Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 35

Tại sao Việt Nam chưa tồn tại các doanh nghiệp

có giá trị trường tồn…


APRIL 5, 2023 ~ NGUYEN PHI LONG

NPL, 202303

“Chúng không thể phạm tội ác, cũng không thể bị đưa ra ngoài vòng luật pháp hoặc
toà án, bởi vì chúng không có linh hồn” – Sir Edward Coke (1552-1634) phê bình về
hình thức công ty cổ phần (“CTCP”)
I – Bối cảnh lịch sử
Tại sao lại là Châu Âu?

Châu Âu có một lịch sử dài, nhiều biến động và đậm nét văn hóa cũng như là một
trong những cái nôi của văn minh nhân loại…

Lịch sử châu Âu thời tiền sử bắt đầu với công cuộc định cư của người vượn đứng
thẳng, giống Neanderthal, và loài người hiện đại. Vào thời kỳ cổ đại, nền văn minh
Hy Lạp cổ đại nở rộ ở châu Âu, mở đầu với hai nền văn minh Minos và Mycenae, và
phát triển hoàng kim từ thế kỷ thứ 8 trước Công Nguyên, với chiến thắng của nhân
dân Hy Lạp trước các cuộc xâm lược của Đế quốc Ba Tư, trong thời này thị quốc
Athena giàu mạnh đã có nền dân chủ, cho đến khi một nước Hy hóa lân cận là
Macedonia làm bá chủ Hy Lạp. Với vua Alexandros Đại Đế, người Macedonia đã mở
mang nền văn minh Hy Lạp đến tận Á châu, mở ra thời kỳ Hy Lạp hóa. Sau đó, vào
năm 31 trước Công Nguyên, Hoàng đế Augustus sau khi chiến thắng Vương triều Hy
hóa của Ai Cập, đã lập nên Đế quốc La Mã với cương thổ rộng lớn trải dọc từ Thổ
Nhĩ Kỳ tới Tây Ban Nha, từ Bắc Phi tới Scotland. Sự bành trướng của đế chế La Mã
đặt nền tảng cho sự ra đời của hàng loạt đế chế mà chưa bao giờ được thấy trước đó ở
châu Âu. Sau sự thoái trào của Đế quốc Tây La Mã vào năm 476, lịch sử châu Âu
bước vào thời kỳ đen tối, đánh dấu bằng sự tàn tạ trong giáo dục, trong tổ chức xã hội
và bởi những sự xâu xé của rất nhiều quân xâm lược man di, đặc biệt là người Viking,
Avar, Magyar và người Ả Rập.
Giai đoạn Trung Cổ được đánh dấu bằng sự tái thiết xã hội có tổ chức, chủ yếu là theo
chế độ phong kiến, và sự thống trị ở phương Bắc của Giáo hội Công giáo Rôma. Châu
Âu năm 814, về phía đông, Đế quốc Đông La Mã hưng thịnh, với các Hoàng đế tài ba
như Heraclius, là một chiến tướng kiệt xuất đánh bại quân Ba Tư vào thập niên 620.
Song, chính ngay từ thời điểm này người Ả Rập Hồi giáo càn quét châu Âu và không
ít khi đánh thắng Heraclius, dù rằng người Đông La Mã vẫn mạnh lên dưới triều
Hoàng đế Basil II, và trong trận Tours (732), Vương quốc Frank (người German) đã
đánh tan tác quân Ả Rập. Vào năm 800, sau khi đã bành trướng nước Frank cường
thịnh, chinh phạt các tộc German khác, vua Karl Đại đế được Giáo hoàng Lêô III
phong làm Hoàng đế Công giáo ở phương Tây đối trọng với Đông La Mã. Tuy Đế
quốc tan rã sau khi Karl Đại Đế mất, Vương quốc Đông Frank – nước Đức – dưới các
triều vua Heinrich der Finkler và Otto Đại đế đã lớn mạnh, đánh tan tành quân
Magyar điều này dẫn đến việc Otto Đại Đế lên làm Hoàng đế của Đế quốc La Mã
Thần thánh. Trước sức mạnh của đạo Hồi, các cuộc Thập tự chinh bùng nổ, và cuối
cùng Đế quốc Ottoman của người Thổ Nhĩ Kỳ hưng thịnh lên và chinh phạt kinh
thành Constantinopolis vào năm 1453, làm cho Đế quốc Đông La Mã diệt vong.
Trong khi đó, Anh Quốc kể từ đời vua Edward III đánh nhau với Pháp trong suốt cuộc
Chiến tranh Trăm Năm tàn khốc. Thời Trung Cổ được tiếp nối bởi công cuộc Phục
hưng, một sự tái khám phá giá trị và tri thức cổ điển, với sự hồi sinh của hai nền văn
hóa Hy Lạp cổ, và làm bàn đạp cho phong trào Cải cách Kháng nghị, một phong trào
tôn giáo và chính trị đã chứng kiến phần lớn Bắc Âu từ bỏ Giáo hội Công giáo Rôma
đồng thời tái xác định văn hóa cũng như các khối liên minh ở khắp lục địa, trào lưu
tôn giáo này mở đầu với nhà thần học Martin Luther người Đức khi ông lên án hệ
thống Giáo hội Công giáo Rôma vào năm 1517. Ông kiên quyết bảo vệ luận điểm của
mình, Thời kỳ này cũng chính là nền tảng cho sự phát triển của bành trướng thuộc địa,
củng cố sức mạnh ở các quốc gia thuộc Đại Tây Dương của Anh Quốc, Pháp, Bồ Đào
Nha và Tây Ban Nha đồng thời mở rộng tầm ảnh hưởng của châu Âu tới châu Mỹ,
châu Phi, Ấn Độ và phương Đông. Thời kỳ này là bước ngoặt cho cuộc cách mạng
công nghiệp và một thời kỳ tri thức được gọi là trào lưu Khai sáng.
Nửa cuối thế kỷ 17 chứng kiến Vương quốc Pháp của vua Louis XIV vươn lên thành
liệt cường quân sự hùng mạnh, với dã tâm xâm phạm các nước láng giềng, song ông
ta bị vua William III nước Anh chặn đứng. Song vào thế kỷ 18, ảnh hưởng của cả Anh
Quốc và Pháp tại châu Âu suy sụp dần đi, và các Vương triều Đông Âu vươn lên
thành các liệt cường. Với vị Hoàng đế hùng mạnh Pyotr Đại Đế, Đế quốc Nga – nước
rộng lớn nhất của Âu châu – đánh thắng Vương quốc Thụy Điển, và lên làm bá chủ
của miền Bắc Âu. Bên cạnh đó, Vương quốc Phổ – một quốc gia bé nhỏ khi đó – cũng
phát triển cường thịnh, với vị Quốc vương lỗi lạc Friedrich II Đại Đế, nhiều trận thắng
của ông trước liên quân hùng hậu Áo – Nga – Pháp – Thụy Điển đã trở thành kinh
điển, làm nước Phổ trở nên phi thường trong mắt người Âu. Ngay từ thế kỷ 17, rất
nhiều các quốc gia ở châu Âu thực hiện hàng loạt những cuộc cách mạng, trong đó nổi
bật nhất là cách mạng Pháp, cuộc cách mạng mở đầu cho hàng loạt cuộc chinh phạt
của Napoléon Bonaparte. Việc phá hủy các quốc gia đang tồn tại của Napoléon
Bonaparte và sau đó tái tổ chức châu Âu với hội nghị Viên đã tiếp sức cho chủ nghĩa
dân tộc đang phát triển, dẫn đến sự ra đời của đế quốc Áo-Hung sau đó, sự thống nhất
của nước Đức, sự thống nhất của Ý và những căng thẳng tại vùng Balkan, cũng như
những cải cách mạnh mẽ trong đế quốc Nga. Rồi Anh và Pháp, phần nào đó là Đế
quốc Ottoman, những quốc gia được biết đến là cường quốc. Các căng thẳng không
giải quyết được tại Balkan, và một hệ thống những khối đồng minh được gọi là Đồng
minh ba nước (1882) và khối đồng minh ba nước chính là nguyên nhân chủ yếu dẫn
đến cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, bản thân nó cũng mở đường cho cách
mạng Nga và chỉ kết thúc với sự tham gia của Hoa Kỳ. Hiệp ước đình chiến đã để lại
cho Đức gánh nặng bồi thường thiệt hại, gánh nặng này, kết hợp với Đại suy thoái
(Great Depression), đã tạo điều kiện để đảng Phát xít của Adolf Hitler cầm quyền, mở
đầu cho sự ra đời của Đệ tam Quốc xã cũng như sự xuất hiện của những đảng Phát Xít
tại Tây Ban Nha và Ý. Cuộc xâm chiếm Ba Lan, Bỉ và Pháp của Hitler là tín hiệu cho
sự khởi đầu của Chiến tranh thế giới lần thứ hai.

Chiến thắng của Phe Đồng Minh tại châu Âu và sự đầu hàng của Nhật Bản đã chứng
kiến việc quyền lực tại Trung Âu được chia sẻ giữa Liên bang Xô Viết, Anh Quốc,
Hoa Kỳ và Pháp. Tuy nhiên, điều này nhanh chóng dẫn đến sự hình thành các khối
Đông-Tây trong Chiến tranh Lạnh khi mà khối Warszawa do Liên Xô đứng đầu đối
mặt với khối NATO do Mỹ cầm đầu và được ngăn cách qua cái gọi là Bức màn sắt,
biểu tượng tiêu biểu là Bức tường Berlin. Tây Âu sau đó trải qua giai đoạn phát triển
kinh tế ổn định và mạnh mẽ, thành lập ra Cộng đồng Kinh tế châu Âu và sau đó là
Liên minh châu Âu. Trong khi đó, khối Warszawa tụt hậu, sau cùng dẫn đến cuộc cải
tổ Nga, khối Warszawa tan vỡ và bức tường Berlin sụp đổ. Sau chiến tranh lạnh ở
châu Âu thì sự kiện chính nổi lên là cuộc chiến sắc tộc tại Balkan, nổi bật tại Serbia,
Bosnia và Kosovo, cùng với sự can thiệp của NATO sau đó. Từ sự kiện 11 tháng 9,
chính sách đối ngoại của NATO bị gia tăng sự chi phối do phản ứng của nó với thế
giới Hồi giáo, và nổi bật hơn cả là những quan điểm mâu thuẫn về cuộc chiến ở Iraq,
trong khi đó thì liên minh châu Âu cũng kết nạp thêm phần lớn những thành viên của
khối Warszawa cũ cũng như các quốc gia vùng Baltic.

II – Về kinh tế
Năm 1951, Hiệp ước Paris thành lập Cộng đồng Than Thép châu Âu (ECSC) được ký
kết. Đây là một cộng đồng quốc tế dựa trên chủ trương siêu quốc gia và luật pháp
quốc tế, để giúp nền kinh tế châu Âu và ngăn ngừa chiến tranh trong tương lai, bằng
cách hội nhập các nước thành viên châu Âu với nhau.

Trong mục đích lập một Liên bang châu Âu, hai cộng đồng khác đã được đề nghị:
Cộng đồng Phòng vệ châu Âu (European Defence Community, EDC) và Cộng đồng
Chính trị châu Âu (European Political Community, EPC). Trong khi Hiệp ước cho các
Cộng đồng nói trên được phòng nghị viện Cộng đồng Than Thép châu Âu soạn thảo,
thì Nghị viện Pháp đã bác bỏ “Cộng đồng Phòng vệ châu Âu“. Chủ tịch Ủy ban châu
Âu Jean Monnet, nhân vật lãnh đạo đằng sau các cộng đồng, đã từ chức để phản đối,
và bắt đầu dự kiến tạo ra các cộng đồng khác, dựa trên việc hội nhập kinh tế hơn là
hội nhập chính trị. Sau Hội nghị Messina (Ý) năm 1955, Paul Henri Spaak được trao
nhiệm vụ chuẩn bị một bản báo cáo về ý tưởng một liên minh thuế quan (customs
union). Cái gọi là Báo cáo của Spaak của Ủy ban Spaak đã tạo thành nền tảng cho các
cuộc thương thuyết liên chính phủ tại Lâu đài Val Duchesse (Bỉ) năm 1956. Cùng với
Báo cáo của Ohlin, báo cáo của Spaak đã tạo cơ sở cho Các hiệp ước Roma.
Năm 1956, Paul Henri Spaak lãnh đạo Hội nghị liên chính phủ về Thị trường chung
và Euratom tại Lâu đài Val Duchesse, để chuẩn bị cho Các hiệp ước Roma năm 1957.
Hội nghị này dẫn tới việc ký kết Các hiệp ước Roma ngày 25/03/1957 để lập ra Cộng
đồng Kinh tế châu Âu. Các cộng đồng được thành lập là Cộng đồng Kinh tế châu Âu
(EEC) và Cộng đồng Năng lượng nguyên tử châu Âu (EAEC hoặc Euratom). Các
cộng đồng này rõ ràng là ít siêu quốc gia hơn các cộng đồng dự trù trước kia, do việc
phản đối của một số nước, cho là chủ quyền của họ bị xâm phạm. Cuộc họp chính
thức đầu tiên của Ủy ban Hallstein, diễn ra ngày 16/01/1958 tại Lâu đài Val
Duchesse. Cộng đồng Kinh tế châu Âu đã lập ra liên minh thuế quan trong khi Cộng
đồng Năng lượng nguyên tử châu Âu thúc đẩy việc hợp tác trong lãnh vực năng lượng
nguyên tử. Cộng đồng Kinh tế châu Âu nhanh chóng trở thành quan trọng nhất trong 3
cộng đồng, và mở rộng các hoạt động của mình. Một trong các thực hiện quan trọng
đầu tiên của Cộng đồng Kinh tế châu Âu là lập ra mức giá chung cho các sản phẩm
nông nghiệp (1962).

