Chăm sóc răng miệng cho các bệnh khu trú và bệnh toàn thân
Viêm lợi miệng Herpes nguyên phát (Primary Herpetic Gingivostomatitis):
Virus Herpes Simplex (Herpes đơn dạng) tuýp 1 (HSV-1) là một virus DNA lớn, gây ra các bệnh lý: Viêm lợi miệng Herpes nguyên phát (VLMHNP – PHG), bệnh về niêm mạc da vùng miệng mặt, bệnh lý mắt, bệnh Herpes Gladiatorum (xuất hiện ở các vận động viên thể thao có “va chạm” – contact sport), bệnh chàm bội nhiễm (Eczema Herpeticum), viêm nang lông herpes (Herpetic sycosis) vùng râu mọc; và bệnh Herpes sinh dục (Herpes Genitalis) ít gặp hơn, đa số do nhiễm Virus Herpes Simplex tuýp 2 (HSV-2) gây nên. HSV là nguyên nhân phổ biến nhất gây bệnh hồng ban đa dạng (Erythema multiforme). Mặc dù VLMHNP (PHG) là bệnh truyền nhiễm có khả năng lây nhiễm cao, chỉ 5-10% bệnh nhân lây nhiễm lần đầu có triệu chứng, tổn thương lâm sàng. Bệnh VLMHNP chủ yếu lây truyền qua tiếp xúc trực tiếp với da hoặc dịch cơ thể; bệnh lây lan nhanh chóng trong môi trường kín như nhà trẻ hoặc trại mồ côi. Khởi phát bệnh bất ngờ với các biểu hiện lâm sàng từ nhẹ đến nặng cần được nhập viện. Bệnh có các triệu chứng không đặc hiệu bao gồm: Phì đại hạch bạch huyết cổ (Cervical Lymphadenopathy), khó chịu, bức bối, kích thích, viêm đường hô hấp trên, sốt nhẹ. Bệnh VLMHNP (PHG) gây ra các tổn thương trong và ngoài miệng, sưng và chảy máu mô nướu. Tổn thương miệng có thể bắt đầu từ những mụn nước trên lưỡi, niêm mạc má, nướu. Các mụn nước vỡ nhanh chóng tạo thành các vết loét có kích thước 1-3mm, từ đó hình thành các vùng lở loét lớn được bao phủ bởi lớp màng xám vàng. Bệnh nhiễm trùng sẽ tự khỏi sau 10-14 ngày, quá trình lành thương không để lại sẹo. Trẻ em nhiễm bệnh có thể có sự xuất hiện của cơn đau khu trú dữ dội, khiến việc ăn uống trở nên khó khăn, nguy cơ mất nước. Các triệu chứng thường gặp là chảy nước dãi, hơi thở hôi, đau họng. Các biến chứng hiếm gặp, lây qua tiếp xúc trực tiếp có thể dẫn tới viêm kết mạc giác mạc (Keratoconjunctivitis), và mụn rộp trắng (Herpetic whitlow) (Ví dụ như viêm da đầu gối, ngón tay/chân, bàn tay). Các biến chứng này là bệnh nghề nghiệp cổ điển của các chuyên gia chăm sóc sức khỏe. Sau lần nhiễm trùng ban đầu, virus có thể trở về trạng thái ngủ đông, song dễ dàng được tái kích hoạt và phát bệnh trở lại với các triệu chứng giảm nhẹ. Điều trị VLMHNP (PHG) hướng đến phục hồi tổn thương, chăm sóc tại nhà, cung cấp đủ nước và chất dinh dưỡng; phòng ngừa nguy cơ lây nhiễm như tránh tiếp xúc trực tiếp với người bệnh, xài chung dụng cụ cá nhân như muỗng, nĩa, thức ăn, khăn tắm, bàn chải, bình nước, núm bình sữa, ly, đồ chơi. Cần tránh tiêu thụ thức ăn, nước uống có nồng độ acid cao hoặc nhiều gia vị. Tiêu thụ các sản phẩm lạnh như kem, đá bào có tác dụng giảm đau và bổ sung nước. Thuốc giảm đau, thuốc tê tại chỗ, đắp thuốc giúp xoa dịu cơn đau, hỗ trợ cho việc ăn uống và bổ sung chất dinh dưỡng cần thiết. Thuốc tê tại chỗ cần được sử dụng thận trọng vì chúng được hấp thụ nhanh chóng bởi các vết loét; bệnh nhân được khuyến cáo nhổ thuốc tê ra sau khi sử dụng. Nuốt hoặc súc miệng với thuốc tê có thể gây ức chế phản xạ nôn (Gag reflex), dẫn đến nguy cơ hít thuốc tê vào phổi. Sử dụng nước súc miệng kháng khuẩn không cồn có thể giúp giảm nguy cơ nhiễm trùng thứ cấp ở bệnh nhân có tình trạng bệnh nướu đáng chú ý và vệ sinh răng miệng kém. Chẩn đoán bệnh được dựa vào các biểu hiện lâm sàng và tiền sử bệnh. Tuy nhiên, tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán là kết quả dương tính của xét nghiệm nuôi cấy virus. Quá trình nuôi cấy virus bắt đầu bằng việc lấy tăm bông thấm đẫm dịch và cạo phần đế của mụn nước. Tăm bông sau đó sẽ được đặt vào môi trường vận chuyển virus (transport media) đặc biệt và gửi đến phòng thí nghiệm. Thông thường, virus được nuôi cấy phân lập sẽ phát triển trong 5 ngày. Chẩn đoán phân biệt bao gồm: Viêm họng mụn nước (Herpangina), loét áp-tơ miệng (Aphthous stomatitis), bệnh tay-chân-miệng (Hand-foot-and-mouth disease), hội chứng Stevens-Johnson, bệnh bọng nước tự miễn (Pemphigus), nhiễm Zoster miệng, viêm nướu hoại tử lở loét (Necrotizing ulcerative gingivitis), và hội chứng Behcet. Thuốc Acyclovir (ACY) được cho rằng có khả năng làm thuyên giảm một số triệu chứng của VLMHNP và giảm tỉ lệ nhập viện cho trẻ em dưới 6 tuổi. Liều dùng ACY qua đường miệng là 15 mg/kg, tối đa 80 mg/kg hằng ngày: sử dụng mỗi 3 tiếng khi tỉnh táo hoặc 5 lần/ngày trong vòng 10 ngày. Hạn chế của thuốc ACY là khả năng hấp thu qua đường tiêu hóa kém và sinh khả dụng thấp. Valacyclovir và famciclovir được phát triển để tăng sinh khả dụng của thuốc, song hiện tại hai loại thuốc này không thể dùng cho trẻ em. Nhiễm Herpes Simplex tái phát (Recurrent Herpes Simplex Infection): Nhiễm HSV vẫn là một vấn đề sức khỏe toàn cầu nghiêm trọng mặc cho sự thành công trong việc điều trị với ACY và các thuốc liên quan. HSV là nguyên nhân hàng đầu dẫn đến các bệnh như viêm não (encephalitis) và bệnh loét bộ phận sinh dục, và nó còn là nguyên nhân chính gây lây nhiễm HIV. Sau giai đoạn nhiễm trùng nguyên phát, HSV rơi vào trạng thái ngủ đông tại Hạch Gasser (Trigeminal ganglion – Hạch thân kinh tam thoa). Trong thời kì ngủ đông, quá trình sao chép của virus giảm. Khi có các tác nhân kích thích (ví dụ: bệnh tật, ánh nắng mặt trời, stress, căng thẳng, giai đoạn hành kinh, điều trị nha khoa, tăng thân nhiệt ác tính, v.v.), virus tái hoạt động, sao chép tại hạch thần kinh, sau đó di chuyển đến vùng da và niêm mạc. Sự phát tán virus ở bệnh nhân không triệu chứng thường xảy ra, và là yếu tố nguy cơ chính góp phần lây lan bệnh. Có 3 dạng nhiễm HSV sau đây: Herpes môi tái phát (Recurrent herpes labialis – RHL), nhiễm trùng miệng tái phát (Intraoral recurrence), tái phát có triệu chứng như nhiễm trùng nguyên phát. Các tổn thương của bệnh tái phát ở bệnh nhân suy yếu miễn dịch thường xảy ra ở vùng da quanh miệng, vùng cánh mũi, và tại vùng tiếp xúc giữa ranh giới đỏ son (Vermilion Border) và da môi (Cutaneous lip) dưới dạng Herpes môi tái phát (RHL). Các tổn thương Herpes tái phát trong miệng được tìm thấy hầu như riêng biệt ở niêm mạc sừng hóa của khẩu cái cứng, nướu dính và đôi khi trên lưng lưỡi (Dorsum of the tongue). Ở bệnh nhân suy giảm hệ miễn dịch, nhiễm HSV tái phát có thể gây nên các vết loét lớn, tiến triển, dai dẳng kéo dài. Chẩn đoán thường gặp trở ngại do các triệu chứng không điển hình, đôi khi tổn thương miệng có thể lan tới các vùng niêm mạc không sừng hóa. Bệnh nhân Herpes môi tái phát (RHL/Cold sore – vết loét lạnh) thường trải qua các giai đoạn ngứa ran và tê, đau rát, nổi rộp, mụn nước trong vài giờ; sau đó tạo thành các vết loét, rỉ nước, đóng vảy trong vòng 72-96 tiếng. Thời điểm lây nhiễm, phát tán mạnh nhất là trong 24 giờ đầu, khi xuất hiện các tổn thương. Đa số các cơn tái phát thường tự miễn (từ 7-14 ngày), triệu chứng nhẹ và ngắn hạn ở bệnh nhân khỏe mạnh, cửa sổ điều trị hẹp. Bệnh tái phát đa dạng. Bệnh nhân bị Herpes môi tái phát do mặt trời kích thích cần sử dụng son dưỡng và lotion bảo vệ môi. Trẻ em bị nhiễm Herpes tái phát có triệu chứng giống với VLMHNP, và được điều trị tại nhà tương tự như VLMHNP. Thuốc kìm virus cần được sử dụng trước khi tải lượng virus chạm ngưỡng, do các tổn thương lên các tế bào biểu mô sẽ không thể tái tạo lại được. Việc sử dụng thuốc kháng virus dự phòng cho người bị tái phát 1-2 lần/năm không được khuyến cáo vì nguy cơ kháng thuốc và nguy cơ lợi-hại. ACY là thuốc đặc hiệu cao cho tế bào nhiễm virus và ít độc tính cho tế bào (mô) khỏe mạnh. Tuy nhiên khuyết điểm lớn nhất của ACY là sinh khả dụng thuốc qua đường miệng thấp. Các bằng chứng khoa học chỉ ra rằng dầu bôi chứa 5-10% ACY không có tác dụng hiệu quả trong việc điều trị Herpes môi tái phát ở bệnh nhân khỏe mạnh, nguyên nhân do độ thẩm thấu thấp. Kem bôi chứa 5% ACY có thể làm giảm thời gian tổn thương tồn tại nếu được sử dụng sớm trong giai đoạn tiền triệu chứng, nhưng không có hiệu quả giảm đau. Song, người bệnh với các cơn tái phát dài và đau dữ dội được điều trị hiệu quả với thuốc bôi tại chỗ; thuốc kháng viêm có thể được thêm vào để tăng hiệu quả của ACY. Liều dùng của ACY qua đường miệng (toàn thân) là 200-400 mg (cho người lớn) 5 lần/ngày trong 5 ngày cho người bệnh Herpes môi tái phát (RHL) có chức năng giảm đau, lành thương, giảm lây lan trong 1-1.5 ngày (đặc biệt khi điều trị sớm). Kem chống nắng (SPF 15 hoặc tốt hơn) giúp giảm tỷ lệ tái phát bệnh RHL. Acyclovir tác dụng toàn thân (200 mg mỗi 3 giờ khi tỉnh táo trong 5 ngày) được chỉ định cho trẻ có hoặc nhiều hơn 6 cơn tái phát RHL/năm. Các thuốc kháng virus khác bao gồm: valacyclovir, ganciclovir, valganciclovir, penciclovir, famciclovir, foscarnet, và cidofovir. Độ an toàn và hiệu quả điều trị của các thuốc này trên trẻ em chưa được xác nhận. Docosanol, là thuốc không kê đơn duy nhất được FDA (Food and Drug Administration - Cục quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ) công nhận dùng để điều trị RHL cho trẻ em trên 12 tuổi. Thuốc được sử dụng 5 lần/ngày để thoa lên các tổn thương (vùng bị ảnh hưởng) ở môi và mặt. Thuốc cần được sử dụng sớm nhất có thể khi vừa có triệu chứng để đạt được hiệu quả tối đa. Các loại thuốc kháng virus và vaccine đang được thử nghiệm và kiểm nghiệm bao gồm imiquimod, resiquimod, undecylenic acid, thymopentin, và thuốc kháng vi sinh dùng cho niêm mạc. Bệnh nhân đang điều trị ung thư có nguy cơ cao đối với nhiễm HSV tái phát, do đó cần được điều trị phòng ngừa. Nhóm bệnh nhân này khi có tổn thương không tự lành sau 7-10 ngày cần được xét nghiệm sinh thiết, nuôi cấy vi sinh, và test độ nhạy