Professional Documents
Culture Documents
6. Người lái đò sông Đà - Nguyễn Tuân
6. Người lái đò sông Đà - Nguyễn Tuân
I. Mở Bài
“Chúng thủy giai đông tẩu
Đà giang độc bắc lưu”
(Mọi dòng sông đều chảy về hướng đông
Chỉ có sông Đà chảy theo hướng bắc)
Hai câu thơ ấy của Nguyễn Quang Bích đã ngay lập tức cho ta thấy sự đặc biệt của sông
Đà với một dòng chảy kì lạ, dường như muốn vượt thoát khỏi mọi quy luật chuyển động
thông thường của thủy lưu. Quả là một đối tượng “xứng tầm” với Nguyễn Tuân – một
con người có phong cách văn chương ngông nghênh kiêu bạc, luôn muốn tìm đến những
đối tượng độc đáo có một không hai. Bắt gặp Sông Đà, đối với Nguyễn Tuân, có thể nói
là một cuộc tương phùng giữa những tính cách đồng điệu. Bởi vậy mà ông đã dồn toàn bộ
cái tài hoa uyên bác của mình để bất tử hóa dòng sông trên trang sách, khiến dòng chảy
của nó được nối dài vô tận trong lòng người đọc hôm nay và mai sau. ( Dẫn vào yêu cầu
đề )
V. Thân Bài
1. Hình tượng Sông Đà
Giới thiệu về sông Đà : Sông Đà là dòng sông chảy qua các tỉnh miền núi Tây Bắc Việt
Nam. Sông Đà có chiều dài là hơn tám trăm nghìn mét, chảy qua hai nước Việt Nam,
Trung Quốc. Đây chính là một kiệt tác mà thiên nhiên ban tặng cho con người, chung
sống và gắn bó với con người từ ngàn đời nay. Trong tùy bút, sông Đà được miêu tả với
hai đặc điểm cơ bản: con sông hung bạo, dữ dội đầy hiểm nguy và con sông thơ mộng,
trữ tình. Hai đặc điểm này trái ngược nhưng thống nhất, làm nên vẻ đẹp của con sông Tây
Bắc.
a. Sông Đà hùng vĩ, dữ dội với tính cách hung bạo
Dẫn : Có thể nói một cách khái quát rằng, ở đoạn trích này, Nguyễn Tuân đã dùng ngòi
bút tài hoa và vốn tri thức uyên bác của mình để khắc họa nên một hình tượng sông Đà
hùng vĩ và dữ dội, hung bạo và tiềm ẩn vô vàn những hiểm nguy.
LĐ1 : Cảnh đá bờ sông
Đầu tiên, sự hùng vĩ của con Sông Đà được thể hiện ở cảnh đá bờ sông: “Hùng vĩ
của Sông Đà không phải chỉ có thác đá. Mà nó còn là những cảnh đá bờ sông, dựng
vách thành”. Câu văn mở đầu đoạn: “Hùng vĩ của Sông Đà không phải chỉ có thác đá”
đã hé lộ cho ta thấy rằng: sự hùng vĩ là một đặc trưng nổi bật của sông Đà, trải dài suốt
dòng chảy của nó ở thượng nguồn Tây Bắc. Thác đá hùng vĩ, nhưng cảnh đá bờ sông
cũng hùng vĩ không kém. Hai bên bờ sông có những vách thành bằng đá rất cao khiến
“mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời”. Ở ngay giữa lòng sông lại có “vách
đá thành chẹt lòng sông như một cái yết hầu”. Cách so sánh này gợi ta hình dung về
những quãng sông hẹp, âm u, tăm tối, thật dễ gây nhiều trở ngại và nguy hiểm cho người
lái đò. Hai bờ sông Đà có quãng như sát lại gần nhau, khiến “đứng bên này bờ” chỉ cần
“nhẹ tay là có thể ném hòn đá qua bên kia vách”, “có quãng con nai con hổ đã có lần
vọt từ bờ bên này qua bờ bên kia”. Những quãng sông hẹp ấy khiến người ngồi trong
khoang đò khi đi qua quãng ấy “đang mùa hè mà cũng cảm thấy lạnh”, và có cảm giác
“như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà
thứ mười mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”. Đấy là một lối liên tưởng độc đáo, liên tưởng
nét hoang dã của sông Đà với sự hiện đại của phố phường, khiến ta dễ hình dung hơn về
độ sâu hun hút và độ cao dựng đứng của vách sông Đà, truyền cho người đọc cảm giác
vừa trầm trồ vừa hãi hùng lo sợ.
