Bài tập tự học 1

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 24

HƯỚNG DẪN TỰ HỌC

Họ và tên: Nguyễn Hoàng Linh

Lớp tín chỉ: CT01001K43.8

MSV: 2356110027

Lớp hành chính: QHCT&TTQT_K43

BÀI LÀM
Câu 1. Chính trị là gì? Trình bày đối tượng, chức năng, nhiệm vụ nghiên cứu
của Chính trị học? Phân tích luận điểm “Chính trị vừa là khoa học, vừa là
nghệ thuật”

Chính trị là hoạt động của các giai cấp, dân tộc, quốc gia với việc giành giữ, tổ
chức và sử dụng quyền lực nhà nước, là sự tham gia của nhân dân vào công việc
nhà nước và xã hội, là hoạt động thực tiễn của các giai cấp, đảng phái, nhà nước
nhằm tìm kiếm những hoạt động thực tiễn đường lối và những mục tiêu đề ra nhằm
thỏa mãn lợi ích.

Chính trị học là khoa học nghiên cứu lĩnh vực chính trị nhằm làm sáng tỏ những
quy luật, tính quy luật chung nhất của đời sống chính trị - xã hội, cùng những thủ
thuật chính trị để hiện thực hóa những quy luật, tính quy luật đó trong xã hội có
giai cấp và được tổ chức thành nhà nước.

Đối tượng nghiên cứu của chính trị học là những quy luật, tính quy luật chung nhất
của đời sống chính trị xã hội, những cơ chế tác động, cơ chế vận dụng: những
phương thức, thủ thuật, công nghệ chính trị để hiện thực hóa những quy luật, tính
quy luật đó. Đặc biệt là quy luật về giành, giữ và thực thi quyền lực chính trị,
quyền lực nhà nước trong đời sống xã hội.

Chính trị học nghiên cứu: mục tiêu chính trị trước mắt và những mục tiêu triển
vọng mang tính hiện thực, cũng như con đường giải quyết những nghĩa vụ để đạt
được mục tiêu đó. Những phương pháp, phương tiện, thủ thuật và hình thức tổ
chức để đạt được mục tiêu đề ra. Việc lựa chọn và sắp xếp cán bộ thích hợp để giải
quyết những nghĩa vụ đó.

Một hệ thống những quan hệ xã hội đặc biệt liên quan đến vấn đề nhà nước: chính
trị học nghiên cứu: một quan hệ giữa các giai cấp (thực chất là quan hệ về lợi ích
chính trị mà các giai cấp theo đuổi), hệ thống Đảng chính trị, mối quan hệ qua lại
giữa chúng dẫn đến hình thành: lý luận chung chính trị, kinh nghiệm hoạt động và
biết vận dụng những kinh nghiệm đó vào việc xác định. Nghiên cứu về nhà nước
và tính chất nhà nước, cơ cấu và cơ chế sử dụng quyền lực nhà nước. Nghiên cứu
về nhà nước quan hệ dân tộc và các tầng lớp xã hội khác nhau, việc lựa chọn và sử
dụng con người thích hợp để giải quyết những nghĩa vụ chính trị cụ thể.

Chức năng tổng quát: phát hiện, dự báo những quy luật, tính quy luật cơ bản nhất
của đời sống chính trị trong phạm vi mỗi quốc gia và quốc tế, hình thành hệ thống
tri thức có tính lý luận, có căn cứ khoa học và thực tiễn: lý luận về tổ chức chính trị
và cơ chế vận dụng những quy luật, tính quy luật của đời sống chính trị, lý luận về
công nghệ chính trị, nghệ thuật tổ chức và thực thi quyền lực chính trị, phục vụ sự
nghiệp xây dựng chế độ chính trị tiến bộ. Trang bị cho các nhà lãnh đạo chính trị
những tri thức, kinh nghiệm cần thiết giúp cho hoạt động của họ phù hợp với quy
luật khách quan, tránh được những sai lầm: giáo điều, chủ quan, duy ý chí,….
Trang bị cho mỗi công dân những cơ sở khoa học để họ có thể nhận thức về các sự
kiện chính trị, trên cơ sở đó xây dựng thái độ, động cơ đúng đắn phù hợp với khả
năng trong sự phát triển chung mà mỗi công dân tham gia như một chủ thể. Góp
phần hình thành cơ sở khoa học cho các chương trình chính trị, cho việc hoạch
định chiến lược với những mục tiêu đối nội, đối ngoại, cùng các phương pháp,
phương tiện, những thủ thuật chính trị nhằm đạt mục tiêu chính trị. Phân tích các
thể chế chính trị và mối quan hệ, tác động qua lại giữa chúng, xây dựng học thuyết,
lý luận chính trị, làm rõ sự phát triển của nền dân chủ.

Chính trị là khoa học vì chính trị là một hiện tượng khách quan trong đời sống xã
hội loài người, xuất hiện cùng với giai cấp và nhà nước, gắn liền với quyền lực, với
đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc. Chính trị là lĩnh vực tương đối độc lập
trong đời sống xã hội, có logic phát triển nội tại, có quy luật phát triển khách quan.
Chính trị là một hệ thống tri thức, từ những tri thức kinh nghiệm đến tri thức lý
luận hoàn chỉnh, phản ánh quy luật vận động khách quan của chính trị.Do hạn chế
lịch sử và bị chi phối bởi lợi ích giai cấp nên chính trị trở thành đặc quyền của giai
cấp thống trị. Nó chỉ trở thành khoa học đích thực khi chủ nghĩa Mác – Lênin ra
đời. Ngày nay chính trị thực sự trở thành một khoa học với đối tượng, phương
pháp nghiên cứu riêng.

Chính trị là nghệ thuật vì chính trị là hoạt động của con người liên quan đến đấu
tranh giành quyền lực, quyết liệt một mất một còn, nên các chủ thể chính trị (trước
hết là giai cấp) sử dụng mọi biện pháp, thủ đoạn để đạt mục tiêu chính trị. Hoạt
động chính trị luôn sáng tạo, linh hoạt, khôn khéo, mềm dẻo, phù hợp với thực tiễn
để đạt hiệu quả cao nhất. Chính trị là phạm vi hoạt động hấp dẫn, nhưng phức tạp.
Nó đòi hỏi kỹ năng, kỹ xảo cao, tầm trí tuệ tương ứng của các nhà chính trị. Chính
trị là nghệ thuật của sự mềm dẻo, đó là nghệ thuật vận dụng tri thức lý luận và kinh
nghiệm thực tiễn, để xử lý các tình huống chính trị phức tạp, vận dụng đúng đắn
phép biện chứng giữa khách quan và chủ quan trong hoạt động đấu tranh chính trị.
Chính trị là nghệ thuật tổ chức lực lượng, sử dụng con người, nghệ thuật vận động
quần chúng, nghệ thuật tiến hành chiến tranh cách mạng.

Mối quan hệ biến chứng: bản thân khoa học đã biện chứng, bổ sung cho nghệ thuật
và ngược lại. Bản thân chính trị là một khoa học cũng đã phản ánh nghệ thuật của
nó, bởi khoa học và nghệ thuật luôn gắn bó. Là lĩnh vực nhạy cảm, liên quan đến
vận mệnh của con người do đó người lãnh đạo phải khoa học, nhân văn. Trong
hoạt động chính trị thực tiễn, tính khoa học và tính nghệ thuật kết hợp, bổ sung cho
nhau và gắn bó chặt chẽ với nhau

Câu 2. Phân tích nội dung tư tưởng chính trị của Pháp gia? Ảnh hưởng của tư
tưởng đó đến đời sống chính trị Việt Nam hiện nay?

Về điều kiện kinh tế - xã hội của Trung Quốc trong thời kỳ Xuân Thu – Chiến
Quốc, vào thời nhà Hạ (TK21 – 16 TCN): con người biết đến đồng đỏ, chưa có chữ
viết. Đến thời vua Kiệt, nhà hạ bị diệt vong. Xã hội Trung Quốc chuyển từ chiếm
hữu nô lệ sang phong kiến. Vào thời nhà Thương (TK16 – 12 TCN): con người
biết sử dụng đồng thau, chữ viết ra đời, ra đời lịch nông nghiệp, biết quan sát chu
kỳ mặt trăng, tính chu kỳ nước sông dâng, quý tộc – thống trị, vua – thiên tử quản
lý quốc gia theo mệnh trời. Đồ sắt xuất hiện, năng suất lao động tăng cao, mâu
thuẫn xã hội gay gắt. Về thời nhà Chu (TK11 – 3 TCN): Xuất hiện các tầng lớp
mới: địa chủ và thương nhân bên cạnh các quý tộc, nông dân, thợ thủ công, nô lệ.
Đạo đức, trật tự xã hội suy thoái, loạn lạc. Chiến tranh kéo dài liên miên. Nhà Chu
thống trị thiên hạ chỉ về hình thức, các nước chư hầu không phục tùng nhà Chu nữa
mà mang quân thôn tính lẫn nhau, xã hội đại loạn. Trong bối cảnh trên, nhiều nhà
triết học đã xuất hiện, nhiều học thuyết chính trị đã ra đời để đáp ứng sự đòi hỏi
của lịch sử.

Người hoàn thiện và phát triển học thuyết chính trị của phái Pháp gia là Hàn Phi
Tử. Theo ông, con người làm theo lợi ích cá nhân bao giờ cũng mưu mô, tính toán
để kiếm lợi cho mình, cho nên không thể cai trị bằng nhân, lễ, nghĩa được. Ông
kiên quyết phủ nhận lý luận chính trị thần quyền. Đối với ông : “người cai trị mà
mê tín quỷ thần thì tất nhiên mất nước. Từ đó, ông tập trung vào ba nguyên lý
trong chính trị đó là “ Pháp – Thuật – Thế”:
Pháp là những quy định, những luật lệ, là nội dung của chính sách cai trị do cửa
quan ban ra, mọi người đều phải tuân theo. Ông khẳng định tầm quan trọng của
pháp luật và cho rằng pháp luật phải công khai, ai cũng phải biết và không ai tự ý
thay đổi. Việc làm cho pháp luật không bị hỏng nát là tiền đề và mục đích tối cao
của chính trị. “Pháp” ví như tấm gương sáng có thể soi thấu tà gian, “Pháp” ví như
cán cân tiêu biểu cho lẽ công bằng.

Thuật là thủ đoạn, phương pháp, cách thức, mưu lược của “người làm vua”. Thuật
là cái nằm kín đáo trong bụng, để so sánh các đầu mối của sự việc và ngấm ngầm
cai trị các bề tôi…. Dùng thuật để làm cho kẻ thân yêu gần gũi cũng không ai biết
được. dùng thuật để thấy rõ tính trung hay gian của bề tôi do đó mà điều khiển
được bề tôi.

Thế là vị thế, quyền uy, thế lực của người cai trị. Nó là cái đặc biệt cần thiết đối
với người cầm quyền. ông cho rằng chỉ có “Pháp” và “Thuật” mà thiếu quyền lực
để cưỡng bức người thì dẫu người có làm vua có thuật điều khiển các bầy tôi cũng
không thể đảm bảo cho các bầy tôi phục tùng sự cai trị của vua. Do vậy, theo ông,
“Thế” là một thứ quyền lực đặt ra cho phù hợp với yêu cầu của pháp luật chứ
không phải thứ quyền lực nảy sinh một cách tự nhiên trong chủ nghĩa nhân trị.

Mối quan hệ giữa “Pháp – Thuật – Thế”: nếu Thế nằm trong tay người kém cỏi
cũng có thể gây hại và làm rối loạn đất nước. Pháp và Thế không tách rời nhau,
biết giữ gìn Pháp và Thế thì đất nước yên bình, nếu trái Pháp bỏ Thế thì đất nước
sẽ nổi loạn. Pháp là trung tâm, Thuật và Thế là điều kiện tất yếu để thực hành
Pháp. Ông cho rằng thưởng phạt là công cụ để chấp hành luật. do vậy, ông chủ
trường phạt nặng và thưởng hậu để chấp hành pháp luật.

Đối với Việt Nam, tư tưởng Pháp gia chiếm một ý nghĩa quan trọng trong đời sống
chính trị. Từ thời phong kiến, các vua chúa Việt Nam bị ảnh hưởng bởi tư tưởng
cai trị phương Bắc, trong đó, biết đề ra các quy tắc, chuẩn mực xã hội, buộc mọi
người tuân theo nhằm ổn định xã hội (Luật Hình thư, Luật Hồng Đức, Luật Gia
Long,…). Nhờ pháp luật vì lẽ phải và phục vụ lợi ích chung mà trong những năm
qua công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa của nhân dân ta đã đạt được một số
thành tựu đáng kể. Đó là thành tựu trong các lĩnh vực y tế, giáo dục, an ninh quốc
phòng,…. Trong lĩnh vực chính trị, dân chủ hóa xã hội được mở rộng. Sự công
bằng của pháp luật đã đảm bảo cho việc thực hiện nó một cách nghiêm túc. Yếu tố
này không những duy trì sự ổn định chế độ mà còn kích thích việc tìm ra nhân tài
cho đất nước.
Song bên cạnh đó, pháp luật có thể bị giai cấp cầm quyền lợi dụng vì tư lợi thay vì
quyền lợi chung của cả đất nước. việc thực hiện các mệnh lệnh một cách cứng
nhắc, máy móc có thể dẫn đến hiệu quả nghiêm trọng.

Câu 3. Trình bày nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về chính tri? Chứng minh
những sáng tạo của Hồ Chí Minh trong việc vận dụng học thuyết chính trị
Mác-Lênin và điều kiện Việt Nam.

Chính trị là hoạt động trong quan hệ giữa các giai cấp, các dân tộc và các quốc gia
trong vấn đề giành, giữ, tổ chức và sử dụng quyền lực nhà nước, là sự tham gia của
nhân dân vào quyền lực nhà nước và hoạt động thực tiễn của các giai cấp, đảng
phái, nhà nước nhằm tìm kiếm khả năng thực thi những đường lối, mục tiêu đã đề
ra nhằm thỏa mãn lợi ích. Là một bộ phận cấu thành tư tưởng Hồ Chí Minh, tư
tưởng chính trị Hồ Chí Minh có một vị trí đặc biệt quan trọng. Lĩnh vực chính trị
Việt Nam gắn liền với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc được Hồ Chí Minh để
tâm nhiều hơn cả.

Thực dân Pháp tăng cường khai thác thuộc địa bằng những chính sách khai thác vô
cùng độc ác, bóc lột xã hội nặng nề. Đời sống nhân dân cực khổ. Các phong trào
yêu nước ở Việt Nam đã phát triển và thoái trào. Hàng loạt cuộc khởi nghĩa thất
bại và bị dìm trong biển máu.

Tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa mác-lênin
với phong trào công nhân và phong trào yêu nước là lý luận vì cách mạng Việt
Nam từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa
bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa

Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội: tư tưởng bao trùm là tư tưởng
“Không có gì quý hơn độc lập tự do”, đây là hạt nhân cốt lõi trong tư tưởng chính
trị Hồ Chí Minh xuyên suốt toàn bộ hệ thống đấu tranh cách mạng dân tộc. Độc lập
dân tộc bao gồm những nội dung: dân tộc đó phải thoát khỏi nô lệ dưới mọi hình
thức bằng con đường cách mạng do chính dân tộc đó tiến hành, độc lập dân tộc
phải làm một nền dân tộc thật sự chứ không phải giả hiệu, phải thực hiện các giá trị
như tự do, dân chủ, công bằng, bình đẳng. độc lập dân tộc về chính trị gắn liền với
sự phồn vinh về các mặt kinh tế, xã hội, văn hóa. Phải tự giành lấy con đường cách
mạng tự lực tự cường và tự động. Hồ Chí Minh đã rút ra kết luận độc lập dân tộc
thực sự gắn liền với chủ nghĩa xã hội, trong đó, độc lập là tiền đề, là điều kiện để đi
lên chủ nghĩa xã hội, còn chủ nghĩa xã hội là bảo đảm chắc chắn vật chất nhất cho
độc lập dân tộc.
Về tư tưởng đại đoàn kết làm nền tảng, Hồ Chí Minh quan niệm sức mạnh là ở
đoàn kết toàn dân, ở sự đồng lòng của toàn xã hội. đoàn kết trên lập trường của giai
cấp công nhân, lấy liên minh công – nông – trí làm nền tảng, được thực hiện trên
mọi phương diện: đoàn kết giai cấp, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế, đoàn kết là
để phát triển để làm tốt nhiệm vụ cách mạng.

Về tư tưởng Nhà nước của dân, do dân, vì dân, Người chỉ rõ vai trò động lực của
dân chủ, xem dân chủ là chìa khóa của tiến bộ xã hội. Người chủ trương thực hiện
dân chủ rộng rãi trong nhân dân, giáo dục nhân dân lý tưởng chấp hành pháp luật,
quyền gắn với nghĩa vụ công dân, dân chủ gắn với pháp luật gắn với tập trung. Từ
quan niệm như vậy chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng chế độ dân chủ phù hợp với
nhà nước ta, đó là một nhà nước của dân, do dân, vì dân.

Lý luận về Đảng cầm quyền: Quan điểm của Hồ Chí Minh về sự hình thành một
Đảng cộng sản ở Việt Nam vừa quán triệt đầy đủ học thuyết Mác – Lênin về Đảng
cộng sản, vừa phù hợp với hoàn cảnh một đất nước thuộc địa lạc hậu chậm phát
triển, nơi có số lượng giai cấp công nhân còn ít nhưng đã có mối quan hệ chặt chẽ
với phong trào yêu ngay từ đầu và truyền thống yêu nước lâu đời của nhân dân.
Đảng cộng sản Việt Nam là kết quả của sự kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin với
phong trào công nhân, phong trào yêu nước.

Về phương pháp cách mạng, phương pháp cách mạng là cách thức tiến hàng cách
mạng với tính cách là hệ thống các nguyên tắc được thực hiện bằng hình thức, biện
pháp, bước đi thích hợp để thực hiện thắng lợi đường lối cách mạng biến đường lối
cách mạng thành hiện thực. Các phương pháp: lấy cải tạo biến đổi hiện thực Việt
Nam làm mục tiêu cho mọi hoạt động cách mạng, thực hiện đại đoàn kết dân tộc,
tập hợp sức mạnh của toàn dân, kết hợp với sức mạnh thời đại. Dĩ bất biến, ứng
vạn biến, nằm rõ thời cơ giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa thời lực và thế lực.