với thuốc ACY. Các cá thể bệnh nhân được ghép tế bào gốc tạo máu có tỉ lệ kháng ACY cao nhất và được điều trị bằng foscarnet. Bệnh nhân có bệnh lý suy giảm chắc năng thận được điều trị giảm liều ACY xuống 50%. Trong trường hợp bệnh nhân vừa mắc VLMHNP và nhiễm Herpes tái phát, chuyên gia nha khoa cần đảm bảo dinh dưỡng, cung cấp đủ nước cho người bệnh, giữ vệ sinh răng miệng tốt, sạch sẽ, kiểm soát quá trình phát triển và ngăn ngừa sự lây lan của bệnh lý. Các điều trị nha khoa cần được hoãn lại đến khi diễn ra sự lành thương. Nhiễm nấm Candida hầu- họng (Oropharyngeal Candidiasis): Nhiễm nấm Candida là một loại nhiễm trùng cơ hội, nguyên nhân gây bệnh là do sự phát triển của chủng nấm Candida dưới các tác nhân như sử dụng thuốc kháng sinh/corticosteroid, tình trạng khô miệng (xerostomia), đái tháo đường (diabetes mellitus), khí cụ chỉnh nha che phủ khẩu cái, hút thuốc, hệ miễn dịch chưa hoàn thiện hoặc bị suy giảm. Nhiễm nấm Candida phổ biến nhất ở trẻ em là dạng màng giả và dạng ban đỏ. Nhiễm nấm Candida dạng màng giả có các mụn sẩn và dát lớn màu trắng-vàng, di động, kích thước và hình dáng đa dạng, tỏa tròn, che phủ ban đỏ (Erythema) phía dưới. Nhiễm nấm Candida dạng màng giả thường xuất hiện ở niêm mạc má, vết gấp niêm mạc má, hai bên lưng lưỡi, và hầu họng. Nhiễm nấm Candida dạng ban đỏ hoặc dạng teo có các mẩn đỏ lan tỏa hoặc thành từng dát, chủ yếu tập trung ở khẩu cái và lưng lưỡi. Sự tích tụ nước bọt tại các nếp gấp sâu vùng mép miệng tạo điều kiện cho sự xâm lấn của nấm và vi khuẩn (gây bệnh chốc mép – angular cheilitis). Bệnh chốc mép có màu đỏ, đôi khi tạo thành vết loét và đóng vảy, thường đau rát, xuất hiện nhiều ở trẻ em có thói quen mím môi (có thể lây sang vùng da quanh miệng). Bệnh nhân nhiễm nấm Candida miệng trải qua các cơn đau miệng, bỏng rát niêm mạc và lưỡi, khó nuốt, ăn uống khó khăn. Chẩn đoán bệnh được dựa vào nhân khẩu học, các yếu tố sức khỏe của người bệnh, các dấu hiệu, triệu chứng lâm sàng, cũng như các tiêu chí trong phòng thí nghiệm. Đánh giá kỹ lưỡng sức khỏe và các loại thuốc bệnh nhân đang sử dụng rất quan trọng trong việc đưa ra phương pháp điều trị nấm hiệu quả và giảm thiểu tỉ lệ tái phát. Nuôi cấy vi sinh rất hữu ích trong việc chẩn đoán và điều trị các tổn thương không đáp ứng phép trị liệu. Việc cải thiện vệ sinh răng miệng, kiểm soát sâu răng, làm sạch núm vú giả và khí cụ chỉnh nha, thay bàn chải mới rất quan trọng trong việc kiểm soát căn bệnh (nhiễm nấm). Đa số các thuốc kháng nấm hiện nay có phổ rộng để chống lại Candida albicans cũng như các chủng Candida khác (chúng thường được phân lập nhiều hơn). Các yếu tố tiềm ẩn cần được đánh giá khi nhiễm nấm tái phát thường xuyên và không rõ nguyên nhân, ví dụ như bệnh toàn thân, tình trạng sức khỏe dẫn đến suy giảm miễn dịch, bầu ngực người mẹ đang cho con bú. Sự kháng thuốc của nấm Candida thường được thấy trong các trường hợp sử dụng thuốc kháng nấm trong thời gian dài. Thuốc kháng nấm tại chỗ là hỗn dịch thuốc clotrimazole (10 mg/ml) và nystatin đường miệng (100,000 U/ml); bệnh nhân súc miệng trong 2 phút rồi nuốt hoặc nhổ ra, 4 lần/ngày trong vòng 2 tuần; sau đó, việc đánh giá lại khoang miệng sẽ được thực hiện. Người bệnh không nên ăn hoặc uống sau 30 phút đầu. Trẻ vị thành niên có thể dùng 1-2 viên thuốc ngậm (200,000 U) để tan dần trong miệng 5 lần/ngày. Hỗn dịch Nystatin có chứa 30-50% sucrose, vì vậy cần tăng cường vệ sinh răng miệng. Thuốc ngậm Clotrimazole (10mg) cũng có thành phần chứa nhiều sucrose, được ngậm tan dần trong miệng mỗi 3 tiếng khi tỉnh táo (5 lần/ngày) trong vòng 14 ngày. Thuốc kháng nấm toàn thân sẽ điều trị hiệu quả hơn khi được kết hợp bổ sung với thuốc kháng nấm tại chỗ. Các loại thuốc này bao gồm fluconazole 6 mg/kg đường miệng mỗi 12 hoặc 24 giờ, trong 5-7 ngày; trẻ vị thành niên có thể sử dụng 200-mg liều nạp (loading dose) cùng 100-200 mg liều thường mỗi ngày trong vòng 1 tuần. Ketoconazole có thể được sử dụng cho trẻ em với liều dùng 5-10 mg/kg mỗi 12 hoặc 24 giờ, cho trẻ vị thành niên 200-400 mg mỗi 24 giờ trong vòng 5-7 ngày. Thuốc có hiệu quả tốt kèm theo sự tuân thủ tốt của bệnh nhân. Các tác dụng phụ thường thấy khi dùng thuốc toàn thân gồm: buồn nôn, ói, ngứa ngáy, nổi ban, đầy hơi, đau bụng, nhức đầu, bất thường trong kết quả test chức năng gan, viêm gan do thuốc. Chlorhexidine gluconate 0.12% có thể được dùng làm nước súc miệng chống vi sinh, có chức năng duy trì vệ sinh hơn là chống nấm như các loại thuốc kháng nấm đầu tay. Các thuốc bôi, kem kháng nấm bao gồm nystatin, clotrimazole, miconazole, và ketoconazole. Trong các trường hợp bệnh nhân chốc mép mạn tính, kem bôi nystatin và triamcinolone acetonide (Mycolog-II) là lựa chọn điều trị tốt nhất, được dùng để thoa vào mép miệng 3 lần/ngày trong vòng 5 ngày. Nhiễm nấm xâm lấn ở trẻ em đang gia tăng do số lượng suy giảm miễn dịch nguyên phát và thứ phát ở trẻ gia tăng. Các trường hợp nhiễm nấm thường diễn ra trong môi trường bệnh viện, đa số do các chủng nấm Candida, tiếp sau là nhiễm các chủng nấm Aspergillus (gây ra bệnh nhiễm nấm mốc phổ biến). Nhiễm nấm Candida máu (nhiễm nấm huyết - Candidemia) ở trẻ em có tỉ lệ mặc bệnh và tử vong cao, kéo dài thời gian nhập viện, gia tăng chi phí chăm sóc điều trị. Nhiễm trùng nấm có thể lan tỏa đến các cơ quan đích như não, phổi, gan, thận, mắt và lá lách. Các yếu tố nguy cơ gây ra nhiễm nấm huyết gồm: thời gian dài điều trị trong ICU (Đơn vị điều trị tích cực), ức chế miễn dịch, nhiễm khuẩn từ trước, sau phẫu thuật, đặt ống thông (catheter) tĩnh mạch trung tâm, sử dụng thiết bị trợ thở (thông khí cơ học), chạy thận nhân tạo (dialysis), sử dụng vancomycin kéo dài, đái tháo đường, chấn thương, dinh dưỡng tĩnh mạch hoàn toàn (total parenteral nutrition- TPN). Nhiễm nấm huyết có thể được điều trị bằng fluconazole hoặc echinocandin theo liệu pháp thực nghiệm (Empirical therapy, chữa trị theo kinh nghiệm). Caspofungin là thuốc thuộc nhóm echinocandin duy nhất được FDA công nhận dùng để điều trị cho trẻ em, tuy nhiên thời gian bán thải của thuốc ở trẻ chỉ bằng 1/3 so với người lớn. Trẻ em, đặc biệt là trẻ sơ sinh dung nạp thuốc amphotericin b thông thường tốt hơn người lớn. Tuy nhiên trẻ nhiễm nấm cần được tăng liều dùng đối với thuốc voriconazole để đặt được ngưỡng điều trị cần thiết so với người lớn (voriconazole được dùng để điều trị nhiễm nấm mốc Aspergillus xâm lấn (Aspergillosis)). Thuốc voriconazole cũng là liệu pháp hiệu quả để điều trị nhiễm nấm Candida. Vẫn còn ít dữ liệu về việc sử dụng nhóm thuốc triazole thế hệ hai (posaconazole, isavuconazole, ravuconazole, và albaconazole) cũng như nhóm thuốc echinocandin (anidulafungin, micafungin) cho nhóm bệnh trẻ em. Itraconazole có thể được dùng để điều trị cho bệnh nhi, song việc giám sát theo dõi và sử dụng thuốc này khó hơn việc sử dụng fluconazole. Mặc cho sự ra đời của các loại thuốc kháng nấm mới, nhiễm nấm xâm lấn (bao gồm cả nhiễm nấm candida) vẫn đang là vấn đề sức khỏe nghiêm trọng do các hạn chế về độc tính, giá điều trị cao, và khả năng kháng thuốc. Lợi ích của điều trị dự phòng để giảm thiểu các bệnh lý xâm lấn (invasive diseases) ở trẻ em vẫn chưa có biểu hiểu rõ trong các trường hợp: trẻ mắc bệnh ung thư máu (ung thư hệ tạo huyết), trẻ được cấy ghép tủy xương, nội tạng, trẻ mắc bệnh suy giảm miễn dịch nguyên phát. Nguyên nhân là do vẫn chưa có thử nghiệm lâm sàng nào đủ độ ngẫu nhiên và số lượng mẫu chuẩn để đánh giá việc điều trị kháng nấm dự phòng trong các trường hợp trên. Việc sử dụng thuốc dự phòng không được khuyến cáo cho trẻ, ngoại trừ việc sử dụng itraconazole dự phòng cho bệnh nhi u hạt mạn tính (Chronic granulomatous disease). Bệnh hồng cầu hình liềm (Sickle Cell Disease): Bệnh thiếu máu hồng cầu hình liềm (Sickle cell anemia – SCA) là bệnh di truyền thường gặp, nhất là ở người Châu Phi, người gốc Phi-Carribean, người Trung Đông, Ấn Độ, Trung và Nam Mỹ, người gốc Địa Trung Hải. Bệnh thiếu máu hồng cầu hình liềm (SCA) gồm các hồng cầu hình liềm đặc trưng (lành tính); cùng với các bệnh lý bất thường liên quan đến hồng cầu hình liềm (Sickle Cell Disease - SCD): tan máu bất thường (tán huyết – hemolysis), tổn thương cơ quan, nội tạng mạn tính, các biến chứng cấp tính đe dọa đến tính mạng. Nguyên nhân bệnh là do đột biến gene B-globin, tạo thành HbS (Hemoglobin hình liềm), liên quan đến việc vận chuyển oxy trong máu. Cơ chế phân tử của bệnh hồng cầu hình liềm là do sự thay thế tại amino acid thứ 6 trong protein B-globin (Valine thay cho Glutamic acid), Valine khiến cho HbS bị khử (deoxygenated) polymer hóa. Tại Mỹ, SCA là bệnh phổ biến nhất được phát hiện qua xét nghiệm sàng lọc sơ sinh (neonatal screening). Quá trình polymer hóa (Polymerization) của HbS (bị khử) là sự kiện chính gây bệnh SCD, sự trùng hợp (polymer hóa) của HbS phụ thuộc vào nồng độ HbS trong máu, mức độ nhả oxy của tế bào, độ pH và nồng độ hemoglobin thai nhi (Fetal hemoglobin – HbF) nội bào (HbF có chức năng bảo vệ khỏi biến dạng hình liềm). Cần trải qua một khoảng thời gian nhất định để quá trình polymer hóa nội bào diễn ra đủ và biến đổi hình dạng tế bào. Các polymer được tạo ra có dạng những bó sợi hình ống quánh đặc, làm biến dạng tế bào hồng cầu thành hình liềm. Các tế bào hình liềm thường mắc kẹt trong dòng chảy chậm của các tiểu tĩnh mạch trong hệ thống vi tuần hoàn, khiến các tế bào này tăng cường bám dính vào nội mạc mạch máu, tạo thành các cụm tế bào dị loại (heterocellular aggregate) dẫn đến giảm oxy máu tại chỗ (local hypoxia), tăng sự trùng hợp của HbS, và làm tắc nghẽn mạch máu liền kề. HbS không chỉ làm biến dạng tế