Văn Hiệp trong công trình nghiên cứu gần đây nhất (2005), đã liệt kê ra danh
sách các vai nghĩa như sau:
- Vai tác thể (Agent): biểu thị người gây ra hành động.
- Vai nghiệm thể (Expriencer): biểu thị chủ thể trải nghiệm một trạng thái nào đó.
- Vai tiếp thể: (Recipient): biểu thị kẻ tiếp nhận trong hành động trao tặng.
- Vai kẻ hưởng lợi (Benefactive): biểu thị kẻ được hưởng thành quả từ một hành động
do một ai đó thực hiện.
- Vai lực tự nhiên (Force): chỉ tác nhân tự nhiên gây ra một biến cố , thay đổi nào đó.
- Vai bị thể (Patient): chỉ vật, người chịu sự tác động, dẫn đến một thay đổi nào đó. Sự
thay đổi này có thể là sự thay đổi về vật lí, tâm lí…
- Vai công cụ (Instrument): chỉ công cụ được dùng để thực hiện hành động.
- Vai địa điểm, vị trí (Location): chỉ nơi chốn của sự tình, vị trí tồn tại của sự vật.
- Vai điểm xuất phát, hay nguồn của trạng thái (Source): chỉ điểm xuất phát của
chuyển động, hay nguồn của trạng thái.
- Vai điểm đến (Goal): chỉ đích đến của một chuyển động.
- Vai kẻ tham chiếu (Reference): chỉ người hay vật được dùng để tham chiếu trong
một trạng thái, quan hệ.
- Vai kẻ cùng hành động (Comcomitant): chỉ người cùng hành động trong một hành
động.
- Vai hướng chuyển động (Direction) hay lối đi (Path): chỉ hướng của chuyển động.
- Vai thời điểm (Temporal): chỉ thời điểm của sự tình.
- Vai chủ sở hữu (Possessor): chỉ chủ sở hữu của sự vật.
- Vai thời lượng (Duration): chỉ thời gian kéo dài của hành động
- Vai nội dung (Content): chỉ nội dung của sự hiểu biết.
- Vai thể chuyển động (Theme): chỉ một thực thể tồn tại ở một vị trí nào đó, hoặc thực
thể chuyển động, chịu một sự thay đổi về một vị trí do một tác nhân nào đó.
Một số vai khác có tính chất ngoại vi cũng được tác giả thừa nhận, như vai cách thức
(manner), vai nguyên nhân (cause), vai mục đích (purpose).
Như vậy, danh sách các vai nghĩa trong khung vị ngữ được các tác giả đưa ra hầu hết
đều chưa có sự thống nhất về tên gọi. Ở luận văn này chúng tôi có thể dựa vào cách gọi tên
một số vai nghĩa của tác giả Cao Xuân Hạo, đây cũng là một số tên gọi tương đối được phổ
biến, để tìm hiểu chức năng cú pháp của các vai nghĩa: vai đối thể, vai tạo thể, vai phương
thức, vai vị trí- không gian, vai nguồn.
1.3. Cấu trúc cú pháp và một số chức năng cú pháp của câu
Nếu như cấu trúc vị từ - tham tố là cấu trúc nghĩa biểu hiện của câu thì cấu trúc cú
pháp là loại cấu trúc của câu xét ở bình diện cú pháp. Đây chính là bình diện tổ chức nên một
câu theo đúng đặc trưng của nó để phân biệt những đơn vị khác như: từ, cụm từ hoặc đoạn
văn, văn bản. Có thể thấy cấu trúc cú pháp của câu là vấn đề được ngữ pháp học quan tâm và
nghiên cứu từ rất sớm. Trong ngữ pháp cổ điển, do xem câu là đơn vị cấu trúc lớn nhất trong
tổ chức ngữ pháp của một ngôn ngữ, nên việc nghiên cứu cấu trúc cú pháp của câu thành vấn
đề trung tâm của ngữ pháp học nói riêng và ngôn ngữ học nói chung.
Khác với các đơn vị như: âm vị, hình vị, từ, cụm từ, câu là đơn vị mang chức năng
thông báo (đơn vị thông báo nhỏ nhất). Điều đó có nghĩa câu luôn phải phản ánh sự việc
trong thế giới khách quan. Và sự việc luôn có cấu trúc của nó (cấu trúc đặc trưng- tham thể)
nên khi đi vào trong câu nó vẫn đòi hỏi được tồn tại dưới dạng cấu trúc (cấu trúc vị từ- tham
tố). Do đó, khi tạo câu phản ánh sự việc, nghĩa là dùng từ ngữ để diễn đạt cấu trúc sự việc
cần diễn đạt, các từ ngữ trong câu cũng phải được tổ chức theo những quy tắc ngữ pháp của
một ngôn ngữ nhất định tạo nên cấu trúc cú pháp của câu. Nói cách khác, câu không phải là
phép cộng đơn giản của các từ ngữ đứng cạnh nhau trên trục tuyến tính mà là tổng thể của
các yếu tố này, trong các yếu tố có quan hệ mật thiết với nhau cũng góp phần tạo nên một
thông báo hoàn chỉnh. Nếu trong cấu trúc sự việc, các tham thể giữ những chức năng nghĩa
nhất định trong mối quan hệ với vị từ (nêu đặc trưng sự việc) thì trong cấu trúc cú pháp của
câu, các từ ngữ diễn đạt các yếu tố của sự việc cũng giữ các chức năng cú pháp (vai trò cú
pháp) nhất định trong quan hệ đối với nhau. Các chức năng cú pháp ấy được phạm trù hóa
gọi là thành phần câu.
Cấu trúc cú pháp không phải chỉ duy nhất đề cập đến vấn đề các chức năng cú pháp
của câu, tuy nhiên ta có thể khẳng định đây là một vấn đề lớn, vấn đề trung tâm của cấu trúc
cú pháp. Cứ nhìn qua quang cảnh chung của việc nghiên cứu các thành phần câu chúng ta
cũng có thể thấy điều đó. Chỉ điểm qua việc nghiên cứu các thành phần câu của câu tiếng
Việt cũng làm cho ta thấy choáng ngợp trước vấn đề phức tạp này. Hầu như mỗi nhà nghiên
cứu đều có cách kiến giải khác nhau về thành phần câu. Chúng ta khó tìm thấy hai quan điểm
hoàn toàn thống nhất về vấn đề này. Không khác nhau trong quan niệm, cách định nghĩa về
thành phần câu thì các tác giả lại chưa hoàn toàn nhất trí với nhau về các tiêu chí xác định
thành phần câu. Bên cạnh đó, các vấn đề như: số lượng các thành phần câu, cương vị cú
pháp của các thành phần câu cũng chưa hoàn toàn thống nhất.
Trước một vấn đề phức tạp như vậy, trong khuôn khổ một luận văn thạc sĩ, chúng tôi
không có tham vọng giải quyết vấn đề này. Ở đây, để phục vụ cho luận văn, chúng tôi chỉ
căn cứ vào một số tiêu chí để xác định thành phần câu đã được thống nhất ở các nhà nghiên
cứu, trên cơ sở ấy đi vào một số thành phần câu như: chủ ngữ, bổ ngữ, trạng ngữ, đề ngữ, là
các thành phần câu có quan hệ đến các vai nghĩa- đối tượng khảo sát của luận văn.
Về tiêu chí xác định thành phần câu thì loại ý kiến được đa số các nhà nghiên cứu tán
thành và sử dụng là: coi thành phần câu là một phạm trù ngữ pháp, do đó xác định thành
phần câu phải dựa cả vào tiêu chí ngữ nghĩa lẫn tiêu chí hình thức. Theo ý kiến của hai tác
giả Nguyễn Minh Thuyết và Nguyễn Văn Hiệp khi trình bày giải pháp liên quan đến thành
phần câu thì phân tích câu phải xuất phát từ câu, và nhất thiết phải khu biệt cho được từng
thành phần được phân xuất từ câu một cách hình thức. Và “mỗi thành phần câu cần được
xác định bằng một thủ pháp hình thức”; “cố gắng sao cho những phạm trù được xác định
bằng các thủ pháp hình thức như đã nói có nghĩa” [52: 74]. Sau đây là ý kiến của tác giả Bùi
Minh Toán trong giáo trình ngôn ngữ học- Tập II” về thành phần câu:
“Như thế các thành phần câu như chủ ngữ, vị ngữ, định ngữ, bổ ngữ, trạng
ngữ,…cũng đều là các phạm trù ngữ pháp. Mỗi phạm trù này cũng có thể chia ra các phạm
trù nhỏ hơn như bổ ngữ thì có bổ ngữ gián tiếp hay trực tiếp. Điều quan trọng là dù ở mức
độ cao thấp, rộng hay hẹp, mỗi phạm trù này đều là sự thống nhất giữa ý nghĩa ngữ pháp và
hình thức ngữ pháp. Từ đó, điều cần chú ý trong nghiên cứu và học tập ngữ pháp là: việc
phân xuất và xác định các phạm trù ngữ pháp phải được tiến hành trên cơ sở sự thống nhất
giữa ý nghĩa ngữ pháp và hình thức biểu hiện của nó”. [87-14] [Dẫn theo 1: 29].
Tiêu chí ngữ nghĩa cho việc xác định thành phần câu đã được sự thống nhất cao ở
nhiều nhà nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt. Các tác giả đều cho rằng tiêu chí ngữ nghĩa để
xác định thành phần câu là ý nghĩa ngữ pháp khái quát của các thành phần câu (ý nghĩa ngữ
pháp chức năng).
Tuy nhiên, việc chọn tiêu chí hình thức nào để nhận diện được các thành phần câu lại
còn là một vấn đề đang gây nhiều tranh cãi giữa các nhà nghiên cứu. Nghiên cứu các công
trình về ngữ pháp tiếng Việt từ trước tới nay, chúng tôi thấy việc sử dụng các tiêu chí hình
thức có chú ý tới đặc điểm loại hình của tiếng Việt được nhiều nhà ngôn ngữ học đồng tình
hơn cả. Tiếng Việt là loại hình ngôn ngữ đơn lập, cho nên các tiêu chí hình thức để xác định
thành phần câu có thể sử dụng là: trật tự từ, hư từ và ngữ điệu. Trong luận văn này, chúng tôi
cũng vận dụng các tiêu chí này để nhận diện một số thành phần câu mà trong phạm vi luận
văn cần bàn đến.
Sau đây là việc nhận diện một số thành phần câu dựa vào sự tổng hợp hai tiêu chí nói
trên.
1.3.1. Chủ ngữ
Theo các nhà Việt ngữ học thì chủ ngữ được xếp vào một trong hai thành phần nòng
cốt (thành phần chính) của câu có quan hệ qua lại với thành phần vị ngữ, nêu lên đối tượng
mà đặc trưng hay quan hệ của nó được nói đến ở vị ngữ.
Trong công trình nghiên cứu “Thành phần câu”, tác giả Nguyễn Minh Thuyết và
Nguyễn Văn Hiệp đã cho rằng “chủ ngữ là bộ phận của nòng cốt câu biểu thị chủ thể ngữ
pháp của vị ngữ, tạo ra cùng vị ngữ một kết cấu có khả năng nguyên nhân hóa.”
Về ngữ nghĩa, chủ ngữ là thành phần câu có ý nghĩa ngữ pháp khái quát là biểu thị đối
tượng thông báo của câu. “Ý nghĩa của chủ ngữ là ý nghĩa biểu thị đối tượng. Đối tượng này
có quan hệ với vị ngữ về phương diện chủ thể của hành động, chủ thể tiếp nhận, chủ thể
phẩm chất” [40: 111]
Diệp Quang Ban Cũng cho rằng: “Trong tiếng Việt, có thể hiểu chủ ngữ là một trong
hai thành phần chính của câu có quan hệ qua lại với vị ngữ, chỉ ra cái đối tượng mà câu đề
cập đến.” [4: 113].
“Chủ ngữ và vị ngữ gắn bó với nhau bằng quan hệ chủ- vị. Trong mối quan hệ này,
chủ ngữ là thành phần biểu hiện đối tượng được thông báo trong câu…” [63-20] [Dẫn theo
1: 30]
Về tiêu chí hình thức: chủ ngữ chủ yếu được nhận diện dựa vào yếu tố trật tự từ và hư
từ.
Trong tiếng Việt, chủ ngữ thường ở vị trí đi trước vị ngữ. Tác giả Diệp Quang Ban
khẳng định “Trong định nghĩa về chủ ngữ của tiếng Việt không thể không nêu đặc trưng phổ
biến về vị trí không gian đứng trước vị ngữ của chủ ngữ” [4: 113]
Ngoài vị trí đứng trước vị ngữ, trong một số trường hợp, chủ ngữ lại xuất hiện ở vị trí
sau vị ngữ trong chuỗi tuyến tính (tất nhiên đó là trường hợp bị chi phối về mục đích tu từ
hoặc ngữ cảnh tính huống). Chẳng hạn:
- Bỗng từ đằng xa, tiến lại mấy chú bé.
Trong câu, chúng ta có thể dễ dàng nhận ra chủ ngữ khi dựa vào phương thức hư từ.
Thành phần chủ ngữ thường không chấp nhận các quan hệ từ đứng trước nó. Còn ở phía sau
thì có thể chú ý ý kiến sau của tác giả Bùi Minh Toán “Về hư từ …chủ ngữ (nếu được biểu
hiện bằng danh từ) thì có thể xác định bằng các từ chỉ định (này, kia, đó, nọ…). Tác dụng
của các hư từ này là để biểu hiện rõ tính xác định của chủ ngữ”. [10: 91]

