Download as doc, pdf, or txt
Download as doc, pdf, or txt
You are on page 1of 50

TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐẠI NAM

KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

BÀI THU HOẠCH MÔN HỌC


TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Đề tài : Chuyên đề “Việt Nam chiến đấu và chiến thắng 1946-1954” và vai trò
của chủ tịch Hồ Chí Minh trong quá trình lãnh đạo nhân dân ta giành thắng lợi
trong cuộc kháng chiến chống Pháp cứu nước.

Nhóm sinh viên thực hiện:

Lưu Văn Hiếu : 1676030060

Dương Duy Khánh : 1676030082

Lê Quang Khải : 1676030084

Vũ Thị Thu Cúc : 1676030035

Trịnh Thị Hải Yến : 1676030165

Lớp: TTĐPT 16 - 01

GV hướng dẫn: Đỗ Việt Hà


Hà Nội, tháng 1 năm 2024
PHIẾU GIAO NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI

Nhận xét mức


TT Họ và tên Nhiệm vụ Điểm
độ hoàn thành
Giải pháp kiến nghị,
1 Lưu Văn Hiếu Liên hệ bản thân, lời 100%
kết luận, tổng hợp báo
cáo

Cơ sở lý luận chung
2 Dương Duy Khánh của “vai trò của chủ 100%
tịch Hồ Chí Minh
trong quá trình lãnh
đạo nhân dân ta giành
thắng lợi trong cuộc
kháng chiến chống
Pháp cứu nước”

Viết lời mở đầu và cơ


3 Vũ Thị Thu Cúc sở lý luận chung của 100%
“Việt Nam chiến đấu
và chiến thắng 1946-
1954”

Thực trạng về “vai trò


4 Trịnh Thị Hải Yến của chủ tịch Hồ Chí 100%
Minh trong quá trình
lãnh đạo nhân dân ta
giành thắng lợi trong
cuộc kháng chiến
chống Pháp cứu
nước”liên hệ thực tiễn

Thực trạng về “Việt


5 Lê Quang Khải Nam chiến đấu và 100%
chiến thắng 1946-
1954”, liên hệ thực
tiễn

NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN

Mục Lục
Lời mở đầu............................................................................................1
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN CHUNG VỀ “VIỆT NAM CHIẾN ĐẦU VÀ
CHIẾN THẮNG “1946-1954” VÀ VAI TRÒ CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
TRONG QUÁ TRÌNH LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN TA GIÀNH THẮNG LỢI
TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP CỨU NƯỚC........................2
1.Bối cảnh đất nước trước và trong giai đoạn 1946-1954.....................................2
2.Nhìn chung về “Việt Nam chiến đấu và chiến thắng 1946-1954”...................5
2.1 Âm mưu và hành động chiến tranh của Pháp................................................5
2.2 Những cuộc đấu tranh giai đoạn 1946-1954..................................................5
2.3 Nội dung cơ bản của đường lối kháng chiến chống Pháp xâm lược..............6
3.Vai trò của Hồ Chí Minh trong cuộc kháng chiến chống Pháp........................8
3.1 Cuộc chiến tại vĩ tuyến 16...............................................................................8
3.2 Chiến dịch Việt Bắc thu – đông năm 1947....................................................11
3.3 Chiến dịch Biên giới thu-đông năm 1950.....................................................13
3.4 Cuộc tiến công chiến lược Đông-Xuân 1953 – 1954....................................16
3.5 Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ (1954)......................................................17
CHƯƠNG 2:“VIỆT NAM CHIẾN ĐẦU VÀ CHIẾN THẮNG “1946-1954” VÀ
VAI TRÒ CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH TRONG QUÁ TRÌNH LÃNH
ĐẠO NHÂN DÂN TA GIÀNH THẮNG LỢI TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN
CHỐNG PHÁP CỨU NƯỚC - LIÊN HỆ THỰC TIỄN....................................21
1. Cuộc kháng chiến chống Pháp “1946-1954”.................................................21
1.1 VIỆT NAM XÂY DỰNG CHÍNH QUYỀN MỚI (SAU CÁCH MẠNG
THÁNG 8/1945 – 12/1946).................................................................................21
1.2 NHỮNG NĂM ĐẦU CỦA CUỘC KHÁNG CHIẾN (19/12/1946 - CUỐI
1950)....................................................................................................................26
1.3 CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP KẾT THÚC (1953 – 1954).........33
2. Vai trò của chủ tịch Hồ Chí Minh trong quá trình lãnh đạo nhân dân ta giành
thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Pháp....................................................35
3. Liên hệ thực tiễn.............................................................................................40
CHƯƠNG 3. LIÊN HỆ BẢN THÂN.................................................................42
CHƯƠNG 4: KẾT LUẬN..................................................................................44
LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam, xuyên suốt hàng ngàn năm lịch sử oanh liệt dựng nước và giữ nước,
đã trải qua nhiều cuộc chiến tranh để giành lấy nền độc lập dân tộc. Giai đoạn
1946- 1954, sau thành công của Cách mạng tháng Tám, là một giai đoạn đầy khó
khăn thử thách cho cả dân tộc. Thế nhưng dưới sự lãnh đạo tài tình của Đảng,
đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, con dân cả nước đã nhất tề đứng lên bảo vệ
thành quả cách mạng, và sau 9 năm kháng chiến thì miền Bắc đã hoàn toàn được
giải phóng, tạo cơ sở cho miền Bắc đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, trở thành
căn cứ địa cho cả nước, chi viện sức người, sức của cho việc giải phóng miền
Nam thống nhất Tổ quốc sau này.
Tổng kết thực tiễn cách mạng đã khẳng định sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhân tố quyết định thắng lợi
cuộc kháng chiến chống Pháp và can thiệp Mỹ của dân tộc. Người đã cùng với
Trung ương Đảng hoạch định, tổ chức và lãnh đạo quân dân ta thực hiện thắng lợi
đường lối kháng chiến chống Pháp, đó là “Kháng chiến, kiến quốc”, “Toàn dân,
toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh”. Người đóng vai trò cốt lõi trong việc xây
dựng và phát huy sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân; có ảnh hưởng tích cực,
sâu sắc trên mọi mặt trận: quân sự, kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục, tư tưởng,
ngoại giao… Người là người cầm lái bình tĩnh, sáng suốt, mưu trí, dũng cảm và
dày dạn kinh nghiệm đã đưa con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua mọi thác
ghềnh nguy hiểm; và cho đến bây giờ thì những thành tựu, bài học, giá trị tư
tưởng và đạo đức của Người trong giai đoạn đó vẫn còn vô giá trong kho tàng lịch
sử của dân tộc Việt Nam, và có giá trị thực tiễn vô cùng to lớn trong việc thực
hiện các chủ trương, chính sách quản lý, xây dựng, phát triển, bảo vệ và hội nhập
đất nước ngày nay.
Việc nghiên cứu các hoạt động, ảnh hưởng và làm sáng rõ vai trò, cống hiến của
Chủ tịch Hồ Chí Minh với cương vị lãnh tụ cách mạng trong cuộc kháng chiến
chống Pháp do đó không chỉ có ý nghĩa về mặt phương pháp luận mà còn có ý
nghĩa thực tiễn sâu sắc; đặc biệt là đối với tầng lớp trí thức, cần phải hiểu được,
tiếp thu và vận dụng những giá trị đạo đức, tinh thần, lịch sử, tư tưởng, cách
mạng của Người vào việc xây dựng phát triển Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa ngày càng vững mạnh về mọi mặt, tiếp tục củng cố vị thế của ta trên trường
quốc tế.