bào hồng cầu hình liềm mà còn khiến chúng kết dính, dẫn đến tổn thương nội mạc mạn tính. Một biến thể lâm sàng đáng chú ý là bệnh lý viêm mạch máu mạn tính, tiến triển thành các tổn thương cơ quan nội tạng đặc trưng bởi các giai đoạn đau dữ dội và biến chứng bệnh phổi. Thiếu máu và bệnh lý mạch máu là những đặc trưng tiêu biểu của bệnh SCD, các triệu chứng bệnh lý xuất hiện trong 6 tháng đầu đời. Tuổi thọ trung bình của tế bào hồng cầu hình liềm giảm từ 120 ngày xuống còn 12-17 ngày, lượng huyết sắc tố (Hemoglobin – Hb) 6-9 g/dl (ở người khỏe mạnh: 12-18 g/dl), số lượng hồng cầu lưới (reticulocyte counts) chiếm 5-15% (ở người khỏe mạnh: 0.5-1.5%). Cơn bệnh đau đớn những năm đầu đời là bệnh lý viêm ngón (Dactylitis) (Tình trạng ngón chân ngón tay xúc xích) gây ra bởi tình trạng nhiễm trùng, mất nước, nhiệt độ khắc nghiệt, giảm oxy máu (hypoxia), các căng thẳng thể chất và tinh thần, giai đoạn hành kinh. Cơn đau nhức xương thường dữ dội, tương xứng, tại nhiều vị trí, kéo dài từ vài phút đến vài ngày. Hội chứng giam hãm tiểu cầu trong lách (Splenic sequestration crises) xảy ra do lượng lớn tế bào hồng cầu mắc kẹt tại lá lách, và là nguyên nhân gây ra tình trạng thiếu máu đột ngột và nghiêm trọng, chứng giảm tiểu cầu (Thrombocytopenia), chứng tăng hồng cầu dạng lưới (Reticulocytosis). Hội chứng nhiễm trùng huyết sau cắt lách (Postsplenectomy sepsis) là bệnh lý đe dọa tính mạng chủ yếu gây ra bởi vi khuẩn có vỏ bọc polysaccharide, đặc trưng là phế cầu khuẩn Streptoccocus Pneumoniae (Là nguyên nhân tử vong hàng đầu ở trẻ mắc SCD). Các biểu hiện toàn thân khác bao gồm: Các vấn đề tim mạch (cardiovascular problems), viêm tủy xương (osteomyelitis), loãng xương (Osteoporosis), rối loạn phát triển (growth disturbances), hoại tử xương (osteonecrosis), hội chứng ngực cấp (acute chest syndrome), tai biến mạch máu não (CerebroVascular Accident – CVA), suy thận mạn tính (chronic renal failure), Chứng cương dương (Hội chứng Priapism – cương đau dương vật kéo dài). Các biến chứng về tâm lý xã hội (Psychosocial complications) thông thường gồm có suy giảm chức năng tâm lý (impaired psychosocial functioning) và giảm chất lượng cuộc sống. Điều trị can thiệp quan trọng nhất cho bệnh nhân SCD là sử dụng thuốc penicillin V potassium 125mg đường miệng, 2 lần/ngày bắt đầu từ 2 tháng tuổi để phòng ngừa nhiễm phế cầu khuẩn (Pneumococcus). Liều thuốc được tăng gấp đôi khi bệnh nhân đủ 3 tuổi, và được kéo dài điều trị đến 5 tuổi. Ngoài ra, thuốc này cũng được dùng để điều trị, theo dõi hậu phẫu cắt lách trong 2 năm. Có nhiều nghiên cứu, thí nghiệm đang được tiến hành để tìm ra loại thuốc điều trị hiệu quả, lí tưởng cho bệnh nhân SCD. Hydroxyurea (HU) có ứng dụng ban đầu là chất chống ung thư, song có khả năng làm tăng lượng HbF, góp phần giảm thiểu các biến dạng hình liềm cũng như các di chứng dài hạn của bệnh. Độc tính của HU nhẹ và thoáng qua bao gồm: tình trạng thiếu máu, buồn nôn, giảm bạch cầu trung tính (neutropenia), giảm tiểu cầu. Cấy ghép tế bào gốc tạo máu là liệu pháp duy nhất điều trị bệnh hoàn toàn, và cần được tiến hành sớm, trước khi tình trạng rối loạn chức năng tạng (organ dysfunctions) hình thành. Nhìn tổng quan, tỷ lệ tử vong do SCD đã giảm, tuổi thọ trung bình người bệnh ở Mỹ đã tăng lên (42 tuổi ở đàn ông và 48 tuổi ở phụ nữ có đồng hợp tử gene HbS), số người tử vong do nhiễm trùng đã giảm. Các biểu hiện và triệu chứng răng miệng (của SCD): Các triệu chứng răng miệng ở bệnh nhân SCD không có tính đặc hiệu, có thể tìm thấy ở những người khỏe mạnh, cũng như ở những người có bệnh lý toàn thân. Niêm mạc có thể bị vàng (jaundice) vì tình trạng tan máu (hemolysis) và trở nên xanh xao (pallor) do dung tích hồng cầu (hematocrit) thấp. Viêm lưỡi (Glossitis) và chậm mọc răng cũng một trong số các triệu chứng bệnh. Phim X-quang cho thấy mật độ bức xạ (radiodensity) xương giảm, cấu trúc xương xốp thô (coarse trabecular pattern), giới hạn dưới của xương hàm dưới mỏng, tiêu chiều cao xương ổ răng, lamina dura hiện rõ, kém khoáng hóa ngà (dentin hypomineralization), khuyết czermak (interglobular dentin) ở vùng quanh chóp răng, canxi hóa buồng tủy, quá sản cement (hypercementosis). Dị tật sọ mặt (craniofacial abnormalities) bao gồm hội chứng hô hai hàm BIMAX (Bimaxillary protrusion) và vẩu răng cửa, xương đỉnh và xương gò má nhô lên (prominent parietal and zygomatic bones) (Hội chứng sọ hình tháp – “tower skull”), mở rộng khoang tủy xương sọ (widening of the diploic space) bằng việc làm giảm độ dày lớp ngoài vòm sọ (thinning of the table of the calvarium) và tăng sinh bè tủy xương dọc (vertical trabeculation) (hình dạng “Hair-on-end”: X-quang sọ: các nét dựng đứng vuông góc với bề mặt xương. Dấu hiệu này nhìn giống những sợi tóc đang dựng đứng), và các tổn thương xơ cứng vòm sọ (fibrotic calvarial lesions) với hình vòng tròn (tổn thương dạng doughnut). Biến dạng hình liềm diễn ra ở hệ vi tuần hoàn của xương mặt và tủy răng gây nên cơn đau mặt (không do bệnh lý của răng). Các cơn tắc nghẽn mạch máu gần lỗ thần kinh cằm có thể gây nên dị cảm môi dưới kéo dài dai dẳng. Bệnh nhân SCD không có xu hướng mắc bệnh nha chu nhiều hơn người bình thường. Việc sử dụng kháng sinh penicillin dự phòng trong thời gian dài có thể đã chống lại sự xâm nhiễm của khuẩn mutans streptococcus, giúp giảm tỉ lệ sâu răng một cách đáng kể ở bộ răng sữa. Tuy nhiên khi đủ 8 tuổi, liệu trình kháng sinh dự phòng được dừng lại, trẻ em mắc SCD có tỉ lệ sâu răng ngang bằng với trẻ đồng trang lứa khỏe mạnh. Các lưu ý trong điều trị răng miệng (cho bệnh nhân SCD): Các cá thể mang kiểu hình (tính trạng) này không gặp trở ngại gì trong việc điều trị răng miệng. Đối với bệnh nhân bị ảnh hưởng bởi SCD, tiền sử bệnh cần được khai thác chi tiết, bao gồm các biến chứng liên quan, các dấu hiệu đặc trưng khi lên cơn đau, chăm sóc y tế trong quá khứ và hiện tại, sự hiện diện của bộ phận nhân tạo thay thế cho bộ phận cơ thể bị mất, mang mầm bệnh virus trong máu, các vấn đề về tăng trưởng và phát triển, thuốc men (bao gồm cả việc sử dụng bisphosphonates), dị ứng, và hồ sơ tóm tắt tâm lý. Tiền sử răng miệng của bệnh nhân cần được xem xét, gia đình người bệnh cần được giáo dục về việc chăm sóc sức khỏe răng miệng tốt góp phần cải thiện chất lượng cuộc sống. Những phàn nàn về cơn đau ở những răng khỏe mạnh cần được đánh giá kĩ lưỡng, nghiêm túc vì ở bệnh nhân SCD có khả năng bị sung huyết và hoại tử tủy. Không có giải pháp tiếp cận nào là hoàn hảo trong các tình huống này. Mọi nhiễm trùng miệng cần được tích cực điều trị, cần tránh điều trị phẫu thuật không bắt buộc. Khi lập kế hoạch điều trị chỉnh hình răng hàm mặt cần khảo sát, đánh giá cấu trúc xương và sinh lý. Nếu bệnh nhân đã hoặc đang sử dụng bisphosphonates, gia đình người bệnh cần được thông báo về nguy cơ hoại tử xương hàm liên quan đến bisphosphonates sau khi điều trị nha khoa xâm lấn. Mọi điều trị chăm sóc nha khoa đều an toàn tại phòng khám trong thời kì không phát bệnh. Bệnh nhân đeo bộ phận giả có thể phải uống kháng sinh dự phòng trước khi điều trị nha khoa xâm lấn. Đối với bệnh nhân đang sử dụng HU, cần phải thực hiện bộ công thức máu hoàn chỉnh vì họ mang các nguy cơ giảm bạch cầu trung tính, giảm tiểu cầu. Không có bằng chứng khoa học nào ủng hộ việc sử dụng thuốc tê không chứa thuốc co mạch cho bệnh nhân SCD. Việc sử dụng nitrous oxide (N2O) là an toàn, song cần cẩn thận khi sử dụng, đề phòng giảm oxy huyết. Thuốc an thần đường miệng có thể được sử dụng sau khi tham khảo kiến bác sĩ huyết học của bệnh nhân, thuốc phải được lựa chọn cẩn thận, tránh gây ra tình trạng suy hô hấp. Cần phải xin ý kiến của bác sĩ gây mê hồi sức dày kinh nghiệm, trước khi điều trị nha khoa dưới hình thức gây mê toàn diện để xác định nguy cơ biến chứng và ngăn ngừa các trở ngại có thể xảy ra trong lúc phẫu thuật. Bệnh nhân có nguy cơ thấp có thể được điều trị ở trung tâm phẫu thuật ngoại trú, bệnh nhân có nguy cơ cao hơn cần được điều trị trong phòng mổ bệnh viện, với các thiết bị hỗ trợ y tế. Viện y tế quốc gia (The National Institutes of Health - NIH) không khuyến cáo việc truyền máu đơn giản trong qui trình điều trị nha khoa hay phẫu thuật miệng. Bệnh lý máu khó đông Hemophilia A: Bệnh máu khó đông Hemophilia A là một rối loạn di truyền do gene lặn trên nhiễm sắc thể X, dẫn đến thiếu hụt yếu tố đông máu VIII, với tỉ lệ 1/5000 ở nam giới. Hemophilia A có tần suất chiếm 85% trong tất cả các bệnh lý máu khó đông hemophilia, và được phân loại theo mức độ như sau: Nặng (Không có yếu tố VIII nào trong máu được phát hiện), trung bình (yếu tố VIII khỏe mạnh chiếm 1-4%), nhẹ (yếu tố VIII khỏe mạnh chiếm 5-25%). Trong trường hợp bệnh nhẹ, bệnh nhân có thể không có tiền sử chảy máu, chỉ có thế phát hiện bệnh khi điều trị phẫu thuật hoặc chấn thương. Cần nghi ngờ tình trạng máu khó đông ở bệnh nhân nam khi có dấu hiệu chảy máu bất thường, trong đó, các chỉ số tiểu cầu (PLT count), thời gian máu chảy, thời gian thrombin, thời gian prothrombin đều bình thường, nhưng thời gian thromboplastin một phần hoạt hóa bị kéo dài. Các xét nghiệm đặc trưng yếu tố đông máu được dùng để phân biệt giữa bệnh lý máu khó đông Hemophilia A và Hemophilia B (thiếu hụt yếu tố IX), chiếm 10-15% bệnh lý hemophilia. Dấu hiệu lâm sàng của bệnh Hemophilia A là xuất huyết khớp và cơ, dễ thâm tím, chảy máu kéo dài có khả năng gây tử vỏng sau chấn thương hoặc phẫu thuật, tuy nhiên các vết cắt, vết xước nhỏ không gây chảy máu nhiều. Chứng tụ máu khớp (Hemarthroses) được phát hiện lần đầu tiên khi trẻ bắt đầu tập đi. Nếu xuất huyết khớp không được chữa trị, việc vận động