Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 36

ĐẠI HỌC QUỐC GIA

ĐẠI HỌC BÁCH KHOA TP HỒ CHÍ MINH




BÀI TẬP LỚN MÔN TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN


ĐỀ TÀI 2:
VẬN DỤNG MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA NHẬN THỨC VÀ
THỰC TIỄN VÀO VIỆC PHÁT TRIỂN KINH TẾ SỐ Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY
LỚP ĐTQ2 --- NHÓM Nhóm 12
GVHD: Trần Thị Hoa

STT Họ và tên MSSV

1 Trương Trí Quang 2252672

2 Vũ Quang 2252673

3 Vương Tú Quyên 2152932

4 Trần Hoài Sơn 2152943

Mục Lục

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày … tháng 8 năm 2023


PHẦN MỞ ĐẦU............................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài...............................................................................................1
2. Mục đích của đề tài......................................................................................................2
3. Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài.........................................................................................2
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu đề tài.........................................................................2
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài...................................................................................2
6. Kết cấu của đề tài........................................................................................................2
PHẦN NỘI DUNG........................................................................................................4
Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA LÝ
LUẬN VÀ THỰC TIỄN TRONG PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ SỐ....................4
1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về mối quan hệ biện chứng giữa nhận
thức và thực tiễn............................................................................................................4
1.1.1. Phạm trù lý luận nhận thức và thực tiễn................................................................4
1.1.1.1. Phạm trù lý luận nhận thức................................................................................4
1.1.1.2. Phạm trù thực tiễn..............................................................................................5
1.1.1.3. Mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn của chủ nghĩa Mác - Lênin. 9
1.1.2 Ý nghĩa thực hiện nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong hoạt
động nhận thức và thực tiễn của con người.....................................................................9
1.2 Vai trò của nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong phát triển
nền kinh tế số...............................................................................................................10
1.2.1 Quán triệt quan điểm thực tiễn trong phát triển nền kinh tế số............................11
1.2.2. Quán triệt quan điểm lý luận đi đôi với thực tiễn trong phát triển nền kinh tế số
.......................................................................................................................................13
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1..............................................................................................14
Chương 2: VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC THỰC TIỄN LÀ TIÊU CHUẨN CỦA
CHÂN LÝ VÀO VIỆC PHÁT TRIỂN KINH TẾ SỐ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
.......................................................................................................................................17
2.1. Quan điểm của Đảng, Nhà nước về phát triển kinh tế số tại Việt Nam hiện nay...17
2.2. Thực trạng phát triển nền kinh tế số ở Việt Nam hiện nay.....................................19
2.2.1. Khái quát tình hình phát triển nền kinh tế số ở Việt Nam hiện nay....................19
2.2.2. Nguyên nhân của những tích cực và những hạn chế trong phát triển kinh tế số ở
Việt Nam hiện nay.........................................................................................................25
2.2.2.1. Nguyên nhân của những tích cực trong phát triển kinh tế số ở Việt Nam hiện
nay.................................................................................................................................25
2.2.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế trong phát triển kinh tế số ở Việt Nam hiện
nay.................................................................................................................................26
2.3. Một số giải pháp đề xuất nhằm phát triển kinh tế số ở Việt Nam hiện nay...........28
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2..............................................................................................30
KẾT LUẬN..................................................................................................................31
TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................................32
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế số ở Việt Nam hiện nay, việc
tìm hiểu và vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa nhận thức và thực tiễn vào việc
phát triển kinh tế số ở Việt Nam hiện nay không chỉ đơn thuần giúp nắm bắt được
những quyền lợi và cơ hội phát triển kinh tế số, mà còn giúp tạo ra một nền tảng vững
chắc để thúc đẩy sự phát triển bền vững của Việt Nam. Với ý nghĩa của việc nghiên
cứu đề tài này, chúng ta có thể nhìn thấy rõ ràng những lợi ích mà phát triển kinh tế số
mang lại. Không chỉ tạo ra sự tiện ích và thuận lợi cho người dân, việc phát triển kinh
tế số còn đóng góp vào sự phát triển của quốc gia và mang lại lợi ích lớn cho doanh
nghiệp.
Giữa lý luận và thực tiễn có mối quan hệ trao đổi, tác động lẫn nhau để hình
thành nên hoạt động sản xuất vật chất, phản ánh mặt tinh thần và thực tiễn xã hội. Có
thể nhận thấy, thực tiễn là cơ sở, động lực của lý luận. Hay nói cách khác, thực tiễn là
cung cấp cho lý luận những mục tiêu, chuẩn hoá lý luận. Song, thực tiễn cung cấp chất
liệu để hoàn thành lý luận, thông qua thực tiễn, lý luận được hoàn thiện, sinh động hoá
– hiện thực hoá hơn. Áp dụng mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn vào phát triển kinh
tế số, nền kinh tế dựa trên công nghệ số và nền tảng số, đang tăng trưởng rất nhanh và
trở thành xu hướng phát triển mới trên phạm vi toàn cầu. Trong giai đoạn 2020-2022,
Việt Nam đã phải hứng chịu nhiều hậu quả nặng nề đến từ đại dịch COVID-19, khiến
cho nhiều hoạt động kinh doanh, sản xuất bị ảnh hưởng sâu sắc, gây thiệt hại nặng nề
cho nền kinh tế. Song, với sự ảnh hưởng đến từ đại dịch COVID-19, đất nước ta cũng
có nhiều sự chuyển biến với sự phát triển vượt bậc của kinh tế số điển hình như là các
dịch vụ mua bán trực tuyến.
Thời gian qua, Đảng và Nhà nước đã lãnh đạo, chỉ đạo các cấp, các ngành đẩy
mạnh ứng dụng, phát triển khoa học - công nghệ, xem đây là tiền đề, động lực quan
trọng để chuyển đổi số, phát triển kinh tế số. Nghị quyết số 52-NQ/TW, ngày
27/09/2019, của Bộ Chính trị “Về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia
cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư” đã xác định: Phát triển kinh tế số là trụ cột,
nhiệm vụ trọng tâm, chiến lược trong tiến trình chuyển đổi số quốc gia những năm tiếp
theo và đề ra mục tiêu vào năm 2025 kinh tế số Việt Nam sẽ chiếm 20% tổng sản

3
phẩm quốc nội và tăng lên 30% vào năm 2030. Chỉ thị số 01/CT-TTg, ngày
14/01/2020, của Thủ tướng Chính phủ “Về thúc đẩy phát triển doanh nghiệp công
nghệ số Việt Nam” đã khẳng định: Dựa trên nền tảng của nhiều công nghệ mới mà cốt
lõi là công nghệ số (trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, chuỗi khối, điện toán đám mây,
internet vạn vật...), chuyển đổi số đang tạo ra không gian phát triển mới - kinh tế số, xã
hội số, chính phủ điện tử. Đặc biệt, chuyển đổi số mở ra cơ hội to lớn cho Việt Nam
phát triển đột phá, nhanh chóng bắt kịp các nước phát triển đang bắt đầu quá trình
chuyển đổi số.
Việc tìm hiểu về mối quan hệ biện chứng giữa nhận thức và thực tiễn và áp
dụng điều này vào quá trình phát triển kinh tế số ở Việt Nam là cần thiết và không thể
thiếu. Do đó, nhóm tác giả đã chọn đề tài “Vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa
nhận thức và thực tiễn vào việc phát triển kinh tế số ở Việt Nam hiện nay” để nghiên
cứu và trình bày quan điểm của nhóm tác giả.
2. Mục đích của đề tài
Đề tài nghiên cứu một cách hệ thống về nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn. Trên cơ sở đó đánh giá thực trạng và đưa ra các giải pháp vận dụng vào việc
phát triển nền kinh tế số ở Việt Nam hiện nay.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Để đạt được mục đích trên, đề tài cần phải giải quyết các nhiệm vụ cơ bản sau:
Thứ nhất, trình bày, phân tích và làm rõ nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn. Trên cơ sở đó rút ra ý nghĩa của nó trong phát triển nền kinh tế số.
Thứ hai, trình bày, phân tích và làm rõ thực trạng nền kinh tế số ở Việt Nam hiện
nay.
Thứ ba, đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển nền kinh tế số ở Việt Nam hiện
nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu đề tài
Đề tài tập trung nghiên cứu, làm rõ nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn. Trên cơ sở đó vận dụng vào việc phát triển nền kinh tế số ở Việt Nam hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Đề tài được thực hiện dựa trên cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Hơn nữa, nội dung đề tài còn

4
sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như phương pháp phân tích và tổng hợp;
diễn dịch và quy nạp; phương pháp so sánh, đối chiếu và phương pháp liệt kê,… để
trình bày và nghiên cứu đề tài.
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài được kết
cấu thành 2 chương, 5 tiết và 11 tiểu tiết.
Chương 1: Lý luận chung về mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn
trong phát triển nền kinh tế số
Chương 2: Vận dụng nguyên tắc thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý vào việc
phát triển kinh tế số ở Việt Nam hiện nay