1
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN CHUNG VỀ “VIỆT NAM CHIẾN ĐẦU VÀ
CHIẾN THẮNG “1946-1954” VÀ VAI TRÒ CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ
MINH TRONG QUÁ TRÌNH LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN TA GIÀNH
THẮNG LỢI TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP CỨU
NƯỚC

1.Bối cảnh đất nước trước và trong giai đoạn 1946-1954


Cuộc tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 là tiền đề để Nhà nước dân chủ đầu
tiên ở Đông Nam Á được thành lập – Việt Nam. Nhưng ngay sau đó nước ta đã vừa
phải bước vào cuộc đấu tranh quyết liệt vừa phải đối phó với tình hình cực kì phức
tạp, vô vàn khó khăn: nền kinh tế kiệt quệ, nạn đói tàn ác đã cướp đi hai triệu sinh
mạng, ngân khố chỉ còn một triệu đồng, trình đồ văn hóa của nhân dân rất yếu kém.
Tình hình thù trong giặc ngoài rối ren: miền Bắc, hai mươi vạn quân Tưởng dưới
danh nghĩa Đồng minh vào tước vũ khí quân đội Nhật nhưng thực chất là muốn tiêu
diệt Đảng Cộng sản và đánh phá Việt Minh, lật đổ chính quyền nhân dân, lập chính
phủ phản động làm tay sai cho Mỹ - Tưởng; Còn ở miền Nam, thực dân Pháp núp sau
sau bóng quân Anh quay trở lại đánh chiếm nước ta một lần nữa, bọn phản động tay
sai cũng nổi lên khắp nơi, tìm mọi cách cản trở cuộc chiến quốc của nhân dân ta.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận lấy trách nhiệm nặng nề trước nhân dân, Người
cùng tập thể Trung ương Đảng bình tĩnh sáng suốt phân tích tình hình, kịp thời đưa ra
đường lối đúng đắn và những biện pháp hành động khôn khéo để giải quyết từng
bước khó khăn về đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội và các vấn đề khác. Tại phiên họp
đầu tiên của Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã nêu sâu về vấn đề cấp bách để cứu dân tộc ngay lúc này là giải quyết nạn
đói; giải quyết nạn dốt; tổ chức sớm cuộc Tổng tuyển cử; xóa bỏ hủ tục, xây dựng đời
sống văn hóa mới, đạo đức mới, đạo đức cách mạng; xóa bỏ thuế bóc lột vô nhân
đạo; thực hiện tín ngưỡng tự do và lương giáo đoàn kết.
Bản hiệp ước Trùng Khánh (hiệp ước Hoa – Pháp) được kí giữa Chính phủ Pháp và
Chính phủ Trung Hoa dân quốc ngày 28 tháng 2 năm 1946 như một sự chà đạp lên
nền độc lập của Việt Nam và hợp pháp hóa sự xâm lược của thực dân Pháp. Bởi một
trong những nội dung của bản hiệp ước Trùng Khánh là dùng thỏa thuận để Pháp đưa
quân đội ra vĩ tuyến 16, đổi lại Pháp sẽ nhượng cho Tưởng nhiều quyền lợi quan
2
trọng ở Trung Quốc và Việt Nam. Bản hiệp ước này cũng gây ra nhiều mâu thuẫn,
xung đột kịch liệt về quyền lợi giữa các tập đoàn lợi ích của quân đội Tưởng ở Việt
Nam và quân đội Pháp, đặt cách mạng, Chính phủ và Nhân dân Việt Nam đứng trước
tình thế vô cùng nguy hiểm, phải cùng lúc đói mặt trực tiếp với 2 kẻ thù xâm lược to
lớn là Pháp và Tưởng trong tình hình cách mạng vẫn còn rất non kém.
Trước sự thay đổi nhanh chóng, phức tạp của tình hình, Thương vụ Trung ương
Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhanh chóng nhận định, đánh giá âm mưu, ý đồ
chính trị của Pháp và Tưởng. Tới ngày 3 tháng 3 năm 1946, Đảng đã ra Chỉ thị tình
hình và chủ trương, chỉ ra âm mưu, ý đồ của Anh, Mỹ, Pháp và Trung Quốc và nêu
vấn đề đánh hay hòa với Pháp. Trên cơ sở đó khẳng định rằng ta cần biết mình, biết
người, nhìn nhận một cách khách quan những điều kiện có lợi hay bất lợi để chủ
trương hành động cho đúng. Chủ trương mới đã kịp thời được đề ra là tạm thời dàn
hòa với Pháp, nhận nhương với Pháp về lợi ích kinh tế và ngược lại Pháp phải thừa
nhận quyền dân tộc tự quyết của dân tộc ta, “lợi dụng thời gian hòa hoãn với Pháp để
diệt bọn phản động bên trong, tay sai Tàu trắng, trừ những hành động khiêu khích ly
gián ta với Pháp”, thúc đẩy nhanh quân Tưởng về nước và sẽ bớt đi một kẻ thù nguy
hiểm. Phê phán quan điểm đánh Pháp đến cùng, như thế là tự cô lập mình, tiêu hao
thực lực nhưng hoặc hòa hoãn, đàm phán với Pháp lại làm yếu đi tinh thần quyết
chiến của dân tộc ta.
Ngày 6 tháng 3 năm 1946, Chủ tịch thay mặt Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa đã kí với đại diện Chính phủ Cộng hòa Pháp – ông Jean Sainteny bản Hiệp định
sơ bộ. Hiệp định đã nêu rõ: Chính phủ Pháp công nhận Việt Nam là một quốc gia tự
do, có Chính phủ, nghị viện, tài chính và quân đội riêng, nằm trong Liên bang Đông
Dương thuộc khối Liên hiệp Pháp; Còn về phía Việt Nam đã đồng ý để 15000 quân
Pháp ra miền Bắc thay thế 20 vạn quan Tưởng và sẽ rủ dần trong thời hạn 5 năm, hai
bên sẽ tiếp tục đàm phán chính thức để giải quyết mối quan hệ Việt – Pháp.

3
Thông báo của Chính phủ Việt Nam về việc ký Hiệp định Sơ bộ 6-3-1946
(ảnh: Bảo tàng Hồ Chí Minh)

Ngày 20 tháng 10 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh và phái đoàn Việt Nam về Hải
Phòng, Người đã viết một văn kiện rất quan trọng: Công việc khẩn cấp bây giờ, nêu
rõ thêm những nhiệm vụ cụ thể và cấp thiết phải làm về mặt quân sự, chính trị và
khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng, của Đảng viên, cán bộ “phải làm cho nhân dân
ta có tín tâm và quyết tâm” đối với công cuộc chiến đấu vảo vệ Tổ quốc lâu dài –
điều mà Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiên liệu là không thể tránh khỏi.
Đảng và Bác Hồ đã chủ trương đưa nước ta từng bước chuyển sang tình trạng chiến
tranh và tích cực cây dựng các điều kiện cần thiết để phục vụ cho cuộc kháng chiến
này. Một mặt, Đảng ra sức lãnh đạo cuộc hiến đấu kìm hãm chân dịch ở Nam Bộ và
trong các thành phố, thị xã ở miền Bắc, mặt khác, thực hiện cuộc tỏng di chuyển các
cơ quan lãnh đạo của Đảng, Chính phủ, Quốc hội và các ban ngành, quân đội, công
an và các cơ quan lãnh đạo kháng chiến địa phương ra khỏi thành phố, thị xã; tổ
chức, củng cố, xây dựng căn cứ địa, các chiến khu, các an toàn khu để bảo toàn lực
lượng, chuẩn bị kháng chiến lâu dài.
Cuộc đấu tranh chống phản cách mạng, chống thù trong, giặc ngoài những năm

