Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 10

Tiền tệ có nhiều hình thái và mỗi hình thái có các ưu điểm, hạn chế.

Các hình thái về sau sẽ khắc phục được hạn chế của các hình thái
trước đó để rõ hơn ta đi sau hơn lần lượt như sau.
SLIDE 4. HOÁ TỆ
*Hóa tệ (Commodity Money) là hình thái tiền tệ sơ khai nhất của loài
người, dần hình thành từ thời điểm con người có các trao đổi về hàng
hóa. Khi một loại hàng hóa nào đó được nhiều người ưa chuộng và sử
dụng rộng rãi thì có thể tách ra khỏi thế giới hàng hóa để thực hiện
chức năng của tiền tệ, làm vật ngang giá trao đổi mà các hàng hóa
khác không thể thực hiện. Hóa tệ không có sự đồng nhất chung mà tùy
vào từng quốc gia, khu vực, từng vùng hoặc từng địa phương mà có
thể sẽ chọn các loại hàng hóa khác nhau để làm tiền tệ
Hoá tệ chia làm 2 loại:
SLIDE 5. HOÁ TỆ PHI KIM LOẠI
+ Hình thái cổ nhất của tiền tệ.
+Là loại tiền tệ tồn tại dưới dạng các hàng hóa phi kim loại.
Trong thời kỳ đầu của lịch sử, tiền tệ xuất hiện với hình thái đầu tiên
là các loại hàng hóa, thường là những hàng hóa quan trọng hay quý
hiếm của một địa phương nhất định. Gia súc như trâu bò, cừu hay dễ
đã từng được các dân tộc cổ đại sử dụng như một loại tiền tệ
Ưu điểm: không lạm phát. mang tính chất phổ biến, đặc trưng cho địa
phương, khu vực diễn ra trao đổi.
+ VD: Răng cá voi, vỏ ốc , bò , cừu ở Hy lạp và La mã , muối ở nhiều
nơi, lụa ở Trung quốc, rượu Rum ở Australia .
(Hình ảnh muối ) Trong lịch sử Trung Quốc, ở năm 2200 trước Công
nguyên, muối đã từng được sử dụng ngang thưng như tiền trong việc
đóng thuế. Ở một số nước còn tồn tại cả thuế muối. Thời La Mã cổ
đại, binh lính đôi khi được trả lương bằng những bao muối. Ngày nay,
những bộ lạc du mục sống ở Ethiopia vẫn sử dụng muối như vật
ngang giá trong trao đổi, buôn bán.
( Hình ảnh vỏ sò)
Tại Trung Hoa cổ đại thời Thương, Chu, người dân dùng vỏ sò vừa
làm trang sức, vừa làm vật trao đổi.Vỏ sò tất nhiên đã trở thành biểu
tượng thước đo sự giàu có của con người. Vậy tại sao mọi người
không nhặt nhiều vỏ sò hơn và làm giàu cho mình? Để một vật trở
thành vật trao đổi tương đương, trước hết nó phải có giá trị tồn tại của
chính nó. Lúc đó năng suất thấp, không phải ai cũng đục được vỏ. Vì
nếu muốn sử dụng thì phải đục lỗ trên vỏ rồi luồn chúng lại với nhau.
Theo trình độ năng suất lúc bấy giờ chưa có công cụ bằng kim loại,
bản thân vỏ trai sò đã rất cứng, việc đục lỗ trên vỏ sò là một công việc
tay nghề cao, nếu dùng lực quá mạnh vỏ sẽ quá giòn, và nó sẽ bị vỡ
thành nhiều mảnh. Từ điều đó ta sẽ thấy được mặt bất tiện của hoá tệ
kim loại như
 Khó vận chuyển
 Khó dự trữ, bảo quản hay bảo toàn giá trị
 Khó chia nhỏ hay gộp lại
 Chỉ được chấp nhận trong từng khu vực, từng địa phương
SLIDE 6. HOÁ TỆ KIM LOẠI
+ Là tiền tệ dưới dạng các kim loại, thường là các kim loại quý như
vàng, bạc đồng.... vàng được sử dụng phổ biến.