5
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA LÝ LUẬN VÀ
THỰC TIỄN TRONG PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ SỐ
1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về mối quan hệ biện chứng giữa nhận
thức và thực tiễn
1.1.1. Phạm trù lý luận nhận thức và thực tiễn
1.1.1.1. Phạm trù lý luận nhận thức
Thứ nhất, theo triết học Mác - Lênin đã nhận định rằng nhận thức là sự phản
ánh hiện thực khách quan vào bộ óc người 1. Điều này thể hiện quan niệm duy vật về
nhận thức, chống lại quan niệm duy tâm về nhận thức.Nhưng bản chất của nhận thức
là sự phản ánh tích cực, sáng tạo của thế giới vật chất vào ý thức, tồn tại song song cả
2 quá trình nảy sinh và giải quyết mâu thuẫn chứ không phải quá trình máy móc giản
đơn, thụ động và nhất thời.
Thứ hai, nhận thức là một quá trình biện chứng có vận động và phát triển 2. Đây
là quá trình có sự bổ sung và phát triển, hoàn thiện chứ không phải nhất thời. Trong
quá trình nhận thức của con người luôn luôn nảy sinh quan hệ biện chứng giữa nhận
thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận; nhận thức thông thường và nhận thức khoa
học. Ví dụ như khi ta mới bắt đầu học môn Triết học, chúng ta không biết gì về môn
học này nhưng qua nhiều tuần nghe giảng, tham khảo tài liệu, ghi chép,... thì chúng ta
đã có cái nhìn bao quát hơn về môn Triết học và ảnh hưởng của môn học này đối với
với đời sống xã hội.
Nhận thức kinh nghiệm là nhận thức dựa trên sự quan sát trực tiếp các sự vật,
hiện tượng hay các thí nghiệm, thực nghiệm khoa học. Ví dụ như khi ta ăn phải ớt ta sẽ
cảm thấy cay và lần tới khi ta nhìn vào trái ớt ta có thể cảm thấy sự cay nồng của quả
ớt dù chưa ăn.
Nhận thức lý luận là nhận thức sự vật, hiện tượng một cách gián tiếp dựa trên
các hình thức tư duy trừu tượng như khái niệm, phán đoán, suy luận để khái quát tính
bản chất, quy luật, tính tất yếu của các sự vật, hiện tượng. Giống như khi ta nhìn thấy
1
Bộ Giáo dục và Đào tạo (2021),Giáo trình Triết học Mác - Lênin , Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật Hà
Nội – 2021,trang 119
2
Bộ Giáo dục và Đào tạo (2021),Giáo trình Triết học Mác - Lênin , Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật Hà
Nội – 2021,trang 119
6
một người đàn ông ăn mặc lịch thiệp, đầu tóc gọn gàng, ta cho rằng đây là một người
đàng hoàng, nho nhã, lịch sự dù chưa tiếp xúc với người đàn ông ấy.
Nhận thức thông thường là nhận thức được hình thành một cách tự phát, trực
tiếp trong hoạt động hằng ngày của con người. Ví dụ như khi chúng ta đến quán ăn,
nhân viên phục vụ bê lên một đĩa thức ăn trông rất hấp dẫn, ngon miệng và khiến bạn
có cảm giác muốn ăn ngay lập tức.
Nhận thức khoa học là nhận thức được hình thành chủ động, tự giác của chủ thể
nhằm phản ánh những mối liên hệ bản chất, tất nhiên, mang tính quy luật của đối
tượng nghiên cứu. Giống như khi các nhà khoa học nghiên cứu các đặc điểm của các
loài như thằn lằn, rắn, rùa biển để đưa ra nhận định về các đặc điểm chung và xếp
chúng vào lớp Bò sát.
Thứ ba, nhận thức là quá trình tác động biện chứng giữa chủ thể và khách thể
thông qua hoạt động thực tiễn của con người 3. Chủ thể nhận thức chính là con người
hiện thực, đang sống, đang hoạt động thực tiễn và đang nhận thức trong những điều
kiện lịch sử - xã hội cụ thể nhất định. Chủ thể nhận thức trả lời câu hỏi: Ai nhận thức?
còn khách thể nhận thức trả lời câu hỏi: Cái gì được nhận thức? Khách thể nhận thức
không chỉ là thế giới vật chất mà có thể còn là tư duy, tâm lý, tư tưởng, tinh thần, tình
cảm, v.v.. Khách thể nhận thức cũng có tính lịch sử - xã hội, cũng bị chế ước bởi điều
kiện lịch sử - xã hội cụ thể, luôn thay đổi trong lịch sử cùng với sự phát triển của hoạt
động thực tiễn cũng như sự mở rộng năng lực nhận thức của con người. Khách thể
nhận thức rộng hơn đối tượng nhận thức.
Lý luận nhận thức4 là một bộ phận của triết học, nghiên cứu bản chất của nhận
thức, những hình thức, các giai đoạn của nhận thức; con đường để đạt chân lý, tiêu
chuẩn của chân lý, ... Lý luận nhận thức thuộc về mặt thứ hai của vấn đề cơ bản của
triết học đó là “Con người có thể nhận thức được thế giới hay không?”.
1.1.1.2. Phạm trù thực tiễn
Trước khi bắt đầu tìm hiểu về theo quan quan điểm của triết học Mác-Lênin thì
chúng ta cần phải hiểu rõ các quan điểm của các nhà triết học trước đó đã đưa ra khi
nhắc đến phạm trù thực tiễn. Đối với các nhà triết học duy tâm, họ nhận định rằng
3
Bộ Giáo dục và Đào tạo (2021),Giáo trình Triết học Mác - Lênin , Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật Hà
Nội – 2021,trang 1200
4
Bộ Giáo dục và Đào tạo (2021),Giáo trình Triết học Mác - Lênin , Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật Hà
Nội – 2021,trang 116
7
hoạt động nhận thức, hoạt động của ý thức, hoạt động của tinh thần nói chung là hoạt
động thực tiễn. Về phía các nhà triết học tôn giáo, họ cho rằng hoạt động sáng tạo ra
vũ trụ của thượng đế là hoạt động thực tiễn. Các nhà triết học duy vật trước triết học
duy vật biện chứng có nhiều đóng góp cho quan điểm duy vật về nhận thức, nhưng
chưa một đại biểu nào hiểu đúng được bản chất của thực tiễn cũng như vai trò của thực
tiễn đối với nhận thức5. Các Mác nhận định về quan điểm này trong luận đề số 1 của
Luận cương về Phoiơbắc rằng “Khuyết điểm chủ yếu của toàn bộ chủ nghĩa duy vật từ
trước đến nay - kể cả chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc - là sự vật, hiện thực, cái cảm
giác được, chỉ được nhận thức dưới hình thức khách thể hay hình thức trực quan, chứ
không được nhận thức là hoạt động cảm giác của con người, là thực tiễn”6. Ông cũng
nhận xét trong cuốn Luận cương về Phoiơbắc rằng “Điểm cao nhất mà chủ nghĩa duy
vật trực quan, tức là chủ nghĩa duy vật không quan niệm tính cảm giác là hoạt động
thực tiễn, vươn tới được là sự trực quan về những cá nhân riêng biệt trong “xã hội
công dân””7.
Quan điểm của triết học Mác - Lênin nhận định rằng thực tiễn là toàn bộ những
hoạt động vật chất - cảm tính, có tính lịch sử - xã hội của con người nhằm cải tạo tự
nhiên và xã hội phục vụ nhân loại tiến bộ8. Theo như chủ nghĩa duy vật biện chứng, ta
có thể thấy được thực thực tiễn bao gồm những nội dung sau:
Thứ nhất, thực tiễn không bao gồm tất cả các hoạt động của con người mà chỉ
tập trung vào những hoạt động vật chất - cảm tính. Theo lời của C. Mác, đó là những
hoạt động vật chất của con người mà chúng ta có thể cảm nhận được. Tức là, chúng ta
có thể quan sát trực quan những hoạt động vật chất này. Hoạt động vật chất - cảm tính
là những hoạt động mà con người phải sử dụng lực lượng vật chất và công cụ vật chất
để tác động lên các đối tượng vật chất và thay đổi chúng. Chính nhờ vào những hoạt
động này, con người mới có thể thay đổi và tận dụng thế giới khách quan để phục vụ
cho mình.

5
Bộ Giáo dục và Đào tạo (2021),Giáo trình Triết học Mác - Lênin , Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật Hà
Nội – 2021,trang 120
6
Bộ Giáo dục và Đào tạo (2021),Giáo trình Triết học Mác - Lênin , Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật Hà
Nội – 2021,trang 120,121
7
Bộ Giáo dục và Đào tạo (2021),Giáo trình Triết học Mác - Lênin , Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật Hà
Nội – 2021,trang 121
8
Bộ Giáo dục và Đào tạo (2021),Giáo trình Triết học Mác - Lênin , Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật Hà
Nội – 2021,trang 121
8
Thứ hai, thực tiễn là những hoạt động mang tính lịch sử - xã hội của con người.
Nghĩa là, thực tiễn chỉ diễn ra trong xã hội và có sự tham gia của đông đảo người.
Trong thực tiễn, con người chuyển giao kinh nghiệm từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Tuy nhiên, hoạt động thực tiễn luôn bị hạn chế bởi các điều kiện lịch sử-xã hội cụ thể.
Ngoài ra, thực tiễn cũng trải qua các giai đoạn phát triển lịch sử đặc biệt của nó.
Thứ ba, thực tiễn là hoạt động có tính mục đích nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội
phục vụ con người. Khác với hoạt động có tính bản năng, tự phát của động vật nhằm
thích nghi thụ động với thế giới, con người bằng và thông qua hoạt động thực tiễn, chủ
động tác động cải tạo thế giới để thỏa mãn nhu cầu của mình, thích nghi một cách chủ
động, tích cực với thế giới. Như vậy, khi nhắc đến thực tiễn là nhắc đến hoạt động có
tính tự giác cao của con người, khác với hoạt động bản năng thụ động thích nghi của
động vật
Nếu xét theo một phương diện khác thì ta có thể coi thực tiễn bao gồm mục
đích, phương tiện và kết quả. Mục đích được nảy sinh từ nhu cầu và lợi ích, nhu cầu
xét đến cùng được nảy sinh từ điều kiện khách quan. Lợi ích chính là cái thỏa mãn nhu
cầu. Để đạt mục đích, trong hoạt động thực tiễn của mình, con người phải lựa chọn
phương tiện (công cụ) để thực hiện. Kết quả của hoạt động thực tiễn phụ thuộc vào
nhiều nhân tố nhưng trước kết là phụ thuộc vào mục đích đặt ra và phương tiện mà con
người sử dụng để thực hiện mục đích.
Dù ta có xét trên phương diện nào đi chăng nữa thì thực tiễn là hoạt động được
thực hiện một cách có chủ đích, có tính tự giác cao của con người, chủ động tác động
làm biến đổi tự nhiên, xã hội, phục vụ đời sống con người, khác với những hoạt động
mang tính bản năng thụ động của động vật. Hoạt động thực tiễn là hoạt động cơ bản,
phổ biến của con người và xã hội loài người, liên kết con người với thế thế giới, là
phương thức quan hệ cơ bản giữa con người với thế giới. Không có hoạt động thực
tiễn thì bản thân con người và xã hội loài người không thể tồn tại và phát triển.
Thực tiễn tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau, ở những lĩnh vực khác nhau,
nhưng luôn bao gồm những hình thức cơ bản đó là hoạt động sản xuất vật chất; hoạt
động chính trị - xã hội và hoạt động thực nghiệm khoa học9. Ba hình thức thực tiễn này
có quan hệ biện chứng, tác động, ảnh hưởng qua lại lẫn nhau trong đó, hoạt động sản
9
Bộ Giáo dục và Đào tạo (2021),Giáo trình Triết học Mác - Lênin , Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật Hà
Nội – 2021,trang 122
9
xuất vật chất đóng vai trò quan trọng, quyết định hai hình thức thực tiễn kia là hình
thức thực tiễn có sớm nhất, cơ bản nhất, quan trọng nhất, là hoạt động con người đã
phải tiến hành để có thể tòn tại. Các hoạt động sản xuất vật chất có thể kể đến như là
những người công nhân đang dệt, may từng chiếc áo hay các cô chú nông dân đang gặt
lúa để thu hoạch những hạt thóc,... Không có hoạt động sản xuất vật chất, của cái
không thể nào được tạo ra và từ đó khiến cho xã hội loài người không thể nào phát
triển được. Mối quan hệ của con người với tự nhiên thông qua hoạt động sản xuất vật
chất. Tuy nhiên, hai hình thức thực tiễn còn lại cũng có thể ảnh hưởng đến hoạt động
tới sản xuất vật chất
Hoạt động chính trị - xã hội là hoạt động thực tiễn thể hiện tính tự giác cao của
con người nhằm biến đổi, cải tạo, phát triển các thiết chế xã hội, các quan hệ xã hội,
v.v.. Hoạt động chính trị - xã hội bao gồm các hoạt động như đấu tranh giai cấp; đấu
tranh giải phóng dân tộc; đấu tranh cho hòa bình, dân chủ, tiến bộ xã hội; đấu tranh cải
tạo các quan hệ chính trị - xã hội, nhằm tạo ra môi trường xã hội dân chủ, lành mạnh,
thuận lợi cho con người phát triển. Thiếu hình thức hoạt động thực tiễn này, con người
và xã hội loài người cũng không thể phát triển bình thường. ta có thể thấy điển hình
qua những cuộc đấu tranh chống quân xâm lược của ông cha ta để giành độc lập dân
tộc, bảo vệ chủ quyền biển đảo quê hương.
Hoạt động thực nghiệm khoa học là hình thức đặc biệt của hoạt động thực tiễn,
vì trong hoạt động thực nghiệm khoa học, con người chủ động tạo ra những điều kiện
không có sẵn trong tự nhiên để tiến hành các thử nghiệm để chứng minh các cơ sở,
luận điểm khoa học của bản thân sau đó vận dụng những thành tựu khoa học, kỹ thuật,
công nghệ vào sản xuất vật chất, vào các hoạt động chính trị - xã hội. Ngày nay, khi
khoa học, kĩ thuật ngày càng tiến bộ thì hình thức hoạt động thực tiễn này ngày càng
đóng vai trò quan trọng trong đời sống con người hơn. Ta có thể thấy qua đại dịch
COVID-19, các nhà nghiên cứu đã tích cực tham gia vào quá trình nghiên nghiên cứu
để có thể tại ra loại vaccin chống COVID-19.
1.1.1.3. Mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn của chủ nghĩa Mác -
Lênin
Lý luận được hiểu là sản phẩm của quá trình nhận thức ở trình độ phát triển
cao, là hệ thống tri thức phản ánh những mối liên hệ bản chất, tất yếu của hiện thực