4
đầu, chính quyền cách mạng đã đem lại thắng lợi có ý nghĩa hết sức quan trọng như
ngăn chặn bước tiến của quân đội xâm lược Pháp ở Nam Bộ, vạch trần và làm thất
bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá cách mạng Việt Năm của các kẻ thù, của phe
đế quốc, mà trực tiếp cũng là của thực dân Pháp và quân đội Trung Hoa Dân quốc và
các thế lực tay sai, củng cố, giữ gìn và bảo vệ an toàn hệ thống bộ máy chính quyền
cách mạng từ Trung ương đến cơ sở và những thành quả của cuộc cách mạng Tháng
Tám, tạo thêm thời gian hòa bình, hòa hoãn, tranh thủ tích cực chuẩn bị lực lượng
cho cuộc kháng chiến lâu dài. Đó đều là nhờ vào những chủ trương, biện pháp, sách
lược và đối sách đúng đắn của Đảng, tinh thân quyết đoán, sáng tạo của Chính phủ và
Chủ tịch Hồ Chí Minh.
2.Nhìn chung về “Việt Nam chiến đấu và chiến thắng 1946-1954”
2.1 Âm mưu và hành động chiến tranh của Pháp
Mặc dù đã kí Hiệp định Sơ bộ ngày 6 tháng 3 năm 1946 nhưng đến ngày 14 tháng 9
năm 1946, thực dân Pháp vẫn đẩy mạng việc chuẩn bị chiến tranh xâm lược nước ta.
Ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ, thực dân Pháp mở các cuộc tiến công còn ở Bắc Bộ,
vào hạ tuận tháng 11 năm 1946, thực dân Pháp tiên công ở Hải Phòng, Lạng Sơn, cho
quân đổ bộ lên Đà Nẵng, sau đó chiếm đóng Hải Phòng. Vào tháng 12 năm 1946,
Pháp gây hấn ở Hà Nội, chiếm trụ sở Bộ Tài chính gây ra vụ thảm sát ở phố Hàng
Bún (khu phố Yên Minh). Ngày 18 tháng 12 năm 1946, quân Pháp gửi tối hậu thư đòi
giải tán lực lượng tự vệ chiến đấu, để cho Pháp làm nhiệm vụ giữ gìn trật tự ở Hà
Nội, nếu không chúng sẽ giành toàn quyền hành động vào sáng ngày 20 tháng 12
năm 1946.
Trong tình huống khẩn cấp này, Đảng và Chính phủ phải có quyết định đúng đắn và
kịp thời. Ngày 18 tháng 12 năm 1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản
Đông Dương quyết định phát động cuộc kháng chiến toàn quốc.
Ngày 19 tháng 12 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra “Lời kêu gọi toàn quốc
kháng chiến”, phát động nhân dân cả nước kháng chiến chống Pháp, bảo vệ nền độc
lập dân tộc.
2.2 Những cuộc đấu tranh giai đoạn 1946-1954
Việt Nam giai đoạn 1946-1954 trải qua một số cột mốc quan trọng sau:
2.2.1 Giai đoạn 1946-1950
5
Kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp bùng nổ do Pháp bội ước và tiến công
nước ta. Cuộc kháng chiến tại các đô thị và việc chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu
dài với thực dân Pháp. Chiến thắng Việt Bắc Thu – Đông năm 1947 và việc đẩy
mạnh kháng chiến toàn dân, toàn diện. Hoàn cảnh lịch sử mới và chiến dịch biên giới
Thu – Đông năm 1950 diễn ra.
2.2.2 Giai đoạn 1951-1953
Thực dân Pháp đẩy mạnh chiến tranh xâm lược Đông Dương. Đại hội Đại biểu lần
thứ hai của Đảng diễn ra vào tháng 2 năm 1951. Hậu phương kháng chiến phát triển
mọi mặt, những chiến dịch tiến công giữ vững quyền chủ động trên chiến trường. Các
chiến dịch giai đoạn này bao gồm các chiến dịch ở trung du và đồng bằng Bắc Bộ:
Chiến dịch Hòa Bình Đông – Xuân từ 1951-1952; Chiến dịch Tây Bắc Thu – Đông
năm 1952; Chiến dịch Thượng Lào Xuân – Hè năm 1953.
2.2.3 Giai đoạn 1953-1954
Âm mưu mới của Pháp – Mĩ ở Đông Dương với kế hoạch Nava. Cuộc tiến công
chiến lược Đông – Xuân từ năm 1953 – 1954 với các chiến dịch tiêu biểu sau: Cuộc