sẽ bị hạn chế nghiêm trọng và có thể dẫn tới tàn tật vĩnh viễn. Khối tụ máu trong bắp có thể đè nén các cấu trúc quan trọng và gây liệt thần kinh, cũng như làm tắc nghẽn mạch máu hoặc đường thở. Việc điều trị Hemophilia A được thực hiện dựa theo phân loại mức độ nghiêm trọng của bệnh, dạng chảy máu hiện tại hoặc dự đoán, sự hiện diện của các chất ức chế. Việc truyền dịch yếu tố VIII thường xuyên được sử dụng để điều trị chảy máu nhiều trong các cuộc đại phẫu, đe dọa đến tính mạng. Vasopressin (desmopressin) có khả năng làm tăng yếu tố VIII và yếu tố von Willebrand trong máu, được dùng để điều trị hemophilia dạng nhẹ và trung bình (khi bệnh nhân đáp ứng tốt với liều thuốc thử do bác sĩ huyết học thực hiện vài ngày trước cuộc phẫu thuật). Hiệu quả thuốc đạt đỉnh sau 20- 60 phút sử dụng, với thời lượng 4 giờ. Phương pháp điều trị ít được dùng hơn là việc sử dụng huyết tương tươi đông lạnh (Fresh frozen plasma – FFP), tủa lạnh giàu yếu tố VIII đông khô. Một tình huống thách thức xảy ra khi cơ thể bệnh nhân tạo nên kháng thể chống lại yếu tố VIII (hiện diện ở 15% bệnh nhân hemophilia dạng nặng). Liệu pháp gene đang được nghiên cứu để kiểm soát và điều trị bệnh máu khó đông hemophilia. Các lưu ý khi điều trị răng miệng (cho bệnh nhân hemophilia): Nha sĩ cần lưu ý bệnh sử và các biểu hiện lâm sàng của bệnh nhân; tuân theo pháp đồ và hướng dẫn điều trị. Việc xem xét, đánh giá kĩ lượng tiển sử bệnh, kết quả xét nghiệm máu gần nhất là tối quan trọng để khôi phục cơ chế đông máu về lại các chỉ số đông máu có hiệu quả, hỗ trợ cầm máu bằng thuốc và biện pháp cục bộ. Việc xem xét tiền sử nha khoa cũng vô cùng quan trọng, đặc biệt là các giai đoạn chảy máu khoang miệng, chế độ ăn, vệ sinh răng miệng, bởi vì việc chăm sóc phòng ngừa và duy trì sức khỏe răng miệng rất cần thiết đối với bệnh nhân bị rối loạn chảy máu (bleeding dyscrasia). Không cần điều trị sơ bộ trước khi cạo vôi trên nướu đối với bệnh nhân hemophilia dạng nhẹ và trung bình. Tuy nhiên, một số điều trị sơ bộ cần được thực hiện trước khi cạo vôi dưới nướu. Trong trường hợp bệnh nhân mắc hemophilia dạng nặng, không được gây tê vùng hay sử dụng các phương pháp chích tê khác trước khi xử lí chảy máu thành công, bởi vì chích tê có thể làm chảy máu ở mô sâu, có nguy cơ cao làm tắc nghẽn đường thở. Bệnh nhân mắc hemophilia dạng nhẹ và trung bình có nguy cơ thấp. Sử dụng đê cao su và kẹp đê chắc chắn là việc làm quan trọng để bảo vệ mô mềm. Chêm và khuôn trám có thể được đặt vào nhẹ nhàng, cẩn thận, khí cụ có thể được gắn nếu không gây tổn thương đến các mô. Lấy tủy toàn phần, bán phần, điều trị nội nha có thể được thực hiện mà không gây ra chảy máu đáng kể, tránh đưa dụng cụ và chất trám vượt quá chóp. Điều trị nội nha có thể là lựa chọn duy nhất để kiểm soát áp xe răng cho bệnh nhân kháng thuốc điều trị. Kĩ thuật phẫu thuật phải không gây tổn thương, các mảnh xương và mô hạt cần được loại bỏ, vết thương được khâu đóng kín để bảo vệ, giữ cục máu đông. Thuốc kháng sinh cần được sử dụng khi dùng chất cầm máu có thể hấp thụ, nếu không sẽ nhiễm trùng. Điều trị chỉnh hình răng mặt không bị chống chỉ định, tuy nhiên cần lưu ý khi sửa dụng dây cung có đầu nhọn và đặt khâu chỉnh nha có cạnh bén. Bệnh nhân mắc hemophilia dạng trung bình và nặng cần được truyền yếu tố VIII trước khi trải qua quá trình điều trị phẫu thuật miệng. Yếu tố đông máu có thể được truyền qua đường tĩnh mạch, đạt ngưỡng trị liệu sau vài phút, và đạt ngưỡng 100% sau khi truyền. Một phương pháp khác là truyền 50% liều lượng trước phẫu thuật, và 50% còn lại sau 12 giờ, được bổ sung bằng các phương pháp cầm máu tại chỗ (đè ép vết thương, khâu đóng, dùng gelatin sponge, vật liệu cellulose, thrombin, vi sợi collagen, keo dán fibrin, v.v.), thuốc chống tiêu sợi huyết đường miệng (nước súc miệng tranexamic acid). Thời gian bán phân hủy của yếu tố VIII là 12 giờ. Vasopressin, ε-aminocaproic acid, và tranexamic acid có thể được dùng theo đường toàn thân sau khi nhổ răng. Bệnh nhân được chỉ định đại phẫu và sử dụng thuốc ức chế cần được nhập viện điều trị, vì bệnh viện có môi trường hậu phẫu kín, có thể giám sát và truyền yếu tố đông máu tích cực. Loãng xương ở trẻ em (Pediatric Osteoporosis): Mật độ xương thấp đang có xu hướng gia tăng ở trẻ em. Gãy xương là nguyên nhân chính khiến trẻ nhập viện từ độ tuổi 10-14 tuổi, số lượng gãy xương ở trẻ đang gia tăng qua 3 thập kỉ trôi qua. Các yếu tố thời thơ ấu như lối sống, chế độ ăn, bệnh mạn tính, thuốc men có ảnh hưởng ngắn hạn đến sức khỏe xương; ảnh hưởng dài hạn đến việc đạt khối lượng xương đỉnh (peak bone mass), và tiềm năng mắc bệnh ở tuổi trưởng thành. Các yếu tố nội tại không thể thay đổi (ví dụ: chủng tộc, bộ gene, giới tính) chịu trách nhiệm quyết định từ 75% đến 80% khối lượng xương đỉnh của từng cá thể; trong khi đó, các yếu tố ngoại lai có khả năng biến đổi (ví dụ: chế độ ăn, hormones, bệnh tập, thể dục thể thao) có nhiều ảnh hưởng đáng kể đến khối lượng xương sau cùng (ultimate bone mass). Việc dung nạp đủ lượng canxi và vitamin D, và việc hoạt động thể dục thể thao thường xuyên là một trong những yếu tố ngoại lai quan trọng nhất để đạt được mật độ xương và khối lượng khoáng chất trong xương tối ưu. Loãng xương (Osteroporosis) là bệnh lý xương toàn thân, với các đặc điểm sau: khối lượng xương thấp, có sự thay đổi chất lượng siêu cấu trúc (ultrastructural quality) của xương, sự suy giảm cấu trúc xương xốp, tăng độ xốp (porosity) ở xương vỏ, giảm độ dày xương vỏ, giảm chiều rộng của xương, tăng nguy cơ gãy xương của người bệnh. Các dạng loãng xương nguyên phát là các tình trạng di truyền hiếm gặp, trong khi đó, các dạng loãng xương thứ phát ngày càng phổ biến do tình trạng trẻ em mắc bệnh mạn tính có thể sống lâu hơn. Cơ chế hoạt động của sinh lý của bệnh loãng xương thứ phát là do chế độ dinh dưỡng nghèo nàn, ít hoạt động thể dục thể thao, dậy thì trễ, ảnh hưởng của thuốc men lên cơ thể, dẫn đến ức chế sự hình thành của xương, tăng tiêu xương, giảm khả năng đáp ứng kích thích cơ học của xương. Tốc độ gia tăng khối lượng xương có xu hướng tỉ lệ thuận với việc phát triển chiều cao; vào cuối thời kì dậy thì, con người đạt được 90% khối lượng xương đỉnh. Các bé gái bước vào thời kì phát triển, biến đổi mạnh mẽ tuổi dậy thì sớm hơn các bé trai, song nam giới có thời kì phát triển tuổi dậy thì lâu hơn và đạt đỉnh phát triển cao hơn nữ giới. Thất bại trong việc đạt khối lượng xương đỉnh sẽ dẫn tới tăng nguy cơ loãng xương, gãy xương ở người trưởng thành. Dư hoặc thiếu các hormone sinh trưởng, hormone tuyến giáp (thyroid hormone), hormone tuyến cận giáp (parathyroid hormone), nội tiết tố sinh dục (sex steroids) cũng có thể dẫn đến giảm mật độ khoáng chất của xương (mật độ xương – Bone mineral density – BMD). Việc xác định và miêu tả loãng xương ở trẻ em là một thách thức, nguyên nhân là do trị số mật độ xương (BMD) ở trẻ em luôn thay đổi theo độ tuổi, giới tính, kích thước cơ thể, thời kì dậy thì, độ trưởng thành của khung xương, các hoạt động nội tiết tố (hormone action), kích thước xương, và chủng tộc. Vấn đề trở nên phức tạp hơn, trong nhiều trường hợp bệnh nhi có BMD thấp là kết quả (thứ phát) của nhiều bệnh trạng và bất thường khác nhau, ảnh hưởng đến chiều cao, cân năng, phát triển tuổi dậy thì, và có mức ảnh hưởng khác nhau lên từng vùng của khung xương. BMD ở trẻ em được đánh giá bằng chỉ số Z-score; trong đó quần thể tham chiếu có cùng chủng tộc, giới tính, độ tuổi mẫu chuẩn, tuy nhiên thật không may là cơ sở dữ liệu vẫn còn bị hạn chế. Chỉ số Z-score là sự khác biệt giữa trị số BMD đo được và trị số chuẩn (reference value), được thể hiện qua độ lệch chuẩn (Standard Deviation – SD unit). Chỉ số Z-score không tính đến các biến số được nêu trên (giới tính, kích thước cơ thể, giai đoạn dậy thì, sự trưởng thành của khung xương, hoạt động nội tiết tố, kích thước xương, và chủng tộc), từ đó hình thành vấn đề về độ chính xác của chẩn đoán, nguyên nhân là do việc giải nghĩa các chỉ số đo hàng loạt (serial measurements) của một đứa trẻ là vô cùng khó khăn. Vì vậy, chẩn đoán bệnh loãng xương ở bệnh nhi không chỉ duy nhất dựa vào việc đo mật độ xương. Chỉ số Z-score dưới -2 thường được cho là cảnh báo nghiêm trọng đối với nguy cơ loãng xương, tuy nhiên các chuyên gia sẽ không đưa ra bất cứ chẩn đoán nào tới khi xuất hiện ít nhất một tình trạng gãy xương do vấp ngã/ va chạm nhẹ (fragility fracture). Cơn đau xương mạn tính và/hoặc các dấu hiệu xương loãng (rarefied bone) trên phim X-quang làm dấy lên nghi ngờ về sự hiện diện của bệnh loãng xương. Thuật ngữ “Mật độ xương thấp theo tuổi thời gian” (low bone mass for chronologic age) được sử dụng khi chỉ số Z-score thấp hơn hoặc bằng -2; thuật ngữ “suy giảm mật độ xương” (osteopenia), không được sử dụng cho hồ sơ bệnh xương ở trẻ em. Vì việc gãy xương do vấp ngã/ va chạm nhẹ (fragility fracture) là dấu hiệu lâm sàng đặc trưng của bệnh lý loãng xương, tiêu điểm đánh giá bệnh đã được chuyển từ chỉ số BMD thấp sang suy giảm độ cứng chắc của xương (compromised bone strength), nhấn mạnh rằng nguy cơ gãy xương liên quan đến nhiều yếu tố phức tạp hơn chứ không chỉ dựa vào một chỉ số đo lường định lượng. Một cách tiếp cận để xác định bệnh lý loãng xương ở trẻ em là dựa vào mối quan hệ giữa chỉ số mật độ xương (BMD) hay chỉ số khối lượng xương (BMC- Bone Mineral Content) của trẻ với khối lượng cơ, nguyên nhân là do các hoạt động cơ bắp tác động lên xương sẽ tăng độ cứng chắc của xương. Chỉ số mật độ xương (BMD) tiếp tục được dùng làm thông số chẩn đoán bệnh loãng xương ở trẻ em. Hiện nay có nhiều phương pháp đo chỉ số BMD, trong đó phương pháp hấp thu tia X năng lượng kép (Dual Energy X-ray Absorptiometry – DEXA) là công cụ cơ bản, và được ứng dụng rộng rãi nhất cho việc chẩn đoán và kiểm soát bệnh lý loãng xương ở người trưởng thành. Phương pháp DEXA cung cấp độ chính xác cao, độ tái lập (reproducibility) tốt, liều bức xạ thấp, song phương pháp này không đo được thể tích mật độ xương (Volumetric bone density) cũng như không phân biệt được xương vỏ hay xương xốp. Phương pháp DEXA có thể đưa ra kết quả sai khi dùng trên chủ thể đang phát triển, nó có thể hạ thấp chỉ số mật độ thật của xương nhỏ, và nâng cao chỉ số của xương lớn. Vì vậy, chỉ số thật của mật độ khoáng xương BMAD (Bone Mineral Apparent Density) biểu hiện chính xác nhất mật độ xương trong quần thể nhi khoa, nhờ vào khả năng đưa ra được kết quả thể tích mật độ xương; tuy nhiên, DEXA vẫn là phương pháp được ưa chuộng hơn để đánh BMC (chỉ số khối lượng xương) và BMD (chỉ số mật độ xương) theo diện tích (areal). Vùng trước/sau xương sống và vùng toàn thân trừ đầu (total body less head) là các khu vực tái hiện phù hợp nhất cho việc đo mật độ xương (densitometry). Một số phương pháp khác để đo chỉ số mật độ xương BMD gồm có: Chụp cắt lớp vi tính định lương (Quantitative Computerized Tomography – QCT), siêu âm định lương (Quantitative ultrasound), và chụp cộng hưởng từ MRI (Magnetic Resonance Imaging). Hướng dẫn phòng ngừa (Anticipatory guidance- cho cha mẹ, người giám hộ để giúp trẻ tránh các vấn đề sức khỏe, sự cố, tai nạn trong tương lai của trẻ) về lối sống lành mạnh, thường xuyên tập thể dục thể thao, có chế độ ăn cân bằng, tránh sử dụng rượu bia, thuốc lá, thuốc cấm, là rất quan trọng để phòng ngừa tiêu xương, cần được phổ cập vào thời kì đầu của trẻ. Đây là lĩnh vực mà các chuyên gia nha khoa có thể tạo nên ảnh hưởng lớn tới sức khỏe người bệnh, và cần được bàn đến trong tất cả các cuộc tái khám. Trong các trường hợp giảm BMD ít nghiêm trọng, việc điều chỉnh chế độ dinh dưỡng kém, cung cấp thêm canxi và vitamin D, đi đôi với việc tập tạ giúp ích tốt với nguy cơ rủi ro thấp. Tính chất, số lượng, và loại hình hoạt động thể dục thể thao cần được điều chỉnh phù hợp với giới tính, lứa tuổi, và tình trạng sức khỏe của bệnh nhân; lý do là vì nếu hoạt động quá sức sẽ đem lại ảnh hưởng xấu cho xương. Một ví dụ cụ thể là rối loạn biếng ăn tâm lý (chán ăn tâm thần – anorexia nervosa). Vitamin D ở mức thấp có thể gây tăng giải phóng nội tiết tố tuyến cận giáp (parathyroid hormone), dẫn đến việc kích thích hủy cốt bào tái hấp thu xương. Tiêu thụ nước uống có gas gây ảnh hưởng tiêu cực đến việc tích lũy khoáng của xương ở lứa tuổi dậy thì (ảnh hưởng các bé gái nhiều hơn các bé trai). Bệnh chậm phát triển, dậy thì chậm, suy tuyến sinh dục (hypogonadism) cần được chữa trị bằng liệu pháp nội tiết tố (hormonal therapy). Các chất chống tiêu xương (Anti-resorptive agents) như là bisphosphonates, làm chậm quá trình tái hấp thu xương, trong khi đó quá trình tạo xương vẫn tiếp diễn bình thường. Thuốc chống tiêu xương chỉ được dùng cho bệnh nhi có chỉ số Z-score thấp hơn -2, đặc biệt là khi các tình trạng gãy xương xảy ra sau chấn thương nhẹ (tối thiểu), và các biện pháp dự phòng (ví dụ như chế độ ăn, thể dục thể thao) thất bại trong việc đảo ngược sự tiêu xương. Thuốc bám chặt vào tinh thể hydroxyapatite, làm giảm sự tái hấp thu xương bằng việc ức chế hoạt động chức năng tế bào và đẩy nhanh cái chết của hủy cốt bào, đặc biệt là ở xương xốp và xương có tỉ lệ thay mới cao (high turnover rate). Mặc dù cần có thêm nhiều nghiên cứu đánh giá độ an toàn và hiệu quả của thuốc trên bệnh nhi, ứng dụng lâm sàng của thuốc ngày càng được chấp nhận, phổ biến rộng. Chưa có sự nhất trí về liều lượng, thời gian trị liệu cũng như loại chất bisphosphonate nào tối ưu nhất trong việc điều trị cho bệnh nhi. Các tác dụng phụ nghiêm trọng ở người lớn như viêm màng bồ đào (uveitis), chứng giảm tiểu cầu (thrombocytopenia), lở loét miệng và thực quản hiếm xảy ra ở trẻ em. Đến thời điểm hiện tại, các bằng chứng khoa học không ủng hộ việc sử dụng bisphosphonates như là liệu pháp tiêu chuẩn để điều trị loãng xương thứ phát ở bệnh nhi. Các lưu ý trong điều trị răng miệng (cho bệnh nhân loãng xương): Bệnh nhi được chẩn đoán có chỉ số BMD thấp và loãng xương, được điều trị đang gia tăng, bằng các thuốc đòi hỏi phải có sự lưu ý đặc biệt (special care) khi điều trị chăm sóc răng miệng. Các chuyên gia nha khoa phải kỹ lưỡng, tỉ mỉ trong việc thu thập tiền sử bệnh của trẻ em và trẻ vị thành niên có nhu cầu chăm sóc y tế đặc biệt; nguyên nhân là do nhiều trường hợp có tiền sử loãng xương và có chỉ số BMD thấp. Các thông tin quan trọng cần thu thập là: 1. Chỉ số BMD thấp như thế nào? Việc chuyển bệnh nhi từ xe lăn lên ghế nha, tác động vật lí để giữ trẻ yên một chỗ (physical restraint), và việc nhổ răng (đặc biệt là răng vĩnh viễn) có thể gây gãy xương nếu không được tiến hành cẩn thận. 2. Nguyên nhân của chỉ số BMD thấp hay bệnh lý loãng xương là gì? 3. Điều trị nào sẽ được thực hiện đối với tình trạng xương người bệnh để đề phòng các vấn đề, trở ngại như hoại tử xương hàm liên quan đến bisphosphonate (Bisphosphonate- Related OsteoNecrosis of the Jaws – BRONJ)? Việc sử dụng bisphosphonate có thể là mỗi tuần, mỗi tháng nên bệnh nhân và người chăm sóc không nhớ được họ có dùng hay không nếu không được hỏi rõ. Đặt thêm câu hỏi cụ thể về việc sử dụng thuốc vào tờ khai tiền sử bệnh và nhận thức được tiềm năng gây nên biến chứng miệng dài hạn của thuốc là việc làm quan trọng (Vì thời gian bán đào thải của thuốc là nhiều năm). Việc giáo dục cho bệnh nhi và người chăm sóc về tầm quan trọng của sức khỏe răng miệng, các tác dụng phụ dài hạn của thuốc khi điều trị nha khoa xâm lấn là điều cần thiết. Các tác nhân tiềm năng gây nhiễm trùng niêm mạc và nhiễm trùng do răng cần được loại bỏ trước khi bệnh nhân bắt đầu điều trị thuốc bisphosphonate. Việc tránh các điều trị phẫu thuật miệng, đặc biệt đối với bệnh nhân được truyền tĩnh mạch (IV) bisphosphonates (BIS), là vô cùng quan trọng để giảm nguy cơ BRONJ (hoại tử xương hàm liên quan đến bisphosphonate). Nguy cơ BRONJ ở những bệnh nhân dùng bisphosphonate đường miệng giảm đáng kể so với những người truyền tĩnh mạch (IV) BIS. Chưa có đủ bằng chứng khoa học đề nghị người bệnh sử dụng BIS đường miệng tránh tiếp nhận thường xuyên các điều trị phẫu thuật như cấy ghép implant, nhổ răng, v.v., mặc dù thời gian điều trị BIS đường miệng (nhiều hơn 3 năm) có liên quan đến sự phát triển và mức độ nghiêm trọng của BRONJ. Nhiều người suy đoán rằng việc nhổ răng sữa không gây ra nguy cơ phát triển BRONJ, với lý do là vết thương nhỏ, xương hàm của người trẻ xốp hơn và có nhiều mạch máu hơn người trưởng thành. Một lý do khác là do bệnh nhi dùng liều BIS thấp hơn người trưởng thành. Các nghiên cứu khoa học được công bố nói về việc BRONJ không tồn tại ở bệnh nhi có nhiều sai sót trong quá trình thiết kế thí nghiệm (ví dụ: số lượng bệnh nhân ít, không có sự ngẫu nhiên, thời gian theo dõi ngắn, thuốc và liều lượng được dùng khác nhau), các sai sót này phải được xem xét khi diễn giải các kết quả. Tuy nhiên, số lượng thanh thiếu niên được điều trị nhổ răng để chỉnh nha, nhổ răng mọc kẹt, răng khôn, phẫu thuật nha chu, lấy mô sinh thiết ngày càng nhiều khiến cho nguy cơ BRONJ có thể gia tăng. Trước khi tiến hành có qui trình điều trị xâm lấn đối với quần thể này, nha sĩ nhi khoa cần phải hội chẩn với bác sĩ điều trị (BIS) và thu được giấy chấp nhận có hiểu biết (informed consent/ ~ giấy cam đoan chấp nhận phẫu thuật, thủ thuật và gây mê hồi sức) chi tiết và nêu rõ các khả năng biến chứng từ người chăm sóc bệnh nhân. Sinh lý bệnh, chẩn đoán và điều trị cho BRONJ đã được mô tả chi tiết nhiều nơi. Bisphosphonate có thể cản trở sự di chuyển của răng, gây khó khăn cho việc điều trị chỉnh hình răng mặt (dựa vào hoạt động của hủy cốt bào để di chuyển răng). Bệnh nhân có nguy cơ/mức độ cao về ức chế hoạt động của hủy cốt bào ví dụ như các bệnh nhân đã/đang truyền BIS tĩnh mạch được đề nghị tránh tiến hành điều trị chỉnh hình răng mặt. Thuốc bisphosphonate cũng có liên quan đến quá trình chậm mọc răng ở bệnh nhi mắc chứng xương thủy tinh (Osteogenesis imperfecta – OI). Rối loạn phổ rượu ở thai nhi (Fetal Alcohol Spectrum Disorders – FASDs): Rối loạn phổ rượu ở thai nhi (FASD) là thuật ngữ chung (umbrella term) không chẩn đoán, bao gồm một phổ lớn các bất thường cấu trúc (structural anomalies), và các khuyết tật về hành vi, nhận thức; FASD là hậu quả của việc phơi nhiễm rượu (alcohol) ở thai nhi đang phát triển. Hội chứng rượu bào thai (Fetal Alcohol Syndrome- FAS) là dạng nặng nhất của Rối loạn phổ rượu ở thai nhi (FASD) trong các hậu quả gây dị tật bẩm sinh, quái thai của rượu. Tiêu chuẩn chẩn đoán bao gồm tiền sử tiêu thụ rượu bia của người mẹ, cùng với một số thành phần nằm trong cả ba phạm trù sau đây: dị dạng sọ mặt (craniofacial dysmorphism), chậm phát triển (growth retardation) ở thời kì trước (prenatal) và sau khi sinh (postnatal), rối loạn chức năng hệ thần kinh trung ương (Central Nervous System – CNS dysfunction) (ví dụ như: thiểu năng trí tuệ, khuyết tật học tập, rối loạn khó khăn làm chủ hành vi). Viện Hàn Lâm Nhi Khoa Hoa Kì (The American Academy of Pediatrics) khuyến cáo phụ nữ cai rượu khi đang mang thai hoặc có dự định mang thai, nguyên nhân là do tiêu thụ rượu bia dù ít hay nhiều cũng có hại khi mang thai. Nguy cơ suy giảm chức năng (functional impairment) ở người con tăng từ 2-5 lần khi có bà mẹ uống ít nhất 5 li mỗi dịp, 1 tuần 1 lần, có độ tuổi 30 trở lên. Hội chứng rượu bào thai