10
khách quan. Lý luận không hình thành tự phát mà xuất phát từ thực tiễn, được khái
quát, đúc rút trên cơ sở kinh nghiệm thực tiễn, phục vụ cho thực tiễn và được thực tiễn
kiểm nghiệm tính đúng đắn.
Giữa lý luận và thực tiễn có mối quan hệ biện chứng với nhau. Lý luận chỉ trở
thành khoa học khi xuất phát từ thực tiễn, lấy thực tiễn làm cơ sở, mục đích, động lực
để phát triển, làm tiêu chuẩn để kiểm tra tính đúng đắn. Đồng thời, hoạt động thực tiễn
chỉ đạt được mục đích khi được lý luận khoa học soi đường. Hồ Chí Minh khẳng định:
“Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác -
Lênin. Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận
mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông”10.
Thực tế cho thấy, nếu nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn không
được tôn trọng thì lý luận sẽ mất động lực phát triển, bị xơ cứng, giáo điều; đồng thời,
thực tiễn cũng dễ rơi vào mò mẫm, mù quáng, mất phương hướng. Vì vậy, không được
tách rời, tuyệt đối hóa hoặc coi nhẹ một trong hai mặt đó.
1.1.2 Ý nghĩa thực hiện nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong
hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người
Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc quan trọng
của triết học duy vật biện chứng, nhận thức khoa học và hoạt động cách mạng của chủ
nghĩa Mác - Lênin. Nguyên tắc này khẳng định sự liên hệ, tương tác và ảnh hưởng qua
lại giữa lý luận và thực tiễn trong quá trình nhận thức và biến đổi thế giới.
Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn được coi là quan trọng trong hoạt
động nhận thức và thực tiễn của con người. Ý nghĩa của việc thực hiện nguyên tắc này
rất rộng rãi, đặc biệt ảnh hưởng đến cách chúng ta tiếp thu kiến thức, lập kế hoạch và
hành động từ cuộc sống hàng ngày cho đến công việc.
Lý luận, như một phần quan trọng của quá trình nhận thức, hướng dẫn chúng ta
cách hiểu và giải thích thế giới, cung cấp cho chúng ta một bản đồ tri thức để dự đoán
và giải quyết các vấn đề. Tuy nhiên, lý luận không thể hoạt động hiệu quả nếu không
được liên kết chặt chẽ và kiểm tra bởi thực tiễn. Thực tiễn là nền tảng vững chắc cho
10
Đoàn Văn Tự & ThS Vũ Hoàng Sơn (05/2023), Vận dụng giữa lý luận và thực tiễn ở các nhà trường Quân
đội, https://dangcongsan.vn/quoc-phong-an-ninh/van-dung-giua-ly-luan-va-thuc-tien-o-cac-nha-truong-quan-doi-
637045.html#:~:text=Gi%E1%BB%AFa%20l%C3%BD%20lu%E1%BA%ADn%20v%C3%A0%20th
%E1%BB%B1c%20ti%E1%BB%85n%20c%C3%B3%20m%E1%BB%91i%20quan%20h%E1%BB%87,lu
%E1%BA%ADn%20khoa%20h%E1%BB%8Dc%20soi%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng.

11
mọi lý thuyết và luôn là tiêu chuẩn cuối cùng để đánh giá tính chính xác của mọi lý
luận.
Việc thực hiện nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn giúp đảm bảo rằng
không chỉ kiến thức của chúng ta về thế giới phản ánh đúng thực tế, mà còn rằng hành
động của chúng ta dựa trên một hiểu biết sâu sắc và chính xác. Chúng ta có thể tìm
thấy ví dụ cho lợi thế của việc thực hiện nguyên tắc này trong nhiều lĩnh vực, từ khoa
học cho đến doanh nghiệp.
Trong khoa học, lý luận dựa trên cơ sở của quan sát và thí nghiệm - thực tiễn -
để đưa ra dự đoán và giải thích. Khi một lý thuyết không còn tương thích với quan sát
mới, nó cần được điều chỉnh hoặc thậm chí bị bỏ qua.
Trong lĩnh vực kinh doanh, lập kế hoạch chiến lược và ra quyết định đều yêu cầu việc
áp dụng lý luận (như kiến thức về thị trường, khách hàng và sản phẩm) vào thực tế
(như dữ liệu về doanh số bán hàng, thông tin khách hàng và phản hồi). Nếu một kế
hoạch không mang lại kết quả mong đợi, doanh nghiệp cần phải điều chỉnh kế hoạch
dựa trên thực tế thị trường.
Tóm lại, việc thực hiện nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn không
chỉ là yêu cầu quan trọng của quá trình nhận thức mà còn là điều kiện tiên quyết để
hành động hiệu quả. Qua việc thống nhất này, chúng ta kết hợp tri thức với kinh
nghiệm, tạo ra sự hiểu biết toàn diện và hữu ích, đồng thời đảm bảo rằng hành động
của chúng ta phù hợp và phản ứng linh hoạt với thế giới thực.
1.2 Vai trò của nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong phát triển
nền kinh tế số
Kinh tế số11 là được hiểu đó là một nền kinh tế vận hành chủ yếu dựa trên công
nghệ số, đặc biệt là các giao dịch điện tử tiến hành thông qua Internet. Kinh tế số bao
gồm tất cả các lĩnh vực và nền kinh tế (công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ; sản xuất,
phân phối, lưu thông hàng hóa, giao thông vận tải, logistic, tài chính ngân hàng, …)
mà công nghệ số được áp dụng.
Kinh tế số đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển và thay đổi
của nền kinh tế hiện đại.

11
Thời báo tài chính Việt Nam (12/2022), Kinh tế số là gì? Đặc điểm và vai trò của kinh tế số,
https://nhoquan.ninhbinh.gov.vn/chuyen-doi-so/kinh-te-so-la-gi-dac-diem-va-vai-tro-cua-kinh-te-so-241188
12
Thứ nhất, vai trò của kinh tế số là việc áp dụng công nghệ số vào các hoạt động
kinh tế để nâng cao năng suất, tăng cường đổi mới, cải thiện quản lý và tạo ra các giá
trị mới.
Thứ hai, kinh tế số giúp mở rộng quy mô kinh tế bằng cách tạo ra sự tiện lợi
trong giao dịch, kết nối và tương tác giữa các bên liên quan.
Thứ ba, kinh tế số cũng tạo ra cơ hội mới cho các công ty và người dùng thông
qua việc phát triển các sản phẩm, dịch vụ và mô hình kinh doanh dựa trên công nghệ
số.
Việc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong phát triển nền kinh tế số giúp tạo
ra các chính sách và quyết định có tính khả thi và ứng dụng. Đồng thời, nó cũng giúp
đảm bảo rằng các biện pháp kinh tế số được triển khai và thực hiện một cách hiệu quả,
từ đó đem lại kết quả tích cực cho phát triển nền kinh tế và đời sống của người dân.
1.2.1 Quán triệt quan điểm thực tiễn trong phát triển nền kinh tế số
Quan điểm thực tiễn12 yêu cầu nhận thức sự vật phải gắn với nhu cầu thực tiễn;
phải lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn kiểm tra sự đúng sai của kết quả nhận thức; tăng
cường tổng kết thực tiễn để rút ra những kết luận góp phần bổ sung, hoàn thiện, phát
triển nhận thức, lý luận.
Do đó, quan điểm thực tiễn trong phát triển nền kinh tế số nhấn mạnh vào việc
sử dụng công nghệ và dữ liệu số để tạo ra sự tăng trưởng kinh tế và cải thiện tiêu
chuẩn sống. Các yếu tố quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế số từ góc độ thực
tiễn bao gồm:
Thứ nhất, cơ sở hạ tầng, phải đảm bảo rằng mọi người và các doanh nghiệp có
quyền truy cập vào Internet nhanh chóng và đáng tin cậy để tận dụng lợi ích của kinh
tế số.Cơ sở hạ tầng là các yếu tố kinh tế và vật chất cơ bản của xã hội, bao gồm các
công nghệ, sản xuất, vật liệu, công cụ, cơ sở hạ tầng giao thông và các yếu tố kinh tế
khác.
Thứ hai, đào tạo và phát triển kỹ năng về IT là cần thiết để công dân và công ty
có thể hoạt động hiệu quả trong một kinh tế số hóa.
Kinh tế số hóa cũng đặt ra nhiều thách thức và yêu cầu cho công dân và công
ty. Một trong những yêu cầu quan trọng là việc có đủ kỹ năng về IT để có thể sử dụng,
12
Bộ Giáo dục và Đào tạo (2021),Giáo trình Triết học Mác - Lênin , Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật Hà
Nội – 2021, trang 124
13
ứng dụng và phát triển các công nghệ số một cách hiệu quả và an toàn. Kỹ năng về IT
bao gồm các khả năng như: Sử dụng các thiết bị, phần mềm, ứng dụng và dịch v; ,Ứng
dụng các công nghệ số để giải quyết các vấn đề, cải tiến các quy trình, tạo ra các sản
phẩm và dịch vụ mới, khai thác các cơ hội kinh doanh; Phát triển các công nghệ số
theo nhu cầu và mục tiêu của bản thân, tổ chức hoặc xã hội, bằng cách lập trình, thiết
kế, chế tạo, kiểm tra, bảo trì…;Bảo vệ thông tin và dữ liệu của bản thân, tổ chức hoặc
xã hội khỏi các rủi ro và mối đe dọa từ môi trường số, bằng cách áp dụng các biện
pháp an ninh, tuân thủ các nguyên tắc đạo đức…
Thứ ba, kinh tế số không giới hạn trong biên giới quốc gia. Thiết lập và nâng
cao cơ sở hạ tầng số và kỹ thuật số có thể giúp các công ty tiếp cận thị trường toàn cầu.
Sự phát triển kinh tế số giúp cho sự trao đổi thông tin giao dịch giữa những thị trường
của các quốc gia trở nên dễ dàng nhờ vào internet, mạng lưới thông tin toàn cầu giúp
cho những nước đang phát triển như Việt Nam có thể hội nhập, xuất khẩu vào các thị
trường lớn nhằm nâng cao sự phát triển nền kinh tế của quốc gia.
Thứ tư, đi kèm với lợi ích của kinh tế số là mối nguy còn tồn tại với an ninh
mạng và quyền riêng tư. Một hệ thống pháp lý mạnh mẽ và an ninh mạng chuyên
nghiệp là cần thiết để bảo vệ người dùng và doanh nghiệp. Bên cạnh sử linh hoạt của
thông tin trên internet, những nguy cơ về đánh cắp thông tin và sử dụng thông tin cá
nhân khi không được cho phép đã ngày càng gia tăng vì thế chúng ta cần một đội ngũ
chuyên nghiệp về pháp lí và cả kĩ thuật nhằm kiếm soát và có những thông tư hợp lệ
về việc sử dung internet từ chính quốc gia, người dân đang vô thức chia sẽ quyền riêng
tư nên họ cần một lời cảnh tỉnh về những vụ việc. Vì thế việc chuyển đổ số nền kinh tế
cần được đảm bảo an ninh, nền kinh tế là cột sống của quốc gia vì một quốc gia pháp
triển nhà nước phải ban hành hệ thống pháp lý mạnh mẽ và chuyên nghiệp. “Rất có thể
những thông tin cá nhân của nhiều người như tên tuổi, khuôn mặt, ngày sinh… đang bị
sử dụng bởi một tài khoản ảo trò chơi, đánh bạc, cá độ online… Hay là tự dưng các số
lạ gọi tới tấp chào bán sản phẩm, sử dụng dịch vụ gì đó, thậm chí liên quan tới một vụ
việc đang bị điều tra mà mình chẳng liên quan”13.