Năm 1968, các thuế quan trên một số sản phẩm buôn bán giữa các nước thành viên đã
được bãi bỏ. Một khủng hoảng khác đã xảy ra đối với các đề nghị tài trợ Chính sách
Nông nghiệp chung, có hiệu lực từ năm 1962. Thời gian quá độ nhờ đó các quyết định
được đưa ra bằng cách nhất trí đã chấm dứt, và cuộc bỏ phiếu đa số trong Hội đồng đã
có hiệu lực. Việc chống đối chủ trương siêu quốc gia của Tổng thống Pháp thời đó
Charles de Gaulle dẫn tới “chính sách bỏ trống ghế” do các đại diện của Pháp rút khỏi
các cơ quan của Cộng đồng, cho tới khi quyền phủ quyết của Pháp được phục hồi.
Cuối cùng, đạt tới thỏa hiệp Luxembourg ngày 29/01/1966 do đó một thoả thuận của
người quân tử (gentlemen’s agreement) cho phép các thành viên sử dụng quyền phủ
quyết trên các lĩnh vực quyền lợi quốc gia.
Năm 1967 Hiệp ước Hợp nhất đã có tác dụng, hợp nhất các cơ quan của Cộng đồng
Than Thép châu Âu và Cộng đồng Năng lượng nguyên tử châu Âu với các cơ quan
của Cộng đồng Kinh tế châu Âu, các cơ quan này vốn đã dự phần vào Nghị viện châu
Âu và Tòa án Cộng đồng châu Âu. Một cách tập thể, chúng được gọi là Các cộng
đồng châu Âu. Các cộng đồng này vẫn có tư cách pháp nhân độc lập, dù đã gia tăng
hội nhập. Vì nó gần sát với mục tiêu hội nhập chính trị và thống nhất châu Âu một
cách hòa bình, nên Mikhail Gorbachev đã mô tả là Ngôi nhà chung châu Âu
(Common European Home).

Thập niên 1960 đã có các ý định mở rộng Cộng đồng. Ngày 03/05/1960, Đan Mạch,
Ireland, Na Uy và Vương quốc Anh xin gia nhập Các cộng đồng châu Âu. Tuy nhiên
tổng thống Pháp Charles de Gaulle coi việc gia nhập của Anh như con ngựa thành
Troia của Hoa Kỳ cài vào, nên đã phủ quyết và đơn xin gia nhập của 4 nước nói trên
bị đình hoãn. Bốn nước này lại nộp đơn xin gia nhập ngày 11/05/1967, lúc đó Georges
Pompidou làm tổng thống Pháp kế vị Charles de Gaulle, nên Pháp không phủ quyết.
Các cuộc thương lượng bắt đầu từ năm 1970 dưới thời chính phủ thân châu Âu của
thủ tướng Anh Edward Heath về sự bất đồng ý kiến liên quan tới Chính sách Nông
nghiệp chung cùng quan hệ của Vương quốc Anh với Khối Thịnh vượng chung Anh,
2 năm sau các hiệp ước gia nhập đã được ký kết và 3 nước Đan Mạch, Ireland và
Vương quốc Anh đã gia nhập Cộng đồng (ngoại trừ Na Uy, vì dân bỏ phiếu chống,
trong cuộc trưng cầu ý dân). Tới ngày 12/06/1975, Hy Lạp xin gia nhập Cộng đồng
tiếp theo sự khôi phục nền dân chủ và được gia nhập ngày 01/01/1981. Tiếp theo Hy
Lạp, và sau việc khôi phục dân chủ của mình, Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha xin gia
nhập năm 1977 và được gia nhập ngày 01/01/1986. Năm 1987 Thổ Nhĩ Kỳ chính thức
xin gia nhập Cộng đồng và bắt đầu quá trình đàm phán về việc xin gia nhập lâu nhất
trong số các nước xin gia nhập (năm 2009, vẫn còn đang thương lượng). Các hiệp ước
Roma quy định là Nghị viện châu Âu phải được dân bầu trực tiếp, tuy nhiên điều đó
đòi Hội đồng châu Âu trước hết phải nhất trí về một hệ thống bầu cử chung. Hội đồng
đã trì hoãn vấn đề này và Nghị viện vẫn được chỉ định. Nghị viện làm áp lực để đạt tới
sự thỏa thuận, và ngày 20/9/1976 Hội đồng đã đồng ý phần các phương tiện cần thiết
cho việc bầu cử, nhưng hoãn các chi tiết về các hệ thống bầu cử mà ngày nay vẫn còn
khác biệt. Dưới thời chủ tịch Jenkins, tháng 6 năm 1979, các cuộc tuyển cử đã được tổ
chức trong mọi quốc gia thành viên thời đó (xem Cuộc bầu cử Nghị viện châu Âu,
1979). Nghị viện mới, được kích động bởi cuộc bầu cử trực tiếp và quyền hành mới,
đã bắt đầu làm việc trọn thời gian và tích cực hơn các nghị viện trước đây. Ngay sau
cuộc bầu cử, Nghị viện trở thành cơ quan đầu tiên của Cộng đồng đưa ra đề nghị
Cộng đồng nên chọn một lá Cờ châu Âu. Hội đồng châu Âu đã đồng ý và chọn các
biểu tượng châu Âu là các biểu tượng của Cộng đồng năm 1984.

Với triển vọng mở rộng hơn nữa, và việc mong muốn tăng cường hợp tác, Đạo luật
chung châu Âu đã được các bộ trưởng ngoại giao các nước thành viên ký ngày
17/02/1986 tại thành phố Luxembourg và ngày 28/02/1986 tại thành phố Den Haag,
(Hà Lan). Trong một tài liệu đơn, có nêu vấn đề cải cách các thể chế, gia tăng quyền
lực, hợp tác trong chính sách đối ngoại và thị trường chung, và có hiệu lực từ ngày
01/07/1987. Đạo luật này bị ảnh hưởng bởi dự định tạo ra Hiệp ước Maastricht, được
ký ngày 10/12/1991, và có hiệu lực từ ngày 01/11/1993, lập ra Liên minh châu Âu.
Liên minh châu Âu thu nạp Cộng đồng Kinh tế châu Âu làm một trong 3 trụ cột của
mình. Các lãnh vực hoạt động của Cộng đồng Kinh tế châu Âu trở thành một trụ cột
của Cộng đồng châu Âu, tiếp tục theo cấu trúc siêu quốc gia của Cộng đồng Kinh tế
châu Âu. Các cơ quan của Cộng đồng Kinh tế châu Âu trở thành các cơ quan của Liên
minh châu Âu, một số cơ quan thay đổi tên tùy theo nhu cầu; tuy nhiên Tòa án, Nghị
viện và Ủy ban châu Âu chỉ có đầu vào hạn chế trong 3 trụ cột mới, như chúng làm
việc theo hệ thống liên chính phủ nhiều hơn là Cộng đồng châu Âu. Theo Hiệp ước
Lisbon, hệ thống trụ cột này bị hủy bỏ và các trụ cột này phải theo con đường của
Cộng đồng.

III – Lịch sử những cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới mang nhiều hệ lụy
Thế kỷ 1
Khủng hoảng kinh tế Đế quốc La Mã (Năm thứ 33 sau Công nguyên)
Ở La Mã cổ đại, những người giàu có và đặc biệt là thành viên của tầng lớp thượng
lưu hoàng gia thường xuyên cấp cho người dân các khoản vay có lãi suất. Tuy nhiên,
vào năm 33 sau Công Nguyên, những khoản vay này ngày càng trở nên khan hiếm,
dẫn đến một cuộc khủng hoảng kinh tế trầm trọng.

Sự khan hiếm này xuất phát từ việc những nhà cầm quyền lâm thời ban hành một đạo
luật yêu cầu chủ nợ đầu tư 2/3 giá trị tài sản vào các bất động sản tại bán đảo Italia và
các con nợ phải hoàn trả lại số tiền tương đương từ các khoản đã vay. Trên thực tế,
các chủ nợ đã yêu cầu con nợ phải thanh toán toàn bộ giá trị các khoản vay. Người
vay buộc phải bán đất (thuộc sở hữu của họ) để trả nợ. Do nhu cầu bán đất tăng cao,
giá đất trên thị trường giảm sâu. Người vay không thể kiếm đủ tiền từ việc bán đất để
trả nợ nên buộc phải vay tiền từ những kẻ cho vay nặng lãi. Hậu quả là giá đất giảm,
tình trạng đói tín dụng trở nên phổ biến và lãi suất tăng chóng mặt. Nhiều người vay
do không thể thanh toán các khoản nợ nên bị đưa ra tòa và tịch thu tài sản.

Thế kỷ 3
Cuộc khủng hoảng thế kỷ thứ 3 hay còn được biết đến là khủng hoảng Đế quốc xảy ra
vào năm 235-284 sau Công nguyên. Đây là thời kỳ đế chế La Mã bị chia cắt thành 3
thực thể chính trị Đế chế Gallic, Đế chế La Mã và Đế chế Palmyrene.
Tình trạng chia cắt và tình hình xã hội bất ổn lúc bấy giờ xuất phát từ một số nguyên
nhân sau:

 Thay đổi mô hình lãnh đạo sau ám sát Alexander Severus (222-235 sau
Công nguyên)
 Sự gia tăng can dự chính trị của quân đội
 Lạm phát và suy thoái kinh tế từ phá giá tiền tệ dưới triều đại Severan
 Áp lực bảo vệ lãnh thổ từ các cuộc ngoại xâm
 Dịch bệnh
 Thiếu hụt lực lượng lao động trong lĩnh vực nông nghiệp do nam giới gia
nhập quân đội.
Kể từ thời Pax Romana, nền kinh tế của Đế chế Rome đã phụ thuộc phần lớn vào
thương mại giữa các cảng Địa Trung Hải và qua các hệ thống đường bộ rộng rãi đến
nội địa của Đế chế. Tình trạng bất ổn dân sự lan rộng khiến việc đi lại của các thương
gia không còn an toàn như trước và cuộc khủng hoảng tài chính xảy ra khiến việc trao
đổi hàng hóa trở nên rất khó khăn vì đồng tiền đã bị phá giá. Chính vì vậy, hoạt động
thương mại và nền kinh tế phải chịu ảnh hưởng nặng nề và rơi vào khủng hoảng.

Thế kỷ 14
Cuộc khủng hoảng Châu Âu thế kỷ 14
Vào đầu thế kỷ 14, tình hình chính trị xã hội kinh tế tại Châu Âu bất ổn do một số sự
kiện như biến đổi khí hậu, các cuộc khủng hoảng trong sản xuất nông nghiệp (nạn đói
lớn năm 1315-1317), sự tàn phá từ cuộc chiến giữa Pháp và Anh năm 1317, cái chết
đen hay còn gọi là đại dịch hạch (1347-1351). Kết quả là dân số ở một số khu vực của
Châu Âu đã giảm hơn một nửa. Người ta ước tính rằng từ 1/2 đến 2/3 dân số Châu Âu
chết trong khoảng từ 1346 đến 1351.

Trong bối cảnh đó, giá cả hàng hóa tăng mạnh. Có rất nhiều vụ vỡ nợ của các bang
trên khắp châu Âu, cũng như các vụ phá sản của các ngân hàng tư nhân. Điều này đã
để lại hậu quả nặng nề cho nền kinh tế Châu Âu. Với ít lao động, tiền lương tăng và ở
một số nơi, đặc biệt là Đông Âu, chính phủ phải nỗ lực thi hành các biện pháp để ngăn
người lao động rời khỏi lãnh thổ.