Những sáng tạo của Hồ Chí Minh trong việc vận dụng học thuyết chính trị Mác –
Lênin vào điều kiện Việt Nam: Vào năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đọc Sơ thảo lần
thứ nhất luận cương về những vấn đề thuộc địa và dân tộc của Lênin. Vào năm
1921 – 1929: thông qua hai con đường chủ yếu là Pháp và Trung Quốc, Người đã
truyền bá tư tưởng Mác – Lênin vào Việt Nam. Bằng phương pháp tiếp cận khoa
học, sáng tạo, bám sát thực tiễn của đất nước, chủ tịch Hồ Chí Minh một mặt luôn
trung thành với nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, và Người đã vận
dụng sáng tạo các nguyên lý đó vào điều kiện cụ thể của Việt Nam:

Về mối quan hệ giữa cách mạng vô sản ở các nước tư bản và cách mạng giải phóng
dân tộc ở các nước thuộc địa. C. Mác cho rằng, cách mạng vô sản sẽ nổ ra và giành
thắng lợi ở những nước tư bản phát triển, còn V.I. Lênin nhận định, cách mạng vô
sản có thể nổ ra và thắng lợi ở một số nước, thâm chí là một nước riêng lẻ của chủ
nghĩa đế quốc và cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản ở chính quốc cần phải liên
minh với cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức ở các nước thuộc địa. Chủ tích
Hồ Chí Minh đã phát triển thêm một bước nhận thức lý luận khi cho rằng, cách
mạng giải phóng dân tộc ở nước thuộc địa có quan hệ chặt chẽ với cách mạng
chính quốc, nhưng không hoàn toàn phụ thuộc vào cách mạng chính quốc. nhân
dân các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc có thể giành thắng lợi trước cách mạng
chính quốc mà qua đó thúc đẩy cách mạng chính quốc.

Vận dụng quy luật về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, về sự hình thành
Đảng cộng sản vào việc khẳng định trọng trách của giai cấp công nhân Việt Nam
và chuẩn bị cho sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam. Hồ Chí Minh đã phân tích
khá sâu sắc các tầng lớp, giai cấp trong xã hội ta, nhận ra được những ưu thế vượt
trội và sứ mệnh trọng đại của giai cấp công nhân. Người đã khẳng định “chỉ có giai
cấp công nhân là dũng cảm nhất, cách mạng nhất, luôn luôn gan góc đương đầy với
bọn đế quốc”. Đồng thời, Hồ Chí Minh phát triển một cách sáng tạo quy luật hình
thành Đảng cộng sản vào quá trình chuẩn bị cho sự ra đời của Đảng cộng sản Việt
Nam. Nếu như quy luật chung về sự ra đời của Đảng cộng sản là sự kết hợp chủ
nghĩa xã hội khoa học với phong trào công nhân thì vận dụng vào Việt Nam, Hồ
Chí Minh bổ sung thêm nhân tố phong trào yêu nước.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát triển lý luận Mác – Lênin về tập hợp, xây dựng lực
lượng cách mạng. Người khẳng định, động lực cơ bản của toàn bộ sự nghiệp cách
mạng nước ta là đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh công nhân -
nông dân - trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng
và phát triển sáng tạo tư tưởng về liên minh công - nông của chủ nghĩa Mác-Lênin
để quy tụ, tập hợp sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của các lực lượng yêu
nước với thế trận chiến tranh nhân dân để giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh
giành độc lập, tự do và đi lên chủ nghĩa xã hội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng và phát triển sáng tạo những nguyên lý cơ bản
của chủ nghĩa Mác-Lê-nin vào việc xây dựng nhà nước của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân dựa trên nguyên tắc pháp quyền ở Việt Nam. Theo quan điểm của chủ
nghĩa Mác-Lê-nin, sau khi cách mạng vô sản thắng lợi, giai cấp vô sản sẽ thiết lập
nên nền chuyên chính vô sản. Trên nền tảng đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát
triển một hệ thống các quan điểm sáng tạo về nhà nước kiểu mới: Tất cả mọi quyền
lực đều là của nhân dân, một nhà nước của nhân dân, chính quyền từ xã đến chính
phủ Trung ương do nhân dân cử ra; đoàn thể từ Trung ương đến xã do nhân dân tổ
chức nên, được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật,
thể hiện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân
Câu 4. Khái niệm quyền lực chính trị? Trình bày quá trình hình thành quyền
lực chính trị và sự chuyển hóa quyền lực chính trị thành quyền lực nhà nước?
Tại sao nói: Ở Việt Nam, quyền lực chính trị thuộc về nhân dân?

Quyền lực chính trị là quyền sử dụng sức mạnh của một hay liên minh giai cấp, tập
đoàn xã hội nhằm thực hiện sự thống trị chính trị, là năng lực áp đặt và thực thi các
giải pháp phân bổ giá trị xã hội có lợi cho giai cấp mình chủ yếu thông qua đấu
tranh giành, giữ và thực thi quyền lực nhà nước.

Quá trình hình thành quyền lực chính trị: Sự xuất hiện của lực lượng sản xuất dẫn
đến mâu thuẫn với quan hệ sản xuất hiện có và đòi hỏi phải thay thế quan hệ sản
xuất cũ: công cụ lao động của loài người, lực lượng sản xuất của xã hội luôn biến
đổi và phát triển không ngừng. sự biến đổi và phát triển của công cụ sản xuất, lực
lượng sản xuất dẫn tới đòi hỏi phải có sự biến đổi về chất của quan hệ sản xuất
hiện tồn.

Mâu thuẫn về xã hội nảy sinh, giai cấp mới đại diện cho lực lượng sản xuất mới
tiến bộ ra đời, thành lập tổ chức của mình và đòi hỏi sự thừa nhận về mặt pháp lý.
Quá trình này đưa tới sự xuất hiện của các nhóm xã hội mới về mặt giai cấp, làm
xuất hiện đối kháng về mặt lợi ích, đối kháng về giai cấp xã hội. kết quả là lực
lượng chính trị mới tương ứng ra đời đại diện cho lợi ích của giai cấp mới đó. Và
điều này dẫn đến sự cọ xát, sự đụng độ giữa các lực lượng chính trị mới và lực
lượng chính trị cũ. Dần dần sớm hay muộn thì lực lượng chính trị mới sẽ vươn lên
để tự khẳng định mình về mặt nhà nước. Khi mà lực lượng chính trị mới buộc nhà
nước hiện tồn phải thừa nhận nó về mặt pháp lý thì nó đã giành được quyền tồn tại
về mặt pháp lý, quyền lực chính trị của giai cấp mới được thừa nhận về mặt nhà
nước trong khuôn khổ nhà nước hiện tồn. lúc đó người ta nói lực lượng chính trị
mới giành được quyền lực chính trị và quyền lực chính trị chính thức được hình
thành.

Sự chuyển hóa quyền lực chính trị thành quyền lực nhà nước: Trong xã hội có giai
cấp và đối khác giai cấp về cơ bản có hai loại quyền lực chính: quyền lực chính trị
của giai cấp thống trị (đã trở thành quyền lực nhà nước) và quyền lực chính trị của
các giai cấp, tầng lớp không có địa vị trong xã hội (nhóm quyền lực này có thể chia
thành hai phân nhóm nhỏ):

Quyền lực của nhóm giai cấp, tầng lớp tuy có lợi ích khác biệt nhưng không đối
kháng với giai cấp thống trị. Vì thế không có sự khác biệt về chất với quyền lực
chính trị của giai cấp thống trị. Và do vậy nên nó không bị diệt trừ mà tồn tại trong
sự đối lập một cách trung hòa với và nước hiện tồn.

Quyền lực của nhóm giai cấp, tầng lớp xã hội có lợi ích đối kháng với lợi ích của
giai cấp cầm quyền. Về bản chất, nhóm này đối kháng với nhà nước hiện tồn, và vì
vậy đó là đối tượng phải bị trấn áp, phải được xóa bỏ trong nhà nước ấy. Vì vậy,
phân nhóm quyền lực chính trị này sẽ chỉ có một trong hai kết cục sau đây: sẽ bị
xóa bỏ hoàn toàn và triệt để bởi quyền lực của nhà nước hiện tồn hoặc sẽ ngày
càng mạnh lên bất chấp sự trấn áp của nhà nước hiện tồn, cho tới lúc nó đủ sức lật
đổ quyền lực chính trị của giai cấp cầm quyền, xóa bỏ quyền lực nhà nước đập tan
bộ máy nhà nước của giai cấp ấy thiết lập bộ máy nhà nước mới nhằm tổ chức lại
xã hội sao cho phù hợp với lợi ích của giai cấp đó. Khi đó người ta nói quyền lực
chính trị đã chuyển thành quyền lực nhà nước.

Tại sao “ở Việt Nam, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”? Bởi vì:

Bản chất của quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước: Quá trình hình thành quyền
lực chính trị ở các xã hội có giai cấp và đối kháng giai cấp: Trong xã hội có giai
cấp, quyền lực chính trị được hình thành thông qua quá trình đối kháng giữa các
giai cấp khác nhau. Giai cấp có sự khác biệt về tài sản, quyền lực và tiếng nói trong
xã hội. những người có tài sản và quyền lực cao hơn thường chiếm ưu thế trong
việc giành quyền lực chính trị. Các giai cấp thấp hơn thường bị tước đoạt quyền
lực và bị đàn áp, do đó họ cần phải đấu tranh để giành lại quyền lực của mình.