tiến công chiến lược Đông – Xuân 1953 – 1954; Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ
năm 1954 lừng lẫy năm châu – chấn động địa cầu.
Hiệp định Giơ - ne – vơ năm 1954 về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông
Dương.
2.3 Nội dung cơ bản của đường lối kháng chiến chống Pháp xâm lược
2.3.1 Sự hình thành đường lối kháng chiến
Ngay từ đầu cuộc kháng chiến, Đảng ta đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch
ra đường lối kháng chiến để chỉ đạo mọi mặt kháng chiến của quân và dân ta. Đường
lối đó được xuất phát từ những văn kiện chính sau đây: “Lời kêu gọi toàn quốc kháng
chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/12/1946); “Bản chỉ thị Toàn dân kháng chiến
của Ban thường vụ Trung ương Đảng (22/12/1946); Tác phẩm “Kháng chiến nhất
định thắng lợi” của Tổng Bí thư Trường Chinh (1947).
Từ những văn kiện ấy dần dần hình thành đường lối kháng chiến của ta, đó là:
Kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kì và tự lực cánh sinh. Đường lối này thể
hiện được tính chất của cuộc kháng chiến của nhân dân ta bằng những điểm sau:
Thứ nhất, cuộc kháng chiến của ta là một cuộc chiến tranh cách mạng chính nghĩa,
6
chống lại một cuộc chiến tranh phi nghĩa của thực dân Pháp.
Thứ hai, cuộc kháng chiến của nhân dân ta nhằm mục đích giành độc lập và thống
nhất Tổ quốc, bảo vệ chính quyền dân chủ nhân dân.
Thứ ba, trong cuộc kháng chiến này, dân tộc Việt Nam vừa đấu tranh để tự cứu
mình, vừa đấu tranh cho hòa bình Thế giới, do đó, cuộc kháng chiến chống Pháp của
nhân dân Việt Nam còn là một cuộc chiến tranh tiến bộ vì tự do, độc lập, vì dân chủ
và hòa bình.
2.3.2 Nội dung cơ bản của đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp
1946-1954
Kháng chiến toàn dân là toàn dân kháng chiến, toàn dân đánh giặc không phân biệt
già trẻ, trai gái, mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi làng xã là một pháo đài. Sở dĩ như
vậy là vì cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, vì lợi ích toàn dân nên phải do toàn
dân tiến hành.
Kháng chiến toàn diện là kháng chiến trên tất cả mọi mặt: quân sự, chính trị, kinh
tế, văn hóa, ngoại giao vì thực tế chỉ ra rằng thực dân Pháp không những đánh ta về
quân sự mà chúng còn phá ta cả về kinh tế, chính trị, văn hóa. Cho nên ta không
những kháng chiến chống Pháp trên mặt trận quân sự mà phải kháng chiến toàn diện
trên tất cả mọi mặt, đồng thời kháng chiến toàn diện còn để phát huy sức mạnh tổng
hợp của toàn dân.
Kháng chiến trường kỳ (nghĩa là đánh lâu dài). Đây là một chủ trương vô cùng sáng
suốt của Đảng ta, vận dụng một cách sáng tạo Chủ nghĩa Mác – Lê nin vào hoàn cảnh
nước ta lúc bấy giờ. Ta yếu, địch mạnh nên phải đánh lâu dài để chuyển hóa lực
lượng.
Tự lực cánh sinh là chủ yếu dựa vào sức của mình (sức mạnh của nhân dân), không
trông chờ, không ỷ lại vào bên ngoài, đồng thời phải tranh thủ sự viện trợ của quốc
tế. Muốn đánh lâu dài thì phair dựa vào sức mình là chính.
2.3.3 Ý nghĩa của đường lối kháng chiến chống Pháp
Toàn bộ đường lối kháng chiến thấm nhuần tư tưởng chiến tranh nhân dân sâu sắc,
nó chứng tỏ cuộc kháng chiến của ta là chính nghĩa nên được nhân dân ủng hộ.
Đường lối kháng chiến có tác dụng động viên, dẫn dắt nhân dân ta tiến hành cuộc
kháng chiến dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, dù phải trải qua nhiều sự hy