Ưu điểm :
 Được chấp nhận rộng rãi
 Bền
 Dễ chia nhỏ và hợp nhất
 Giá trị ổn định, ít biến đổi
Trong giai đoạn đầu, tiền vàng thường tồn tại dưới dạng nén và thỏi.
Nhưng về sau để tiện cho việc trao đổi, tiền vàng thường được đúc
thành những đồng xu với khối lượng và độ tinh khiết nhất định, nên
còn được gọi là tiền đúc

+ Hạn chế :
 Không đáp ứng đủ nhu cầu tiền tệ của nền kinh tế.
 Bất tiện khi di chuyển số lượng lớn
 Khó thực hiện giao dịch nhỏ
 Khả năng khai thác có hạn

( Đồng xu mảnh electrum hợp kim : Những đồng tiền sớm nhất trên
thế giới được đúc ở vương quốc Lydia thuộc Tiểu Á, nay là Thổ Nhĩ
Kỳ vào khoảng năm 600 trước Công nguyên. Các đồng tiền của Lydia
được làm bằng electrum, một hợp kim tự nhiên của vàng và bạc, có
sẵn trong lãnh thổ của Lydia. Từ Lydia, việc đúc tiền xu nhanh chóng
lan rộng sang các vùng lân cận, chẳng hạn như Aegina. Tiền xu
Aegina chủ yếu được làm bằng bạc, thường có hình con rùa ở một
mặt. Người Hy lạp cũng nhanh chóng tiếp thu kĩ thuật đúc tiền)…
Hình ảnh đồng xu
(đồng xu vàng quý hiếm đúc hình hoàng đế La Mã Augustus có niên
đại gần 2.000 năm, đồng xu ra đời vào năm 107, nằm trong loạt tiền
xu mà hoàng đế Trajan cho đúc để tưởng nhớ những người tiền
nhiệm)
SLIDE 7. TIỀN GIẤY
Để tạo điều kiện thuận lợi và an toàn cho giao dịch với khoản tiền lớn
khắc phục bất tiện của hoá tệ kim loại tiền giấy ra đời) (Dấu mốc quan
trọng thứ hai trong lịch sử tiền tệ đó là sự ra đời và phát triển của tiền
dấu hiệu, thay thế các loại tiền có giá trị đầy đủ. Tiền giấy xuất hiện
sớm nhất trong lịch sử được ghi nhận xuất hiện ở thời nhà Đường
thuộc Trung Hoa cổ đại, được gọi là “phi tệ” vì nó nhẹ. Loại tiền này
được các hiệu cầm đồ và tiệm kim hoàn bấy giờ sử dụng như một loại
giấy chứng nhận gửi tiền, thay thế cho một lượng tiền kim loại nhất
định, chúng dễ sử dụng, mang đi và tránh được rủi ro trong vận
chuyển.

Tiền giấy xuất hiện đầu tiên dưới dạng các giấy chứng nhận đổi được
ra bạc hoặc vàng, là các cam kết cho phép người nằm giữ giấy này đến
ngân hàng, rút ra số lượng bạc ghi tương ứng
Sau đó các giấy chứng nhận được chuẩn hóa thành các tờ tiền giấy có
có in mệnh giá đổi được ra vàng không hạn chế theo lượng vàng quy
định cho đồng tiền đó
Tiền giấy được chính phủ thông qua một đạo luật nó là phương tiện
thanh toán, do NHTW phát hành.

+ Ưu điểm :
 Nhẹ, dễ dàng cất trữ và vận chuyển
 Có nhiều mệnh giá, thuận tiện trong trao đối
 Chi phí phát hành thấp .