Thế kỷ 17
Hội chứng hoa tulip
Hội chứng hoa Tulip xuất hiện tại Hà Lan vào khoảng giữa thế kỷ 17 được xem là
bong bóng kinh tế đầu tiên trong lịch sử thế giới. Lúc bấy giờ, mọi người đổ xô đi
mua hoa tulip khiến giá hoa trên thị trường tăng chóng mặt. Có những thời điểm, một
củ Tulip hiếm được bán với giá USD 750.000 giá trị hiện nay và ước tính gấp 6 lần
thu nhập hằng năm của một người bình thường.

Tuy nhiên, thị trường hoa tulip bất ngờ sụp đổ vào tháng 2 năm 1637. Nhà đầu tư bán
tháo hoa tulip trong cơn hoảng loạn khiến giá giảm mạnh xuống còn 1% giá trị lúc
trước. Chỉ trong chốc lát, tài sản của nhiều người bốc hơi và lợi nhuận ảo trên giấy tờ
bị xóa sạch.

Thế kỷ 18
Bong bóng của Công ty Nam Dương
Vào năm 1717, công ty Nam Dương của Anh đã thiết lập tuyến thương mại đầu tiên
đến khu vực Mỹ Latinh. Nhờ vào việc thổi phồng thành tựu về hoạt động thương mại
này, giá cổ phiếu công ty tăng mạnh từ 128 lên 1.000 bảng Anh trong nửa năm. Thời
điểm đó, cổ phiếu công ty Nam Dương được coi là tài sản đầu tư ưa thích và kéo theo
một cơn sốt đầu cơ trên khắp nước Anh.

Để mua chứng khoán, các nhà đầu tư còn vay mượn tiền từ chính công ty Nam
Dương. Khi đến thời hạn trả nợ, nhiều người mất khả năng thanh toán và phải bán cổ
phiếu thuộc sở hữu của họ ra thị trường. Cung tăng khiến giá cổ phiếu sụt giảm
nghiêm trọng. Điều này đã đẩy nhiều ngân hàng đến bờ vực phá sản và nền kinh tế
Anh nhanh chóng sụp đổ.

Khủng hoảng tín dụng 1772


Trong những năm 1760 và 1770, vương quốc Anh trở nên vô cùng thịnh vượng nhờ
vào các thành tựu trong thương mại và hệ thống thuộc địa rộng lớn. Các ngân hàng
Nhà nước rất “mát tay” trong việc cho vay tín dụng. Tuy nhiên, vào tháng 6/1772, một
trong những đối tác lớn của ngân hàng James, Fordyce, Neal và Down là Alexander
Fordyce đã chạy sang Pháp để trốn nợ.

Sự việc này đã tạo nên sự hỗn loạn trong hệ thống ngân hàng của Anh thời kỳ đó. Các
chủ nợ nhanh chóng rút tiền khỏi ngân hàng, tạo nên một cuộc khủng hoảng tín dụng.
Sau đó, cuộc khủng hoảng này nhanh chóng lan sang Scotland, Hà Lan, nhiều vùng ở
Châu Âu và các thuộc địa của Anh tại Châu Mỹ.

Thế kỷ 19
Cuộc suy thoái kéo dài (1873–1896)
Cuộc khủng hoảng tài chính năm 1873 đã kích hoạt chuỗi suy thoái kinh tế ở Châu Âu
và Bắc Mỹ. Cuộc khủng hoảng này bắt nguồn từ một số nguyên nhân như:

 Lạm phát ở Mỹ
 Đầu cơ tràn lan (nổi bật là lĩnh vực đường sắt)
 Sự phá giá đồng bạc tại Đức và Mỹ
 Những gợn sóng kinh tế bất ổn từ cuộc chiến Franco-Prussian (1870-1871)
 Thiệt hại lớn về tài sản từ cuộc đại hỏa hoạn ở Chicago và Boston khiến dự
trữ ngân hàng ở thành phố New York lao dốc từ 50 triệu đô xuống còn 17
triệu từ tháng 9 đến tháng 10 năm 1873.
Ở Hoa Kỳ, vào giai đoạn 1873-1879, hơn 18.000 doanh nghiệp, 10 bang và hàng trăm
ngân hàng phá sản. Tình trạng thất nghiệp đạt đỉnh năm 1878 với tỷ lệ thất nghiệp ước
tính từ 8,25% đến 14%. Trong giai đoạn này, nước Anh được cho là chịu hậu quả
nghiêm trọng nhất. Anh mất đi một số vị trí dẫn đầu về công nghiệp đối với nền kinh
tế tại Châu Âu và phải trải qua một cuộc suy thoái kéo dài trong lĩnh vực nông nghiệp.

Khủng hoảng kinh tế thế giới vào thế kỷ 20


Đại suy thoái 1929-1939
Đại suy thoái năm 1929-1939 được xem là cuộc khủng hoảng kinh tế tồi tệ nhất thế kỷ
20. Nó không chỉ tàn phá nền kinh tế Mỹ mà còn tác động đến kinh tế thế giới. Hiện
nay có nhiều ý kiến khác nhau xung quanh nguyên nhân của đại suy thoái. Nhiều
người cho rằng thảm họa này xuất phát từ sự sụp đổ thị trường chứng khoán phố Wall
và quyết định sai lầm của Chính phủ Mỹ. Tại một số quốc gia ở thời điểm đó, cuộc
khủng hoảng này được nhắc đến với tên gọi Đại suy thoái cho đến khi cuộc Đại suy
thoái thật sự năm 1929 xuất hiện.

Tại Mỹ, vào đầu thế kỳ 20, việc cấp tín dụng trở nên vô cùng dễ dàng. Tình trạng này
đã dẫn đến sự lạm dụng vay tín dụng để đầu cơ chứng khoán. Vào tháng 10/1929, giá
cổ phiếu trên phố Wall sụt giảm mạnh. Bong bóng tài chính tan vỡ gây ra sự hỗn loạn
trên thị trường. Hậu quả là Chính phủ và doanh nghiệp rơi vào tình cảnh nợ nần. Bên
cạnh đó, chính sách thuế và những món nợ của chính phủ thời kỳ đó khiến hàng hóa
không thể bán ra nước ngoài. Ảnh hưởng của nó nhanh chóng lan rộng sang các nước
khác.

Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới đã khiến sản lượng công nghiệp giảm 45%, khoảng
5.000 ngân hàng phá sản, 50 triệu người thất nghiệp, mâu thuẫn xã hội bùng nổ. Một
số nước tư bản không có hoặc ít thuộc địa ngày càng thiếu vốn, thiếu nguyên liệu và
thị trường. Họ đã đi theo con đường phát xít hóa chế độ chính trị để giải quyết tình
trạng này.

Khủng hoảng giá dầu OPEC 1973


Cuộc khủng hoảng này bắt nguồn từ lệnh cấm vận dầu mỏ sang Hoa Kỳ và các đồng
minh của Hoa Kỳ của các nước thành viên OPEC (Tổ chức các nước xuất khẩu dầu
mỏ). Động thái này nhằm đáp trả việc Mỹ cung cấp vũ khí cho Israel trong chiến tranh
Israel-Ả rập lần thứ tư. Việt đột ngột ngừng xuất khẩu dầu mỏ đã gây ra tình trạng
thiếu hụt dầu trầm trọng tại các nước bị ảnh hưởng. Điều này khiến giá dầu leo thang,
tạo ra lạm phát cực cao. Nền kinh tế Mỹ và các nước phát triển lâm vào khủng hoảng.
Vì vậy, các nhà kinh tế gọi thời kỳ này là thời kỳ stagflation (sự trì trệ kết hợp lạm
phát).

Khủng hoảng châu Á 1997


Khủng hoảng Châu Á năm 1997 bắt đầu từ Thái Lan và lan rộng sang các nước Đông
Á. Tháng 7/1997, chính phủ Thái Lan xóa bỏ tỷ giá hối đoái cố định với đồng đô la.
Hành động này đã khiến đồng Baht Thái liên tục sụt giá và mất 40% giá trị chỉ trong
vòng 1 năm. Thị trường Tài chính Châu Á trở nên hoảng loạn. Dòng vốn đầu tư nước
ngoài khổng lồ đổ vào các nước Đông Á thời điểm đó ồ ạt rút khỏi thị trường. Các
công ty Thái vay bằng đồng USD nhanh chóng phá sản, thị trường chứng khoán giảm
72 % giá trị. Finance One công ty tài chính lớn nhất Thái Lan cũng phá sản. Ảnh
hưởng từ sự kiện này không chỉ lan rộng sang các nước Đông Á, gây ra tình trạng bất
ổn chính trị trong khu vực mà còn góp phần dẫn đến khủng hoảng tài chính Nga và
khủng hoảng tài chính Brazil.

Thế kỷ 21
Sự sụp đổ của các công ty “dot com”
Sự phát triển bùng nổ của Internet vào cuối thế kỷ 20 đã dẫn đến hiện tượng bong
bóng dot com. Dotcom dùng để chỉ các công ty hoạt động kinh doanh trên nền tảng
Internet với tên miền có chữ “.com” ở cuối. Hấp dẫn bởi những dự đoán về ngành
công nghệ, các nhà đầu tư đổ xô đi mua chứng khoán của các công ty dotcom. Nhiều
công ty mặc dù thực tế có ít tài sản vật chất nhưng được định giá tới hàng tỷ USD.
Trong khi đó, chỉ số chứng khoán Nasdaq Composite của các công ty này tăng theo
cấp số nhân. Cơn sốt này chỉ hạ nhiệt vào cuối tháng 10/2002 khi các báo cáo chỉ ra
nhiều công ty đang làm ăn không có lãi. Giá trị cổ phiếu chạm đáy, khiến nước Mỹ rơi
vào suy thoái kinh tế và làm trì trệ kinh tế toàn cầu.

Khủng hoảng kinh tế thế giới 2007-2008


Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu gần nhất xuất phát từ sự đổ vỡ bong bóng nhà đất
tại Mỹ. Thời điểm đó, các ngân hàng Mỹ cho với thế chấp mua nhà với lãi suất cao
đối với những đối tượng có rủi ro về khả năng trả nợ. Điều này đã kéo theo một loạt
các sự kiện như tình trạng nợ tín dụng gia tăng, giá nhà đất chạm đáy, thị trường
chứng khoán sụp đổ, hệ thống ngân hàng lao đao, thất nghiệp tăng cao. Đỉnh điểm là
ngân hàng Lehman Brothers một trong những ngân hàng đầu tư lớn nhất thế giới đệ
đơn phá sản vào năm 2008. Cuộc khủng hoảng nhanh chóng lan sang các quốc gia
khác, tàn phá thị trường tài chính thế giới và gây ra thảm họa tài chính lớn nhất kể từ
Đại suy thoái 1929.

Châu Âu hiện đang đối mặt với phép thử khó khăn nhất kể từ khi đại dịch COVID-19
bùng phát. Một loạt rủi ro đang đe dọa đến sự tăng trưởng, ổn định của châu lục này.
Khủng hoảng năng lượng, lạm phát tăng cao tác động tiêu cực đến người tiêu dùng, có
thể đặt dấu chấm hết cho sự phục hồi kinh tế của khu vực sau đại dịch COVID-19,
kéo theo nguy cơ bất ổn chính trị – xã hội gia tăng. Bối cảnh này đang đặt các nhà
hoạch định chính sách của châu Âu trước những bài toán nan giải.

