Professional Documents
Culture Documents
nhóm 4 2.1 hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật
nhóm 4 2.1 hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật
=> Nguyên lý trong triết học là những luật điểm – định đề khái quát
nhất được hình thành nhờ sự quan sát , trải nghiệm của nhiều thế
hệ người trong mọi lĩnh vực tự nhiên , xã hội và tư duy , rồi đến thời
cta chúng làm cơ sở nền móng cho những suy lý tiếp theo để rút ra
những nguyên tắc ,quy luật , phương pháp … phục vụ cho đời sống
hđ nhận thức và thực tiễn của con người .
VD: mối liên hệ cha con, mối liên hệ giữa cung và cầu. Trong chủ
nghĩa duy vật biện chứng, “mối liên hệ phổ biến” là khái niệm chỉ sự
quy định, tác động qua lại, chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật,
hiện tượng hoặc giữa các mặt của một sự vật, hiện tượng trong thế
giới khách quan.
-> Ngược lại sự cô lập (tách rời) là trạng thái của các đối tượng khi
sự thay đổi của đối tượng này không ảnh hưởng gì đến các đối
tượng khác , không làm chúng thay đổi . Chẳng hạn , sự biến đổi các
nguyên tắc đạo đức không hề làm quỹ đạo chuyển động của trái đất thay
đổi , hay những thay đổi xảy ra khi các hạt cơ bản tương tác với nhau ,
cũng khó làm các nguyên tắc thay đổi .
- Trong thế giới, mọi sự vật đều trong trạng thái vừa cô lập vừa,
vừa liên hệ với nhau.
->Như vậy, liên hệ và cô lập thống nhất với nhau mà ví dụ như quan
hệ giữa cơ thể sống và môi trường. Chỉ những biến đổi gắn với hoạt
động sống của cơ thể mới ảnh hưởng đến nó, còn thay đổi nào không
gắn liền với hoạt động sống sẽ ko ảnh hưởng đến nó.
VD: Những biến đổi thời tiết khắc nghiệt như bão, tuyết sẽ ảnh hưởng
rất nhiều đến hoạt động sống của cơ thể, gây cảm lạnh, ốm, hay gây tổn
hại đến vật chất liên quan đến hoạt động sống .
Còn ví dụ như những người nào làm việc trong văn phòng thì sự biến
đổi mưa nắng của môi trường sẽ không ảnh hưởng tới họ khi làm việc .
- Khi nói về mối liên hệ ta thường chủ yếu mới chỉ chú ý đến sự ràng
buộc, tác động lẫn nhau giữa các đối tượng vật chất – hữu hình , trong
khi còn thế giới tinh thần các đối tượng vô hình như các hình thức tư
duy ( khái niệm , phán đoán , suy lý ) hay các phạm trù khoa học –
hình thức của nhận thức cũng liên hệ chặt chẽ với nhau và liên hệ
với sự vật thật – nguyên mẫu, hiện thực khách quan , mà các hình
thức này chỉ là sự phản ánh , tái tạo lại chúng . Khi quan niệm đó
rộng ra cho cả giữa các đối tượng tinh thần và giữa chúng vốn thuộc chủ
thể với các đối tượng khách quan thì sẽ có quan niệm về mối liên hệ phổ
biến .
- Tính khách quan: Đây là mối liên hệ vốn có của sự vật hiện
tượng, nó tồn tại độc lập và không phụ thuộc vào ý muốn chủ
quan của con người. Con người chỉ có thể nhận thức và vận
dụng các mối liên hệ đó trong hoạt động thực tiễn của mình để
đạt được hiệu quả nhất.
ví dụ : Một cái cây muốn tồn tại phát triển thì có mối liên hệ với nước,
ánh sáng, độ ẩm, không khí và chính trong bản thân cái cây cũng có mối
liên hệ với nhau qua quá trình trao đổi chất và những cái mối liên hệ ấy
thì không do con người tạo nên. Nếu cái cây ấy tách rời ra khỏi những
mối liên hệ ấy thì cây không thể phát triển không vận động, không tồn
tại.