LĐ2 : Mặt ghềnh Hát Loóng
Sự hung bạo của sông Đà tiếp tục được đẩy cao hơn trong đoạn văn miêu tả cảnh
mặt ghềnh Hát Loóng. Cụm từ ngữ “hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió”
với nhịp ngắt ngắn, nhanh, dồn dập, hình ảnh điệp nối tiếp luân chuyển, thế chỗ cho nhau
đã tái hiện sức mạnh dữ dội của nước, sóng, gió cùng với đá sông Đà. Điệp từ “xô” lặp
lại ba lần gây ấn tượng về sự chuyển động khủng khiếp, gợi liên tưởng đến những con
sóng chồm lên nhau theo chiều ngang, vút lên theo chiều dọc rồi đổ ập xuống. Từ láy
“gùn ghè” thể hiện sự hung hãn, trái tính trái nết của dòng sông, “lúc nào cũng như đòi
nợ xuýt bất cứ người lái đò nào tóm được qua quãng ấy”. Đó là dòng chảy đặc thù của
sông Đà, một dòng chảy không hề êm ả, mà trái lại, luôn ầm ào dữ dội với những ghềnh
thác bất tận, tiềm ẩn vô vàn những hiềm nguy. Dòng sông như một kẻ bất chấp tất cả để
lấu đi tính mạng của những ai đi qua đây, bởi “quãng này nếu khinh suất không thận
trọng tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra” không giống như dòng sông hiến hòa
trong thơ của Nguyễn Khoa Điềm:
“Ôi những dòng sông bắt nước từ
Mà khi về đến đất nước mình thì bắt đầu lên câu hát”
LĐ3 : Những cái hút nước (Quãng Tà Mười Vát)
Đem lại ấn tượng mạnh mẽ hơn nữa cho sự hung bạo của sông Đà là hình ảnh
những cái hút nước trên sông. Hình ảnh những cái hút nước hiện lên như một con quái
vật đang giận dữ với cách so sánh “những cái hút nước” như những “cái giếng bê tông
xoáy tít đáy”, so sánh âm thanh hút nước “thở và kêu như cửa cống cái bị sặc”, “nước
ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào”. Những cái hút nước còn tạo cho người đọc cảm giác
hãi hùng khi nhà văn liên tưởng mép rìa của hút nước như “quãng đường mượn cạp
ngoài bờ vực”, hình ảnh những con thuyền bị hút nước ấy hút vào, thuyền “trồng ngay
cây chuối ngược rồi vụt biến đi”, bị dìm dưới lòng sông và mươi phút sau thấy “tan xác
ở khuỷnh sông dưới”. Lối so sánh kết hợp nhân hóa và cường điệu đã cực tả sự hiểm
nguy của những cái hút nước trên sông. Có thể xem đoạn văn miêu tả những cái hút nước
sông Đà là những thước phim tư liệu quý với hình ảnh và âm thanh sống động chân thực,
truyền một cảm giác hãi hùng cho cả những người chưa từng một lần phải chạm mặt với
sóng nước sông Đà. Sông Đà “thành ra diện mạo và tâm địa của một thứ kẻ thù số một”
sãn sàng cướp đi mạng sống con người, có tâm địa vô cùng độc ác.
LĐ4 : Thác đá
Thác đá khi ở xa :
Như một mật thất có nhiều lớp cửa, Sông Đà còn hung bạo ở những thác nước. Chỉ
mới từ xa, “còn xa lắm mới đến cái thác dưới”, chưa thấy được bất kì hình ảnh nào hiện
lên, nhưng đôi tai của nhà văn đã rợn ngợp trước âm thanh “réo gắn mãi lại réo xa mãi
lên” đầy sống động của “con quái vật” thác nước sông Đà. Nó phát ra những âm thanh
nghe như đang “oán trách", "van xin”, rồi “khiêu khích”, “giọng gần mà chế nhạo”, thu
hút sự chú ý và khơi gợi trí tò mò của con người từ tận phía xa. Nhà văn đã nhìn dòng
thác như một con người đời thực, có tâm trạng, có đủ đầy những biểu hiện của một tính
cách thất thường, gợi cho ta cảm giác hồi hợp, tò mò, thích thú theo mỗi bước chân tác
giả. Khi con người đã chú ý đến nó, “con quái vật” lại bất chợt “rống lên”: “như tiếng
một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn”, “gầm thét với đàn trâu da cháy bừng bừng,
phép so sánh, vật hóa, lấy hình ảnh để tả âm thanh độc đáo, Nguyễn Tuân đã làm thác
nước hiện lên với những âm thanh phong phú, tác động mạnh đến thị giác, thính giác của
độc giả. Sông Đà được miêu tả như một bầy thủy quái vừa hung hăng, bạo ngược; vừa
nham hiểm, xảo quyệt.