7
sinh gian khổ nhưng nhất định sẽ giành thắng lợi.
3.Vai trò của Hồ Chí Minh trong cuộc kháng chiến chống Pháp

3.1 Cuộc chiến tại vĩ tuyến 16

Khi nhận thấy tình hình không thể hòa hoãn thêm với đế quốc Pháp, tình hình
của hai bên dần trở nên căng thẳng. Ngày 18—19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã chủ tọa hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng, hội nghị đã phân
tích tình hình, âm mưu của địch và ra quyết định tiến hành cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp trên toàn bộ phạm vi cả nước. Đường lối kháng chiến được
quyết định là “ Toàn dân, toàn diện, trường kì ” , hội nghị thông qua lời kêu gọi
toàn quốc kháng chiến do chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu.

Sớm ngày 19/12/1946, cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Mở đầu Lời kêu
gọi, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ thiện chí hòa bình của Việt Nam, nhưng bị
phía Pháp khước từ: “Hỡi đồng bào! Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải
nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì
chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa!”. Người khẳng định rõ ý chí của toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân ta là: “Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất
định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Khi Tổ quốc lâm
nguy, Người kêu gọi các giới đồng bào cả nước bằng vũ khí và mọi loại dụng cụ
có thể dùng làm vũ khí, nhất tề đứng lên đánh giặc: “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất
kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người
Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng
dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy
gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước”. Với bộ đội và dân
quân, Người dành riêng một lời kêu gọi: “Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân!
Giờ cứu nước đã đến. Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng, để giữ gìn đất
nước”. Kết thúc Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh
khẳng định: “Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy
sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta!”.
8
Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của chủ tích Hồ Chí Minh ( Ảnh : Bảo
tàng Hồ Chí Minh)

Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Chủ Tịch Hồ Chí Minh là đại diện
tiếng nói cho hàng triệu người dân, là lời khẳng định sẽ chiến đấu đến giọt máu
cuối cùng để giữ lấy độc lập quốc gia. Đáp lại lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, toàn dân, toàn quân ta nhất tề cùng nhau chiến đấu với ý chí vì độc lập tự
do nước nhà.