13
Ban Thời sự (28/10/2022), Thông tin cá nhân của chúng ta đang bị đánh cắp, mua bán như thế
nào?,https://vtv.vn/xa-hoi/thong-tin-ca-nhan-cua-chung-ta-dang-bi-danh-cap-mua-ban-nhu-the-nao-
2022102723264451.htm
14
Thứ năm, việc thúc đẩy quyền truy cập công bằng tới công nghệ số là cần thiết
để tránh sự chênh lệch công nghệ nơi một số người hoặc cộng đồng bị bỏ lại trong
cuộc đua kỹ thuật số. Trong nền kinh tế số kỹ thuật, công nghệ đóng vai trò quan trọng
và sự mất cân bằng này có thể dẫn đến làm mất đi các cơ hội và cho sự thúc đẩy kinh
tế toàn cầu, việc thúc đẩy sự công bằng đến công nghệ số có nghĩa là đảm bảo rằng
mọi người, bất kể địa điểm, đẳng cấp xã hội, giới tính, tuổi tác hoặc khả năng kỹ thuật
đề có thể truy cập và sử dụng công nghệ một cách công bằng. Điều này để đảm bảo
rằng không ai bị bỏ lại trong cuộc đua kỹ thuật số và tất cả mọi doanh nghiệp hay các
cá nhân đề có cơ hội tham gia vào nền kinh tế số, pháp triển các nhân và tiếp cận các
dịch vụ quan trọng.Quan điểm thực tiễn trong phát triển nền kinh tế số yêu cầu sự hiểu
biết sâu sắc về cả ngữ cảnh kinh tế và công nghệ, cũng như nắm bắt cơ hội và thách
thức mà công nghệ số mang lại.
1.2.2. Quán triệt quan điểm lý luận đi đôi với thực tiễn trong phát triển nền kinh
tế số
Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng 14, thực tiễn là tiêu chuẩn để kiểm tra hình
ảnh đúng, hình ảnh sai của cảm giác, ý thức nói chung, là tiêu chuẩn để kiểm tra chân
lý. Tất nhiên, “... thực tiễn mà chúng ta dùng làm tiêu chuẩn trong lý luận về nhận
thức, phải bao gồm cả thực tiễn của những sự quan sát, những sự phát hiện về thiên
văn học...”. Do vậy, “Quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là quan điểm thứ nhất
và cơ bản của lý luận về nhận thức” .
Quan điểm lý luận gắn liền với thực tiễn cho rằng lý luận và thực tiễn không thể
tách rời. Điều này có nghĩa là lý luận chỉ có thể được xem là hợp lý và có giá trị nếu
nó có thể được áp dụng vào thực tiễn và được kiểm chứng.Theo quan điểm này, lý
luận không thể chỉ tồn tại trong không gian trừu tượng mà cần phải có sự gắn kết với
thực tiễn. Lý luận không chỉ là một khái niệm trừu tượng mà là một công cụ để giải
thích và hiểu rõ vấn đề trong thực tiễn.Tương đương với điều đó, thực tiễn cũng cần có
lý luận để giải thích và hiểu rõ hơn về những sự việc xảy ra. Thực tiễn không chỉ đơn
thuần là những sự kiện diễn ra mà nó còn có ý nghĩa và giá trị chỉ khi được hiểu rõ qua
lăng kính lý thuyết.Quan điểm này về sự tương tác và tương đương giữa lý luận và

14
Bộ Giáo dục và Đào tạo (2021),Giáo trình Triết học Mác - Lênin , Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật Hà
Nội – 2021, trang 118
15
thực tiễn sẽ giúp chúng ta có những hiểu biết sâu sắc và đáng tin cậy hơn về thế giới
xung quanh chúng ta.
Từ đó ta có thể thấy để phát triển nền kinh tế số một cách hiệu quả, chúng ta
cần đến sự kết hợp giữa quan điểm lý luận và thực tiễn.
Trên phương diện lý luận, cốt lõi là hiểu và phân tích đúng đắn về cấu trúc,
nguyên lý hoạt động của nền kinh tế số. Đó gồm việc nắm bắt rõ khái niệm công nghệ
dữ liệu, AI, chuỗi giá trị số, ngữ cảnh thị trường, quy định pháp luật và các xu hướng
tổng quát trong lĩnh vực này. Đông thời, quan điểm lý luận còn cung cấp cho chúng ta
các mô hình và phương pháp dự báo, phân tích và hoạch định chiến lược.
Dù lý luận có vai trò quan trọng, nhưng không thể chỉ dựa vào lý thuyết mà bỏ
qua thực tiễn trong phát triển nền kinh tế số. Thực tế, với những kinh nghiệm và trải
nghiệm thực tế, giúp chúng ta áp dụng biện pháp cụ thể, phát hiện ra những vấn đề
thực tế, khắc phục những hạn chế của lý thuyết và điều chỉnh chúng phù hợp với điều
kiện và tình hình thực tế.
Đôi khi, lý thuyết chỉ là những giả định tưởng tượng, trong khi thực tiễn lại
phức tạp hơn rất nhiều. Minh họa, trong lý thuyết, việc triển khai một ứng dụng kinh tế
số có thể dựa trên một mô hình xác định. Nhưng trên thực tế, người ta phải xử lý với
các vấn đề phức tạp như khả năng tiếp nhận công nghệ của người dùng, biến đổi của
thị trường, luật pháp và quy định của chính phủ hay việc cạnh tranh giữa các đối tác.
Tất cả đều đòi hỏi sự linh hoạt, sáng tạo và thích ứng.
Nói tóm lại, để phát triển nền kinh tế số, quan điểm lý luận và thực tiễn đều cần
được kết hợp một cách hài hòa. Quan điểm lý luận cung cấp khung cấu trúc và hướng
dẫn, trong khi thực tiễn tạo sự thích ứng, thẩm định và cải tiến. Những người làm
trong lĩnh vực này cần có sự nhạy bén để thấu hiểu và kết hợp hai yếu tố này, không
chuyển hóa sáng tạo từ những giáo trình lý thuyết thành giải pháp thực tế, hiệu quả.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Trong chương 1 này, ta làm rõ lý luận chung về mối quan hệ biện chứng giữa lý
luận và thực tiễn trong phát triển nền kinh tế số. Trước hết, ta để làm rõ được quan
điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về mối quan hệ biện chứng giữa nhận thức và thực
tiễn thì cần phải bàn luận về phạm trù lý luận nhận thức và thực tiễn.

16
Thứ nhất, về phạm trù lý luận nhận thức. Theo triết học Mác - Lênin, đầu tiên,
nhận thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc con người. Tiếp theo, nhận
thức là một quá trình biện chứng có vận động và phát triển. Trong quá trình nhận thức
của con người luôn luôn nảy sinh quan hệ biện chứng giữa nhận thức kinh nghiệm và
nhận thức lý luận; nhận thức thông thường và nhận thức khoa học. Cuối cùng, nhận
thức là quá trình tác động biện chứng giữa chủ thể và khách thể thông qua hoạt động
thực tiễn của con người.
Thứ hai, về phạm trù thực tiễn thì ta phải hiểu rõ các quan điểm của các nhà
triết học trước Mác và Lênin. Tuy có nhiều nhà triết học như nhà triết học duy tâm,
nhà triết học tôn giáo hay nhà triết học duy vật đưa ra các nhận định khác nhau nhưng
chưa một ai hiểu đúng được bản chất của thực tiễn cũng như vai trò của thực tiễn đối
với nhận thức. Sau này, quan điểm của triết học Mác - Lênin nhận định rằng thực tiễn
là toàn bộ những hoạt động vật chất - cảm tính, có tính lịch sử - xã hội của con người
nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội phục vụ nhân loại tiến bộ. Tuy nhiên, nếu xét theo
một phương diện khác thì ta có thể coi thực tiễn bao gồm mục đích, phương tiện và kết
quả. Mặc dù thực tiễn tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau, ở những lĩnh vực khác
nhau, nhưng luôn bao gồm những hình thức cơ bản đó là hoạt động sản xuất vật chất;
hoạt động chính trị - xã hội và hoạt động thực nghiệm khoa học.
Thứ ba, về mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn của chủ nghĩa Mác
- Lênin. Lý luận chỉ trở thành khoa học khi xuất phát từ thực tiễn, lấy thực tiễn làm cơ
sở, mục đích, động lực để phát triển, làm tiêu chuẩn để kiểm tra tính đúng đắn. Đồng
thời, hoạt động thực tiễn chỉ đạt được mục đích khi được lý luận khoa học soi đường.
Nếu nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn không được tôn trọng thì lý luận
sẽ mất động lực phát triển, bị xơ cứng, giáo điều; đồng thời, thực tiễn cũng dễ rơi vào
mò mẫm, mù quáng, mất phương hướng. Do đó, ý nghĩa của việc thực hiện nguyên tắc
thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong hoạt động nhận thức và thực tiễn của con
người là cực kỳ quan trọng. Việc thực hiện nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn giúp đảm bảo rằng không chỉ kiến thức của chúng ta về thế giới phản ánh đúng
thực tế, mà còn rằng hành động của chúng ta dựa trên một hiểu biết sâu sắc và chính
xác.

17
Cuối cùng là vai trò của nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong
quá trình phát triển nền kinh tế số. Quán triệt được quan điểm thực tiễn và quan điểm
lý luận đi đôi với thực tiễn trong phát triển nền kinh tế số. Quan điểm lý luận cung cấp
khung cấu trúc và hướng dẫn, trong khi thực tiễn tạo sự thích ứng, thẩm định và cải
tiến. Chỉ khi lý luận và thực tiễn được kết hợp hài hòa với nhau thì công cuộc phát
triển nền kinh tế số ở Việt Nam mới có thể có được những thành tựu rực rỡ.

18
Chương 2
VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC THỰC TIỄN LÀ TIÊU CHUẨN CỦA CHÂN LÝ
VÀO VIỆC PHÁT TRIỂN KINH TẾ SỐ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Quan điểm của Đảng, Nhà nước về phát triển kinh tế số tại Việt Nam hiện
nay
Hòa cùng với sự phát triển của các quốc gia trên thế giới, hiện nay Việt Nam
đẩy mạnh công cuộc phát triển kinh tế số, xem đây là một bước “bứt phá” trong bối
cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Thực tiễn cho thấy, cuộc Cách mạng
công nghiệp lần thứ tư đã mở ra rất nhiều cơ hội, song cũng đặt ra không ít những khó
khăn, thách thức đối với mỗi quốc gia, tổ chức và cá nhân; đã và đang tác động ngày
càng mạnh mẽ đến nhiều lĩnh vực như đời sống kinh tế, xã hội. Trong thời gian vừa
qua, Đảng và Nhà nước đã lãnh đạo, chỉ đạo các cấp, các ngành đẩy mạnh việc ứng
dụng, phát triển kinh tế số. Nghị quyết số 52-NQ/TW, ngày 27/9/2019, của Bộ Chính
trị “Về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc cách mạng công nghiệp
lần thứ tư” đã xác định: Phát triển kinh tế số là trụ cột, nhiệm vụ trọng tâm, chiến lược
trong tiến trình chuyển đổi số quốc gia những năm tiếp theo và đề ra mục tiêu vào năm
2025 kinh tế số Việt Nam sẽ chiếm 20% tổng sản phẩm quốc nội và tăng 30% vào năm
203015.
Dưới sự ảnh hưởng mạnh mẽ của cuộc cách mạng công nghiệp trên thế giới,
những thành tựu của Việt Nam sau 35 năm đổi mới cho thấy quan điểm và chủ trương
của Đảng về các vấn đề liên quan đến kinh tế số là phù hợp với xu thế thời đại và tình
hình thực tiễn, đã góp phần thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Tại Đại hội XIII, Đảng ta quyết định: “Phát triển kinh tế số trên nền tảng và khoa học
và công nghệ, đổi mới sáng tạo; gắn kết hài hòa, hiệu quả thị trường trong nước và
quốc tế; nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế”.
Trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của quốc gia giai đoạn 2021–2030, đây là
một trong những định hướng quan trọng. Điều này cho thấy kinh tế số là một nội dung
mới so với các Đại hội trước và khẳng định vai trò của kinh tế số đối với phát triển
kinh tế - xã hội của nước ta là cần thiết đối với xu thế của thời đại. Các khía cạnh sau
đây bao gồm nội dung kinh tế số của Văn kiện Đại hội XIII:
15
Bộ Chính trị (27/09/2019), Nghị quyết số 52-NQ/TW , https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Dau-tu/Nghi-quyet-
52-NQ-TW-2019-chinh-sach-chu-dong-tham-gia-cuoc-Cach-mang-cong-nghiep-lan-thu-tu-425113.aspx.
19
Thứ nhất, kinh tế số góp phần đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại
nền kinh tế, nâng cao năng suất chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Văn kiện Đại hội XIII xác định “Tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế, chuyển
mạnh nền kinh tế sang mô hình tăng trưởng dựa trên năng suất, tiến bộ khoa học và
công nghệ, đổi mới sáng tạo, nhân lực chất lượng cao, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả các
nguồn lực để nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế”. Điểm
mới là cần phải tận dụng tối đa cơ hội của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, dựa
trên sự đổi mới, sáng tạo để tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng theo chiều sâu với
chủ trương “Nâng cao tiềm lực khoa học và công nghệ, chất lượng nguồn lực của đất
nước, tạo cơ sở đẩy mạnh chuyển đổi số nền kinh tế quốc gia và phát triển kinh tế
số”16.
Thứ hai, Đại hội XIII, nhấn mạnh: “Đẩy mạnh phát triển một số ngành, lĩnh vực
kinh tế trọng điểm, có tiềm năng, lợi thế và còn dư địa lớn để làm động lực cho tăng
trưởng theo tinh thần bắt kịp, tiến cùng và vượt lên ở một số lĩnh vực so với khu vực,
thế giới”17. Nội dung này nhấn mạnh rằng, dựa trên thành tựu của cách mạng công
nghiệp lần thứ tư, phát triển kinh tế số ở Việt Nam phải được thực hiện một cách toàn
diện trên tất cả các lĩnh vực, ngành (công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ). Đặc biệt,
liên quan đến sự phát triển của ngành công nghiệp. Đảng ta xác định: “Cơ cấu lại công
nghiệp, nâng cao trình độ công nghệ, đẩy mạnh chuyển đổi sang công nghệ số, tập
trung phát triển những ngành công nghiệp nền tảng, nhất là công nghệ cơ khí, chế tạo,
công nghiệp hỗ trợ... Ưu tiên phát triển công nghệ cao, thân thiện với môi trường”18.
Thứ ba, Đại hội XIII khẳng định: “Xây dựng và thực thi pháp luật, chiến lược,
quy hoạch, kế hoạch nâng cao chất lượng, hiệu quả quản trị quốc gia. Xây dựng khung
khổ pháp luật, môi trường thuận lợi thúc đẩy phát triển, khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo,
chuyển đổi số, phát triển kinh tế số; hỗ trợ, khuyến khích sự ra đời hoạt động của
những lĩnh vực mới, mô hình kinh doanh mới”19.
Thứ tư, Đảng ta cho rằng kinh tế số là một trong những xu hướng tất yếu của sự
phát triển thời đại ngày nay và nhấn mạnh: “Phát triển bền vững trở thành một xu thế