là nguyên nhân hàng đầu dẫn đến thiểu năng trí tuệ ở Mỹ. Các đứa trẻ bị bệnh thường đến từ các gia đình bất ổn, và biểu hiện ra các khó khăn về tâm lý xã hội và có vấn đề về điều chỉnh tâm lý hành vi cả đời. Khả năng học tập (school functioning) bị suy giảm, đặc biệt là sự thiếu hụt về suy luận toán học (arithmetic), điều này được thể hiện qua việc bệnh nhân gặp trở ngại lớn về sự trù tượng, ví dụ như thời gian và không gian, mối quan hệ nhân quả. Người bệnh cũng gặp khó khăn trong việc quan sát, học tập rút kinh nghiệm từ tình huống này để ứng dụng xử lý tình huống khác. Điều này có vẻ là cản trở lớn nhất trong việc sống tự lập của bệnh nhân, kỹ năng phán đoán kém, và rối loạn chức năng toàn diện (general dysfunction). Biểu hiện lâm sàng ở sọ mặt và các lưu ý trong điều trị nha khoa: Các đặc điểm thường gặp của FAS (Hội chứng rượu bào thai) gồm có tật mắt nhỏ (microphthalmia), khe mi ngắn, nhân trung kém phát triển, bờ đỏ son (vermilion border) mỏng, dẹt mặt (flattening of the maxillary area). Triệu chứng đặc trưng (Discriminating features): - Khe mi ngắn - Mặt giữa phẳng - Mũi ngắn - Nhân trung không rõ ràng (kém phát triển) - Môi trên mỏng Triệu chứng liên quan (Associated features): - Sóng mũi ngắn - Nếp mí rẻ quạt (Epicanthal fold) - Dị tật tai nhỏ - Cằm nhỏ (Micrognathia) Người mắc FAS (Hội chứng rượu bào thai) có thể được phân biệt từ nhóm mẫu chính xác 100% chỉ bằng hai số đo sọ mặt: Chu vi vòng đầu (Head circumference) và bề ngang hai điểm gonia (hai điểm góc hàm – bigonial breadth). Chụp hình mặt kỹ thuật số (Digital facial imaging) được ứng dụng ngày càng nhiều để mô tả (delineation) hội chứng. Trẻ em mắc FAS còn có thể biểu hiện sứt môi cô lập (isolated cleft lip) có hoặc không có hở hàm ếch (cleft palate). Tạng người thấp, tật đầu nhỏ (microcephaly) là khiếm khuyết tăng trưởng (growth deficiency) nổi bất nhất khi trẻ lớn lên. Tuy nhiên, các thay đổi về kiểu hình (phenotype) vật lý, cũng như khuôn mặt trở về trạng thái bình thường trong giai đoạn dậy thì, do nhân trung phát triển, mũi và cằm tăng trưởng. Đến thời điểm này, vẫn chưa có dữ liệu nào bàn luận về tỉ lệ sâu răng ở quần thể này. Trở ngại lớn nhất trong việc điều trị cho bệnh nhi mắc hội chứng rượu bào thai (FAS) tại phòng mạch là kiểm soát hành vi của bệnh nhi. Ung thư trong nhi khoa (Pediatric cancer): Ung thư là nguyên nhân tử vong phổ biến thứ nhì ở trẻ em tại Mỹ, đứng sau tai nạn. Tỷ lệ mắc bệnh ung thư thời thơ ấu đỉnh điểm là trong năm đầu đời, với đỉnh chóp thứ nhì là vào năm 2-3 tuổi. Tỷ lệ ung thư thời thơ ấu ở Mỹ vẫn không thay đổi, hằng năm có khoảng 7300 trẻ em từ độ tuổi 0-14 tuổi được chẩn đoán mắc bệnh ung thư. Các bệnh ung thư bạch cầu cấp tính (leukemia), ung thư hạch bạch huyết/u lympho (lymphoma), u não, u phần mềm (soft tissue tumor), u thận là các khối u ác tính thường gặp ở trẻ em. Việc chẩn đoán sớm và các tiến bộ y khoa đã góp phần cải thiện kết quả điều trị, tăng tỉ lệ sống sót của người bệnh. Tuy nhiên, đi cùng sự tiến triển này là sự gia tăng của các tác dụng phụ không mong muốn do các chiến lược điều trị ung thư xâm lấn mạnh hơn được sử dụng. Phương pháp điều trị đa mô thức (multimodal treatment approach) ứng dụng phẫu thuật và xạ trị (radiotherapy) để kiểm soát bệnh khu trú, hóa trị (chemotherapy) được dùng để loại bỏ bệnh toàn thân. Hóa trị can thiệp quá trình tổng hợp hoặc chức năng của các nucleic acid quan trọng trong tất cả tế bào, trong khi đó, xạ trị gây tổn thương DNA ở các tế bào ung thư, hạn chế gây hại tối thiểu đến các tế bào liền kề (quan trọng trong bệnh nhi). Các tế bào sinh sôi nhanh chóng nhạy cảm hơn, chết nhanh hơn khi xạ trị so với các tế bệnh phân chia bình thường, cũng như với các tế bào không phân chia vô cảm với xạ trị. Việc xạ trị được tiến hành trong nhiều tuần trong các khoảng thời gian bằng nhau, các giai đoạn (khoảng thời gian) thường cách nhau 24 giờ để hỗ trợ cho việc sửa chữa ở các tế bào khỏe mạnh, và tăng ảnh hưởng đến các tế bào ung thư. Mặc dù sự tiến bộ trong hóa trị và xạ trị ion hóa (ionizing radation) đã giúp giảm bớt bức xạ cũng như các thủ thuật phẫu thuật cắt xén, việc phẫu thuật vẫn có thể cần thiết cho việc điều trị khối u ở gian đoạn đầu, lấy sinh thiết, cắt bỏ u, phẫu thuật kiểm tra theo dõi khối lần thứ 2, lần thứ 3 (second/third looks). Liệu pháp miễn dịch (Immunotherapy) dùng tế bào bạch cầu, kháng thể đơn dòng (monoclonal antibody), và cytokine cho việc phá hủy khối u; chúng có độ đặc hiệu cho tế bào ung thư, có thể giúp bảo vệ bệnh nhân khỏi các tác dụng phụ thường gặp khi điều trị với các liệu pháp thông thường. Bệnh bạch cầu nguyên bào lympho cấp tính (Acute Lymphoid Leukemia – ALL) chiếm 75% các ca bệnh bạch cầu leukemia ở trẻ em, với tỷ lệ mắc bệnh cao nhất ở độ 4 tuổi, tỷ lệ chữa khỏi hoàn toàn là 90%. Các dấu hiệu và triệu chứng thường gặp nhất là: chứng biếng ăn (anorexia), bức rức, khó chịu, ngủ lịm, uể oải (lethargy), thiếu máu, chảy máu, chấm xuất huyệt (petechiae), sốt, phì đại hạch bạch huyết, cường lách (splenomegaly), phì đại gan (hepatomegaly). Đau xương khớp có thể do các nguyên nhân như sự thâm nhiễm của tế bào bạch cầu vào xương màng sụn, khớp xương, cũng có thể là do bạch cầu leukeamia lan rộng (leukemic expansion) trong khoang tủy xương, khiến bệnh nhi đi khập khiễng hoặc từ chối đi lại. Các biểu hiện ở đầu và cổ, trong miệng phổ biến nhất của ALL (Bệnh bạch cầu nguyên bào lympho cấp tính) tại thời điểm chẩn đoán là phì đại hạch bạch huyết, đau họng, đau thanh quản, chảy máu nướu, lở loét miệng. Bệnh nhân tái phát được điều trị bằng hóa trị tích cực, và điều trị nối tiếp bằng liệu pháp ghép tế bào gốc tạo máu (Hematopoietic Stem Cell Transplantation – HSCT). Việc kiểm soát, điều trị bệnh ALL được dựa vào nguy cơ lâm sàng, và thường được chia thành 4 giai đoạn: 1. Pha dẫn nhập để đẩy lui bệnh (Remission induction): Thường kéo dài 28 ngày, điều trị bằng 3-4 loại thuốc (ví dụ: vincristine, prednisone, và L-asparaginase), có tỉ lệ thành công đạt 95%. Việc đẩy lui bệnh là điều kiện tiên quyết (prerequisite) cho việc kéo dài sự sống. 2. Liệu pháp cho dự phòng thâm nhiễm thần kinh trung ương (CNS preventive therapy/prophylaxis): Hệ thần kinh trung ương có thể trở thành nơi trú ẩn cho các tế bào bạch cầu thâm nhiễm leukemia (leukemic infiltrates), điều này là do thuốc sử dụng trong liệu pháp hóa trị thông thường không thể vượt qua hàng rào máu não (BBB – Blood-Brain Barrier). Việc chiếu xạ sọ não, hoặc tiêm tủy sống (intrathecal injection) bằng thuốc hóa trị hàng tuần (thường là methotrexate), có thể được sử dụng. Việc điều trị trước khi xuất hiện triệu chứng có thể được tiến hành ở mỗi giai đoạn. 3. Pha tăng cường hoặc củng cố (Consolidation or Intensification): Nhằm mục đích giảm thiểu sự phát triển của đề kháng thuốc chéo (drug cross-resistance) bằng cách tăng cường điều trị tích cực với mục đích tiêu diệt toàn bộ các tế bào leukemia còn sót lại. 4. Liệu pháp duy trì kéo dài (Maintenance): Hướng tới việc ức chế sự phát triển của bệnh ung thư máu leukemia thông qua việc tiếp tục sử dụng methotrexate và 6- mercaptopurine. Thời gian tối ưu cho giai đoạn này vẫn chưa được xác định chính xác, nhưng hường kéo dài từ 2.5-3 năm. Số lượng tế bào máu của bệnh nhân thường bắt đầu giảm sau 5-7 ngày kể từ khi bắt đầu mỗi chu kỳ điệu trị, chúng giữ ở mức thấp trong khoảng 14-21 ngày, sau đó tăng lên trở lại. Các lưu ý khi chăm sóc răng miệng (Cho bệnh nhân ung thư): Việc điều trị bằng hóa trị và/hoặc xạ trị gây ra nhiều biến chứng cấp tính và dài hạn cho khoang miệng. Nhiễm trùng răng miệng có thể làm phức tạp hóa và trì hoãn quá trình điều trị ung thư, dẫn đến tình trạng bệnh tật và dẫn đến chất lượng cuộc sống kém cho trẻ. Các biến chứng khoang miệng cấp tính thường xuyên xảy ra ở trẻ em. Can thiệp nha khoa sớm và tích cực sẽ giảm thiểu các vấn đề rủi ro biến chứng trong miệng, cũng như các biến chứng toàn thân. Các chấn thương liên quan đến chức năng miệng, và làm tổn thương niêm mạc, như trong trường hợp nhiễm herpes, tăng nguy cơ chảy máu ở người bệnh. Do đó, việc thăm khám nha khoa cần được thực hiện ít nhất một lần cho bệnh nhân mới được chẩn đoán (ung thư) để hoàn thành quá trình điều trị, chăm sóc răng miệng trước khi bắt đầu quá trình điều trị ung thư. Mỗi bệnh nhân đều được điều trị theo nhu cầu cá nhân, và có được ý kiến tư vấn từ bác sĩ và các chuyên gia nha khoa khác trước khi tiến hành chăm sóc nha khoa. Các biến chứng răng miệng và sọ mặt trong điều trị ung thư: Các biến chứng cấp tính từ việc điều trị bằng hóa trị và xạ trị: Viêm niêm mạc (Mucositis) Bệnh lý rối loạn chức năng tuyến nước bọt (Salivary gland dysfunction) Viêm tuyến nước bọt (chỉ có ở xạ trị - Sialadenitis) Tình trạng khô miệng (Xerostomia) Nhiễm độc thần kinh (Neurotoxicity) Rối loạn vị giác (Taste dysfunction) Quá cảm ngà (Dentinal hypersensitivity) Rối loạn khớp thái dương hàm (TemporoMandibular Dysfunction – TMD) Chảy máu miệng (oral bleeding_ Nhiễm trùng cơ hội (ví dụ: virus, nấm, vi khuẩn) Các biến chứng dài hạn trong việc điều trị bằng chiếu xạ vùng mặt: Niêm mạc xơ hóa và teo nhỏ (Mucosal fibrosis and atrophy) Tình trạng khô miệng Sâu răng Hoại tử xương sau xạ trị Rối loạn vị giác Sẹo niêm mạc (Mucosal fibrosis) Xơ hóa cơ/da (Muscular/cutaneous fibrosis) Nhiễm trùng nấm và vi khuẩn Các vấn đề cản trở sự phát triển của răng và sọ mặt (Dental and craniofacial development problems) (cũng được tìm thấy trong việc điều trị bằng hóa trị) Tiền sử bệnh và tình trạng huyết học của bệnh nhân: Một đánh giá kỹ lưỡng cần bao gồm thông tin về bệnh nền (underlying