1.3.2. Trạng ngữ


Trạng ngữ là thành phần có nhiều ý kiến tranh luận. Trạng ngữ còn được gọi là bổ ngữ
câu hoặc phụ ngữ tình huống hay người ta còn gọi là “Hạn định ngữ” (determinant).
Đảm nhiệm chức vụ trạng ngữ thường là những yếu tố có ý nghĩa ngữ pháp khái quát:
trình bày hoàn cảnh diễn ra sự việc, sự kiện được miêu tả ở nòng cốt câu như không gian,
thời gian, mục đích, nguyên nhân, cách thức, phương tiện…
“Thành phần tình huống có thể bổ sung nghĩa về thời gian, nơi chốn hay về phương
tiện, mục đích, hay về cách thức, trạng thái… nói chung là nghĩa “tình huống”. [53: 224]
“Phụ ngữ tình huống là thành phần phụ của câu, dùng để bổ sung ý nghĩa tình huống
đối với quá trình hoạt động diễn ra trong câu.” [9: 183]
“ Về mặt ngữ nghĩa, trạng ngữ bổ sung cho câu những thông tin về tình huống (thời
gian, nơi chốn, nguyên nhân, cách thức, mục đích, phương tiện,…) tức nó thuộc vai chu tố
của sự tình được biểu thị trong câu”. [52: 349].
Về mặt hình thức, có một số dấu hiệu giúp ta dễ dàng nhận diện được thành phần trạng
ngữ.
Trạng ngữ thường đứng trước nòng cốt câu (tất nhiên vẫn có trường hợp trạng ngữ
đứng sau nòng cốt hoặc đứng giữa chủ ngữ và vị ngữ). Một số tác giả cho rằng: “trạng ngữ
cũng thường được ngăn cách với nòng cốt câu bằng ngữ điệu (khi nói), dấu phẩy (khi viết)”
[7: 165]. Dấu hiệu hình thức này đặc biệt quan trọng khi xem xét trạng ngữ ở vị trí cuối câu
hoặc ở vị trí giữa vị ngữ và chủ ngữ. Nó sẽ giúp ta phân biệt trạng ngữ với bổ ngữ một cách
rõ ràng.
Ví dụ: Anh ấy chùi nước mắt cho nó, với chiếc khăn mà anh ấy đã lau nước mắt cho
tôi. [63: 51]
Ngoài hai dấu hiệu hình thức trên thì việc thường xuyên kết hợp với quan hệ từ ở đằng
trước cũng là một dấu hiệu giúp chúng ta có thể nhận diện được thành phần câu này. Tuy
nhiên, trong một số trường hợp, thành phần trạng ngữ có thể không được dẫn nhập bằng hư
từ. Chẳng hạn:
- Một cây súng mát với ba viên đạn, Kơ Long bám gót giặc từ tờ mờ sáng đến trưa.
[Dẫn theo 53: 226]
1.3.3. Đề ngữ
Đề ngữ, cho đến nay, đã hoàn toàn được công nhận có tư cách của thành phần câu. Đề
ngữ được các nhà nghiên cứu gọi bằng nhiều tên gọi khác nhau như: khởi ngữ, chủ đề, bổ
ngữ- chủ đề, từ- chủ đề, thành phần khởi ý.
Ý nghĩa khái quát của đề ngữ là nêu lên chủ đề của câu nói. Quan niệm này được hầu
hết các nhà nghiên cứu chấp thuận.
“Thành phần khởi ý. Thành phần này giống như từ chủ đề. Nó nêu lên nội dung chính
của thông báo được nói bằng nòng cốt câu.” [40: 151]
“Đề ngữ là loại thành phần phụ của câu đứng trước nòng cốt câu (thường đứng ở đầu
câu, ít khi đứng sau chủ ngữ và đứng trước vị ngữ ), được dùng để nêu lên một vật, một đối
tượng, một nội dung cần bàn bạc với tư cách chủ đề câu chứa nó.” [7: 168,169]
“Khởi ngữ là thành phần phụ, đứng trước nòng cốt câu, dùng để nêu một đối tượng,
một nội dung với tư cách là đề tài của câu nói (do đó có người gọi là đề ngữ).” [38: 58]
“Về mặt nội dung, khởi ngữ chuyên dùng để biểu thị chủ đề của câu nói. Khái niệm
“chủ đề” hay đề tài ở đây được chúng tôi hiểu như C.F. Hockett, theo nghĩa trong một câu,
trước tiên người nói tuyên bố một chủ đề và sau đó nói một điều gì về nó” [Hockett
C.F,1958, tr. 201]” [52: 235].
Về mặt hình thức, để biểu thị chủ đề của câu nói thì vị trí thích hợp của đề ngữ là vị trí
đứng trước nòng cốt câu. Mặc dù về mặt nghĩa, đề ngữ có thể liên hệ với một bộ phận nào đó
của nòng cốt câu như:
- Mà y, y không muốn chịu của Oanh một tí gì gọi là tử tế. (Nam Cao). [Dẫn theo 7:
169]
- Ông giáo ấy, thuốc không hút, rượu không uống. [Dẫn theo 7: 169]
Về mặt ngữ pháp, do đề ngữ là thành phần phụ của câu có quan hệ ngữ pháp với toàn
bộ nòng cốt câu nên đề ngữ được tách ra khỏi nòng cốt câu bằng hư từ “thì” hay “là” hoặc
chỉ tách ra bằng quãng ngắt (dấu phẩy). Chẳng hạn:
- Còn chú nó thì mặc chú nó đấy. (Nguyễn Văn Ngọc)
- Còn chị, chị công tác ở đây à? (Nguyễn Đình Thi)
1.3.4. Bổ ngữ
Với nhiều tên gọi khác nhau, bổ ngữ là một chức vụ cú pháp của câu gây tranh cãi
nhiều nhất giữa các nhà nghiên cứu. Các nhà nghiên cứu đã không thống nhất được với nhau
về các điểm như: cương vị của bổ ngữ trong hệ thống thành phần câu tiếng Việt; tiêu chí
nhận diện bổ ngữ.
Tuy nhiên, trước một vấn đề phức tạp, chúng tôi cũng cần đưa ra cách hiểu về nó mà
chúng tôi cho là phù hợp nhất.
Bổ ngữ có chức năng là bổ sung, làm rõ những đặc trưng nêu ở vị từ. Do đó, ý nghĩa
ngữ pháp khái quát của thành phần đảm nhiệm chức năng bổ ngữ có thể là nêu đối tượng
chịu tác dụng trực tiếp hay gián tiếp của đặc trưng nêu ở vị từ hoặc nêu lên hoàn cảnh (không
gian, thời gian, điều kiện, cách thức, phương tiện.v.v…) mà đặc trưng nêu ở vị từ đòi hỏi
được bổ sung để đáp ứng được nhu cầu cụ thể của giao tiếp.
Các nhà nghiên cứu cũng đã chỉ rõ: “Nói chung bổ ngữ của động từ, tức complements
du verbe là những thành viên thứ yếu để chỉ rõ:
a. Cái đối tượng (người, vật…) mà sự hoạt động phải chuyển đến như là cái đích của
sự hoạt động ấy, hay là tạo ra, hay là bị biến đổi bởi sự hoạt động…
b. Các điều kiện, các trường hợp trong đó sự hoạt động đã diễn ra (thời gian, nơi
chốn, cách thức, mục đích, …và các thứ điều kiện, trường hợp khác…) (175-11)
c. “Những thành phần phụ thêm vào vị từ để làm cho nó trọn vẹn về mặt ngữ pháp gọi
là bổ ngữ.” (64 - 40) [Dẫn theo 1: 33]
Tác giả Diệp Quang Ban cũng đã đưa ra quan điểm tương tự như trên:
“Bổ ngữ là thành phần phụ bằng thực từ đi kèm vị từ (động từ, tính từ) để chỉ cái đối
thể chịu tác dụng trực tiếp hay gián tiếp của đặc trưng nêu ở vị từ, hoặc chỉ các chủ thể gắn
liền với đặc trưng nêu ở vị từ, hoặc chỉ các đặc trưng phụ thêm vào đặc trưng nêu ở vị từ.”
[7: 182, 183]
Như vậy, với chức năng bổ sung, làm rõ nghĩa cho những đặc trưng ở vị từ cho nên vị
trí thích hợp nhất ở tiếng Việt cho thành phần bổ ngữ là đứng sau vị từ. Một số trường hợp
bổ ngữ đứng trước vị từ như:
- Họ giúp anh ấy làm nhà.
- Tôi thay mẹ trông em.
Trường hợp này là có lý do riêng và cần phải được lý giải một cách cặn kẽ.
Thành phần bổ ngữ có thể được nối với vị từ một cách trực tiếp hoặc bằng quan hệ từ.
Điều này do sự chi phối của vị từ mà nó làm rõ, bổ sung, do sự chi phối của nhịp điệu câu
nói, do mục đích thông báo của câu.
Một đặc điểm về hình thức nữa khiến ta có thể nhận diện được bổ ngữ một cách tương
đối chính xác là bổ ngữ không khi nào tách ra khỏi nòng cốt câu bằng quãng ngắt (dấu phẩy)
mà nó trực tiếp gắn bó với vị từ của câu.
Tóm lại: cấu trúc cú pháp của câu, ngoài vị ngữ, thường bao gồm một số thành phần
cú pháp thường gặp như chủ ngữ, đề ngữ, trạng ngữ, bổ ngữ. Các thành phần đó là sự thể
hiện ở bình diện ngữ pháp của các tham tố trong bình diện nghĩa của câu.
Tuy nhiên, thành phần bổ ngữ và trạng ngữ còn nhiều tranh cãi. Theo quan niệm của
một số nhà Việt ngữ học bổ ngữ có hai loại đó là: bổ ngữ bắt buộc và bổ ngữ không bắt
buộc. Và trường hợp bổ ngữ không bắt buộc (hay còn gọi là chu tố) là trạng ngữ. Nghĩa là
các tác giả này cho rằng trạng ngữ là bổ ngữ không bắt buộc. Nhưng vấn đề này cũng chưa
được xác định một cách rõ ràng. Vì vậy, quan điểm của chúng tôi trong luận văn xem trạng
ngữ là thành phần phụ của câu.
1.4. Cấu tạo của diễn tố và chu tố
Trong cấu trúc nghĩa biểu hiện của câu, vị từ làm cốt lõi và quây quần xung quanh là
những tham tố, biểu thị những vai nghĩa nào đó. Có những vai nghĩa bắt buộc, bị quy định
bởi bản chất từ vựng- ngữ pháp của vị từ trung tâm, theo cái nghĩa là những vị từ có bản chất
từ vựng- ngữ pháp khác nhau sẽ quy định các vai nghĩa bắt buộc khác nhau. Nhưng cũng có
những vai nghĩa mang tính tùy nghi, tức không chịu sự quy định bắt buộc như vậy. Trong lý
thuyết ngữ pháp của Tesnière, những vai nghĩa bắt buộc sẽ được hiện thực hóa thông qua các
ngữ đoạn được gọi là diễn tố, còn những vai nghĩa tùy nghi thì được hiện thực hóa thông qua
những ngữ đoạn được gọi là chu tố.
Như vậy diễn tố là những vai nghĩa bắt buộc xuất hiện trong khung vị ngữ, nó quy
định bởi vị từ trung tâm
Về chức năng, theo S. C. Dik, diễn tố sẽ nằm trong một kết cấu vị ngữ hạt nhân còn
chu tố nằm trong kết cấu vị ngữ mở rộng. Chu tố là thành tố không có chức năng xác định
các sự tình theo đúng nghĩa, nhưng nó cung cấp nhiều thông tin gắn với sự tình theo một
tổng thể- bằng cách chỉ định thời gian hoặc vị trí của các sự tình, đưa ra lí do hoặc nguyên
nhân của các sự tình, và cung cấp những thông tin bổ sung khác.
Trong quan hệ với vị từ, diễn tố thường giữ vị trí nòng cốt trong câu, có nghĩa nó bắt
buộc phải có mặt để làm nên sự tình.
Ví dụ: Nam học bài.
Ở ví dụ trên, cái hành động “học” bắt buộc phải có chủ thể “Nam” và đối thể “bài”
tham gia vào sự thể. Và nó là hai tham tố bắt buộc làm nên sự tình trong câu.
Cũng theo S.C. Dik, một kết cấu vị ngữ hạt nhân bao gồm một vị từ gắn kết với một số
thích hợp các ngữ định danh để lắp đầy vị trí các tham tố của vị từ đó.
Như vậy, sự xuất hiện diễn tố và chu tố trong câu là do vị từ quyết định. Chúng ta có
thể xét ví dụ “Nam học bài”. Ở ví dụ này, “Nam” là diễn tố thứ nhất, là chủ thể của hành
động “học” và “bài” là diễn tố thứ hai và là đối thể của “học”. Đây là những yếu tố bắt
buộc xuất hiện trong câu. Nhưng chúng ta cũng có thể mở rộng câu trên như: “Nam học bài
ở nhà”. Vậy ta thấy thêm một tham tố xuất hiện nữa đó là “ở nhà”, tham tố này không bắt
buộc xuất hiện trong câu, nhưng nó có tác dụng bổ sung rõ hơn thông tin cho câu. Và vì thế,
tham tố “ở nhà” đóng vai chu tố cho câu.
Có những vị từ cần có sự xuất hiện hai diễn tố như ví dụ trên, nhưng cũng có những vị
từ xuất hiện ba diễn tố. Những vị từ ba diễn tố thường là những vị từ trao/tặng. Vị từ “tặng”,
có ba diễn tố lần lượt chỉ ra chủ thể của hành động tặng, vật được tặng và người tiếp nhận, ví
dụ:
- Nam tặng sách cho bạn.
Trong cấu tạo của câu, diễn tố và chu tố cũng có thể thể hiện bằng các phương tiện
đánh dấu. Mỗi ngôn ngữ đều có những cách thức để đánh dấu và thể hiện cấu tạo, chức năng
ngữ pháp của diễn tố và chu tố. Tuy nhiên, có một số các phương thức như:
- Dùng trật tự từ: Đặc trưng hình tuyến đã cấp cho trật tự từ một tư cách hiển nhiên để
làm dấu hiệu phân biệt hình thức. Thay đổi trật tự từ là thay đổi hình thức của cái biểu đạt.
Chẳng hạn, vai tác thể và vai bị thể trong tiếng Việt được phân biệt với nhau bằng trật tự: Nó
đánh tôi sẽ khác với Tôi đánh nó.
- Dùng giới từ: có thể xem giới từ là phương thức phổ biến để đánh dấu vai nghĩa.
Trong tiếng Việt vai công cụ có thể đánh dấu bởi giới từ bằng, ví dụ:
Tôi đi làm bằng xe gắn máy.
Vai kẻ hưởng lợi, vai tiếp thể có thể đánh dấu bởi giới từ cho, ví dụ:
- Nam trông nhà cho bà ngoại.
- Tôi gửi bức thư cho chị ấy.
Vai địa điểm, vị trí có thể được đánh dấu bởi một giới từ chỉ địa điểm, chẳng hạn như
giới từ ngoài, ví dụ:
Đứa bé đang chơi ngoài sân.
1.5. Mối quan hệ giữa vai nghĩa với chức năng cú pháp
Hiện nay, khuynh hướng của các nhà ngôn ngữ học hiện đại không chỉ chú ý nghiên
cứu câu ở mặt hình thức mà còn chú trọng nghiên cứu về mặt nghĩa của câu. Nghĩa là việc
nghiên cứu câu không tách biệt các bình diện ngữ pháp và ngữ nghĩa. Cao Xuân Hạo, khi
nghiên cứu về ngữ pháp chức năng cho biết: “Giữa ba bình diện của ngôn từ có một mối
quan hệ khăng khít của hình thức với nội dung, của phương tiện với mục đích. Các bình diện
ấy tồn tại vì nhau và nhờ có nhau, cho nên không thể hiểu thấu đáo bất cứ bình diện nào nếu
không liên hệ với hai bình diện kia, và nhiệm vụ ngữ pháp chức năng chính là xác minh các
mối quan hệ giữa cả ba bình diện” [23: 19]
Cấu trúc vị từ - tham tố là cấu trúc nghĩa, được dùng để biểu thị một phần nghĩa của
câu: nghĩa miêu tả, nó thuộc bình diện ngữ nghĩa. Còn các thành phần như: chủ ngữ, vị ngữ,
trạng ngữ, khởi ngữ…là khái niệm thuộc bình diện ngữ pháp, được dùng để biểu thị cấu trúc
cú pháp gọi tắt là cấu trúc chủ- vị. Hai cấu trúc đó có quan hệ với nhau, bởi chúng là hai mặt
ngữ nghĩa và ngữ pháp của câu, cùng được thể hiện ở một hình thức ngôn ngữ hay có thể nói
đó là mối quan hệ giữa hình thức và nội dung trong đó cấu trúc vị từ - tham tố là nội dung
còn cấu trúc cú pháp là hình thức. do đó, tìm hiểu mối quan hệ giữa cấu trúc vị từ- tham tố
và cấu trúc ngữ pháp của câu là tìm xem nghĩa miêu tả/nghĩa sự vật được thể hiện như thế
nào ở các thành phần câu? Đó là những ý nghĩa gì? Cụ thể hơn là tìm hiểu chức năng nghĩa
(vai nghĩa) của các thành phần câu: chủ ngữ, vị ngữ, trạng ngữ, đề ngữ, bổ ngữ- các thành
phần ngữ pháp tham gia biểu thị nghĩa miêu tả (sự vật) trong câu.
Song, trước khi tìm hiểu nghĩa sự vật của các thành phần câu, cần lưu ý một vài điểm
giữa cấu trúc nghĩa và cấu trúc cú pháp.
- Về yếu tố trung tâm của mỗi cấu trúc: Nếu ở cấu trúc cú pháp, chủ ngữ và vị ngữ
được coi là hai thành phần chính của câu thì ở cấu trúc nghĩa miêu tả- cấu trúc vị từ- tham tố
chỉ có một thành phần chính là vị từ. Vị từ giữ vai trò trung tâm, chi phối, ấn định số lượng
và chức năng nghĩa cho các tham tố trong cùng một cấu trúc. Về mặt ngữ pháp, vị từ giữ
chức năng vị ngữ của câu.
- Về ranh giới từng thành phần trong cấu trúc cú pháp và cấu trúc nghĩa: về cơ bản,
hầu như mỗi thành phần ngữ pháp của câu đều ứng với một thành phần nghĩa. Nói một cách
khác, mỗi thành phần câu đều đảm nhận một vai nghĩa cụ thể. Vì thế ranh giới của thành
phần câu cũng là ranh giới của thành phần nghĩa. Nhưng riêng với thành phần vị ngữ, cụ thể
hơn là khi vị ngữ có cấu tạo là một cụm động từ hay cụm tính từ có bổ ngữ đi sau thì tình
hình không như vậy: ranh giới giữa thành phần câu và thành phần nghĩa không tương ứng
với nhau. Bởi vì với những câu có vị ngữ là một cụm động từ (hay cụm tính từ) thì ở bình
diện ngữ pháp, ta có thể phân tích chúng theo hai cấp độ: cụm từ và câu. ở cấp độ cụm từ,
nếu phân tích cấu tạo của vị ngữ, ta có vị từ trung tâm + bổ ngữ/các bổ ngữ.
Ví dụ: Nam đọc sách.
đọc sách: cụm động từ, gồm động từ trung tâm đọc, bổ ngữ: sách. Nhưng ở cấp độ câu
thì giữ chức năng vị ngữ của câu là cả cụm động từ: đọc sách chứ không phải có riêng từ
đọc.
Còn ở bình diện ngữ nghĩa, tất cả các yếu tố chỉ được xét ở cùng một cấp độ - trong
cấu trúc nghĩa miêu tả - được gọi chung là cấu trúc vị từ - tham thể. Ở cấu trúc đó, vị từ giữ
vai trò trung tâm còn các bổ ngữ và cả chủ ngữ có vị thế bình đẳng với nhau trong mối quan
hệ với vị từ.
Do đó, ranh giới của vị ngữ chỉ trùng với ranh giới của vị ngữ trong các trường hợp vị
ngữ có cấu tạo là một từ. Với các vị ngữ có cấu tạo là cụm động từ hay cụm tính từ có bổ
ngữ đi sau thì khi phân tích nghĩa miêu tả của chúng, sẽ có hai phần nghĩa: nghĩa của vị từ
trung tâm và nghĩa của các bổ ngữ.
Ngoài những trường hợp có sự tương ứng giữa một thành tố trong cấu trúc nghĩa với
một thành phần ngữ pháp của câu (chẳng hạn chủ thể thường được thể hiện ở chủ ngữ của
câu), còn có những trường hợp không có sự tương ứng như thế. Điều này đã được tác giả Đỗ
Hữu Châu khẳng định: “Mặc dầu đến nay chưa thống nhất với nhau về nội dung và số lượng
các cách ngữ nghĩa nhưng những nhà nghiên cứu tán thành hướng này đều nhất trí cho
rằng; a) các cách nghĩa là phạm trù phổ quát mặc sự hình thức hóa chúng thành các phạm
trù của ngữ pháp không lí do thì khác nhau trong các loại hình ngôn ngữ và giữa các ngôn
ngữ thuộc một loại hình; b) các quan hệ cú pháp thuộc cú pháp bề mặt (như quan hệ chủ
ngữ- vị ngữ) có thể tương ứng với các cách sâu khác, nói khác đi không có sự tương ứng một
đối một giữa các quan hệ cú pháp bề mặt với các cách ngữ nghĩa” [12: 15]
Cao Xuân Hạo cũng có chúng quan điểm như trên: “….Mối quan hệ giữa cách tổ chức
của các bình diện không tương ứng một đối một với nhau đến mức có thể nói chẳng hạn
rằng một hình thức X của bình diện cú pháp có chức năng biểu thị ý nghĩa Y của bình diện
nghĩa học và chỉ có chức năng đó thôi” [23: 20]
Trong thực tế, ta thấy cùng một vai nghĩa có thể được biểu hiện thành những thành
phần ngữ pháp khác nhau. Điều đó tùy thuộc vào nhu cầu trong từng hoàn cảnh giao tiếp cụ
thể. Ví dụ: chủ ngữ và bổ ngữ có thể đều biểu hiện vai nghĩa đối thể, hay tiếp thể:
- Ngày nay, hoa cúc vẫn được dùng để chữa bệnh. [Dẫn theo 38: 155]
- Bức tranh của nó được trao giải nhất. [Dẫn theo 38: 155]
- Thần dạy dân cách trồng trọt, chăn nuôi và cách ăn ở. [Dẫn theo 38: 161]
Hoặc bổ ngữ và trạng ngữ đều biểu hiện vai nghĩa thời gian, không gian, nguyên nhân,
mục đích,..
Ví dụ:
- Từ đầu năm đến giờ, chẳng mấy khi cô ấy ở nhà. [Dẫn theo 38: 158]
- Dưới bóng tre của ngàn xưa, thấp thoáng mái đình, mái chùa cổ kính. [Dẫn theo 38:
158]
- Nó học suốt hai tiếng đồng hồ. [Dẫn theo 38: 162]
- Vì hai đứa trẻ mồ côi, họ có thể quên cả thân mình. [Dẫn theo 38: 159]
- Để thường mỗi thành tích của nó, quan thầy gắn cho một cái mề đay. [Dẫn theo 38:
160]
Một số thành phần ngữ pháp trong câu không biểu hiện vai nghĩa nào trong cấu trúc
nghĩa miêu tả. Đó là các thành phần: tình thái ngữ (chuyên thể hiện nghĩa tình thái, không
tham gia biểu hiện nghĩa miêu tả), liên ngữ (chuyên thực hiện chức năng nối kết các câu, các
đoạn), phụ chú ngữ (thực hiện chức năng ghi chú thêm thông tin bổ sung). Định ngữ cũng
không biểu hiện một vai nghĩa riêng biệt nào mà cùng với danh từ trung tâm của nó biểu hiện
một vai nghĩa thống nhất.
Trong những tình huống giao tiếp cụ thể, một hay một vài vai nghĩa trong cấu trúc vị
từ- tham tố (kể cả các vai nghĩa là diễn tố) có thể không cần biểu hiện thành phần ngữ pháp
trong câu, tuy rằng trong thực tế, các tham tố đó vẫn tham dự trong sự tình mà câu phản ánh.
Đó chính là trường hợp của các dạng rút gọn (tỉnh lược) của câu. Ví dụ:
- Cho em cái kẹo này!
- Nấu cơm giùm chị nhé!
- Đóng cửa giùm đi!
Đây là những trường hợp trong hội thoại trực tiếp, người nói và người nghe đối mặt
với nhau. Trong thực tế các vị từ “cho”, “nấu”, “đóng” đều bắt buộc phải có tham tố chủ
thể hành động tác động, tuy nhiên trong ngữ cảnh giao tiếp trên, chúng có thể bị lược đi.
Với tinh thần như vậy, trong luận văn này, chúng tôi sẽ chỉ đề cập đến một số các vai
nghĩa tương ứng với các thành phần: chủ ngữ, trạng ngữ, bổ ngữ, đề ngữ…. của câu.
TIỂU KẾT
Qua những nội dung trình bày trên, chúng tôi tóm lại một số điểm sau:
- Vấn đề vai nghĩa là một vấn đề phức tạp được đã nghiên cứu theo nhiều quan điểm
khác nhau. Nhìn chung, các nhà nghiên cứu ngôn ngữ chưa có sự thống nhất cao trong việc
định nghĩa và miêu tả các vai nghĩa. Danh sách các vai nghĩa và tên gọi các vai nghĩa cho
đến nay chưa có sự thống nhất ở các nhà nghiên cứu. Luận văn chọn cách hiểu vai nghĩa là
“quan hệ ngữ nghĩa của ngữ danh từ đối với vị từ trong câu, là cách thức mà thực thể do
ngữ danh từ biểu thị góp phần vào sự tình được câu diễn đạt” .
- Khung vị ngữ bao gồm vị từ và các tham tố của vị từ. Các tham tố nêu đặc trưng
bằng các chức năng nghĩa trong mối quan hệ với vị từ. Các tham tố chính là các vai nghĩa
trong khung vị ngữ. Các vai nghĩa được khái quát thành hai loại: vai nghĩa bắt buộc (diễn tố)
và vai nghĩa không bắt buộc (chu tố).
- Cấu trúc cú pháp thuộc bình diện ngữ pháp. Trong cấu trúc cú pháp của câu, các từ
ngữ diễn đạt các yếu tố của sự việc giữ các chức năng cú pháp. Các chức năng cú pháp được
gọi là thành phần câu. Dựa vào tiêu chí ngữ nghĩa và hình thức, chúng tôi xác định một số
thành phần câu được thống nhất ở các nhà nghiên cứu như: chủ ngữ, vị ngữ, đề ngữ, trạng
ngữ, bổ ngữ. Tuy nhiên, thành phần trạng ngữ và bổ ngữ là hai thành phần câu mà các nhà
nghiên cứu còn nhiều tranh cãi và chưa có sự thống nhất cao.
- Trong khung vị ngữ, vị từ là yếu tố quyết định sự xuất hiện của diễn tố và chu tố. Có
những vị từ đơn trị (một diễn tố), có những vị từ song trị (hai diễn tố), cũng có những vị từ
tam trị (ba diễn tố).
- Cấu trúc vị từ- tham tố (hay vai nghĩa) của khung vị ngữ thuộc cấu trúc nghĩa biểu
hiện và thuộc bình diện ngữ nghĩa. Các thành phần câu như chủ ngữ, vị ngữ, trạng ngữ, đề
ngữ …. thuộc bình diện ngữ pháp. Hai cấu trúc này có quan hệ với nhau. Khi được hiện thực
hóa trong câu, một số vai nghĩa có thể tương ứng với các thành phần câu như : chủ ngữ,
trạng ngữ, bổ ngữ, đề ngữ…
Chương 2:
MỘT SỐ VAI NGHĨA VỚI CHỨC NĂNG
CÚ PHÁP CỦA NÓ TRONG CÂU TIẾNG VIỆT
Khi được phản ánh vào câu thì vị từ và các vai nghĩa được người nói (người viết) cấu
trúc hóa (tổ chức) theo các quan hệ ngữ pháp. Vị từ và các vai nghĩa sẽ được lựa chọn để
đảm nhiệm các chức năng cú pháp khác nhau trong câu. Dưới đây chúng tôi khảo sát chức
năng cú pháp của một số vai nghĩa: vai đối thể, vai tạo thể, vai nguồn, vai phương thức, vai
vị trí- không gian. Những vai nghĩa được chọn khảo sát, chúng tôi thấy, về tên gọi, được hầu
hết các nhà ngôn ngữ học tương đối thống nhất.
Những tư liệu thực tế và kết quả nghiên cứu của các công trình đi trước đã cho thấy:
các vai nghĩa như vai đối thể, vai tạo thể, vai nguồn, vai phương thức, vai vị trí- không gian
có thể được cấu trúc hóa về mặt ngôn ngữ thành các thành phần ngữ pháp khác nhau trong
câu như: bổ ngữ, chủ ngữ, đề ngữ, trạng ngữ. Về chức năng cú pháp, cũng có nhiều quan
điểm cho rằng các chức năng cú pháp của câu chủ yếu là chức năng chủ ngữ, đề ngữ, trạng
ngữ. Bổ ngữ là chức năng của các thành tố trong ngữ. Tuy nhiên, trong luận văn, chúng tôi
khảo sát chức năng bổ ngữ vì nó ứng với khá nhiều vai nghĩa trong khung vị ngữ đặc biệt là
những vai nghĩa đã khảo sát trong luận văn. Ở chương này, chúng tôi sẽ lần lượt khảo sát và
trình bày chức năng cú pháp của các vai nghĩa trong câu tiếng Việt.
Khi xem xét các chức năng cú pháp của các vai nghĩa, luận văn chủ yếu đi khảo sát
chức năng cú pháp của các vai nghĩa trên về các mặt:
- Vị trí của của thành phần cú pháp mà vai nghĩa đảm nhận so với vị từ.
- Cấu tạo của thành tố biểu thị vai nghĩa
Sau đó, chúng tôi sẽ lần lượt khảo sát trên ngữ liệu để đưa ra nhận xét về tỉ lệ các chức
năng cú pháp mà từng vai nghĩa có thể đảm nhận.
2.1. Vai nghĩa đối thể (patient)
Trong khung vị ngữ, đối thể là vai nghĩa bắt buộc tham gia vào cấu trúc nghĩa của câu.
Vai nghĩa đối thể là loại diễn tố chịu sự quy định của các vị từ hành động chuyển tác ngoại
động [+ động] và [+ chủ ý]. Cũng vì thế, chúng có quan hệ chặt chẽ với vị từ. Đối thể là vai
nghĩa luôn có mặt trong các sự thể chỉ hành động chuyển tác. Và chỉ có sự xuất hiện của đối
thể trong câu mới làm cho câu đầy đủ nội dung thông báo. Nhưng đây cũng là một vai nghĩa
đa dạng, phong phú và dễ nhầm lẫn với các vai nghĩa khác khi nhận dạng. Vì đây là vai
nghĩa được quy định bởi hành động chuyển tác nghĩa là một hành động có tác động đến một
đối tượng, làm cho nó thay đổi trạng thái hoặc vị trí, làm cho nó bị hủy diệt, không còn tồn
tại nữa, hoặc ngược lại, tạo ra một vật trước kia chưa có. Cũng chính vì sự phong phú và đa
dạng được quy định của hành động chuyển tác ở vị từ mà vai nghĩa đối thể được các nhà
nghiên cứu chia làm nhiều nhóm nhỏ và được các nhà nghiên cứu đặt tên bằng những vai
nghĩa khác nhau. Ở luận văn này, chúng tôi dùng tên gọi đối thể (patient) với ý nghĩa “một
người hay vật bị tác động” hay “cái đối tượng bị tác động” hay là “kẻ mà quá trình mở rộng
tới” [Halliday, 1994: 110] [Dẫn theo 44: 62]. Có lẽ, cũng vì ý nghĩa này mà có tác giả đã gọi
vai đối thể là “thụ nhân” [30: 131] hoặc “bị thể”. [28: 43]
Trong quá trình khảo sát về vai nghĩa đối thể, chúng tôi nhận thấy vai nghĩa này có thể
đảm nhận các chức năng cú pháp như bổ ngữ, chủ ngữ, đề ngữ.
2.1.1. Chức năng bổ ngữ
Qua khảo sát ngữ liệu, chúng tôi thấy chức năng bổ ngữ là chức năng thường xuyên,
chủ yếu của vai nghĩa đối thể. Trong tổng số 350 ngữ liệu khảo sát về vai đối thể, chức năng
bổ ngữ có 292 trường hợp, chiếm tỉ lệ 83% (xem bảng tổng hợp 2.1)
2.1.1.1. Vị trí của bổ ngữ đối thể
Khi đóng vai trò là bổ ngữ trong câu, vai nghĩa đối thể thường có một vị trí tương đối
ổn định là đứng sau vị từ. Ví dụ:
(1) Thầy thơ lại rút chiếc hèo hoa ở giá gươm, phe phẩy roi, đi xuống phía trại giam
tối om. [74: 109]
(2) Ngục quan băn khoăn ngồi bóp thái dương. [74: 109]
Ở những ví dụ (1), (2) các bổ ngữ đối thể chiếc hèo hoa, thái dương được đặt ngay sau
các vị từ tác động rút, bóp. Chiếc hèo hoa, thái dương là đối tượng chịu tác động trực tiếp
của hành động rút, bóp. Việc đặt các đối tượng bị tác động ngay sau vị từ là bắt buộc, nó có
tác dụng bổ sung ý nghĩa cho sự tình, làm thay đổi vị trí của đối tượng hoặc tác động làm
thay đổi một mặt nào đó của đối tượng.
Trong cấu trúc nghĩa biểu hiện của câu, đối thể đóng vai trò là diễn tố thứ hai. Qua
khảo sát ngữ liệu, chúng tôi thấy bổ ngữ đối thể hầu hết được đặt ngay sau vị từ . Do thường
được đặt ngay sau vị từ nên bổ ngữ đối thể được gọi là bổ ngữ trực tiếp, ví dụ:
(4) Hắn nhặt một hòn gạch toan đập đầu. [61: 68]
(5) Ngoài ra, hắn còn khoác một khẩu cạc bin và một cái cúp cúp. [64: 51]
Hầu hết các trường hợp bổ ngữ đối thể xuất hiện trực tiếp sau vị từ không cần giới từ.
Theo tác giả Nguyễn Thị Quy [42], riêng với một số vị từ như đánh, phang, quất, dạy...thì
trước bổ ngữ chỉ đối tượng bị tác động có giới từ “cho”. Ví dụ:
(6) a. phang cho nó một vố.
b. mắng cho thằng ấy một chầu.
c. quất cho nó mấy roi.
d. dạy cho chúng một bài học.[Dẫn theo 42: 178]
Ở những ví dụ (6a, b, c, d), bổ ngữ đối thể nó, thằng ấy, chúng được xử lý như bổ ngữ
nhận thể. Những trường hợp như ví dụ (6a, b, c, d) hầu hết xuất hiện trong khẩu ngữ hoặc
những đoạn đối thoại. Khảo sát ngữ liệu, chúng tôi thấy rất ít gặp những trường hợp này.
Tuy nhiên, cũng có trường hợp bổ ngữ đối thể được xử lý như bổ ngữ tiếp thể xuất hiện
trong câu với vị từ tợp, thử ở những ví dụ sau:
(7) Nó mới tợp cho chị ả một miếng nặng. [69: 72]
(8) Giấy má gì đấy! Con mẹ đĩ Dậu? Đơn kiện phải không? Ừ! Được! Có giỏi thì đi
kiện ngay ông đi! Ông thử cho mày thêm một trận nữa, để mày đi kiện luôn thể. [86: 55].
Ở ví dụ (8) câu “Ông thử cho mày thêm một trận nữa, để mày đi kiện luôn thể”. Vị từ
thử trong văn cảnh thực ra có ý nghĩa là đánh và bổ ngữ đối thể mày được xử lý như bổ ngữ
tiếp thể.
Đối với trường hợp khung vị ngữ có nhiều bổ ngữ cùng đồng thời xuất hiện sau vị từ
thì bổ ngữ đối thể vừa có khả năng đứng trước vừa có khả năng đứng sau các bổ ngữ khác
(bổ ngữ tiếp thể, bổ ngữ lợi thể, bổ ngữ phương thức, bổ ngữ nguồn ..). Mặc dù tất cả các bổ
ngữ đều nằm trong khung vị ngữ, nhưng việc đứng trước hay sau các bổ ngữ khác của bổ
ngữ đối thể có thể do ngữ điệu, do tính chất dễ nghe của câu nói, hoặc do tiêu điểm của
thông tin.
+ Trường hợp bổ ngữ đối thể xuất hiện sau bổ ngữ tiếp thể:
Ví dụ: (9a) Liêu chết được hai ngày thì anh Thế về đưa cho Liêu một miếng giấy. [79:
158]
Bổ ngữ đối thể một miếng giấy trong ví dụ (9a) không xuất hiện trực tiếp sau vị từ đưa
mà xuất hiện sau bổ ngữ tiếp thể Liêu. Một miếng giấy là đối tượng đã bị dịch chuyển vị trí
do hành động đưa.
(10a) Họ sẽ gửi cho Điền những bức thư xinh xinh ướp nước hoa. [61: 264]
Ở ví dụ (10a) bổ ngữ đối thể những bức thư xinh xinh ướp nước hoa xuất hiện sau bổ
ngữ tiếp thể Điền có nghĩa là đối tượng những bức thư xinh xinh ướp nước hoa đã được dịch
chuyển vị trí từ họ chuyển sang tiếp thể Điền.
Như vậy, qua những ví dụ (9a), (10a) bổ ngữ đối thể xuất hiện với vị trí là diễn tố thứ
ba, bị ngăn cách với vị từ bởi bổ ngữ tiếp thể. Hầu hết các bổ ngữ đối thể ở vị trí sau bổ ngữ
tiếp thể đều chủ yếu xuất hiện trong câu có vị từ trao gửi như : cho, biếu, cống, trao, cấp,
hiến, ban, bán, giao, chuyển, truyền, thí, bố thí, nộp, nhượng, phát chia, phân, gửi, tặng,
dâng, thưởng, trả…Mặc dù bổ ngữ đối thể và bổ ngữ tiếp thể đều nằm ở phần thuyết- phần
mang thông tin “mới”- của cấu trúc thông báo, nhưng tiêu điểm thông báo thường chỉ tập
trung vào một loại bổ ngữ nào đó. Cho nên, nếu tiêu điểm thông báo là bổ ngữ đối thể, thì
lúc đó, bổ ngữ đối thể thường xuất hiện ở vị trí sau bổ ngữ tiếp thể. [Dẫn theo 1: 113-114]
Trọng tâm thông báo là một cơ sở để người nói sắp xếp trật tự các thành phần cú pháp.
Ngoài ra, trật tự trước sau của các thành phần cú pháp còn do cách nhìn nhận và miêu tả sự
tình của người nói. Vị trí của bổ ngữ đối thể một miếng giấy và những bức thư xinh xinh ướp
nước hoa trong ví dụ (9a) và (10a) có thể đặt ngay sau vị từ hạt nhân đưa và gửi ở ví dụ
(9b) và (10b):
(9b) Liêu chết được hai ngày thì anh Thế về đưa một miếng giấy cho Liêu.
(10b) Họ sẽ gửi những bức thư xinh xinh ướp nước hoa cho Điền.
Rõ ràng cách nhìn nhận và miêu tả sự tình ở (9b) và (10b) đã có sự thay đổi và chúng
ta có thể khẳng định rằng khi trật tự các bổ ngữ thay đổi thì không chỉ tiêu điểm thông báo
của sự tình thay đổi mà ở đó còn là sự thay đổi về cách nhìn nhận và miêu tả sự tình.
Theo tác giả Lâm Quang Đông [21:196], trật tự tác thể + tiếp thể + đối thể là trật tự
bình thường, cơ bản nhất, phổ biến nhất đối với câu có vị từ trao tặng trong tiếng Việt. Trật
tự này chiếm tới 60% trong số được khảo sát trong tiếng Việt khi danh ngữ thể hiện tác thể
đứng đầu câu. Như vậy có nghĩa là trường hợp bổ ngữ đối thể bị ngăn cách vị từ bởi bổ ngữ
tiếp thể chiếm số lượng cao trong câu tiếng Việt có vị từ trao tặng. Điều này còn được lý giải
như sau:
Thứ nhất là do lý do khối lượng (độ dài) của các danh ngữ thể hiện tiếp thể và đối thể:
danh ngữ ngắn hơn được xếp trước, danh ngữ dài hơn được xếp sau trong trật tự tuyến tính
của các thành phần câu. Ví dụ:
(11) Sáng hôm sau, đồng chí Cận đem gửi cho Núp một gùi muối đầy, sáu cái rìu rựa,
hai cây súng dài, một ảnh Bok Hồ, một lá cờ và một trăm cây kim… [79: 139]
Bổ ngữ đối thể một gùi muối đầy, sáu cái rìu rựa, hai cây súng dài, một ảnh Bok Hồ,
một lá cờ và một trăm cây kim.. ở ví dụ (11) là những danh ngữ có độ dài dài hơn bổ ngữ
tiếp thể Núp nên thông thường ta thấy nó được đặt sau tiếp thể.
Thứ hai, theo Lâm Quang Đông [21: 200, 201] cũng cần chú ý những nhân tố sau-
những nhân tố cũng có tác động tới trật tự của các thành phần câu thể hiện các tham thể đó là
tính bất định / xác định (indefinite/ definite) và/ hoặc tính cụ thể / không cụ thể (specific /
non-specific) của các đối tượng tham gia sự tình cho/ tặng, đặc biệt là đối thể.
Với đối thể, đặc trưng [+/- xác định] và/ hoặc [+/- cụ thể] quyết định mức độ tham gia
sự tình của nó, và cuối cùng là quy định vị trí của nó trong cấu trúc cú pháp. Khi đối thể có
đặc trưng [- xác định] và [- cụ thể], nó buộc phải đi liền với vị từ.
Ví dụ: (12a) Cô đã lấy nước cho các cụ chưa? [dẫn theo 21: 201]
Không thể nói: (12b) Cô đã lấy cho các cụ nước chưa? [dẫn theo 21: 201]
Ngược lại khi đối thể có một trong hai đặc trưng [+ xác định] và [cụ thể] nó được tự
do hơn về vị trí: nó có thể đứng trước hoặc sau tiếp thể.
+ Ngoài trường hợp bổ ngữ đối thể xuất hiện sau bổ ngữ tiếp thể, bổ ngữ đối thể còn
có thể xuất hiện sau bổ ngữ người hưởng lợi. Ví dụ:
(13) Chị Thủy luộc cho tôi con gà. (72-NHT) [Dẫn theo 1: 115]
+ Bổ ngữ đối thể còn có thể xuất hiện sau bổ ngữ đích, ví dụ:
(14) Mẹ Sáu đem trải lên bộ ván gõ chiếc chiếu bông. [64: 41]
+ Bổ ngữ đối thể có thể xuất hiện sau bổ ngữ phương thức. Ví dụ:
(15) Thằng Xăm cởi phanh áo. [64:52]
Tóm lại, do mục đích thông báo, do sự nhìn nhận và miêu tả sự tình mà người nói có
thể đặt của bổ ngữ đối thể so với vị từ hạt nhân ở những vị trí khác nhau. Qua khảo sát ngữ
liệu, chúng tôi thấy vị trí chủ yếu của bổ ngữ đối thể là xuất hiện trực tiếp sau vị từ hạt nhân.
Ngoài ra, cũng có một số trường hợp bổ ngữ đối thể có thể xuất hiện sau các bổ ngữ khác
như bổ ngữ tiếp thể, bổ ngữ người hưởng lợi, bổ ngữ nguồn, bổ ngữ vị trí hay hướng không
gian của hành động. Tuy nhiên, vị trí của bổ ngữ đối thể sau các bổ ngữ khác không nhiều.
2.1.1.2. Cấu tạo của bổ ngữ đối thể
Trong cấu trúc cú pháp của câu, hầu hết các trường hợp bổ ngữ đối thể được biểu hiện
bằng một danh từ, danh ngữ hay một đại từ nhân xưng hồi chỉ làm bổ ngữ trực tiếp đặt sau vị
từ, có nghĩa là bổ ngữ đối thể có quan hệ chặt chẽ với vị từ đến nỗi không cần dùng đến các
quan hệ từ (hay giới từ). Ví dụ:
(16) Tới cõng Thẩm nãy giờ mệt thở hồng hộc. [64: 91]
(17) Anh Tám cầm tấm ảnh nhìn chăm chú. [64: 40]
(18) Thậm chí bà Cà Xợi đã liệng vãi các thứ ấy ra sân, rồi bưng mặt khóc. [64: 59]
Bổ ngữ đối thể Thẩm trong ví dụ (16) là một danh từ, còn ở ví dụ (17) bổ ngữ đối thể
tấm ảnh và bổ ngữ đối thể các thứ ấy ở ví dụ (18) đều được cấu tạo là một danh ngữ đặt ngay
sau vị từ cầm và liệng vãi.
Qua khảo sát ngữ liệu, chúng tôi thấy, khi cấu tạo là một đại từ nhân xưng hồi chỉ, loại
bổ ngữ này có thể bị tỉnh lược. Những trường hợp này thường xuất hiện ở những đoạn hội
thoại trực tiếp trong tác phẩm văn học hoặc trong giao tiếp hàng ngày. Ví dụ:
(19) Anh Dậu tuy đón lấy bức văn tự, nhưng vì cánh tay bị sợi dây thừng ghì chặt quá,
anh không thể đưa nó gần mắt mà coi (1). Chị Dậu lại phải cầm lấy Ø và chìa lên tận ngang
mặt cho chồng lẩm nhẩm đánh vần Ø (2). [86: 50]
Trong đoạn văn ở ví dụ (19), câu (1) đối thể bức văn tự ở vế đầu đã được thay thế
bằng đại từ nó ở vế sau. Câu (2) đối thể bức văn tự đã hoàn toàn bị tỉnh lược.
Khi bổ ngữ đối thể đứng sau những vị từ hành động như: phang, mắng, quất,
dạy…thì bổ ngữ đối thể thường được xử lý như vai tiếp thể hoặc vai lợi thể và cấu tạo của bổ
ngữ đối thể ở dạng này thường có cấu tạo là một đại từ hoặc danh từ đứng sau giới từ cho. Ví
dụ:
Dẫn lại ví dụ (6) a. phang cho nó một vố.
b. mắng cho thằng ấy một chầu.
c. quất cho nó mấy roi.
d. dạy cho chúng một bài học. [Dẫn theo 42: 178]

2.1.2. Chức năng chủ ngữ


Bổ ngữ là chức năng chủ yếu của vai nghĩa đối thể, còn chức năng chủ ngữ không phải
là chức năng chính, chức năng cơ bản của vai nghĩa đối thể khi được ngữ pháp hóa trong
câu. Vì vậy, khi khảo sát ngữ liệu, chức năng chủ ngữ của vai nghĩa đối thể chỉ có 28 trường
hợp, chiếm 8% trong tổng số 350 ngữ liệu được khảo sát (xem bảng 2.1).
Một điều thường thấy là chủ ngữ với nội dung ý nghĩa khái quát: thành phần câu nêu
lên đối tượng thông báo của câu thường do các tham tố chủ thể đảm nhận. Vì vậy chủ ngữ
đối thể nếu có xuất hiện trong câu thường chủ yếu ở những loại câu có nghĩa bị động. Ví dụ:
(20) Ngày nay, hoa cúc vẫn được dùng để chữa bệnh. [Dẫn theo 25: 155]
(21) Cây kim của Núp chuyền tay tất cả phụ nữ trong làng. [79: 62]
(22) Pháp trường lập ở trong ấy kia. [75: 113]
2.1.2.1. Vị trí của chủ ngữ đối thể
Với nội dung ý nghĩa khái quát là nêu lên đối tượng thông báo của câu nên vị trí phù
hợp nhất của chủ ngữ là vị trí đứng trước vị ngữ của câu. Ví dụ:
(23) Cái bản tính tốt của người ta bị những nỗi lo lắng, buồn đau ích kỉ che lấp mất.
[61: 16]
(24a) Cái sự thật tàn nhẫn luôn luôn bày ra đấy. [61: 266]
(25) Cái chết bị kìm lại trong một phút lại bắt đầu chuyển động. [61: 197]
Xét ví dụ (23) và (25) đối thể cái bản tính tốt của người ta và cái chết đảm nhận chức
vụ chủ ngữ được đặt ở vị trí đầu câu của loại câu có ý nghĩa bị động. Chủ ngữ thường xuất
hiện trước vị ngữ là một động ngữ có mở đầu bằng vị từ bị, được. Riêng ở ví dụ (24a) cái sự
thật tàn nhẫn đóng vai trò là chủ ngữ trong câu không có sự xuất hiện bị, được nhưng người
đọc cũng có thể ngầm hiểu ý nghĩa của câu hoàn chỉnh là:
(24b) Cái sự thật tàn nhẫn luôn luôn được bày ra đấy.
Trong khung vị ngữ (24b) có đối thể cái sự thật tàn nhẫn đóng vai trò chủ ngữ còn tác
thể không hiển lộ và người đọc cũng có thể hiểu tác thể ở đây được ngầm ẩn. Và trường hợp
tác thể ngầm ẩn hay không hiển lộ cũng xuất hiện khá nhiều trong khung vị ngữ có đối thể
đảm nhận chức năng chủ ngữ.
Qua cứ liệu khảo sát, thành phần chủ ngữ đối thể không xuất hiện thường xuyên trong
câu như bổ ngữ đối thể. Chủ ngữ đối thể chỉ xuất hiện khi người nói muốn nhấn mạnh vào
đối tượng chịu sự tác động của hành động, muốn đặt trọng tâm thông báo về đối tượng chịu
sự tác động lên đầu câu.
Và những trường hợp như ở ví dụ (23), (24a,b), (25) vừa dẫn trên, theo Nguyễn Văn
Lộc [35] là những trường hợp đối thể trong câu bị cải biến vị trí ở dạng bị động. Bởi cũng
theo tác giả đây là dạng những kết tố đối thể tác động và chúng có những đặc điểm chung:
- Về nội dung, kết tố đối thể tác động chỉ sự vật chịu sự tác động trực tiếp của hoạt
động (tác động về mặt vật lý hay tâm lý).
- Về hình thức, nét chung của kết tố đối thể tác động là có khả năng tham gia cải biến
bị động.
Cải biến bị động về thực chất, chính là cải biến của động từ tác động (động từ chủ
động ngoại hướng) và các kết tố đối thể đặc trưng cho nó. Rõ ràng, nếu không có động từ tác
động và kết tố đối thể tác động thì không thể có cải biến bị động. Vai trò quan trọng của cải
biến bị động còn thể hiện ở chỗ đặc tính ngữ pháp của động từ và số lượng biến thể bị động
có thể có. [35: 112].
Chẳng hạn các động từ được đặc trưng bởi một kết trị đối thể tác động kiểu như: ăn,
đọc, viết, đánh, mắng, phá…. nói chung chỉ cho phép một biến thể bị động. Còn các động từ
có hai kết trị đối thể tác động (ví dụ: trao, gửi, tặng,…) cũng thường cho phép tạo hai biến
thể bị động. Ví dụ:
So sánh:
- (26a) Nó đập ghè rượu. [79: 29] 
- (26b) Ghè rượu bị nó đập.
- (27a) Núp đưa cái rựa cuối cùng cho Liêu. [79: 107]
- (27b) Cái rựa cuối cùng được Núp đưa cho Liêu.
Như vậy khả năng tham gia cải biến bị động của các vai nghĩa đối thể tác động không
như nhau và phụ thuộc vào ý nghĩa của động từ hạt nhân và ý nghĩa của các vai nghĩa cụ thể.
Nguyễn Văn Lộc [35] cho rằng: “Trong số các kiểu kết tố đối thể tác động, có khả năng tham
gia cải biến bị động mạnh nhất là kết tố đối thể bên các động từ tác động tích cực (ăn, đánh,
đốt, phá, giết, cắn, xé, chặt, cắt, vv…)
Trong quá trình khảo sát, chúng tôi nhận thấy, cải biến bị động với các động từ tác
động tích cực và các vai nghĩa đối thể đảm nhiệm chức năng chủ ngữ đặc trưng cho chúng
rất phổ biến. Ví dụ:
(28) Tôi đánh nó  Nó bị tôi đánh.
(29) Chó cắn mẹ nó Mẹ nó bị chó cắn.
(30) Chúng trói chặt Tnú  Tnú bị chúng trói chặt.
Trường hợp chủ ngữ đối thể ở vị trí đầu câu, trước vị ngữ chủ yếu là những trường
hợp cải biến vị trí bị động. Và sự hiện thực hóa khả năng cải biến bị động của vai nghĩa đối
thể tác động cũng bộc lộ ở mức độ không như nhau mà phụ thuộc vào ý nghĩa tình thái của
động từ hạt nhân. Do đó, vị trí đứng ở đầu câu của chủ ngữ đối thể khi được cải biến vị trí
trong câu tiếng Việt không nhiều, nếu có là do mục đích thông báo hoặc do gắn với ý nghĩa
tình thái trong hoạt động giao tiếp.
Ví dụ: (31) Hai bắp tay trần trắng tươi của chị bị sợi dây rút ngược, tréo ngoặt…. [64:
216]
Ví dụ (31) bị xuất hiện sau đối thể báo trước một sự tình bất lợi sợi dây rút ngược,
tréo ngoặt cho cái đối tượng được chọn làm chủ ngữ Hai bắp tay trần trắng tươi của chị.
Trái lại, được nhận định là một sự tình nào đó “có lợi” cho chủ thể. Ví dụ:
(32) Vết thương của Thẩm đã được băng kỹ. [64: 100]
Trong một số trường hợp, chủ ngữ đối thể cũng có thể xuất hiện và xuất hiện ở vị trí
đầu câu của câu trạng thái. Ví dụ:
(33a) Tôi mở cửa.
(33b) Cửa mở rồi! (câu trạng thái)
Ở ví dụ (33a) cửa là đối thể đảm nhận chức năng bổ ngữ vì nó đứng sau động từ mở.
Và động từ mở là động từ tác động. Nhưng ở ví dụ (33b) thì đối thể cửa lúc này là đối tượng
mang trạng thái được đứng ở vị trí đầu câu đảm nhận chức năng chủ ngữ, động từ mở chuyển
thành động từ trạng thái.
Theo tác giả Tô Minh Thanh [43], đối thể là đối tượng của hành động được thể hiện
bằng vị từ ngôn liệu vốn là [+song trị], [+ tác động] và [+ mục tiêu] nhưng “đã chuyển thành
vị từ trạng thái.” không hiển lộ trong câu là tác thể/ lực tác động vì một vị từ mang trạng thái
thì chỉ có một diễn tố chủ thể hay đối tượng mang trạng thái, hay ở trong trạng thái” [Nguyễn
Thị Quy, 1995: 86] [Dẫn theo 43: 70]. Như vậy trường hợp đối thể đảm nhận chức năng chủ
ngữ như ví dụ (33a) và (33b) thường là những đối tượng mang trạng thái hoặc ở trong trạng
thái. Ví dụ:
(34) Cánh cửa đề lao mở rộng. [75: 111]
(35) Thế là ca nước gừng đã dốc tuột vào mồm nó. [61: 265]
(36) Cửa khóa chặt. [63: 23]
Tóm lại, khi đảm nhận chức năng chủ ngữ, đối thể thường đứng ở đầu câu bị động
hoặc câu trạng thái. Và qua khảo sát ngữ liệu, trường hợp đối thể đảm nhiệm chức năng chủ
ngữ xuất hiện không nhiều và nếu có là do mục đích thông báo của người nói hoặc người nói
muốn diễn đạt trạng thái của sự tình.
2.1.2.2. Cấu tạo của chủ ngữ đối thể
Khi đối thể đảm nhận vai trò là chủ ngữ trong câu, qua ngữ liệu khảo sát, chúng tôi
nhận thấy hầu hết đối thể đều được cấu tạo bằng một danh từ hoặc danh ngữ. Ví dụ:
(37) Câu chuyện bị cắt bởi những tiếng cười của Tân và hai người chiến sĩ. [83: 434]
(38) Cánh cửa nhà ông Tư Đờn đã khép chặt. [64: 67]
Ở ví dụ (37) chủ ngữ đối thể câu chuyện được cấu tạo là một danh từ, ví dụ (38) chủ
ngữ đối thể Cánh cửa nhà ông Tư Đờn lại được cấu tạo bằng một danh ngữ.
2.1.3. Chức năng đề ngữ
Vai nghĩa đối thể là đối tượng chịu sự tác động vì vậy chức năng cú pháp chủ yếu là
chức năng bổ ngữ. Tuy vậy, qua khảo sát ngữ liệu, chúng tôi cũng thấy xuất hiện một số
trường hợp đối thể đảm nhận chức năng đề ngữ trong câu. Qua thống kê ngữ liệu, đề ngữ đối
thể có 30 trường hợp, chiếm tỉ lệ 9% trong tổng số 350 ngữ liệu được khảo sát. (xem bảng
tổng hợp 2.1)
2.1.3.1. Vị trí của đề ngữ đối thể
Thông thường khi đóng vai trò là đề ngữ trong câu, vai nghĩa đối thể thường đứng ở vị
trí đầu câu, trước nòng cốt của câu.
Ví dụ:
(39) Chuyện triều đình quốc gia, chúng ta biết gì mà bàn bạc cho thêm lời. [75: 109]
Chuyện triều đình quốc gia trong ví dụ (39) được đặt ở vị trí đầu câu đóng vai trò là
chủ đề, là cái đối tượng mà chúng ta không biết gì mà bàn bạc cho thêm lời.
Qua khảo sát ngữ liệu, chúng tôi thấy khi đối thể đảm nhận chức năng đề ngữ trong
câu thì chúng đứng ở vị trí đầu câu và không thấy xuất hiện đề ngữ đối thể xuất hiện ở những
vị trí khác. Ví dụ:
(40) Đến cái cảnh chết chém, ông còn chẳng sợ nữa là những trò tiểu nhân thị oai. [75:
112]
(41) Cái phần khó khăn nhất, những người cán bộ ấy đã làm. [83: 51]
(42) Lũ làng mình ở đây, Pháp đánh miết không nổi. [79: 93]
(43) Tiếng chúng nói chuyện, la hét ầm ĩ, mọi người đều nghe thấy. [64: 94]
Nhìn vào ví dụ (40), (41), (42), (43) các đối thể đều đứng ở vị trí đầu câu, trước nòng
cốt câu.
2.1.3.2. Cấu tạo của đề ngữ đối thể
Qua khảo sát ngữ liệu, chúng tôi nhận thấy, khi đảm nhận chức năng làm đề ngữ trong
câu, đối thể có thể được cấu tạo bằng một danh từ hoặc một danh ngữ. Ví dụ:
(44) Nhà thì không thể bán được vì mình chưa có chủ quyền nhưng sang nhượng thì
được. [72: 42]
(45) Việc này, cô chẳng cho các bạn đồng sự biết. [66: 222]
(46) Lời cung ta kí rồi. [75: 112]
(47) Cái số tiền đó, cậu đã có để trả tôi chưa? [66: 80]
Trong khung vị ngữ (44) đề ngữ đối thể nhà được cấu tạo là một danh từ. Ở ví dụ (45),
(46), (47) các đối thể việc này, lời cung, cái số tiền đó được cấu tạo là những danh ngữ.
Tóm lại, đề ngữ đối thể thường đứng ở vị trí đầu câu, trước nòng cốt câu và chủ yếu
được cấu tạo là một danh từ hoặc danh ngữ.
Bảng 2.1: Bảng tổng hợp số lượng các chức năng cú pháp của vai nghĩa đối thể
Chức năng cú pháp Số lượng Tỉ lệ %
Chức năng bổ ngữ 292 83
Chức năng chủ ngữ 28 8
Chức năng đề ngữ 30 9
Tổng số 350 100