16
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.120, 121
17
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.235
18
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.123
19
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.132
20
bao trùm trên thế giới; kinh tế số, kinh tế tuần hoàn, tăng trưởng xanh đang là một mô
hình phát triển được nhiều quốc gia lựa chọn...”20.
Bản chất cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư chính là cách mạng kỹ thuật
số. Vậy nên, kinh tế số vừa là đặc trưng, vừa là xu thế phát triển tất yếu của các quốc
gia trên thế giới. Về khái niệm, tuy có nhiều cách tiếp cận khác nhau, nhưng đa số đều
thống nhất, kinh tế số là nền kinh tế tiến bộ, trong đó các mối quan hệ, hoạt động kinh
tế, tài chính trong hệ thống mạng lưới sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng hàng
hóa, dịch vụ trên thị trường toàn cầu được thực hiện trên nền tảng khoa học – công
nghệ hiện đại. Theo Chỉ thị số 01/CT-TTg, ngày 14/01/2020, của Thủ tướng Chính
phủ “Về thúc đẩy phát triển doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam” đã khẳng định:
Dựa trên nền tảng của nhiều công nghệ mới mà cốt lõi là công nghệ số (trí tuệ nhân
tạo, dữ liệu lớn, chuỗi khối, điện toán đám mây, internet vạn vật…), hiện nay chuyển
đổi số đang tạo ra một không gian mới – kinh tế số, xã hội số, chính phủ điện tử. Hơn
nữa, chuyển đổi số tạo ra không ít cơ hội to lớn cho Việt Nam phát triển đột phá,
nhanh chóng bắt kịp các nước phát triển đang trong quá trình chuyển đổi số21.
2.2. Thực trạng phát triển nền kinh tế số ở Việt Nam hiện nay
2.2.1. Khái quát tình hình phát triển nền kinh tế số ở Việt Nam hiện nay
Ở Việt Nam, kinh tế số bắt đầu phát triển mạnh mẽ kể từ thời điểm cuối những
năm 1990, khi Internet bắt đầu có mặt tại Việt Nam. Kinh tế số dần được phổ cập khi
mật độ điện thoại thông minh đạt mức trên 50% 22, vào cuối những năm 2000, tiếp đó
được thúc đẩy mạnh mẽ hơn với sự xuất hiện của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0
trong những năm gần đây.
Để tận dụng những lợi thế mà cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 mang lại, ngày
27/9/2019, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 52-NQ/TW về một số chủ trương,
chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 với mục tiêu tổng quát
là “Tận dụng có hiệu quả các cơ hội do cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đem
lại để thúc đẩy quá trình đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với
thực hiện các đột phá chiến lược và hiện đại hoá đất nước; phát triển mạnh mẽ kinh tế
20
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.207
21
Chỉ thị số 01/CT-TTg ngày 14 tháng 1 năm 2020 của Thủ tướng Chính phủ “Về thúc đẩy phát triển doanh
nghiệp công nghệ số Việt Nam”
22
Đoàn Thục Quyên (11/2022), Phát triển kinh tế số tại Việt Nam trong bối cảnh mới,
https://tapchitaichinh.vn/phat-trien-kinh-te-so-tai-viet-nam-trong-boi-canh-moi.html

21
số; phát triển nhanh và bền vững dựa trên khoa học-công nghệ, đổi mới sáng tạo và
nhân lực chất lượng cao; nâng cao chất lượng cuộc sống, phúc lợi của người dân;
bảo đảm vững chắc quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường sinh thái." . Chính phủ
muốn hướng đến mục tiêu duy trì xếp hạng về chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII)
thuộc 3 nước dẫn đầu ASEAN đến năm 2025 và hướng tầm nhìn đến năm 2045 khiến
Việt Nam trở thành một trong những trung tâm sản xuất và dịch vụ thông minh, trung
tâm khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo thuộc nhóm dẫn đầu khu vực Châu Á; có năng suất
lao động cao, có đủ năng lực làm chủ và áp dụng công nghệ hiện đại trong tất cả các
lĩnh vực kinh tế-xã hội, môi trường, quốc phòng, an ninh23.
Việt Nam cũng đang từng bước chuyển mình khi không ngừng phát triển về cả
nền tảng hạ tầng lẫn thị trường kinh doanh. Năm 2007, số người sử dụng Internet ở
Việt Nam là 17,7 triệu người. Đến năm 2017, số người sử dụng Internet ở Việt Nam đã
tăng lên mức 64 triệu người, xấp xỉ 67% dân số. Dựa trên số liệu của Tập đoàn
Miniwatts Marketing, Việt Nam hiện xếp thứ 13 trong top 20 quốc gia có số dân sử
dụng mạng Internet đông nhất thế giới24.
Ngành Thương mại điện tử là một trong những cấu phần trọng yếu nhất của
kinh tế số ở Việt Nam đã tăng trưởng vượt bậc về doanh thu và quy mô thị trường
trong năm 2019. Quy mô ngành Thương mại điện tử Việt Nam hiện ở mức 5,2 tỷ
USD25. Việc các doanh nghiệp mở rộng thị trường kinh doanh đã khiến cho Ngành
thương mại điện tử của Việt Nam trở nên nhộn nhịp hơn, với sự góp mặt của các dịch
vụ mua hàng trực tuyến như Shopee, Lazada,... qua hình thức mua hàng trực tuyến
hoặc qua các kênh trung gian như YouTube, Instagram,... Theo báo cáo Bản đồ thương
mại điện tử Việt Nam quý IV/2019 của Iprice Insight 26, Shopee có lượng người truy
cập lớn nhất với 84.520.000 người, tiếp theo đó là Thế Giới Di Động với 54.033.300
người. Đây là một con số khổng lồ cho thấy sự khả quan của ngành Thương mại điện
tử trong khả năng đóng góp vào sự phát triển của nền kinh tế số.

23
Bộ Chính Trị (27/9/2019), Nghị quyết số 52-NQ/TW , https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Dau-tu/Nghi-quyet-
52-NQ-TW-2019-chinh-sach-chu-dong-tham-gia-cuoc-Cach-mang-cong-nghiep-lan-thu-tu-425113.aspx
24
Đoàn Thục Quyên (11/2022), Phát triển kinh tế số tại Việt Nam trong bối cảnh mới,
https://tapchitaichinh.vn/phat-trien-kinh-te-so-tai-viet-nam-trong-boi-canh-moi.html
25
Đoàn Thục Quyên (11/2022), Phát triển kinh tế số tại Việt Nam trong bối cảnh mới,
https://tapchitaichinh.vn/phat-trien-kinh-te-so-tai-viet-nam-trong-boi-canh-moi.html
26
Iprice Insight, Bản đồ thương mại điện tử Việt Nam, https://iprice.vn/insights/mapofecommerce/
22
Xếp hạng các trang Thương mại điện tử có lượt truy cập mỗi tháng thuộc top đầu
trong quý IV/2019 theo số liệu của Bản đồ thương mại điện tử Việt Nam vừa được
Iprice Insight công bố.
Trong giai đoạn 2020-2022, tuy rằng đất nước chúng ta đã phải hứng chịu nhiều
hậu quả nặng nề đến từ đại dịch COVID-19, khiến cho nhiều hoạt động kinh doanh,
sản xuất bị ảnh hưởng sâu sắc, gây thiệt hại nặng nề cho nền kinh tế. Song, với sự ảnh
hưởng đến từ đại dịch COVID-19, đất nước ta cũng có nhiều sự chuyển biến với sự
phát triển vượt bậc của kinh tế số điển hình như là các dịch vụ mua bán trực tuyến.
Lĩnh vực kinh tế số cũng dần khẳng định mình trong nền kinh tế của Quốc gia khi đã
đóng góp ước tính 3.900.000 tỷ đồng, chiếm 14,26% tổng GDP của cả nước năm
2022, tăng 12,7% so với năm 2021 và gấp 1,5 lần so với dự báo 27. Theo Báo cáo e-
Conomy SEA 202228 được thực hiện bởi Google, Temasek và Bain, kinh tế số tại Việt
Nam đạt 23 tỷ USD (tăng ~28% so với năm 2021 - cao nhất so với các nước trong khu
vực ASEAN) và dự kiến tăng đến ~50 tỷ USD vào năm 2025.