Thác đá khi đến gần :
Tiến đến gần hơn với Đà giang, “Tới cái thác rồi”, câu văn vỏn vẹn bốn chữ, súc
tích ngắn gọn nhưng ẩn chứa cả tiếng reo vang đầy ngỡ ngàng, thích thú và cả linh hồn
đang run lên vì cái đẹp của nhà văn. Nhưng, không chỉ riêng Nguyễn Tuân, có ai lại
không ngạc nhiên, không thảng thốt trước cảnh “sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời
đá” đây? Từng cơn sóng được gió giương lên cao, rồi ào ào vỗ xuống mặt đá mênh mông
chằng chịt, tạo nên những đợt bọt sóng “trắng xóa” nối tiếp, chất chống lên nhau, khiến
cho cả “chân trời đá” cũng mịt mờ sắc trắng. Không chỉ uy hiếp con người bởi sức mạnh
khủng khiếp trời ban của một con quái vật ngàn năm tuổi, Sông Đà còn lắm mưu nhiều
kế, âm hiểm và xảo trá vô cùng khi âm thầm bày thạch trận để dẫn dụ con người: “Đá ở
đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông”, “nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền.
Nguyễn Tuân đã dùng sức mạnh điêu khắc của ngôn từ để thổi hồn vào từng thở đá, bằng
sự phối hợp giữa các tri thức từ các ngành nghề, lĩnh vực khác nhau như võ thuật, quân
sự, hội họa... kết hợp với thủ pháp nhân hóa, liên tưởng, so sánh cùng những câu văn dài
ngắn đan xen đầy tính tạo hình, gân guốc, để gợi lên cái bí ẩn, hiểm ác, hung dữ ngàn
năm của đá sông Đà.
LĐ5 : Thạch trận đá trên sông
Nếu chỉ dừng lại ở đó thì sông Đà sẽ không bộc lộ hết được tính cách hung bạo của
mình. Tính cách của con thủy quái ấy còn khiến người đi qua đây sợ sệt bởi những thử
thách ở trùng vi thạch trận. Bởi những đá mai phục hết trong lòng sông “mặt hòn nào
trông cũng ngỗ ngược, nhăn nhúm”. Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn, để chúng phối
hợp lại thành ba trùng vi nguy hiểm.
Trùng vi thứ nhất :
Ở trùng vi thạch trận thứ nhất, người đọc đặc biệt ấn tượng với những câu văn tả đã
được nhân hóa như một đội quân: “đá tàng, đá hòn”, “đá tiền vệ” đã bày ra thạch trận
với năm cửa, có bốn cửa từ và một cửa sinh. Bên cạnh đó, nhà văn sử dụng một loạt động
từ trùng điệp để tô đậm sức mạnh của đội quân đá: “mai phục”, “nhồm cả dậy”, “đứng
ngồi nằm tùy theo sở thích”, “ăn chết", canh cửa", "hất hàm...Cộng hưởng với những
động từ là những tính từ làm nổi bật tính hung bạo: “ngỗ ngược”, “nhăn nhúm”, “méo
mó... Tất cả làm nổi bật thế và lực của đá sông vừa đông vừa mạnh hung tợn. Bên cạnh
đá là nước, “phối hợp với đá, nước thác reo hồ làm thanh viện cho đá”, tạo nên âm thanh
dữ dội tăng thêm không khí chiến đấu ác liệt. Có thể nói, Nguyễn Tuân đã sử dụng sự tài
hoa của mình kết hợp những tri thức trong mọi lĩnh vực để cực tả đá nước sông Đà.
Trùng vi thứ hai :
Ở trùng vi thạch trận thứ hai, đá nước sóng tăng thêm nhiều cửa tử “dòng thác hùm
beo đang hồng hộc tế mạnh”, “bốn năm thủy quân không ngớt khiêu khích”... “Tăng
thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ
hữu ngạn. Dòng thác hùm beo hồng hộc tế mạnh trên sông đá đánh khuýp quật vu hồi
chiếc thuyền”. Tại trận chiến này, chúng quyết sinh quyết tử với ông lái đò. Khi chiếc
thuyền đã vượt qua, bọn sóng nước cửa tử “vẫn không ngớt khiêu khích, mặc dầu cái
thằng đá tưởng đứng chiến ở cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng”. Những
động từ mạnh vẫn tiếp tục tuôn chảy không ngớt trên những trang văn cộng hưởng với
phép tu từ so sánh nhân hóa rất độc đáo giúp nhà văn biến sóng nước thành hùm thiêng,
sông nước tăng thêm sức mạnh đến đỉnh điểm của Đà giang. Những động từ mạnh liên
tiếp lại như đưa người đọc vào cuộc chiến của sóng nước tạo ra trạng thái say như say
sóng, choáng ngợp trước cơn cuồng dữ của Đà giang.