2.2. Vai nghĩa tạo thể


Tạo thể cũng là đối tượng bị tác động của hành động chuyển tác. Nhưng khác với vai
nghĩa đối thể, hành động chuyển tác này không tác động vào một vật có sẵn, mà hành động
chuyển tác này tác động làm cho vật ấy hình thành, còn gọi là hành động tạo tác. Đối tượng
của nó, hay nói cho đúng hơn, sản phẩm của nó, là một diễn tố được gọi là tạo thể.
Như vậy tạo thể là vai nghĩa được hình thành từ các vị từ tạo tác. Các vị từ tạo tác
thường được coi là [+Tác động] [+Chủ ý]. Tuy nhiên, các vị từ tạo tác khác với các vị từ tác
động khác ở một đặc trưng ngữ nghĩa: nó không tiền giả định sự tồn tại của vật bị tác động.
Từ những đặc điểm trên và qua khảo sát trên ngữ liệu, chúng tôi thấy vai tạo thể khi
được hiện thực hóa trong câu, vai nghĩa này nó có thể đảm nhận những chức năng cú pháp
như: bổ ngữ, chủ ngữ, đề ngữ
2.2.1. Chức năng bổ ngữ
Vai tạo thể là vai nghĩa được tạo nên từ những vị từ tạo tác. Các vị từ tạo tác còn được
Vendler (1967) và Dowty (1979) xếp vào loại vị từ chỉ “hành động có kết quả” [28: 124]. Có
thể thấy khi vai nghĩa tạo thể được hiện thực hóa trong câu thì chức năng bổ ngữ chính là
chức năng chủ yếu, thường xuyên của vai nghĩa này. Theo khảo sát ngữ liệu của chúng tôi,
bổ ngữ tạo thể có 89 trường hợp, chiếm 92% trong tổng số 97 ngữ liệu được khảo sát về vai
tạo thể. (xem bảng tổng hợp 2.2).
2.2.1.1. Vị trí của bổ ngữ tạo thể
Khi đóng vai trò là bổ ngữ trong câu, vai nghĩa tạo thể có một vị trí tương đối ổn định
là đứng ngay sau vị từ hạt nhân. Ví dụ:
(48) Bà Cà Xợi sinh con Cà Mỵ tại nhà mẹ Sáu. [64: 57]
(49) Tôi chỉ viết một bức gửi cho dân mà thôi. [66: 187]
Ở ví dụ (48) con Cà Mỵ là bổ ngữ tạo thể được đặt trực tiếp sau vị từ sinh. Và ở ví dụ
(49) bổ ngữ tạo thể một bức được đặt trực tiếp sau vị từ viết.
Ngoài trường hợp bổ ngữ tạo thể xuất hiện sau vị từ hạt nhân cũng có một số trường
hợp bổ ngữ tạo thể xuất hiện sau các bổ ngữ khác (bổ ngữ tiếp thể, bổ ngữ người hưởng lợi).
Ví dụ:
(50) Anh em cũng đã đào cho Ngạn một cái hố. [64: 81]
(51) Người bản Hua Tát dựng lên cho Sa một mái nhà. [82: 39]
Ở ví dụ (50) một cái hố là bổ ngữ tạo thể lại được đặt sau bổ ngữ tiếp thể Ngạn. Và
một mái nhà là bổ ngữ tạo thể ở ví dụ (51) được đặt sau bổ ngữ lợi thể Sa.
Như vậy, có thể thấy vị trí của bổ ngữ tạo thể chủ yếu là xuất hiện ngay sau vị từ hạt
nhân. Cũng có một vài trường hợp bổ ngữ tạo thể xuất hiện sau các bổ ngữ khác .
2.2.1.2. Cấu tạo của bổ ngữ tạo thể
Bổ ngữ tạo thể thường có cấu tạo là một danh từ hoặc danh ngữ.
* Trường hợp bổ ngữ tạo thể có cấu tạo là một danh từ. Ví dụ:
(52) Tôi viết thư cầu cứu Chinh che chở tinh thần, van xin tình thương để dằn nỗi
khủng hoảng. [87: 325]
* Trường hợp bổ ngữ tạo thể có cấu tạo là một danh ngữ. Ví dụ:
(53) Hai năm sau, Tâm đẻ đứa con trai. [77: 96]
(54) Vậy mà con dâu và con trai ông đã nghĩ ra một cách thật tài tình, một tính toán
rất xây dựng, lại hiếu thảo, buộc ông không thể gạt phắt mà phải cân nhắc để lựa chọn. [72:
42]
(55) Các giáo viên cùng làm đáp án này. [Dẫn theo 44: 62]
Một điểm đặc biệt khi khảo sát bổ ngữ tạo thể là bổ ngữ tạo thể thường là những danh
từ, hoặc danh ngữ được kết hợp sau những vị từ có từ đi kèm như ra, lên, thành,…hoặc từ
được. Ví dụ:
(56) Chợt anh nghĩ ra một điều. [83: 444]
(57) Thu Phong chợt đưa ra một câu hỏi như kéo mọi người trở lại cái thực tế tàn
nhẫn. [83: 292]
(58) Nỗi mừng nở thành nụ cười trên miệng ông chủ bút. [67: 76]
(59) Tên thiếu tá ré lên một tiếng như bị ai bóp cổ. [64: 222]
(60) Vợ anh đã đẻ được một đứa con trai kháu khỉnh vậy mà anh phải hai bàn tay
không đến nhà hộ sinh! [81: 188]
* Ngoài ra, bổ ngữ tạo thể có thể được cấu tạo là một tiểu cú. Ví dụ:
(61) Vũ Minh nghĩ: Chắc là cu cậu muốn thay đổi ý kiến rồi. [83: 399]
(62) Ông nói: “Ngày ấy bọn tao chỉ thích được sống chung với bạn bè thôi, nó vui
lắm” [72: 38]
(63) Cô ấy nói: “Cô thì quý cháu nhưng chú ấy khó tính lắm, mình cứ phòng trước vẫn
hơn. [72: 41]
Qua những ví dụ (61), (62), (63) chúng tôi thấy, một hành động ngôn từ biểu hiện
bằng một vị từ như nói, bảo, hỏi, trả lời, kể, thuật lại, thốt lên, kêu (lên), than khi dùng với
một danh ngữ hay một tiểu cú (thường mở đầu bằng rằng hay là) làm bổ ngữ cũng có thể coi
như một hành động tạo tác có tạo thể làm diễn tố thứ hai. [23: 438]
2.2.2. Chức năng chủ ngữ
Giống với vai nghĩa đối thể, vai nghĩa tạo thể khi được hiện thực hóa trong câu thì
chức năng chủ ngữ không phải là chức năng chính. Trong ngữ liệu khảo sát của chúng tôi,
chức năng chủ ngữ của vai nghĩa tạo thể có số lượng 7 trường hợp, chỉ chiếm 7% trong tổng
số 97 ngữ liệu về vai tạo thể. (xem bảng tổng hợp 2.2)
2.2.2.1. Vị trí
Khi đảm nhiệm chức năng chủ ngữ, vai nghĩa tạo thể thường xuất hiện ở vị trí đầu câu
mang ý nghĩa bị động (hoặc đầu vế câu ghép). Ví dụ:
(64) Đề thi được tôi ra, đáp án được tôi làm. [Dẫn theo 44: 71]
Cũng đảm nhận chức năng chủ ngữ và đứng ở vị trí đầu câu, vai nghĩa tạo thể còn xuất
hiện trước những từ mang ý nghĩa thể hiện nguyên nhân như do, là do. Ví dụ:
(65) Tất cả những thức ăn lẫn hương hoa cúng kiếng đều do một tay ni cô làm ra. [89:
325]
(66) Đề thi là do tôi ra, đáp án là do tôi làm. [Dẫn theo 44: 71]
Như vậy, theo ngữ liệu khảo sát, chúng tôi thấy rằng vị trí đầu câu là vị trí chủ yếu của
vai nghĩa tạo thể khi đảm nhận chức năng chủ ngữ trong câu.
2.2.2.2. Cấu tạo của chủ ngữ tạo thể
Xét về cấu tạo của chủ ngữ tạo thể, chúng tôi thấy chủ ngữ tạo thể chủ yếu được cấu
tạo là danh từ hoặc danh ngữ. Ví dụ:
(67) Phút chốc con cá chẻm đã làm xong, chỉ còn mổ ruột. [64: 31]
Ở một số trường hợp chủ ngữ tạo thể có cấu tạo là một danh ngữ biểu thị rõ tính xác
định của chủ ngữ nhờ từ chỉ định này, kia, đó…. Ví dụ:
(68) Đề thi đó tôi ra, đáp án đó tôi làm. [Dẫn theo 44: 71]
2.2.3. Chức năng đề ngữ
So với chủ ngữ tạo thể, đề ngữ tạo thể xuất hiện ít hơn. Khảo sát trên ngữ liệu, chúng
tôi thấy, chức năng đề ngữ chỉ có số lượng 1 trường hợp, chiếm tỉ lệ 1% trong tổng số 97 ngữ
liệu về vai nghĩa tạo thể. (xem bảng tổng hợp 2.2)
2.2.3.1. Vị trí
Vị trí chủ yếu của đề ngữ tạo thể là đứng ở vị trí đầu câu. Ví dụ:
(69) Báo ông cho ra lúc ba giờ, thì chín giờ tối nó in ngay phụ trương để tranh khách!
[67: 79]
2.2.3.2. Cấu tạo của đề ngữ tạo thể
Đề ngữ tạo thể chủ yếu được cấu tạo là danh từ, danh ngữ. Ví dụ:
(70) Báo ông cho ra lúc ba giờ, thì chín giờ tối nó in ngay phụ trương để tranh khách!
[67: 79]
Bảng 2.2: Bảng tổng hợp số lượng các chức năng cú pháp của vai nghĩa tạo thể
Chức năng cú pháp Số lượng Tỉ lệ %
Chức năng bổ ngữ 89 92
Chức năng chủ ngữ 7 7
Chức năng đề ngữ 1 1
Tổng số 97 100

2.3. Vai nghĩa phương thức


Vai nghĩa phương thức (manner) là cách thức tiến hành hành động. Đây là vai nghĩa
không bắt buộc, sự xuất hiện của vai nghĩa phương thức trong cấu trúc vị từ- tham tố không
được coi là bắt buộc mà nó được xem là tham tố mở rộng. Vai nghĩa phương thức khi được
hiện thực hóa trong câu thường có các chức năng như: bổ ngữ, trạng ngữ.
2.3.1. Chức năng bổ ngữ
Qua ngữ liệu khảo sát, chúng tôi nhận thấy chức năng bổ ngữ là chức năng xuất hiện
thường xuyên nhất của vai nghĩa phương thức. Bổ ngữ phương thức có số lượng 318 trường
hợp, chiếm tỉ lệ 85% trong số 376 tổng số ngữ liệu về vai phương thức.
Bổ ngữ phương thức có thể xuất hiện trong khung vị ngữ có vị từ [+ Chủ động] hoặc
[- Chủ động]. Nhưng bổ ngữ phương thức xuất hiện phổ biến hơn trong khung vị ngữ có vị
từ hạt nhân là vị từ [+ CHỦ ĐỘNG]- vị từ đòi hỏi một, hay hai hay ba bổ ngữ để bổ sung ý
nghĩa. Do đó, ở vị trí sau vị từ, có những trường hợp ngoài bổ ngữ phương thức ra còn có các
bổ ngữ khác. Ví dụ:
(71) Trung cau mặt nhìn Hộ một cách kinh ngạc và khinh bỉ. [61: 336]
Ở ví dụ (71), sau vị từ “nhìn” có hai bổ ngữ xuất hiện: bổ ngữ đích “Hộ” và bổ ngữ
phương thức “một cách kinh ngạc và khinh bỉ”. Chúng ta xem xét thêm một số ví dụ sau:
(72) Bok Sung ngồi nhìn lửa chăm chăm. [79: 92]
(73) Họ nói câu cuối với một vẻ gì mỉa mai. [61: 192]
(74) Tôi nuôi nó cẩn thận lắm. [67: 20]
2.3.1.1. Vị trí
Khi đóng vai trò là bổ ngữ trong câu, tham tố phương thức thường có các vị trí khác
nhau: vị trí trước vị từ hạt nhân, vị trí sau vị từ hạt nhân và vị trí sau các bổ ngữ khác. Tuy
nhiên, so với trường hợp bổ ngữ phương thức đứng sau vị từ thì trường hợp bổ ngữ phương
thức xuất hiện ở vị trí trước vị từ cũng có tần số khá cao và khá phổ biến. Trong ngữ liệu
khảo sát của chúng tôi, vị trí bổ ngữ phương thức xuất hiện trước vị từ có 124 trường hợp,
chiếm 39% trong số 318 ngữ liệu về chức năng bổ ngữ của vai phương thức. Ví dụ:
(75) Thằng Dần ton ton chạy ra núp vào sau mẹ. [84: 145]
(76) Nó tong tả chạy ra khỏi cửa. [61: 197]
(77) Cô gái vẫn bình thản ngồi nhìn ra ngoài trời. [63: 37]
(78) Huyến ái ngại nhìn cái đầu nhà sư trọc lốc đè nặng lên chân mình. [70: 179]
Những bổ ngữ phương thức ton ton, tong tả, bình thản, ái ngại ở ví dụ (75), (76), (77),
(78) đều xuất hiện ở vị trí trước vị từ.
Trường hợp bổ ngữ phương thức đặt trước vị từ hạt nhân là người nói muốn đặt trọng
tâm thông báo về cách thức, tính chất, trạng thái tiến hành hành động được nêu ở vị từ. Với
những ví dụ (75), (76), (77), (78) chúng ta thấy người nói cũng có thể đặt những bổ ngữ
phương thức ra sau các vị từ hoặc sau các bổ ngữ khác. Ví dụ:
(79) Thằng Dần chạy ton ton ra núp vào sau mẹ.
(80) Nó chạy tong tả ra khỏi cửa.
(81) Cô gái vẫn ngồi bình thản nhìn ra ngoài trời.
(82) Huyến nhìn ái ngại cái đầu nhà sư trọc lốc đè nặng lên chân mình.
Hoặc: (83) Huyến nhìn cái đầu nhà sư trọc lốc đè nặng lên chân mình một cách ái
ngại.
Nếu muốn đặt bổ ngữ phương thức sau các bổ ngữ khác, người nói thường thêm từ
“một cách” để diễn tả rõ cách thức, trạng thái của hành động như ở ví dụ (83). Tuy nhiên,
khi thay đổi vị trí các bổ ngữ phương thức, trọng tâm thông báo cũng sẽ thay đổi. Điều này
tùy thuộc vào mục đích mà người nói có thể đặt bổ ngữ phương thức trước hay sau vị từ hay
sau các bổ ngữ khác.
Ngoài vị trí đặt trước vị từ, bổ ngữ phương thức còn xuất hiện ngay sau vị từ và sau
các bổ ngữ khác. Qua khảo sát, chúng tôi thấy vị trí của bổ ngữ phương thức xuất hiện sau vị
từ được dùng với tần suất cao nhất. Trên ngữ liệu khảo sát, trường hợp bổ ngữ phương thức
có vị trí sau vị từ có 194 trường hợp, chiếm tỉ lệ 61% trong số 318 tổng số vai nghĩa phương
thức đảm nhận chức năng bổ ngữ. Ví dụ:
(84) Hắn nhìn trừng trừng lên cái nóc nhà thấp hắn ở. [70: 243]
(85) Chí Phèo vừa chém túi bụi vừa kêu làng thật to. [75: 154]
(86) Thị vẫn đứng cong cớn trước mặt hắn. [75: 154]
(87) Chị nhắc cái niêu nhẹ nhõm. [61: 438]
(88) Nói xong, chú sấn ngay vào nắm cổ tay người yêu một cách âu yếm. [67: 42]
Cũng có nhiều trường hợp trong khung vị ngữ xuất hiện nhiều bổ ngữ phương thức. Ở
những trường hợp này, có cả bổ ngữ phương thức đứng trước và sau vị từ. Ví dụ:
(89) Thị nhếch mép cười nhạt nhẽo. [74: 25]
(90) Ông già lúc nãy ôm mặt khóc không ra tiếng. [79: 119]
(91) Chính hắn cũng không hiểu sao hắn sợ, hắn lấm lét bước vội mấy bước ra sân gắt
lên. [74: 25]
Trong khung vị ngữ có nhiều bổ ngữ cũng xuất hiện, bổ ngữ phương thức có thể được
đặt sau các bổ ngữ khác (bổ ngữ tạo thể, bổ ngữ đối thể, bổ ngữ đích..).
* Bổ ngữ phương thức đặt sau bổ ngữ tạo thể. Ví dụ:
(92) Họ nói câu cuối với một vẻ gì mỉa mai. [61: 192]
* Bổ ngữ phương thức đặt sau bổ ngữ đối thể. Ví dụ:
(93) Ngạn hôn con Thúy chùn chụt. [64: 32]
* Bổ ngữ phương thức đặt sau bổ ngữ đích. Ví dụ:
(94) Một thằng Tây đập cái roi da vào ủng một cách an nhàn, bên chân nó là hai con
chó săn vểnh tai nhọn hoắt. [83: 53]
(95) Núp nhìn nó chăm chăm. [79: 29]
(96) Trung cau mặt nhìn Hộ một cách kinh ngạc và khinh bỉ. [61: 336]
2.3.1.2. Cấu tạo của bổ ngữ phương thức
Bổ ngữ phương thức được cấu tạo rất đa dạng và phong phú, có thể là tính từ hay tính
ngữ, có thể là một động từ và có thể là một danh ngữ.
* Trường hợp bổ ngữ phương thức được cấu tạo là một tính từ, ví dụ:
(97) Mình phải nói thẳng với bầm. [69: 325]
(98) Tràng xăm xăm bước vào trong nhà, nhấc tấm phên rách sang một bên, thu dọn
những niêu bát, xống áo vứt bừa bộn cả trên giường, dưới đất. [74: 25]
(99) Hắn ngồi tính rành mạch từng khoản một. [61: 227]
(100) Im một lúc, có người bỗng lại cười rung rúc. [74: 25]
(101) Thị Nở giục hắn ăn nóng. [61: 150]
(102) Ngạn nhẹ nhàng đáp lời mẹ. [64: 39]
(103) Dệt xong thị vội vàng đi đòi món tiền. [61: 262]
(104) Thị ton ton chạy lên nhà nhân ngãi. [61: 152]
Qua khảo sát ngữ liệu, chúng tôi thấy, trường hợp bổ ngữ phương thức khi được cấu
tạo là tính từ thường là những tính từ chỉ cách thức, trạng thái, tính chất của hành động. Số
lượng tính từ được cấu tạo hai âm tiết xuất hiện với tần suất cao, đặc biệt là ở vị trí trước vị
từ. Những từ láy hai âm tiết có dạng như: xăm xăm trong ví dụ (98), rành mạch trong ví dụ
(99), rung rúc ở ví dụ (100), nhẹ nhàng ở ví dụ (102), vội vàng trong “vội vàng đi đòi món
tiền” ở ví dụ (103), ton ton ở ví dụ (104)….
Cũng có trường hợp khi bổ ngữ phương thức được cấu tạo là từ ghép song tiết bị tách
đôi ra, những trường hợp này thường xuất hiện trong phong cách khẩu ngữ. Ví dụ:
(105) Cái Tỉu nằm trong lòng mẹ khóc ngặt khóc nghẽo. [84: 19]
(106) Thằng Dần khóc nhếch khóc nhác, rầu rĩ kêu đói. [84: 31]
* Bổ ngữ phương thức được cấu tạo là một tính ngữ. Ví dụ:
(107) Lạ lùng hơn, là năm hôm sau khi được anh Tám cho biết việc ấy, Ngạn trở về
rất đột ngột. [64: 19]
* Ở trường hợp bổ ngữ phương thức được cấu tạo là một động từ thường có dạng như:
ăn bốc, nuốt tọng, …[Dẫn theo 44: 56]
* Bổ ngữ phương thức được cấu tạo là một động ngữ. Ví dụ:
(108) Song nói thế chứ hắn cũng khoát tay xua bọn lính áo rằn của hắn đổ vào chỗ đất
trống giáp phố. [64: 52]
(109) Nói rồi mẹ bưng mặt khóc. [64: 13]
(110) Mọi người lại đưa mắt nhìn Ba Rèn lần nữa. [64: 151]
(111) Ông cụ thì ngồi bó gối ở tấm phản gỗ thấp dùng để ăn cơm. [70: 251]
* Bổ ngữ phương thức được cấu tạo là một danh từ. Khi được cấu tạo là danh từ bổ
ngữ phương thức thường có dạng như: để bụng, chạy sô, chạy chợ, khám bảo hiểm, lên thác
xuống ghềnh…[Dẫn theo 44: 58].
* Bổ ngữ phương thức có cấu tạo là một danh ngữ. Ví dụ:
(112) Anh đi một mình, giả làm nhân viên thu mua thuốc của viện dược liệu. [72: 32]
( 113) Họ đi một mạch khỏi xóm Vạn Thanh, băng qua ruộng. [64: 70]
(114) Một tay anh giơ chào Ngạn theo kiểu nhà binh rồi bước như nhảy lên bậc thang.
[64: 42]
Khi bổ ngữ phương thức được cấu tạo là một danh ngữ, cấu tạo của bổ ngữ thường
xuất hiện một số đặc điểm:
+ Cấu tạo của bổ ngữ phương thức là một danh ngữ có dạng “một cách + tính từ/tính
ngữ” hoặc “một cách + động từ”. Ví dụ:
(115) Một thằng nhún vai một cách rất lính tẩy. [83: 55]
(116) Trừ bà Phó Đoan, ai cũng vỗ tay một cách thành thực. [79: 173]
+ Cấu tạo của bổ ngữ phương thức là một danh ngữ đặt sau giới từ bằng hoặc với. Ví
dụ:
(117) Anh Tám mỉm cười nhìn cô với ánh mắt vui vẻ và thông cảm. [64: 17]
(118) Tất cả mọi người tốt đều nhìn Quyên với cặp mắt thương hại. [64: 15]
(119) Mụ Nghị ngắt lời bằng giọng nói nửa đùa nửa thật. [84: 74]
(120) Anh Dậu nhìn vợ bằng những dòng nước mắt thánh thót. [84: 121]
* Ngoài ra, bổ ngữ phương thức còn được cấu tạo dạng thành ngữ, Ví dụ:
(121) Vừa đó hắn đã ba chân bốn cẳng chạy.
(122) Bà ấy nấu nướng kiểu băm to kho mặn.
* Bổ ngữ phương thức có cấu tạo dạng so sánh. Ví dụ:
(123) Thị giẫm chân xuống đất, rồi lại nhảy cẫng lên như thượng đồng. [77: 152]
(124) Quyên suy nghĩ một loáng rồi nói như ra lệnh. [64: 19]
(125) Và anh nói như là nói với ai chứ không phải nói với Quyên. [64: 20]
2.3.2. Chức năng trạng ngữ
Qua khảo sát ngữ liệu, chúng tôi thấy vai nghĩa phương thức có khả năng đảm nhận
chức năng trạng ngữ trong câu tiếng Việt. Khi khảo sát trên ngữ liệu của chúng tôi, trạng ngữ
phương thức có 58 trường hợp, chiếm tỉ lệ 15% trong số 376 tổng số ngữ liệu về vai phương
thức trong câu tiếng Việt. (Xem bảng tổng hợp 2.3)

2.3.2.1. Vị trí
Khi đảm nhiệm chức năng trạng ngữ của câu, trạng ngữ phương thức nằm ở vị trí của
trạng ngữ trong câu. Vị trí phổ biến nhất là vị trí trước nòng cốt câu. Ví dụ:
(126) Cầm cái áo màu ấp vào ngực, vợ Lưu bước xổ ra đường, chạy sang hè phố bên
kia! [70: 264]
(127) Bằng cái dáng bộ sợ hãi, chị Dậu đón lấy bộ quần áo và xách đôi guốc, và đi
qua phía sau trại lệ. [84: 130]
(128) Sượng sùng, chị nhích xa anh, đi gần người vú. [83: 352]
(129) Ngần ngại, chị đặt mê nón lên đầu, cúi chào vợ chồng ông Nghị và ông giáo.
[84: 44]
Ngoài vị trí trên đứng ở đầu câu, trạng ngữ phương thức còn có vị trí đi sau nòng cốt
câu như:
(130) Bà đi trong đêm tối, tay cầm một cái xị không. [64: 59]
2.3.2.2. Cấu tạo của trạng ngữ phương thức
Cũng như bổ ngữ phương thức, trạng ngữ phương thức có cấu tạo cũng khá đa dạng,
nó có thể là một tính từ, tính ngữ, có thể là động ngữ hoặc nó một danh ngữ.
* Trạng ngữ phương thức được cấu tạo là tính từ. Ví dụ:
(131) Uể oải, chị bế cái Tỉu lên sườn và lừ thừ đi ra ngoài cổng, để ngóng xem chồng
đã về chưa. [84: 19]
Qua khảo sát ngữ liệu, chúng tôi thấy trường hợp trạng ngữ phương thức là tính từ có
cấu tạo hai âm tiết hoặc láy hai âm tiết hoặc láy lại bốn âm tiết xuất hiện khá nhiều. Ví dụ:
(132) Khép nép, chị Dậu ngồi phệt xuống mặt thềm gạch. [84: 34]
(133) Hào hứng, Thu Phong ngồi ôm cây ắc-coóc-đê-ông kể một đoạn ba đào trong
cái đời làm nghệ sĩ trẻ tuổi của anh. [83: 386]
(134) Luống cuống, chị Dậu vội đứng dậy. [84: 51]
(135) Mừng mừng tủi tủi, Trần Văn bắt tay Nhật Tân, nắm chặt lấy, như đứa trẻ vớ
được vật gì đấy không rời ra. [83: 340]
* Trạng ngữ phương thức được cấu tạo là một tính ngữ. Ví dụ:
(136) Rất nhanh chóng, diện tẩu đặt hơi nghiêng trên chụp đèn, đồng thời tay trái nhà
sư nữ dùng mũi tiêm vào cóng thuốc rồi nướng trên ngọn lửa thon thon. [70: 176]
(137) Nhanh như cắt, chị Dậu giật ngay được gậy của hắn. [84: 105]
Rất nhanh chóng ở ví dụ (16) là trạng ngữ được cấu tạo là một tính ngữ. Trường hợp ở
ví dụ (137) trạng ngữ phương thức nhanh như cắt là một tính ngữ được cấu tạo dạng so sánh.
* Trạng ngữ phương thức còn được cấu tạo là một động ngữ. Ví dụ:
(138) Phản ứng một cách tự nhiên, Thắng nằm rạp xuống, bụng ép lên đám bùn lõng
bõng. [80: 101]
(139) Chống tay lên trán, chị như nghĩ ngợi phân vân. [84: 64]
(140) Chào chồng bằng hai hàng nước mắt, chị Dậu lủi thủi trở ra với cái mẹt, cái rổ
và cái mê nón. [84: 83]
*Trạng ngữ phương thức được cấu tạo là một ngữ đoạn giới từ có mở đầu bằng giới từ
bằng hoặc với. Ví dụ:
(141) Bằng cái dáng bộ vui vẻ, nhẹ nhàng, nó đặt một bát lên chõng. [84: 61]
(142) Bằng cái sắc mặt ôn hòa dễ dãi, Nghị Quế nhìn vào mặt chị Dậu. [84: 72]
(143) Với vẻ mặt băn khoăn, cái Tí lại bưng bát khoai chìa tận mặt mẹ. [84: 62]
* Trạng ngữ phương thức còn được cấu tạo là một tiểu cú. Ví dụ:
(144) Chân nọ đá chân kia, chị lại trở về ngồi ở đầu phản. [84: 96]
(145) Mắt nhắm mắt mở, Thu Phong chạy ra. [83: 442]
(Dẫn lại ví dụ 130) Bà đi trong đêm tối, tay cầm một cái xị không. [64: 59]
(146) Lòng bình tĩnh và sung sướng, chị kéo khăn se sẽ đắp lại cho con thật kỹ lượt
nữa, rồi đứng dậy bước xuống phiến đá. [64: 157]
* Trạng ngữ phương thức có cấu tạo là một ngữ cố định. Ví dụ:
(147) Ba chân bốn cẳng, anh ấy chạy vội lại phía người gọi, hạ hai càng xuống. [67:
53]
Như vậy, vai nghĩa phương thức khi được ngữ pháp hóa trong câu có thể đảm nhận
các chức năng cú pháp như: bổ ngữ, trạng ngữ. Trong những chức năng đó, chức năng chủ
yếu, được sử dụng nhiều nhất là chức năng bổ ngữ.
Có thể hình dung những chức năng cú pháp mà vai nghĩa phương thức đảm nhận qua
bảng tổng hợp sau đây:
Bảng 2.3: Bảng tổng hợp số lượng các chức năng cú pháp của vai nghĩa phương
thức
Chức năng cú pháp Số lượng Tỉ lệ %
Chức năng bổ ngữ 318 85
Chức năng trạng ngữ 58 15
Tổng số 376 100