27
Thời báo tài chính Việt Nam (12/2022), Kinh tế số đóng góp khoảng 14,26% vào GDP Việt Nam năm 2022
https://thoibaotaichinhvietnam.vn/kinh-te-so-dong-gop-khoang-1426-vao-gdp-viet-nam-nam-2022-119448.html
28
Google, TEMASEK, & Bain & Company (2022), e- Conomy SEA 2022.
https://services.google.com/fh/files/misc/e_conomy_sea_2022_report.pdf
23
Tổng quan về nền kinh tế số tại Việt Nam theo báo cáo của e-Conomy SEA 2022
Để có thể đánh giá những thành tựu đạt được của nền kinh tế số tại Việt Nam
trước hết ta phải nhìn nhận những mặt tích cực của phát triển kinh tế số ở Việt Nam.
Thứ nhất, Việt Nam đã chứng kiến sự tăng trưởng mạnh mẽ của ngành công
nghệ thông tin và viễn thông, đóng góp đáng kể vào GDP quốc gia. Bên cạnh đó, “việc
áp dụng các công nghệ tiên tiến như trí tuệ nhân tạo, blockchain và Internet of Things
vào công cuộc phát triển nền kinh tế số” 29 đã giúp tăng cường hiệu quả và nâng cao
năng suất trong các ngành công nghiệp và dịch vụ, từ sản xuất, thương mại điện tử đến
du lịch và giáo dục. Điều này mang lại cơ hội phát triển và cạnh tranh cho các doanh
nghiệp Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Thứ hai, với sự quan tâm đến việc phát triển nền kinh tế số của Đảng và Nhà
nước đã giúp kinh tế số Việt Nam phát triển không ngừng về cả nền tảng hạ tầng lẫn
thị trường kinh doanh. Điển hình là “Nghị quyết số 52-NQ/TW”30 đã được Bộ Chính
trị ban hành vào tháng 9/2019 đã nêu trên về một số chủ trương, chính sách chủ động
29
Lâm Việt Tùng (2023), Sự phát triển của kinh tế số thế giới và cơ hội của Việt Nam, https://ictvietnam.vn/su-
phat-trien-cua-kinh-te-so-the-gioi-va-co-hoi-cua-viet-nam-57212.html

30
Bộ Chính trị (09/2019), Nghị quyết số 52-NQ/TW https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Dau-tu/Nghi-quyet-52-
NQ-TW-2019-chinh-sach-chu-dong-tham-gia-cuoc-Cach-mang-cong-nghiep-lan-thu-tu-425113.aspx
24
tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, trong đó, nhấn mạnh yêu cầu cấp bách
phải đẩy nhanh quá trình chuyển đổi số. Tháng 6/2020, trong “Quyết định số 749/QĐ-
TTg”31 của Thủ tướng Chính phủ đã ban hành “Chương trình Chuyển đổi số quốc gia
đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”, với một số mục tiêu cụ thể như là đến năm
2025 kinh tế số chiếm 20% GDP; năm 2030 chiếm 30% GDP. Hơn nữa trong “Chỉ thị
số 01/CT-TTg”32, ngày 14/01/2020, của Thủ tướng Chính phủ “Về thúc đẩy phát triển
doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam”: Dựa trên nền tảng của nhiều công nghệ mới
mà cốt lõi là công nghệ số (trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, chuỗi khối, điện toán đám
mây, internet vạn vật...), chuyển đổi số đang tạo ra không gian phát triển mới - kinh tế
số, xã hội số, chính phủ điện tử. Đặc biệt, chuyển đổi số mở ra cơ hội to lớn cho Việt
Nam phát triển đột phá, nhanh chóng bắt kịp các nước phát triển đang bắt đầu quá
trình chuyển đổi số. Điều này góp phần đưa Việt Nam trở thành quốc gia thuộc nhóm
ít các nước trên thế giới sớm ban hành chiến lược chuyển đổi số quốc gia, chiến lược
về một quốc gia số.
Thứ ba, phát triển kinh tế số cũng đóng góp vào việc xây dựng môi trường kinh
doanh thuận lợi và minh bạch. Các tiến bộ trong việc tổ chức và quản lý thông tin kỹ
thuật số giúp giảm bớt thủ tục hành chính và tạo điều kiện thuận lợi cho việc khởi
nghiệp và đầu tư. Đây là một tín hiệu đáng mừng cho thấy tiềm năng của các doanh
nghiệp công nghệ số tại Việt Nam có thể cạnh tranh trên thị trường quốc tế, góp phần
làm gia tăng giá trị của nền kinh tế số Việt Nam. Trong hội nghị “Doanh nghiệp Công
nghệ số Việt Nam đi ra thế giới” diễn ra vào ngày 23/2/2023, Ông Phan Tâm, Thứ
trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông đã nhận định: “Doanh nghiệp công nghệ số Việt
Nam đang bước vào giai đoạn phát triển mới, mang sản phẩm dịch vụ số Made in
Vietnam đi ra thế giới, giải các bài toán về chuyển đổi số, phát triển kinh tế số của các
nước, trở thành các tập đoàn, doanh nghiệp số toàn cầu. Bộ Thông tin và Truyền
thông cùng các cơ quan, tổ chức liên quan sẽ đồng hành, sát cánh cùng doanh nghiệp
trong tiến trình này”33. Điều này cũng đồng nghĩa với việc phải có các biện pháp tăng
cường quản lý rủi ro và cải thiện khả năng xử lý tranh chấp trong môi trường kinh

31
Thủ tướng Chính phủ (06/2020), Quyết định số 749/QĐ-TTg
32
Thủ tướng Chính phủ (01/2020), Chỉ thị số 01/CT-TTg
33
Phan Anh (03/2023), Đích đến nghìn tỷ USD cho doanh nghiệp công nghệ số Việt, https://vneconomy.vn/dich-
den-nghin-ty-usd-cho-doanh-nghiep-cong-nghe-so-viet.htm

25
doanh.
Tuy nhiên, không thể phủ nhận rằng còn nhiều hạn chế trong quá trình phát
triển kinh tế số ở Việt Nam.
Thứ nhất, chưa đầy đủ nguồn nhân lực chất lượng cao và kiến thức chuyên môn
về công nghệ thông tin và truyền thông. “Theo báo cáo về xu hướng tuyển dụng nhân
sự năm 2022 của TopCV, kết thúc 2021, 43% doanh nghiệp đối mặt tình trạng thiếu
hụt nhân sự. Trong đó, doanh nghiệp IT - Phần mềm thuộc nhóm có tỷ lệ thiếu nhiều
nhất. Nhân sự công nghệ thông tin luôn nằm trong top ba vị trí được săn tìm trong năm
nay. Gần 65% doanh nghiệp có kế hoạch tăng nhu cầu tuyển dụng nhân lực công nghệ
thông tin trong năm 2022. Tuy nhiên, sau 9 tháng và qua nhiều kênh tuyển dụng, đào
tạo, không ít bên chia sẻ mới chỉ đạt được khoảng 2/3 số nhân sự cần thiết” 34. Điều này
cũng phản ánh đúng thực tế, Việt Nam đang thiếu hụt trầm trọng nhân lực có kiến
thức, kỹ năng, làm chủ các công nghệ mới, công nghệ đặc trưng của chuyển đổi số
như: trí tuệ nhân tạo, khoa học dữ liệu, tự động hóa hay blockchain. “Một báo cáo của
TopDev cũng nhận định rằng trong năm 2023, ngành Công nghệ thông tin sẽ cần
khoảng 600.000 nhân sự và con số nhân sự còn thiếu sẽ rơi vào khoảng 175.000.
những con số này dự kiến sẽ tăng lên đến mức 800.000 và 195.000 trong năm 2024” 35.
Điều này gây khó khăn trong việc triển khai và ứng dụng công nghệ mới, đồng thời
giới hạn khả năng tạo ra giá trị gia tăng từ phát triển kinh tế số.
Thứ hai, hạ tầng công nghệ thông tin và truyền thông chưa thực sự phát triển
đồng đều trên toàn quốc. Bộ Chính trị đã nhân định rằng: “Quá trình chuyển đổi số
chậm, thiếu chủ động do hạ tầng phục vụ quá trình chuyển đổi số còn nhiều hạn chế”36.
Thể chế và quy định pháp luật cho chuyển đổi số và các hoạt động kinh tế số của Việt
Nam được đánh giá là chậm hoàn thiện. Hành lang pháp lý cho thí điểm triển khai áp
dụng các mô hình kinh doanh số, dịch vụ số còn thiếu. Việc xây dựng cơ sở dữ liệu và
kết nối dữ liệu còn gặp nhiều khó khăn. Nhiều bộ, ngành xây dựng cơ sở dữ liệu còn
phân tán và thiếu sự kết nối liên thông. Điều này tạo ra khoảng cách kỹ thuật số và gây
bất bình đẳng trong việc tiếp cận thông tin và cơ hội kinh doanh.
34
Tạp chí Thông tin & Truyền thông (12/2022), Nhân lực chuyển đổi số Việt Nam: Có chiến lược bài bản để
đáp ứng nhu cầu, https://ictvietnam.vn/nhan-luc-chuyen-doi-so-viet-nam-co-chien-luoc-bai-ban-de-dap-ung-
nhu-cau-54388.html
35
Công ty Cổ phần TopCV Việt Nam (07/2023), Dự báo ngành CNTT 2023: Cơn “khát” nhân lực vẫn còn hiện
hữu, https://blog.topcv.vn/du-bao-nganh-cntt-moi-nhat/#
36
Bộ Chính trị (09/2019), Nghị quyết số 52-NQ-TW
26
Thứ ba, vẫn còn tồn tại một số vấn đề pháp lý và chính sách cần được cải thiện
để hỗ trợ phát triển kinh tế số. Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đang
diễn ra mạnh mẽ, nhất là khi Việt Nam đã và đang hội nhập ngày càng sâu rộng, các
luật điều chỉnh ngày càng tỏ ra bất cập, thiếu đồng bộ, đòi hỏi Chính phủ cần tiếp tục
hoàn thiện khung pháp luật. “Thể chế, chính sách vẫn còn chưa đồng bộ, chưa chặt chẽ
như các quy định liên quan đến quản lý hoạt động thương mại điện tử, tài chính số,
ngân hàng số, các quy định đảm bảo lợi ích cho doanh nghiệp và người tiêu dùng trong
môi trường số,… Bộ chỉ tiêu, công cụ đo lường kinh tế số đã được ban hành nhưng
chưa hoàn thiện do chưa có phương pháp đo lường thống nhất trên thế giới và Việt
Nam”37. Việc thiếu quy định pháp lý rõ ràng và khả năng thực thi hiệu quả đã gây khó
khăn cho các doanh nghiệp và người dùng trong việc sử dụng công nghệ số một cách
an toàn và bảo mật.
2.2.2. Nguyên nhân của những tích cực và những hạn chế trong phát triển kinh tế
số ở Việt Nam hiện nay
2.2.2.1. Nguyên nhân của những tích cực trong phát triển kinh tế số ở Việt Nam
hiện nay
Để có thể đạt được những ảnh hưởng tích cực đến nền kinh tế số như là sự phát
triển hạ tầng viễn thông hay là việc ban hành các Thông tư, Nghị định của Chính phủ
liên quan đến vấn đề chuyển đổi số và kinh tế số,... , trước hết ta phải nhìn nhận được
những nguyên nhân sâu xa ảnh hưởng đến những mặt tích cực trong việc phát triển
kinh tế số của nước ta.
Thứ nhất phải kể đến sự vào cuộc quyết liệt của cơ quan nhà nước trong việc
triển khai các công tác quản lý, rà soát các ban ngành liên quan đến lĩnh vực kinh tế số,
nhanh chóng thực hiện việc số hóa trong toàn bộ bộ máy Chính phủ Nhà nước và toàn
quốc, thích ứng nhanh chóng với quá trình chuyển đổi số toàn cầu như tiên hành làm
thẻ Căn cước công dân điện tử có gắn chip, tạo điều kiện cho các ứng dụng thanh toán
điện tử,.... Đồng thời, Chính phủ cũng chủ động tham khảo ý kiến các bộ, ngành và
nhân dân để tiến hành sửa đổi các bộ luật, nghị quyết,... tạo điều kiện thuận lợi hơn
cho các cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức hoạt động trong lĩnh vực kinh tế số, tạo các