+ Hạn chế :
 Lưu thông tiền giấy dễ rơi vào tình trạng bất ổn định
 Không bền, dễ rách, làm cho việc in ấn thay thế tốn kém
 Chi phí lưu thông tương đối lớn, khi trao đổi hàng hóa diễn ra
trên phạm vi rộng, chẳng hạn giữa các quốc gia hay giữa các
vùng xa nhau, đòi hỏi tốc độ thanh toán nhanh, an toàn thì tiền
giấy vẫn tỏ ra cồng kềnh, không an toàn khi vận chuyển.
 Có thể bị làm giả
SLIDE 8. ẢNH MINH HOẠ TIỀN GIẤY
Hình ảnh 1
Theo xác minh, tờ ngân phiếu nhăn nhúm thuộc thời nhà Minh ở
Trung Quốc, có niên đại khoảng 700 năm. Nó được đóng 3 dấu đỏ để
tránh việc làm giả và do bộ tài chính phát hành vào năm 1371, năm ba
thời nhà Minh, Trung Quốc
Hình 2
Giấy bạc thời nhà Tống năm 600 đến năm 1455
Hình 3
Giấy bạc Đông Dương: Nếu không kể đến tờ tiền giấy thất bại của Hồ
Quý Ly thì giấy bạc Đông Dương được xem là tờ tiền đầu tiên của
Việt Nam. Đồng Đông Dương mệnh giá 100 đồng bạc được người
Pháp phát hành và lưu thông trong thời gian từ 1885 đến năm 1954.
Trên đó có in hình 3 thiếu nữ với trang phục truyền thống của Lào,
Campuchia và Việt Nam
Hình 4
Tiền loại 100 đồng, Bộ Tài chính và ngân khố Trung ương phát hành
sau Cách mạng tháng Tám năm 1945
SLIDE 9. TIỀN TÍN DỤNG
Tiền tín dụng là tiền nằm trên các tài khoản mở tại ngân hàng và được
hình thành trên cơ sở các khoản tiền được gửi tại ngân hàng. Khi
khách hàng gửi 1 khoản tiền giấy vào ngân hàng, ngân hàng sẽ mở
một tài khoản và ghi có số tiền đó. Vì vậy, tiền tín dụng còn được gọi
là tiền tài khoản
Cơ chế hoạt động của tiền tín dụng như sau:
 Ngân hàng nhận tiền gửi từ người dân và doanh nghiệp.
 Ngân hàng sử dụng một phần tiền gửi này để cho vay cho người
dân và doanh nghiệp khác.
 Người đi vay sử dụng tiền vay để mua sắm hàng hóa, dịch vụ
hoặc đầu tư sản xuất kinh doanh.
 Người đi vay phải trả lại tiền vay cho ngân hàng cùng với lãi
suất.
Ưu điểm của tiền tín dụng:
 Giúp giải quyết nhu cầu vốn của người dân và doanh nghiệp,
thúc đẩy sản xuất kinh doanh và lưu thông hàng hóa.
 Tăng tính thanh khoản của nền kinh tế, giúp người dân và doanh
nghiệp dễ dàng mua sắm, thanh toán và chuyển đổi giá trị.
 Giúp tăng thu nhập cho ngân hàng, góp phần thúc đẩy phát triển
kinh tế - xã hội.
Hạn chế của tiền tín dụng:
 Có thể dẫn đến lạm phát nếu không được kiểm soát chặt chẽ.
 Có thể gây ra rủi ro cho ngân hàng nếu người đi vay không trả
được nợ.
 Có thể khiến người dân và doanh nghiệp phụ thuộc vào tín dụng,
dẫn đến trì trệ sản xuất kinh doanh.
Do tiền tín dụng thực chất chỉ là những con số ghi trên tài khoản tại
ngân hàng, nên có thể coi tiền tín dụng là tiền phi vật chất và là loại
tiền mang giá trị như tiền giấy để sử dụng tiền tín dung, chủ tài khoản
phải sự dụng các lệnh thanh toán gửi cho ngân hàng giữ tài khoản
thanh toán hộ mình.