Tại Hà Nội, hơn 20h ngày 19-12-1946, sau tín hiệu tắt điện toàn thành phố,
cuộc chiến đấu bắt đầu. Bộ đội chủ lực và tự vệ thành đồng loạt tiến công các
mục tiêu trong trung tâm thành phố; nhân dân đã xếp bàn ghế, sập gụ, hòm
xiểng, cánh cửa... ra đường phố, hình thành những ụ chướng ngại để cản địch;
công nhân hỏa xa, công nhân xe điện đẩy các toa tàu ra giữa đường phố, tự vệ
ngả cây, hạ cột đèn chắn các ngã tư, ngã năm... người lao động, trí thức, học
sinh, tiểu thương, nhà tư sản, nhà sư... vừa phục vụ chiến đấu dưới các hình thức
cứu thương, tiếp tế, thông tin liên lạc, vừa động viên bộ đội và tự vệ chiến đấu.
Nhiều thanh niên nam, nữ tình nguyện nhập ngũ ngay từ những ngày đầu kháng
chiến của Thủ đô. Nhân dân nội thành tản cư ra các cửa ô đã sốt sắng cùng nhân
dân ngoại thành đào hàng chục ki lô mét hào giao thông, hàng trăm hố chiến đấu
và phòng tránh, phá đường sá, cầu cống, nhà cửa. Nhiều địa phương như Thanh
9
Trì, Thanh Oai tổ chức thêm tự vệ, sẵn sàng vào nội thành chiến đấu. Nhiều tỉnh
như Sơn Tây, Hà Đông, Phúc Yên, Thái Nguyên... chủ động đưa lực lượng về
tăng viện cho Hà Nội khi chiến sự lan rộng...

Sau hai tháng đương đầu với thực dân Pháp quân ta đã hoàn thành được nhiệm
vụ tiêu hao, kìm hãm lực lượng của chân địch, kết quả này vượt xa cả mong đợi
của các lãnh đạo, có thể nói đây là chiến thắng không chỉ của riêng lực lương vũ
trang Thủ đô, của những người tình nguyện mà là chiến thắng đại diện cho sự
quyết tâm, trí tuệ của cả dân tộc.

Ngay từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã cho rằng “vì cuộc kháng chiến của ta là
cuộc kháng chiến của toàn dân cần phải động viên toàn dân, vũ trang toàn dân.”.
Bác cho rằng “muốn kháng chiến lâu dài để đi tới thắng lợi cuối cùng, cần phải
động viên hết thảy mọi lực lượng…”. Căn cứ vào chiến lược kháng chiến toàn
dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã tập hợp được đông đảo các tầng lớp
xã hội trong Mặt trận dân tộc thống nhất, từng bước xây dựng một lực lượng
chính trị hùng hậu và lực lượng vũ trang nhân dân lớn mạnh, gồm ba thứ quân,
làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc. Cũng căn cứ vào chiến lược này, Chủ tịch
Hồ Chí Minh và Đảng ta xác định “Mỗi công dân là một chiến sĩ. Mỗi làng là
một chiến hào”, quyết tâm đánh bại thực dân Pháp xâm lược.

Để phát huy sức mạnh toàn dân tộc, thực hiện nhất quán đường lối toàn diện
kháng chiến, Người yêu cầu: “Mỗi người dân Việt Nam, bất kỳ già, trẻ, trai, gái,
bất kỳ giàu, nghèo, lớn, nhỏ đều phải cần trở nên một chiến sĩ đấu tranh trên mặt
trận: quân sự, kinh tế, chính trị, văn hoá. Thực hiện khẩu hiệu: Toàn dân kháng
chiến, toàn diện kháng chiến”. Người cho rằng, “trong kháng chiến, quân sự là
việc chủ chốt”. Tuy nhiên, chỉ có đánh địch trên chiến trường thôi thì chưa đủ
mà còn phải biết kết hợp với các mặt trận đấu tranh khác nữa. Ngay khi bước
vào kháng chiến toàn quốc, Người kêu gọi vừa kháng chiến vừa kiến quốc, vừa
xây dựng hậu phương, vừa chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến, vừa tiến
hành đấu tranh ngoại giao, vừa thực hiện binh vận, vừa xây dựng nền văn hoá,
10
giáo dục kháng chiến, bồi dưỡng nhân dân, vừa động viên, tổ chức nhân dân
tham gia các đoàn thể kháng chiến, xây dựng khối đoàn kết toàn dân. Trên cơ sở
đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện và tương quan lực lượng địch - ta,
đồng thời nắm chắc quy luật chuyển hoá của tương quan đó, Chủ tịch Hồ Chí
Minh chủ trương “kháng chiến trường kỳ”. Trong văn kiện “Công việc khẩn cấp
bây giờ” viết ngày 5-11-1946, Người nhấn mạnh: “Cuộc kháng chiến sẽ rất gay
go cực khổ. Dù địch thua đến cùng cực thì nó cũng rán sức cắn lại. Vì nó thất
bại ở Việt Nam, thì toàn bộ cơ nghiệp đế quốc nó sẽ tan hoang. Vì vậy nó sẽ
đem rất nhiều viện binh… Nó sẽ tàn phá khủng bố rất dữ dội… Nhưng ta phải
hiểu: Lực lượng địch chỉ có từng ấy thôi. Ta kiên quyết chống chọi cho qua giai
đoạn “chớp nhoáng” đó, thì địch sẽ xẹp, ta sẽ thắng”.