37
Tạp chí Công Thương (02/2023), Thực trạng và giải pháp thúc đẩy phát triển nền kinh tế số ở Việt Nam hiện
nay, https://tapchicongthuong.vn/bai-viet/thuc-trang-va-giai-phap-thuc-day-phat-trien-nen-kinh-te-so-o-viet-
nam-hien-nay-104016.htm
27
hành lang pháp lý để đảm bảo an toàn cho người dân khi tham gia môi trường mạng
như Luật an ninh mạng số 24/2018/QH14 năm 2018 38 hay Nghị định số 13/2023/NĐ-
CP39 ngày 17/4/2023 của Chính phủ về bảo vệ dữ liệu cá nhân,...
Thứ hai, không thể không nhắc đến khả năng nắm bắt cơ hội chuyển đổi số của
các doanh nghiệp, ứng dụng chuyển đổi số vào trong kinh doanh sản phẩm. Một số
doanh nghiệp vừa và nhỏ đã tận dụng cơ hội để khởi nghiệp kinh doanh qua hình thức
bán hàng online các mặt hàng như quần áo, sản phẩm làm đẹp,... Các doanh nghiệp
cũng tích cực thực hiện đào tạo các nhân viên thích nghi với môi trường làm việc
chuyển đổi số, nâng cao chất lượng tay nghề và thay đổi yêu cầu tuyển dụng để phù
hợp với môi trường chuyển đổi số và định hướng của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp
cũng tích cực chủ động kêu gọi đầu tư, hợp tác với các doanh nghiệp nước ngoài nhằm
mở rộng kinh doanh dưới sự bảo hộ, quản lý của Nhà nước Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam.
2.2.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế trong phát triển kinh tế số ở Việt Nam
hiện nay
Tuy rằng nền kinh tế số của đất nước ta đã đạt được nhiều bước phát triển vượt
bậc kể cả trong đại dịch COVID-19, thế nhưng vẫn còn tồn đọng nhiều tiêu tiêu cực ,
khúc mắc, ảnh hưởng một phần đến mục tiêu phát triển mà Chính phủ đã đặt ra. Để có
thể tháo gỡ những khúc mắc, hạn chế để đưa nền kinh tế nước ta phát triển hơn nữa, ta
cần phải làm rõ nguyên nhân dẫn dẫn đến những tiêu cực, bất cập ấy.
Thứ nhất, việc thiếu hụt nhân lực chuyển đổi số xuất phát từ việc thiếu hụt
nguồn cung cấp nhân lực chuyển đổi số chủ yếu đến từ các trường đại học khi mà để
đạt mục tiêu 2-3% dân số làm việc trong ngành Công nghệ thông tin, sẽ cần khoảng 2-
3 triệu nhân sự. Trong khi đó, mỗi năm các trường đại học và cao đẳng của Việt Nam
chỉ đào tạo được khoảng 60.000-70.000 cử nhân , theo như Bộ trưởng Bộ Thông tin và
Truyền thông Nguyễn Mạnh Hùng đã đề cập trong Phiên họp thứ 18 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội sẽ khai mạc vào ngày 13/12/2022 40. Một điều đáng lo ngại góp

38
Thư viện pháp luật (2018), Luật an ninh mạng số 24/2018/QH14 https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Cong-
nghe-thong-tin/Luat-an-ninh-mang-2018-351416.aspx
39
Ban biên tập(2023), Kể từ ngày 01/7/2023, Nghị định số 13/2023/NĐ-CP ngày 17/4/2023 của Chính phủ về
bảo vệ dữ liệu cá nhân chính thức có hiệu lực thi hành. https://bocongan.gov.vn/van-ban/van-ban-moi/tu-
0172023-bat-dau-ap-dung-quy-dinh-ve-bao-ve-du-lieu-ca-nhan-1062.html
40
Vân Ly (12/2022), Tìm cách giải cơn khát nhân lực cho chuyển đổi số https://thesaigontimes.vn/tim-cach-giai-
con-khat-nhan-luc-cho-chuyen-doi-so/
28
phần gây ra việc thiếu thốn nhân lực khác đó chính là tình trạng chảy máu chất xám
đang diễn ra tại Việt Nam. Sự phát triển mạnh mẽ của các công ty công nghệ, thương
mại điện tử nước ngoài cũng đòi hỏi một nguồn lực lao động dồi dào và họ nhắm đến
lực lượng lao động chuyển đổi số có chất lượng cao ở các nước đang tiến hành chuyển
đổi số như Việt Nam, khiến cho đất nước ta thiếu đi nguồn nhân lực chuyển đổi số
chất lượng cao. Ông Jack Nguyễn - Phó Tổng giám đốc công ty tư vấn nhân sự
Talentnet cho biết: “Khi xu hướng làm việc từ xa ngày càng được ưa chuộng, nhiều
doanh nghiệp lớn tại nước ngoài cũng linh hoạt mở rộng tuyển dụng để tìm kiếm nhân
tài trong lĩnh vực công nghệ cao tại các quốc gia khác. Điều này thu hút không ít
người lao động có năng lực trong lĩnh vực công nghệ tại Việt Nam ứng tuyển bởi các
nhân sự này có thể làm việc tại Việt Nam và được trả lương, hưởng phúc lợi theo
chính sách ở nước ngoài.”41
Thứ hai, quá trình chuyển đổi số của quốc gia theo nhận xét tổng quan vẫn diễn
ra chậm chạp và thiếu sự chủ động. Nguyên nhân chính đến từ hạ tầng phục vụ với
nhiều hạn chế42. Theo chia sẻ của Phó trưởng Ban Kinh tế Trung ương Đỗ Ngọc An về
hiện hiện trạng của lĩnh vực doanh nghiệp, đa số vẫn đang gặp khó khăn và thiếu khả
năng sử dụng công nghệ hiện đại. Ông Phạm Anh Đức, Phó Tổng Giám đốc Viettel
Solutions, cũng đồng quan điểm với ông Đỗ Ngọc An rằng hạ tầng số của Việt Nam
vẫn còn nhiều hạn chế. Nguyên nhân này xuất phát từ việc hạ tầng dùng chung chưa
được tối ưu và các đơn vị vẫn tự xây dựng hạ tầng riêng, không có sự chia sẻ hoặc sử
dụng chung với những bên khác. Hơn nữa, việc xây dựng hạ tầng số ở khối nhà nước
như các bộ, ngành, địa phương còn gặp khó khăn do thiếu tiêu chuẩn cụ thể. Nguồn
nhân lực để phát triển hạ tầng số cũng chưa đảm bảo. Điều này khác biệt so với nhiều
quốc gia khác trên thế giới như Anh, Mỹ và thậm chí là Malaysia, khi họ đã có những
chiến lược rõ ràng để phát triển hạ tầng số. Có thể khẳng định rằng doanh nghiệp Việt
không thua kém so với thế giới về phát triển hạ tầng số, thậm chí còn tiên phong trong
nhiều lĩnh vực như dịch vụ số, 5G... Tuy nhiên, nỗ lực của các doanh nghiệp còn chưa
đủ, cần có sự hướng dẫn chiến lược từ cơ chế và chính sách mới để tạo ra sự tiến bộ
vượt bậc cho hạ tầng kinh tế số Việt Nam.
41
Thu Hà (09/2022), Thiếu nhân sự high-tech, doanh nghiệp làm sao chuyển đổi số https://vneconomy.vn/thieu-
nhan-su-high-tech-doanh-nghiep-lam-sao-chuyen-doi-so.htm
42
Hà Thanh (11/2021), Hạ tầng số đã sẵn sàng cho kinh tế số, xã hội số? https://kinhtedothi.vn/ha-tang-so-da-
san-sang-cho-kinh-te-so-xa-hoi-so.html
29
Thứ ba, sự phát triển nhanh chóng của kinh tế số đã gây ra những thách thức
trong việc quản lý các hoạt động kinh doanh. Các quy định pháp luật hiện tại không
thể đáp ứng đủ nhanh để đồng bộ với sự chuyển đổi này. Với sự phát triển của khoa
học và công nghệ, kinh tế số đã mở ra nhiều phương thức kinh doanh mới cùng với
những ý tưởng sáng tạo. Tuy nhiên, việc quản lý các hoạt động kinh tế số trở nên khó
khăn đối với các cơ quan quản lý nhà nước. Ví dụ, việc quản lý và thu thuế đối với
hoạt động thương mại trực tuyến, đặc biệt là kinh doanh qua mạng xã hội và cung cấp
dịch vụ xuyên biên giới, gặp nhiều khó khăn. Cũng như việc đảm bảo quyền lợi cho
người lao động và người tiêu dùng trong thế giới kinh tế số. Ngoài ra, việc xử lý và
giải quyết các tranh chấp và xung đột liên quan đến hoạt động kinh doanh và lợi ích
của các chủ thể tham gia vào kinh doanh, thương mại và dân sự trong môi trường số
cũng đang gặp nhiều khó khăn. Nếu không có một môi trường pháp lý tốt để giải quyết
các tranh chấp này, các doanh nghiệp số sẽ tìm kiếm điều kiện tốt hơn ở nước ngoài.
Ngoài ra, nếu chính sách quản lý quá chặt chẽ, các doanh nghiệp nước ngoài không
phụ thuộc vào chính sách của Việt Nam và có tài chính mạnh mẽ, có thể tạo ra sự cạnh
tranh không công bằng với các doanh nghiệp trong nước. Để đáp ứng được thách thức
này, cần có sự cải tiến và điều chỉnh các quy định pháp luật hiện có để phù hợp với
môi trường kinh tế số.
2.3. Một số giải pháp đề xuất nhằm phát triển kinh tế số ở Việt Nam hiện nay
Trong giai đoạn hiện nay, kinh tế số là một nội dung được quan tâm trong việc
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Mục tiêu của Việt Nam đặt ra về đóng góp của kinh tế số
vào GDP đạt 20% vào năm 2025 và 30% năm 2030. Quán triệt quan điểm “đẩy mạnh
chuyển đổi số quốc gia; phát triển kinh tế số trên nền tảng khoa học và công nghệ, đổi
mới sáng tạo”43 và để thực hiện có kết quả các chủ trương, nhiệm vụ về chuyển đổi số,
phát triển kinh tế số trong Văn kiện Đại hội XIII44 của Đảng, cần tập trung thực hiện
đồng bộ một số giải pháp cơ bản về thể chế chính sách, hạ tầng số, nguồn nhân lực:
Thứ nhất, khuyến khích phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Xây dựng
các trung tâm đổi mới sáng tạo quốc gia, tập trung vào các công nghệ “lõi”, nhất là
công nghệ số theo hướng lấy doanh nghiệp làm trung tâm, các trường đại học, viện
nghiên cứu là các chủ thể nghiên cứu, chuyển giao công nghệ. Cơ cấu lại toàn diện hệ
43
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr. 239
44
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr. 239
30
thống các cơ sở nghiên cứu khoa học và công nghệ công lập. Tăng mức đầu tư của nhà
nước và nâng cao hiệu quả đầu tư cho hoạt động nghiên cứu khoa học - công nghệ trên
cơ sở áp dụng mô hình quản trị mới. “Đổi mới cơ chế, chính sách quản lý khoa học -
công nghệ, khuyến khích, huy động mạnh mẽ các nguồn lực đầu tư cho nghiên cứu
phát triển, ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ”45.
Thứ hai, phát triển và hoàn thiện kết cấu hạ tầng số. Đẩy mạnh nâng cấp hạ tầng
kỹ thuật, quản lý chặt chẽ và kiểm soát những hình thức thanh toán trực tuyến, nhất là
những giao dịch xuyên quốc gia. Chủ động hoàn thiện hệ thống hạ tầng thanh toán số
song song với việc thống nhất, đồng bộ phương thức thanh toán không dùng tiền mặt
để giao dịch trên toàn quốc. “Chú trọng chuyển đổi giao thức internet sang những thế
hệ mới, mở rộng kết nối internet trong phạm vi khu vực và trên toàn thế giới, nâng cấp
mạng 4G, đẩy nhanh tiến độ phát triển mạng 5G” 46. Khuyến khích mọi thành phần
kinh tế có đủ năng lực tham gia xây dựng hạ tầng kỹ thuật số.
Thứ ba, cần hoàn thiện thể chế, chính sách phát triển kinh tế số. Cần sửa đổi, bổ
sung, hoàn thiện thể chế liên quan đến các hoạt động khởi nghiệp sáng tạo, đầu tư,
kinh doanh trong môi trường kinh tế số. “Tiếp tục rà soát, chỉnh sửa, bổ sung các tiêu
chí phù hợp với thực tế ở Việt Nam và cách đo lường trên thế giới nhằm thống nhất
cách đánh giá kết quả hoạt động của kinh tế số, tạo thuận lợi cho sự so sánh giữa Việt
Nam với các quốc gia trên thế giới”47. Hơn nữa, cần phải hoàn thiện pháp luật, chính
sách về tài chính-tiền tệ, thanh toán điện tử, quản lý thuế và các dịch vụ xuyên biên
giới phù hợp với xu thế phát triển của kinh tế số. “Tạo lập hành lang pháp lý cho việc
triển khai các mô hình lao động, việc làm mới trên nền tảng công nghệ số và hoàn
thiện chính sách an sinh xã hội phù hợp với cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0”.48
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2