Trùng vi thứ ba :
Ở chặng thứ ba này “ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả. Cái luồng
sống ở chặng ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác. Tại đây những boong-
ke chìm và pháo đài đá nổi ở đầu chân thác phải đánh tan cái thuyền.” Làm ta liên tưởng
đến một trận đấu bóng quyết liệt. Chiếc thuyền như một cầu thủ phải phóng thẳng, chọc
thủng cửa giữa, vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, và như một mũi tên tre
xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên được vừa tự động lái được lượn được, tiến về phía
khung thành và cuối cùng đã hết thác. Trận bóng đã thắng lợi về phe người lái đò tài ba
với “tay lái ra hoa”. Những động từ mạnh “vút” hay “xuyên” lặp đi lặp lại nhấn mạnh
tốc độ lái thuyền, cộng với nhiều phép so sánh liên tiếp khiến người đọc vừa cảm nhận
được độ nhanh mạnh vừa cảm nhận được độ khéo léo của con thuyền trong hướng đi luồn
lách tránh đội quân đá đông đúc.
Tiểu kết : Bằng tài năng miêu tả và ngôn ngữ điêu luyện, đặc sắc; Nguyễn Tuân đã thành
công xây dựng hình ảnh con sông Đà hung bạo, “kẻ thù số một của con người” mang
những vẻ đẹp kì diệu, hùng vĩ, hoang sơ – một công trình mĩ thuật kì vĩ của tạo hóa. Từ
đó ta thấy được hình ảnh con người lao động và tình yêu bao la mà Nguyễn Tuân dành
cho con sông Tây Bắc.
b. Vẻ đẹp thơ mộng và tính cách trữ tình
Dẫn : Phần đầu của đoạn trích, tác giả chủ yếu miêu tả sự hung bạo, hung vĩ, hiểm nguy
của một dòng sông lắm thác nhiều ghềnh. Đó là sự dữ dội của cảnh đá dựng bờ sông,
cảnh ghềnh Hát Loóng “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió”, cảnh những hút nước rùng
rợn, cảnh thác đá gào thét, dòng sông với biết bao cửa tử cửa sinh... Cuối đoạn trích tác
giả chủ yếu bàn về vẻ đẹp trữ tình của dòng sông.
LĐ1 : Sông Đà nhìn từ trên cao
Nguyễn Tuân quan sát sông Đà ở nhiều góc độ. Góc độ thứ nhất là từ trên cao nhìn
xuống. Ở điểm nhìn ấy tác giả đã hình dung con sông Đà giống như một người đàn bà
kiều diễm với áng tóc trữ tình đằm thắm: “con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng
tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo
tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đất nương xuân.” Điệp ngữ “tuôn dài, tuôn
dài” như mở ra trước mắt của người đọc độ dài vô tận của dòng sông, trùng điệp giữa bạt
ngàn màu xanh lặng lẽ của núi rừng. Phép so sánh “như một áng tóc trữ tình” tạo cho
người đọc một sự xuýt xoa trước vẻ đẹp diễm tuyệt của sông Đà, như một kiệt tác của
trời đất. Chữ “áng” thường gắn với áng thơ, áng văn, nay được họ Nguyễn gắn với “tóc”
thành “áng tóc trữ tình”. Nguyên cả cụm từ ấy đã nói lên hết cái chất thơ, chất trẻ trung
và đẹp đẽ, thơ mộng của dòng sông. Hai chữ “ẩn hiện” càng tăng lên sự bí ẩn và trữ tình
của dòng sông. Sắc đẹp diễm tuyệt của sông Đà – của người đàn bà kiều diễm còn được
tác giả nhấn mạnh qua động từ “bung nở” và từ láy “cuồn cuộn” kết hợp với hoa ban nở
trắng rừng, hoa gạo đỏ rực hai bên bờ làm người đọc liên tưởng mái tóc như được trang
điểm bởi mây trời, như cài thêm hoa ban hoa gạo và đẹp mơ màng như sương khói mùa
xuân. Sự nhân cách hóa đó làm sông Đà gợi cảm biết bao!