Khủng hoảng năng lượng – khan hiếm lương thực, thực phẩm
Sau khi Nga tiến hành “chiến dịch quân sự đặc biệt” ở Ukraine hồi tháng 2-2022,
Liên minh châu Âu (EU) và Mỹ đã tiến hành áp đặt các biện pháp trừng phạt chưa
từng có đối với Nga, khiến quan hệ Nga – EU suy giảm nghiêm trọng, nguồn cung
năng lượng của Nga cho châu Âu trở nên khan hiếm. Không chỉ đường ống dẫn khí
đốt “Dòng chảy phương Bắc 2” bị bỏ hoang, mà đường ống dẫn khí đốt “Dòng chảy
phương Bắc 1” tới Đức cũng đã ngừng hoạt động vô thời hạn. Tình trạng khan hiếm
nguồn cung đã khiến giá năng lượng tăng mạnh, giá khí đốt tự nhiên đạt mức USD
3.100 /1000m3 vào giữa tháng 8-2022, tăng 610% so với cùng kỳ năm 2021. Với mức
giá này, giá điện ở châu Âu đã tăng gần 300% vào năm 2022, phá vỡ mọi kỷ lục. Nhìn
chung, giá năng lượng hiện nay tăng hơn gấp 10 lần so với mức giá trung bình trong 5
năm qua. Nhiều quốc gia châu Âu bắt đầu lo ngại về trữ lượng khí đốt tự nhiên và
than đá trong mùa đông năm nay, thậm chí Na Uy, quốc gia trước đó từng xuất khẩu
năng lượng sang châu Âu, bắt đầu hạn chế xuất khẩu điện vào tháng 8-2022. Toàn bộ
châu Âu đang chìm trong tình trạng thiếu hụt năng lượng nghiêm trọng. Đức – nền
kinh tế lớn nhất EU – đã phải chi euro 100,2 tỷ (tương đương 2,8% GDP) khi nước
này bị ảnh hưởng nặng nề do phụ thuộc quá nhiều vào nguồn cung cấp khí đốt của
Nga. Ngày 21-9-2022, Đức tuyên bố quốc hữu hóa Tập đoàn khí đốt khổng lồ Uniper
do đang gặp khó khăn. Pháp chi euro 53,6 tỷ, tương đương 2,2% GDP được phân bổ,
kể từ khi nước này bảo vệ người tiêu dùng trước việc tăng giá điện và khí đốt vào
tháng 11-2021. Về tổng thể, kể từ tháng 9-2021 đến nay, các nước EU đã chi khoảng
314 tỷ euro để đối phó với cuộc khủng hoảng năng lượng.
Khủng hoảng năng lượng châu Âu còn trở nên nghiêm trọng hơn do sự suy giảm của
thanh khoản. Các sàn giao dịch, công ty thanh toán bù trừ và công ty môi giới đã nâng
tỷ lệ ký quỹ ban đầu lên 100 – 150% giá trị hợp đồng, khiến việc bảo hiểm rủi ro trở
nên quá tốn kém. Tập đoàn khí đốt hàng đầu của châu Âu Equinor (Na Uy) cho biết,
các công ty năng lượng châu Âu, ngoại trừ Anh, cần ít nhất USD 1.500 tỷ để trang trải
chi phí do giá khí đốt tăng cao. Con số này có thể so sánh với USD 1.300 tỷ các khoản
vay thế chấp dưới chuẩn của Mỹ vào năm 2007, vốn đã gây ra một cuộc khủng hoảng
tài chính toàn cầu. Deutsche Bank dự báo, một cuộc suy thoái “dài hơn và sâu hơn” sẽ
diễn ra ở châu Âu, trong khi cuộc khủng hoảng năng lượng diễn biến theo chiều
hướng ngày một tồi tệ hơn.
Năng lượng là một chủ đề chính gây bất hòa giữa các nước châu Âu, là tâm điểm của
các cuộc tranh luận chính trị và kinh tế tại châu lục này trong thời gian qua. Ngày 9-9-
2022, Bộ trưởng Năng lượng các nước EU đã tiến hành họp tại Brussels (Bỉ) để tìm
kiếm thỏa thuận về các biện pháp bảo vệ người dân trước giá năng lượng tăng cao và
ngăn chặn các công ty năng lượng phá sản. Các nước thành viên EU nhìn chung ủng
hộ đề xuất giúp các nhà cung cấp điện không bị phá sản do khó khăn về thanh khoản
nhưng vẫn chia rẽ về kế hoạch áp mức giá trần đối với khí đốt của Nga. Các nước
Baltic nằm trong số những nước ủng hộ ý tưởng này vì cho rằng điều này sẽ giảm
nguồn thu của Nga trong tài trợ cho chiến dịch quân sự của Nga tại Ukraine. Tuy
nhiên, Hungary phản đối việc áp mức giá trần đối với khí đốt của Nga bởi điều này sẽ
khiến Nga ngừng cung cấp khí đốt sang châu Âu ngay lập tức, đi ngược lại với lợi ích
của Hungary. Bỉ cũng cho rằng, hiện kim ngạch xuất khẩu khí đốt của Nga đến châu
Âu là rất ít, vì vậy giá trần khí đốt không gây ảnh hưởng đối với Nga.

Chiến sự Nga – Ukraine, giá năng lượng tăng cao, giá cả leo thang cùng tình trạng
lạm phát đang buộc các chính phủ châu Âu phải tăng cường hỗ trợ sức mua cho người
dân trong nước. Dữ liệu do Reuters và Tổ chức tư vấn Bruegel tổng hợp cho thấy,
chính phủ các nước EU đã cam kết euro 282 tỷ (tương đương 2,3% GDP của cả khối)
cho các biện pháp cứu trợ và một số nước còn có kế hoạch chi thêm hàng tỷ euro.
Ngày 4-9-2022, Chính phủ Đức đã đề xuất một gói hỗ trợ thứ ba trị giá euro 65 tỷ. Bộ
Tài chính Pháp ước tính, các biện pháp được thực hiện kể từ năm 2021 đến nay đã
tiêu tốn euro 67 tỷ, bao gồm euro 24 tỷ để bù đắp cho giá khí đốt và điện đang gia
tăng, cũng như các khoản giảm giá có trợ cấp đối với nhiên liệu xe. Italia cũng không
“thua kém” với các biện pháp hỗ trợ cam kết đã lên tới euro 52 tỷ và đang có kế hoạch
cho một gói mới trị giá ít nhất euro 10 tỷ. Tương tự, Chính phủ Tây Ban Nha cho biết
họ đã huy động được hơn euro 30 tỷ cho mục đích này. Tuy nhiên, chi tiêu mạnh tay
hơn đồng nghĩa với nợ công gia tăng. Trong quý I-2022, nợ công tương đương tới
189% GDP ở Hy Lạp, 152,6% ở Italia, 127% ở Bồ Đào Nha, 117,7% ở Tây Ban Nha,
107,9% ở Bỉ và 114,4% ở Pháp. Chi tiêu cao hơn cũng đi kèm với chi phí đi vay ngày
một tăng. Tháng 7-2022, Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) đã tăng lãi suất lần
đầu tiên trong hơn một thập niên qua để chống lại lạm phát phi mã – vốn là một hệ
quả từ giá năng lượng tăng cao. Lợi suất trái phiếu chính phủ Pháp kỳ hạn 10 năm
cũng đạt mức cao nhất trong 8 năm là 2,5% vào ngày 20-9-2022, trong khi trái phiếu
Đức hiện có mức lợi suất 1,8% sau khi lợi suất âm trong đầu năm 2022. Đáng chú ý,
lợi suất của trái phiếu Italia đã tăng gấp 4 lần – từ 1% vào đầu năm 2022 lên 4% hiện
nay. Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) kêu gọi EU cần phải cải cách các quy tắc ngân sách,
đồng thời nhấn mạnh khu vực châu Âu phải tránh để xảy ra các cuộc khủng hoảng nợ
vốn gây nhiều bất ổn lớn và khiến chính EU gặp rủi ro. Hiện nay, EU đã đình chỉ các
quy tắc hạn chế thâm hụt ngân sách của các nước ở mức tương đương 3% GDP và nợ
ở mức 60% GDP cho đến năm 2023. Dự kiến, trong tháng 10-2023, EC sẽ đưa ra đề
xuất cải cách các quy tắc ngân sách của khối.
Một thực tế là, năng lượng được sử dụng trong suốt quá trình sản xuất thực phẩm từ
phân bón đến thu hoạch, làm lạnh, do vậy, người nông dân không chỉ phải gánh chi
phí năng lượng tăng cao, mà còn chi nhiều hơn cho phân bón, đóng gói và vận
chuyển. Tổng chi phí sản xuất nông nghiệp đã tăng nhanh hơn bao giờ hết. Ngành sản
xuất sữa và bánh mì bị ảnh hưởng lớn bởi quá trình thanh trùng và tạo sữa bột cũng
tốn nhiều năng lượng. Nhiều nông dân trồng rau quả đã giảm diện tích trồng cho vụ
thu hoạch tiếp theo vì chi phí vận hành nhà kính cao hơn nhiều so với số tiền mà họ có
thể kiếm được. Hiện nay, khoảng 40% trong số 3.000 thành viên của Tổ chức
Glastuinbouw Nederland (đại diện cho những nông dân trồng rau trong nhà kính tại
Hà Lan) đang gặp khó khăn về tài chính. Sản lượng nông sản được trồng trong các
nhà kính có hệ thống sưởi của Anh trong năm nay được dự báo giảm một nửa so với
mức trung bình các năm do chi phí năng lượng tăng cao. Copa – Cogeca, liên minh
nông dân và hợp tác xã nông nghiệp ở EU, Food Drink Europe và PFP, hai trong số
các hiệp hội sản xuất thực phẩm lớn nhất khu vực này cho biết, các thành viên bắt đầu
phải đóng cửa nhà máy hoặc giảm sản lượng. Pháp cũng đang phải chuẩn bị cho tình
trạng thiếu lương thực và giá cả tăng cao sau đợt nắng nóng khắc nghiệt vào mùa hè
vừa qua. Liên đoàn Legumes de France ước tính, thiệt hại từ 25 – 35% sản lượng rau
và giá rau tươi đã tăng 4,9% trong hơn một năm qua.

Theo các nhà phân tích, nguyên nhân chính khiến lạm phát tại EU gia tăng chủ yếu do
những cú sốc kinh tế của đại dịch COVID-19 cùng cuộc xung đột Nga – Ukraine dẫn
tới giá năng lượng tăng phi mã. Tuy nhiên, việc tìm lời giải cho bài toán hạ giá năng
lượng của EU gặp nhiều khó khăn, nhất là khi nguồn cung khí đốt từ Nga tiếp tục gián
đoạn và nhu cầu sưởi ấm dự kiến tăng cao trong mùa đông sắp tới. Ngoài ra, các yếu
tố như giá thực phẩm tăng, chuỗi cung ứng bị gián đoạn, nắng nóng kéo dài… cũng là
những nguyên nhân khiến tình trạng lạm phát tại EU càng trở nên nghiêm trọng. Dấu
hiệu bất ổn đã xuất hiện ở châu Âu và đang dần lan rộng.
Từ đầu tháng 9-2022 đến nay, tại nhiều nước châu Âu liên tục xuất hiện tình trạng
người dân xuống đường biểu tình phản đối chính phủ do lạm phát, giá cả sinh hoạt và
năng lượng leo thang. Châu Âu giờ đây còn phải đối mặt với làn sóng di cư mới. Số
liệu của Frontex, cơ quan về biên giới của EU công bố cho thấy, số lượng người di cư
đã tăng lên 117.720 người trong 6 tháng đầu năm 2022, tăng 84% so với cùng kỳ năm
2021. Số lượng người nhập cảnh qua Tây Balkan tăng gần 200%. Dự kiến, khoảng
60.000 người sẽ đi thuyền vượt biển trái phép để đến châu Âu trong năm 2022, tăng
gấp đôi so với năm 2021.

IV – Tóm lược kinh tế Việt Nam


Trải qua nhiều cuộc chiến tranh, từ một quốc gia thuần nông, đại đa số người dân
sống ở nông thôn, trình độ phát triển thấp, Việt Nam đã chuyển mình trở thành một
quốc gia có mức thu nhập trung bình trên thế giới. Cùng với tăng trưởng kinh tế, sự ổn
định kinh tế vĩ mô được duy trì, giúp cho Việt Nam chủ động hơn trong xu thế hội
nhập kinh tế quốc tế.