Cuộc chiến đấu oanh liệt, sáng tạo của quân, dân Thủ đô Hà Nội và của cả
nước trong những ngày đầu Toàn quốc kháng chiến đã giáng một đòn mạnh vào
chiến lược “đánh nhanh, thắng nhanh” và ý chí xâm lược của kẻ thù, làm tiền đề
vững chắc cho những thắng lợi tiếp theo của cuộc kháng chiến

3.2Chiến dịch Việt Bắc thu – đông năm 1947

3.2.1 Bối cảnh đất nước

Vào đầu năm 1947, sau khi giải pháp thành lập một chính phủ bù nhìn tay sai
gặp nhiều bế tắc, Pháp quyết định thực hiện giải pháp quân sự, cho phép Valluy
mở cuộc tiến công chiến lược lên Việt Bắc vào Thu - Đông năm 1947. Những
mục tiêu cơ bản của cuộc tiến công này như sau:

1.Truy lùng Việt Minh đến tận sào huyệt để loại trừ bộ đội chủ lực của Việt
Minh ra khỏi vòng chiến đấu; phá tan cơ quan đầu não kháng chiến; triệt tiêu
mọi tiềm lực kháng chiến của Việt Minh.

2. Khóa chặt biên giới Việt - Trung, ngăn chặn mọi mối quan hệ giữa cách mạng
Việt Nam và cách mạng Trung Quốc.

11
3. Tạo ra một chiến thắng quân sự quyết định để làm đà cho việc thiết lập một
chính phủ bù nhìn tay sai, nằm nhanh chóng kết thúc chiến tranh và đặt lại ách
thống trị trên toàn cõi Việt Nam.

3.2.2 Vai trò của Hồ Chí Minh

Chiến dịch Việt Bắc thắng lợi, thể hiện tầm nhìn chiến lược của Chủ tịch Hồ
Chí Minh trong việc chọn Việt Bắc làm căn cứ địa của cuộc kháng chiến trường
kỳ, nhân dân các dân tộc Việt Bắc được Người tin tưởng trao cho sứ mệnh lịch
sử “Cách mệnh đã do Việt Bắc mà thành công, thì kháng chiến sẽ do Việt Bắc
mà thắng lợi.”

Đối với dân tộc Việt Nam, thắng lợi của cuộc phản công Việt Bắc Thu Đông
1947 là thắng lợi có ý nghĩa chiến lược, mở ra một giai đoạn mới của cuộc
kháng chiến với sự chuyển hoá lực lượng ngày càng có lợi. Căn cứ địa Việt Bắc
ngày càng vững vàng và trưởng thành, bộ đội chủ lực và dân quân du kích đều
được tôi luyện trong thực tế chiến đấu, được bổ sung khá nhiều trang bị, vũ khí.
Chính phủ kháng chiến do Hồ Chí Minh đứng đầu luôn được bảo vệ an toàn với
những vị bộ trưởng luôn ba lô trên vai vừa liên tục di chuyển trong các huyện
Võ Nhai, Định Hoá (Thái Nguyên), Sơn Dương, Yên Sơn (Tuyên Quang)…vừa
tiếp tục điều hành công việc kháng chiến trên toàn quốc.

Chiến thắng Việt Bắc - Thu Đông 1947 thắng lợi, địa danh Việt Bắc đánh dấu
mốc thắng lợi đầu tiên, quan trọng trong những năm đầu cuộc kháng chiến của
quân dân ta. Từ căn cứ địa Việt Bắc, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí
Minh lãnh đạo nhân dân cả nước Tổng khởi nghĩa tháng Tám thành công, đến
Việt Bắc trong những năm tháng kháng chiến chống Pháp trường kỳ, khẳng định
tầm nhìn chiến lược, thiên tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc lựa chọn địa
thế rừng núi hiểm trở để đánh Pháp và trong những giờ phút khó khăn của cuộc
chiến đấu luôn bình tĩnh, sáng suốt lãnh đạo nhân dân di chuyển cơ quan đầu
não kháng chiến, nhân lực, vật lực,…phục vụ chiến dịch.