Trong quá trình đấu tranh này, các giai cấp thấp hơn thường phải tổ chức và tập
hợp lực lượng để đòi hỏi quyền lực của mình. Các cuộc đấu tranh thường bao gồm
các phong trào dân chủ và các cuộc cách mạng. thông qua những cuộc đấu tranh
này, các giai cấp thấp hơn giành được quyền lực chính trị và trở thành tầng lớp
thống trị giữ chặt quyền lực của mình bằng cách sử dụng các biện pháp đàn áp.

Tóm lại, trong các xã hội có giai cấp và đối kháng giai cấp, quyền lực chính trị
thường được hình thành thông qua quá trình đấu tranh giữa các giai cấp khác nhau.

Sự thay đổi của các chế độ chính trị có giai cấp và đối kháng giai cấp là sự thay thế
của các giai cấp cầm quyền: Trong các xã hội có giai cấp, quyền lực chính trị
thường nằm trong tay của những giai cấp cầm quyền, thường là những tầng lớp
giàu có và có ảnh hưởng. sự thay đổi của các chế độ chính trị có giai cấp và đối
kháng giai cấp thường là do sự thay thế của các giai cấp cầm quyền, khi một giai
cấp mới nổi lên và lấy quyền lực từ tay giai cấp cũ. Tuy nhiên, việc thay thế này
không phải lúc nào cũng diễn ra một cách trơn tru và hòa bình. Thường sẽ xảy ra
các cuộc xung đột và đối đầu giữa các giai cấp, vì mỗi giai cấp đều muốn giành lấy
quyền lực.Quyền lực nhà nước ở các chế độ có giai cấp và đối kháng giai cấp là
quyền lực của một giai cấp và quyền lực ấy được áp đặt lên toàn xã hội.

Tất cả quyền lực nhà nước ở Việt Nam thuộc về nhân dân được thể hiện trên các
phương diện như: chủ thể, đối tượng, mục tiêu và công cụ phương tiện.

Chủ thế: là nhân dân lao động, công nhân, nông dân, trí thức trong khối đại đoàn
kết dân tộc thông qua mặt trận tổ quốc, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt
Nam. Đây là số đông trong xã hội, lợi ích của nhân dân được thống nhất, cơ sở
kinh tế: chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, mọi người dân đều được tham
gia vào đời sống chính trị.

Đối tượng quyền lực chính trị là bộ phận vô sản lưu manh đi ngược lại lợi ích nhân
dân lao động, lực lượng chính trị phản động trong và ngoài nước chống đối nhân
dân. Đây là số ít trong xã hội, những lực lượng này sẽ dần mất đi khi xã hội càng
phát triển.

Mục tiêu: áp đặt ý chí nhân dân vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội theo mục
tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, phấn đấu theo chỉ
thị Đại hội XIII chỉ ra: tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng
nền văn hóa tiên tiến mang đậm bản sắc dân tộc.

Công cụ và phương tiện: công cụ: hệ thống tổ chức quyền lực nhà nước: Đảng
cộng sản Việt Nam lãnh đạo toàn diện đất nước và xã hội, nhà nước và các phương
tiện vật chất là trụ cột của hệ thống chính trị, còn các đoàn thể chính trị thì tham
gia, làm chủ hệ thống tổ chức. Phương tiện thực hiện: bản thân nhân dân lao động
thực hiện quyền lực chính trị của mình, bên cạnh đó vẫn còn trấn áp, cưỡng bức.

Câu 5. Phân tích nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện
nay? Biện pháp kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay?

Vào năm 1930, khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, nước ta là một nước thuộc địa
nửa phong kiến, nhân dân mất tự do, chịu cảnh lầm than, nô lệ, đất nước trong cơn
bế tắc, “tình hình đen tối như không có đường ra”. 15 năm sau khi thành lập, Đảng
ta đã lãnh đạo cách mạng tháng Tám (1945) thành công, đánh đuổi đế quốc, thực
dân, lật đổ chế độ phong kiến, lập ra nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á
– nhà nước mang lại lợi ích cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động, mở ra
một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam – kỷ nguyên độc lập, tự do và
đi lên xã hội chủ nghĩa.
Nhà nước Việt Nam được tổ chức theo nguyên tắc tập quyền. Đây được xem là
nguyên tắc “xương sống” trong tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước ở Việt
Nam.

Đầu tiên, quyền lực nhà nước ở Việt Nam là thống nhất. Sự thống nhất được thể
hiện ở hai phương diện, về phương diện chính trị, quyền lực nhà nước tập trung
thống nhất ở nhân dân, do nhân dân làm chủ. Về phương diện tổ chức thực hiện,
quyền lực nhà nước nằm thống nhất ở Quốc hội. Quốc hội là cơ quan duy nhất do
nhân dân cả nước bầu ra và là cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân. Nhân dân
trao toàn bộ quyền lực của mình cho Quốc hội.

Thứ hai, mặc dù Quốc hội là nơi thống nhất quyền lực nhà nước song Quốc hội
không trực tiếp thực hiện cả ba quyền mà trong nhà nước sẽ có sự phối hợp và
kiểm soát giữa các cơ quan. Trong bộ máy nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa
Việt Nam, Quốc hội không trực tiếp thực hiện cả ba quyền lập pháp, hành pháp và
tư pháp. Ba quyền này sẽ phân công cho các cơ quan nhà nước thực hiện. Quốc hội
giữ lại quyền lập pháp, quyền hành pháp được giao cho Chính phủ và quyền tư
pháp được giao cho Tòa án nhân dân tối cao. Ba cơ quan này không thực hiện các
quyền được một cách hoàn toàn riêng lẻ mà luôn có sự phối hợp để thực hiện từng
quyền một cách hiệu quả.

Cơ sở của nguyên tắc tập quyền là do lợi ích căn bản của giai cấp công nhân, nông
dân và tầng lớp trí thức thống nhất, không mâu thuẫn với nhau. Do đó quy định
nên thể chế chính trị một Đảng, nhất nguyên, cơ sở kinh tế dựa trên chế độ công
hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu.

Hiện nay, khi xã hội, công nghệ phát triển thì các cán bộ phải đối mặt với nhiều tệ
nạn xã hội, nhiều thứ ảnh hưởng xấu; các cán bộ, công chức nắm giữ chức vụ,
nhiệm vụ càng cao thì càng dễ bị lâm vào tình trạng suy thoái tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống. chính vì vậy cần phải kiểm soát quyền lực ở Việt Nam để tránh
tình trạng tha hóa quyền lực; tình trạng suy thoái, biến chất; tình trạng quan liêu,
tham nhũng; tình trạng chuyên quyền, độc đoán, vụ lợi.

Muốn kiểm soát quyền lực cần kiểm soát ở cả hai mặt: bên trong và bên ngoài bộ
máy nhà nước. Một số biện pháp kiểm soát phía bên trong bộ máy nhà nước: kiểm
soát trong cơ chế giám sát tối cao của Quốc hội; kiểm soát qua cơ chế thanh tra của
thanh tra Nhà nước; kiểm soát quyền lực của các cơ quan tư pháp. Một số biện
pháp kiểm soát phía bên ngoài nhà nước: kiểm soát quyền lực của các tổ chức
chính trị - xã hội; kiểm soát quyền lực của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; kiểm soát
quyền lực của xã hội: báo chí, nhân dân,…
Câu 6. Đảng chính trị là gì? Phân tích bản chất và vai trò của Đảng chính trị
và liên hệ với bản chất và vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam?

Đảng chính trị là một tổ chức chính trị, tập hợp trong mình những bộ phận tích cực
nhất và có tổ chức của giai cấp, có cùng hệ tư tưởng, cùng mục tiêu, lãnh đạo giai
cấp mình đấu tranh hướng đến giành, giữ và thực thi quyền lực nhà nước, bảo vệ lợ
ích cho giai cấp mà nó đại diện.

Đảng chính trị là một tổ chức đặc biệt, đại diện cho một giai cấp, tầng lớp, lực
lượng mà nó đại diện. Đảng chính trị ra đời nhằm tập hợp lực lượng của một giai
cấp; tổ chức lãnh đạo cuộc đấu tranh giai cấp vì mục tiêu giành, giữ và sử dụng
quyền lực nhà nước; góp phần định hướng cho xã hội phát triển.

Đảng chính trị mang bản chất giai cấp và tính dân tộc bởi Đảng chính trị là sản
phẩm tất yếu của đấu tranh giai cấp, xuất hiện khi cuộc đấu tranh giai cấp phát
triển đến đỉnh điểm (đấu tranh chính trị). Đảng chính trị là công cụ quan trọng nhất
để giai cấp đấu tranh cho lợi ích của mình. Mỗi Đảng chính trị luôn hướng tới nằm
quyền lực và bảo vệ lợi ích cho giai cấp mà nó đại diện, không có Đảng chính trị
nào là phi giai cấp hay siêu giai cấp.

Nhân tố tác động đến vai trò của Đảng chính trị: địa vị lịch sử của giai cấp mà
Đảng chính trị đó đang đại diện; mục tiêu, cương lĩnh, đường lối mà Đảng chính trị
đó đề ra; nội bộ bản thân Đảng chính trị đó về năng lực, lập trường, rèn luyện
phẩm chất,… của các cán bộ Đảng viên.