Vẻ đẹp trữ tình của sông Đà còn được Nguyễn Tuân thể hiện qua việc miêu tả sắc
nước. Câu văn thể hiện sự say sưa và mê đắm của Nguyễn Tuân về con sông Tây Bắc thật
bay bổng và lãng mạn “Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên sông Đà, tôi đã
xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống dòng nước sông Đà”. Chính vẻ đẹp của mây
trời đã tạo cho con sông Đà một vẻ đẹp riêng không trộn lẫn. Nếu như Hoàng Phủ Ngọc
Tường nhìn thấy sông Hương có màu xanh thẫm và ánh nắng “sớm xanh, trưa vàng,
chiều tím” do sự phản quang của mây trời và đẹp như một đoá hoa phù dung; thì Nguyễn
Tuân lại phát hiện ra vẻ đẹp của sắc nước sông Đà thay đổi theo mùa. Mùa xuân, nước
sông Đà xanh ngọc bích “chứ không xanh màu xanh canh hến của nước sông Gâm, sông
Lô”. Xanh ngọc bích là xanh trong, xanh sáng, xanh biếc – một sắc màu gợi cảm, trong
lành. Đó là sắc màu của nước, của núi, của da trời. Mùa thu, nước sông Đà “lừ lừ chín đỏ
như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất
mãn bực bội độ thu về”. Câu văn sử dụng phép so sánh “lừ lừ chín đỏ như da mặt người
bầm đi vì rượu bữa” khiến người đọc hình dung được vẻ đẹp đa dạng của sắc nước sông
Đà. Đồng thời qua câu văn, Nguyễn Tuân cũng đã làm nổi bật được trong cái trữ tình thơ
mộng của dòng nước còn có cái dữ dội ngàn đời của con sông Tây Bắc.
LĐ2 : Sông Đà nhìn từ trong rừng đi ra
Quan sát ở điểm nhìn gần, bằng những câu văn đầy chất thơ, Nguyễn Tuân đã để
cho ngòi bút của mình lai láng về Đà giang. Tác giả ví sông Đà như một cố nhân đi xa thì
nhớ, gặp lại thì mừng vui khôn xiết. Khi bắt gặp ánh nắng chiếu vào mắt, trong sự hướng
ngoại, nhà văn đã phát hiện ra nắng sông Đà đẹp đến mê hồn trong ánh sáng “loé lên một
màu nắng tháng ba Đường thi ‘Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu’ ”. Mượn một câu
thơ trong bài thơ Đường nổi tiếng “Tại lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng
Lăng” (Lý Bạch) – Nguyễn Tuân dường như đã ngầm khẳng định vẻ đẹp cổ thi của dòng
sông Tây Bắc. Dòng sông ấy trong sự liên tưởng đến thơ Đường đã gợi tả được vẻ đẹp
phẳng lặng, trong sáng, lấp lánh, hồn nhiên thanh bình.
Trong cảm nhận của Nguyễn Tuân, gặp lại sông Đà nhận ra con “sông vui như thấy
nắng giòn tan sau kỳ mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”. Cách so sánh độc
đáo, nhân cách hoá, sông Đà hiện lên đẹp bởi chiều sâu: thân thiện, dễ mến, phảng phất
hơi ấm tình người của dòng sông. Nó trở thành người bạn hiền chung thuỷ, điềm tĩnh chờ
đợi người đi xa trở về. Tác giả miêu tả cảnh đôi bờ sông thật ấn tượng. Người đọc như lạc
vào thế giới cổ tích, thế giới của tiền sử. Câu văn “Thuyền tôi trôi trên sông Đà” toàn
vần bằng tạo cảm giác yên ả, thanh bình, sự tĩnh lặng. Tác giả hướng đến lịch sử của
những buổi đầu dựng nước và giữ nước: “Hình như từ đời Trần, đời Lý, đời Lê, quãng
sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi”. Sự hướng nội này càng làm nổi bật vẻ đẹp
nguyên sơ và hồng hoang của đôi bờ sông Đà. Đúng như tác giả đã so sánh “bờ sông
hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”.
Phép so sánh độc đáo, dùng không gian để gợi mở thời gian, mở rộng biên độ làm nổi bật
vẻ đẹp hồn nhiên, trong sáng, nguyên thuỷ của buổi sơ khai.