2.4. Vai nghĩa vị trí


Vai nghĩa vị trí (Location hay Locative) còn có tên gọi là vai địa điểm, nơi chốn. Vai
vị trí chỉ nơi chốn của sự tình, vị trí tồn tại của sự vật. [28: 43]
Về mặt nghĩa: Vị trí là vai nghĩa có thể làm tham tố cho bất cứ sự tình nào, hành động
cũng như không hành động (quá trình, tư thế, trạng thái, tồn tại v.v…). Mặt khác, trừ một số
trường hợp của câu tồn tại và trừ khi khung vị ngữ có hạt nhân là một vị từ có ý nghĩa “cư
trú” (ở, ngụ, ở lại, thường trú, đóng (quân), trú (quân) v.v..), nó không bao giờ là một diễn tố
của sự thể, mà bao giờ cũng là một chu tố. [42: 188]
Về mặt ngữ pháp, khi được hiện thực hóa trong câu, vai nghĩa vị trí có thể đảm nhận
các chức năng cú pháp như: bổ ngữ, trạng ngữ, đề ngữ.
2.4.1. Chức năng bổ ngữ
Trong tiếng Việt, vai nghĩa vị trí (hay nơi chốn) có thể được biểu hiện bằng những bổ
ngữ gián tiếp hay bổ ngữ trực tiếp tùy theo mối quan hệ ngữ nghĩa giữa vị từ và danh ngữ chỉ
nơi chốn.
Qua khảo sát, chúng tôi thấy bổ ngữ vị trí xuất hiện với tần số cao nhất. Trong tổng số
276 ngữ liệu được khảo sát về vai vị trí, bổ ngữ vị trí xuất hiện trong 169 trường hợp, chiếm
tỉ lệ 61%.
2.4.1.1. Vị trí
Khi khảo sát trên ngữ liệu, chúng tôi thấy bổ ngữ vị trí có những vị trí sau đây:
* Bổ ngữ vị trí đặt sau vị từ. Ví dụ:
(148) Bính co ro ngồi ở góc tường chờ viên cẩm đòi hỏi. [77: 38]
(149) Hắn thức dậy trên cái giường nhà hắn. [61: 338]
(150) Lần đầu tiên Núp nằm bên một người Kinh. [79: 44]
(151) Một lằn gân tím nổi lên gần bên thái dương. [79: 77]
(152) Con gái gửi nhà trẻ rồi gửi mẫu giáo.[72: 26]
Trong khung vị ngữ, hầu hết các bổ ngữ vị trí được đặt sau vị từ. Tuy nhiên, các bổ
ngữ vị trí trong các ví dụ (148), (149), (150), (151) đều là những bổ ngữ gián tiếp vì theo tác
giả Nguyễn Thị Quy [42: 189] thì bổ ngữ gián tiếp của vị từ biểu hiện vai “nơi chốn” được
đánh dấu bằng các tác tử trong, ngoài, trước, sau, trên, dưới, nơi, tại, ở và chỗ, cạnh, bên,
bên cạnh, gần, xa, cách, sát (các tác tử có thể là danh từ, giới từ, tính từ). Ở trường hợp ví dụ
(152) tác tử ở có thể được ngầm ẩn, có nghĩa là tác tử ở có thể xuất hiện hoặc không cần xuất
hiện trong câu.
Ngoài ra, cũng có một số trường hợp, bổ ngữ vị trí đặt sau vị từ không cần giới từ và
các tác tử trên. Ở những trường hợp này, vai nghĩa vị trí được gọi là bổ ngữ vị trí trực tiếp.
Theo Nguyễn Thị Quy [42: 194], bổ ngữ vị trí trực tiếp có hai trường hợp nhỏ:
+ Thứ nhất là khi danh ngữ làm bổ ngữ có trung tâm là một trong những danh từ chính
danh có ý nghĩa nơi chốn: nơi, chỗ, bên, cạnh, và (ít dùng hơn nhiều) chốn. Cả năm từ này
đều là những danh từ đơn vị thuộc loại “hình thức thuần túy” (Cao Xuân Hạo, 1993) không
bao giờ tự nó làm thành một danh ngữ vì bao giờ cũng cần có định ngữ. Định ngữ đó có thể
là một từ trực chỉ này, ấy, đó, nào hay một kết cấu Đề- Thuyết (hay Chủ- Vị). [Dẫn theo 42:
195]
+ Thứ hai, khi hạt nhân của vị ngữ là một từ chỉ tư thế [+ Chủ ý] [- Động], còn trung
tâm của danh ngữ làm bổ ngữ chỉ nơi chốn là một danh từ chỉ một vật thường dùng hay có
nhiều khả năng được dùng làm chu cảnh cho cái tư thế đó, những kết cấu này ít nhiều đều có
dáng dấp những thành ngữ. Ví dụ: ngồi ghế, ngồi chiếu trên, nằm đất, nằm giường đệm, nằm
võng, đứng đường, đứng đầu bảng…
Trong các vị từ tư thế, vị từ có khả năng có các bổ ngữ trực tiếp hơn cả là ở (có trọng
âm) và nhất là ở lại. ví dụ: ở nhà, ở khách sạn, ở chung cư, ở lều, ở chòi, ở rừng, ở thành
phố, ở lại trường/cơ quan…
* Ngoài ra, khi trong khung vị ngữ có nhiều bổ ngữ, bổ ngữ vị trí có thể đặt sau các bổ
ngữ khác.
+ Bổ ngữ vị trí đặt sau bổ ngữ đối thể:
Qua khảo sát ngữ liệu, chúng tôi thấy trường hợp bổ ngữ vị trí đặt sau bổ ngữ đối thể
chiếm số lượng khá cao. Ví dụ:
(153) Ông Nhiêu đang ngồi quay cửi thừa ở trước cổng tán. [69: 295]
(154) Hôm nay tôi gặp chị Ngây ngoài cổng xóm. [69: 297]
(155) Tâm đặt gánh ở trên thềm. [77: 86]
+ Bổ ngữ vị trí xuất hiện sau bổ ngữ tạo thể. Ví dụ:
(156) Nỗi mừng nở thành nụ cười trên miệng ông chủ bút. [67: 76]
+ Bổ ngữ vị trí xuất hiện sau bổ ngữ phương thức. Ví dụ:
(157) Mấy đứa trẻ con nhà nghèo cúi lom khom trên mặt đất đi lại tìm tòi. [75: 96]
(158) Vợ Lưu đi nép dưới hàng hiên, bước rất nhanh chẳng cần biết rõ làm gì. [70:
261]
2.4.1.2. Cấu tạo của bổ ngữ vị trí
Hầu hết những trường hợp mà chúng tôi khảo sát, bổ ngữ vị trí đều chủ yếu có cấu tạo
là tổ hợp từ vị trí. Tổ hợp từ vị trí thường là những danh ngữ có những tác tử đánh dấu vị trí
như: trong, ngoài, trước, sau, trên, dưới, nơi, tại, ở, chỗ, cạnh, bên, bên cạnh, gần, xa, cách,
sát…. Những tác tử này có thể là danh từ, giới từ, hay tính từ.
* Bổ ngữ vị trí có cấu tạo là giới từ (tại/ở) + danh từ/danh ngữ. Ví dụ:
(159) Tôi tính một người mình ngồi tại miệng hang thủ một cây búa, tụi nó cũng khó
vô. [64: 81]
(160) Ông bị đem về xử bắn tại Hòn Đất cùng năm người khác. [64: 39]
(161) Mọi người đã mang gùi đứng cả ở sân làng. [79: 84]
(162) Mảnh trăng đã khuất hẳn xuống khu rừng ở sau lưng. [78: 240]
(163) Hai người ngồi ở vệ ruộng tay tẩn mẩn bứt cỏ mà nói bâng quơ. [69: 308]
(164) Còn một số người chưa chịu về, trốn ở hai bên bờ suối Đất-hoa, nghe máy bay
kêu thì xuống nước trốn lửa. [79: 21]
(165) Mảnh trăng khuyết đứng yên ở cuối trời sáng trưng như mảnh bạc. [78: 239]
▪ Ghi chú:
- Giới từ “tại” như ở ví dụ (159) và (160) cũng có nghĩa như “ở”: “đều biểu thị điều
sắp nêu ra là nơi, chỗ xác định mà sự việc nói đến diễn ra hoặc sự vật nói đến tồn tại” [39:
886]. Tuy nhiên, khi dùng “tại” thường có hàm ý trang trọng hoặc nhấn mạnh hơn so với
“ở”.
- Trường hợp cấu tạo giới từ ở + danh từ/danh ngữ trong bổ ngữ vị trí còn xuất hiện
nhiều trong những cách dùng ở trên, ở trong, ở ngoài, ở dưới, ở trước...+ danh từ/danh ngữ.
Ví dụ:
(166) Núp Nằm nghĩ tới anh Thế bây giờ ở ngoài rừng. [79: 97]
(167) Hôm qua tôi đi mua ở trên chợ Bưởi về một con chó, lông vàng sẫm như lông
bò. [69: 75]
(168) Ông Nhiêu đang ngồi quay cửi thừa ở trước cổng tán. [69: 295]
(169) Ngạn sống yên ổn ở dưới đó ngót hai tháng rồi mới chuyển vào cư trú. [64: 15]
Ngoài trong bổ ngữ vị trí ở ngoài rừng ở ví dụ (166) có chức năng định vị, xác định rõ
không gian rừng so với vị trí của người nói. Do cách định vị không gian của người Việt
thường có những từ trên, dưới, trong, ngoài xuất hiện trước những danh từ/danh ngữ như ở
ví dụ (166), (167), (168), hoặc dưới xuất hiện trước đại từ đó trong ví dụ (169) ở trên.
* Bổ ngữ vị trí là những từ trên, dưới, trong, ngoài, trước, sau,…(được dùng như giới
từ) + danh từ/danh ngữ. Ví dụ:
(170) Ông già ngồi trong góc nhà với ba đứa con. [79: 83]
(171) Hôm nay tôi gặp chị Ngây ngoài cổng xóm. [69: 297]
(172) Thằng bé Ngứt ngồi trên ngưỡng của nhà sàn, nắng rọi vào trong mắt nó. [79:
106]
(173) Nhưng mặt trời thì vẫn còn đỏ sẫm dưới ven đồng xa. [64: 53]
(174) Mỗi ngày Mị càng không nói lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa. [78: 91]
* Trường hợp bổ ngữ vị trí được cấu tạo là những danh ngữ mà thành tố chính là
những danh từ chỉ vị trí hoặc khoảng cách không gian: đằng, giữa, bên, cạnh, phía, nơi, chỗ,
chốn, chiều, phương, hướng,…Ví dụ:
(175) Cái vườn cỏ dại đằng sau nhà không còn oanh yến dập dìu như xưa nữa. [69:
70]
(176) Còn vết thương nơi bắp chân Thẩm coi vậy chớ không sao….[64: 99]
(177) Má và dì Ba ngồi học bài chỗ bàn ăn cơm. [88: 9]
(178) Tràng đứng tây ngây ra giữa nhà một lúc, chợt hắn thấy sờ sợ. [74: 25]
(179) Lần đầu tiên Núp nằm bên một người Kinh. [79: 44]
(180) Toán lính tuần đêm đầu tiên bắt gặp đám người đó giữa một khu vườn vú sữa.
[64: 253]
(181) Khung cửa xe phía cô gái ngồi lồng đầy bóng trăng. [78: 239]
2.4.2. Chức năng trạng ngữ
Khi được ngữ pháp hóa trong câu, vai nghĩa vị trí hoàn toàn có khả năng đảm nhận
chức năng trạng ngữ. Khảo sát trên ngữ liệu, chúng tôi thấy chức năng trạng ngữ xuất hiện
với tần suất khá cao. Trong tổng số 276 ngữ liệu được khảo sát của chúng tôi về vai nghĩa vị
trí, chức năng trạng ngữ của vai nghĩa vị trí chiếm số lượng 96 trường hợp, chiếm tỉ lệ 35 %.
(Xem bảng tổng hợp 2.4)
2.4.2.1. Vị trí
Chúng tôi xác định, trạng ngữ là thành phần phụ của câu có khả năng đứng trước,
đứng sau nòng cốt hoặc chen vào giữa thành phần chủ ngữ và vị ngữ. Khi đảm nhận chức vụ
trạng ngữ trong câu thì vai nghĩa vị trí có thể nằm ở ba vị trí nêu trên. Tuy nhiên, qua khảo
sát ngữ liệu, chúng tôi thấy trạng ngữ chỉ vị trí thường đứng ở vị trí trước nòng cốt câu, ít
gặp hơn là vị trí đứng sau nòng cốt câu, còn vị trí đứng chen vào giữa chủ ngữ - vị ngữ
không thấy xuất hiện.
* Trạng ngữ vị trí có vị trí đứng trước nòng cốt câu và đầu câu tồn tại. Ví dụ:
(182) Trên bục rạp hát, trẻ con cứ sấn sổ cướp lấy cái dùi. [70: 242]
(183) Sau rặng tre ấy, biển cả còn lâu đời hơn, vẫn đang giỡn sóng, mang một màu
xanh lục. [64: 22]
(184) Và trên bộ ngực nở nang của hắn lủng lẳng một sợi dây chuyền buộc cái mặt
chằn bằng ngà có nanh vàng chìa ra coi rất dễ sợ. [64: 52]
Trạng ngữ vị trí trên bục rạp hát ở ví dụ (182),và sau rặng tre ấy ở ví dụ (183) xuất
hiện ở trước nòng cốt câu. Ở ví dụ (184), trạng ngữ vị trí trên bộ ngực nở nang của hắn được
xuất hiện ở đầu câu tồn tại.
Trong khung vị ngữ có nhiều trạng ngữ cùng xuất hiện trước nòng cốt câu như trạng
ngữ thời gian, trạng ngữ vị trí thì trạng ngữ vị trí có thể xuất hiện trước hoặc sau trạng ngữ
thời gian tùy vào mục đích thông báo của người nói (viết). Ví dụ:
(185) Xưa kia, ở các khu tập thể, cấp úy và các ông tá nhỏ được phân nhà sát vòng
tường bao ngoài vì là dãy nhà làm thêm. [72: 293]
(186) Tại cái gốc me cổ thụ, cách đây không lâu, bọn đồn Hòn Đất đã trói quặt tay một
chị cán bộ vào thân cây rồi dùng đinh đóng suốt qua hai bàn tay chị. [64: 28]
Khi xuất hiện ở vị trí đầu câu, một số trạng ngữ đảm nhiệm chức năng trạng ngữ còn
có tác dụng liên kết các câu trong văn bản. Ví dụ:
(187) (1)Cái hòm trong đó có Sứ, đặt giữa sàn nhà gỗ, nơi chị sinh ra và lớn lên, nơi
chị đùa giỡn thuở còn tấm bé. (2)Tại đây, chị đã khóc, đã cười, đã chơi đánh búng và chơi
đũa. (3) Bây giờ, tại đây chị yên nghỉ rồi. [64: 253]
Ở ví dụ (187) trạng ngữ vị trí tại đây ở câu (2) và (3) chính là cái vị trí mà bổ ngữ vị
trí giữa sàn nhà gỗ ở câu (1) đã nói tới. Trạng ngữ tại đây nhằm nhấn mạnh cho cái vị trí
được nói tới ở câu trên, và nó có tác dụng liên kết câu (1) với câu (2) và (3).
* Trạng ngữ vị trí xuất hiện ở cuối câu (đứng sau nòng cốt câu). Ví dụ:
(188) Hồi bấy giờ, xe đạp còn hiếm lắm, ở vùng này. [69: 309]
Trường hợp trạng ngữ ở vị trí cuối câu (đứng sau nòng cốt câu) như ở ví dụ (188) rất
ít gặp. Nó chỉ xuất hiện ở vị trí này khi chủ thể phát ngôn chủ định biểu thị nó làm tiêu điểm
thông báo.
▪ Ghi chú: Loại câu tồn tại thường xuất hiện trạng ngữ vị trí đứng đầu câu. Tuy nhiên,
cũng có một số tác giả cho rằng loại trạng ngữ vị trí đứng đầu câu tồn tại (cách gọi của chúng
tôi) là chủ ngữ vị trí [45: 150]. Ví dụ:
(189) Ngoài đình bỗng dồn lên một hồi trống dồn dập, vội vã. [76: 31]
(190) Đồng quê vang lên âm điệu ngày mới. Bên sông dào dạt những chuyến phà. Chợ
búa rộn ràng những tiếng người. Trường học ngân nga tiếng trẻ học bài. (Võ Văn Trực) [Dẫn
theo 45: 150]
Như vậy, với chức năng bổ sung ý nghĩa cho nòng cốt câu và nhiệm vụ liên kết câu
chứa nó với câu trước nên vị trí thường gặp của trạng ngữ vị trí là vị trí đầu câu, trước nòng
cốt câu còn vị trí sau nòng cốt câu rất ít xuất hiện.
2.4.2.1. Cấu tạo của trạng ngữ vị trí
Cũng giống như bổ ngữ vị trí, trạng ngữ vị trí cũng được cấu tạo bằng những tổ hợp từ
vị trí. Hầu hết những tổ hợp từ vị trí đảm nhiệm chức năng trạng ngữ đều được cấu tạo bằng
những danh ngữ có tác tử chỉ vị trí như trong , ngoài, trước, sau, trên, dưới, nơi, tại, ở và
chỗ, cạnh, bên, bên cạnh, gần, xa, cách, sát….đánh dấu. Các tác tử có thể là danh từ, giới từ
hay tính từ.
* Trạng ngữ vị trí có cấu tạo là giới từ (tại/ở) + danh từ/danh ngữ. Ví dụ:
(191) Ở chỗ vết thương, nhựa ứa ra tràn trề thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay gắt,
rồi dần dần bầm lại, đen và đặc quyện lại thành từng cục máu lớn. [74: 38]
(192) Ở hai bên con ngươi, nổi lên một cái màng trắng. [69: 299]
(193) Tại đây, chị đã khóc, đã cười, đã chơi đánh búng và chơi đũa. [64: 253]
(194) Chính tại rẻo đất này, mẹ chị đã hát ru chị ngủ, và đến lúc làm mẹ, chị lại hát ru
con những câu hát ngày xưa. [64: 197]
(195) Ở đấy, con trai và con gái gặp nhau dạn dĩ hơn, phóng khoáng hơn. [87: 341]
(196) Ở đây người ta thấy chiều lúc xế trưa và gặp đêm khi bên ngoài vẫn sáng. [75:
149]
▪ Ghi chú: Do cách định vị không gian của người Việt nên sau giới từ ở còn xuất hiện
trên, dưới, trong, ngoài,..trước danh từ/danh ngữ để xác định rõ cho danh từ/danh ngữ trong
cấu tạo của trạng ngữ vị trí. Ví dụ:
(197) Rồi ở trong cái tủ chè chạm dây nho, một rổ trứng gà đầy lùm, ngất nghểu
chồng trên bộ khay chè trắng bong. [84: 35]
(198) Rồi ở trước cái sập gụ lên nước, bốn chiếc ghế gụ mặt đá cùng chầu vào chiếc
bàn mây sơn xanh. [84: 35]
(199) Ở ngoài ngõ, mẹ con chị Chuột vừa kêu khóc vừa van lạy. [61: 86]
* Trạng ngữ vị trí là những từ trên, dưới, trong, ngoài, trước, sau,…(được dùng như
giới từ) + danh từ/danh ngữ. Ví dụ:
(200) Ngoài rừng sâu, đôi chim gọi nhau đã im tiếng, có lẽ chúng đã tìm thấy nhau.
[63: 48]
(201) Trong một góc nhà, bỗng trông thấy một đôi mắt mở thao láo. [83: 404]
(202) Trên đất chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía. [75: 95]
(203) Sau rặng tre ấy, biển cả còn lâu đời hơn, vẫn đang giỡn song, mang mang một
màu xanh lục. [64: 22]
(204) Trước cửa, treo một bức mành mành, như kiểu những nhà để ở, không buôn
bán. [61: 164]
(205) Ngoài đình, trống lại thúc, mõ lại khua, tù và rúc liên thanh bất chỉ. [84: 99]
(206) Dưới những gốc đa, gốc gạo xù xì, bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ
như những bóng ma. [74: 24]
* Trạng ngữ vị trí được cấu tạo là những danh ngữ mà thành tố chính là những danh từ
chỉ vị trí hoặc khoảng cách không gian: đằng, giữa, bên, cạnh, phía, nơi, chỗ, chốn, chiều,
phương, hướng,…Ví dụ:
(207) Nơi góc chiếc án thư cũ đã nhợt màu son, một cây đèn đế leo lét rọi vào khuôn
mặt nghĩ ngợi. [77: 109]
(208) Cạnh bàn thờ, Giản lặng ngắm bức ảnh người quá cố. [87: 942]
(209) Bên này suối Đất- hoa là làng Kông-hoa của Núp, bên kia suối Đất- hoa là làng
Ba-lang. [79: 20]
(210) Chung quanh làng cắm chông như dao mọc, đi một ngày đường cũng chưa hết
chông. [79: 98]
(211) Đằng sau mẹ có tiếng ồn ào của đông đảo bà con và tên lính cứ đi day lui, tay
ghìm khẩu cạc bin. [64: 218]
(212) Phía sau, có một người ngồi nhờ lên cầu đá xanh đấy. [78: 232]
2.4.3. Chức năng chủ ngữ
Chức năng chủ yếu của vai nghĩa vị trí là chức năng trạng ngữ. Tuy nhiên, trong một
số trường hợp, vai nghĩa vị trí có thể đảm nhận chức năng chủ ngữ. Khảo sát trên ngữ liệu,
chức năng chủ ngữ của vai nghĩa vị trí chỉ chiếm số lượng 10 trường hợp, chiếm tỉ lệ 4%
trong tổng số 276 ngữ liệu về vai vị trí. (Xem bảng tổng hợp 2.4)
2.4.3.1. Vị trí
Chủ ngữ vị trí chủ yếu đứng ở đầu câu, chủ yếu là câu quan hệ hoặc câu có chủ ngữ bị
động. Ví dụ:
(213) Khúc sông này là nơi ba người đã sống những ngày thơ trẻ bên nhau. [88: 24]

(214) Tường được (chủ nhà) treo (đầy) tranh. [Dẫn theo 7: 151]
Chủ ngữ vị trí khúc sông này và ở ví dụ (213), là chủ ngữ vị trí trong câu quan hệ. Còn
ở ví dụ (214) tường là chủ ngữ vị trí bị động. Tuy nhiên kiểu câu có chủ ngữ vị trí bị động
như ở ví dụ (214) không tự nhiên và rất hiếm gặp trong cách nói của người Việt.
Qua khảo sát ngữ liệu, chúng tôi còn thấy xuất hiện một số trường hợp về hình thức là
chủ ngữ vị trí nhưng xét về nghĩa thì đây chỉ là cách nói hoán dụ. Ví dụ: (215) Chỗ này chào
chị Quỳ, chỗ kia chào chị Quỳ. [63: 76]
Chỗ này trong ví dụ (215) đảm nhận chức năng chủ ngữ. Nhưng xét về nghĩa thì chỗ
này chỉ là cách nói hoán dụ chỉ những người ở chỗ này, hay ở chỗ kia.
2.4.3.2. Cấu tạo của chủ ngữ vị trí
Chủ ngữ vị trí chủ yếu được cấu tạo là danh từ hoặc danh ngữ. Ví dụ:
(216) Dưới chân cầu là bến nước, nơi lớn lên một chút chiều chiều Hường thường ra
đó giặt đồ. [88: 24]
(217) Đằng trước là một sanh vừa gan, vừa phổi vừa tiết để trên rổ lòng. [84: 13]
(218) Bên kia bàu nước là những đụn cát dọc biển, trông xa như một bức tường thành
sáng lóa. [87: 550]
2.4.4. Chức năng đề ngữ
Đề ngữ có ý nghĩa khái quát là thành phần câu nêu lên chủ đề, nêu lên đề tài chính của
câu. Do vậy, vai nghĩa vị trí có thể xuất hiện trong chức năng đề ngữ của câu. Tuy nhiên, qua
khảo sát, chúng tôi thấy hầu như trong văn bản không mấy khi sử dụng cách nói về đề ngữ
do vai nghĩa vị trí đảm nhận. Trong ngữ liệu khảo sát của chúng tôi, đề ngữ vị trí chỉ xuất
hiện 1 trường hợp, chiếm tỉ lệ 0,4% trong tổng số 276 ngữ liệu về vai vị trí.
Thông thường, khi đóng vai trò đề ngữ trong câu, vai nghĩa vị trí thường đứng ở vị trí
phổ biến nhất của đề ngữ, vị trí trước nòng cốt câu. Ví dụ:
(219) Nhưng chỗ này bọn chúng lại không ngờ tới. [64: 14]
(220) Ngoài đó (thì) tôi không ở.
(221) Ở trong buồng (thì) tôi không thích nằm.
Về cấu tạo, đề ngữ vị trí thường có cấu tạo là tổ hợp từ vị trí, có những tác tử vị trí
đánh dấu chỗ, trong, ngoài, ở trong, ở ngoài… như ở ví dụ (219), (220), (221).
Tóm lại, vai vị trí có thể đảm nhận các chức năng như bổ ngữ, trạng ngữ, chủ ngữ, đề
ngữ và thường có cấu tạo là những tổ hợp từ vị trí, có những tác tử chỉ vị trí đánh dấu.
Bảng 2.4: Bảng tổng hợp số lượng các chức năng cú pháp của vai nghĩa vị trí
Chức năng cú pháp Số lượng Tỉ lệ %
Chức năng bổ ngữ 169 61
Chức năng trạng ngữ 96 35
Chức năng chủ ngữ 10 4
Chức năng đề ngữ 1 0,4
Tổng số 265 100

2.5. Vai nghĩa nguồn


Vai nghĩa nguồn (source) chỉ chỗ xuất phát của hành động, quá trình, trạng thái do vị
từ hành động, quá trình, trạng thái biểu thị [26: 47]. Vai nghĩa nguồn có thể là một diễn tố,
có thể là một chu tố.
* Vai nghĩa nguồn là một diễn tố trong các trường hợp sau:
+ Xuất hiện trong khung vị ngữ là vị từ trạng thái. Ví dụ:
(222) Chàng chết mê chết mệt nàng. [Dẫn theo 28: 55]
(223) Tất cả những thức ăn lẫn hương hoa cúng kiếng đều do một tay ni cô làm ra.
[87: 362]
Nàng trong ví dụ (222) là diễn tố thể hiện nguồn phát sinh, gây ra trạng thái “chết mê
chết mệt”. Trong ví dụ (223) một tay ni cô làm ra cũng là diễn tố thể hiện nguồn gốc tạo ra
“tất cả những thức ăn lẫn hương hoa cúng kiếng”.
+ Diễn tố nguồn còn xuất hiện trong những trường hợp khung vị ngữ là những động từ
di chuyển có hướng như: ra trường, ra khỏi trường, ra tù, rời khỏi trường, rời khỏi tù,
xuống ngựa, xuống thuyền, ra sân,… Ví dụ:
(224) Năm thứ hai đại học, chị rời khỏi trường. [87: 19]
* Vai nghĩa nguồn thường là một chu tố trong những trường hợp sau:
+ Chu tố nguồn xuất hiện trong khung vị ngữ có động từ mang ý nghĩa thu nhận như:
thu, nhận, mượn, vay, lấy, lĩnh, chiếm, đoạt, cướp, ….Ví dụ:
(225) Buổi sáng Thư mượn chiếc xe đạp của thím Trực chạy xuống các thôn bên cạnh
lấy tin tức. [87: 551]
(226) Tôi nhận được một bức thư từ một người lạ.
(227) Sự thật là dân ta đã lấy lại Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp.
[78: 59]
+ Chu tố nguồn xuất hiện trong khung vị ngữ có động từ di chuyển có hướng. Ví dụ:
(228) Rồi chiếc ô tô thong thả từ trước công đường chạy ra sau mấy tiếng còi rất lễ
phép. [86: 128]
Dựa vào ngữ liệu khảo sát, chúng tôi thấy, khi được ngữ pháp hóa trong câu, vai nghĩa
nguồn có thể đảm nhận các chức năng như: bổ ngữ, trạng ngữ.
2.5.1. Chức năng bổ ngữ
Qua khảo sát ngữ liệu, chúng tôi thấy chức năng chủ yếu của vai nghĩa nguồn là chức
năng bổ ngữ. Trên ngữ liệu khảo sát của chúng tôi, chức năng bổ ngữ của vai nghĩa nguồn có
số lượng 89 trường hợp, chiếm tỉ lệ 88 % trong số 101 tổng số ngữ liệu khảo sát về vai nghĩa
nguồn.
2.5.1.1. Vị trí
Khi đóng vai trò làm bổ ngữ, vai nghĩa nguồn thường có vị trí là đứng sau vị từ. Ví dụ:
(229) Hai cô rời hốc đá đi đến bên xác Đạt. [64: 359]
(230) Quyên lôi từ trong hốc vách đá ra một cái ba lô nhỏ như cái túi dết may bằng tơ
càng nhuộm màu già. [64: 358]
Tuy nhiên, cũng có nhiều trường hợp bổ ngữ nguồn có vị trí trước vị từ. Những trường
hợp bổ ngữ nguồn đứng trước vị từ, hầu hết đều là những vị từ di chuyển có hướng của hành
động. Ví dụ:
(231) Con gà mái ấp cục tác từ trên cửa chuồng nhảy xuống, ưỡn đít bón một bãi
phân cho chậu lan. [84: 32]
(232) Rồi chiếc ô tô thong thả từ trước công đường chạy ra sau mấy tiếng còi rất lễ
phép. [84: 128]
(233) Cả bọn lật đật tiến từ xóm giữa vào đình. [84: 11]
Ngoài ra, trong khung vị ngữ bổ ngữ nguồn thường xuất hiện trước hoặc sau bổ ngữ
đối thể ở những vị từ như vay, mượn, lấy,... Ví dụ:
(234) Nghĩa cho tôi mượn xe hơi của công ty hai buổi tối để đi xem đèn của Hà Nội.
[72: 294]
(235) Cô nên mượn của thư viện sách tham khảo. [44: 68]
(236) Chị phải vay của ngân hàng tiền vốn lưu động. [44: 68]
(237) Nó đã lấy tiền của người ta. [61: 8]
Ở ví dụ (234), (237) bổ ngữ nguồn của công ty và của người ta xuất hiện sau bổ ngữ
đối thể xe hơi và tiền. Nhưng ở ví dụ (235) và (236), bổ ngữ nguồn của thư viện và của ngân
hàng lại xuất hiện trước bổ ngữ đối thể sách tham khảo và tiền vốn lưu động.
Như vậy, việc bổ ngữ nguồn đứng trước hay sau bổ ngữ đối thể có thể do ngữ điệu, do
tính chất dễ nghe của câu nói, nhưng quan trọng hơn là lý do người nói muốn chọn yếu tố
nào làm tiêu điểm thông báo. Tiêu điểm thông báo thường chỉ tập trung vào một loại bổ ngữ
nào đó mà thôi. Giả sử, trong khung vị ngữ gồm có vị từ, bổ ngữ đối thể, bổ ngữ nguồn, nếu
người nói muốn xem bổ ngữ đối thể là trọng tâm thông báo thì lúc đó bổ ngữ đối tượng sẽ
đứng sau bổ ngữ nguồn. Nếu bổ ngữ nguồn là tiêu điểm thông báo thì người nói sẽ đặt bổ
ngữ nguồn sau bổ ngữ đối tượng.
2.5.1.2. Cấu tạo của bổ ngữ nguồn
* Bổ ngữ nguồn thường có cấu tạo là một danh ngữ có giới từ từ hay ở (không có
trọng âm) mở đầu. Ví dụ:
(238) Trung đội trưởng Hải cũng nhận được một bức thư từ nước ngoài gửi về. [60:
65]
(239a) Núp ở nhà rông vừa về, tay cầm cái ná, lưng đeo bó tên. [79: 28]
Giới từ ở trong bổ ngữ nguồn ở nhà rông trong ví dụ (251a) cũng có nghĩa như từ. Ta
có thể thay thế giới từ ở bằng từ bằng ví dụ (251b) sau đây:
(239b) Núp từ nhà rông vừa về, tay cầm cái ná, lưng đeo bó tên.
* Bổ ngữ nguồn có cấu tạo là một danh ngữ có giới từ của mở đầu. Ví dụ:
(Dẫn lại ví dụ 225) Buổi sáng Thư mượn chiếc xe đạp của thím Trực chạy xuống các
thôn bên cạnh lấy tin tức. [87: 551]
(240) Điền nhớ đến câu thơ của một thi sĩ Tây phương ví khoảng trời sao như một
cánh đồng. [61: 261]
* Bổ ngữ nguồn còn có thể được cấu tạo bằng một danh ngữ kết hợp trực tiếp với vị từ
làm trung tâm (có trọng âm): ra trường, xuống ngựa, xuống tàu. [27: 58]
* Bổ ngữ nguồn cũng thường kết hợp sau các vị từ như rời ,ra, trốn, vượt, bỏ, xuất,
nhảy…. như: rời khỏi trường/ rời trường, ra trường/ ra khỏi trường, ra sân/ ra khỏi sân, lìa
khỏi nhà, trốn khỏi tù/trốn tù, vượt ngục, bỏ nhà, xuất viện, nhảy lầu, lìa quê hương, tránh
bãi mìn….Ví dụ:
(241) Những phi công vội vã rời cửa hầm. [87: 258]
(242) Chuyến tàu điện vét rời khỏi thành phố, tiếng chuông kêu leng keng. [87: 247]
Trường hợp bổ ngữ nguồn trường trong ra trường và ra khỏi trường là khác nhau về
mặt nghĩa: ra trường thường được hiểu là “đã tốt nghiệp” còn ra khỏi trường chắc chắn sẽ
được hiểu là hành động di chuyển ra khỏi không gian của trường. Hay trường hợp ra sân, bổ
ngữ nguồn sân được hiểu trong ngữ cảnh “Các cầu thủ đã ra khỏi sân”.
2.5.2. Chức năng trạng ngữ
Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy trạng ngữ nguồn xuất hiện rất ít trong văn bản.
Trong ngữ liệu khảo sát về vai nghĩa nguồn, chức năng trạng ngữ chỉ có 12 trường hợp,
chiếm tỉ lệ 12% trong tổng số 101 ngữ liệu về vai nghĩa nguồn.
* Về vị trí: trạng ngữ nguồn chủ yếu xuất hiện ở vị trí đầu câu, trước nòng cốt câu. Ví
dụ:
(243) Nóc bếp láng giềng, ngọn khói bốc lên nghi ngút. [84: 19]
(244) Từ đằng xa, dì Bình gánh chè thong thả đi tới phía nó. [87: 222]
(245) Từ tấm áo, Quyên nghe rõ mùi mồ hôi âm ấm. [64: 48]
* Về cấu tạo: trạng ngữ nguồn chủ yếu được cấu tạo là một danh ngữ hoặc một tổ hợp
giới từ + danh ngữ như nóc bếp láng giềng ở ví dụ (243), từ đằng xa ở ví dụ (244) và từ tấm
áo ở ví dụ (245).
Như vậy, vai nghĩa nguồn có thể xuất hiện là một vai nghĩa của diễn tố hoặc chu tố.
Khi được hiện thực hóa trong câu, vai nghĩa nguồn chỉ có thể đảm nhận chức năng bổ ngữ và
trạng ngữ trong câu. Và chức năng bổ ngữ được xem là chức năng chính, chức năng chủ yếu
của vai nghĩa này.