Đảng chính trị có vai trò tích cực như là: tổ chức bầu cử, đảm bảo thay đổi chính
quyền bằng cách hòa bình, hợp pháp và hợp biến; đề ra đường lối, định hướng phát
triển kinh tế - xã hội qua cương lĩnh chính trị, ví dụ tổng thống Donald Trump đã
thực hiện giảm thuế, giảm các quy định phiền hà,…; đào tạo cán bộ và bố trị lực
lượng vào các vị trí trong bộ máy nhà nước.

Mặt tiêu cực của Đảng chính trị đó là: chia rẽ nhân dân, tách nhân dân ra khỏi
chính trị; để đạt được mục đích Đảng chính trị đã hành động kể cả bằng những thủ
đoạn, kích thích sự thèm khát quyền lực chính trị và tạo thêm điều kiện cho tham
nhũng, tước bỏ quyền dân chủ của nhân dân.

Liên hệ bản chất và vai trò của Đảng cộng sản Việt Nam: Đảng cộng sản Việt Nam
ra đời nhằm đáp ứng cho cách mạng dân tộc trong bối cảnh các cuộc đấu tranh của
các đảng khác không giành được thắng lợi. Các phong trào yêu nước cuối thế kỷ
XIX – đầu thế kỷ XX đều thất bại và một trong những nguyên nhân là chưa có một
tổ chức cách mạng tiên phong để giác ngộ, lãnh đạo và tập hợp toàn dân tộc nên
không có đường lối chính trị đúng đắn và phương pháp đấu tranh phù hợp.

Từ khi mặt trận Việt Minh ra đời, Đảng xác định đó là lực lượng để mình lãnh đạo
thực hiện cuộc cách mạng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. tổ chức giác ngộ
cho quần chúng đấu tranh, xây dựng lực lượng vũ trang và căn cứ địa cách mạng.
tạo cơ sở và tiền đề cho tổng khởi nghĩa trong cả nước.

Mỗi thắng lợi của cách mạng Việt Nam đều gắn liền với vai trò của Đảng và Chủ
tịch Hồ Chí Minh - Người tổ chức và lãnh đạo mọi thắng lợi của cách mạng Việt
Nam. Đảng lãnh đạo cả dân tộc giành được liên tục các thắng lợi trong lịch sử.
Năm 1945, thắng lợi của Cách mạng tháng Tám và việc thành lập nhà nước Cộng
hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã mở ra một kỷ nguyên mới – kỷ nguyên độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Năm 1954, chiến thắng cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, đập tan ách thống trị hơn 80 năm của Pháp
và phong kiến tay sai, giải phóng miền Bắc,…. Năm 1975, thắng lợi cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước, đưa đất nước độc lập thống nhất trên toàn vẹn lãnh thổ,
cùng đi lên chủ nghĩa xã hội. Năm 1986: đại học đại biểu toàn quốc lần thứ VI của
Đảng đã đề ra công cuộc đổi mới toàn diện,…

Bản chất của Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động Việt Nam, lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
là kim chỉ nam cho hành động cách mạng: Hồ Chí Minh khẳng định: Đảng Cộng
sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân, đội tiên phong của giai cấp công
nhân, mang bản chất giai cấp công nhân. Giữ vững và nâng cao bản chất giai cấp
công nhân của Đảng ta là điều kiện tiên quyết, bảo đảm cho sự thành công của
cách mạng. Đảng đại diện cho lợi ích của toàn dân tộc nên nhân dân Việt Nam coi
Đảng cộng sản Việt Nam là Đảng của chính mình. Đảng cũng đã khẳng định rằng:
để đảm bảo và tăng cường bản chất giai cấp công nhân. Đảng luôn gắn bó mật thiết
với giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể dân tộc trong tất cả các thời
kỳ của cách mạng,…..

Câu 7. Thủ lĩnh chính trị là gì? Hãy lựa chọn một Thủ lĩnh chính trị mà mình
tâm đắc nhất, từ đó phân tích phẩm chất tiêu biểu và vai trò của Thủ lĩnh
chính trị đối với sự phát triển của quốc gia đó?

Thủ lĩnh chính trị là người đứng đầu một tổ chức chính trị. Đó là nhân vật xuất sắc
trong lĩnh vực hoạt động chính trị, xuất hiện trong điều kiện lịch sử nhất định, có
sự giác ngộ lợi ích, mục tiêu, lý tưởng giai cấp, có khả năng nắm bắt và sử dụng
quy luật, có năng lực tổ chức và tập hợp quần chúng để giải quyết những nhiệm vụ
chính trị do lịch sử đặt ra.

Phẩm chất thủ lĩnh chính trị thành năm nhóm sau:

Về trình độ hiểu biết: nhất thiết đó phải là người thông minh, hiểu biết sâu rộng các
lĩnh vực, có tư duy khoa học, nắm vững được quy luật phát triển của quá trình
chính trị, có khả năng dự đoán được tình hình, làm chủ được khoa học và công
nghệ lãnh đạo, quản lý.

Về phẩm chất chính trị: là người giác ngộ lợi ích giai cấp, đại diện tiêu biểu cho lợi
ích của giai cấp, trung thành với mục tiêu lý tưởng đã chọn, dũng cảm đấu tranh
bảo vệ lợi ích của giai cấp, có bản lĩnh chính trị vững vàng trước những biến động
phức tạp của lịch sử.

Về năng lực tổ chức: là người có khả năng về công tác, nghĩa là biết đề ra mục tiêu
đúng, phân công nhiệm vụ đúng chức năng cho cấp dưới và cho từng người, biết tổ
chức thực hiện nhiệm vụ chính trị, có khả năng động viên, khích lệ mọi người hoạt
động, kiểm tra, giám sát công việc.

Về đạo đức, tác phong: là người có tính trung thực, công bằng, cởi mở, cương
quyết. có lối sống giản dị, có khả năng giao tiếp và mối quan hệ tốt với mọi người.
có lòng tin vào bản thân, biết lắng nghe ý kiến của người khác. Có lòng say mê
công việc và lòng tin vào cấp dưới.

Về khả năng làm việc: có sức khỏe tốt, khả năng làm việc với cường độ cao, có
khả năng giải quyết mọi vấn đề một cách sáng tạo, đưa ra những quyết sách sáng
suốt, nhạy cảm, năng động. biết cảm nhận cái mới và đấu tranh vì cái mới.

Cố Tổng thống Pháp De Gaulle đã từng nói: “Con người không thể thiếu thủ lĩnh,
cũng như không thể thiếu thức ăn và nước uống. Những động vật chính trị này cần
phải trong tổ chức, tức là trong trật tự và các thủ lĩnh”. Tầm quan trọng của thủ
lĩnh nói chung hay thủ lĩnh chính trị nói riêng là điều không thể phủ nhận trong bất
kỳ thời kỳ nào. Chủ tịch Hồ Chí Minh là một người thủ lĩnh vĩ đại, tiêu biểu nhất
của giai cấp công nhân Việt Nam nói riêng và toàn thể dân tộc Việt Nam nói
chung. Người chính là minh chứng cho phẩm chất cần có và vai trò to lớn của
những người thủ lĩnh chính trị.

Người học ngoại ngữ ( thông thạo trên mười ngoại ngữ nhờ tự học), học viết báo,
nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin, nghiên cứu và tiếp thu có chọn lọc tinh hoa
văn hóa nhân loại, đặc biệt là tinh hoa văn hóa Phương Đông và văn hóa Phương
Tây. Việc tự học của Chủ tịch Hồ Chí Minh có mục đích cuối cùng là làm cách
mạng, giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kiên trì
tự học, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào hoàn cảnh cụ thể ở Việt
Nam và đưa cách mạng nước ta đến thắng lợi.
Trong tư tưởng của Bác, nhân dân là lực lượng đồng thời cũng là gốc của sự
nghiệp Cách mạng, quyết định đến sự thành bại của Cách mạng. Do đó, mọi chủ
trương đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước và mọi thái độ, việc làm của
cán bộ, đảng viên khi tham gia thực hiện các công việc của Đảng và Nhà nước đều
phải xuất phát từ nhân dân và vì nhân dân
Phẩm chất người cộng sản Hồ Chí Minh dựa trên nền tảng văn hoá dân tộc Việt:
Đó là văn hoá vì nghĩa vì tình, văn hoá yêu nước thương nòi; đó là sự hiếu hoà,
khoan dung, tâm công theo tinh thần nhân văn truyền thống ngàn năm của dân tộc.
Cuộc đời của người cách mạng Hồ Chí Minh là cuộc đời của một nhân cách luận
cách mạng mẫu mực, trong đường lối chính trị lấy đoàn kết làm nền tảng sách
lược, cho nên, để quy tụ, dẫn dắt quần chúng không thuần túy bằng con đường
kinh tế, con đường bạo lực dựa trên kỷ luật mà còn theo chính con đường nhân
cách luận cách mạng
Là người đề ra và xây dựng nên những giá trị chuẩn mực đạo đức cao đẹp cho cán
bộ, đảng viên hướng tới, rèn luyện, phấn đấu, đồng thời Bác Hồ với tư cách là một
lãnh tụ tối cao của dân tộc luôn là người nêu gương thực hành, là tấm gương vô
cùng trong sáng, mẫu mực về đạo đức suốt đời. Giá trị thực tiễn cao đẹp của tư
tưởng của Bác là ở chỗ gắn bó chặt chẽ với cuộc sống, nói đi đôi với làm.
Là con người vô cùng lỗi lạc, vĩ đại về tư tưởng, trí tuệ, nhân cách, sự nghiệp, đồng
thời Bác cũng là con người hết sức bình dân, giản dị, hòa mình với muôn triệu
người dân, luôn quên bản thân mình để yêu thương, quan tâm đến từng thân phận
con người, từng gốc cây, ngọn lúa, bờ tre.
Nói đến tính Liêm, Chính của người cán bộ cách mạng, Bác nêu một định nghĩa
như là một điểm tựa cho phẩm giá của mỗi chúng ta: “ Liêm nghĩa là trong sạch, là
luôn luôn tôn trọng, giữ gìn của công, của dân, không tham địa vị, không tham tiền
tài. Không tham sung sướng. Không ham người tâng bốc mình. Chỉ có một thứ
ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ. Vì vậy mà quang minh chính đại” Như vậy
theo Bác, cần có “liêm” là để có “chính”.