Nhìn lại chặng đường 75 năm qua, có thể chia làm các giai đoạn chính:

Trước năm 1848


Nền văn minh của Việt Nam đã được xây dựng trên nông nghiệp. Các triều đại phong
kiến đã luôn luôn coi nông nghiệp là cơ sở kinh tế chính, những tư tưởng kinh tế của
họ được khẳng định trên chủ nghĩa trọng nông. Quyền sở hữu đất đai được công nhận
bên cạnh sở hữu công ruộng đất và những công trình quy mô lớn như đê, các công
trình thủy lợi đã được xây dựng ở đồng bằng sông Hồng tạo điều kiện cho canh tác lúa
nước. Trong những thời điểm yên bình, những người lính được gửi về nhà để làm
nông, triều đình gọi chính sách này là ngụ binh ư nông. Hơn nữa, triều đình cấm giết
mổ trâu bò, gia súc và tổ chức nhiều nghi lễ liên quan tới nông nghiệp. Thủ công mỹ
nghệ và nghệ thuật được coi trọng, nhưng thương mại không được xem trọng, những
người kinh doanh được gọi là “con buôn“. Do đồng bằng nhỏ hẹp, nông nghiệp năng
suất thấp, thủ công nghiệp và thương mại kém phát triển nên nền kinh tế quốc gia là
tự cung tự cấp. Trong khu vực Đông Nam Á, Việt Nam không thể xem là một quốc
gia giàu có.
Từ thế kỉ 16, một nền kinh tế thị trường bắt đầu phát triển. Tại Đàng Trong ngoại
thương phát triển mạnh. Đàng Trong trở thành nơi cung cấp nông sản, lâm sản,
khoáng sản cho thương nhân Trung Quốc, Nhật Bản và phương Tây. Sang thời
Nguyễn, các cảng thương mại ban đầu, như Hội An, bị hạn chế, và các quốc gia nước
ngoài có nền văn hóa khác nhau và tham vọng xâm lược của họ được coi là một mối
đe dọa. Do nền kinh tế mang tính tự cung tự cấp, Việt Nam không có một nền công
nghiệp và thương mại phát triển nên cũng không có nhu cầu mở cửa để giao thương.
Chính sách đóng cửa này khiến ngoại thương không thể phát triển khiến sản xuất
trong nước không có nhân tố kích thích để phát triển dẫn đến một mức độ đình trệ
trong nền kinh tế Việt Nam và góp phần đưa Việt Nam trở thành thuộc địa của Pháp.
Trong khi đó Nhật Bản tuy cũng thi hành chính sách Toả Quốc vì e ngại bị phương
Tây xâm lược nhưng nền kinh tế của họ đã phát triển tới mức hình thành một thị
trường nội địa và có nhu cầu tăng cường ngoại thương. Nhật Bản đã có các đô thị lớn
sầm uất và một giới doanh nhân khao khát làm giàu. Chủ nghĩa tư bản đang hình
thành tại Nhật Bản. Chính vì thế Nhật Bản chấp nhận mở cửa để giao thương với
phương Tây.

Thời kỳ 1945-1954: Đẩy mạnh sản xuất, xây dựng và phát triển kinh tế kháng
chiến
Thời kỳ 1945-1954 là thời kỳ đầu tiên xây dựng chế độ kinh tế mới ở Việt Nam và là
giai đoạn khó khăn nhất, gian khổ nhất vì vừa phải kháng chiến chống giặc, vừa phát
triển kinh tế trong điều kiện nghèo nàn, thiếu thốn. Đặc trưng của nền kinh tế Việt
Nam thời kỳ này là nền kinh tế nông thôn, quy mô kinh tế rất thấp, tiềm lực yếu kém.
GDP bình quân đầu người năm 1945 chỉ đạt 60 đồng, tương đương USD 35.

Kinh tế nông thôn và sản xuất nông nghiệp có vị trí đặc biệt quan trọng trong giai
đoạn này. Cùng với việc động viên nông dân tích cực tăng gia sản xuất, Chính phủ đã
từng bước thực hiện các chính sách về ruộng đất như giảm tô, giảm tức. Với chính
sách toàn dân tăng gia sản xuất, lại được sự giúp đỡ tận tình của Chính phủ, các cơ
quan, các đơn vị bộ đội nên nông nghiệp trong suốt thời kỳ kháng chiến được bảo
đảm ổn định và cung cấp đủ lương thực cho kháng chiến. Trong các vùng giải phóng,
sản xuất nông nghiệp phát triển, sản lượng lương thực năm 1954 đạt gần 3 triệu tấn,
tăng 13,7% so với năm 1946. Nông nghiệp đã hoàn thành sứ mệnh là nền tảng của
kinh tế kháng chiến với những đóng góp to lớn giải quyết nạn đói các năm 1945,
1946.

Công nghiệp và thủ công nghiệp kháng chiến được xây dựng, đặc biệt là công nghiệp
quốc phòng đã góp phần không nhỏ đáp ứng nhu cầu chiến đấu và tiêu dùng. Từ năm
1946-1950 đã sản xuất 20 nghìn tấn than cốc, 800 kg ăng-ti-moan; từ năm 1950 đến
cuối năm 1952 sản xuất được 29,5 tấn thiếc; 43 tấn chì; những năm 1950-1954 sản
xuất được 169,3 triệu mét vải; 31,7 nghìn tấn giấy…

Chính sách khuyến khích mở rộng việc buôn bán của Chính phủ đã làm hàng hóa
được lưu thông tự do trong toàn quốc. Theo đó, một số văn bản pháp lý như Nghị định
của Chính phủ ngày 02/10/1945 về bãi bỏ các luật lệ hạn chế kinh doanh dưới thời
Pháp, Nhật; sắc lệnh của Chủ tịch nước ngày 22/9/1945 về xóa bỏ các tổ chức độc
quyền kinh doanh của người Pháp, Nghị định ngày 19/9/1945 của Bộ Quốc dân Kinh
tế về xóa bỏ tất cả mọi hạn chế lưu thông hàng hóa thông thường cho kinh tế và đời
sống như gỗ, giấy, lương thực, thực phẩm. Mặc dù hàng hóa trong thời kỳ này khan
hiếm nhưng người dân vẫn có thể mua được dễ dàng các loại hàng hóa thiết yếu phục
vụ đời sống sinh hoạt hàng ngày ở các chợ. Tuy nhiên, có thể nói đây là giai đoạn
nghiêm trọng nhất về lạm phát. Chỉ số giá bán lẻ bình quân năm trong giai đoạn 1945-
1954 tăng khoảng 66%. Cùng với nỗ lực đẩy mạnh sản xuất, sự nghiệp giáo dục –
chống giặc dốt được coi là một trong những nhiệm vụ hàng đầu, đi đôi với chống giặc
ngoại xâm. Từ 1946 đến 1954 có 10,5 triệu người thoát nạn mù chữ. Bên cạnh đó,
nhiệm vụ bảo vệ sức khỏe nhân dân được Đảng và Chính phủ luôn đề cao hàng đầu.
Thời kỳ này số cơ sở khám chữa bệnh còn thưa thớt trên cả nước, chủ yếu là loại hình
bệnh xá – năm 1943 cả nước có 771 cơ sở chữa bệnh, trong đó có 421 bệnh xá, 212
nhà hộ sinh, và 39 bệnh viện.
Thời kỳ 1955-1975: Khôi phục và phát triển kinh tế sau chiến tranh, thực hiện các
chỉ tiêu trong Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm lần thứ nhất
Trong thời kỳ này, Chính phủ đã phê duyệt Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm
lần thứ nhất (1961-1965) nhằm phấn đấu xây dựng bước đầu cơ sở vật chất và kỹ
thuật của chủ nghĩa xã hội, thực hiện một bước công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, xây
dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của các ngành kinh tế quốc dân, trước hết là các ngành
công nghiệp và nông nghiệp. Năm 1975, GDP bình quân đầu người đạt 232 đồng,
tương đương USD 80.

Trong lĩnh vực nông nghiệp, năm 1975 có 17 nghìn hợp tác xã nông nghiệp, tăng 12,2
nghìn hợp tác xã so với năm 1958; sản lượng lương thực quy thóc đạt 5,49 triệu tấn,
tăng 1,73 triệu tấn so với năm 1955; năng suất lúa đạt 21,1 tạ/ha, tăng 5,2 tạ/ha; đàn
lợn có 6,6 triệu con, tăng 4,2 triệu con. Sản xuất công nghiệp từng bước được khôi
phục và phát triển với đường lối công nghiệp hóa, nhiều cơ sở sản xuất công nghiệp
được phục hồi và xây dựng. Năm 1975, giá trị tổng sản lượng công nghiệp đạt 4.175,4
tỷ đồng, gấp 13,8 lần năm 1955; bình quân năm trong giai đoạn 1956 -1975 tăng
14%/năm. Thương nghiệp quốc doanh được nhà nước quan tâm và có sự phát triển
nhanh chóng, làm nhiệm vụ hậu cần cho sản xuất và chiến đấu. Tổng mức bán lẻ hàng
hóa xã hội năm 1975 đạt 5.358,3 triệu đồng, gấp 7,8 lần năm 1955. Chỉ số giá bán lẻ
giai đoạn 1955 -1975 mỗi năm tăng 4,3%, thấp hơn nhiều so với mức tăng 66% của
thời kỳ 1945-1954.

Cùng với phát triển kinh tế, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân cũng nâng
lên. Hoạt động giáo dục đạt được những thành tựu lớn. Số người đi học năm 1975 đạt
6.796,9 nghìn người, gấp 5,3 lần năm 1955. Tính bình quân cho 1 vạn dân, năm 1955
có 949 người đi học thì đến năm 1975 có 2.769 người, gấp 2,9 lần. Nhờ những cố
gắng, nỗ lực của ngành Y, y tế nông thôn ở miền Bắc trong thời kỳ này đã có những
thay đổi rõ rệt. Số bệnh viện được đầu tư xây dựng ở miền Bắc, từ 57 bệnh viện, 17
bệnh xá năm 1955 lên thành 442 bệnh viện và 645 bệnh xá năm 1975. Số lượng cán
bộ ngành y cũng tăng nhanh từ 108 bác sĩ năm 1955 lên 5.684 bác sĩ năm 1975. Năm
1975, thu nhập bình quân đầu người một tháng của gia đình công nhân viên chức ở
miền Bắc là 27,6 đồng (tăng 57,7% so với năm 1945); thu nhập bình quân đầu người
một tháng của gia đình xã viên hợp tác xã nông nghiệp ở miền Bắc là 18,6 đồng (gấp
2,6 lần).

Thời kỳ 1976-1985: Nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp
Thực hiện hai kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội là Kế hoạch 5 năm lần thứ hai
(1976-1980) và Kế hoạch 5 năm lần thứ ba (1981-1985), nhân dân Việt Nam đã đạt
được những thành tựu quan trọng: Khắc phục từng bước những hậu quả nặng nề của
chiến tranh; Khôi phục phần lớn những cơ sở công nghiệp, nông nghiệp, giao thông ở
miền Bắc và xây dựng lại các vùng nông thôn ở miền Nam bị chiến tranh tàn phá.

Thời kỳ này, Nhà nước quản lý nền kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính dựa
trên hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh áp đặt từ trên xuống dưới. Các doanh nghiệp hoạt
động trên cơ sở các quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các chỉ tiêu
pháp lệnh được giao. Tổng sản phẩm trong nước bình quân mỗi năm trong giai đoạn
1977-1985 tăng 4,65%, trong đó: nông, lâm nghiệp tăng 4,49%/năm; công nghiệp
tăng 5,54%/năm và xây dựng tăng 2,18%/năm. Theo loại hình sở hữu, sở hữu quốc
doanh tăng 4,29%; sở hữu tập thể tăng 10,26% và sở hữu tư nhân, cá thể tăng 0,71%.
Nhìn chung, tăng trưởng kinh tế trong thời kỳ này thấp và kém hiệu quả. Nông, lâm
nghiệp là ngành kinh tế quan trọng (chiếm 38,92% GDP trong giai đoạn này), nhưng
chủ yếu dựa vào độc canh trồng lúa nước. Công nghiệp được dồn lực đầu tư nên có
mức tăng khá hơn nông nghiệp, nhưng tỷ trọng trong toàn nền kinh tế còn thấp (chiếm
39,74% GDP), chưa là động lực để thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng. Thương nghiệp
quốc doanh phát triển nhanh chóng, hợp tác xã tuy ở thời kỳ đầu xây dựng, nhưng đã
có những bước vươn lên chiếm lĩnh thị trường, nhờ đó hạn chế được nạn đầu cơ, tích
trữ và tình trạng hỗn loạn về giá cả. Tổng mức bán lẻ hàng hóa xã hội bình quân thời
kỳ này tăng 61,6%/năm.

Kinh tế tăng trưởng chậm làm mất cân đối cung – cầu (thiếu hụt nguồn cung), đồng
thời do bị tác động bởi việc cải cách tiền lương vào năm 1985, là những nguyên nhân
dẫn đến chỉ số giá bán lẻ tăng rất cao, bình quân giai đoạn 1976-1985 chỉ số giá bán lẻ
tăng 39,53%/năm.