Bảng 2.5: Bảng tổng hợp số lượng các chức năng cú pháp của vai nghĩa nguồn
Chức năng cú pháp Số lượng Tỉ lệ %
Chức năng bổ ngữ 89 89
Chức năng trạng ngữ 12 12
Tổng số 101 100
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2
Chương 2 lần lượt tìm hiểu các chức năng cú pháp của năm vai nghĩa được chọn: vai
nghĩa đối thể, vai nghĩa tạo thể, vai nghĩa phương thức, vai nghĩa vị trí và vai nghĩa nguồn.
- Vai nghĩa vị trí khi được hiện thực hóa trong câu có thể đảm nhận chức năng cú
pháp: chức năng bổ ngữ, chức năng chủ ngữ, chức năng đề ngữ. Trong các chức năng cú
pháp mà vai nghĩa đối thể đảm nhận, chức năng chủ yếu là chức năng bổ ngữ.
- Vai nghĩa tạo thể cũng có thể đảm nhận các chức năng cú pháp giống vai đối thể:
chức năng bổ ngữ, chức năng chủ ngữ, chức năng đề ngữ. Và qua ngữ liệu khảo sát, chúng
tôi thấy, chức năng chủ yếu của vai tạo thể là chức năng bổ ngữ.
- Vai phương thức là vai nghĩa có thể đảm nhận các chức năng cú pháp như: chức
năng bổ ngữ, chức năng trạng ngữ và đây cũng chính là hai chức năng chủ yếu của vai nghĩa
này.
- Vai nghĩa vị trí là vai nghĩa xuất hiện nhiều trong câu. Vì vậy, nó có thể đảm nhận
các chức năng cú pháp: chức năng bổ ngữ, chức năng trạng ngữ, chức năng chủ ngữ, chức
năng đề ngữ. chức năng chủ yếu của vai nghĩa này là chức năng bổ ngữ và trạng ngữ.
- Vai nguồn có thể đảm nhận chức năng bổ ngữ và trạng ngữ nhưng chủ yếu là xuất
hiện ở vai trò bổ ngữ. Trong ngữ liệu khảo sát, chức năng trạng ngữ của vai nghĩa nguồn rất
ít thấy.
- Có thể hình dung chức năng cú pháp của các vai nghĩa đảm nhận trong bảng tổng kết
sau đây:
Bảng 2.6: Bảng tổng kết các chức năng cú pháp của các vai nghĩa đảm nhận trong
câu tiếng Việt
Chức năng cú pháp Chức năng Chức năng Chức năng Chức năng
bổ ngữ trạng ngữ chủ ngữ đề ngữ
Vai nghĩa
Vai nghĩa đối thể + - + +
Vai tạo thể + - + +
Vai phương thức + + - -
Vai vị trí + + + +
Vai nguồn + + - -
KẾT LUẬN
Vai nghĩa là một khái niệm mới trong ngôn ngữ học gắn liền với sự ra đời và phát
triển của ngữ nghĩa học và một khuynh hướng ngữ pháp học mới là ngữ pháp chức năng.
Việc nghiên cứu vai nghĩa trên các bình diện: ngữ nghĩa, ngữ pháp, ngữ dụng theo quan
điểm ngữ pháp chức năng cũng là một vấn đề còn rất mới. Trên cơ sở kế thừa những kết quả
nghiên cứu của các tác giả đi trước, qua việc khảo sát, thống kê và phân tích ngữ liệu, luận
văn đã trình bày một số vấn đề có tính chất lý luận làm cơ sở cho luận văn (ở chương 1)
như: khái niệm vai nghĩa, tìm hiểu khung vị ngữ và các vai nghĩa phổ biến trong khung vị
ngữ, vấn đề cấu trúc cú pháp của câu và một số chức năng cú pháp của câu, cấu tạo của diễn
tố và chu tố, mối quan hệ giữa vai nghĩa và các chức năng cú pháp cú pháp của câu. Vận
dụng những kiến thức lý thuyết, luận văn đã khảo sát một số vai nghĩa như : vai đối thể, vai
tạo thể, vai phương thức, vai vị trí, vai nguồn trong mối quan hệ với các chức năng cú pháp
của câu tiếng Việt. Việc khảo sát, phân tích các chức năng cú pháp của các vai nghĩa được
tiến hành ở hai mặt vị trí và cấu tạo của thành tố cú pháp biểu thị vai nghĩa. Từ những kết
quả đạt được của luận văn, chúng tôi nhận thấy:
1. Vấn đề vai nghĩa là vấn đề phức tạp đã được nghiên cứu theo nhiều quan điểm khác
nhau. Nhìn chung, việc định nghĩa, miêu tả và gọi tên các vai nghĩa chưa có sự thống nhất
cao giữa các nhà nghiên cứu. Luận văn chọn cách hiểu vai nghĩa tương đối thống nhất là
“quan hệ ngữ nghĩa của ngữ danh từ đối với vị từ trong câu, là cách thức mà thực thể do
ngữ danh từ biểu thị góp phần vào sự tình được câu diễn đạt” .
- Khung vị ngữ bao gồm vị từ và các tham tố của vị từ. Các tham tố nêu đặc trưng
bằng các chức năng nghĩa trong mối quan hệ với vị từ. Các tham tố chính là các vai nghĩa
trong khung vị ngữ. Các vai nghĩa được khái quát thành hai loại: vai nghĩa bắt buộc (diễn tố)
và vai nghĩa không bắt buộc (chu tố).
- Cấu trúc cú pháp thuộc bình diện ngữ pháp. Trong cấu trúc cú pháp của câu, các từ
ngữ diễn đạt các yếu tố của sự việc giữ các chức năng cú pháp. Các thành tố đảm nhiệm
chức năng cú pháp được gọi là thành phần câu. Dựa vào tiêu chí ngữ nghĩa và hình thức,
chúng tôi xác định một số thành phần câu được thống nhất ở các nhà nghiên cứu như: chủ
ngữ, vị ngữ, đề ngữ, trạng ngữ, bổ ngữ. Tuy nhiên, thành phần trạng ngữ và bổ ngữ là hai
thành phần câu mà các nhà nghiên cứu Việt ngữ học còn nhiều ý kiến chưa thống nhất.
- Trong khung vị ngữ, vị từ là yếu tố quyết định sự xuất hiện của diễn tố và chu tố. Có
những vị từ đơn trị với sự xuất hiện của một diễn tố, có vị từ song trị với sự xuất hiện hai
diễn tố, cũng có những vị từ tam trị với sự xuất hiện ba diễn tố.
- Cấu trúc vị từ- tham tố (hay vai nghĩa) của khung vị ngữ thuộc cấu trúc nghĩa biểu
hiện và nó thuộc bình diện ngữ nghĩa. Các thành phần câu như chủ ngữ, vị ngữ, trạng ngữ,
đề ngữ …. thuộc bình diện ngữ pháp. Hai cấu trúc này có quan hệ với nhau. Khi được hiện
thực hóa trong câu, một số vai nghĩa có thể tương ứng với các thành phần câu như : chủ ngữ,
trạng ngữ, bổ ngữ, đề ngữ…
2. Luận văn đi vào khảo sát trên ngữ liệu tiếng Việt các vai nghĩa đối thể, tạo thể,
phương thức, vị trí, nguồn. Khi được ngữ pháp hóa trong câu tiếng Việt, các vai nghĩa này có
thể đảm nhận các chức năng cú pháp khác nhau như: chức năng bổ ngữ, chức năng trạng
ngữ, chức năng chủ ngữ, chức năng đề ngữ. Cụ thể như sau:
- Vai nghĩa đối thể là vai nghĩa có mặt nhiều nhất trong các sự tình của câu. Vai nghĩa
đối thể có thể đảm nhận các chức năng bổ ngữ, chủ ngữ, đề ngữ. Luận văn khảo sát trên cơ
sở 335 ngữ liệu về vai đối thể (với 350 vai đối thể) trong một số tác phẩm văn học. Kết quả
khảo sát cho thấy, chức năng bổ ngữ chỉ đối tượng tác động là chức năng chủ yếu, chức năng
thường xuyên của vai đối thể (chiếm tỉ lệ 83%).
- Vai nghĩa tạo thể cũng có thể đảm nhận các chức năng cú pháp như: chức năng bổ
ngữ, chức năng chủ ngữ, chức năng đề ngữ. Luận văn khảo sát về vai tạo thể trên tổng số 95
ngữ liệu (với 97 vai tạo thể). Kết quả khảo sát cũng cho thấy, chức năng bổ ngữ cũng là chức
năng chủ yếu của vai nghĩa tạo thể (chiếm 92%). Chức năng đề ngữ là chức năng ít xuất hiện
của vai tạo thể vì chỉ chiếm 1% trong tổng số 97 trường hợp ngữ liệu được khảo sát.
- Vai nghĩa phương thức là vai nghĩa của chu tố nhưng lại xuất hiện khá nhiều trong
câu tiếng Việt. Luận văn khảo sát trên tổng số 331 ngữ liệu (với 376 vai phương thức). Kết
quả khảo sát cho thấy, khi hiện thực hóa trong câu, vai nghĩa phương thức có thể đảm nhận
hai chức năng: chức năng bổ ngữ, chức năng trạng ngữ. Chức năng bổ ngữ là chức năng chủ
yếu, xuất hiện với tần suất khá cao trong văn bản (318 trường hợp, chiếm tỉ lệ 85%). Bên
cạnh đó, luận văn cũng đi khảo sát vị trí của bổ ngữ phương thức ở hai vị trí trước và sau vị
từ và rút ra kết luận: bổ ngữ phương thức có thể xuất hiện và xuất hiện khá cao ở cả hai vị trí
trước và sau vị từ.
- Vai nghĩa vị trí cũng xuất hiện nhiều trong câu tiếng Việt. Luận văn khảo sát 260
ngữ liệu (với 276 vai nghĩa vị trí). Kết quả khảo sát cho thấy vai vị trí có thể đảm nhận các
chức năng cú pháp: chức năng bổ ngữ, chức năng trạng ngữ, chức năng chủ ngữ, chức năng
đề ngữ. Trong các chức năng cú pháp mà vai vị trí đảm nhận, chức năng xuất hiện thường
xuyên nhất là chức năng bổ ngữ và chức năng trạng ngữ.
- Vai nghĩa nguồn là vai nghĩa xuất hiện ít trong câu. Tuy nhiên, chúng cũng có thể
đảm nhận các chức năng cú pháp như: chức năng bổ ngữ, chức năng trạng ngữ. Qua khảo sát
trên 97 ngữ liệu (với 101 vai nghĩa nguồn), chức năng bổ ngữ có số lượng 89 trường hợp,
chiếm 88 %. Từ đó, chúng tôi nhận thấy chức năng bổ ngữ chính là chức năng chủ yếu của
vai nghĩa nguồn.
- Qua việc khảo sát các vai nghĩa: đối thể, tạo thể, phương thức, vị trí, nguồn, luận văn
có thể làm rõ hơn sự đa dạng về nghĩa hay những vấn đề có liên quan về vị trí, tiêu điểm
thông báo hay cấu tạo của các thành tố biểu thị vai nghĩa khi đảm nhận các chức năng cú
pháp trong câu, bổ sung về các chức năng cú pháp, về thành phần ngữ pháp trong câu.
Tuy nhiên, chúng tôi cũng nhận thấy, vấn đề thành phần câu tiếng Việt vẫn còn là một
vấn đề gây nhiều tranh cãi và chưa có sự thống nhất cao. Vì vậy, việc nghiên cứu vấn đề vai
nghĩa trong mối quan hệ với chức năng cú pháp còn là một vấn đề mới và có nhiều phức tạp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Thị Lan Anh (2000), Các vai nghĩa: kẻ tiếp nhận, kẻ hưởng lợi, kẻ tổn thất, kẻ cộng
tác, phương tiện và các chức năng ngữ pháp của chúng trong câu tiếng Việt, Luận văn thạc
sĩ khoa học Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
2. Lê Thị Lan Anh (2002), “Vai nghĩa phương tiện và các chức năng ngữ pháp của nó trong
câu tiếng Việt”, Ngôn ngữ, (4), tr.25-31.
3. Nguyễn Thị Ảnh (2002), So sánh cấu trúc Đề- Thuyết trong câu tiếng Việt và câu tiếng
Anh, Luận án tiến sĩ khoa học Ngữ văn. Đại học KHXH và NV, Tp Hồ Chí Minh.
4. Diệp Quang Ban (1987), Câu đơn tiếng Việt, Nxb Đại học và THCN.
5. Diệp Quang Ban (2004), Ngữ pháp Việt Nam (Phần câu), Nxb ĐH Sư phạm.
6. Diệp Quang Ban (2008), Giáo trình ngữ pháp tiếng Việt (Theo định hướng ngữ pháp chức
năng) (Tập hai: Phần câu), Nxb Giáo dục.
7. Diệp Quang Ban (2008), Ngữ pháp tiếng Việt (Tập hai), Nxb Giáo dục.
8. Dương Hữu Biên (1998), “Quan hệ nghĩa học – chức năng: một phạm trù cần yếu cho việc
phân tích nghĩa của câu”, Ngôn ngữ (5), tr.59-67.
9. Lê Cận, Phan Thiều, Diệp Quang Ban, Hoàng Văn Thung (1983), Giáo trình ngữ pháp
tiếng Việt- Tập II- Cú pháp tiếng Việt – Nxb Giáo dục.
10. Đỗ Hữu Châu- Bùi Minh Toán (1993), Đại cương ngôn ngữ học (Tập II) Nxb Giáo dục.
11. Đỗ Hữu Châu (1982), “Ngữ nghĩa học hệ thống và ngữ nghĩa học hoạt động, Ngôn ngữ
(3), tr.18- 33.
12. Đỗ Hữu Châu (1983), “Ngữ nghĩa học hệ thống và ngữ nghĩa học hoạt động”, Ngôn ngữ
(1), tr.12- 58.
13. Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến (1992), Cơ sở ngôn ngữ học và
tiếng Việt, Nxb Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp Hà Nội.
14. S.C. Dik (Nhóm biên dịch: Nguyễn Vân Phổ, Trần Thủy Vịnh, Nguyễn Hoàng Trung,
Đào Mục Đích, Nguyễn Thanh Phong) (2005), Functional Grammar (Ngữ pháp chức năng),
Nxb ĐH Quốc gia TPHCM.
15. Nguyễn Đức Dân (1987), Lôgích- Ngữ nghĩa- Cú pháp, Nxb Đại học và THCN.
16. Nguyễn Đức Dân (1998), Ngữ dụng học, tập I, Nxb Giáo dục.
17. Hoàng Dũng- Bùi Mạnh Hùng (2007), Giáo trình Dẫn luận ngôn ngữ học, Nxb ĐH Sư
phạm.
18. Đinh Văn Đức (2001), Ngữ pháp tiếng Việt- Từ loại, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
19. Lâm Quang Đông (2005), “Về sự hiện diện/không hiện diện của giới từ cho trong câu
chứa vị từ có ý nghĩa cho/tặng”, Ngôn ngữ (12), tr.26-33.
20. Lâm Quang Đông (2006), “Phương pháp nhận diện vai nghĩa của các tham thể trong cấu
trúc nghĩa biểu hiện của câu với vị từ đa trị như cho, tặng, gửi”, Ngôn ngữ (7), tr.49-58.
21. Lâm Quang Đông (2008), Cấu trúc nghĩa biểu hiện của câu với nhóm vị từ trao/tặng
(trong tiếng Anh và tiếng Việt), Nxb Khoa học xã hội.
22. Nguyễn Thiện Giáp (2005), Lược sử Việt ngữ học, tập 1, Nxb Giáo dục.
23. Cao Xuân Hạo (1991), Tiếng Việt sơ thảo ngữ pháp chức năng, (tập 1), Nxb Khoa học
xã hội.
24. Cao Xuân Hạo (1999), Tiếng Việt, mấy vấn đề ngữ âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa, Nxb Giáo
dục.
25. Cao Xuân Hạo (Chủ biên) (2007),Nguyễn Văn Bằng, Hoàng Xuân Tâm, Bùi Tất Tươm,
Ngữ pháp chức năng tiếng Việt (quyển 1) Câu trong tiếng Việt, Nxb Giáo dục
26. Cao Xuân Hạo (Chủ biên) (2006),Nguyễn Văn Bằng, Hoàng Xuân Tâm, Bùi Tất Tươm,
Ngữ pháp chức năng tiếng Việt (quyển 2) Ngữ đoạn và từ loại, Nxb Giáo dục.
27. Cao Xuân Hạo (2003), Tiếng Việt văn Việt người Việt, Nxb Trẻ.
28. Nguyễn Văn Hiệp(2007), Cơ sở ngữ nghĩa phân tích cú pháp, Nxb Giáo dục.
29. Nguyễn Văn Hiệp (2006), “Cấu trúc vị từ- tham thể và nghĩa miêu tả của câu”, Những
vấn đề ngôn ngữ học, tr.51-70, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
30. Bạch Thị Thu Hiền (2004), Tổng luận về ngữ pháp cách, Luận văn thạc sĩ Ngữ văn,
Trường ĐHKHXH & NV, Thành phố Hồ Chí Minh.
31. M.A.K. Halliday (Hoàng Văn Vân dịch) (2001), Dẫn luận ngữ pháp chức năng, Nxb
Đại học Quốc gia Hà Nội.
32. Đinh Trọng Lạc (1999), Phong cách học tiếng Việt, Nxb Giáo dục.
33. Đinh Trọng Lạc (chủ biên), Nguyễn Thái Hòa (2006), Phong cách học tiếng Việt, Nxb
Giáo dục.
34. Lưu Vân Lăng (chủ biên) (1994), Những vấn đề ngữ pháp tiếng Việt hiện đại (Thành tố
tạo câu), Nxb Khoa học Xã hội Hà Nội.
35. Nguyễn Văn Lộc (1993), Kết trị của động từ tiếng Việt, Luận án phó tiến sĩ khoa học
Ngữ văn, Trường ĐH Tổng hợp Hà Nội.
36. Hồ Lê (1991), Cú pháp tiếng Việt, Q.1, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
37. Bùi Thị Thanh Lương (2002), Tìm hiểu chức năng ngữ pháp và vai trò thông báo của vai
nghĩa thời gian trong câu tiếng Việt, Ngôn ngữ số 4.
38. Nguyễn Thị Lương (2006) , Câu trong tiếng Việt, Nxb ĐH Sư phạm.
39. Hoàng Phê (chủ biên) (tái bản 2006), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.
40. Hoàng Trọng Phiến (1980), Ngữ pháp tiếng Việt,(Câu)- Nxb Đại học và THCN
41. Nguyễn Thị Quy(1995), Vị từ hành động tiếng Việt và các tham tố của nó (So sánh với
tiếng Nga và tiếng Anh), Nxb Khoa học xã hội.
42. Nguyễn Thị Quy (2002), Ngữ pháp chức năng tiếng Việt (Vị từ hành động), Nxb Khoa
học xã hội.
43. Nguyễn Hữu Quỳnh (1996), Tiếng Việt hiện đại (ngữ âm, ngữ pháp, phong cách), Trung
tâm biên soạn từ điển bách khoa Việt Nam.
44. Tô Minh Thanh (2005), Cấu trúc câu trần thuật trong tiếng Việt và tiếng Anh, Luận án
tiến sĩ Ngữ văn, Trường Ðại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh.
45. Lê Xuân Thại (1994), Câu chủ-vị tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội
46. Nguyễn Kim Thản (1999), Động từ trong tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội.
47. Nguyễn Kim Thản (2008), Cơ sở ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội.
48. Nguyễn Kim Thản (1964), Nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Việt- tập II, NXB Khoa học xã
hội- Hà Nội.
49. Lý Toàn Thắng (1981), “Giới thiệu lý thuyết phân đoạn thực tại câu”, Ngôn ngữ (1),
tr.46- 54.
50. Lý Toàn Thắng (2004), Lý thuyết trật tự từ trong cú pháp, Nxb ĐH Quốc gia Hà Nội.
51. Lê Quang Thiêm (2008), Ngữ nghĩa học, Nxb Giáo dục.
52. Nguyễn Minh Thuyết, Nguyễn Văn Hiệp (2004), Thành phần câu tiếng Việt, Nxb Giáo
dục.
53. Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn Quốc gia (2000), Ngữ pháp tiếng Việt, NXB
Khoa học xã hội.
54. Ủy Ban KHXH Việt Nam (2000), Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
55. Hoàng Văn Vân (2005), Ngữ pháp kinh nghiệm của cú tiếng Việt: Mô tả theo quan điểm
chức năng hệ thống, NXB Khoa học xã hội.
56. Nguyễn Như Ý (chủ biên) (2003), Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học, NXB Giáo
dục.
Tài liệu trực tuyến
57. http://www.ngonngu.net
58. http://vi.wikipedia.org
59. http://www.linguistlist.org
Tài liệu trích dẫn
60. Trọng Bảo (2003), Ngọn gió sân chùa, Nxb Thanh Niên.
61. Nam Cao (2000), Truyện ngắn chọn lọc, Nxb Văn hóa – Thông tin.
62. Đỗ Hoàng Diệu (2005), Bóng đè, Nxb Đà Nẵng.
63. Nguyễn Minh Châu (2002), Tác phẩm và dư luận, Nxb Văn học.
64. Anh Đức (2007), Hòn đất, Nxb Lao động.
65. Anh Đức (1997), Tuyển tập Anh Đức, tập 1, Nxb Văn học.
66. Nguyễn Công Hoan(2002), Tác phẩm và dư luận, Nxb Văn học.
67. Nguyễn Công Hoan(2005), Truyện ngắn chọn lọc, Nxb Văn học.
68. Nguyễn Công Hoan (2006), Bước đường cùng, Nxb Đồng Nai.
69. Tô Hoài (2003), Những tác phẩm tiêu biểu trước 1945, Nxb Giáo dục.
70. Nguyên Hồng (2003), Những tác phẩm tiêu biểu trước 1945, Nxb Giáo dục.
71. Ma Văn Kháng (2003), Tiểu thuyết 4, Nxb Công an Nhân dân.
72. Nguyễn Khải(2003), Truyện ngắn 2, Nxb Hội nhà văn.
73. Nguyễn Khải (2003), Truyện vừa, Nxb Hội nhà văn.
74. Phan Trọng Luận (2008), Ngữ văn 12, tập 2, Nxb Giáo dục.
75. Phan Trọng Luận (2008), Ngữ văn 11, tập 1, Nxb Giáo dục.
76. Thạch Lam (2008), Truyện ngắn, Nxb Thanh niên.
77. Thạch Lam (2003), Những tác phẩm tiêu biểu trước 1975, Nxb Giáo dục.
78. Hoàng Như Mai, Nguyễn Đăng Mạnh (chủ biên) (2000), Văn học 12, tập 1, Nxb Giáo
dục.
79. Nguyên Ngọc (1973), Đất nước đứng lên, Nxb Giáo dục Giải phóng
80. Nguyễn Trọng Oánh (2003), Đất trắng, Nxb Quân đội Nhân dân.
81. Vũ Trọng Phụng (2003), Những tác phẩm tiêu biểu, Nxb Giáo dục
82. Nguyễn Huy Thiệp (1996), Truyện ngắn chọn lọc, Nxb Hội nhà văn.
83. Nguyễn Huy Tưởng (2004), Sống mãi với thủ đô, Nxb Hội nhà văn.
84. Ngô Tất Tố (2009), Tắt đèn, Nxb Văn học.
85. Đào Thị Thanh Tuyền (2002), Đêm cuối năm, Nxb Hà Nội.
86. Truyện ngắn hay báo Thanh Niên 2008 (2009), Nxb Văn Nghệ.
87. Tuyển văn tác giả nữ Việt Nam (2001), Nxb Phụ nữ.
88. Ngô Thị Thu Vân (2009), Muộn, Nxb Trẻ.
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1: VAI NGHĨA ĐỐI THỂ