Câu 8. Phân tích nội dung mối quan hệ chính trị với kinh tế? Thực chất quá
trình đổi mới ở Việt Nam?

Chính trị thực chất là việc định hướng, tạo động lực cho phát triển kinh tế thông
qua các chính sách, chủ trương, đường lối. Kinh tế là tổng hợp các quan hệ sản
xuất tương ứng với trình độ lực lượng sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của một
xã hội, kinh tế là nguồn gốc của mọi biến đổi xã hội. Quan hệ chính trị với kinh tế:
là sự lãnh đạo của nhà nước bằng chủ trương, chính sách nhằm phát triển kinh tế,
củng cố địa vị thống trị.

Bản chất mối quan hệ chính trị với kinh tế được thể hiện ở hai phương diện: chính
trị là biểu hiện tập trung của kinh tế và chính trị không thể không chiếm vị trí hàng
đầu so với kinh tế.

Về chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế: chính trị là một hình thức biểu hiện
của kinh tế một cách tập trung nhất, cô đọng nhất. nội dung quyết định đến hình
thức, nền kinh tế quyết định chính trị. Nghĩa là kinh tế làm nảy sinh chính trị cả với
tư cách là một chế độ bao gồm: thể chế chính trị, công cụ, phương tiện để thỏa mãn
nhu cầu, mục đích chính trị. Tương ứng với một trình độ phát triển nhất định về
chính trị. Cơ sở kinh tế như thế nào thì cơ cấu thể chế chính trị thích ứng như thế
ấy.

Chính trị không ngoài mục đích nào khác là hướng vào sự phát triển kinh tế. Kinh
tế là gốc của chính trị là thước đo tính hợp lý của chính trị. Kinh tế phát triển thì
chính trị tiến bộ và ngược lại, kinh tế khủng hoảng chính trị không hợp lý cũng
khủng hoảng theo. Do đó, ở thời nào cũng như vậy, chính trị sẽ không có cơ sở tồn
tại, sớm muộn cũng phải thay thế bởi chính trị mới tiến bộ hơn, phù hợp hơn với
kinh tế. chính trị là xây dựng nhà nước về mặt kinh tế.

Tính đúng đắn của đường lối chính sách kinh tế của Đảng cầm quyền giữ vai trò
quan trọng. cũng trên cơ sở đó. Đảng Cộng sản Việt Nam bắt đầu sự nghiệp đổi
mới từ tư duy lý luận về kinh tế, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, từng bước đổi
mới chính trị phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế.

Về chính trị không thể không chiếm vị trí hàng đầu so với kinh tế: Thắng lợi của
cách mạng chính trị là tiền đề điều kiện đầu tiên và quyết định cho những biến đổi
về chất và phát triển kinh tế diễn ra tiếp theo. Điều này, hoàn toàn rõ ràng đối với
cách mạng xã hội chủ nghĩa. Giai cấp công nhân và nhân dân lao động muốn giải
phóng mình khỏi sự bóc lột và tha hóa bởi quan hệ tư sản và tiền tư sản, trước hết
phải giành được quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước.

Với tính độc lập tương đối, chính trị có sự tác động trở lại với kinh tế theo những
hướng khác nhau có thể: Tác động ngược lại của quyền lực nhà nước đối với sự
phát triển kinh tế có thể có ba loại: nó có thể tác động cùng chiều hướng – khi ấy
sự phát triển diễn ra nhanh hơn, nó có thể tác động ngược lại sự phát triển kinh tế -
khi ấy thì hiện nay ở mỗi dân tộc lớn, nó sẽ tan vỡ sau một thời gian nhất định hoặc
là nó có thể cản trở sự phát triển kinh tế ở những hướng nào đó và thúc đẩy sự phát
triển ở những hướng khác. Bởi vậy, muốn để kinh tế phát triển đồng thuận với sự
tác động của chính trị vào kinh tế, đòi hỏi phải quan tâm tới cả ba phương diện:
đường lối chính sách kinh tế, thể chế kinh tế và chủ thể kinh tế.

Chính trị đóng vai trò định hướng và tạo môi trường chính trị - xã hội ổn định cho
phát triển kinh tế. sự định hướng chính trị cho phát triển kinh tế thể hiện ở tất cả
các khâu của quá trình kinh tế: xây dựng thể chế hóa đường lối phát triển kinh tế,
định hướng quá trình tổ chức định hướng xã hội cho phát triển kinh tế để không có
sự hy sinh cái này cho cái kia, và để lợi ích của giai cấp thống trị không bị vi
phạm. Hơn nữa, sự ổn định chính trị là điều kiện thuận lợi cho mọi hoạt động đầu
tư, kinh doanh, phát triển kinh tế.
Chính trị còn tham gia kiểm soát chặt chẽ những vấn đề cơ bản, then chốt của kinh
tế: ngân sách, vốn, hoạt động tài chính tiền tệ, chính sách kinh tế đối ngoại. Sự
lãnh đạo của chính trị đối với kinh tế không chỉ mang tính định hướng, tạo sự ổn
định cho phát triển kinh tế mà hơn nữa chính trị còn tham gia quản lý nền kinh tế,
điều chỉnh cơ cấu kinh tế, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh tế, thúc đẩy kinh tế
phát triển.

Quan hệ giữa chính trị và kinh tế là mối quan hệ cơ bản, nhạy cảm và phức tạp
trong các quan hệ xã hội. để giải quyết tốt mối quan hệ này, cần phải tránh cả hai
khuynh hướng sai lầm: tuyệt đối hóa kinh tế và tuyệt đối hóa chính trị. Đi theo
hướng thứ nhất, kinh tế sẽ phát triển tự phát, vô chính phủ. Đi theo hướng thứ hai,
nền kinh tế sẽ phát triển theo hướng áp đặt, không theo quy luật khách quan.
Nhưng nếu đồng nhất chính trị với kinh tế thì sẽ làm chính trị trở nên cứng nhắc,
giáo điều

Quá trình đổi mới ở Việt Nam đề cập đến chính sách và biện pháp cải thiện kinh tế,
xã hội và chính trị được triển khai từ những năm 1986. Đổi mới đã mang lại những
thay đổi đáng kể cho quốc gia và dưới đây là minh chứng về thực chất của quá
trình này:
Mục tiêu chính của quá trình đổi mới ở Việt Nam là tạo ra một nền kinh tế thị
trường cộng hòa, phát triển bền vững và đáp ứng nhu cầu của xã hội. đối mới nhằm
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao chất lượng cuộc sống, tạo việc làm, tăng
cường cạnh tranh và tích cực hội nhập quốc tế
Chủ trương cơ bản của đổi mới là tăng cường vai trò của thị trường, mở cửa và đẩy
mạnh quan hệ kinh tế đối ngoại, thu hút đầu tư nước ngoài và thúc đẩy các biện
pháp cải cách trong các lĩnh vực kinh tế truyền thông.
Biện pháp cải cách như thứ nhất, giải phóng giới hạn trên doanh nghiệp tư nhân và
đẩy mạnh tự do kinh doanh. Thứ hai, tăng cường sự phân quyền và trách nhiệm
của các cấp quản lý địa phương. Thứ ba, thúc đẩy hội nhập quốc tế, mở cửa thị
trường và thu hút đầu tư nước ngoài. Thứ tư, cải cách doanh nghiệp nhà nước,
giảm quy mô, tăng cường hiệu suất và tạo điều kiện công bằng cho các doanh
nghiệp khác,…
Đổi mới về chính trị không có nghĩa là thay đổi về mục tiêu đi lên CNXH mà là
đổi mới về tổ chức và phương thức hoạt động của các yếu tố cấu thành hệ thống
chính trị bao gồm: Đảng nâng cao năng lực lãnh đạo, đề ra nghị quyết, văn kiện
đúng đắn để lãnh đạo. Tránh tình trạng buông lỏng lãnh đạo hoặc bao biện làm
thay. Nhà nước: Cải cách thủ tục hành chính theo hướng tinh giản, gọn nhẹ, làm
việc có hiệu quả; Tinh giản đội ngũ cán bộ công chức hành chính; Nâng cao năng
lực quản lý; tăng cường pháp luật và giáo dục ý thức chấp hành pháp luật. Các tổ
chức chính trị-xã hội: nâng cao chức năng bảo vệ lợi ích của các thành viên, hội
viên; phát huy năng lực phản biện xã hội.
Quá trình đổi mới đã góp phần quan trọng vào sự phát triển của Việt Nam. Kinh tế
quốc gia đã tăng trưởng mạnh, thu hút đầu tư trực tiếp từ nước ngoài và thúc đẩy
xuất khẩu. cải cách trong lĩnh vực kinh tế đã giúp cải thiện môi trường kinh doanh
và thúc đẩy sự phát triển của doanh nghệp tư nhân. Đổi mới cũng đã tạo điều kiện
cho sự đổi mới chính trị và xã hội với việc mở rộng quyền tự do cá nhân, tự do
ngôn luận và thúc đẩy sự phát triển của xã hội dân sự.