Chính phủ chủ trương nhanh chóng xóa nạn mù chữ và đẩy mạnh bổ túc văn hóa, xem
đó là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu. Đầu năm 1978, tất cả các tỉnh và thành phố miền
Nam đã căn bản xoá nạn mù chữ. Trong tổng số 1.405,9 nghìn người được xác định
không biết chữ, có 1.323,7 nghìn người thoát nạn mù chữ. Công tác dạy nghề phát
triển cũng mạnh mẽ. Năm 1977, trên cả nước chỉ có 260 trường trung học chuyên
nghiệp, hơn 117 nghìn sinh viên và 7,8 nghìn giáo viên. Đến năm 1985, số trường
trung học chuyên nghiệp là 314 trường, với quy mô 128,5 nghìn sinh viên và 11,4
nghìn giáo viên (tăng 9% về số sinh viên và 44,9% về số giáo viên so với năm 1977).
Hệ thống y tế được mở rộng, xây mới và áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật. Số
giường bệnh thuộc các cơ sở y tế tăng từ 89,4 nghìn giường năm 1976 lên 114,7 nghìn
giường năm 1985. Số nhân viên y tế tăng từ 110,9 nghìn người năm 1976 lên 160,2
nghìn người năm 1985, trong đó số bác sĩ tăng từ 9.104 người lên 19.029 người. Ở
miền Bắc, mặc dù thu nhập bình quân đầu người một tháng của gia đình công nhân
viên chức tăng từ 27,9 đồng năm 1976 lên đến 270 đồng năm 1984; thu nhập bình
quân đầu người một tháng của gia đình xã viên hợp tác xã nông nghiệp tăng từ 18,7
đồng lên đến 505,7 đồng, nhưng do lạm phát cao, nên đời sống nhân dân hết sức khó
khăn, thiếu thốn.

Thời kỳ 1986-2000: Thực hiện đường lối đổi mới nền kinh tế
Nhận ra những bất cập của cơ chế kinh tế hiện hành, Nhà nước bắt đầu có một số thay
đổi trong chính sách quản lý kinh tế. Trong thời kỳ này, Việt Nam đã thực hiện đường
lối đổi mới, chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp sang nền kinh
tế hàng hóa nhiều thành phần, hoạt động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của
Nhà nước và định hướng xã hội chủ nghĩa.

Giai đoạn 1986-2000, tổng sản phẩm trong nước bình quân mỗi năm tăng 6,51%;
trong đó: khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,72%; khu vực công nghiệp và
xây dựng tăng 9,06%; khu vực dịch vụ tăng 6,66%. Nếu so với tốc độ tăng chung của
kinh tế thế giới và sự giảm sút nhanh của các nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung Đông
Âu và Liên Xô khi chuyển sang kinh tế thị trường, thì các tốc độ tăng trên của nền
kinh tế Việt Nam là một kết quả đáng ghi nhận. Cơ cấu kinh tế từng bước chuyển dịch
theo hướng đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hoá. Năm 2000, tỷ trọng khu vực
nông, lâm nghiệp và thuỷ sản chiếm 24,53% GDP, giảm 13,53 điểm phần trăm so với
năm 1986; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 36,73%, tăng 7,85 điểm phần
trăm; khu vực dịch vụ chiếm 38,74%, tăng 5,68 điểm phần trăm. Sự chuyển dịch cơ
cấu kinh tế là đúng hướng và phù hợp với yêu cầu đẩy mạnh tiến trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.

Một trong những thành tựu kinh tế to lớn của thời kỳ đổi mới là phát triển sản xuất
nông nghiệp, mà nội dung cơ bản là khoán gọn đến hộ nông dân, thừa nhận hộ nông
dân là đơn vị kinh tế tự chủ ở nông thôn, đánh dấu sự mở đầu của thời kỳ đổi mới
trong nông nghiệp và nông thôn. Năm 2000, tổng sản lượng lương thực có hạt đạt
34,5 triệu tấn, gấp 2,1 lần năm 1986; lương thực có hạt bình quân đầu người đạt 444,8
kg, gấp 1,6 lần; xuất khẩu gạo đạt 3.477 nghìn tấn, gấp hơn 26 lần. Sản xuất công
nghiệp đi dần vào thế phát triển ổn định với tốc độ tăng bình quân mỗi năm trong thời
kỳ 1986-2000 đạt 11,09%. Những sản phẩm công nghiệp quan trọng phục vụ sản xuất
và tiêu dùng của dân cư đều tăng cả về số lượng và chất lượng. Sản lượng điện năm
2000 gấp 4,7 lần so với năm 1986; sản lượng xi măng gấp 8,7 lần; thép cán gấp 25,6
lần; thiếc gấp 3,6 lần. Sản lượng dầu thô đã tăng từ 41 nghìn tấn năm 1986 lên gần 7,1
triệu tấn năm 1994 và 16,3 triệu tấn năm 2000. Các cơ sở sản xuất công nghiệp đã
quan tâm hơn đến chất lượng sản phẩm, không ngừng cải tiến mẫu mã, áp dụng công
nghệ tiên tiến và thay đổi phương án sản xuất theo yêu cầu của thị trường. Do sản
xuất, kinh doanh hồi phục và có bước phát triển nên siêu lạm phát bước đầu đã được
kiềm chế và đẩy lùi. Giá bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng từ mức tăng 3 chữ số
mỗi năm trong 3 năm, 1986-1988, hai chữ số mỗi năm trong thời kỳ 1989-1992 đã
giảm xuống chỉ còn tăng một chữ số trong thời kỳ 1993-2000. So với tháng 12 năm
trước, chỉ số giá tiêu dùng năm 1988 tăng 349,4%; năm 1992 tăng 17,5% và năm
2000 giảm 0,6%.
Sự nghiệp văn hóa, giáo dục, y tế và các lĩnh vực xã hội khác được củng cố và tăng
cường. Tại thời điểm 01/4/1999, cả nước có 90% số trẻ em 14 tuổi tốt nghiệp tiểu học;
94% dân số trong độ tuổi 15-35 biết chữ. Sau 10 năm nỗ lực phấn đấu, đến giữa năm
2000, cả nước hoàn thành chương trình mục tiêu chống mù chữ và phổ cập giáo dục
tiểu học. Chính sách cải cách tiền lương trong thời kỳ này đã thúc đẩy phát triển sản
xuất làm cho đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Thu nhập bình quân đầu người
một tháng của dân cư tăng từ khoảng 1.600 đồng năm 1986 lên đến 295.000 đồng
năm 1999. Thu nhập tăng nhanh góp phần làm cho công cuộc xóa đói giảm nghèo của
nước ta trong giai đoạn này đạt được những kết quả đáng kể. Nếu như năm 1993, tỷ lệ
nghèo chung của Việt Nam tính theo phương pháp của Ngân hàng Thế giới là 58,1%,
thì đến năm 1998 tỷ lệ nghèo này giảm xuống còn 37,4%.

Thời kỳ 2001 đến nay: Thời kỳ hội nhập quốc tế sâu rộng
Trong thời kỳ này, đất nước ta thực hiện hai chiến lược phát triển kinh tế – xã hội là
Chiến lược 2001-2010 và Chiến lược 2011-2020 nhằm xây dựng nước Việt Nam “dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” theo phương châm “Việt
Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế
trên nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, bình đẳng cùng có
lợi, không can thiệp công việc nội bộ, cùng phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát
triển”. Quy mô nền kinh tế ngày càng mở rộng, GDP năm 2019 gấp 12,5 lần năm
2001. Tốc độ tăng GDP tương đối cao, bình quân năm trong giai đoạn 2001-2010 tăng
7,26%, đạt xấp xỉ tốc độ tăng 7,56%/năm của Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế
– xã hội 1991-2000, đây là một thành tựu phát triển kinh tế rất quan trọng của đất
nước ta trong giai đoạn này. Trong giai đoạn 2011-2019, GDP tăng 6,3%/năm, trong
đó năm 2018 tăng 7,08% và là mức tăng cao nhất kể từ năm 2008.
Năm 2008, Việt Nam đã ra khỏi nhóm nước và vùng lãnh thổ thu nhập thấp để gia
nhập nhóm nước và vùng lãnh thổ thu nhập trung bình thấp, đất nước thoát khỏi tình
trạng kém phát triển, đó là thành tựu nổi bật nhất trong sự nghiệp xây dựng và phát
triển đất nước trong thời kỳ này. GDP bình quân đầu người năm 2019 đạt USD 2.715,
gấp 15 lần năm 1990; thu nhập bình quân đầu người 1 tháng đạt 4.294,5 nghìn đồng,
gấp 12 lần năm 2002. Chất lượng tăng trưởng kinh tế dần dịch chuyển sang chiều sâu,
thể hiện ở mức đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) trong tăng trưởng
kinh tế ngày một lớn. Năng suất lao động (NSLĐ) ngày càng được cải thiện đáng kể.
Trong giai đoạn 2016-2019, NSLĐ toàn nền kinh tế tăng 5,86%/năm, cao hơn tốc độ
4,35%/năm của giai đoạn 2011-2015. Cơ cấu kinh tế nước ta đã bước đầu chuyển dịch
theo hướng hiện đại. Tổng mức lưu chuyển hàng hóa ngoại thương thực hiện trong
giai đoạn 2011-2019 đạt USD 3.100,3 tỷ, gấp 20,2 lần giai đoạn 1991-2000 và gấp 3,6
lần giai đoạn 2001-2010. Tỷ lệ tổng kim ngạch xuất nhập khẩu so với GDP từ 112,5%
năm 2000 tăng lên 142,2% năm 2005; 152,2% năm 2010 và 210,4% vào năm 2019.
Kể từ năm 2019, số dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 4.028 dự án với tổng số vốn
đăng ký đạt USD 38.951,7 triệu, tương ứng gấp 19,1 lần và 24,3 lần so với giai đoạn
1988-1990. Đầu tư trực tiếp nước ngoài trở thành kênh huy động vốn quan trọng cho
sự phát triển kinh tế- xã hội, có tác dụng to lớn trong việc thúc đẩy sự chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo thêm nhiều việc làm, nâng
cao năng lực quản lý và trình độ công nghệ cho nền kinh tế. Đặc biệt, hoạt động đầu
tư trực tiếp nước ngoài đã thúc đẩy việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại giữa Việt
Nam với các nước trong khu vực và trên thế giới. Tỷ lệ nghèo chung của Việt Nam
tính theo phương pháp của Ngân hàng Thế giới năm 2002 đang ở mức là 28,9%, đến
năm 2018 đã giảm xuống 6,7%.

Vị thế của Việt Nam thay đổi đáng kể trên thế giới và trong khu vực ASEAN. Năm
2019, Việt Nam đứng thứ 8 thế giới và thứ 2 trong khu vực ASEAN về tốc độ tăng
trưởng GDP; là một trong 30 nước có mức tăng trưởng xuất, nhập khẩu cao và là nền
kinh tế có quy mô xuất khẩu thứ 22 trên thế giới. Việt Nam đã vượt trên các quốc gia
trong khu vực Đông Nam Á về thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, xếp hạng thứ
25 thế giới về hấp dẫn vốn FDI. Chỉ số Năng lực cạnh tranh toàn cầu (GCI) của Việt
Nam năm 2019 tăng lên 10 bậc so với năm trước, xếp thứ 67 trong số 141 quốc gia và
vùng lãnh thổ; chỉ số HDI xếp hạng 117 trong số 177 quốc gia, vùng lãnh thổ. Ở khía
cạnh ngoại giao kinh tế, đến nay đã có trên 70 nước công nhận Việt Nam là nền kinh
tế thị trường. Trong nhiều năm qua, Việt Nam tham gia tích cực vào việc đàm phán
cũng như ký kết, phê chuẩn các Hiệp định thương mại tự do (FTA) với 16 FTA song
phương và đa phương. Đặc biệt, ngày 30/3/2020, Nghị viện châu Âu đã thông qua
FTA giữa EU và Việt Nam (EVFTA) và Quốc hội nước ta phê chuẩn Hiệp định này
vào ngày 08/6/2020. Điều này không chỉ góp phần thúc đẩy thương mại và đầu tư cho
nền kinh tế Việt Nam, mà còn thể hiện sự chủ động của Việt Nam trong việc hình
thành hệ thống thương mại quốc tế. Tính đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ
ngoại giao với 189 quốc gia trên thế giới. Hoạt động đối ngoại ngày càng được mở
rộng và khẳng định rõ bản lĩnh và bản sắc của Việt Nam với tư cách là một thành viên
có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, đóng góp ngày càng nhiều vào hòa bình, hợp
tác và phát triển không chỉ trong khu vực ASEAN mà còn cả trên thế giới.

V – Hạt nhân của nền kinh tế


Đến thời của người La Mã, ở tầng lớp bình dân, một số người thợ thủ công và gia
thương mở các collegia hoặc corpora (công ty) , tự chọn ra người quản lý và được cấp
phép hành nghề.