1. Huyến vội vàng đẩy cửa lẻn vào. [70: 176]


2. Anh vén tấm màn đỏ che gầm bàn thờ chui vào đó. [70: 176]
3. Cụ đứng đọc tờ báo rất lâu. [83: 29]
4. Trung úy Xăm chém cô ta không chết mà ổng bị chấn thương ộc máu trông ghê quá! [64:
235]
5. Một nhánh mãng cầu bị đạn súng máy cắt đứt rơi xuống vai Ngạn. [64: 89]
6. Tôi khẽ mở lồng ấp. [87: 258]
7. Bà ngoại kéo cửa ra. [84:9]
8. Chàng lính trẻ vội kéo cô gái chạy vào rừng lim già. [60: 44]
9. Nguyệt đẩy tôi ngã vào giữa một vật gì cứng và sâu. [75: 242]
10. Hắn đi chặt một đoạn mây to. [60: 445]
11. Chị Dậu lật đật bồng con bé ra cổng đuổi chó. [84: 25]
12. Anh giơ tay giữ tờ báo đã rách gần một nửa mà gió lộng cứ phần phật đánh. [83: 29]
13. Thì “choang” một cái, anh cu đã hất cái mâm ra ngoài sân. [61: 439]
14. Nói xong, y vén tấm rèm vải lên. [64: 72]
15. Anh thở dài, giao trả Loan quyển vở. [83: 36]
16. Anh bế xốc Thắng lên và chỉ trong nháy mắt, Thắng đã ngồi trên vai Dân. [83: 45]
17. Thức ăn được lần lượt mang ra sực nức đủ mùi vị. [88: 48]
18. Ông vội vàng bóc thư ra đọc. [67: 76]
19. Một lần tôi và Nguyên đi chợ, nó xách làn lẽo đẽo theo sau. [87: 814]
20. Trẻ con vẫn thường bị sán hành. [87: 323]
21. Anh đã bứt đứt hàng chục trái vả mà không hay. [74: 45]
22. Quyên lôi từ trong hốc vách đá ra một cái ba lô nhỏ như cái túi dết may bằng tơ càng
nhuộm màu già. [64: 358]
23. Năm Nhớ xốc dìu anh Thẩm. [64: 386]
24. Chú Tiểu hiểu ý đến đỡ bà lên tựa lưng vào thành giường. [87: 363]
25. Anh hất nhánh mãng cầu, đứng nhóng lên. [64: 89]
26. Nàng ngần ngữ giữ tay tôi đứng lại. [87: 436]
27. Thím Trực ngồi xắt khoai ở đầu hồi lẩm nhẩm đọc theo. [87: 552]
28. Cái phần khó khăn nhất, những người cán bộ ấy đã làm. [67: 51]
29. Nó xé tất cả các báo, các bản đồ, đạp nát các máy. [83: 52]
30. Trần Văn kéo Loan đi. [83: 56]
31. Những cành lưỡi long bị chém ngang, mủ tươi còn nhiều ròng ròng xuống đất. [87: 553]
32. Nho cuộn tròn cái gối cất nhanh vào túi. [87: 534]
33. Vân lẳng lặng khoác ba lô lên đường, không một lời phân bua. [87: 569]
34. Quyên cầm cái nạng giàn thun lên coi, rồi thơ thẩn nhét vào. [64: 359]
35. Anh tung quả lựu đạn trên bàn tay. [83: 201]
36. Trong lúc Năm Nhớ chạy đi, Quyên cầm cây nến cúi xuống. [64: 259]
37. Bộ đội kéo mấy anh công an, trinh sát lại. [83: 429]
38. Bắp chân trái của Thẩm đã được buộc lại bằng một chiếc khăn rằn. [64: 91]
39. Chị Thao móc bánh quy trong túi, thong thả nhai. [87: 534]
40. Tôi đẩy cánh cửa buồng toa xe bước ra ngoài hành lang rồi kéo khép lại nhẹ nhàng. [85:
159]
41. Nói đoạn Lâm dắt chiếc xe máy cọc cạch ra cổng. [60: 95]
42. Anh Thưởng bế đứa bé lên bến suốt ngày ngóng đợi. [60: 238]
43. Cậu ta tháo gói đồ ra buộc lại lấy chỗ cho tôi ngồi. [60: 151]
44. Đoạn, tôi nhoài người đẩy cái khối thuốc nổ xuống cái hố đào sẵn ở phía trước ụ đất. [60:
112]
45. Anh nắm cả hai tay Tân chao đi chao lại như đưa võng. [83: 442]
46. Liên kèm tôi suốt gần một năm. [60: 66]
47. Chị xô tấm chăn ra, nhẩy hai bậc một trên cái cầu thang xây gạch lộ thiên.[63: 118]
48. Tôi vội vã lục tung cả hai chiếc ba lô. [63: 126]
49. Nhưng, món lương thực ấy đã bị chuột tha gần hết. [84: 85]
50. Người cao lớn lôi Thắng ra. [83: 408]
51. Tới cõng Thẩm nãy giờ mệt thở hồng hộc. [64: 91]
52. Câu chuyện bị cắt bởi những tiếng cười rộ của Tân và hai người chiến sĩ. [83: 434]
53. Vừa nghĩ, tôi vừa mở lá thư của em gái ra. [60: 65]
54. Bốn con chó lần lượt bị hắn túm cổ xách lên, xem tai, xem mắt. [84: 69]
55. Rồi chị bồng nó lên lòng. [84: 84]
56. Rồi hai tay hai đứa, chị ẵm chúng nó vào trong cái phản cập kênh. [84: 84]
57. Lúc bấy giờ, bác ôm một bọc to tướng đến nhà thương. [66: 23]
58. Chiếc chiếu ở đây lúc chiều chị đã đem trải xuống đất để đặt cái Tỉu, và đã bị nó đái ỉa
đầm đìa. [84: 84]
59. Phong mở cái lót trùm đầu thằng bé ra. [66: 22]
60. Cái số tiền đó, cậu đã có để trả tôi chưa? [66: 80]
61. Bà mắm đôi môi thắm lại để băn khoăn và tiếc tiền. [66: 199]
62. Anh L.56 đang rảo cẳng kéo xe không đi phố hàng Gai. [66: 202]
63. Thằng bếp dọa anh như thế. [66: 215]
64. Nó buộc chân con vật vào cái tóc dài cho em nó rong. [66: 216]
65. Cũng như hôm trước, cô lại gấp tiền với thư vào phong bì, để lại ở bàn giấy. [66: 221]
66. Thế mà vẫn cứ cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc. [84: 89]
67. Hoảng quá, anh Dậu vội để bát cháo xuống phản và lăn đùng ra đó, không nói được câu
gì. [84: 103]
68. Rồi chị túm lấy cổ hắn, ấn dúi ra cửa. [84: 105]
69. Chị Dậu nhấc mâm cháo xuống phản. [84: 119]
70. Thằng Mới lễ mễ bưng mâm lòng lợn đậu phụ đặt vào chiếc chiếu giữa đình. [84: 122]
71. Việc này, cô chẳng cho các bạn đồng sự biết. [66: 222]
72. Còn tí việc nhẹ nào, họ tranh nhau làm mất cả. [61: 11]
73. Hoa màu bị phá sạch sành sanh. [61: 11]
74. Thì ra tôi già bằng này tuổi đầu mà còn đánh lừa một con chó, nó không ngờ tôi nỡ tâm
lừa nó. [61: 13]
75. Những công việc nặng không làm được nữa. [61: 11]
76. Chuyện triều đình quốc gia, chúng ta biết gì mà bàn bạc cho thêm lời. [75: 109]
77. Chị Dậu giằng nắm bạc vứt tọt xuống đất. [84: 139]
78. Thầy thơ lại rút chiếc hèo hoa ở giá gươm, phe phẩy roi, đi xuống phía trại giam tối om.
[75: 109]
79. Hài cốt của cha Đạt và những người khác được chính chị em Quyên, Sứ gom về, bây
giờ cũng hãy còn để chung trong hang. [64: 105]
80. Sáu phạm nhân mang chung một chiếc gông dài tám thước. [75: 110]
81. Ngục quan băn khoăn ngồi bóp thái dương. [75: 109]
82. Cái thang dài ấy đặt ngang trên sáu bộ vai gầy. [75: 110]
83. Cánh cửa đề lao mở rộng. [75: 111]
84. Vui vẻ, chị Dậu cắp gói quần áo ra hồ. [84: 149]
85. Cái nón dùng làm khí giới đã bị đàn vật cắn rách tan tành. [84: 33]
86. Mụ đuổi đàn chó tán loạn mỗi con chạy đi mỗi ngả. [84: 19]
87. Đến cái cảnh chết chém, ông còn chẳng sợ nữa là những trò tiểu nhân thị oai. [75: 112]
88. Lời cung ta kí rồi. [75: 112]
89. Quan hình bộ thượng thư trong kinh bắt giải ông Huấn Cao và các bạn đồng chí của ông
vào kinh. [75: 113]
90. Ta khuyên thầy Quản nên thay đổi chốn ở đi. [75: 114]
91. Nhưng tự nhiên, tay Núp hạ ná xuống. [79: 29]
92. Bàn tay phải bị chó cắn vào lúc nào không biết, máu tươi chảy ra đầm đìa. [84: 33]
93. Biết bao của quý vật lạ, chị Dậu nhìn vẫn chưa hết. [84: 35]
94. Bà Nghị mở cái tráp tròn lấy trầu và cau nhai với một sợi thuốc. [84: 35]
95. Chị Dậu thèn lẹn, nâng dải yếm sẽ chùi vào mắt. [84: 38]
96. Bước ra thềm, chị nhặt lấy cái mê nón bị chó cắn rách. [84: 43]
97. Chánh hội quăng tọt đôi đũa xuống mâm và nói dõng dạc. [84: 53]
98. Người ta hay hối hận về tội ác khi không còn đủ sức mà ác nữa. [75: 150]
99. Hắn cầm lấy bát cháo đưa lên mồm. [75: 150]
100. Pháp bắt người Ba-lang dẫn đi đánh Kông –hoa. [79: 27]
101. Còn bộ quần áo chúc bâu mới may, Điều đem bán nốt. [70: 162]
102. Nó đưa đứa con gái lên năm giả lại bà.[61: 149]
103. Chúng vây lấy bà già rách rưới. [61: 153]
104. Cai lệ rước chén thuốc phiện và bộ khay đèn sang thẳng gian đình bên kia. [84: 55]
105. Lý Cựu đặt bát rượu vào mâm và đấm thật mạnh xuống sàn đình. [84: 53]
106. Bok Sung thong thả vo một viên thuốc, nhét vào ống điếu, bẻ một cái nẹp ở sàn nhà,
bắt lửa châm thuốc hút phà khói dày đặc. [79: 23]
107. Ông bà trước đánh Pháp, sao bây giờ mình không đánh. [79: 25]
108. Xíp mang gùi gạo chạy theo lũ làng. [79: 28]
109. Nhiều cái tài đã bị vùi đi trong đói khổ và vô học. [83: 41]
110. Chú bé cắp một cái cặp da đựng đầy những báo Cứu quốc, Dân thanh, Dân mới. [83:
43]
111. Tên lính và hắn ăn hết nửa con gà, uống hết một bi đông rượu thì ánh nắng đã tắt.
[64:53]
112. Bọn lính giữ chặt lấy Sứ. [64: 215]
113. Anh ta kéo Trần Văn ra một chỗ, tay ra hiệu như người câm nói chuyện. [83: 54]
114. Thằng Mới lật đật quét dọn cơm rau rơi vãi và mảnh bát mảnh chậu ném ở sân đình.
[84: 57]
115. Nó đập ghè rượu. [79: 29]
116. Pháp đánh Ba-lang như mở được cửa rồi. [79: 27]
117. Chị Liêu cầm nhúm tro đốt cháy, bỏ vào một cái bát bề. [79: 53]
118. Thằng Pháp đốt cái làng này rồi. [79: 65]
119. Chị lã bị Pháp hiếp, bây giờ nó còn giam trong đồn. [79: 80]
120. Thơ thẩn, chị đón lấy con bé con và ngồi ghé vào bên mép chõng. [84: 35]
121. Anh ôm thằng Hờ-ru vào lòng. [79: 89]
122. Lũ làng mình ở đây, Pháp đánh miết không nổi. [79: 93]
123. Tay nó cầm một sợi dây có cột nhiều gút. [79: 107]
124. Núp đưa cái rựa cuối cùng cho Liêu. [79: 107]
125. Lũ làng mỗi người làm hai rẫy. [79: 145]
126. Anh mở ống muối chia cho mỗi đứa một ít. [79: 107]
127. Anh Thế mang một cái gùi nặng trên lưng. [79: 108]
128. Mấy ngày sau Pháp thả luôn hai người Kông- hoa bị bỏ tù. [79: 82]
129. Rồi hai cánh tay ôm chầm lấy Núp. [79: 83]
130. Sáng hôm sau, đồng chí Cận đem gửi cho Núp một gùi muối đầy, sáu cái rìu rựa, hai
cây súng dài, một ảnh Bok Hồ, một lá cờ và một trăm cây kim…[79: 139]
131. Tun ngồi mân mê mãi mấy cái súng các- bin. [79: 152]
132. Núp cười, đưa súng cho Tun mượn. [79: 152]
133. Hai tay Núp nắm chặt lấy hai bàn tay nóng của anh bộ đội. [79: 155]
134. Liêu chết được hai ngày thì anh Thế về đưa cho Liêu một miếng giấy. [79: 158]
135. Hắn nhặt một hòn gạch toan đập đầu. [61: 68]
136. Lặc lấy chiếc ghế nhỏ chặn lên cổ con chó và giữ chặt lấy. [69: 69]
137. Mà khi người ta say, người ta quên cả những sự lầm than của kiếp người, nghĩa là
người ta sung sướng lắm. [61: 233]
138. Nó mới tợp cho chị ả một miếng nặng. [69: 72]
139. Nó vác cái bụng đi khạng nạng. [69: 72]
140. Bác Trạm lò khò dắt cái xe đạp đi vào làng Nha. [69: 309]
141. Lũ trẻ thì quay cái bê đan trở lại để được nghe tiếng kêu lạch tạch. [69: 309]
142. Ông chỉ sợ con gái ông ế chồng. [69: 303]
143. Và tất cả những việc quan trọng giữa hai nhà, nàng cũng đã biết rõ hết. [69: 304]
144. Ông thách một thúng gạo nếp, một thúng gạo tẻ, một con lợn và hai mươi đồng bạc
mặt. [69: 305]
145. Những ngày mùa hè có nắng to, lão chỉ rấp cái khăn mặt ướt để lau mình. [69: 307]
146. Việc nhân duyên của mày, bầm đã Nghĩ đến từ lâu lắm. [69: 300]
147. Ông Nhiêu đã đem trầu cau ra đình trả nó rồi. [69: 300]
148. Ngây lườm yêu người bạn tình. [69: 259]
149. Ngây cúi xuống gậm phản lấy đôi guốc. [69: 261]
150. Chị Khuyên mừng đôi mùi soa. [69: 323]
151. Cả đến vốn liếng của mụ hắn cũng moi hết. [70: 246]
152. Tối hôm ấy đứa con gái lớn Ký Phát níu lấy cổ mụ kéo lại.[70: 250]
153. Quà bánh đã đành là không. [71: 25]
154. Rượu, mới chỉ nhấp ướt môi đã đỏ hồng khuôn mặt. [71: 25]
155. Phở, thưởng thức một cách tỉ mỉ, bằng toàn bộ giác quan, chủ yếu qua tùy bút Phở của
nhà văn họ Nguyễn. [71: 25]
156. Hắn xoắn lấy mớ tóc của mụ, lôi sềnh sệch mụ ra ngoài cửa, gầm hét vang nhà.[70:
250]
157. Mụ vội chất thêm một thanh đóm rồi đứng lên. [70: 250]
158. Nhưng Điền chỉ đem có hai cái ghế ra sân. [61: 262]
159. Thị đánh con lớn, chửi con nhỏ, quăng cái chổi, đá cái thúng, và càu nhàu trống không.
[61: 262]
160. Ông mắng đứa ở để mía um tùm thế mà chưa buồn bóc. [61: 225]
161. Ông ngồi xuống, uốn nắn mấy cây cảnh trồng trước cửa. [61: 225]
162. Có lẽ Điền ước ao một mái tóc thơm tho, một làn da mát mịn, một bàn tay ve vuốt. [61:
263]
163. Họ sẽ gửi cho Điền những bức thư xinh xinh ướp nước hoa. [61: 264]
164. Thị vắt thêm vào đấy nửa quả chanh. [61: 265]
165. Con bé mới ngửi thấy hơi gừng đã sợ. [61: 265]
166. Thế là ca nước gừng đã dốc tuột vào mồm nó. [61: 265]
167. Cái khổ làm héo một phần lớn những tính tình tươi đẹp của người ta. [61: 266]
168. Không một phút nào Điền không phải nghĩ đến tiền. [61: 262]
169. Hắn biết đâu hắn đã phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập phá bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ
bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện. [61: 50]
170. Bà chỉ bĩu cái môi ra một chút. [61: 420]
171. Chừng một giờ sau, người đàn bà bưng về một mâm cơm. [61: 425]
172. Trong khi chúng tôi ăn uống, người đàn bà tháo tất cả những cánh cửa nhà, hạ xuống.
[61: 425]
173. Anh đã chịu đựng tất cả những nỗi đau âm thầm ấy, không một lần hé răng oán than.
[61: 195]
174. Thuốc lá, không một hơi từ thuở vị thành niên. [71: 25]
175. Tôi chỉ còn thèm một bát chè đỗ đen. [61: 197]
176. Hơn ba tháng, bà lão chỉ toàn ăn bánh đúc. [61: 152]
177. Cái hàm răng vổ làm môi trật hẳn ra. [61: 231]
178. Ông Cựu nhận lấy một trăm đồng bạc. [61: 229]
179. Hắn đọc lại đoạn văn. [61: 333]
180. Cái quá khứ của y, chỉ mình y có quyền quan tâm đến. [61: 218]
181. Chính quyền đưa cái thư điều đình cho chúng tôi xem. [61: 336]
182. Bác Phán gửi cái này cho mợ Dần nhé. [67: 67]
183. Mợ nó cầm lấy ảnh. [67: 69]
184. Bác Phán đưa cho Dần cái ảnh cậu Dần đây, để cậu Dần ngủ với Dần nào! [67: 68]
185. Bác Phán về , rồi mai bác Phán lấy ô tô cho Dần chơi. [67: 69]
186. Rồi nó trùm chăn lên đầu, lại ngủ. [67: 69]
187. Ông vội vàng bóc thư ra đọc. [67: 76]
188. Mặt tím bầm như quả bồ quân, ông chủ bút lại mở tờ Buổi Sáng ra đọc. [67: 80]
189. Những lời tôi khuyên ông, tôi xin ông nghe tôi, bởi vì, chẳng phải khoe, tôi sành nghề
làm báo hơn ông. [67: 85]
190. Ông ấy vừa gắt ông đấy. [67: 85]
191. Bà mẹ ra mở cửa mặt buồn rười rượi. [72: 26]
192. Thỉnh thoảng vợ chồng Lưu vẫn mời bạn bè tới nhà dùng cơm. [72: 26]
193. Hắn định mua mấy hào thịt, vài cái bánh tây, gói đem về. [61: 335]
194. Về nhà lỡ mất mát gì chú ấy sẽ nghi ngờ cả hai anh em. [72: 41]
195. Nhà thì không thể bán được vì mình chưa có chủ quyền nhưng sang nhượng thì được.
[72: 42]
196. Ăn cơm xong bố uống vội chén nước rồi vào phòng riêng. [72: 48]
197. Ông nội xin bố một tấm ảnh cho phóng to đặt trên tủ buýt phê giữa nhà. [72: 52]
198. Đến để đâm chết cả nhà nó, đâm chết cái con khọm già nhà nó. [61 : 153]
199. Chị Sứ đưa cháo xuống. [64: 21]
200. Về việc này, phải nói là chị Sứ cứ ân hận mãi. [64: 9]
201. Chị đưa mắt nháy Quyên. [64: 9]
202. Nhiều khi cô đem cho ảnh cả chuối và xoài nữa. [64: 12]
203. Cô giội mấy gáo nước nữa cho sàn lảng thiệt sạch. [64: 31]
204. Ngạn hôn con Thúy chùn chụt. [64: 32]
205. Con bé hôn lại anh, hôn không rõ kêu thì anh không chịu. [64: 32]
206. Anh Tám đang vén áo tháo thắt lưng súng ngắn, nghe mẹ Sáu nói thì bật cười. [64: 32]
207. Lần ấy, cuối cùng địch phải trói gô tên lính sát nhân lại. [64: 35]
208. Ngạn cũng nắm tay con Thúy đi theo. [64: 37]
209. Quyên mổ cá, đem rửa. [64: 37]
210. Ngạn tức mình, càng giật mạnh chéo áo cô. [64: 38]
211. Sứ đưa cả ảnh cho anh coi. [64: 40]
212. Quyên đã bưng thức ăn ra. [64: 43]
213. Sứ đi vào buồng , lát sau cầm ra một chai rượu trong vắt. [64: 44]
214. Ba cái ly ấy mới giơ lên vừa chạm vào nhau đánh “cốp” một cái chợt ngoài sân có
tiếng chân đi thình thịch. [64: 45]
215. Ba người cầm ly rượu trên tay chưa uống một hớp thì Tấn và anh Ba Rèn xồng xộc
bước vào. [64: 45]
216. Tôi sẽ ở lại ngoài xóm giúp chỉ đạo bà con đấu tranh chính trị. [64: 47]
217. Chúng trải những tấm tăng, dành chỗ làm bếp nấu, tu ừng ực nước hoặc rượu chứa
trong các bi đông Mỹ. [64 : 52]
218. Ngoài ra, hắn còn khoác một khẩu cạc bin và một cái cúp cúp. [64 :51]
219. Vừa đi thằng Xăm vừa rút soạt lưỡi dao bên hông. [64: 51]
220. Tên lính cầm chai la ve khoái trá uống nốt chỗ còn lại. [64: 51]
221. Thằng Xăm cởi phanh áo. [64: 52]
222. Hắn với tay chụp cái bi đông lắc lắc ra vẻ hài lòng. [64: 53]
223. Hai cổ tay hắn đeo không biết bao nhiêu là dây bùa cà tha vàng hoặc đỏ. [64: 52]
224. Nhưng rượu đã hết, và chúng đang bẻ bánh mì chia nhau ăn.[64: 53]
225. Có một số lính đi khuân củi. [64: 53]
226. Chúng còn mời mọc một tên thiếu úy mặt xương, mắt sâu thỏm và gọi tên này bằng anh
Ba. [64: 54]
227. Cũng như nó đã từng đánh bẫy chim quen rồi. [64: 146]
228. Nhưng tôi đề nghị nhân tiện để tôi xử luôn vợ chồng thằng Ba Phi cho rảnh. [64: 152]
229. Lát sau, Năm Nhớ đã đem túi dụng cụ y tế vào. [64: 152]
230. Bàn tay phải của bé lúc này lại bíu chặt tay Quyên hơn chút nữa. [64: 154]
231. Tên chủ mưu đã ép cô gái Cà Xợi xinh đẹp về ở với hắn. [64: 57]
232. Chị Sứ xốc con lên vai, tay trái với ra sau vịn lưng con, tay phải giơ ngọn nến soi lối.
[64: 157]
233. Tên chủ Mưu đã ép cô gái Cà Xợi về ở với hắn. [64: 57]
234. Sau cùng y đuổi Cà Xợi ra khỏi nhà, còn thằng Xăm thì y giữ lại nuôi.[64: 57]
235. Ngôi nhà ấy cũng bị phá, và bị cách mạng lấy chia cho dân. [64: 58]
236. Thậm chí bà Cà Xợi đã liệng vãi các thứ ấy ra sân, rồi bưng mặt khóc. [64: 59]
237. Các chai rượu bà cặp ở nách rơi xuống đụng phải ngạch cửa, ngã chúi. [64: 61]
238. Thím Ba Ú kéo bà Cà Xợi trở vào. [64: 61]
239. Thằng Xăm vội đưa tay chùi mép, không nói chi hết. [64: 64]
240. Lại một hôm khác thằng Xăm đi biệt kích ở Vàm Răng bắt về mấy người chẳng biết là
cán bộ hay dân thường. [64: 64]
241. Cô lè lẹ mở cửa. [64: 67]
242. Trường gạt mạnh những đồ đạc rơi vỡ xuống đất. [76: 294]
243. Cánh cửa nhà ông Tư Đờn đã khép chặt. [64: 67]
244. Anh giắt cây mã tấu sáng lóa ở sườn, được thắt ngang bằng một cái khăn choàng sọc.
[64: 70]
245. Xuân đẩy cửa bước vào. [76: 299]
246. Tấn dắt mọi người đi men qua sông. [64: 70]
247. Chàng nhấc tờ báo lên gần mắt, chú ý đọc, nhưng chàng không biết mình đọc gì. [76:
299]
248. Y xách ấm nước ra, chế vào bình đã bỏ trà sẵn. [64: 74]
249. Đợi một lúc, y nhấc bình rót nước ra các chun. [64: 74]
250. Một lát, y trở ra, hai ngón tay kẹp một cái ống trúc đã khô. [64: 75]
251. Tới và Trọng lanh lẹn nhấc bốn cái chun nước dằn bốn góc ra để tấm bản đồ đừng vo
cuộn lại. [64: 75]
252. Tên chủ trại đáp khẽ rồi kéo mí xà rông nơi bụng vận guộn lại cho chặt, người hơi
nhổm tới. [64: 75]
253. Mụ vợ bị Trọng lôi xềnh xệch từ bếp ra. [64: 79]
254. Nàng ngượng nghịu chùi nước mắt. [76: 342]
255. Ba người giải tên chủ trại về tới đầu xóm Vạn Thanh thì đêm đã khuya. [64: 79]
256. Ba rèn nói xong xách cây đèn chai xăng xái dắt ba người ra ven rừng. [64: 78]
257. Anh em treo đèn chai trên những nhánh mãng cầu. [64: 81]
258. Thẩm trải đệm rủ Ngạn lại nằm chung. [64: 83]
259. Hai cánh tay rộng lớn như hai cánh lim của anh ôm chặt lấy mẹ con Mai. [74: 46]
260. Ông cụ vụng về trở tay lau một giọt nước mắt. [74: 46]
261. Đạn trong những băng dự bị anh cũng lấy ra hết. [64: 83]
262. Người trẻ tuổi cuống quýt vớ vội cái áo chạy mất. [70: 37]
263. Ngạn xách súng đứng bật dậy, chạy ra hố. [64: 85]
264. Chúng nó trói chặt Tnú bằng dây rừng, khiêng ném vào góc nhà ưng rồi kéo đi ăn thịt
con heo của anh Brôi. [74: 46]
265. Bấy giờ Ba Rèn đã cởi áo buộc thắt ngang đầu. [64: 87]
266. Ngạn ngắm kỹ một tên to cao nhất ở giữa đám giặc, bóp cò ngay. [64: 87]
267. Nó lén chùi nước mắt giàn giụa. [74: 43]
268. Hai tên biệt kích bị viên đạn của anh xỏ xâu, tên sau ngã trước, tên trước đứng sững lại,
buông súng, người hơi ưỡn ra sau rồi loạng choạng ngã. [64: 90]
269. Tới đang cõng Thẩm chạy lúp xúp. [64: 91]
270. Rồi nó cầm lấy một cây lửa. [74: 47]
271. Người đội xếp ta vội chạy lại giằng lấy guốc. [70: 37]
272. Trận đại bác đêm qua đã đánh ngã bốn năm cây xà nu lớn. [74: 48]
273. Tiếng chúng nói chuyện, la hét ầm ĩ, mọi người đều nghe thấy. [64: 94]
274. Người đàn bà nọ vẫn gầm thét, đánh đập Bính. [70 : 37]
275. Một toán vác xoong chảo vừa lấy của đồng bào kéo đi lểnh nghểnh. [64: 94]
276. Ngạn nói và nhấc bổng con bé lên. [64: 97]
277. Thoi mực, thầy mua ở đâu mà tốt mà thơm quá. [75: 114]
278. Em với chị Ba, Năm nhớ phải đội cà om chạy ra suối múc nước. [64: 98]
279. Vết thương của Thẩm đã được băng kỹ. [64: 100]
280. Tôi nắm lấy tay Khang mà nước mắt cứ ứa ra. [73: 313]
281. Trương tẩn mẩn xếp lại mấy quyển sách trên bàn, để có thì giờ nghĩ ngợi. [76: 277]
282. Anh bấm đèn pin cho chị Sứ coi lại những nồi cà om nước. [64: 105]
283. Người đội xếp tây kéo Bính dậy. [70 : 37]
284. Bỗng cánh cửa kẹt mở. [70 : 39]
285. Đạt nâng khẩu cạc bin lên, chĩa ra miệng hang, nhắm nghiền mắt trả lời. [64: 106]
286. Nghiệp xách cây súng ngựa trời nói với anh Hai Thép: [64: 112]
287. Tụi lính đưa tay vuốt mồ hôi, hổn hển: [64: 200]
288. Nàng trao con cho vú em bế rồi chán nản ra hiên gieo mình trên chiếc ghế. [76 : 295]
289. Một thằng mở phăng sợi dây trói buộc ngang mình chị. [64: 202]
290. Tôi đã vứt những cái này đi cơ mà. [76 : 294]
291. Chị ôm ghì lấy đầu con mà vuốt ve, hôn hít. [64: 202]
292. Tên lính xốc tay chị lôi đi. [64: 203]
293. Lượt sau, chính Ngạn xách súng cùng hai anh em đi kiếm chị nữa. [64: 208]
294. Nắng đã lên, Quyên đã đem túm gạo rang ra, đi đến từng chỗ phân phát cho anh em.
[64: 211]
295. Hắn vuốt má Từ một cái rồi đi. [61: 334]
296. Anh xoạc chân đưa khẩu ga răng lên vai, bắn chĩa ra ngoài luôn ba phát “bầm, bầm,
bầm”. [64: 214]
297. Tên lính ném lưỡi dao tuột xuống. [64: 215]
298. Sứ bị sợi dây kéo lên mỗi lúc một cao, lơ lửng, nghiêng nghiêng. [64: 216]
299. Hai bắp tay trần trắng tươi của chị bị sợi dây rút ngược, tréo ngoặt…. [64: 216]
300. Xuân Tóc đỏ đưa lọ nước ruộng và mấy cái thài lài ra. [81 : 80]
301. Sợi dây tàn bạo cứ kéo lấy đôi tay, lôi sểnh tấm thân mảnh khảnh. [64: 216]
302. Sợi dây tàn bạo kéo lên không trung người con gái xứ Hòn, người con gái miền Nam,
đã một lần sinh hạ, ngóng trông, chung thủy. [64: 216]
303. Bỗng một bàn tay đập vào vai hắn khiến hắn giật mình quay lại. [61: 335]
304. Chị hôn khắp khuôn mặt nhăn nheo giàn giụa nước mắt của mẹ. [64: 221]
305. Còn suối tóc mượt mà rủ xuống tới vai mẹ đây, chính mẹ cũng đã vuốt ve khi nó hãy
còn lơ thơ bệt dính trên đầu. [64: 220]
306. Rồi cứ thế chị ôm chặt lấy mẹ. [64: 221]
307. Người tài xế xuống mở cửa xe. [81: 43]
308. Đứng tại chỗ của mình, tay họ ghìm chặt súng, mắt rưng rưng. [64: 223]
309. Chiếc áo của cô thì cô đang mặc trong mình. [64: 225]
310. Hắn đưa tay với ấm nước ở trên bàn để uống. [61: 338]
311. Mà chiếc áo của chị Sứ thì chị ấy cũng còn đang để lại đây. [64: 225]
312. Chị hàng mía đưa trả hào chín tiền thừa thì hắn khoanh tay sau lưng không nhận. [81:
30]
313. Chú Tư Nghiệp trao bi đông cho Đạt, Đạt cầm bi đông đưa lên miệng. [64: 227]
314. Tới đỏ mặt, liệng cái bi đông vô hốc đá. [64: 227]
315. Từ lại bế con vào. [61: 338]
316. Họ cầm tôm xông ngồi chồm hổm dưới gốc đá đợi trời tối. [64: 232]
317. Ngạn đưa súng lại cho họ. [64: 234]
318. Hắn ngắm nghía mặt Từ lâu lắm. [61: 339]
319. Vợ Điền gượng nhẹ đặt đứa con nhỏ đang ngủ mệt xuống võng. [61: 265]
320. Mẹ Sáu bới cho đứa con mình một đầu tóc thực là khéo. [64: 252]
321. Hắn dịu dàng nắm lấy tay sã xuống của Từ. [61: 325]
322. Đầu tóc đó được bới khéo như vậy tưởng cũng không lạ. [64: 252]
323. Chị nhắc cái niêu nhẹ nhõm. [61: 438]
324. Hắn ôm chặt lấy cái bàn tay bé nhỏ của Từ vào ngực mà khóc. [61: 339]
325. Còn tóc của Sứ bị thằng Xăm chém đứt hồi trưa, bà con đem về, mẹ đặt nâng lên mặt
bàn thờ. [64: 252]
326. Chị đem nó lừa vào võng. [61: 438]
327. Bà con nới nhẹ tay mẹ Sáu ra, dìu mẹ đến bên giường. [64: 252]
328. Nó bèn cúi xuống để nhặt tiền. [66: 169]
329. Đạt sờ khắp mặt tường. [64: 354]
330. Nó đang phơi quần. [61: 438]
331. Anh cu thì quẳng cái bát, đôi đũa từ lúc nãy kia rồi. [61: 438]
332. Đạt chỏi tay rán sức xô bức tường, nhưng bức tường không nhúc nhích. [64: 354]
333. Nó mới lúi húi rút cái nút buộc ra. [ 66: 169]
334. Anh dụi mắt. [61: 439]
335. Mọi người vừa kéo lá ngụy trang hầm vừa lao xao nói chuyện. [64: 83]
PHỤ LỤC 2: VAI NGHĨA TẠO THỂ

1. Chợt anh nghĩ ra một điều. [83 : 444]

2. Núp vấn một điếu thuốc lá bằng lá chuối non của lũ làng phơi khô để dành cho. [79: 109]

3. Mẹ Âu Cơ sinh được năm mươi người con trai, năm mươi người con gái. [87: 894]

4. Những truyện Vĩnh viết đều là chuyện của anh cả. [72: 182]

5. Vũ Minh nghĩ: Chắc là cu cậu thay đổi ý kiến rồi. [83: 399]

6. Bà Chánh thất sinh được hai con trai và bốn con gái. [83: 157]

7. Anh tiểu đội trưởng reo lên: “Có phối hợp rồi”. [83: 406]

8. Tôi viết thư cầu cứu Chinh che chở tinh thần, van xin tình thương để dằn nỗi khủng

hoảng. [87: 325]


9. Thu Phong chợt đưa ra một câu hỏi như kéo mọi người trở lại cái thực tế tàn nhẫn. [83:

292]
10. Tất cả những thức ăn lẫn hương hoa cúng kiếng đều do một tay ni cô làm ra. [87: 362]

11. Viết xong bài báo để ngày mai nộp cho phòng, tôi lôi len ra đan. [87: 819]

12. Anh hát một bài hát viết về vợ anh bây giờ. [85: 85]

13. Còn chị Thao thì chép bài hát vào quyển sổ nhỏ để trên đùi. [87: 529]

14. Nhưng nụ cười ấy tắt ngay trên môi anh. [64: 41]

15. Thày thừa vừa thảo xong tờ biên bản, đệ lên trước mặt quan phủ. [84: 112]

16. Tôi chỉ viết một bức gửi cho dân mà thôi. [66: 187]

17. Anh rú lên một tiếng kinh ngạc. [66: 204]

18. Nỗi mừng nở thành nụ cười trên miệng ông chủ bút. [67: 76]

19. Ông cho in một vạn rưỡi tờ. [67: 76]

20. Hắn nghĩ ra đủ cách xoay người ta [61: 323]

21. Tiện cánh cửa đây, các ông ghép qua loa vào làm áo quan. [61: 426]

22. Cũng đã không biết bao tháng nay, tôi cặm cụi để vẽ một bức tranh sơn dầu. [63: 49]

23. Tôi hoàn thành bức chân dung người chiến sĩ “thồ” tranh chỉ trong khoảng nửa tiếng

đồng hồ. [63: 55]


24. Cả hai chúng tôi đều vội, đến nỗi anh cũng chẳng kịp viết thư mà chỉ kịp ghi cho tôi cái

địa chỉ. [63: 55]


25. Chắc các bạn sẽ lấy làm lạ - cũng có thể chẳng lấy làm lạ - nếu được biết rằng cái “bức

ảnh truyền thần” người chiến sĩ mà tôi đã vẽ vội vẽ vàng trong cái buổi mờ sáng ở vùng đó,
không những ở trong nước mà ở cả nước ngoài nữa. [63: 56]
26. Bởi vì bà lão bỗng tìm ra một kế. [61: 152]

27. Hắn bới ra từng tội và nhất định sẽ bới ra đến hết. [61: 236]

28. Hắn đơm hai cái dải thật to hình cái bơi chèo. [61: 233]

29. Đầu tiên, cụ nắn nót viết từng dòng chữ về mé tay phải ở tờ giấy , chỗ đề niên hiệu: Bảo

đại Nhâm thân niên trọng hạ nhật. [67: 102]


30. Ông vụng về đến nỗi chỉ in ra có một số, cuối bài đã chẳng hẹn hò độc giả xem tin thêm ở

số sau, ông lại cao thượng mà chẳng thèm nói gì. [67: 79]
31. Một tổ chức từ thiện của Pháp cho trường Mỹ thuật một suất học tại Pháp. [72: 284]

32. Báo ông cho ra lúc ba giờ, thì chín giờ tối nó in ngay phụ trương để tranh khách! [67: 79]

33. Phải tới cái thời bấy giờ gia đình ông mới làm được cái nhà vệ sinh riêng dùng nước giội,

ông mới được tắm vòi hoa sen, có vòi lạnh vòi nóng, mới được uống rượu tây mỗi bữa ăn và
nhẫm nháp miếng phó mát vào buổi chiều. [72: 38]
34. Một người đàn ông rón rén đi vào nhà tắm sẽ nói tiếng “đi ra”. [84: 141]

35. Nào ngờ thời thế đổi thay, con trai ông thành con buôn, con dâu ông cũng là con buôn,

vốn liếng của chúng nó là sự liều lĩnh, phản trắc và lừa đảo. [72: 38]
36. Vậy mà con dâu và con trai ông đã nghĩ ra một cách thật tài tình, một tính toán rất xây

dựng, lại hiếu thảo, buộc ông không thể gạt phắt mà phải cân nhắc để lựa chọn. [72: 42]
37. Ông Dzếnh viết bài giới thiệu thơ của bạn trên các báo trong Nam ngoài Bắc. [72: 265]

38. Rồi ông bật kêu một tiếng, nước mắt bỗng trào ra ướt đẫm hai gò má. [72: 43]

39. Ông Vị pha cho mình một ấm trà, vừa hút thuốc vừa ngắm nhìn thằng nhỏ âu yếm, nhớ

tiếc vì nó chính là hình ảnh của ông cách đây đã nửa thế kỷ. [72: 44]
40. Bà Hai sinh được hai trai hai gái. [72: 50]

41. Bà Chánh thất đẻ ba người con gái là bà Tý và bà Tỵ và mẹ hắn là cô Tẹo. [72: 50]

42. Đợt phong quân hàm đầu tiên của quân đội, tôi là thượng úy, Thái cũng là thượng úy, tức

là không công bằng rồi. [72: 62]


43. Chú ngó kia mãng cầu ta lên lá non coi mướt chưa? [64: 21]

44. Phút chốc con cá chẻm đã làm xong, chỉ còn mổ ruột. [64: 31]

45. Anh Tám rót một chun trà, đặt trước mặt Hai Thép. [64: 42]
46. Hắn ngước nhìn mặt trời, miệng lẩm nhẩm một câu chửi tục chỉ có mỗi mình hắn hiểu, rồi

nhe răng cười không ra tiếng. [64: 53]


47. Bà Cà Xợi sinh con Cà Mỵ tại nhà mẹ Sáu. [64: 57]

48. Bấy giờ trong cái nhà bé nhỏ một gian ấy, cô Cà Mỵ đang ngồi bệp trên tấm đệm trải đất,

tay thoăn thoắt đan bao cà ròn. [64:61]


49. Mọi người kể cho Ba Rèn nghe chuyện bắt vợ chồng tên chủ trại đáy, Ba Rèn khoái chí

cười ha hả. [64:79]


50. Và ông còn hăm nếu hầm đào không kỹ thì ổng không cho đánh. [64:79]

51. Ông nói không có hầm ở ven rừng thì không thể đánh được. [64:75]

52. Anh em cũng đã đào cho Ngạn một cái hố. [64: 81]

53. Huân lại thổi bài tiêu ưa thích của mình “Tình ca Tây Bắc”. [78: 135]

54. Những cái hố mới đào nằm rải dài theo ven vườn. [64:81]

55. Một chiếc ghế mộc cũ kỹ, có lẽ do người thợ cắt tóc tự đóng lấy, trên thành ghế vắt một

chiếc khăn choàng trắng khá sạch sẽ. [63: 57]


56. Anh nói chữ “cũng đặng” một cách khó nhọc. [64: 87]

57. Đội hình giặc bỗng dưng biến thành một dọc dài. [64: 90]

58. Đợi ba bốn tên nhập một, anh nổ ngay một phát. [64: 90]

59. Bây giờ tôi kể xen vào một câu chuyện nhỏ, chuyện riêng của tôi. [63: 31]

60. Chúng cắm bốn năm cái lều vải bạt lớn cặp theo suối. [64: 95]

61. Rồi ngoại đi kiếm đu đủ về nạo trộn gỏi cho em ăn. [64: 105]

62. Trung liên rộ lên hàng tràng dài giòn giã. [64: 111]

63. Nấu cháo cho thím Thẩm với chú Út đó chớ! [64: 110]

64. Sứ sung sướng nghĩ: “Vậy là anh em còn sống, còn chiến đấu..” . [64: 199]

65. Quyên phải nói dối nó rằng má nó đi công tác ra ngoài xóm. [64: 208]

66. Rồi, một toán lính giăng ngang lối đi thành một cái hàng rào. [64: 218]

67. Tên thiếu tá ré lên một tiếng như bị ai bóp cổ. [64: 222]

68. Trong hang tối, Quyên ôm cháu, đau đớn nghĩ rằng lần này chắc chắn nó mất mẹ thật rồi.

[64: 224]
69. Đám đưa tang biến thành một cuộc diễu hành đi ngang các nhà, đi ngang vườn cây. [64:

253]
70. Năm hào đôi mới thành đồng bạc được . [66: 169]
71. Bản hội được thiên hạ đồn rằng quan lớn hay nói theo ngôn ngữ bình dân lắm, đại khái

như mẹ kiếp, nước mẹ gì, vân vân…. [81: 175]


72. Các cô đương bàn chuyện chiều chiều mặc “sooc”để lên diện ở Hồ tây…. [81: 188]

73. Anh Dậu uốn vai ngáp dài một tiếng. [84: 103]

74. Vợ anh đã đẻ được một đứa con trai kháu khỉnh vậy mà anh phải hai bàn tay không đến

nhà hộ sinh! [81: 188]


75. Người xưa đã nói: “Tâm ngẩm tầm ngầm mà đấm chết voi”. [81: 188]

76. Vừa hát mấy câu cải lương Nam Kì, hắn vừa đỏng đảnh tiến đến chỗ ông thầy số. [81: 30]

77. Người xưa lại cũng đã nói cả rằng: “Ngu phúc xuẩn thọ”. [81: 188]

78. Xuân Tóc Đỏ vỗ tay đôm đốp như những khi nó thấy bọn quần vợt đánh được một miếng

hay. [81: 31]


79. Cảnh ngộ đó tạo nên một đứa hoàn toàn vô giáo dục, tuy nó tinh quái lắm, thạo đời lắm.

[81: 32]
80. Người lính ấy sau thành một ông Phó Đoan. [81: 34]

81. Trần Văn Sửu nghe con nói mấy điều hiếu nghĩa ấy thì anh ta cảm xúc quá, nên ngồi khóc

nữa. [75: 166]


82. Bá Kiến chỉ kịp kêu một tiếng. [75: 154]

83. Tao tính rằng cái chỗ đầu bếp kia làm cái chuồng gà thì tiện quá! [74: 31]

84. Nó viết một chữ có cái bụng to lên tấm bảng nó mới làm cho Tnú. [74: 43]

85. Tnú thét lên một tiếng. [74: 47]

86. Người phụ nữ thốt lên một tiếng như tiếng nấc. [74: 85]

87. Hai năm sau, Tâm đẻ đứa con trai. [77: 96]

88. Mẹ Sơn rót cho một chén. [77: 49]

89. Rồi các anh xem…cả đời tôi, tôi sẽ viết một quyển thôi, những quyển ấy sẽ ăn giải Nôbel

và dịch ra đủ mọi thứ tiếng trên hoàn cầu. [61: 337]


90. Hắn phải cho in nhiều cuốn văn viết vội vàng. [61: 326]

91. Hắn phải viết những bài báo để người ta đọc rồi quên ngay sau lúc đọc. [61: 325]

92. Anh nói cái danh từ Ủy ban bảo vệ với một vẻ quan trọng đặc biệt. [83: 25]

93. Một cái cười rộng, thật thà nở trên môi dày của người áo tím mà Thắng kêu là Dân. [83:

45]
94. Trong đàn con cái đông đúc mà mụ Huệ đã đẻ cho lão như một nguồn lao động trời cho

ấy duy chỉ có một đứa- là chính cái thằng Dũng- lão không hề biết rõ con cái nhà ai, lão
không được phép hỏi mụ vợ, cũng không được phép tìm hỏi người khác. [63: 187]
95. Nó viết một chữ có cái bụng to lên tấm bảng nó mới làm cho Tnú. [74: 43]
PHỤ LỤC 3: VAI NGHĨA PHƯƠNG THỨC

1. Họ đăm đăm nhìn người giáo sư chỉ hơn họ dăm bảy tuổi. [83: 30]

2. Phản ứng một cách tự nhiên, Thắng nằm rạp xuống, bụng ép lên đám bùn lõng bõng. [80:

101]
3. Nhẹ nhàng, tôi mang bình sữa đến. [87: 258]

4. Tuy vậy tôi đã có thể ngồi lái một cách khá vững vàng trên những chặng đường địch đánh

phá. [63: 135]


5. Nhổm dậy, chị định nhắc xuống cho thằng bé ăn nốt. [84: 85]

6. Tôi đã lập lại trật tự ở cái đơn vị gồm toàn những người lính cùng giới một cách quá vất

vả. [63: 135]


7. Mọi người nói xôn xao. [83: 35]

8. Bà già sống đơn độc, xa lánh mọi người, nét mặt lúc nào cũng có vẻ nhẫn nhục chịu

đựng. [87: 552]


9. Nhưng các anh ấy qua đường này hay hỏi thăm tôi một cách trân trọng, thân mến. [87:

529]
10. Hắn ngồi xếp bằng. [60: 45]

11. Tên biệt kích lặp lại với giọng thản nhiên. [64: 200]

12. Và chị khao khát lý giải một cách thấu đáo hành động quên mình của các anh chiến sĩ.

[87: 334]
13. Trần Văn gật đầu một cách mơ hồ. [83: 36]

14. Loan vâng khe khẽ một cách lễ phép. [83: 40]

15. Dưới con mắt anh, bọn lính viễn chinh trông ngu độn và trẻ con một cách thảm hại. [83:

49]
16. Lễ phép, mẹ con chị Dậu cúi đầu chào. [84: 69]

17. Quyên nói với chị ruột của mình một cách vội vàng và mừng rỡ. [64: 5]

18. Nhẹ và mạnh như con báo, hắn nhảy vọt từ trên giường xuống đất. [61: 445]

19. Hắn nhìn chằm chặp vào cái đùi vịt và chai rượu. [61: 445]

20. Một thằng Tây đập cái roi da vào ủng một cách an nhàn, bên chân nó là hai con chó săn

vểnh tai nhọn hoắt. [83: 53]


21. Một thằng nhún vai một cách rất lính tẩy. [83: 55]
22. Tiếng chân chạy ầm ầm. [83: 54]

23. Cô gái nói một cách gay gắt khi nhận thấy vẻ khinh khỉnh, coi thường của anh trung đội

trưởng. [60: 73]


24. Hương nói một cách nhẹ nhàng, vô tư lự. [83: 200]

25. Mắt nhắm mắt mở, Thu Phong chạy ra. [83: 442]

26. Anh ngả mũ, nghiêng mình chào, và giục bác sĩ Quán đi. [83: 443]

27. Anh loạng choạng bước qua cành lá. [83: 339]

28. Mừng mừng tủi tủi, Trần Văn bắt tay Nhật Tân, nắm chặt lấy, như đứa trẻ vớ được vật gì

đấy không rời ra. [83: 340]


29. Thèn lẹn, chị Dậu chỉ trả lời bằng câu “lạy cụ”. [84: 70]

30. Bằng cái dáng bộ sợ hãi, chị Dậu đón lấy bộ quần áo và xách đôi guốc, rồi đi qua phía

sau trại lệ. [84: 130]


31. Hào hứng, Thu phong ngồi ôm cây ắc-coóc-đê-ông kể một đoạn ba đào trong cái đời làm

nghệ sĩ trẻ tuổi của anh. [83: 386]


32. Nhanh như con sóc, Thắng băng qua đường, chạy vào một cái nhà mà cửa chỉ khép. [83:

404]
33. Mệt mỏi, họ ngồi xuống. [83: 404]

34. Sượng sùng, chị nhích xa anh, đi gần người vú. [83: 352]

35. Nhanh như cắt, Tân lấy khẩu súng lục trên giường chĩa vào mặt Nhật Tân, thét: [83: 274]

36. Một tay vẫn để lên miệng, một tay cầm cuốn sổ, anh đưa lên mắt liếc qua, rồi lại buông

tay xuống. [83: 226]


37. Vì vậy vẫn có nhiều người chết một cách ngờ nghệch. [66: 170]

38. Anh ngẩn ngơ nhìn. [66: 203]

39. Chẳng phải bướng, nhưng cô không thể lấy chồng một cách ép uổng như vậy. [69: 94]

40. Đánh “xoảng” một cái, cái bát ở mâm ông lý cựu bay thẳng sang mâm lý đương, và đánh

“chát” một cái, cái chậu ở chiếu lý đương cũng đập luôn vào cây cột bên cạnh lý cựu. [84:
55]
41. Anh cười tít mắt. [66: 218]

42. Con vật ra rả kêu rầm rĩ. [66: 219]

43. Thằng bé con ngây mặt nhìn theo. [66: 219]

44. Cô từ chối bằng cách để lại chiếc phong bì ở bàn giấy. [66: 224]

45. Mặt tím bầm như quả bồ quân, ông chủ bút lại mở tờ Buổi Sáng ra đọc. [67: 80]
46. Ba cái ly ấy mới giơ lên vừa chạm vào nhau đánh “cốp” một cái chợt ngoài sân có tiếng

chân đi thình thịch. [64: 45]


47. Anh chồm người tới trước, thò tay nhặt cái nút, thong thả nhét miệng chai rượu lại, đưa

cho Sứ bảo cô đem cất. [64: 44]


48. Chị Dậu nhìn ông cai bằng đôi mắt đỏ ngầu. [84: 28]

49. Cái Tỉu nằm trong lòng mẹ khóc ngặt khóc nghẽo. [84: 19]

50. Thằng Dần khóc nhếch khóc nhác, rầu rĩ kêu đói. [84: 31]

51. Phải nói đến lượt thứ hai, mụ mới dám rón rén đến ngồi ghé vào mép chiếc ghế và cố thu

người lại. [74: 73]


52. A Sử chệnh choạng vào buồng. [74: 8]

53. Mị đi cửa sau vào, lé mắt nhìn thấy một người to lớn quỳ trong góc nhà. [74: 10]

54. Đám đàn ông cười ngượng nghịu. [69: 195]

55. A Sử hùng hổ bước ra. [74: 10]

56. Mị phảng phất nghĩ như vậy. [74: 10]

57. Lúc ấy, trong nhà đã tối bưng, Mị rón rén bước lại, A Phủ vẫn nhắm mắt, nhưng Mị

tưởng như A Phủ đương biết có người bước lại….[74: 11]


58. Đánh bạo, Chị Dậu xăm xăm tiến vào sân. [84: 32]