diseases), thời điểm chẩn đoán, các phương pháp điều trị bệnh nhân đã trải qua kể từ lúc chẩn đoán (hóa trị, xạ trị, phẫu thuật, v.v.), các biến chứng, bao gồm cả các lần tái phát. Việc ghi chú các lần nhập viện, nhập phòng cấp cứu, nhiễm trùng (cả trong miệng và toàn thân), hiện trạng huyết học, dị ứng, các loại thuốc đang sử dụng, và bảng đánh giá các hệ thống cơ quan (tim, phổi, thận, v.v.) là quan trọng. Đa số các bệnh nhân sẽ được đặt ống thông tĩnh mạch trung tâm (central line catheter) vào tâm nhĩ phải của tim, ống thông này hỗ trợ cho việc lấy mẫu máu cũng như truyền các chất hóa trị để chữa bệnh. Ống thông trung tâm có thể được đặt một phần (ví dụ: catheter Broviac, Hickman) hoặc đặt dưới da (ví dụ: Mediport, BardPort, Port-a-Cath). Chưa có bằng chứng khoa học nào ủng hộ việc sử dụng kháng sinh dự phòng trước khi tiến hành điều trị nha khoa xâm lấn cho các bệnh nhân được đặt ống thông trung tâm. Chảy máu lâu cầm ở bệnh nhi ung thư có thể là do các nguyên nhân sau: suy tủy do hóa trị (Chemotherapy-induced myelosuppression), một số loại thuốc đang sử dụng, và các rối loạn đông máu và tiểu cầu liên quan đến các bệnh nền (baseline disease). Chảy máu có ý nghĩa lâm sàng thường khó xảy ra khi lượng tiểu cầu (PLT count) lớn hơn 20,000/mm3 trong trường hợp không có các yếu tố phức tạp (complicating factors). Các thủ thuật nha khoa có thể được thực hiện khi số lượng tiểu cầu lớn hơn 40,000/mm3, và có sự lưu ý đặc biệt đến biện pháp kiểm soát chảy máu lâu cầm. Các xét nghiệm đông máu khác có thể được thực thiện cho bệnh nhân có bệnh lý gan và rối loạn đông máu (liver involvement and coagulopathies). Tế bào bạch cầu trung tính (neutrophil) là hàng rào phòng ngự đầu tiên (first line of defense) của cơ thể; vì vậy tỷ lệ và mức độ nghiêm trọng của nhiễm trùng tỷ lệ nghịch với số lượng của chúng. Khi số lượng bạch cầu trung tính tuyệt đối (Absolute Neutrophil Count – ANC) dưới 1000/mm3, các điều trị nha khoa tự chọn (elective dental work) cần được hoãn lại vì nguy cơ nhiễm trùng tăng lên đáng kể. Tuy nhiên, một số bác sĩ điều trị ung thư cho phép thực hiện điều trị nha khoa xâm lấn tự chọn nếu chỉ số ANC trên 500/mm3. Vệ sinh răng miệng, chế độ ăn, và phòng ngừa sâu răng: Bất kể tình trạng huyết học của bệnh nhi, duy trì vệ sinh răng mặt tích cực trong suốt quá trình điều trị ung thư là việc làm quan trọng để giảm thiểu các biến chứng răng miệng. Suy giảm tiểu cầu không là yếu tố quyết định duy nhất cho việc duy trì vệ sinh răng miệng, bệnh nhân có thể đánh răng mà không lo chảy máu ở các mức độ tiểu cầu khác nhau. Khoa học chứng minh rằng, bệnh nhân chăm sóc răng miệng tích cực sẽ giảm thiểu nguy cơ phát triển bệnh lý viêm niêm mạc trung bình/nặng, mà không làm tăng nguy cơ nhiễm trùng máu hay nhiễm trùng khoang miệng. Chải răng bàng bàn chải thông thường lông mềm hay bản chải điện ít nhất hai lần mỗi ngày là phương pháp hiệu quả nhất trong việc giảm thiểu nguy cơ nhiễm trùng và chảy máu nhiều ở nướu. Miếng bọt biển vệ sinh răng miệng (sponge), bàn chải siêu mềm không thể giúp làm sạch cơ học hiệu quả do độ mềm của chúng; vì vậy chúng chỉ được sử dụng trong trường hợp viêm niêm mạc nặng, khi bệnh nhân không chịu được bàn chải thông thường. Bàn chải cần được phơi khô trong không khí giữa có lần sử dụng, kem đánh răng không chứa nhiều các chất tạo mùi vì các chất này có thể gây kích thích mô. Người bệnh trong tình trạng suy giảm bạch cầu trung tính,cần tránh việc sử dụng tăm xỉa răng hay tăm nước, vì chúng có thể phá vỡ các liên kết mô, tạo thành các lối xâm nhập cho vi sinh vật và gây chảy máu. Bàn chải điện ultrasonic (siêu âm) và chỉ nha khoa có thể được sử dụng đối với bệnh nhân đã được hướng dẫn đúng cách. Người bệnh có vệ sinh răng miệng kém, bệnh lý nha chu cần phải súc miệng chlorhexidine mỗi ngày cho đến khi sức khỏe nướu được phục hồi hoặc cho đến khi xuất hiện các dấu hiện đầu tiên của bệnh lý viêm niêm mạc. Tại thời điểm đó, cần tránh sử dụng nước súc miệng chứa cồn (alcohol) và các chất tạo mùi hương, nguyên nhân là do các chất này có thể làm khô và kích thích niêm mạc. Nhiễm trùng nha chu là một mối lo ngại lớn vì các sinh vật xâm chiếm có thể gây ra nhiễm khuẩn huyết (bacteremia). Chế độ ăn uống là nguyên nhân khiến cho bệnh nhi ung thư có nguy cơ sâu răng cao hơn trẻ khỏe mạnh. Ngoài ra, nhiều thuốc điều trị răng miệng cho trẻ em chứa sucrose lượng lớn; do đó, chúng nên được sử dụng một cách hiểu quả để giảm thiểu nguy cơ sâu răng. Ví dụ, trẻ em không được phép ngậm thuốc viên clotrimazole hay dung dịch nystatin chứa đường khi đi ngủ. Mặc dù thường được kê toa, nhưng nystatin không có hiệu quả phòng ngừa nhiễm nấm Candida ở bệnh nhân bị suy giảm miễn dịch, và không nên được khuyến cáo sử dụng. Nôn mửa là một tác dụng phụ thường thấy khi điều trị ung thư, do đó, bệnh nhân cần súc miệng sau các đợt nôn mửa bằng nước vòi hoặc nước trắng để loại bỏ acid dạ dày, acid này có thể gây kích thích mô miệng và mất khoáng hóa ở men răng. Việc cung cấp fluoride và việc sử dụng fluoride dạng nước súc miệng trung hòa hay dạng gel được chỉ định cho bệnh nhân có nguy cơ mắc bệnh sâu răng. Các lưu ý trong điều trị răng miệng (cho bệnh nhân ung thư): Bệnh nhân cần được xem xét, đánh giá tiền sử nha khoa, tiến hành kiểm tra, thăm khám kỹ lưỡng vùng đầu, mặt, cổ, mô mềm và mô cứng trong miệng, đồng thời bổ sung chụp phim x-quang khi được chỉ định. Một số bệnh nhân có thể phàn nàn về tình trạng dị cảm do các tế bào bạch cầu ung thư leukemia thâm nhiễm vào dây thần kinh ngoại biên. Một số khác có thể than phiền về cơn đau răng giống với đặc trưng của viêm tủy không hồi phục mà không bất kì nhiễm trùng răng/nha chu. Đây có thể là tác dụng phụ của thuốc vincristine và vinblastine (hai loại thuốc hóa trị được sử dụng phổ biến). Trong trường hợp này, người bệnh nên tránh những tình huống làm cảm giác không thoải mái (ví dụ: đồ ngọt, đá, v.v.), và sử dụng thuốc giảm đau theo toa để kiếm soát cơn đau. Cơn đau thường sẽ chấm dứt sau vài ngày hoặc vài tuần sau khi ngưng liệu pháp hóa trị gây đau. Bệnh nhân cũng có thể phàn nàn về tình trạng răng nhạy cảm. Cơ chế của nhạy cảm răng vẫn chưa được hiểu rõ, và có thể được kiểm soát bằng fluoride tại chỗ hoặc kem đánh răng ngăn ngừa ê buốt. Số lượng tế bào máu của bệnh nhân trở về mức bình thường giữa các chu kì hóa trị. Vì thời gian dành cho việc chăm sóc nha khoa trước khi bắt đầu điều trị ung thư có hạn, nên việc điều trị các nhiễm trùng, nhổ răng, điều trị nha chu, và các tác nhân gây kích thích cần được ưu tiên hơn so với việc điều trị răng sâu, chữa tủy cho răng vĩnh viễn, và thay thế các phục hình cũ, bị lỗi. Nguy cơ nhiễm trùng tủy răng, gây đau sẽ quyết định tổn thương sâu răng nào cần được điều trị trước, nguyên nhân là do nhiễm trùng tủy răng ở bệnh nhân ức chế miễn dịch có thể dẫn đến tình huống nguy kịch, đe dọa đến tính mạng. Phục hình tạm thời có thể được đặt vào, các điều trị nha khoa không cấp tính có thể được trì hoãn đến khi sức khỏe bệnh nhân ổn định trở lại. Cần xem xét việc truyền tiểu cầu trước phẫu thuật và 24 giờ sau phẫu thuật khi lượng tiểu cầu nằm trong mức 40,000-75,000/mm3. Khi lượng tiểu cầu dưới mức 40,000/mm3, việc điều trị chăm sóc nha khoa cần được hoãn lại. Trong giai đoạn ức chế miễn dịch, mọi qui trình điều trị nha khoa tự chọn cần được bãi bỏ. Trong trường hợp khẩn cấp, phải liên với bác sĩ trước khi tiến hành bất kỳ điều trị nha khoa nào, nguyên nhân là do việc truyền tiểu cầu, và kháng sinh dự phòng là không đủ để phòng ngừa bệnh viêm nội tâm mạc (endorcarditis), việc nhập viện có thể là cần thiết để tiến hành điều trị nha khoa. Trong thời gian trước khi bắt đầu điều trị ung thư, cần tiến thành cạo vôi răng và thực hiện các điều trị dự phòng, sửa và làm mới các phục hình cũ bị lỗi, đánh bóng, loại bỏ các cạnh sắc nhọn của răng. Cho đến thời điểm hiện tại, mặc dù vẫn chưa có một nghiên cứu nào đánh giá độ an toàn của việc điều trị nội nha răng sữa trước khi bắt đầu tiến hành hóa trị và/hay xạ trị, chọn nhổ răng làm điều trị triệt để giảm thiểu các nguy cơ biến chứng về răng miệng và toàn thân do chữa tủy thất bại trong giai đoạn ức chế miễn dịch, là một quyết định sáng suốt; sự lựa chọn này có ảnh hưởng đáng kể đến quá trình điều trị ung thư. Các răng đã được điều trị nội nha và có dấu hiệu lâm sàng, hình ảnh x-quang lành mạnh không gây nguy hiểm. Các răng vĩnh viễn chết tủy biểu hiện triệu chứng cần được điều trị nội nha ít nhất 1 tuần trước khi bắt đầu trị liệu ung thư. Nếu không thể chữa tủy, răng được chỉ định nhổ và điều trị kháng sinh theo dõi trong khoảng 1 tuần. Điều trị nội nha cho răng vĩnh viễn có vẫn đề quanh chóp răng không triệu chứng có thể được trì hoãn nếu bệnh nhân bị suy giảm bạch cầu trung tính. Trong giai đoạn ức chế miễn dịch, việc sưng và chảy mủ không hiện diện, làm che đi các dấu hiệu kinh điển của nhiễm trùng do răng, khiến chúng không được phát hiện trên lâm sàng. Trong trường hợp này, chụp phim x-quang là việc làm quan trọng để đánh giá tình trạng bệnh lý quanh chóp/giữa chẻ răng. Khí cụ chỉnh nha cố định và hàm giữ khoảng (space maintainer) cần được tháo bỏ đối với bệnh nhân có vệ sinh răng miệng kém, hoặc là khi qui trình điều trị có nguy cơ gây viêm niêm mạc trung bình đến nặng. Biện pháp phòng ngừa này không áp dụng cho các khí cụ có bề mặt phẳng, lắng ví dụ như là khâu chỉnh nha (band), dây cung và thanh duy trì mặt lưỡi hàm dưới cố định (fixed lower lingual arch). Các khí cụ có thể giữ lại các mảnh thức ăn, gây hại cho vệ sinh miệng, vừa đóng vai trò là một kích thích cơ học, làm tăng nguy cơ nhiễm trùng