Câu 9. Văn hóa chính trị là gì? Phân tích các chức năng của Văn hóa chính
trị? Văn hóa từ chức có phải là văn hóa chính trị không? Ở Việt Nam đã có
văn hóa từ chức chưa? Tại sao?

Văn hóa là khái niệm chỉ trình độ phát triển nhất định của xã hội (nhóm người, bộ
phận người…) được thể hiện qua khả năng sáng tạo những giá trị vật chất và tinh
thần của con người (nghệ thuật, văn chương, lối sống, quyền cơ bản của con người,
hệ thống các giá trị, tập tục, tín ngưỡng, di sản, danh thắng, di vật, cổ vật, bảo vật,
…) nảy sinh trong hoạt động thực tiễn.

Văn hóa chỉ sự phát triển của con người thể hiện ở trình độ hiểu biết về chính trị,
trình độ tổ chức hệ thống tổ chức quyền lực theo một chuẩn giá trị xã hội nhất
định, nhằm điều hòa các quan hệ lợi ích giữa các giai cấp và bảo vệ lợi ích giai cấp
cầm quyền, phù hợp với xu thế phát triển và tiến bộ xã hội.

Về đặc điểm của văn hóa chính trị: văn hóa chính trị mang tính giai cấp, tính lịch
sử và tính đa dạng.
Về tính giai cấp, văn hóa chính trị hình thành và phát triển trong đấu tranh giai cấp,
dân tộc vì lợi ích của giai cấp và con người. do đó văn hóa chính trị thường bị chi
phối bởi hệ tư tưởng, đường lối của Đảng chính trị nhằm bảo vệ lợi ích và thúc đẩy
sự tồn tại và phát triển của mỗi giai cấp. văn hóa chính trị tư sản bị chi phối bởi hệ
tư tưởng tư sản nên mang bản chất của văn hóa nô dịch thực dân, thứ văn hóa duy
trì và củng cố sự thống trị của giai cấp tư sản.

Về tính lịch sử, tính giai cấp của văn hóa chính trị cũng đã khẳng định tính lịch sử
của nó. Bởi tương ứng với mỗi giai cấp, mỗi hệ tư tưởng là một kiểu văn hóa chính
trị. Không có văn học chính trị nào là phi giai cấp, phi lịch sử.

Về tính đa dạng, trong cấu trúc của văn hóa chính trị, hệ tư tưởng là nhân tố cốt lõi.
Trong xã hội có đối kháng giai cấp, do đối lập về lợi ích nên thường có những hệ
tư tưởng của giai cấp đối lập chi phối và thao túng văn hóa của giai cấp tương ứng
tạo nên bức tranh đa dạng của văn hóa chính trị.

Văn hóa chính trị có các chức năng: tổ chức và quản lý xã hội; định hướng, điều
chỉnh các hành vi của con người và các quan hệ xã hội; đẩy mạnh xã hội hóa về
chính trị, làm cho mọi công dân quen với các hoạt động chính trị; cổ vũ, động viên,
thúc đẩy hoạt động sáng tạo của con người, hình thành nhân cách công dân, nhân
cách của các nhà lãnh đạo chính trị.

Văn hóa từ chức là một bộ phận của văn hóa chính trị, khi những người cán bộ,
lãnh đạo nhận thấy bản thân không còn xứng đáng đảm nhận chức vụ và trách
nhiệm được giao phó. Văn hóa từ chức là một biểu hiện của sự hiểu biết về bổn
phận, trách nhiệm của người nắm giữ chức vụ. Văn hóa từ chức là một trong
những biểu hiện sinh động, cụ thể và thiết thực nhất về một nền chính trị văn minh
dựa vào lòng tự trọng, bản lĩnh và trách nhiệm của những nhà lãnh đạo thực sự tâm
huyết và đầy dũng khí.

Trong lịch sử Việt Nam, các trường hợp từ quan phần lớn là do các vị quan can
gián mà vua không nghe nên từ quan về quê dạy học: như Chu Văn An dâng sớ
chém 7 tên nịnh thần nhưng vua Dụ Tông không nghe nên ông từ quan lui về quê
dạy học; Nguyễn Bỉnh Khiêm dâng sớ chém 18 quan viên cậy thế làm càn sau đó
xin cáo quan về quê.

Trong lịch sử chính trị cách mạng Việt Nam, các đồng chí Hà Huy Tập, Lê Hồng
Phong đã tự nguyện rời chức Tổng Bí Thư của Đảng để đảm bảo sự thống nhất về
đường lối chiến lược và sách lược của Đảng. Văn hóa từ chức trên chính trường
hiện đại: bí thư tỉnh ủy tỉnh Quảng Ngãi và chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ngãi đã
nộp đơn xin từ chức và nghỉ hưu vì bị Ủy ban Kiểm tra Trung ương phát hiện có
nhiều sai phạm. Lịch sử Việt Nam đã có nhiều biểu hiện về từ chức, nhưng vẫn
chưa đủ nhiều để tạo thành văn hóa từ chức mà chỉ ở dạng hiếm và quý. Quý bởi vì
có những cán bộ từ chức để nhường lại vị trí cho các lớp trẻ - những người nhiều
tài năng, nhiệt huyết. Hiếm vì chức vụ đi đôi với quyền lực và lợi ích: càng nắm
chức cao thì quyền lực và lợi ích càng nhiều, việc từ chức đồng nghĩa với việc từ
bỏ một miếng mồi béo bở.

Câu 10. Chính trị quốc tế là gì? So sánh chính trị quốc gia và chính trị quốc
tế? Trình bày cấu trúc của chính trị quốc tế đương đại?

Chính trị quốc tế là nền chính trị được triển khai trên quy mô toàn thế giới được
cấu thành bởi các quốc gia có độc lập chủ quyền và tổ chức kinh tế - chính trị,
quân sự - chính trị quốc tế,… vì một trật tự thế giới mới.

Nền chính trị của xã hội chính trị quốc tế thời kỳ chiến tranh thế giới thứ II được
hình thành chủ yếu bởi kết quả của quá trình hình thành các nhà nước – dân tộc. từ
sau chiến tranh thế giới thứ II, xã hội quốc tế bao gồm gần 200 quốc gia độc lập có
chủ quyền, hàng chục vùng lãnh thổ và các tổ chức quốc tế. Mặc dù nền chính trị
quốc tế được tạo bởi sự tác động tương tác của các quốc gia, các tổ chức quốc tế,
nhưng về thực chất là trật tự thế giới hai cực: Xô – Mỹ. Sau sự sụp đổ của chế độ
CNXH ở Liên Xô và sự tan rã của các nước Đông Âu, trật tự thế giới hai cực được
thay bằng trật tự đa cực.

Chính trị quốc gia và chính trị quốc tế đều là các lĩnh vực quan trọng trong việc
quản lý và thực hiện các hoạt động chính trị. Tuy nhiên, hai lĩnh vực này có điểm
khác nhau như sau:

Chính trị quốc gia Chính trị quốc tế


Phạm vi ảnh Tập trung vào các hoạt động và Tập trung vào quan hệ giữa
hưởng quyết định ở nội bộ của một các quốc gia và những ảnh
quốc gia cụ thể hưởng đối với toàn cầu
Mục tiêu Tập trung vào các mục tiêu và Tập trung vào các mục tiêu
lợi ích của một quốc gia cụ thể và lợi ích của toàn bộ thế
giới
Chính quyền Tổ chức có chính quyền Tổ chức không có chính
quyền
Các đối tượng Liên quan đến các hoạt động Liên quan đến các hoạt động
tham gia chính trị ở nội bộ của một quốc chính trị của các quốc gia và
gia cụ thể, bao gồm: chính phủ, tổ chức quốc tế.
các tổ chức và cá nhân
Tầm nhìn và cách Tập trung vào các hoạt động Tập trung vào tầm nhìn dài
tiếp cận ngắn hạn và có mục tiêu cụ thể hạn và cần phải có cách tiếp
cận đa phương và hợp tác
giữa các quốc gia
Các vấn đề được Tập trung vào các vấn đề nội bộ Tập trung vào các vấn đề
quan tâm của một quốc gia toàn cầu như bảo vệ môi
trường, phát triển kinh tế,
chống khủng bố,…

Tóm lại, chính trị quốc gia và chính trị quốc tế là hai lĩnh vực quan trọng trong
hoạt động chính trị nhưng có phạm vi ảnh hưởng, mục tiêu, các đối tượng tham
gia, tầm nhìn và cách tiếp cận và các vấn đề được quan tâm khác nhau.

Chính trị quốc tế đương đại là nền chính trị quốc tế được hình thành bởi sự tương
tác của các quốc gia dân tộc có chủ quyền, các nhà nước – dân tộc, các tổ chức
quốc tế, các cường quốc. Đó là trật tự thế giới đa cực.