59. Và hai người lẳng lặng đỡ nhau lao xuống dốc núi. [74: 11]

60. Nhìn theo bóng Tràng và bóng người đàn bà lủi thủi đi về bến, người trong xóm lạ lắm.

[74: 25]
61. Viên quan hầu Đức và viên quan hầu Nhật đều cùng ghé tâu một cách thì thào “La

guerre! La guerre!” [81: 168]


62. Xuân tóc đỏ đứng phắt lên, xua tay một cách chán nản: [81: 163]

63. Xuân tóc đỏ giơ tay lên thề một cách cực kỳ hệ trọng: [81: 163]

64. Người đàn bà theo lời hắn ngồi mớm xuống mép giường. [74: 25]

65. Trừ bà Phó Đoan, ai cũng vỗ tay một cách thành thực. [81: 173]

66. Sau khi chắp tay vái Xuân, vị hội viên ấy khẽ nghiêng đầu chào mọi người một cách

khinh khỉnh trước khi tháo lui. [81: 175]


67. Thị vùng đứng dậy, ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng. [74: 26]

68. Thị đứng trước mặt hắn sưng sỉa nói: [74: 26]

69. Ngoài đầu ngõ có tiếng người húng hắng ho, một bà lào từ ngoài rặng tre lọng khọng đi

vào. [74: 27]


70. Chị Dậu lóp ngóp đứng dậy và đi đến trước nhà khách. [84: 33]

71. Xuân Tóc Đỏ vỗ tay đôm đốp như những khi nó thấy bọn quần vợt đánh được một miếng

hay. [81: 31]


72. Bà lão băn khoăn ngồi xuống giường. [74: 28]

73. Bà lão đăm đăm nhìn ra ngoài. [74: 28]

74. Chị hàng mía làm thinh, Xuân nhồm nhoàm nhai mía, lấy bã ném vào một cái cột đèn.

[81: 30]
75. Ngoài vườn mẹ đang lúi húi giẫy những búi cỏ mọc nham nhở. [74: 30]

76. Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn

nhà. [74: 30]


77. Bà cụ Tứ chợt thấy con giai đã dậy, bà lão nhẹ nhàng bảo nàng dâu: [74: 30]

78. Rồi, rụt rè, chị lên bậc thềm. [84: 33]

79. Hắn nhổ vu vơ một bãi nước bọt, tủm tỉm cười một mình. [74: 26]

80. Tràng vâng rất ngoan ngoãn. [74: 30]

81. Tràng cầm đôi đũa, gợt một miếng bỏ vội vào miệng. [74: 30]

82. Bữa cơm từ đấy không ai nói câu gì, họ cắm đầu ăn cho xong lần, họ tránh nhìn mặt

nhau. [74: 31]


83. Khép nép, chị Dậu ngồi phệt xuống mặt thềm gạch. [84: 34]

84. Trong ý nghĩ của hắn vụt hiện ra cái cảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên

đê Sộp. [74: 32]


85. Hôm ấy hắn láng máng nghe người ta nói họ là Việt Minh đấy. [74: 32]

86. Hắn nghiến răng vào mà chửi cái đứa đã đẻ ra Chí Phèo. [75: 146]

87. Rón rén, chị Dậu đến cạnh tràng kỷ. [84: 42]

88. Ngần ngại, chị đặt mê nón lên đầu, cúi chào vợ chồng ông Nghị và ông giáo. 84: 44]

89. Bạo dạn, chị Dậu bước lên cửa đình, hạ cái mê nón ở trên đầu xuống. [84: 46]

90. Trái với phong tục nhận tù mỗi ngày, hôm nay viên quan coi ngục nhìn sáu tên tù mới

vào với cặp mắt hiền lành. [75: 111]


91. Ông Huấn vẫn thản nhiên nhận rượu thịt, coi như đó là cái việc vẫn làm trong cái hứng

sinh bình lúc chưa giam cầm. [75: 111]


92. Mọi người nhìn Núp sửng sốt. [79: 95]

93. Ông già lúc nãy ôm mặt khóc không ra tiếng. [79: 119]

94. Mẹ nhìn Núp không nói gì cả. [79: 159]


95. Song nàng Ngây đã nghe lỏm được tất cả. [69: 304]

96. Có cái lối ấy, sáng mồng một tháng nào nó cũng hí hởn sang. [69: 304]

97. Ngây nhẹ nhàng cởi áo ngoài. [69: 323]

98. Mình phải nói thẳng với bầm. [69: 325]

99. Huyến vội vàng đỡ nhà sư lên. [70: 179]

100. Điềm tĩnh, chị nhìn khắp mấy gian đình. [84: 47]

101. Luống cuống, chị Dậu vội đứng dậy. [84: 51]

102. Rất nhanh chóng, diện tẩu đặt hơi nghiêng trên chụp đèn, đồng thời tay trái nhà sư nữ

dung mũi tiêm vào cóng thuốc rồi nướng trên ngọn lửa thon thon. [70: 176]
103. Và mụ lại khóc sướt mướt cắp thúng quần áo đi. [70: 253]

104. Bước khỏi ngưỡng cửa, Mão Chột gieo thình người xuống giường. [70: 242]

105. Hết thảy mọi người đều lố nhố đứng dậy. [84: 55]

106. Bằng cái dáng bộ vui vẻ, nhẹ nhàng, nó đặt một bát lên chõng. [84: 61]

107. Với vẻ mặt băn khoăn, cái Tí lại bưng bát khoai chìa tận mặt mẹ. [84: 62]

108. Thoáng trông ra, lão chủ sòng liền toét miệng cười, chạy vội tới giơ tay khom người

mời. [70: 242]


109. Ông cụ thì ngồi bó gối ở tấm phản gỗ thấp dùng để ăn cơm. [70: 251]

110. Chống tay lên trán, chị như nghĩ ngợi phân vân. [84: 64]

111. Cầm cái áo màu ấp ào ngực, vợ Lưu bước xổ ra đường, chạy sang hè phố bên kia! [70:

264]
112. Xuân Tóc Đỏ thì còn đứng, hai tay gãi sườn nhìn mọi người một cách trịch thượng,

nhìn phòng giam một cách thản nhiên. [81: 36]


113. Hớn hở, con bé lại nhìn, lại tìm kiếm những nét giống khác. [64: 9]

114. Lão kể nhỏ nhẹ và dài dòng thật. [61:14]

115. Bỗng đùng một cái, tôi nghe tin anh chết. [61: 194]

116. Lúc chia tay, chị có giữ một tấm ảnh của anh San, chị vẫn cất kỹ tấm ảnh ấy ở trong

bóp. [64: 8]
117. Một lát sau là đã thấy ông nói gì toang toang ở gốc đa. [61: 237]

118. Bác Lan mỉm miệng, gượng cười một cách rất chua chát. [67: 38]

119. Nói nôm ra, chú Tam cũng muốn chim chị Tam đáo để. [67: 41]

120. Thấy con bé Thúy đang lặng lẽ, chăm chú làm cái việc nhận dạng đến mức ấy, thì cô

bụm miệng cố nín cười. [64: 9]


121. Một hôm, đùng một cái, hắn đưa bốn ông lên huyện, vì việc bao chiếm công điền. [61:

235]
122. Đùng một cái nữa, hắn đưa mấy ông khác lên huyện vì việc lạm dụng tiền công quỹ.

[61: 235]
123. Thị Nở giục hắn ăn nóng. [61: 150]

124. Và hắn định bụng sau kỳ thi tốt nghiệp, được rảnh rang rồi, hắn sẽ bỏ vợ thẳng tay. [61:

215]
125. Ba chân bốn cẳng, anh ấy chạy vội lại phía người gọi, hạ hai càng xuống. [67: 53]

126. Rồi con mẹ cười ngặt cười nghẹo. [67: 50]

127. Anh xe lại nhấp nhổm chạy rảo cẳng vài bước, rồi lại tiến bước như trước. [67: 55]

128. Rồi nó ngủ khì một mạch đến sáng. [67: 70]

129. Trống ngực đánh thình thịch, nó cuộn tròn nó với ảnh cậu nó vào trong chăn như con

sâu kèn. [67: 70]


130. Ông vội vàng bóc thư ra đọc. [67: 76]

131. Ông chủ bút cũng không đoán được cớ gì, vừa đi đường vừa luẩn quẩn nghĩ. [67: 77]

132. Tôi cần nói dài. [67: 78]

133. Mà làm báo kiêng nhất một việc là công kích phong trào. [67: 80]

134. Lưu cười cay đắng, anh vẫn ngu quá, ngu như thế làm sao bắt được một kẻ rất ranh

mãnh là Tích híp. [72: 32]


135. Anh đi một mình, giả làm nhân viên thu mua thuốc của viện dược liệu. [72: 32]

136. Tiếng ông chủ nhiệm nói toang toang như lệnh vỡ, ai cũng nghe thấy. [67: 71]

137. Lưu cười cay đắng, anh vẫn ngu quá, ngu như thế làm sao bắt được một kẻ rất ranh

mãnh là Tích híp. [72: 32]


138. Có tiếng gọi của đứa con trai phía ngoài, mẹ nó búi vội cuốn tóc bị xổ, nói ra giọng rất

nhẹ nhàng: [72: 33]


139. Mẹ nó quay sang nhìn Lưu, nói to cho cả con nghe: [72: 33]

140. Bây giờ vẫn viết lặt vặt cho đỡ buồn. [72: 36]

141. Chỉ có cô con dâu thì hay dặn: “Ông có đi đâu thì khóa cửa cẩn thận”. [72: 36]

142. Ông sống lặng lẽ, nín nhịn và vẻ mặt lúc nào cũng buồn. [72: 37]

143. Vả lại, ông cũng không mơ mộng theo hướng ấy. [72: 38]

144. Người bố ngồi nghiêng người nhìn con mà nói. [72: 42]

145. Ăn cơm xong bố uống vội chén nước rồi vào phòng riêng. [72: 48]
146. Vì ông không có thói quen làm việc một mình. [72: 48]

147. Nếu phải sống một mình, gánh vác một mình thì em rất hãi. [72: 53]

148. Trả lời ấp úng hoặc không được như lời mẹ dặn lần trước là mẹ quát tháo, nói như đổ

mẻ vào mặt. [72: 54]


149. Lại cười lấp liếm: “Hỏi làm quái gì, chuyện lịch sử một thời ấy mà. Thời ấy thiếu gì

những ông chồng của kháng chiến với những đứa con của kháng chiến”. [72: 62]
150. Thị Nở thì chỉ nhìn trộm hắn rồi lại toe toét cười. [75: 150]

151. Thị vẫn im lặng, cười tin cẩn. [75: 151]

152. Hắn thích chí, khanh khách cười. [75: 151]

153. Bà tưởng cháu bà nói đùa. [75: 152]

154. Thị ton ton chạy lên nhà nhân ngãi. [75: 152]

155. Thị ngoay ngoáy cái mông đít đi ra về. [75: 152]

156. Thị giẫm chân xuống đất, rồi lại nhảy cẫng lên như thượng đồng. [75: 152]

157. Con bé Thúy đỏ mặt, lúng túng, ngượng nghịu úp tấm ảnh và chiếc gương vào mặt. [64:

9]
158. Quyên cười chúm chím, có vẻ như đắc ý lắm. [64: 12]

159. Hầu như đêm nào Quyên cũng lẻn ra đó, đem cơm cho anh, bàn bạc công việc. [64: 12]

160. Nói rồi mẹ bưng mặt khóc. [64: 13]

161. Ngạn cảm động ôm chầm lấy mẹ. [64: 14]

162. Tất cả mọi người tốt đều nhìn Quyên với cặp mắt thương hại. [64: 15]

163. Anh Tám mỉm cười nhìn cô với ánh mắt vui vẻ và thông cảm. [64: 17]

164. Lạ lùng hơn, là năm hôm sau khi được anh Tám cho biết việc ấy, Ngạn trở về rất đột

ngột. [64: 19]


165. Cái Tý vẫn khóc rưng rức. [84: 66]

166. Cái Tý khóc hu hu. [84: 66]

167. Tim cô đập thình thịch. [64: 19]

168. Quyên lại kêu và ôm chầm lấy anh. [64: 19]

169. Quyên suy nghĩ một loáng rồi nói như ra lệnh. [64: 19]

170. Cô hỏi tỉ mỉ anh bị bắt bị đánh ra sao. [64: 20]

171. Cô thành thật kể cho Ngạn nghe, cả tâm trạng của cô lúc đó ra sao. [64: 20]

172. Và anh nói như là nói với ai chứ không phải nói với Quyên. [64: 20]

173. Ngạn nói với giọng ngọt ngào trách móc. [64: 21]
174. Quyên hiểu thế, cô ngồi thừ ra coi thật tội nghiệp. [64: 21]

175. Cô mới bày tỏ cặn kẽ hơn cho Ngạn rõ. [64: 20]

176. Ngạn nhoẻn miệng cười. [64: 23]

177. Nghe anh Tám nói, Ngạn cười tủm tỉm. [64: 24]

178. Nói xong chú rảo bước như chạy. [64: 24]

179. Đạt nhoẻn cười gật đầu. [64: 24]

180. Cậu thanh niên tên Diệu đáp, cười bẽn lẽn như con gái. [64: 27]

181. Ông già mù thốt hỏi rồi run run đưa tay sờ lên khắp người anh, nắn nót cườm tay anh

một cách lặng lẽ. [64: 27]


182. Tiếng sau có vẻ mừng rỡ và âu yếm. [64: 32]

183. Ngạn hôn con Thúy chùn chụt. [64: 32]

184. Têm một miếng trầu mới, mẹ Sáu bỏ vào miệng nhai rau ráu. [64: 32]

185. Quyên từ từ nhắc cằm khỏi vai mẹ, đi ra nhà sau. [64: 37]

186. Quyên cười chúm chím mà không nói sao cả. [64: 38]

187. Ngạn nhẹ nhàng đáp lời mẹ. [64: 39]

188. Nhưng cô cũng vậy, cô cầm dao khứa cá cùm cụp, dáng coi chăm chú lắm. [64: 39]

189. Anh Tám cầm tấm ảnh nhìn chăm chú. [64: 40]

190. Hỏi xong, anh gấp gáp mở thêm một cái cúc áo nữa, tay tháo cái khăn trên đầu xuống

đập đập mồ hôi đổ hột ở ngực. [64: 42]


191. Một tay anh giơ chào Ngạn theo kiểu nhà binh rồi bước như nhảy lên bậc thang. [64:

42]
192. Ba Rèn hớn hở, nắm tay Ngạn gặc gặc. [64: 47]

193. Quyên lẹ làng chạy ra nhà sau lấy xanh tuya súng đem ra đưa Ngạn. [64: 49]

194. Ngạn kề miệng nói rỉ vào tai Tấn. [64: 49]

195. Trên khoảnh đất trống bị dọn sạch quanh chi khu, bọn lính chạy tới chạy lui. [64: 52]

196. Có tên chưa chi đã lăn kềnh, ngửa mặt lên trời phì phèo điếu thuốc. [64: 52]

197. Bọn lính chủ lực mặc đồ trai di, bọn biệt kích mặc đồ rằn, giày da và giày bố nện rầm

rập, bồm bộp. [64:50]


198. Hắn ngang nhiên vớ lấy một chai la ve, đưa mắt nháy người chủ quán Hoa kiều một cái

rồi đi ra. [64:51]


199. Song nói thế chứ hắn cũng khoát tay xua bọn lính áo rằn của hắn đổ vào chỗ đất trống

giáp phố. [64:52]


200. Thằng Xăm cởi phanh áo. [64:52]

201. Hắn bật nằm ngã ngửa ra trên tấm vải bạt xám. [64:52]

202. Thình lình hắn đưa tay giật phắt mẩu thuốc, vứt đi và ngồi bật dậy. [64:52]

203. Hắn lừ lừ giương đôi mắt trắng dã ngó bọn lính của hắn bấy giờ đang lôi bánh mì ra.

[64: 52]
204. Thằng Xăm uể oải đứng dậy đi theo tên lính đến trước một tấm vải bạt. [64: 52]

205. Tên lính bé choắt ấy xăng xái đặt vào giữa tấm vải bạt một bi đông nặng trịch. [64: 53]

206. Thằng Xăm tu rượu ừng ực. [64: 53]

207. Hắn “khà” một cách khoái trá rồi lại xé thịt ăn. [64: 53]

208. Hai Thép vỗ tay đánh bộp một cái: [64: 44]

209. Không chậm trễ, nó nhè nhẹ thò tay tháo trái lựu đạn. [64: 142]

210. Thằng Út bỏ bước chậm rãi. [64: 143]

211. Nó đòi uống nước liên tiếp. [64: 143]

212. Giữa lúc thằng Út đang nằm thao thức nghĩ tới trái lựu đạn thì thằng bé anh nó ở trong

hang Hòn đang trải qua những giờ phút gay go. [64: 143]
213. Thằng xăm hể hả khi nghe những câu ấy. [64: 54]

214. Bọn lính cười nhăn nhở, thích thú. [64: 55]

215. Quyên biết rằng thằng bé rên hử hử như vậy là nó đau lắm. [64: 146]

216. Ba Rèn ngó lơ chỗ khác. [64: 150]

217. Mọi người lại đưa mắt nhìn Ba Rèn lần nữa. [64: 151]

218. Anh nói chuyện bình thường, kể cho nó nghe hôm nay giặc bị đánh chạy khỏi hang ra

sao, ta lấy được những súng gì. [64: 153]


219. Con Thúy vẫn ôm quàng lấy chị, mặt nó rúc vào ngực chị. [64: 153]

220. Sứ với tay xuống sờ chân con, thấy chân nó cũng lạnh quá. [64: 153]

221. Chị vội vàng kéo chân con kẹp giữa đùi mình. [64: 155]

222. Chị Sứ cầm cây nến, đăm đăm nhìn con nằm ngủ. [64: 155]

223. Đã không biết bao nhiêu lần chị Sứ lặng lẽ ngồi nhìn con mình một cách mê đắm như

thế. [64: 155]


224. Lòng bình tĩnh và sung sướng, chị kéo khăn se sẽ đắp lại cho con thật kỹ lượt nữa, rồi

đứng dậy bước xuống phiến đá. [64: 157]


225. Con bé lồm cồm bò tới, ôm choàng lấy cổ mẹ. [64: 157]
226. Bà Cà Xợi bỏ hòn máu của mình lại, ôm bụng thất thểu bước ra khỏi cái nhà nền đúc.[

64: 57]
227. Bà đi trong đêm tối, tay cầm một cái xị không. [64: 59]

228. Thím đếm nốt cho xong số tiền lẻ còn lại rồi lách qua cửa quầy một cách khó khăn. [64:

60]
229. Rồi bà lập cập đi ra cửa.[ 64: 61]

230. Bà nắm cổ chai rượu thật chặt, lùi lũi bước ra cửa quán. [64: 61]

231. Lát sau, bà rót rót rượu ra chén, uống như uống nước. [64: 62]

232. Chén rượu thứ hai bà uống chậm rãi chứ không uống vội như trước. [64: 67]

233. Cô lè lẹ mở cửa. [64: 67]

234. Họ đi một mạch khỏi xóm Vạn Thanh, băng qua ruộng. [64: 70]

235. Anh giơ tay vỗ độp độp vào tấm cửa lợp lá. [64: 71]

236. Ngạn nghe có tiếng dép lẹp xẹp trên sàn ván đi ra phía cửa. [64: 71]

237. Ngạn thản nhiên đưa gót giày đá khép cánh cửa lại. [ 64: 71]

238. Y mở gói thuốc, rút thuốc cung kính đưa mời Ngạn, Tới và Trọng, rồi đi vào bếp coi

nước. [64: 73]


239. Con mụ vợ ngồi chồm hỗm trên sàn miệng ngậm mấy sợi lạt dừa. [64: 74]

240. Uể oải, chị bế cái Tỉu lên sườn và lừ thừ đi ra ngoài cổng, để ngóng xem chồng đã về

chưa. [84: 19]


241. Bắt vịt rồi, thằng chồng chạy sồn sộn ra sông tắm. [64: 75]

242. Mình y vận một cái xà rông sặc sỡ, sột soạt đi ra, tay cầm lược chải đầu sói sọi chỉ còn

lại mớ tóc ốp xuống ót. [64: 75]


243. Anh Dậu lẩy bẩy đứng dậy. [84: 25]

244. Mọi người kể cho Ba Rèn nghe chuyện bắt vợ chồng tên chủ trại đáy, Ba Rèn khoái chí

cười ha hả. [64: 79]


245. Hai người nheo mắt đáp lại. [64: 78]

246. Ông cai lệ thị hùng bằng hai con mắt giương tròn. [84: 25]

247. Anh với tay lấy cây vá dẫy bớt lớp đất trên miệng. [64: 82]

248. Mọi người vừa kéo lá ngụy trang hầm vừa lao xao nói chuyện. [64: 83]

249. Rồi Ba Rèn lại lịch phịch chạy đi. [ 64: 81]

250. Bằng cái sắc mặt ôn hòa dễ dãi, Nghị Quế nhìn vào mặt chị Dậu. [84: 72]

251. Bấy giờ Ba Rèn đã cởi áo buộc thắt ngang đầu. [64: 87]
252. Anh nói chữ “cũng đặng” một cách khó nhọc. [64: 87]

253. Mặc dù nghe súng nổ, bọn chúng vẫn xống lưng chạy tới. [64: 90]

254. Bọn phía sau theo gót chúng chạy dấn lên. [64: 90]

255. Mụ Nghị ngắt lời bằng giọng nói nửa đùa nửa thật. [84: 74]

256. Sấp ngửa, chị chạy vào cổng, quăng cả rổ, mẹt, mê nón xuống sân, rồi vội vàng, chị vào

trong nhà. [84: 83]


257. Bọn giặc nhảy thòm thọp qua mương, la ó vang vườn. [64: 91]

258. Anh cùng anh em bắn cản hậu, rồi cùng rút theo. [64: 91]

259. Tới đang cõng Thẩm chạy lúp xúp. [64: 91]

260. Ngạn ngó thấy anh em dìu thằng bé con của chú Tư râu đi thất thểu. [64: 92]

261. Có tên đã vội vã leo dừa. [64: 94]

262. Một toán vác xoong chảo vừa lấy của đồng bào kéo đi lểnh nghểnh. [64: 94]

263. Đôi bàn tay ấy rờ rẫm người anh, rờ từ gáy dọc xuống lưng anh một cách gấp gấp, như

để coi anh có phải là một Ngạn còn nguyên vẹn không vậy. [64: 96]
264. Con bé nói rối rít. [64: 98]

265. Nó đi lọ mọ như thế mà ai cũng nhận ra và kêu đúng tên nó, nên nó sung sướng. [64:

98]
266. Năm Nhớ ngồi bên thằng bé, tay cầm một cái khăn ve vẩy. [64: 100]

267. Con Thúy bấy giờ cũng rón đến coi. [64: 100]

268. Chào chồng bằng hai hàng nước mắt, chị Dậu lủi thủi trở ra với cái mẹt, cái rổ và cái

mê nón. [84: 83]


269. Sẽ sàng, chị Dậu nhắc nó ra cạnh vại nước, tắm rửa qua loa cho sạch dơ bẩn. [84: 84]

270. Rồi hai tay hai đứa, chị ẵm chúng nó vào trong cái phản cập kênh. [84: 84]

271. Nghe có tiếng người ngang qua, mụ vợ cất tiếng nói như rên: [64: 108]

272. Con Thúy ôm mẹ nó chặt cứng. [64: 111]

273. Con bé Thúy cười lỏn lẻn trên cổ Quyên. [64: 110]

274. Con bé từ chỗ anh Thẩm mon men đi ra. [64: 110]

275. Con nhỏ đi lơn tơn vô rừng kiếm hái lá đó. [64: 111]

276. Anh hai Thép ghé mắt nhìn qua kẽ đá hở. [64: 110]

277. Anh đếm được sáu thằng giặc nằm sải dọc ngoài cửa hang. [64: 112]

278. Ngạn nhíu mày không đáp. [64: 115]


279. Ngạn thoáng thấy hai tên biệt kích cõng tên Xăm lên, chạy xồng xộc. [64: 119]

280. Cái Tỉu lại khóc ngằn ngặt. [84: 91]

281. Không chậm trễ, nó nhè nhẹ thò tay tháo trái lựu đạn. [64: 142]

282. Con bé lồm cồm bò tới, ôm choàng lấy cổ mẹ. [64: 157]

283. Hai tên Mỹ rời chỗ chị Sứ một cách tiếc rẻ, men xuống suối. [64: 196]

284. Bọn biệt kích khom lưng cõng chúng lội qua. [64: 196]

285. Anh Dậu nhìn vợ bằng những dòng nước mắt thánh thót. [84: 121]

286. Có lẽ chưa lúc nào Sứ yêu Hòn Đất oặn lòng như buổi sáng hôm nay. [64: 198]

287. Chị sứ nhìn thẳng vào mặt hắn. [64: 206]

288. Rồi thì bà rón rén bước lên xe. [84: 128]

289. Bị treo lơ lửng giữa cây dừa ngã rạp, Sứ luôn chuẩn bị tinh thần cho tới phút cuối cùng.

[64: 217]
290. Chân nọ đá chân kia, chị lại trở về ngồi ở đầu phản. [84: 96]

291. Bà mẹ giơ cả hai tay đỡ lấy con. [64: 221]

292. Rồi sau đó anh ngước lên nhìn tôi bằng hai con măt mệt mỏi. [63: 136]

293. Tên thiếu tá ré lên một tiếng như bị ai bóp cổ. [64: 222]

294. Bốn năm người, không ai bảo ai, kẻ trước người sau, lặng lẽ lui về chỗ. [64: 226]

295. Quyên nghe lời anh Hai, cắn cắn ngón tay, bước từng bước một đi vào hang. [64: 226]

296. Bằng cái dáng bộ sợ hãi, chị Dậu đón lấy bộ quần áo và xách đôi guốc rồi đi qua phía

sau trại lệ. [84: 130]


297. Cảm động, chị Dậu cảm ơn bà bằng dòng nước mắt chứa chan. [84: 98]

298. Anh nín thở, nép sát sau gốc dừa. [64: 218]

299. Chừng đó mẹ mới bắt đầu bới tóc cho con, nhẹ nhàng và khéo léo. [64: 252]

300. Thế rồi người đàn bà ngoại tình cứ hát các bài “Tôi có hai cái tình” một cách véo von,

véo von….[81: 94]


301. Ông huyện bước lên bậc thềm một cách hùng dũng: [84: 132]

302. Xuân Tóc Đỏ rảo cẳng đi ngay. [81: 100]

303. Xuân Tóc đỏ và người đàn bà kia thì thập thò đứng bên ngoài. [81: 100]

304. Quan phủ đáp bằng giọng nhẹ nhàng. [84: 137]

305. Chỉ còn tiếng cây sắt nện xuống hừ hự. [74: 45]

306. Anh trợn mắt nhìn thằng Dục. [74: 47]

307. Tiếng cười giần giật của thằng Dục. [74: 47]
308. Tiếng bọn lính kêu thất thanh. [74: 47]

309. Trương tẩn mẩn xếp lại mấy quyển sách trên bàn, để có thì giờ nghĩ ngợi. [76: 277]

310. Miệng chàng cau lại một cách khinh bỉ: [76: 294]

311. Lân vùng vằng đứng dậy bước ra ngoài thềm. [77: 96]

312. Người nhà lý trưởng cười một cách mỉa mai. [84: 103]

313. Bính lập cập lùi dần về phía cầu thang. [70: 36]

314. Vui vẻ, chị Dậu cắp gói quần áo ra hồ. [84: 149]

315. Nhanh như cắt, chị Dậu giật ngay được gậy của hắn. [84: 105]

316. Từ đã hiến mình một cách dè dặt, tâm hồn và xác thịt. [61: 325]

317. Hắn là một nhà văn, trước kia, với cách viết thận trọng của hắn, hắn chỉ kiếm được vừa

đủ để một mình hắn sống một cách eo hẹp, có thể nói là cực khổ. [61: 326]
318. Hắn mỉm cười, đáp lại. [61: 334]