Sec là một tờ mệnh lệnh do chủ tài khoản sec phát hành yêu cần ngân
hàng thanh toán từ tài khoản của mình cho người hưởng lợi được chỉ
định trong tờ sec
Cần lưu ý là séc không phải là một loại tiền mà chỉ là phương tiện lưu
thông (phương tiện thanh toán) tiền tín dụng được phát hành theo một
mẫu nhất định. Khi mở tài khoản séc, ngân hàng sẽ cấp cho người chủ
tài khoản một tập séc đóng thành cuốn và séc chỉ có hiệu lực khi
người chủ tài khoản ký. Khi thanh toán, người chủ tài khoản séc sẽ ghi
số tiền cần thanh toán vào séc, ký tên rồi đưa cho người nhận thanh
toán: Người này sau đó sẽ đến ngân hàng giữ tài khoản séc để rút tiền
mặt hoặc chuyển tiền sạng tài khoản của mình trong cùng ngân hàng
hoặc ở ngân hàng khác.
Hình ảnh ( Trong ảnh, ông Dan Walsh, Chủ tịch một chi nhánh của
tập đoàn này, đang giới thiệu tờ séc quý giá nhất ra đời năm 1799, do
chính Tổng thống đầu tiên của Mỹ -George Washington ký tên. Đây
chỉ là một trong số 70 tờ séc cổ mà Tập đoàn này vô tình mua được.
Những tờ séc này được khôi phục lại vào năm ngoái)
Việc sử dụng séc trong thanh toán có lợi ích là vì:
- Tiết kiệm chi phí giao dịch do giảm bớt việc phải chuyển tiền thực
giữa các ngân hàng, vì các tờ séc đi và đến sẽ khử lẫn nhau.
- Tốc độ thanh toán cao, an toàn và đơn giản.
- Tiện cho việc thanh toán vì có thể viết ra với bất kỳ lượng tiền nào
cho đến hết số dự trên tài khoản, do đó làm cho việc thanh toán những
món tiền lớn được thực hiện dễ dàng hơn.
Việc lưu thông tiền tín dụng dựa trên cơ sở lưu thông séc cũng có
những:
hạn chế nhất định, đó là:
- Việc thanh toán bằng séc vẫn đòi hỏi một khoảng thời gian nhất
định, đó là thời gian cần thiết để chuyển séc từ nơi này đến nơi khác,
thời gian cần thiết để kiểm trạ tính hợp lệ của séc..., do đó thanh toán
bằng séc sẽ vẫn chậm trong các trường hợp cần thanh toán nhanh.
- Việc thanh toán bằng séc dẫn đến việc xử lý các chứng từ làm cho
chi phí ngày càng tăng gây tốn kém cho xã hội.
Chính vì vậy, nhằm khắc phục những hạn chế trong lựu thông séc, đáp
ứng như cầu thanh toán trong nền kinh tế, đòi hỏi phải cỏ một hình
thái tiền tệ mới hoàn thiện hơn, đó là tiền điện tử
SLIDE 10. TIỀN ĐIỆN TỬ
Khi chuyển sang phương thức thanh toán điện tử, tiền trong các tài
khoản ở ngân hàng được lưu trữ trong hệ thống máy tính của ngân
hàng dưới hình thức điện tử ( số hoá ). Đồng tiền trong hệ thống như
vậy được gọi là tiền điện tử (E-money) hoặc tiền số ( Digimoney).