Thứ hai là tính phổ biến tính phổ biến của các mối liên hệ thể hiện ở
chỗ, bất kỳ nơi đâu, trong tự nhiên, trong xã hội và trong tư duy đều có
vô vàn các mối liên hệ đa dạng, chúng giữ vai trò vị trí khác nhau trong
sự vận động, chuyển hóa của sự vật, hiện tượng.
- Tính phổ biến: Nghĩa là bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng tồn
tại trong mối liên hệ qua lại với sự vật khác. Ở bất cứ không
gian, thời gian nào, mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng cũng
là một khối vừa thống nhất, vừa tương tác thúc đẩy lẫn nhau.
Mối liên hệ qua lại quy định chuyển hóa lẫn nhau không những diễn ra ở
sự vật, hiện tượng, tự nhiên, xã hội, tư duy mà còn diễn ra giữa các mặt,
các yếu tố, các quá trình của mỗi sự vật, hiện tượng.
Ví dụ: Trong tự nhiên thì động vật và thực vật có mối liên hệ với nhau,
trong nền kinh tế chính trị, xã hội, văn hóa, giáo dục ở một địa phương
hay quốc gia đều có mối liên hệ mật thiết, chặt chẽ với nhau.
Thứ ba là tính đa dạng phong phú được biểu hiện là sự vật khác nhau,
hiện tượng khác nhau, Không Gian Khác nhau, thời gian khác nhau thì
các mối liên hệ biểu hiện khác nhau. Và một mối liên hệ bên trong chính
sự vật, bên ngoài sự vật, mối liên hệ chủ yếu hay mối liên hệ thứ yếu lại
khác nhau. Có rất nhiều mối liên hệ chúng giữ vai trò khác nhau, quy
định sự vận động phát triển của sự vật, hiện tượng.
- Tính đa dạng, phong phú: Các sự vật hiện tượng hay quá trình
khác nhau đều có những mối liên hệ cụ thể khác nhau giữa vị
trí, vai trò khác nhau đối với sự tồn tại và phát triển.
Ví dụ: Mối liên hệ giữa con người và tự nhiên thì khác nhau, hay động
vật với động vật cũng khác nhau, hay là mối liên hệ chính trị kinh tế của
mỗi nước khác nhau thì khác nhau.
Và phải lưu ý rằng khi phân biệt ta phải đặt sự vật, hiện tượng vào
những quan hệ cụ thể, đặt vào 1 không gian, thời gian nhất định thì ta
mới có thể phân biệt đc vai trò của các mối liên hệ đó.
Ví dụ: sinh viên chúng ta đi học phải thực hiện rất nhiều nhiệm vụ khác
nhau, mối liên hệ khác nhau, như rèn luyện về kiến thức kĩ năng, không
chỉ về học tập mà sinh viên chúng ta còn phải tham gia các hoạt động
đoàn thể, tuy là có nhiều mối liên hệ nhưng sinh viên chúng ta vẫn phải
ưu tiên nhiệm vụ học tập để có kiến thức rèn luyện thái độ phẩm chất…
khi đó họ mới hoàn thiện được nhân cách, phải xác định được trong
những mối liên hệ ấy nhiệm vụ số 1 là gì số 2 là gì...
Để phân loại các mối liên hệ như trên phải tùy thuộc vào tính chất vai
trò của từng mối liên hệ tuy vậy việc phân loại này cũng chỉ và mang
tính chất tương đối, Bởi vì các mối liên hệ của các đối tượng là rất phức
tạp không thể tách chúng khỏi tất cả các mối liên hệ khác, mỗi liên hệ
còn cần được nghiên cứu cụ thể trong sự biến đổi và phát triển cụ thể
của chúng.
=> Như vậy nguyên lý về mối liên hệ phổ biến khái quát thuật toàn
cảnh thế giới trong những mối liên hệ chằng chịt giữa các sự vật,
hiện tượng của nó. Tính vô hại của thế giới cũng như tính vô lượng
các sự vật, hiện tượng đó chỉ có thể giải thích được trong mối liên hệ
phổ biến được quy định bằng các mối liên hệ có hình thức, vai trò
khác nhau.