LĐ3 : Sông Đà nhìn từ trên thuyền
Bờ sông ở đây còn nổi lên vẻ đẹp của thảm thực vật và muông thú. Trong cảnh
lặng như tờ của thiên nhiên, trong cảnh sương đêm chưa tan hết, nhà văn đã nhìn thấy
một vẻ đẹp đầy sức sống “một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa mà tịnh
không một bóng người, cỏ giành đồi núi đang ra những nõn búp”. Cảnh tượng đó còn ấn
tượng bởi một “đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm”. Vẻ đẹp ấy thật
đầy chất thơ, chất hoạ. Thiên nhiên giống như một bức tranh thủy mặc lộng lẫy. Điều ấy
khiến ta liên tưởng đến cảnh trong dã sử Trung Hoa có một ngư dân một hôm chèo
thuyền ngược dòng sông rồi lạc vào một chốn thần tiên, một chốn Đào nguyên. Chất thơ
trong đoạn văn viết về sông Đà của Nguyễn Tuân có lẽ cũng toát lên từ điển tích ấy gợi
lên trong tâm trí của người đọc về vẻ đẹp của dòng sông Tây Bắc – nơi khởi nguồn cho
tình yêu đất nước. Đoạn trích khép lại bằng hình ảnh “Tiếng cá đập nước sông đuổi mất
đàn hươu vụt biến” và con sông Đà trong sự liên tưởng đến thơ Tản Đà “bọt nước lênh
bênh - bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình của một người tình nhân chưa quen biết” càng làm
cho hình ảnh dòng sông trở nên quyến rũ, có linh hồn, giàu sức hút.
Tiểu kết : Bằng việc sử dụng nhiều hình ảnh so sánh, bút pháp nhân cách hóa miêu tả,
liên tưởng bất ngờ thú vị; từ ngữ chọn lọc, độc đáo, hình ảnh lãng mạn; sử dụng kiến thức
hội hoạ, thơ ca để miêu tả; tất cả đã giúp Nguyễn Tuân tái hiện được sức sống mãnh liệt
của sông Đà thơ mộng và trữ tình. Sông Đà đã trở thành một sinh thể, một nhân vật đầy
sức sống, đoạn thơ cũng đồng thời thể hiện tình cảm yêu mến tha thiết sâu nặng của nhà
văn đối với thiên nhiên, đất nước
2. Hình tượng Người lái đò
Dẫn : Ngay từ nhan đề, tác giả đã dành cho người lái đò một ví trí trung tâm, vị trí trọng
yếu. “Người lái đò Sông Đà” miêu tả con sông Đà kì vĩ, hung bạo một mặt ca ngợi vẻ
đẹp thiên nhiên Tây Bắc, mặt khác nhằm khẳng định hình ảnh con người làm chủ thiên
nhiên. Tuy xuất hiện không nhiều, nhưng vị thế của nhân vật được thể hiện rất rõ. Hình
ảnh con người làm chủ sông nước, chinh phục thiên nhiên, một con người nhỏ bé về hình
thể nhưng vĩ đại trước thiên nhiên rộng lớn.
LĐ1: Hình dáng
Người lái đò hiện lên với ngoại hình của tuổi bảy mươi “đầu tóc bạc trắng” nhưng
thân hình ông vẫn “đẹp như một pho tượng tạc bằng đá cẩm thạch” cùng cặp mắt tinh
anh, nhân lực nhìn xa vời vợi. “Tay ông lêu nghêu như cái sào, chân ông khuỳnh khuỳnh
như kẹp lấy một cuống lái trong tưởng tượng, giọng nói ào ào như thác lũ sông Đà, nhãn
giới vòi vọi như nhìn về một bến xa nào đó”. Trên ngực ông còn hiện lên một số “củ
nâu” thương tích mà Nguyễn Tuân cho đó là “thứ Huân chương lao động trên miền sông
nước”. Bức chân dung của người lái đò không chỉ ở hình dáng bề ngoài mà cả nội tâm,
phong thái của một người lao động đầy bản lĩnh, tài hoa.
LĐ2 : Từng trải, giàu kinh nghiệm, hiểu biết sâu rộng
Ông đối đầu với ghềnh thác cuồng bạo bằng sự tự tin, ung dung đầy chất nghệ sĩ.