thứ phát. Khí cụ và hàm duy trì tháo lắp (Removable appliances and retainers) vừa vặn, khít tốt có thể được đeo sử dụng nếu bệnh nhân chấp nhận được và duy trì vệ sinh răng miệng tốt. Nếu việc tháo band chỉnh nha là bắt khả thi, thì có thể sử dụng máng bảo vệ miệng (mouth guard) hoặc sáp chỉnh nha để giảm các chấn thương mô miệng. Nướu che phủ một phần răng (các răng hàm mọc thấp/bán phần) có thể trở thành nguồn nhiễm trùng do tiến triển thành bệnh lý viêm lợi trùm (periocoronitis – viêm quanh thân răng), vì vậy phần nướu che phủ cần được cắt lọc nếu nha sĩ xem đó là một nguy cơ tiềm tàng. Răng sữa lung lay cần được để rụng tự nhiên, và để phòng ngừa nhiễm khuẩn máu, bệnh nhi được dặn dò là không chơi đùa với chúng. Nếu bệnh nhi không tuân thủ yêu cầu này, răng sữa lung lay cần được nhổ bỏ. Răng mọc kẹt, mảnh chân răng, răng khôn bị nướu lấp một phần, răng có túi nha chu trên 6 mm, răng có nhiễm trùng cấp, răng không thể khôi phục cần được nhổ bỏ ít nhất từ 4 đến 7 ngày (lý tưởng là 2 tuần) để có đủ thời gian lành thương, trước khi bắt đầu liệu trình điều trị ung thư. Nếu như răng vĩnh viễn không thể nhổ bỏ vì lý do sức khỏe y khoa tại thời điểm đó, nha sĩ nhi khoa có thể xem xét, lựa chọn phương án cắt bỏ phần thân răng trên nướu, sau đó điều trị tủy răng và đặt thuốc kháng sinh vào ống và buồng tủy bịt kín. Cần kê toa thuốc kháng sinh từ 7 đến 10 ngày sau đó, tiếp đó là điều trị nhổ răng khi tình trạng huyết học bệnh nhân đạt mức chấp nhận được. Nhổ răng vĩnh viễn ở những bệnh nhân đã và sẽ điều trị chiếu xạ vùng mặt cần được chú ý đặc biệt vì có nguy cơ mắc hoại tự xương hàm do tia xạ (Osteoradionecrosis). Các thủ thuật phẫu thuật phải được thực hiện một cách không sang chấn nhất có thể, không để lại các mép xương sắc nhọn và đảm bảo khép kín mép vết thương tốt. Các phương pháp cầm máu tại chỗ khả dụng bao gồm đè ép vết thương, khâu đóng vết thương, sử dụng bông cầm máu (gelatin sponges – spongel), thrombin cầm máu tại chỗ, collagen vi sợi. Nếu cầm máu tại chỗ thất bại, cần liên hệ bác sĩ điều trị ngay lập tức. Khi bệnh nhân đang trong giai đoạn liệu pháp duy trì kéo dài, tiên lượng tổng thể tốt, tình trạng huyết học gần ngang mức bình thường. Các điều trị nha khoa có thể được tiến hành theo lịch trình thông thường, nhưng trước đó cần phải kiểm tra, xác định mức độ, số lượng tế bào máu. Có thể tiến hành bắt đầu hoặc tiếp tục điều trị chỉnh hình răng mặt sau khi hoàn hành tất cả các trị liệu, và ít nhất là sau 2 năm không mắc bệnh. Vào thời điểm đó, nguy cơ tái phát đã thuyên giảm, bệnh nhân không còn sử dụng thuốc ức chế miễn dịch. Tuy nhiên, bác sĩ điều trị cần đánh giá bất kỳ rối loạn phát triển răng (dental developmental disturbances) nào gây ra bởi quá trình trị liệu ung thư, đặc biệt là ở bệnh nhi được điều trị trước 6 tuổi. Dahllof và các đồng nghiệp đã đưa ra chiến lược điều trị chỉnh hình răng mặt cho các biến chứng nha khoa (do quá trình điều trị ung thư) như sau: (1) sử dụng các khí cụ chỉnh nha giảm thiểu nguy cơ tiêu chân răng, (2) dùng lực nhẹ hơn trong quá trình điều trị chỉnh hình răng mặt, (3) kết thúc quá trình điều trị sớm hơn thời gian thông thường, (4) chọn phương pháp đơn giản nhất để giải quyết nhu cầu điều trị, (5) tránh điều trị hàm dưới. Tuy nhiên, các hướng dẫn đặc trưng cho điều trị chỉnh hình răng mặt bao gồm lực tối ưu và nhịp độ điều trị lý tưởng vẫn chưa được xác định rõ ràng. Vai trò của hormon tăng trưởng đối với sự phát triển các cấu trúc sọ mặt ở bệnh nhi mắc bệnh ung thư vẫn chưa được xác minh đầy đủ. Bệnh nhi mắc bệnh ung thư có thể phát triển thêm loãng xương, và nhiều trường hợp được điều trị bằng bisphosphonate; điều này dẫn đến thêm nhiều mối lo ngại trong vấn đề chăm sóc sức khỏe răng miệng. Những vấn đề này được đào sâu, chi tiết hơn ở những nguồn thông tin khác. Cấy ghép tế bào gốc tạo máu (Hematopoietic Stem Cell Transplantation - HSCT): Cấy ghép tế bào gốc tạo máu (CGTBGTM- HSCT) vừa được sử dụng để thay thế tủy xương cho các bệnh nhân mắc các rối loạn huyết học, các rối loạn miễn dịch bẩm sinh, rối loạn lipid máu (lipidoses), bệnh chuyển hóa bẩm sinh (inborn errors of metabolism), vừa để hỗ trợ tủy xương để có thể tăng liều lượng hóa trị và/hoặc xạ trị cho bệnh nhân mắc bệnh thuộc nhóm bướu đặc (solid tumors). Tế bào gốc dùng trong CGTBGTM (HSCT) có thể được thu thập từ nhiều đợt hút tủy xương từ xương mào chậu (iliac crest) và các xương khác, từ máu mạch ngoại biên, từ nhau thai (placenta) hoặc máu từ dây rốn. Tế bào gốc có thể được thu thập từ tủy xương của chính người bệnh (tự thân – autologous transplant), từ người hiến tặng có quan hệ với bệnh nhân hoặc từ một người không quen biết (dị ghép – allogeneic transplant), từ anh/chị/em sinh đôi cùng trứng (đồng ghép – syngeneic transplant), và từ động vật/giống loài khác (cấy ghép dị loài – xenogeneic). Xét nghiệm kháng nguyên bạch cầu người (Human Leukocyte Antigen – HLA) được thực hiện nhằm xác định các kháng nguyên nằm trên cánh ngắn của nhiễm sắc thể số 6 (short arm of chromosome 6) của người hiến tủy tiềm năng thuận hợp với ở người nhận (thuận hợp hoàn toàn hoặc nửa thuận hợp). Vài ngày trước khi cấy ghép tủy, người bệnh được điều trị hóa trị liều cao độc lập hoặc được kết hợp điều trị chiếu xạ toàn bộ cơ thể. Hiện tượng mọc ghép (engraftment) thường được thấy rõ sau khoảng 20-30 ngày, đôi khi sớm hơn, được biểu hiện qua sự gia tăng của tế bào bạch cầu ngoại vi và số lượng tiểu cầu; điều này được chứng thực bằng sự xuất hiện của tế bào của người hiến tủy. Các lưu ý trong việc chăm sóc sức khỏe răng miệng: Hầu hết các nguyên tắc về chăm sóc sức khỏe răng miệng cho bệnh nhi được điều trị CGTBGTM (HSCT) tương tự như những nguyên tắc được thảo luận trong phần “ung thư trong nhi khoa” trước đó. Hai khác biệt chính bao gồm: (1) Trong điều trị CGTBGTM (HSCT), không có giai đoạn nghỉ giữa các chu kỳ hóa trị để các thông số máu trở về giá trị bình thường, các giai đoạn nghỉ giữa chu kỳ hóa trị chỉ có ở bệnh nhi không điều trị cấy ghép; (2) Có tình trạng ức chế miễn dịch kéo dài sau cấy ghép, chức năng miễn dịch sẽ được khôi phục gần như hoàn toàn sau khoảng 1 năm nếu không xuất hiện bệnh mảnh ghép chống ký chủ mạn tính (chronic graft-versus- host disease) hoặc các biến chứng khác. Do đó, trước khi điều trị CGTBGTM, bệnh nhân cần được điều trị nha khoa toàn diện để loại bỏ bệnh lý có thể dẫn đến các biến chứng trong và sau quá trình cấy ghép. Trong lâu dài, tần suất khám sức khỏe răng miệng sẽ thay đổi dự trên mực độ nghiệm trọng của các vấn đề răng miệng, việc tuân thủ vệ sinh răng mệnh, và tình trạng sức khỏe tổng quát của bệnh nhân. Việc chụp phim x-quang để kiểm tra sức khỏe răng miệng có thể được thực hiện thường xuyên, tuy nhiên, những bệnh nhân suy giảm miễn dịch nghiêm trọng cần tránh các điều trị nha khoa tự chọn, bao gồm cả điều trị dự phòng. Nếu có tình trạng cấp cứu về nha khoa trong khoảng thời gian suy giảm chức năng miễn dịch nghiêm trọng, phải hội chẩn xin ý kiến của bác sĩ nội khoa trước khi tiến hành bất kỳ điều trị nào. Những lưu ý trong điều trị chỉnh hình răng mặt cũng tương tự như phần thảo luận trước đó. Các biến chứng cấp tính và mạn tính của xạ trị và hóa trị: Điều trị ung thư có thể gây ra nhiều vấn đề sức khỏe trong khoang miệng, làm suy giảm chất lượng sống của trẻ và tăng chi phí trị liệu. Trong tất cả các biến chứng, viêm niêm mạc là nhân tố phổ biến nhất của đau miệng trong điều trị ung thư và là biến chứng phổ biến nhất của điều trị CGTBGTM. Các hóa chất được dùng trong thời kì chuẩn bị (preparative regimen) gây ảnh hưởng lớn tới mô niêm mạc của hệ tiêu hóa, cản trở các lớp đáy (basal layer) thay thế các tế bào ngoài cùng (superficial cells), dẫn đến viêm niêm mạc toàn phần (generalized mucositis). Sự hiện diện và mức độ nghiêm trọng của tình trạng viêm niêm mạc có sự khác biệt lớn ở từng cá nhân, sự thay đổi của biểu mô trở nên rõ ràng vào khoảng 4-7 ngày sau khi bắt đầu điều trị và thường kéo dài từ 10 đến14 ngày. Việc kiểm soát tình trạng viêm niêm mạc hướng tới việc điều trị giảm nhẹ các triệu chứng, ngăn ngừa nhiễm trùng và chấn thương. Viêm niêm mạc và các biến chứng cấp tính, dài hạn do hóa trị và xạ trị được miêu tả chi tiết ở nhiều nguồn khác. Sự hình thành của các dị dạng sọ mặt và/hoặc các khiếm khuyết về răng miệng (dental and craniofacial abnormalities) là một vấn từ lâu đã được bác sĩ nha khoa bệnh nhi chú ý quan tâm đặc biệt. Vào thời điểm bắt đầu quá trình trị liệu, trẻ cảng nhỏ tuổi (nhất là dưới 6 tuổi) thì có nguy cơ càng cao về các gây xáo trộn, biến dị sọ mặt và răng miệng, chẳng hạn như thiếu răng bẩm sinh (tooth agenesis), ngưng phát triển chân răng hoàn toàn hoặc bán phần, tạo thành các chân răng mỏng, thuôn, đống chóp sớm, thân răng hình nón hoặc hình cầu, đục màu và thiểu sản ở men và ngà, tình trạng răng nhỏ bất thường (microdontia), buồng tủy nở rộng, răng bò (taurodontism), bất thường cắn khớp (abnormal occlusion). Không có sự bất thường về quá trình trưởng thành và mọc răng của bộ răng vĩnh viễn ở các trẻ mắc bệnh ung thư máu được điều trị hóa trị, song tình trạng răng mọc chậm có thể được phát hiện ở bệnh nhi. Việc tạo điều kiện thuận lợi trước điều trị CGTBGTM (pre-HSCT conditioning) có ảnh hưởng tiêu cực đự phát triển kích thước dọc ở lồi cầu cùng với chiều cao xương ổ răng và răng cối bị. Cần theo dõi chặt chẽ các bệnh nhân từng bị viêm niêm mạc nặng hoặc viêm niêm mạc mạn tính, vì có nguy cơ chuyển đổi niêm mạc thành khối u ác tính. Việc theo dõi cẩn thận tình trạng khô miệng mạn tính và bệnh mảnh ghép chống ký chủ là vô cùng quan trọng.