Để khái quát nên tính chất biến hóa của sự vật, hiện tượng Lênin đã viết
rằng:
Lênin
“Muốn thực sự hiểu được sự vật cần phải nhìn bao quát và nghiên
cứu tất cả các mặt, các mối liên hệ và "quan hệ gián tiếp" của sự vật
đó”
Và từ nội dung của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến phép biện chứng
khái quát được nguyên tắc toàn diện
- Thứ hai: Phải rút ra được các mặt, các mối liên hệ thiết yếu của
hiện tượng, sự vật đó và nhận thức được vai trò, vị trí của nó
trong sự thống nhất. Từ đó mới phản ánh được đầy đủ sự tồn tại
khách quan với nhiều thuộc tính, mối liên hệ, quan hệ và tác động
qua lại của đối tượng.
- Thứ ba: Từ việc rút ra mối liên hệ bản chất của sự vật, ta lại đặt
mối liên hệ bản chất đó trong tổng thể các mối liên hệ của sự vật
xem xét cụ thể trong từng giai đoạn lịch sử.
- Thứ tư: Quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện,
một chiều, chỉ thấy mặt này không thấy mặt khác ; hoặc chú ý
đến nhiều mặt nhưng xem xét dàn trải , không thấy mặt bản chất
của đối tượng nên dễ rơi vào thuật ngụy biện và chủ nghĩa chiết
trung .
*Nguyên lý về sự phát triển:
- Phân biệt sự khác nhau giữa khái niệm phát triển và khái niệm
vận động: khái niệm vận động có nội hàm rộng hơn khái niệm phát
triển, chỉ vận động nào theo khuynh hướng đi lên thì mới là phát triển.
Do đó, phát triển chỉ là một trường hợp đặc biệt của vận động, nó chỉ
khái quát xu hướng chung của vận động là vận động đi lên của sự vât,
hiện tượng mới trong quá trình thay thế sự vật, hiện tưỡng cũ
· Lưu ý:
+ Phát triển là vận động nhưng không phải mọi vận động đều là phát
triển
+ Phát triển khác với tăng trưởng
- Phủ nhận sự phát triển, tuyệt đối hóa mặt ổn định của sự vật,
hiện tượng
- Phát triển ở đây chỉ sự tăng lên hoặc giảm đi về mặt lượng, chỉ
là sự tuần hoàn, lặp đi, lặp lại mà không có sự thay đổi về chất,
không có sự ra đời của sự vật, hiện tượng mới và nguồn gốc
của sự “phát triển” đó nằm ngoài chúng.
(Để phân biệt sự khác nhau cơ bản giữa hai quan điểm này thì Lênin có
viết: phát triển coi như là giảm đi và tăng lên, như là lặp lại, và sự phát
triển coi như là sự thống nhất của các mặt đối lập)
- Quan niệm thứ nhất là chết cứng, nghèo nàn, khô khan.
- Quan niệm thứ hai là sinh động... cho ta chìa khóa của sự vận
động của tất thảy mọi cái đang tồn tại, chỉ có nó thì mới cho ta
chìa khóa của những “bước nhảy vọt”, của sự “gián đoạn của
tính tiệm tiến”, của “sự chuyển hóa mặt đối lập”, của sự tiêu
diệt cái cũ và nảy sinh ra cái mới”.
( Như vậy, quan điểm biện chứng đối lập với quan điểm siêu hình về sự
phát triển ở chỗ)
- Tính khách quan: thể hiện ở chỗ nguồn gốc của nó nằm trong
chính bản thân sự vật, hiện tượng, chứ không phải do tác
động từ bên ngoài; đặc biệt không phụ thuộc vào ý thích, ý
muốn chủ quan của con người
Ví dụ: Hạt lúa, hạt đầu khi có nước, đất, chất dinh dưỡng, ánh sáng dù
không có con người nhưng nó vẫn phát triển.