Do “nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá”, do “thuộc quy luật phục kích của lũ
đá nơi ải nước hiểm trở này” nên ông đã vượt qua sóng thác một cách tài tình và nhìn thử
thách bằng cái nhìn giản dị mà lãng mạn. Ông hiểu biết tường tận về tính nết của dòng
sông, nhớ tỉ mỉ từng chi tiết dù cho là nhỏ nhất cũng đều được ông “nhớ như đóng đanh
vào tất cả các luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở, thậm chí nếu như ví sông
Đà “như một thiên anh hùng ca” thì bản hùng ca ấy ông đò đã “thuộc đến cả những cái
dấu chấm than, chấm câu và cả những đoạn xuống dòng”. Dưới ngòi bút đậm đà tinh túy
của Nguyễn Tuân, ông lái đò không chỉ hiện lên với vẻ ngoài từng trải, phong sương mà
còn là bức chân dung đáng quý của một người lao động cần mẫn.
LĐ3 : Tài hoa, trí dũng
Vẻ đẹp trí dũng của ông lái đò được khắc hoạ rõ nét trong tương quan với hình ảnh
Đà giang hùng vĩ, hung bạo. Phẩm chất đó được thể hiện ở quá trình chiến đấu và vượt
qua ba trùng vi thạch trận sông Đà.
Trùng vi thứ nhất :
Ở trùng vi thạch trận thứ nhất, sông Đà mở ra năm cửa trận, “có bốn cửa tử, một
cửa sinh”. Dòng sông Đà qua ngòi bút của Nguyễn Tuân, mang diện mạo của một con
thủy quái khổng lồ, hung hãn: “Sóng nước như thể quân liều mạng vào sát nách mà đá
trái mà thúc gối vào bụng và hông thuyền”. Nguy hiểm làm sao khi mà “sóng thác đã
đánh đến những miếng đòn hiểm độc nhất” vào “hạ bộ người lái đò”. Sự hung hãn của
con sông Đà đã khiến ông lái đò bị đau. Nỗi đau khiến mắt ông đò nhòa đi. Cơn đau đến
“nổ đom đóm mắt” khiến ông thấy “mặt sông trong tích tắc lòa sáng lên như một cửa bể
đom đóm rừng”. Nỗi đau cũng khiến cho mặt ông “méo bệch”. “Méo bệch” là một sáng
tạo về mặt từ ngữ của Nguyễn Tuân, là sự kết hợp giữa hai hình dung từ “méo xệch” và
“bệch bạc”. Nó vừa làm hiện lên trước mắt chúng ta một khuôn mặt méo mó, bị biến
dạng bởi nỗi đau, vừa diễn tả được cái sắc diện trắng bệch, bợt bạt, cũng bị gây nên bởi
nỗi đau khủng khiếp ấy. Thế nhưng ông đò vẫn rất can trường. Ông cố nén vết thương,
hai tay vẫn ghì chặt mái chèo, hai chân vẫn kẹp chặt cuống lái. “Trên chiếc thuyền có sáu
bơi chèo vẫn nghe rõ tiếng chỉ huy ngắn gọn tỉnh táo” của ông.
Trùng vi thứ hai :
Ở trùng vi thạch trận thứ hai, sông Đà càng thêm phần nguy hiểm. Nó “tăng thêm
nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu
ngạn”. Thế nhưng ông đò đã chiến đấu và chiến thắng bằng sự dạn dày kinh nghiệm của
mình. Ông hiểu rằng: cưỡi lên thác nước sông Đà là “phải cưỡi đến cùng như là cưỡi
hổ”. Nghĩa là chỉ cần sa chân, sẩy tay chốc lát, ông đó sẽ bị con sông ăn sống nuốt tươi.
Hiểu như thế, nên khi đối diện với những con sóng hung dữ, ông vẫn bình tĩnh. Mỗi hành
động của ông vừa linh hoạt, mềm dẻo, vừa chính xác từ những chi tiết: “Ông đò vẫn nhớ
mặt bọn này, đứa thì ông tránh ra mà rải bơi chèo, đứa thì ông đè sấn lên, chặt đôi ra để
mở đường tiến”. Bằng tài năng và bản lĩnh của mình, ông đã vượt qua tất cả các cửa tử,
đưa con thuyền vào đúng cửa sinh khiến cho “thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào đã
tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng thua cái thuyền đã đánh trúng cửa sinh mà nó trấn
lấy”.