Cấu trúc nền chính trị quốc tế bao gồm hai bộ phận là: các nhà nước – dân tộc và
các tổ chức quốc tế. Cụ thể:

Về các nhà nước – dân tộc, nhà nước dân tộc là những đơn vị cơ bản tạo nên nền
chính trị quốc tế đương đại. chính sự hoạt động của các nhà nước – dân tộc thực
hiện các chức năng đối nội – đối ngoại vì lợi ích dân tộc, quốc gia và quốc tế đã tạo
nên những quan hệ thuận chiều với nền hòa bình ổn định và phát triển chung của
nhân loại. Việc đảm bảo tính độc lập của dân tộc và chủ quyền của nhà nước – dân
tộc cũng giống như việc bảo đảm tự do và nhân quyền của các cá nhân trong xã hội
– quốc dân – cơ sở của chủ nghĩa dân chủ - là căn nguyên tạo nên sự chuyển động
của nền chính trị quốc tế.

Vì vậy, để tạo ra một trật tư thế giới hòa bình, ổn định và phát triển, đòi hỏi các
nhà nước – dân tộc phải tôn trọng và thực hiện nghiêm chỉnh các nguyên tắc có
tính phổ biến: tôn trọng độc lập, chủ quyền, không can thiệp vào nội bộ của nhau,
bình đẳng cùng có lợi. giải quyết các vấn đề tồn tại và các tranh chấp bằng thương
lượng trên cơ sở luật pháp và tập quán quốc tế. điều kiện cho sự tôn trọng luật pháp
quốc tế là :

Thứ nhất, ở mỗi quốc gia, dân chủ và nhân quyền phải được tôn trọng, đồng thời
các nhà nước – dân tộc dù lớn hay nhỏ thực hiện đường lối đối ngoại đối nội hòa
bình, hợp tác cùng có lợi.
Thứ hai, các nước không được theo đuổi ý đồ tạo trật tự thế giới bằng sức mạnh
quân sự, đặc biệt các nước lớn phải loại bỏ tham vọng thống trị xã hội quốc tế, bắt
các nước nhỏ phụ thuộc các nước lớn. các nước nhỏ trên cơ sở giác ngộ lợi ích dân
tộc, tự lập vươn lên và tham gia tích cực vào phong trào không liên kết để bảo vệ
độc lập chủ quyền và lợi ích chân chính của mình.

Thứ ba, tôn trọng sự khác nhau về chế độ chính trị của mỗi quốc gia dân tộc, các tổ
chức khu vực (EU, ASEAN,…) các cộng đồng có chung mối quan tâm (cộng đồng
Pháp ngữ, cộng đồng Anh ngữ, cộng đồng Mỹ Latinh…);phấn đấu vì hòa bình khu
vực, lợi ích cộng đồng trên cơ sở những quy ước khu vực không trái với luật pháp
và tập quán quốc tế.

Về các tổ chức quốc tế, tổ chức quốc tế là tổ chức được thành lập trên cơ sở những
thỏa thuận quốc tế giữa các quốc gia độc lập có chủ quyền, các đảng phái, các tổ
chức chính trị, kinh tế, xã hội vì mục tiêu và lợi ích. Đó là một thiết chế của quan
hệ quốc tế đa phương, có mục tiêu, quyền hạn, quy định về cấu trúc tổ chức do
thành viên của tổ chức thỏa thuận.

Thứ nhất, về Liên hợp quốc: là tổ chức quốc tế lớn nhất thế giới, có mục đích duy
trì hòa bình và an ninh trên thế giới, phát triển các mối quan hệ hữu nghị giữa các
dân tộc và tiến hành hợp tác quốc tế giữa các nước trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc
bình đẳng và quyền tự quyết của các dân tộc. Từ trụ sở trong lãnh phận quốc tế tại
thành phố New York, Liên hợp quốc và các cơ quan chuyên môn của nó quyết
định các vấn đề về điều hành và luật lệ. Theo Hiến chương Liên hợp quốc thì tổ
chức này gồm 6 cơ quan chính, gồm: Đại Hội đồng, Hội đồng Bảo an, Hội đồng
Kinh tế và Xã hội, Ban Thư ký, Tòa án Công lý Quốc tế, Hội đồng Quản thác.
Ngoài ra, một số tổ chức tiến hành quản lý các cơ quan của Hệ thống Liên hợp
quốc, ví dụ như Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) và Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc
(UNICEF).
Liên hợp quốc có vai trò to lớn trong đời sống chính trị quốc tế:
Là tổ chức quốc tế lớn nhất, Liên hợp quốc tập hợp hầu hết các nước trên thế giới
(192 thành viên), đã góp phần giữ gìn hòa bình và an ninh quốc tế, thi hành hòa
bình, giải quyết các tranh chấp quốc tế, ngăn chặn dùng vũ lực uy hiếp độc lập chủ
quyền và toàn vẹn lãnh thổ của các nước khác, làm giảm căng thẳng, hòa hoãn
xung đột khu vực trên thế giới, góp phần giải trừ quân bị và hạn chế sản xuất vũ
khí hạt nhân.
Có đóng góp đáng kể vào việc thúc đẩy mối quan hệ hợp tác về kinh tế, chính trị,
văn hóa, xã hội, thực hiện cứu trợ nhân đạo cho các nước hội viên khi gặp khó
khăn.
Là diễn đàn quốc tế quan trọng để các lực lượng xã hội tiến bộ, dân chủ và hòa
bình đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản
động quốc tế khác. Trong những năm gần đây, Liên hợp quốc ra nhiều nghị quyết
về chống khủng bố quốc tế, chống bệnh tật hiểm nghèo.

Bên cạnh đó, Liên hợp quốc vẫn còn tồn tại một số hạn chế như; giải quyết các
tranh chấp, xung đột quốc tế còn can dự vào nội bộ của các nước, chịu sụ chi phối
của Mỹ và các nước phương Tây…

Thứ hai, Về NATO (Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương): liên minh chính trị,
quân sự do Mỹ cầm đầu. ra đời sau chiến tranh thế giới thứ hai (1949). Hiện nay có
trên 28 thành viên.
Mục tiêu ban đầu của NATO là lập một hệ thống an ninh Bắc Đại Tây Dương, có
vai trò tối cao về quân sự chính trị nhằm ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản trong khu
vực và trên thế giới. Cùng với việc chạy đua vũ trang, Mỹ và NATO đẩy mạnh
chiến lược diễn biến hòa bình, kết quả làm cho chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô
và Đông Âu sụp đổ.
NATO không chỉ có ảnh hưởng đến nội bộ và còn vươn tầm xa hơn khỏi châu Âu,
can thiệp vào các nước dưới chiêu bài nhân đạo, nhân quyền cao hơn chủ quyền.
Các nước châu Âu rất muốn thoát khỏi sự ảnh hưởng của Mỹ nhưng chưa thực
hiện được do còn bị chia rẽ vì một số nước vẫn muốn lệ thuộc vào Mỹ. Sự tồn tại
của NATO là mối đe dọa chủ quyền nhiều quốc gia và sự ổn định của thế giới,
cũng như làm tăng thêm tính bá quyền của đế quốc Mỹ

Thứ ba, về ASEAN (Hiệp hội các nước Đông Nam Á): được thành lập vào năm
1967 tại Băng Cốc (Thái Lan) với 5 thành viên đầu tiên: Thái Lan, Indonexia,
Malaixia, Philippin và Xingapo. Tuyên bố nêu rõ 3 mục tiêu cơ bản của ASEAN:
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội và phát triển văn hóa khu vực thông
qua các chương trình hợp tác; bảo vệ sự ổn định vê chính trị, kinh tế của khu vực
trước các cuộc ganh đua của các cường quốc lớn; là diễn đàn để giải quyết những
bất đồng trong nội bộ khu vực.
ASEAN có một bước ngoặt quan trọng là ký kết Hiến chương vào năm 2007,
thông qua Đề cương thúc đẩy triển khai xây dựng cộng đồng kinh tế ASEAN. Từ
đó đã góp phần đưa ASEAN trở thành một tổ chức liên chính phủ ở khu vực, có tư
cách pháp nhân, hợp tác và liên kết chặt chẽ hơn, đoàn kết, thống nhất hơn. Cơ cấu
ASEAN bao gồm 4 nhóm cơ quan: Cơ quan hoạch định chính sách, các ủy ban của
ASEAN, các ban thư ký ASEAN, các thiết chế hợp tác với các nước thứ ba.
Qua hơn 40 năm tồn tại và phát triển, ASEAN đã thể hiện được vai trò to lớn
của mình:
Hội tụ được 10 nước trong khu vực, tạo cơ hội cho các nước phát triển kinh tế,
giúp các quốc gia thành viên nâng cao vị thế trong nền chính trị quốc tế. Hình
thành cơ chế giải quyết và mâu thuẫn xung đột giữa các nước thành viên. Hòa bình
và ổn định được duy trì khá chắc chắn. Hình thành được ý thức về cộng đồng khu
vực, triển khai thực hiện AFTA. Việt Nam là một thành viên của ASEAN vào năm
1995, hiện nay Việt Nam và các nước trong khu vực vẫn đang hoạt động theo Hiến
chương ASEAN, hợp tác, giao lưu về các lĩnh vực để cùng phát triển. Từ đó nâng
cao vị thế của ASEAN trong khu vực và trên thế giới.

You might also like