Như vậy tiền điện tử là tiền tệ tồn tại dưới hình thức số hoá. Về bản
chất, tiền điện tử cũng giống như tiền tín dụng, tức là tiền nằm trên tài
khoản mở tại ngân hàng. Tiền điện tử còn được sử dụng trực tiếp
trong các giao dịch dưới các hình thức sau:
A. Thẻ Thanh toán: Là các tấm thẻ do ngân hàng hoặc các công ty tài
chính phát hành mà nhờ đó ngta có thể lưu thông những khoản tiền
điện tử. Có một số dạng sau:
- Thẻ rút tiền ATM: Thẻ ATM được dùng để rút tiền hoặc chuyển
khoản thông qua máy rút tiền tự động ATM
- Thẻ tín dụng: Là tẩm thẻ mà các tổ chức phát hành thẻ tín dụng
đảm bảo rằng họ sẽ thanh toán tiền mua hàng hóa hay dịch vụ cho
người bán thay cho người sử dụng thẻ trong hạn mức tín dụng của thẻ.
Số tiền đó sẽ được người mua thanh toán lại cho các tổ chức này sau
một thời gian nhất định. Vì người sử dụng thẻ tỉn dụng không phải trả
tiền ngay lúc mua hàng, nói cách khác là các tổ chức phát hành thẻ đã
cho họ vay để thanh toán nên thẻ được gọi là thẻ tín dụng. Người sử
dụng thẻ tín dụng cũng có thể dùng thẻ này để rút tiền tại ngân hàng
nhưng trong hạn mức của thẻ. Hàng năm người sử dụng thẻ tín dụng
phải trả cho tổ chức phát hành một khoản phí sử dụng.
- Thẻ ghi nợ: Về hình thức, thẻ ghi nợ tương tự như thẻ tín dụng.
Tuy nhiên, khác với thẻ tín dụng, thẻ ghi nợ không phải là công cụ để
vay tiền mà để tiêu tiền trong giới hạn số dư còn lại trên tài khoản.
B.Tiền mặt điện tử: Đây là dạng tiền điện tử được sử dụng để mua
hàng hoá hoặc dịch vụ trên internet
C. Séc điện tử: Séc điện tử cho phép người sử dụng Internet có thể
thanh toán các hóa đơn qua Internet mà không cần phải gửi những tờ
séc bằng giấy (paper check) như trước nữa. Những người này có thể
viết một tờ séc điện tử hợp pháp trên máy tính của mình rồi gửi cho
người được thanh toán
* Năm 2008, một lập trình viên (hoặc một nhóm lập trình viên) sử
dụng tên Satoshi Nakamoto đã xuất bản một bài báo mô tả các loại
tiền điện tử và năm 2009 đã ra mắt Bitcoin, loại tiền điện tử mà sau
này được chấp nhận và sử dụng rộng rãi nhất. ( hiện nay 1 bitcoin
bằng 1tỷ 050 vnd)
Ưu điểm của tiền điện tử:
 Tính phi tập trung: Tiền điện tử không được phát hành bởi bất
kỳ chính phủ hoặc tổ chức nào, do đó không bị kiểm soát bởi bất
kỳ bên thứ ba nào. Điều này giúp tăng tính bảo mật và tự do cho
người dùng.
 Tính toàn cầu: Tiền điện tử có thể được sử dụng để thanh toán
cho hàng hóa và dịch vụ ở bất kỳ đâu trên thế giới, không bị giới
hạn bởi biên giới quốc gia.
 Tính thanh khoản cao: Tiền điện tử có thể được chuyển đổi
nhanh chóng và dễ dàng thành tiền mặt hoặc các loại tài sản
khác.
Hạn chế của tiền điện tử:
 Tính biến động giá cao: Giá trị của tiền điện tử có thể biến động
mạnh, gây rủi ro cho người dùng.
 Rủi ro bảo mật: Tiền điện tử có thể bị tấn công bởi tin tặc, dẫn
đến mất tiền của người dùng.
 Tính minh bạch chưa cao: Một số loại tiền điện tử có thể được
sử dụng để thực hiện các giao dịch bất hợp pháp.

You might also like