45
Trương Thị Hiền (08/2022), Việt Nam đẩy mạnh phát triển kinh tế số,
https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/nghien-cu/-/2018/825738/viet-nam-day-manh-phat-trien-kinh-te-
so.aspx
46
Trương Thị Hiền (08/2022), Việt Nam đẩy mạnh phát triển kinh tế số,
https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/nghien-cu/-/2018/825738/viet-nam-day-manh-phat-trien-kinh-te-
so.aspx
47
Hồ Thị Mai Sương (02/2023), Thực trạng và giải pháp thúc đẩy phát triển nền kinh tế số ở Việt Nam hiện nay,
https://tapchicongthuong.vn/bai-viet/thuc-trang-va-giai-phap-thuc-day-phat-trien-nen-kinh-te-so-o-viet-nam-
hien-nay-104016.htm
48
Đinh Chiến, Những vấn đề cốt lõi của khung pháp lý về kinh tế số, https://namhaluat.com/nhung-van-de-cot-
loi-cua-khung-phap-ly-ve-kinh-te-so/
31
Trong chương 2 này ta đã đi sâu và làm rõ vấn đề “Vận dụng nguyên tắc thực
tiễn là tiêu chuẩn của chân lý vào việc phát triển kinh tế số ở việt nam hiện nay”. Đầu
tiên, chúng ta cần phải nắm rõ các quan điểm của Đảng và Nhà nước về tác động và
vai trò của kinh tế số đối với sự phát triển của đất nước nói chung và nền kinh tế Việt
Nam nói riêng thông qua các Thông tư, Nghị định,... được ban hành, từ đó cho ta thấy
được tầm nhìn chiến lược của Đảng và Nhà nước ta trong công cuộc xây dựng đất
nước Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa.
Tiếp theo, ta cần phải nắm bắt thực trạng phát triển của nền kinh tế số của nước
ta từ lúc nền kinh tế số mới bắt đầu du nhập vào nước ta từ cuối những năm 1990 cho
đến hiện nay, tiến hành thu thập các số liệu cụ thể để có bức tranh toàn cảnh hơn về
tình hình phát triển nền kinh tế số ở nước ta. Để có thể hiểu được tình hình và đưa ra
phương hướng phát triển của nền kinh tế số tại Việt Nam, chúng ta cần phải chỉ ra
những mặt tích cực cũng như những tiêu cực trong việc phát triển nền kinh tế số và
phân tích, chỉ ra những nguyên nhân cho những tác động tích cực và tiêu cực ấy.
Cuối cùng, dựa trên những nguyên nhân được phân tích về những nguyên nhân
của những tác động tích cực và tiêu cực lên sự phát triển của nền kinh tế số tại Việt
Nam, ta có thể đưa ra những giải pháp để thúc đẩy nền kinh tế số. Thế nhưng những
giải pháp không dựa trên tình hình phát triển thực tế của đất nước sẽ không thể khả thi.
Chúng ta phải vận dụng nguyên tắc “Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý” , dựa trên
tình hình hiện tại và khả năng phát triển của đất nước để đề xuất những giải pháp mang
tính thực tiễn, khả thi và phù hợp với hiện trạng phát triển của nền kinh tế số của nước
ta, tránh rơi vào trường hợp những giải pháp chỉ mang tính lý thuyết, không thể áp
dụng vào thực tế.

32
KẾT LUẬN
"Vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa nhận thức và thực tại vào việc phát
triển kinh tế số ở Việt Nam hiện nay" có sự liên hệ chặt chẽ với hiện thực phát triển
kinh tế số ở Việt Nam, đồng thời đòi hỏi một hiểu biết rõ ràng về mối liên hệ biện
chứng giữa nhận thức và thực tại.
Mới đây, kinh tế số đã trở thành một trụ cột quan trọng trong nền kinh tế toàn
cầu và càng ngày càng chiếm ưu thế trong nền kinh tế Việt Nam. Nền kinh tế số là một
hướng đi mới cho sự phát triển của thế giới và Việt Nam, không chỉ mở rộng cơ hội
kinh doanh mà còn đã tạo ra một hình thức vận hành cơ cấu kinh tế hoàn toàn mới.
Tuy nhiên, việc vận dụng nhận thức vào thực tiễn không phải lúc nào cũng đơn
giản. Nhận thức luôn phải cố gắng để bắt kịp với thực tiễn, trong khi thực tiễn luôn
đang thay đổi và phát triển, tạo ra những thách thức cho sự nhận thức. Việc này yêu
cầu chúng ta phải linh hoạt trong việc áp dụng những nhận thức của mình vào thực tại,
đồng thời phải không ngừng học hỏi và cập nhật những thông tin mới.
Khi nói đến phát triển kinh tế số ở Việt Nam, chúng ta cùng tồn tại trong một
môi trường số đang biến đổi nhanh chóng. Để theo kịp và đi trước trong tình hình này,
chúng ta cần phải có một nhận thức chính xác, sâu sắc và toàn diện về thực tại kinh tế
số. Việc này đòi hỏi sự hiểu biết về công nghệ, kinh tế, xã hội, cũng như văn hóa,
chính sách và môi trường kinh doanh. Nội dung cụ thể của những nhận thức này có thể
rất đa dạng, nhưng mục đích cuối cùng là hướng tới sự phát triển bền vững, cân đối và
hiệu quả của nền kinh tế số.
Như vậy, việc vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa nhận thức và thực tại vào
việc phát triển kinh tế số ở Việt Nam hiện nay đòi hỏi sự kỹ lưỡng, linh hoạt và sự
không ngừng học hỏi. Thật may mắn, với sự tiến bộ không ngừng của công nghệ thông
tin và viễn thông, chúng ta có thể hy vọng rằng những thách thức này sẽ được khắc
phục, mở rộng không gian cho sự phát triển của kinh tế số.

33
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban biên tập (2023), Kể từ ngày 01/7/2023, Nghị định số 13/2023/NĐ-CP ngày
17/4/2023 của Chính phủ về bảo vệ dữ liệu cá nhân chính thức có hiệu lực thi
hành. https://bocongan.gov.vn/van-ban/van-ban-moi/tu-0172023-bat-dau-ap-dung-
quy-dinh-ve-bao-ve-du-lieu-ca-nhan-1062.html
2. Ban Thời sự (28/10/2022), Thông tin cá nhân của chúng ta đang bị đánh cắp, mua
bán như thế nào?, https://vtv.vn/xa-hoi/thong-tin-ca-nhan-cua-chung-ta-dang-bi-
danh-cap-mua-ban-nhu-the-nao-2022102723264451.htm
3. Bộ Chính trị (27/09/2019), Nghị quyết số 52-NQ/TW ,
https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Dau-tu/Nghi-quyet-52-NQ-TW-2019-chinh-
sach-chu-dong-tham-gia-cuoc-Cach-mang-cong-nghiep-lan-thu-tu-425113.aspx
4. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2021), Giáo trình Triết học Mác - Lênin, Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia Sự thật Hà Nội – 2021
5. Chỉ thị số 01/CT-TTg ngày 14 tháng 1 năm 2020 của Thủ tướng Chính phủ “Về
thúc đẩy phát triển doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam”.
6. Công ty Cổ phần TopCV Việt Nam (07/2023), Dự báo ngành CNTT 2023: Cơn
“khát” nhân lực vẫn còn hiện hữu, https://blog.topcv.vn/du-bao-nganh-cntt-moi-
nhat/#
7. Đinh Chiến, Những vấn đề cốt lõi của khung pháp lý về kinh tế số,
https://namhaluat.com/nhung-van-de-cot-loi-cua-khung-phap-ly-ve-kinh-te-so/
8. Đoàn Thục Quyên (11/2022), Phát triển kinh tế số tại Việt Nam trong bối cảnh
mới, https://tapchitaichinh.vn/phat-trien-kinh-te-so-tai-viet-nam-trong-boi-canh-
moi.html
9. Đoàn Văn Tự & Vũ Hoàng Sơn (05/2023), Vận dụng giữa lý luận và thực tiễn ở
các nhà trường Quân đội, https://dangcongsan.vn/quoc-phong-an-ninh/van-dung-
giua-ly-luan-va-thuc-tien-o-cac-nha-truong-quan-doi-637045.html#:~:text=Gi
%E1%BB%AFa%20l%C3%BD%20lu%E1%BA%ADn%20v%C3%A0%20th
%E1%BB%B1c%20ti%E1%BB%85n%20c%C3%B3%20m%E1%BB%91i
%20quan%20h%E1%BB%87,lu%E1%BA%ADn%20khoa%20h%E1%BB%8Dc
%20soi%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng.

34
10. Google, TEMASEK & Bain & Company (2022), e- Conomy SEA 2022.
https://services.google.com/fh/files/misc/e_conomy_sea_2022_report.pdf
11. Hà Thanh (11/2021), Hạ tầng số đã sẵn sàng cho kinh tế số, xã hội số?
https://kinhtedothi.vn/ha-tang-so-da-san-sang-cho-kinh-te-so-xa-hoi-so.html
12. Hồ Thị Mai Sương (02/2023), Thực trạng và giải pháp thúc đẩy phát triển nền
kinh tế số ở Việt Nam hiện nay, https://tapchicongthuong.vn/bai-viet/thuc-trang-va-
giai-phap-thuc-day-phat-trien-nen-kinh-te-so-o-viet-nam-hien-nay-104016.htm
13. Iprice Insight, Bản đồ thương mại điện tử Việt Nam,
https://iprice.vn/insights/mapofecommerce/
14. Lâm Việt Tùng (2023), Sự phát triển của kinh tế số thế giới và cơ hội của Việt
Nam, https://ictvietnam.vn/su-phat-trien-cua-kinh-te-so-the-gioi-va-co-hoi-cua-
viet-nam-57212.html
15. Phan Anh (03/2023), Đích đến nghìn tỷ USD cho doanh nghiệp công nghệ số Việt,
https://vneconomy.vn/dich-den-nghin-ty-usd-cho-doanh-nghiep-cong-nghe-so-
viet.htm
16. Tạp chí Công Thương (02/2023), Thực trạng và giải pháp thúc đẩy phát triển nền
kinh tế số ở Việt Nam hiện nay, https://tapchicongthuong.vn/bai-viet/thuc-trang-va-
giai-phap-thuc-day-phat-trien-nen-kinh-te-so-o-viet-nam-hien-nay-104016.htm
17. Tạp chí Thông tin & Truyền thông (12/2022), Nhân lực chuyển đổi số Việt Nam:
Có chiến lược bài bản để đáp ứng nhu cầu, https://ictvietnam.vn/nhan-luc-chuyen-
doi-so-viet-nam-co-chien-luoc-bai-ban-de-dap-ung-nhu-cau-54388.html
18. Thời báo tài chính Việt Nam (12/2022), Kinh tế số đóng góp khoảng 14,26% vào
GDP Việt Nam năm 2022 https://thoibaotaichinhvietnam.vn/kinh-te-so-dong-gop-
khoang-1426-vao-gdp-viet-nam-nam-2022-119448.html
19. Thu Hà (09/2022), Thiếu nhân sự high-tech, doanh nghiệp làm sao chuyển đổi số
https://vneconomy.vn/thieu-nhan-su-high-tech-doanh-nghiep-lam-sao-chuyen-doi-
so.htm
20. Thủ tướng Chính phủ (06/2020), Quyết định số 749/QĐ-TTg
21. Thư viện pháp luật (2018), Luật an ninh mạng số 24/2018/QH14
https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Cong-nghe-thong-tin/Luat-an-ninh-mang-2018-
351416.aspx

35
22. Trang thông tin điện tử huyện Nho Quan (11/2021), Kinh tế số là gì? Đặc điểm và
vai trò của kinh tế số, https://nhoquan.ninhbinh.gov.vn/chuyen-doi-so/kinh-te-so-
la-gi-dac-diem-va-vai-tro-cua-kinh-te-so-241188
23. Trương Thị Hiền (08/2022), Việt Nam đẩy mạnh phát triển kinh tế số,
https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/nghien-cu/-/2018/825738/viet-nam-
day-manh-phat-trien-kinh-te-so.asp
24. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật,
Hà Nội.
25. Vân Ly (12/2022), Tìm cách giải cơn khát nhân lực cho chuyển đổi số
https://thesaigontimes.vn/tim-cach-giai-con-khat-nhan-luc-cho-chuyen-doi-so/

36

You might also like