Người la mã đưa ra các khái niệm cơ bản của luật lệ công ty, như ý tưởng một nhóm
người tập hợp lại với nhau lập thành một thực thể không tách rời họ. Có hai tổ chức
mà người La Mã tập hợp và đã được thành lập. Đó là những thương gia tại Ý và với
công ty của ông, cùng các guild (hiệp hội) được chính quyền cấp phép tại miền bắc
Âu Châu. Sự góp vốn ngày càng trở nên đa dạng hơn nữa khi việc đầu tư được nâng
dần lên chia nhỏ thành các đợt, và có cả những người nước ngoài tham dự, cơ cấu của
quyền sở hữu cũng được mở rộng. Chẳng hạn, giới thương gia ở Venise lập nên tổ
hợp (consortium) các công ty của chính quyền nhằm chuyên chở hàng hoá, và chi phí
trên mỗi chuyến đi được thu lại bằng việc chia 24 phần góp cho những người cộng
tác.

Danh từ compania có gốc Latin là cum and pania, tức cùng nhau ăn cái bánh. (Lợi ích
được chia nhỏ)

Có lẽ ngay sau năm 1340, những tổ chức này đã áp dụng kế toán kép nhằm giúp nhân
viên tại văn phòng của họ ở nước ngoài làm việc hiệu quả. Thêm vào, thay vì gửi tiền
vàng thì những thương gia đã trở nên tin tưởng nhau và sử dụng séc. Thực sự,
compagnia đã liên kết mật thiết với banchi, tức là ngân hàng và ngân hàng Ý là bậc
thầy trong lĩnh vực này.

Các guild liên kết với những “công ty được cấp phép” [CTĐCP]. Công ty lớn là một
hội của những thương gia nhỏ được chính quyền trao sự độc quyền hoạt động tại một
thị trường nước ngoài nào đó. Chính quyền dành cho CTĐCP những đặc quyền cùng
sự bảo đảm về kinh tế giúp nó phát triển, tương tự như ngày nay các chính phủ trao
cho các công ty nước ngoài một số hợp đồng về quốc phòng vậy. (đã có sự hợp tác
giúp đỡ lẫn nhau của cả doanh nghiệp và chính phủ) Các CTĐCP đã tiếp thu cả hai ý
tưởng của thời Trung cổ, là bán chứng khoán trên thị trường OTC và tính trách nhiệm
hữu hạn chung cho mọi thành viên. Vì vậy, chúng cũng được coi là CTCP. Do đó, nó
còn được ưa sử dụng. Do điều này và cũng vì những biến cố đã nói, số lượng các
CTCP ra đời ở Anh đã giảm đi và nhiều doanh nhân đã chuyển hướng qua mở các
CTCP ở Hoa Kỳ.
Ở Việt Nam, Luật lệ về công ty lần đầu tiên được quy định là trong “Bộ Dân luật thi
hành tại các toà Nam án Bắc Kỳ”, trong đó tiết thứ 5 (Chương IX) nói về hội buôn
được chia thành hai loại là hội người và hội vốn. Trong đó hội vốn được chia thành
hai loại là hội vô danh (CTCP) và hội hợp cổ (Công ty hợp vốn đơn giản). Nhìn
chung, quy định của Pháp luật thời kỳ này về công ty cổ phần còn rất sơ khai.
Dưới thời Pháp thuộc, các quy định của Bộ luật Thương mại Pháp năm 1807, trong đó
có quy định về hình thức công ty cổ phần được áp dụng ở cả ba kỳ tại Việt Nam. Đến
năm 1944, chính quyền Bảo Đại ban hành Bộ luật thương mại Trung phần có hiệu lực
áp dụng tại Trung Kỳ, trong đó có quy định về CTCP (gọi là công ty vô danh) từ Điều
102 đến Điều 142 và từ Điều 159 đến Điều 171.

Năm 1972, chính quyền Việt Nam Cộng hoà ban hành Bộ luật Thương mại, trong đó
công ty cổ phần được gọi là hội nặc danh với đặc điểm “gồm có các hội viên mệnh
danh cổ đông, chỉ chịu trách nhiệm trong giới hạn phần hùn của mình dưới hình thức
cổ phần” (Điều 236) và “chỉ được thành lập nếu có số hội viên từ 7 người trở lên”
(Điều 295). Các vấn đề pháp lý liên quan đến hình thức hội nặc danh như thành lập,
góp vốn, cơ cấu quản lý … đã được quy định rất chi tiết trong Bộ luật này từ Điều 236
đến Điều 278 cũng như từ Điều 295 đến Điều 314.
Ở miền Bắc, sau năm 1954 cho đến khi thống nhất đất nước vào năm 1975 và trên
phạm vi cả nước từ sau năm 1975 đến những năm 80 của thế kỷ 20, với chính sách
kinh tế kế hoạch hoá tập trung, các hình thức công ty nói chung và công ty cổ phần
nói riêng hầu như không được pháp luật thừa nhận. Khái niệm “công ty” trong giai
đoạn này không được hiểu đúng bản chất pháp lý mà chỉ được hiểu theo hình thức
kinh doanh. Các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh trong giai đoạn này chủ yếu
bao gồm các nhà máy, xí nghiệp quốc doanh, hợp tác xã (đối với thành phần kinh tế
tập thể) và công tư hợp danh (hình thành từ quá trình cải tạo công thương nghiệp
XHCN). Trong giai đoạn này, mặc dù Điều lệ về đầu tư của nước ngoài ở nước
CHXHCN Việt Nam (ban hành kèm theo Nghị định 115/CP của Chính phủ ngày
18/4/1977) có đề cập đến hình thức công ty cổ phần khi quy định “xí nghiệp hoặc
công ty hỗn hợp” có thể thành lập theo hình thức “công ty vô danh” (một tên gọi khác
của CTCP) nhưng lại không có văn bản pháp luật nào quy định về tổ chức và hoạt
động của hình thức công ty cổ phần này. Và trên thực tế, cũng không có xí nghiệp
hoặc công ty hỗn hợp nào được thành lập theo hình thức “công ty vô danh” theo quy
định của Điều lệ về đầu tư của nước ngoài năm 1977 kể trên.
Cho đến khi Luật công ty được ban hành ngày 21/12/1990, hình thức công ty cổ phần
mới chính thức được quy định cụ thể.

Sau khi Luật Công ty ra đời, nhiều văn bản pháp luật khác nhau đã được ban hành
nhằm điều chỉnh hoạt động của các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực khác
nhau nhưng được tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần. Hoạt động của các doanh
nghiệp này một mặt phải tuân thủ các quy định của Luật Công ty, mặt khác, do đặc
thù riêng của các ngành nghề kinh doanh, hoạt động của các doanh nghiệp này còn
phải tuân thủ theo quy định của các luật chuyên ngành. Chẳng hạn như trong Luật các
tổ chức tín dụng có hiệu lực từ ngày 01/10/1998 tại Điều 12 quy định về các loại hình
tổ chức tín dụng có hình thức tổ chức tín dụng cổ phần của Nhà nước và nhân dân,
hay nói cách khác các Ngân hàng thương mại cổ phần chính là các công ty cổ phần
hoạt động trong lĩnh vực tài chính – tiền tệ.
Trong lĩnh vực kinh doanh chứng khoán, tại Điều 2.1 Quy chế về tổ chức và hoạt
động của công ty chứng khoán ban hành kem theo Quyết định số 04/1998/QĐ-UBCK
ngày 13/10/1998 quy định “Công ty chứng khoán là công ty cổ phần thành lập hợp
pháp tại Việt Nam, được uỷ ban chứng khoán nhà nước cấp giấy phép thực hiện một
hoặc một số loại hình kinh doanh chứng khoán”.
Sau gần 10 năm thực hiện, Luật Công ty đã phát huy được tích cực vai trò của mình,
góp phần quan trọng vào công cuộc phát triển kinh tế đất nước. Tuy nhiên, thực tiễn
các quan hệ kinh doanh ở nước ta trong thời kỳ này liên tục biến đổi, Luật công ty đã
bộc lộ rất nhiều bất cập, nhất là trong vấn đề thủ tục thành lập và đăng ký kinh doanh.
Nhiều quy định của luật này tỏ ra lạc hậu với cách thức tổ chức một công ty theo cơ
chế thị trường và thông lệ quốc tế. Việc sửa đổi, thay thế luật này được đặt ra như là
một sự tất yếu khách quan, trong khi đó, quản trị doanh nghiệp ngày càng được quan
tâm và đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của doanh nghiệp. Các doanh
nghiệp tại Việt Nam vẫn đang trong thời kỳ chuyển đổi từ cơ chế quản lý cũ sang cơ
chế mới.

Quản trị doanh nghiệp tạo ra một cấu trúc, tổ chức doanh nghiệp hợp lý, phù hợp với
đặc điểm, mục tiêu của doanh nghiệp. Quản trị doanh nghiệp tốt sẽ góp phần sử dụng
có hiệu quả nguồn lực của doanh nghiệp, từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất
kinh doanh, hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực, hiệu quả tài chính cũng như tiết kiệm
các yếu tố đầu vào để tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Trong những năm gần đây
việc cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt nam ngày càng phát triển, đã đem lại
một diện mạo mới cho các doanh nghiệp. Tuy nhiên, do công tác quản trị doanh
nghiệp còn nhiều vấn đề bất cập nên hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp này
còn thấp, chưa tương xứng với quy mô, nguồn lực cũng như quá trình đầu tư của
doanh nghiệp. Quản trị trong các doanh nghiệp nói chung và tại các công ty cổ phần ở
Việt nam nói riêng có vai trò hết sức quan trọng và to lớn trong việc bảo đảm sự tồn
tại và hoat động bình thường của các doanh nghiệp. Một doanh nghiệp không nhận
thức rõ vai trò về quản trị đối với mọi hoạt động của doanh nghiệp chắc chắn doanh
nghiệp đó sẽ bị thất bại trong hoạt động kinh doanh. Nhiều năm qua cho thấy, nguyên
nhân cơ bản dẫn đến các doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả là do khâu quản trị
yếu kém. Trên thực tế nhiều nước có nền kinh tế phát triển như: Hàn Quốc; Nhật Bản;
Trung Quốc… đều khẳng định rằng: Thất bại trong kinh doanh là do thiếu năng lực và
thiếu kinh nghiệm quản trị, và khả năng sáng tạo. Điều đó có nghĩa là cùng với các
điều kiện về con người và về vật chất kỹ thuật như nhau nhưng quản trị lại có thể khác
nhau, đem lại hiệu quả kinh tế khác nhau. Một doanh nghiệp thực hiện tốt khâu quản
trị không những mang lại nhiều lợi nhuận cho doanh nghiệp mà còn có ý nghĩa quan
trọng góp phần đưa doanh nghiệp phát triển bền vững. Để giúp các doanh nghiệp đạt
được mục tiêu trong kinh doanh, đó là: Chi phí bỏ ra là thấp nhất nhưng chất lượng
sản phẩm, dịch vụ cũng như lợi nhuận đạt được của doanh nghiệp là cao nhất. Muốn
đạt được mục tiêu đó thì công tác quản trị doanh nghiệp phải được các cấp quản lý
trong doanh nghiệp hết sức quan tâm và coi đó là một công cụ quản lý hữu hiệu trong
hệ thống công cụ quản lý của doanh nghiệp. Như vậy, quản trị giúp cho các doanh
nghiệp thấy rõ mục tiêu và hướng đi của mình, đối phó được các thách thức do môi
trường đem lại, tận dụng được các cơ hội, thế mạnh để khai thác có hiệu quả và mang
lại nguồn lợi lớn cho doanh nghiệp.

Qua khảo sát thực tế tại các Công ty cổ phần ở Việt nam hiện nay cho thấy: Đại bộ
phận các Công ty hoạt động còn kém hiệu quả, các doanh nghiệp chưa nắm bắt được
các cơ hội tốt cũng như những thách thức, nguy cơ từ môi trường kinh doanh mang
lại, chính vì vậy mà việc thua lỗ của các doanh nghiệp ở thị trường trong nước khi
Việt nam tham gia hội nhập sâu, rộng vào nền kinh tế toàn cầu là việc không tránh
khỏi. Sự cạnh tranh khốc liệt trong kinh doanh có thể làm cho một số doanh nghiệp
trong nước bị tụt hậu, dẫn đến phá sản. Nguyên nhân của tình trạng này là do công tác
quản trị doanh nghiệp còn yếu kém cả về quy mô lẫn chất lượng quản trị. Để các
doanh nghiệp tồn tại và đứng vững trên thị trường cạnh tranh khốc liệt như hiện nay,
đòi hỏi các doanh nghiệp phải đi sâu nghiên cứu nội dung của quản trị doanh nghiệp
mà trong đó bộ phận quản trị chiến lược, quản trị tài chính và quản trị nhân sự là ba
lĩnh vực quản trị quan trọng nhất trong quản trị doanh nghiệp, có ảnh hưởng lớn đến
hoạt động của từng doanh nghiệp.
Trong xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế nói chung và khu vực Đông Nam Á nói
riêng, Việt Nam đã có những cải thiện đáng kể trong hoạt động quản trị doanh nghiệp,
đặc biệt là quản trị doanh nghiệp của các công ty niêm yết. Tuy nhiên, theo kết quả
đánh giá của Diễn đàn các thị trường vốn ASEAN, chất lượng quản trị doanh nghiệp
Việt Nam đứng ở mức thấp nhất chi, trong khi, điểm trung bình quản trị doanh nghiệp
Thái Lan cao nhất trong khu vực.