319. Trung cau mặt nhìn Hộ một cách kinh ngạc và khinh bỉ: [61: 336]

320. Trung gật gù cười, vẫn cái cười lặng lẽ của y. [61: 337]

321. Mụ cửu Xung trở vào với cái dáng bộ đắc sách. [84: 148]

322. Thằng Dần ton ton chạy ra núp vào sau mẹ. [84: 145]

323. Mão thì cười hô hố. [61: 338]

324. Hắn nói say sưa lắm. [61: 338]

325. Dáng nằm thật là khó nhọc và khổ não. [61: 339]

326. Hắn rón rén, đi chân không lại. [61: 339]

327. Bây giờ anh đang ngồi bắt tréo kheo, hất hàm lên, nghênh trời. [61: 538]

328. Chị nhắc cái niêu nhẹ nhõm. [61: 438]

329. Anh vội vàng nhổm dậy. [61: 439]

330. Giả điếc như không nghe tiếng, chị Dậu cố phùng đôi má để thổi cho bếp lửa cháy lên.

[84: 148]
331. Anh đứng tần ngần một lúc. [61: 440]
PHỤ LỤC 4: VAI NGHĨA VỊ TRÍ

1. Giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo, nhưng
cả nhà đều ăn rất ngon lành. [74: 31]
2. Ông Phùng Gia Lộc đã hi sinh ở phố Nhà Thờ đêm hôm qua. [83: 444]
3. Trong một góc nhà, bỗng trông thấy một đôi mắt mở thao láo. [83: 404]
4. Ngoài đình bỗng dồn lên một hồi trống dồn dập, vội vã. [74: 32]
5. Trên đất chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía. [75: 95]
6. Cạnh bàn thờ, Giản lặng ngắm bức ảnh người quá cố. [87: 942]
7. Họ đều đã được huấn luyện lái máy bay chiến đấu ở một xứ sở có nhiều tuyết rơi về mùa
đông. [87: 341]
8. Ở đấy, con trai và con gái gặp nhau dạn dĩ hơn, phóng khoáng hơn. [87: 341]
9. Da thịt đâm chồi ở những chỗ khuyết trên thân thể. [87: 321]
10. Bà ngoại với mấy bà gói bánh ở nhà dưới. [84: 9]
11. Mấy đứa trẻ con nhà nghèo cúi lom khom trên mặt đất đi lại tìm tòi. [75: 96]
12. Má và dì Ba ngồi học bài chỗ bàn ăn cơm. [88: 9]
13. Trên bàn bày hai đĩa thịt kho và một thau dưa cải. [88: 100]
14. Nhưng trong cái lều ẩm thấp vẫn chỉ mới hơi lờ mờ. [75: 96]
15. Chợ họp giữa phố vãn từ lâu. [75: 95]
16. Hai đứa bé con dưới đất vẫn khóc tru tréo. [84: 96]
17. Bên kia bàu nước là những đụn cát dọc biển, trông xa như một bức tường thành sáng lóa.
[87: 550]
18. Một tập phong bì đủ các loại và những con tem đẹp Chung để ở ngăn kéo bàn học. [87:
403]
19. Thím Trực ngồi xắt khoai ở đầu hồi lẩm nhẩm đọc theo. [87: 552]
20. Đoạn, tôi nhoài người đẩy cái khối thuốc nổ xuống cái hố đào sẵn ở phía trước ụ đất.
[60: 112]
21. Những giọt nước mắt hiếm hoi lăn trên khuôn mặt già nua. [60: 112]
22. Bọn địch bị đánh tan tác ở cánh đồng làng Xuân Trạch. [60: 44]
23. Ở đây người ta thấy chiều lúc xế trưa và gặp đêm khi bên ngoài vẫn sáng. [75: 149]
24. Cạnh dòng suối trôi ngang, hoa dại vàng xuống cả lòng đất. [62: 88]
25. Gần đó là túp lều của cha con ông già Túc. [87: 552]
26. Cuộc sống ở đây đã dạy cho chúng tôi thế nào là sự im lặng. [87: 534]
27. Ngoài đình, trống lại thúc, mõ lại khua, tù và rúc liên thanh bất chỉ. [84: 99]
28. Sau nhà có tiếng người gọi léo xéo. [84: 99]
29. Em ăn bên nhà thằng Thà rồi. [88: 20]
30. Trên bàn thờ Hường từ đó có thêm cái đũa đôi chén. [88: 23]
31. Khúc sông này là nơi ba người đã sống những ngày thơ trẻ bên nhau. [88: 24]
32. Dưới những gốc đa, gốc gạo xù xì, bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những
bóng ma. [74: 24]
33. Hai dãy phố bên, úp súp, tối om, không nhà nào có ánh đèn lửa. [74: 24]
34. Tiếng quạ trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi thê thiết. [74: 24]
35. Trên chòi canh tùng tùng ba tiếng trống báo. [84: 132]
36. Trong phủ, tiếng trống thong thả điểm luôn ba hồi. [84: 126]
37. Sau bức chấn song của cửa sổ trại lệ, chị Dậu thình lình nhòm ra. [84: 127]
38. Nào ở bên chiếc độc bình men đỏ, cái điếu ống vắt vểu vươn cành xe trúc dài thườn
thượt như cái cần câu. [84: 34]
39. Rồi ở trong cái tủ chè chạm dây nho, một rổ trứng gà đầy lùm, ngất nghểu chồng trên bộ
khay chè trắng bong. [84: 35]
40. Rồi ở trước cái sập gụ lên nước, bốn chiếc ghế gụ mặt đá cùng chầu vào chiếc bàn mây
sơn xanh. [84: 35]
41. Và ở đầu cái giường tây sơn quang dầu, quần lĩnh xanh và khăn quàng nhiễu xanh cùng
vắt một chỗ. [84: 35]
42. Trên chiếc tủ đứng, ngọn đèn măng xông im lặng tỏa ra ánh sáng xanh lè. [84: 137]
43. Họ đứng cả trong ngưỡng cửa nhìn ra bàn tán. [74: 25]
44. Tràng đứng tây ngây ra giữa nhà một lúc, chợt hắn thấy sờ sợ. [74: 25]
45. Ngoài đầu ngõ có tiếng người húng hắng ho, một bà lão từ ngoài rặng tre lọng khọng đi
vào. [74: 25]
46. Nó bây giờ là dâu con trong nhà rồi. [74: 29]
47. Làng ở trong tầm đại bác của giặc. [74: 38]
48. Ở chỗ vết thương, nhựa ứa ra tràn trề thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay gắt, rồi dần
dần bầm lại, đen và đặc quyện lại thành từng cục máu lớn. [74: 638]
49. Nơi góc chiếc án thư cũ đã nhợt màu son, một cây đèn đế leo lét rọi vào khuôn mặt nghĩ
ngợi. [75: 109]
50. Bên ngoài, mấy ông Lý dịch vẫn uỗng rượu, vẫn hút thuốc, vẫn quạt phành phạch, vẫn
giở lý luật cãi nhau lộn bậy. [84: 49]
51. Trong khung cửa sổ có nhiều con song kẻ những nét đen thẳng lên nền trời lốm đốm tinh
tú, một ngôi sao hôm nhấp nháy như muốn trụt xuống phía chân trời không định. [75: 109]
52. Trước cửa, treo một bức mành mành, như kiểu những nhà để ở, không buôn bán. [61:
164]
53. Bên này suối Đất- hoa là làng Kông-hoa của Núp, bên kia suối Đất- hoa là làng Ba-lang.
[79: 20]
54. Cạnh chõng, nghi ngút một đám khói bay. [84: 61]
55. Hôm nay lũ người Ba-lang đi bắt cá ở suối Đất-hoa nhiều. [79: 20]
56. Lũ Còn một số người chưa chịu về, trốn ở hai bên bờ suối Đất-hoa, nghe máy bay kêu
thì xuống nước trốn lửa. [79: 21]
57. Người còn lại rúc trong hốc đá không dám ra đi rẫy, ăn trái cây như con thú trong rừng.
[79: 21]
58. Núp ngồi trong nhà rông chờ. [79: 29]
59. Lần đầu tiên Núp nằm bên một người Kinh. [79: 44]
60. Đồng bào núp hai bên bờ suối, sợ run cả người lên. [79: 56]
61. Năm năm nay, lần đầu tiên Núp thấy một người ở trong làng tập trung của Pháp. [79: 76]
62. Một lằn gân tím nổi lên gần bên thái dương. [79: 77]
63. Ông già ngồi trong góc nhà với ba đứa con. [79: 83]
64. Mọi người đã mang gùi đứng cả ở sân làng. [79: 84]
65. Đêm lũ thanh niên không họp ở nhà rông nữa. [79: 92]
66. Núp đi gặp người kinh ở Ba lang đã về. [79: 95]
67. Bok Hồ đứng trên hòn núi đó, chỉ huy cả nước mình đánh giặc. [81: 96]
68. Gió thổi phần phật trên mặt mọi người. [79: 96]
69. Đánh Pháp ở rẫy trước, đánh Pháp trong làng sau. [79: 131]
70. Núp Nằm nghĩ tới anh Thế bây giờ ở ngoài rừng. [79: 97]
71. Chung quanh làng cắm chông như dao mọc, đi một ngày đường cũng chưa hết chông.
[79: 98]
72. Dưới suối cũng có chông, trên cây cũng có chông. [79: 98]
73. Xá lớn lên ở Ba-lang. [79: 99]
74. Thằng bé Ngứt ngồi trên ngưỡng của nhà sàn, nắng rọi vào trong mắt nó. [79: 106]
75. Con nít, đứa ngồi trong lòng anh, đứa bám trên lưng anh, đứa trèo trên vai anh. [79:
108]
76. Núp chỉ huy bảy du kích đánh ở suối Thi om. [79: 134]
77. Bây giờ năm mươi người đã tập họp trước nhà rông. [79: 83]
78. Bộ đội đến đóng ở Kông-hoa, Ba- lang, Ta- lung, đầy núi, đầy rừng. [79: 156]
79. Liêu coi việc làm rẫy ở nhà. [79: 156]
80. Hai dòng nước mắt chảy quanh trên má. [79: 158]
81. Con chim trong rừng nó không nghe tiếng Liêu hát nữa. [79: 158]
82. Nó đến nằm rấp ở một xó bụi ô rô mà rên hừ hừ. [69: 70]
83. Cái xó vườn cỏ dại đằng sau nhà không còn oanh yến dập dìu như xưa nữa. [69: 70]
84. Hôm qua tôi đi mua ở trên chợ Bưởi về một con chó, lông vàng sẫm như lông bò. [69:
75]
85. Hai người ngồi ở vệ ruộng tay tẩn mẩn bứt cỏ mà nói bâng quơ. [69: 308]
86. Tiếng eo óc dậy lên ở khắp xung quanh. [69: 324]
87. Có nhiều thứ máy móc ở trên xe được thay cẩn thận. [69: 309]
88. Hồi bấy giờ, xe đạp còn hiếm lắm, ở vùng này. [69: 309]
89. Ông Nhiêu đánh đụng được một đôi thịt chó bên hàng xóm. [69: 303]
90. Lúc ấy Nhiêu cũng ngồi quay tơ gần đó. [69: 304]
91. Bà Vạng đã nghĩ đến chồng người con gái xấu số của bà ở bên kia sông. [69: 308]
92. Xưa kia, ở các khu tập thể, cấp úy và các ông tá nhỏ được phân nhà sát vòng tường bao
ngoài vì là dãy nhà làm thêm. [72: 293]
93. Là một con thuyền ẩn dưới một vòm hang có nhũ đá lấp lánh. [72: 270]
94. Hắn hẹn sẽ đón tôi tại tạp chí Văn nghệ quân đội là nơi tôi đang ở nhờ. [72: 293]
95. Ông Nhiêu đang ngồi quay cửi thừa ở trước cổng tán. [69: 295]
96. Hôm nay tôi gặp chị Ngây ngoài cổng xóm. [69: 297]
97. Nó lấy chồng làm thư ký ở một làng bên tỉnh Bắc. [69: 299]
98. Ở hai bên con ngươi, nổi lên một cái màng trắng. [69: 299]
99. Cái tin Nghiên chết đắm đò ở bến Hối đưa về đến Hạ Nha thì bà Vạng khóc ngất đi. [69:
299]
100. Tháng tháng, cứ sáng ngày mồng một, ông lại gọi thằng bé con bên nhà hàng xóm sang
“xông” nhà. [69: 300]
101. Bỗng có tiếng gọi nheo nhéo ngoài cổng. [69: 261]
102. Trăng hăm bốn đã lên, nhợt nhạt trên ngọn tre. [69: 324]
103. Vậy mà trong xóm Duối, ở một nếp nhà ba gian, hai chái giữa một khoảng vườn nhỏ,
vẫn còn thấp thoáng ánh đèn và có tiếng dệt cửi, quay tơ. [69: 325]
104. Giọng ấy là giọng thợ cấy mà những người làm ruộng thường hát ở ngoài đồng. [69:
325]
105. Chuyến đò ngang ấy chở tham khách quá, đắm lỉm ngay ở giữa sông. [69: 299]
106. Hai mắt lờ đờ, ướt át trên một sống mũi dọc dừa. [70: 176]
107. Trên cao, những đám mây trắng xốp vừa tản ra, nắng lại bừng lên tưới xuống ào ào.
[70: 248]
108. Ở gian giữa bàn thờ bỗng sáng lên. [70: 248]
109. Trên bục rạp hát, trẻ con cứ sấn sổ cướp lấy cái dùi. [70: 242]
110. Chợt xế rạp hát, trước một sòng tổ tôm điếm, nổi ran một tràng pháo. [70: 242]
111. Trong nhà chùa chỉ lát nữa đèn nến sẽ sáng choang, nhang trầm nghi ngút, người lễ bái
không còn chỗ nào đặt chân. [70: 243]
112. Trên nhà, Mão Chột đương lục sục trở dậy. [70: 250]
113. Bên chùa, tiếng kêu hét, hò reo và đập phá rầm rầm. [70: 251]
114. Trưa mụ Mão gặp cái tý ngoài chợ, mua vàng hương và hơn chục bạc thịt với tiền của
một người bạn Ký Phát giúp cho. [70: 251]
115. Gần cái lỗ hổng cửa sổ chui lọt đầu người nọ, kê cái giường tây mà hai vợ chồng
đương ngồi và chốc nữa sẽ ngủ.
116. Sát cái giường là cái bàn, hai cái ghế đẩu và một cái hòm. [70: 259]
117. Vợ Lưu đi nép dưới hàng hiên, bước rất nhanh chẳng cần biết rõ làm gì. [70: 261]
118. Trên kia, giăng nhởn nhơ như một cô gái non vừa có nhân tình. [61: 263]
119. Ở ngoài ngõ, mẹ con chị Chuột vừa kêu khóc vừa van lạy. [61: 86]
120. Tôi trọ học ở tỉnh lỵ cách làng chừng mười lăm cây số. [61: 408]
121. Nó đã gặp gỡ cái gì ở trên đường làm nó lãng quên anh. [61: 197]
122. Tôi trọ tại một nhà bà dì. [61: 106]
123. Ngoài rừng vọng tiếng suối chảy tràn trên đá và tiếng đôi chim rụt rè ở hai góc rừng.
[63: 30]
124. Xe tôi chạy trên lớp sương bồng bềnh. [63: 38]
125. Lán đội nữ công nhân giữa khu rừng săng lẻ, rất đẹp. [63: 45]
126. Ngoài rừng sâu, đôi chim gọi nhau đã im tiếng, có lẽ chúng đã tìm thấy nhau. [63: 48]
127. Ác thay cái bãi đá tai mèo nằm giữa khúc suối dưới chân núi. [63: 52]
128. Hai bố con ở với nhau trong một cái lều ở bờ sông. [61: 233]
129. Trên chiếc ghế thứ tư, con chó nhảy tót lên, ngồi chồm chỗm, thè lười ngồi nhìn hết
người nọ đến người kia. [67: 18]
130. Cái ấm ngay bàn bên cạnh giường nằm. [67: 67]
131. Tóm lại, một cái dấu hỏi đỏ còn lửng lơ ở cổng tòa án dư luận, như ở bìa cuốn truyện
trinh thám vậy. [67: 75]
132. Nỗi mừng nở thành nụ cười trên miệng ông chủ bút. [67: 76]
133. Nguyên bán lẻ ở Hà Nội cũng đã ngót một vạn tờ mà còn thiếu. [67: 78]
134. Con gái gửi nhà trẻ rồi gửi mẫu giáo. [72: 26]
135. Buổi sáng thằng Bi phải phụ giúp cô ấy bán phở ở cổng trường thương nghiệp cùng với
một chị bạn. [72: 36]
136. Con gái lấy chồng ở Hải Phòng, mỗi năm ông chỉ ra thăm con được một lần, ở lại mươi
ngày rồi về.[72: 36]
137. Con trai ngày trước ở bộ đội, sau ngày xuất ngũ theo bạn bè đi buôn hàng ở biên giới.
[72: 36]
138. Con dâu cũng có cửa hàng bán đồ nhựa ở vườn hoa hàng Đậu, sáng đèo con đi, tối đèo
con về, cả nhà chỉ cùng ăn một bữa tối do ông già đi chợ và thổi nấu. [72: 36]
139. Sáu bảy cây vàng thì chỉ mua được cái lều ở trên phố. [72: 42]
140. Năm còn chiến tranh phá hoại, bà Tý ở với con gái và rể ở trên Vĩnh Phú bị kiết lỵ
nặng. [72: 51]
141. Ông nội xin bố một tấm ảnh cho phóng to đặt trên tủ buýt phê giữa nhà. [72: 52]
142. Đúng dịp ấy bà nội bị cảm nặng, nằm trên giường cả tuần. [72: 53]
143. Bác có hai con trai, một con hy sinh cũng ở chiến trường miền Nam, sau cái chết của
ông chú ruột chừng một năm. [72: 55]
144. Mồ hôi chảy ra trên đầu, trên mặt, những giọt to như giọt nước. [75: 151]
145. Cái hầm thứ hai của anh ở dưới một nấm mả giả nằm giữa một đám mả thật. [64: 13]
146. Nằm trong hầm tối, anh cứ nghĩ sao mẹ không tính đến việc anh có thể hi sinh nay
mai? [64: 14]
147. Không, ở đó không có con ma nào cả. [64: 14]
148. Nhưng chỗ này bọn chúng lại không ngờ tới. [64: 14]
149. Ngạn yên ổn sống ở dưới đó ngót hai tháng rồi mới chuyển vào cư trú.[64- 15]
150. Ngay chiều hôm đó, căn cứ trong rừng bị địch bao vây. [64: 15]
151. Anh em bắt vọp gần đấy nghe bọn biệt kích láo nháo. [64: 15]
152. Cô cảm tưởng như bị một cây gậy của ai bất thình lình phang trúng ngang lưng. [64:
16]
153. Chúng nói một buổi chiều chúng thấy ở giữa rừng có khói bay lên. [64: 18]
154. Cô lần đi trong bóng tối. [64: 19]
155. Dưới hầm, Ngạn mệt quá ngủ thiếp đi. [64: 20]
156. Những ngôi nhà trong xóm, mái lá và ngói đỏ chen nhau coi đông đúc như một thị trấn.
[64: 22]
157. Sau rặng tre ấy, biển cả còn lâu đời hơn, vẫn đang giỡn song, mang mang một màu
xanh lục. [64: 22]
158. Đứng ở đây, khi sóng sủi bọt âu yếm vỗ bờ, Ngạn thấy dưới chân bãi tre như có một
đường viền bằng ren, thỉnh thoảng lại dợn lên. [64: 22]
159. Xóm Hòn đất ở liền ngay chân Hòn. [64: 25]
160. Sau lưng xóm, còn một quãng vườn cây sum suê rồi tới sông Vàm Răng. [64: 25]
161. Ở đây có nhà cất trệt, nhưng cũng có nhà sàn phải đi lên bậc thang. [64: 25]
162. Những nhà lớn lợp ngói thường có bậc thang ở hai bên, lên xuống bên nào cũng tiện.
[64: 25]
163. Tại cái gốc me cổ thụ, cách đây không lâu, bọn đồn Hòn Đất đã trói quặt tay một chị
cán bộ vào thân cây rồi dùng đinh đóng suốt qua hai bàn tay chị. [64: 28]
164. Quyên với chiếc gáo có cán đặt trên miệng khạp múc nước đổ vào cái vịm sành da lươn
cạnh đấy, rồi nhấc con cá thả vô. [64: 31]
165. Ông bị đem về xử bắn tại Hòn Đất cùng năm người khác. [64: 39]
166. Nhưng nụ cười ấy tắt ngay trên môi anh. [64: 41]
167. Ngạn uống nước trà trên ván với anh Tám chợt nghe ngoài đường có ai đó nói chuyện
giống như tiếng anh Hai Thép. [64: 42]
168. Cũng trên bộ ván đó, bây giờ mọi người ngồi quây lại. [64: 46]
169. Tôi sẽ ở lại ngoài xóm giúp chỉ đạo bà con đấu tranh chánh trị. [64: 47]
170. Anh Tám cứ ở tại nhà tôi. [64: 47]
171. Bụi bốc mù mịt trên con đường phố nhỏ độc nhất của quận lị. [64: 50]
172. Trên khoảnh đất trống bị dọn sạch quanh chi khu, bọn lính chạy tới chạy lui. [64: 52]
173. Nơi đùi thằng Xăm đeo sề sệ khẩu súng ngắn côn 12, bao da súng màu hung hung gần
giống như màu da mặt của hắn. [64: 50]
174. Bọn còn lại là bọn bảo an và biệt kích thì được lện đóng ở ngoài, trên những khoảnh
ruộng đất trống. [64: 51]
175. Và trên bộ ngực nở nang của hắn lủng lẳng một sợi dây chuyền buộc cái mặt chằn bằng
ngà có nanh vàng chìa ra coi rất dễ sợ. [64: 52]
176. Điếu thuốc trên môi hắn đã cháy muốn hết mà chừng như hắn không hay. [64: 52]
177. Trên tấm vải bạt có trải giấy báo, đặt nửa con gà quay, hai ổ bánh mì lớn và một hộp cá
mòi đã mở nắp. [64: 53]
178. Những chiếc răng vàng trong mồm hắn lóa sáng, nhồm nhoàm. [64: 53]
179. Hắn đưa tay quệt mỡ gà dính ở hai bên mép. [64: 53]
180. Nhưng mặt trời thì vẫn còn đỏ sẫm dưới ven đồng xa. [64: 53]
181. Đằng trước là một sanh vừa gan, vừa phổi vừa tiết để trên rổ lòng. [84: 13]
182. Nơi này một đống, nơi kia một đống. [64: 54]
183. Nó chịu cực khổ ngoài biển đã quen rồi. [64: 54]
184. Ngoài đình, mõ đập chan chát, trống cái đánh thùng thùng, tù và thổi như ếch kêu. [84:
22]
185. Ngọn nến trắng cặm trên phiến đá đang cháy lẹm, run rẩy. [64: 154]
186. Có lẽ bên ngoài đã tang tảng, thế nhưng trong hang bóng tối vẫn còn tràn ngập. [64:
154]
187. Tuy vậy tôi đã có thể ngồi lái một cách khá vững vàng trên những chặng đường địch
đánh phá. [63: 135]
188. Có cô suốt đời sống giữa rừng bom đạn, chỉ diện quần áo trắng. [63: 135]
189. Chị Sứ chợt tỉnh dậy trên phiến đá nghe chân mình lành lạnh.[64: 155]
190. Bảy tám năm nay tình yêu của Sứ là ở đấy, ở nơi đứa con gái bé bỏng, ngoan xinh, nửa
của chị, nửa của chồng chị hiện còn ngoài Bắc. [64: 155]
191. Ngoài đường có tiếng chó sủa xô xát. [84: 25]
192. Cạnh cô đặt một cây đèn dầu có chân, chảy tỏa ra ánh sáng vàng vọt. [64: 61]
193. Rồi ngồi đó, bà ngó bóng mình in trên vách. [64: 62]
194. Lần ấy, bà Cà Xợi thét lên một tiếng rồi cũng ngã lăn bất tỉnh ở giữa đường.[64: 65]
195. Ngoài đường bấy giờ chợt có tiếng chó sủa gâu gâu.[64: 68]
196. Bên trong có tiếng nói chuyện rầm rì. [64: 71]
197. Tiếng nói chuyện bên trong im bặt.[64: 71]
198. Bên trong là gian buồng rộng, có kê một bộ ván ngựa. [64: 72]
199. Trên khay có bộ ấm chén sứ vẽ hình con rồng mày đỏ và một gói thuốc thơm hiệu rubi.
[64: 73]
200. Bọn vịt càng kêu và chạy tán loạn dưới sàn. [64: 74]
201. Tôi tính một người mình ngồi tại miệng hang thủ một cây búa, tụi nó cũng khó vô.[64:
81]
202. Ngạn ngắm kỹ một tên to cao nhất ở giữa đám giặc, bóp cò ngay. [64: 87]
203. Bấy giờ trên ruộng, bọn giặc tiến vào dễ dàng hơn, vì chỗ nào không có chông đều lộ
ra cả. [64: 90]
204. Lát sau, đằng cụm vườn có bóng người liên tiếp chạy vọt ra. [64: 92]
205. Ống tay áo bên trái của thằng bé lòng thong, rách bươm. [64: 92]
206. Tại đây có ba ngách tối om, chạy sâu hút vào trong. [64: 96]
207. Nó vui vẻ, lăng xăng trong vòng tay Ngạn. [64: 99]
208. Hình như được ở trong hang nó thấy thú vị lắm. [64: 98]
209. Còn vết thương nơi bắp chân Thẩm coi vậy chớ không sao….[64: 99]
210. Một tổ ở ngoài miệng hang, hai tổ thủ ở trong. [64: 103]
211. Trong hang có rất ít nước. [64: 99]
212. Anh đếm được sáu thằng giặc nằm sải dọc ngoài cửa hang. [64: 112]
213. Màu tím nhạt trên bầu trời đã chuyển sang màu hồng sen, phơn phớt. [64: 197]
214. Trên bờ suối, bây giờ chỉ còn lại năm bảy tên lính vừa nấu cơm vừa coi chừng chị. [64:
197]
215. Chính tại rẻo đất này, mẹ chị đã hát ru chị ngủ, và đến lúc làm mẹ, chị lại hát ru con
những câu hát ngày xưa. [64: 197]
216. Bên kia suối, tên Mỹ to lớn đang giãy giụa. [64: 200]
217. Nụ cười gian giảo vụt tắt trên khuôn mặt thằng thiếu tá. [64: 205]
218. Trong hang, anh em vẫn ghìm súng đứng đợi. [64: 207]
219. Đằng sau mẹ có tiếng ồn ào của đông đảo bà con và tên lính cứ đi day lui, tay ghìm
khẩu cạc bin. [64: 218]
220. Trong hang, Quyên đã khóc. [64: 224]
221. Bên ngoài chợt có tiếng gì lanh lảnh, ồm ồm. [64: 225]
222. Toán lính tuần đêm đầu tiên bắt gặp đám người đó giữa một khu vườn vú sữa. [64: 253]
223. Tại đây, chị đã khóc, đã cười, đã chơi đánh búng và chuyền đũa. [64: 253]
224. Ở hai bên mép miệng hang, xi măng để đùn đống, vương vãi. [64: 387]
225. Người bên ngoài hỏi dồn người trong hang. [64: 261]
226. Trên mấy cây bàng, một đàn chim sâu, con ngửa cổ uống nước, con đập cánh rũ lông,
kêu hót vang tai. [81: 183]
227. Dưới sân, đám công chúng Pháp Nam ngây thơ, vô lo vô lự vẫn vỗ tay rầm rộ để ủng
hộ Xuân. [81: 168]
228. Trong rừng, anh Quyết dạy Tnú và Mai học chữ. [74: 43]
229. Ngoài phố, đèn đã sáng. [81: 188]
230. Mảnh trăng đã khuất hẳn xuống khu rừng ở sau lưng. [78: 240]
231. Anh nấp ở gốc cây cạnh máng nước đầu làng. [74: 45]
232. Ở chỗ hai con mắt anh bây giờ là hai cục lửa lớn. [74: 45]
233. Lửa đã tắt trên mười đầu ngón tay Tnú. [74: 48]
234. Nhựa ứa ra ở những vết thương đang đọng lại, lóng lánh nắng hè. [74: 48]
235. Những sợi khói nhạt phơ phất bay ra ở miệng lò. [71: 184]
236. Trường tiếp Tiến trên bộ ghế cạnh bàn ngoài. [76: 279]
237. Đèn điện trong thành phố đã bật. [76: 275]
238. Trường thấy trong đôi mắt mở to có một ý oán trách. [76: 275]
239. Tiếng mai bỗng ú ớ trong màn. [76: 341]
240. Anh hình như đã đi bộ nhiều ở ngoài đường, nên quần áo và giầy đầy những bụi. [76:
72]
241. Mảnh trăng khuyết đứng yên ở cuối trời sáng trưng như mảnh bạc. [78: 239]
242. Trong gói giấy, đồ ăn đã hết, chỉ còn những cái vụn nhỏ dính trên mặt giấy bóng mỡ.
[76: 115]
243. Tâm đặt gánh ở trên thềm. [77: 87]
244. Phía sau, có một người ngồi nhờ lên cầu đá xanh đấy. [78: 232]
245. Cây đa cỗi và cái quán gạch vẫn đứng đợi nàng ở đầu làng. [77: 95]
246. Trong làng chẳng có gì thay đổi. [77: 95]
247. Dưới mớ tóc tả tơi, mắt Bính sưng vù, nổ đom đóm, giàn dụa nước mắt. [70: 38]
248. Bính co ro ngồi ở góc tường chờ viên cẩm đòi hỏi. [70: 38]
249. Hắn thức dậy trên cái giường nhà hắn. [61: 338]
250. Cô gái cố ý ngồi sát mé cửa, chiếc làn cói ôm gọn trong lòng, giữa hai chúng tôi để một
quãng cách rộng. [63: 35]
251. Quá nửa đêm, chúng tôi đến gần cầu đá xanh thì trăng lặn. [63: 39]
252. Ngoài vườn, những cành lá hoàng lan , khế, sấu, bưởi, me, reo như nổi sóng. [78: 192]
253. Khung cửa xe phía cô gái ngồi lồng đầy bóng trăng. [78: 239]
254. Mảnh trăng đã khuất hẳn xuống khu rừng ở sau lưng. [78: 240]
255. Ngoài vách kia, tiếng nhạc sinh tiền cúng ma đương rập rờn nhảy múa. [74: 90]
256. Mỗi ngày Mị càng không nói lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa. [74: 91]
257. Tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá! [75: 149]
258. Dưới chân cầu là bến nước, nơi lớn lên một chút chiều chiều Hường thường ra đó giặt
đồ. [88: 24]
259. Còn ở chỗ cây cầu bê tông bắc qua con rạch kia ngày xưa là cây cầu khỉ có cái tay
gượng bằng cây tầm vông. [88: 24]
260. Bên kia sông chỗ có cây gừa nằm ngã gọn de ra mặt nước là nơi Thà đã neo xuồng một
mình uống “quắc cần câu” bữa đám cưới của Phúc với Hường. [88: 24]
PHỤ LỤC 5: VAI NGHĨA NGUỒN

1. Ngoài đầu ngõ có tiếng người húng hắng ho, một bà lão từ ngoài rặng tre lọng khọng đi
vào. [74: 27]
2. Còn Huyến, nghe hai chữ “trí thức” ở miệng nhà sư nữ cụt tay thốt ra, anh chạnh lòng.
[70: 179]
3. Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt. [74: 25]
4. Cháu vẫn mượn sách của các bạn tự học tiếp chương trình cấp 3. [72: 36]
5. Cả bọn lật đật tiến từ xóm giữa vào đình. [84: 11]
6. Tôi mải nói chuyện với chú cháu từ thành phố sang chơi nên chả nghe thấy gì. [72: 34]
7. Tiền mua rượu là tiền của con cái chứ ông làm gì còn tiền. [72: 34]
8. Lững thững ở ngoài tiến vào, nó đặt quang gánh xuống sân đình, và mời ông Lý ra xem.
[84: 13]
9. Nghĩa cho tôi mượn xe hơi của công ty hai buổi tối để đi xem đèn của Hà Nội. [72: 294]
10. Cái nhà này là của quân đội cấp cho vợ chồng ông, đứng tên ông, ông không được quyền
bán nhưng ông và con cháu có quyền ở lại đây mãi mãi. [72: 41]
11. Chuyến tàu điện vét rời khỏi thành phố, tiếng chuông kêu leng keng. [87: 247]
12. Quyên lôi từ trong hốc vách đá ra một cái ba lô nhỏ như cái túi dết may bằng tơ càng
nhuộm màu già. [64 : 358]
13. Nóc bếp láng giềng, ngọn khói bốc lên nghi ngút. [84: 19]
14. Mỗi tiếng “này thách” từ miệng ông cai đã đưa ra, chị Dậu lại được hai ba quả thụi vào
ngực. [84: 28]
15. Có một giám đốc xí nghiệp nhà nước từ Hà Nội vào Sài Gòn công tác nghe nói ông Thái
là người sành điệu về lan liền lại chơi nhờ ông kiếm giùm vài giò lan Dã Hạc của Hawaii.
[72: 62]
16. Ở ngoài thành mới vô thì đứa nào cũng vậy. [64: 26]
17. Hai người mới bước vào thì một con chó phèn to từ trong chạy xổ ra kêu ử ử, cúi liếm
chân hai người và vẫy đuôi rối rít. [64: 27]
18. Hơi nước dưới đồng bốc lên nóng như bơi trong chõ xôi. [84: 31]
19. Trâu bò lũ lượt lôi thợ cày từ ngoài đồng về. [84: 32]
20. Thập thò ngoài cổng, chị nâng vạt áo nâu mốc lau những giọt mồ hôi nhễ nhại trên những
đôi lông mày và mở to đôi mắt quáng nắng nhòm vào trong cổng. [84: 19]
21. Bây giờ tôi hát tạm được như những giọng ca sản xuất từ đất Huế. [87: 323]
22. Từ đằng xa, dì Bình gánh chè thong thả đi tới phía nó. [87: 222]
23. Những phi công vội vã rời cửa hầm. [87: 258]
24. Từ trong nhà, ông quờ quạng chạy ra. [64: 29]
25. Em bé từ lưng trâu ngã lăn xuống. [64: 34]
26. Anh Tám và anh Hai Thép ngồi trong một nhà bên này sông theo dõi cuộc đấu tranh. [64:
34]
27. Đó là thím Cà Xợi, mẹ ruột của thằng Xăm. [64: 35]
28. Tấm hình của cô chụp gởi chú Ba mà cô vừa nói đó thiệt quý. [64: 41]
29. Những câu nói vừa buột ra khỏi miệng, tôi biết là đã rơi tuột đi ngay. [87: 249]
30. Con gà mái ấp cục tác từ trên cửa chuồng nhảy xuống, ưỡn đít bón một bãi phân cho
chậu lan. [84: 32]
31. Năm bé Sương hai tuổi đột nhiên anh nhận được một bức thư từ nước ngoài gửi về. [60:
238]
32. Năm thứ hai đại học, chị rời khỏi trường. [85: 19]
33. Bọn lính từ trên xe nhảy xuống, lũ lượt kéo đi trong vầng bụi. [64: 50]
34. Một mụ thợ cấy ở dưới nhà bếp lật đật vác gậy chạy lên. [84: 33]
35. Ông giáo kéo đôi giày vá từ đầu nhà thờ đi sang. [81: 19]
36. Họ đứng cả trong ngưỡng cửa nhìn ra bàn tán. [74: 25]
37. Một hồi hiệu ốc rúc từ ngoài đình rúc vào. [84: 106]
38. Rồi chiếc ô tô thong thả từ trước công đường chạy ra sau mấy tiếng còi rất lễ phép. [84:
128]
39. Bọn chủ lực từ Sài Gòn xuống còn đưa mắt nhìn xem hai bên phố, chớ bọn biệt kích thì
mặt gầm gầm, lạnh lùng, súng tôm xông và cạc bin của chúng mang đều chúi mũi xuống
đất. [64: 50]
40. Từ đám lính ấy toát ra mùi chua loét của mồ hôi, mùi thuốc lá Bát Tô xanh, mùi rượu
trắng và cả mùi sáp bôi tóc loại rẻ tiền. [64: 52]
41. Trung đội trưởng Hải cũng nhận được một bức thư từ nước ngoài gửi về. [60: 65]
42. Hai cô rời hốc đá đi đến bên xác Đạt. [64: 359]
43. Ra khỏi Hà Nội thì trời mưa tầm tã. [60: 95]
44. Quyên lôi từ trong hốc vách đá ra một cái ba lô nhỏ như cái túi dết may bằng tơ càng
nhuộm màu già. [64: 358]
45. Lệnh cấm là lệnh của Bộ chỉ huy hành quân, nhưng các tên chỉ huy đơn vị không cấm
lính của chúng. [64: 54]
46. Buổi sáng Thư mượn chiếc xe đạp của thím Trực chạy xuống các thôn bên cạnh lấy tin
tức. [87: 551]
47. Máu từ các vết thương của chúng nhểu giọt xuống suối đỏ loang. [64: 201]
48. Gió từ mặt sông thổi lên liu riu lạnh thon thót. [84: 62]
49. Từ bến xe, anh còn phải cuốc bộ gần 5 cây số nữa mới tới nhà. [60: 140]
50. Ông cũng chui ra khỏi xe cho đỡ nóng. [60: 122]
51. Câu chuyện ở bến xe lúc nãy chắc làm cho Hùng phải suy nghĩ nhiều. [60: 122]
52. Bọn biệt kích của thằng Xăm thằng nào cũng chạy giỏi như ngựa. [64: 58]
53. Một toán vác xoong chảo vừa lấy của đồng bào kéo đi lểnh nghểnh. [64: 94]
54. Liên rất thích hai cuốn sách của tôi tặng. [60: 66]
55. Em có đem về cho mấy anh năm xâu tôm lụi của ngoại em gửi. [64: 105]
56. Con bé từ chỗ anh Thẩm mon men đi ra. [64: 110]
57. Căn bệnh này anh mang từ chiến trường Campuchia về và nó đã tái phát cướp đi cuộc
sống của anh. [60: 246]
58. Bọn lính từ trong các lều vải kéo ra, đứng đầy bên bờ suối. [64: 112]
59. Chính tại rẻo đất này, mẹ chị đã hát ru chị ngủ, và đến lúc làm mẹ, chị lại hát ru con
những câu hát ngày xưa. [64: 197]
60. Giữa lúc chị còn mải mê âu yếm với đứa con trong trí tưởng tượng thì mấy tên lính chạy
từ trong hang Hòn về đến suối, lội gấp qua, chạy thẳng đến trước chị. [64: 196]
61. Từ bãi ấy, xông lên một mùi nồng nồng rất khó chịu. [64: 207]
62. Từng trận gió từ cánh đồng thổi vào, ngăn ngắt. [74: 24]
63. Núp ở nhà rông vừa về, tay cầm cái ná, lưng đeo bó tên. [79: 28]
64. Ở tòa báo ra, Hộ đi thẳng tới một hiệu thịt quay. [61: 335]
65. Điền nhớ đến câu thơ của một thi sĩ Tây phương ví khoảng trời sao như một cánh đồng.
[61: 261]
66. Mấy hôm sau, cụ Lý bảo Lý Cường cho hắn năm sào vườn ở bãi sông cắm thuế của một
người làng hôm nọ. [61: 48]
67. Thú thật lần này cầm lá thư của chị Tính, tôi rất sung sướng và cảm động. [63: 33]
68. Từ tấm áo, Quyên nghe rõ mùi mồ hôi âm ấm. [64: 224]
69. Người vú già nghe tiếng động từ ngoài sân gác đi vào. [76: 295]
70. Liên đưa ra một đôi khuyên vàng cô mới gửi đánh ở trên tỉnh. [77: 94]
71. Một đứa bé quần áo cũng chải chuốt ở trong nhà chạy ra. [77: 35]
72. Bọn Pháp trong nhà chạy ra đếm không hết. [79: 30]
73. Tin ở phía bắc Tây Nguyên bộ đội Bok Hồ đánh được đồn Koom-pơ-lông rồi, bắt Pháp
rất nhiều, lấy nhiều súng lớn súng nhỏ. [79: 96]
74. Tin ở dưới Kinh có bốn tỉnh Pháp không chiếm được, người Kinh dưới đó làm rìu rựa,
muối lúa nhiều gởi đi tất cả các nơi cho bộ đội đánh Pháp. [79: 96]
75. Người phụ nữ đứng trong nhà nói với ra. [61: 426]
76. Nó đã lấy tiền của người ta. [61: 8]
77. Những kẻ đã vác cái đòn càn đi ăn cơm của người tứ xứ giở mặt nào cũng được, không
chịu kém cạnh ai nước gì. [61: 417]
78. Đôi mắt soi mói của hắn không thèm soi mói đến cái mũi, cái mồm hay cái áo the có mùi
chua của các ông. [61: 235]
79. Vết những mảnh chai của những của bao nhiêu lần ăn vạ kêu làng, bao nhiêu lần hắn
nhớ làm sao nổi? [61: 49]
80. Và ngửi mồ hôi với mùi phân lợn của những toa tầu hạng tư….[61: 257]
81. Những tiếng khóc của những đứa lóc nhóc theo đứa lớn đi chơi ran lên như ri. [70: 242]
82. Cái roi mây của tên phu điếm lại quất tới tấp lên đám trẻ con. [70: 242]
83. Hột muối của Bok Hồ gửi cho những con người Kông-hoa đánh giặc giỏi ở núi rừng Tây
nguyên, thấm vào bụng, vào lòng, chạy vào trong máu, trong thịt. [79: 139-140]
84. Đồ của các chị ấy mừng đấy. [69: 323]
85. Ấy là người đưa thư của hàng tổng. [69: 308]
86. Ngay đó tiếng rền rĩ của mẹ Kỳ Phát lại vẳng đến. [69: 252]
87. Cái roi mây của tên phu điếm lại quất tới tấp lên đám trẻ con. [70: 242]
88. Ấy là những đoạn tình của bác phu trạm làng Nha. [69: 310]
89. Mảnh tình nhỏ bé của anh Thìn bay nhẹ lên bầu trời. [69: 308]
90. Nỗi căm uất, sự hả dạ và niềm vui sướng của ông Tư mù cho đến bây giờ cũng vẫn
không thay đổi. [64: 30]
91. Sự thật là dân ta đã lấy lại Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp. [78: 59]
92. Anh ấy cười, mắng tôi là đồ trẻ con rồi đuổi tôi đi, bắt buộc tôi phải rời ngay khỏi trung
đoàn ấy. [63: 95]
93. Từ sau rặng núi đá dựng đứng bên trái, bọn chúng ập đến như tiếng sét. [63: 42]
94. Từ dưới đường phố nhìn lên cao, bầu trời Hà Nội cũng chia thành từng đường phố, từng
cửa ô và lấp lánh như lồng kính. [63: 23]
95. Tôi ngồi đợi chị Quỳ từ trên gác xuống. [63: 92]
96. Trông thấy thằng Dũng rời tàu bước lên xe, thế là lão Khúng cứ quýnh cả lên. [63: 188]
97. Tuy vậy, từ trong sâu thẳm của nỗi niềm tâm sự về đường con cái, lão Khúng vẫn có nỗi
dằn vặt. [63: 186]

You might also like