Trùng vi thứ ba :
Cuộc chiến đấu càng trở nên quyết liệt hơn ở trùng vây thạch trận thứ ba, khi mà
“bên phải bên trái đều là luồng chết cả. Cái luồng sống ở chặng thứ ba này lại ở ngay
giữa bọn đá hậu vệ của con thác”. Sông Đà quả là khôn ngoan và nham hiểm, thể hiện ở
việc nó liên tục thay đổi vị trí của cửa sinh: lúc nằm bên phải, lúc nằm bên trái, lúc nằm ở
giữa. Sự thay đổi liên tục cách bố trí này, cộng với tốc độ dòng nước chóng mặt, cùng với
vô vàn đá nổi đá chìm thực sự là một thử thách chết người. Nhưng, hiện lên trên dòng
thác tử thần ấy vẫn là hình ảnh của ông lái đò với tâm thế bình tĩnh, quyết đoán, thông
minh và nhanh nhẹn. Đó là một con người đầy kiêu hãnh vì đã nắm vững “binh pháp của
thần sông thần đá”. Hãy xem cách ông điều khiển con thuyền lao qua vòng vây thứ ba
này: “Thuyền vút qua cánh cổng đá cánh mở cánh khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong
lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa
tự động lái lượn được”. Quả thật, trình độ lái đò của ông đã đạt đến độ thượng thừa. Ông
và con thuyền dường như đã đạt đến cảnh giới “thân chu hợp nhất”. Câu văn “Thế là hết
thác” vừa như một tiếng thở dài khoan khoái, cũng lại vừa như là một nhận định bình
thản về việc kết thúc một hành trình quen thuộc, đơn giản, xảy ra thường xuyên như cơm
bữa, không có gì đáng nói thêm. Tuy nhiên, đó cũng có thể là cái trầm trồ của Nguyễn
Tuân khi vừa được chứng kiến cái hành trình ngoạn mục vô tiền khoáng hậu của ông đò.
LĐ4 : Vẻ đẹp tài hoa, nghệ sĩ
Không chỉ trí dũng, kiên cường, dạn dày kinh nghiệm, ông lái đò còn mang phẩm
chất của người nghệ sĩ tài hoa trên sông nước. Đối với Nguyễn Tuân, mỗi nhân vật dù
thuộc loại người nào, làm công việc gì cũng phải là nghệ sĩ trong lĩnh vực của mình. Vì
thế, ta bắt gặp trong thiên tùy bút này hình ảnh một ông lái đò tài hoa nghệ sĩ bên cạnh vẻ
đẹp dũng cảm, đầy bản lĩnh trước thử thách của thiên nhiên. Ở ông đò, tài nghệ lái đò đã
đạt đến độ phi thường, chạm đến tầm mức của nghệ thuật, của cái đẹp. Ông lái con
thuyền trên sông Đà cứ như một nghệ sĩ làm xiếc. Đúng là một tay lái lụa, một “tay lái ra
hoa” như Nguyễn Tuân từng ca ngợi. Đôi tay của ông đò không chỉ rắn chắc như sừng
như mun mà còn có cả sự khéo léo, tinh tế, uyển chuyển. Ông đã biến công việc chèo đò
bình thường, nặng nhọc thành ra một thứ nghệ thuật: nghệ thuật lái đò.
LĐ5 : Vẻ đẹp khiêm nhường, bình dị
Người lái đò không chỉ là anh hùng sông nước, một nghệ sĩ vượt thác mà còn là
một người lao động bình dị giữa đời thường, những con người đã cống hiến thầm lặng mà
cao cả. Những con người say mê với công việc, tình yêu với nghề nghiệp mà bất chấp
hiểm nguy, vất vả. Nguyễn Tuân không gọi nhân vật với cái tên cụ thể, chỉ đơn giản là
“ông lái đò”, tên gọi gắn liền với nghề nghiệp để khắc họa hình ảnh người lao động bình
dị giống bao người khác. Sau bao gian khổ, khốc liệt dữ dội, ông cũng chỉ muốn trở về
nhà, trở về với cuộc sống bình thường, thư thái và lạc quan. Tâm thế này không phải ai
cũng có được, nhất là những người trở về từ cõi chết. Một tâm hồn đẹp đẽ, bình dị mà cao
quý, linh thiêng.
Tiểu kết : Ông lái đò là hình tượng tiêu biểu cho những người lao động bình thường
nhưng tài hoa trí dũng; đó chính là tình cảm yêu mến và trân trọng, ngợi ca của Nguyễn
Tuân. Nhà văn còn vận dụng tài tình những kiến thức võ thuật, quân sự, thể thao; hệ
thống các động từ mạnh, cách ngắt nhịp ngắn, tiết tấu nhanh, hối thúc; thư pháp đòn bẩy
kết hợp nhuần nhuyễn với các biện pháp tu từ tạo nên những nét nghệ thuật đặc sắc cho
đoạn trích.