- Tính phổ biến: diễn ra ở mọi sự vật, hiện tượng; khắp các lĩnh
vực tự nhiên, xã hội và tư duy
ví dụ 1: sự phát triển của các hình thái kinh tế- xã hội cộng sản nguyên
thủy -> chiếm hữu nô lệ -> phong kiến ->tư bản chủ nghĩa -> cộng sản
chủ nghĩa
2. Sự phát triển của cơ thể con người từ bé tới khi trưởng thành, sự phát
triển của động thực vật…)
- Tính kế thừa: sự vật, hiện tượng mới ra đời không thể là sự phủ
định tuyệt đối, phủ định sạch trơn, đoạn tuyệt một cách siêu hình
đối với sự vật, hiện tượng cũ. Mà ra đời từ những cái cũ, chứ không
phải là từ hư vô. Vì vậy nó kế thừa, giữ lại, có chọn lọc và cải tạo các
yếu tố có tác dụng, còn thích hợp, loại bỏ tiêu cực, lỗi thời, lạc hậu
của sự vật, hiện thượng cũ gây cản trở sự việc mới phát triển
Ví dụ:
1. sự ra đời của chủ nghĩa xã hội là kế thừa của các thành tựu đã có của
chế độ trước đó mà trực tiếp là của tư bản chủ nghĩa
2. hình thành được đường lối, tư tưởng HCM đã được kế thừa ít nhiều từ
văn hóa Phương Đông và Phương Tây.
3.Sự ra đời của học thuyết Mac dựa trên 3 tiên đề lý luận…)
- Tính đa dạng, phong phú: sự phát triển diễn ra trong mọi lĩnh vực
nhưng mỗi sự vật, hiện tượng lại có quá trình phát triển không
giống nhau tính đa dạng phụ thuộc vào không gian, thời gian, vào
các yếu tố, điều kiện tác động lên sự phát triển đó…
Ví dụ: 1. Sự phát triển nền kinh tế của 2 quốc gia khác nhau là
khác nhau hoàn toàn hay sự phát triển của 1 quốc ra từ thế kỉ này sang
thế kỉ khác cũng khác nhau
2. đứa trẻ khác nhau về điều kiện sống, phương pháp giáo dục sẽ có tư
duy, nhận thức hoàn toàn khác nhau
3. Động vật dù có cùng 1 mẹ sinh ra nhưng lớn lên trong môi trường
khác nhau cũng có sự phát triển khác nhau…
Ngoài ra có cả tính phức tạp: phát triển không theo một đường lối thẳng
tắp đơn giản, không theo vòng tròn khép kín, mà nó biển hiện phức tạp,
có khi quanh co theo đường xoắn ốc)
*Ý nghĩa phương pháp luận:
*Nguyên tắc phát triển:
Nghiên cứu về sự phát triển giúp nhận thức được rằng, muốn nắm
được bản chất, nắm được khuynh hướng phát triển của sự vật, hiện
tượng thì phải tự giác tuân thủ nguyên tắc phát triển, tránh tư tưởng
bảo thủ, trì trệ. Nguyên tắc này yêu cầu:
1, Khi nghiên cứu, cần đặt đối tượng vào sự vận động, phát hiện xu
hướng biến đổi của nó.ở trạng thái hiện tại, mà còn dự báo được
khuynh hướng phát triển của nó trong tương lai
2, Thứ hai, cần nhận thức được rằng, phát triển là quá trình trải qua
nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn có đặc điểm, tính chất, hình thức khác
nhau nên cần tìm hình thức, phương pháp tác động phù hợp để có thể
thúc đẩy, hoặc kìm hãm sự phát triển.
3, Phải sớm phát hiện và ủng hộ đối tượng mới hợp quy luật, tạo điều
kiện cho nó phát triển.
4, Thứ tư, trong quá trình thay thế đối tượng cũ bằng đối tượng mới
Phải kế thừa các yếu tố tích cực từ đối tượng cũ và phát triển sáng tạo
chúng trong điều kiện mới.
-> Tóm lại: Hai nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật là cơ
sở lý luận của quan điểm toàn diện, lịch sự cụ thể và phát triển. Với
cách xem xét, nghiên cứu theo quan điểm toàn diện và phát triển sẽ
giúp ta hiểu được bản chất sự vật, làm cho nhận thức phản ánh đúng
đắn về sự vật và hoạt động thực tiễn có hiệu quả cao.