Hiện nay, Thái Lan được Ngân hàng thế giới và Quỹ tiền tệ quốc tế đánh giá là quốc
gia dẫn đầu ASEAN và đứng thứ 3 Châu Á về quản trị doanh nghiệp. Để đạt được kết
quả đó, Thái Lan đã phải trải qua một quá trình xây dựng và phát triển quản trị doanh
nghiệp kéo dài với xuất phát điểm là từ cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997. Một
trong những nguyên nhân làm cho Thái Lan lâm vào khủng hoảng là những bất cập về
hoạt động quản trị doanh nghiệp khi hoạt động quản trị doanh nghiệp không phù hợp
với tiêu chuẩn và kỳ vọng quốc tế (Limpaphayom và Connelly, 2004). Cụ thể, phần
lớn các công ty đại chúng của Thái Lan đều có các cổ đông chính dạng gia đình, họ
hàng hoặc cổ đông lớn có liên quan. Điều này đã dẫn đến hiện tượng các công ty đầu
tư vào các dự án có chất lượng kém, chỉ mang lại lợi ích cho các cổ đông lớn nhưng
ảnh hưởng xấu đến sự phát triển bền vững của công ty cũng như quyền lợi của cổ
đông thiểu số. Đồng thời, các doanh nghiệp trên thị trường hoạt động dựa vào nguồn
vốn của ngân hàng nhưng do quản trị doanh nghiệp yếu kém kéo theo hệ thống ngân
hàng Thái Lan cũng gặp nhiều khó khăn. Do đó, sau khi khủng hoảng xảy ra, Thái
Lan đã có những cải cách quan trọng, cần thiết trong hoạt động quản trị doanh nghiệp.
Như vậy, khi xét xuất phát điểm có thể thấy giữa Thái Lan và Việt Nam có nhiều nét
tương đồng trong hoạt động quản trị doanh nghiệp ví dụ như một số công ty niêm yết
có các cổ đông chính dạng gia đình, họ hàng, chỉ tập trung vào lợi ích của nhóm cổ
đông lớn hay hoạt động yếu kém ảnh hưởng đến hệ thống ngân hàng.

Thuật ngữ quản trị doanh nghiệp lần đầu tiên được đề cập đến vào năm 1983 trên Tạp
chí Luật và Kinh tế. Sau đó, với hàng loạt các cuộc khủng hoảng tài chính diễn ra
trong giai đoạn 1997 đến nay như khủng hoảng tài chính Châu Á 1997, khủng hoảng
toàn cầu năm 2001 và gần đây nhất là 2008, vấn đề quản trị doanh nghiệp, đặc biệt là
quản trị doanh nghiệp niêm yết đang trở thành vấn đề cấp thiết của các quốc gia trên
thế giới bởi nó ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng cạnh tranh của hệ thống doanh
nghiệp và nền kinh tế quốc gia. Vì vậy, trên thế giới hiện nay có rất nhiều định nghĩa
khác nhau về quản trị doanh nghiệp.

Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế OECD (2004), quản trị doanh nghiệp là
một hệ thống các biện pháp nội bộ để quản lý, kiểm soát công ty, trong đó, tập trung
vào mối quan hệ giữa hội đồng quản trị, ban giám đốc, cổ đông và các bên có liên
quan khác. Quản trị doanh nghiệp theo Ngân hàng Thế giới là hệ thống các yếu tố
pháp luật, thể chế và thông lệ quản lý của doanh nghiệp, cho phép thu hút các nguồn
tài chính và nhân lực, hoạt động có hiệu quả, trên cơ sở đó tạo ra các giá trị kinh tế lâu
dài cho cá cổ đông, quyền lợi của các bên liên quan và xã hội. Nói cách khác, quản trị
doanh nghiệp là cơ chế đảm bảo tính công bằng, minh bạch để giải quyết các vấn đề
xung đột lợi ích giữa chủ sở hữu và người quản lý thông qua quá trình cụ thể hóa việc
phân phối quyền và trách nhiệm của hội đồng quản trị, ban giám đốc, cổ đông và
những người có liên quan, trong đó, chỉ rõ quy định, quy trình ra quyết định về các
vấn đề công ty để xây dựng mục tiêu, cách thức đạt được mục tiêu, kiểm soát thành
quả, đồng thời khuyến khích sử dụng tài nguyên hiệu quả. Như vậy, ở góc độ doanh
nghiệp, nếu quản trị doanh nghiệp tốt sẽ tạo điều kiện nâng cao hiệu quả kinh doanh,
sử dụng tốt nguồn tài nguyên khan hiếm, dễ dàng tiếp cận với các nguồn vốn dài hạn,
đồng thời đảm bảo được quyền lợi và sự đối xử bình đẳng với các cổ đông, đảm bảo
quyền lợi của các bên liên quan khác. Ở góc độ vĩ mô, quản trị doanh nghiệp tốt sẽ
giúp quốc gia củng cố quyền sở hữu, giảm chi phí giao dịch và chi phí vốn, tạo điều
kiện cho thị trường chứng khoán phát triển và giảm thiểu khả năng tổn thương trước
các biến động không mong muốn, từ đó thúc đẩy kinh tế phát triển bền vững.

Về nguyên tắc quản trị doanh nghiệp, trên thế giới hiện nay có hơn 200 bộ quy chế
quản trị doanh nghiệp tốt đã được xây dựng cho hơn 72 quốc gia và vùng lãnh thổ
(Trần Quốc Tuấn, 2012). Trong đó, bộ nguyên tắc quản trị doanh nghiệp của OECD
được xem như khuôn khổ chuẩn mực trong lĩnh vực quản trị doanh nghiệp bởi chỉ có
bộ nguyên tắc của OECD mới có hướng dẫn cho các nhà hoạch định chính sách và đề
cập một cách khá đầy đủ các lĩnh vực trong phạm vi quản trị doanh nghiệp. Các
nguyên tắc quản trị doanh nghiệp theo OECD bao gồm:

 Quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan chức năng trong việc giám sát,
quản lý và cưỡng chế, thúc đẩy một thị trường minh bạch và hiệu quả;
 Bảo vệ và tạo điều kiện thực hiện các quyền của cổ đông, đảm bảo tất cả
các cổ đông được đối xử công bằng, kể cả cổ đông thiểu số và cổ đông
nước ngoài;
 Chỉ rõ các quyền của các bên liên quan theo quy định của pháp luật ngay từ
khi công ty được thành lập;
 Công bố công khai và chính xác các vấn đề liên quan đến công ty như tình
hình tài chính, tình hình quản trị, điều hành…;
 Làm rõ trách nhiệm của hội đồng quản trị đối với công ty và các cổ đông
trong việc đưa ra định hướng chiến lược và sự giám sát có hiệu quả của hội
động quản trị.
Hoạt động quản trị doanh nghiệp niêm yết ở Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể
trong giai đoạn 2007 – 2013. Về mặt pháp lý, với sự ra đời của thị trường chứng
khoán, Việt Nam bắt đầu có những quan tâm đến hoạt động quản trị doanh nghiệp đối
với công ty niêm yết thể hiện ở việc ban hành Quyết định 12/2007/QĐ-BTC về Quy
chế quản trị doanh nghiệp áp dụng cho các công ty niêm yết trên Sở giao dịch Chứng
khoán. Từ đó đến nay, Việt Nam đã không ngừng cải thiện khung luật pháp về quản
trị doanh nghiệp như ban hành Thông tư 52/2012/TT-BTC về Công bố thông tin trên
thị trường chứng khoán, Thông tư số 121/2012/TT-BTC về quy định quản trị doanh
nghiệp áp dụng cho công ty đại chúng, Nghị định số 108/2013/NĐ-Chính phủ quy
định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng
khoán. Sự ra đời của những văn bản này đã giúp cải thiện tình hình tuân thủ và thực
thi quản trị doanh nghiệp ở các công ty đại chúng tại Việt Nam và được xem như là
bước tiến trong việc hoàn thiện khung pháp lý đối với hoạt động quản trị doanh
nghiệp tại Việt Nam, góp phần rút ngắn khoảng cách so với thế giới. Bên cạnh đó,
chất lượng thực hành quản trị doanh nghiệp cũng đang ngày càng tốt hơn, thể hiện qua
điểm quản trị doanh nghiệp của Việt Nam theo báo cáo của ACMF không ngừng tăng
lên trong giai đoạn 2011 – 2013, từ 28.4 điểm năm 2011 lên 35.1 điểm năm 2013.
Mặc dù vậy, công ty niêm yết Việt Nam có điểm trung bình quản trị thấp nhất trong
06 quốc gia thành viên ASEAN được khảo sát, phản ánh hoạt động quản trị doanh
nghiệp tại các công ty niêm yết Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế. Tuy nhiên,

 Thứ nhất, Việt Nam cần tiếp tục hoàn thiện hành lang pháp lý liên quan đến
hoạt động quản trị doanh nghiệp ở các công ty đại chúng nói chung và công
ty niêm yết nói riêng. Cụ thể, cần bổ sung quy định về trách nhiệm của
công ty đối với các bên liên quan, nhất là đối với cộng đồng, xã hội và môi
trường vì các bên liên quan đóng vai trò ngày càng quan trọng trong việc
giám sát hoạt động quản trị doanh nghiệp. Nhà nước cần bổ sung thêm các
quy định nhằm đảm bảo công bằng giữa cổ đông lớn và cổ đông nhỏ, giữa
cổ đông nước ngoài và cổ đông trong nước.
 Thứ hai, Việt Nam cần thành lập tổ chức chuyên trách về quản trị doanh
nghiệp. Một trong những nguyên nhân làm cho Thái Lan thành công trong
hoạt động quản trị doanh nghiệp chính là việc thành lập tổ chức IOD. Ở
Việt Nam hiện nay, một số các công ty niêm yết chưa chủ động trong việc
thực hiện quản trị doanh nghiệp tốt. Với sự ra đời của tổ chức chuyên trách
về quản trị doanh nghiệp, tổ chức này sẽ giúp các bên liên quan đến công ty
như giám đốc, giám đốc điều hành, nhà đầu tư nâng cao nhận thức, hiểu
biết về quản trị doanh nghiệp.
 Thứ ba, Việt Nam cần có cơ chế phù hợp để các công ty niêm yết chủ động
trong việc áp dụng thông lệ quản trị doanh nghiệp. Để làm được điều này,
việc nâng cao nhận thức, hiểu biết về quản trị doanh nghiệp của các công ty
đóng vai trò quan trọng, đặc biệt cần làm rõ cho các công ty thấy được việc
áp dụng thẻ điểm quản trị doanh nghiệp không tốn quá nhiều chi phí trong
khi mang lại nhiều lợi ích.
 Thứ tư, Việt Nam cần nâng cao vai trò cũng như sự phối hợp giữa các cơ
quan chức năng trong việc thúc đẩy quản trị doanh nghiệp. Trong đó, Ủy
ban chứng khoán Nhà nước cần đóng vai trò chủ đạo trong việc thực hiện
quản trị doanh nghiệp tại các công ty niêm yết. Bên cạnh đó, Bộ Tài chính,
Ngân hàng Nhà nước, Bộ Kế hoạch và Đầu tư… cần có sự phối hợp nhịp
nhàng để tiến hành các biện pháp cải cách quản trị doanh nghiệp một cách
đồng bộ.
Nói tóm lại, sau chiến tranh, nền kinh tế Việt Nam còn non trẻ, đặc biệt lớp doanh
nghiệp khối tư nhân mới trài qua mấy mươi năm kể từ sau cải cách “đổi mới, mở
cửa”; có thể thấy, quản trị doanh nghiệp đang là vấn đề cấp thiết của các quốc gia
trong xu thế hội nhập. Việt Nam cũng đang bước đầu thực hiện những cải cách trong
việc thực hành quản trị doanh nghiệp mà trước mắt là quản trị doanh nghiệp tại các
công ty niêm yết.
Để nhanh chóng đạt được kết quả tốt, Việt Nam cần rút kinh nghiệm từ các quốc gia
đã và đang thành công trong việc thực hiện hoạt động quản trị doanh nghiệp, trong đó
có Thái Lan…

Để được trường tồn…

You might also like