12
3.3 Chiến dịch Biên giới thu-đông năm 1950
3.3.1 Bối cảnh đất nước

Đầu năm 1950, tình hình thế giới và trong nước có nhiều chuyển biến có lợi
cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc Việt Nam. Trung Quốc
(18/01/1950), Liên Xô (30/01/1950) và các nước dân chủ Nhân dân công nhận
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Cục diện trên chiến trường giữa ta và địch
chuyển sang thế cầm cự giằng co. Đặc biệt sau chuyến công tác bí mật ra nước
ngoài của Chủ tịch Hồ Chí Minh đầu năm 1950, Liên Xô, Trung Quốc đã thỏa
thuận với Chủ tịch Hồ Chí Minh một số giải pháp hỗ trợ cho cuộc kháng chiến
của ta. Trước những điều kiện thuận lợi và sự hỗ trợ của các nước Dân chủ nhân
dân nhằm nhanh chóng kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, tháng
6/1950, Thường vụ Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định mở
chiến dịch Biên giới lấy tên là chiến dịch Lê Hồng Phong II. Chiến dịch được
mở ra với mục đích “Tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, giải phóng
vùng biên giới phía bắc nước ta, thu hẹp phạm vi chiếm đóng của địch, mở rộng
và củng cố căn cứ địa Việt Bắc, tiến tới giành quyền chủ động trên chiến trường
chính”.

Ngày 12/8/1950, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị cho các cấp
Đảng bộ lãnh đạo quân dân địa phương đánh địch mạnh để tiêu hao lực lượng
địch, kiềm chế địch, phối hợp với “một chiến dịch lớn” do Trung ương và Bộ
Tổng Tư lệnh trực tiếp chỉ đạo; do Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lệnh phát động,
đồng thời phát động trong toàn quốc tuần lễ “thi đua giết giặc lập công”. Trong
bức thư gửi các chiến sĩ ở biên giới Bác đã nhắc nhở "Trong cuộc chiến đấu này
ta chỉ được đánh thắng, không cho đánh bại". Đến cuối tháng 8/1950, Chủ tịch
Hồ Chí Minh ra mặt trận cùng Bộ Chỉ huy Chiến dịch trực tiếp chỉ đạo chiến
dịch. Người kiểm tra kế hoạch tác chiến, xem xét công tác chuẩn bị hậu phương,
theo dõi kịp thời diễn biến của chiến dịch, góp những ý kiến chỉ đạo và động
viên cán bộ, bộ đội, dân công.
13
Do quy mô của Chiến dịch tương đối lớn, có nhiều lực lượng tham gia, trên địa
bàn rộng, rừng núi hiểm trở, lại xa căn cứ hậu cần của ta, nên việc chuẩn bị, bảo
đảm cho Chiến dịch rất khó khăn. Thấy trước được điều đó, trong Hội nghị
Quốc phòng (ngày 2/9/1950), Bác Hồ đã đề nghị Chính phủ tập trung chỉ đạo
tiếp tế cho Chiến dịch Biên giới và chỉ thị cho các lực lượng tham gia Chiến
dịch: “Chiến dịch Cao - Bắc - Lạng rất quan trọng. Chúng ta quyết đánh thắng
trận này”. Ngày 9/9/1950, Người ra Lời kêu gọi đồng bào ba tỉnh Cao - Bắc -
Lạng: “ Hỡi đồng bào yêu quý, quân ta đã mở chiến dịch trên mặt trận Cao - Bắc
- Lạng chiến dịch này rất quan trọng cho Cao - Bắc - Lạng và cả toàn quốc.
Đồng bào ta đã chuẩn bị rất nhiều trong việc chuẩn bị chiến dịch như: Góp quân
lương, sửa đường sá, vận tải, chuyên chở giúp đỡ bộ đội. Tôi trân trọng thay mặt
chính phủ, và quân đội cảm tạ đồng bào. Tôi kêu gọi toàn thể đồng bào ba tỉnh,
các ủy ban kháng chiến và hành chính, các đoàn thể nhân dân cố gắng thêm nữa,
tiếp tục giúp đỡ cho bộ đội ta trước mặt trận để quân ta giết nhiều địch, đánh
thắng to. Đồng bào hãy tiến lên làm gương kiểu mẫu cho nhân dân toàn quốc,
giúp cho Chiến dịch được thắng lợi". Qua những lời kêu gọi, động viên của
Người làm cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta, đặc biệt là đồng bào Cao -
Bắc - Lạng cũng cảm nhận sâu sắc ý nghĩa và tầm quan trọng của chiến dịch
Biên giới phải giành thắng lợi, sự kiện chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp ra mặt
trận là nguồn sức mạnh tinh thần, động viên quân dân ta quyết tâm thắng lợi
trong chiến dịch. Quân và dân háo hức, khẩn trương ra mặt trận thi đua giết giặc
lập công.

3.3.2 Vai trò của Hồ Chí Minh trong cuộc chiến Chiến dịch Biên giới thu-
đông năm 1950.
Chiến thắng chiến dịch đã đưa cuộc kháng chiến của ta sang giai đoạn mới -
giai đoạn giành giữ và phát huy quyền chủ động trên chiến trường Bắc Bộ.
Chiến thắng Biên Giới Thu Đông 1950 là kết tinh của những nỗ lực phi thường
của quân và dân ta như Bác đã từng nói “Dễ mười lần không dân cũng chịu, khó
vạn lần dân liệu cũng xong", và luôn nhắc nhở trong bầu trời không gì quý bằng
14
nhân dân, tất cả phải dựa vào dân, và coi cuộc chiến tranh là cuộc chiến tranh
toàn dân Nhờ có tầm nhìn chiến lược và sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn, nhạy
bén, Đảng ta đã đánh giá đúng thực lực kẻ thù, đề ra chủ trương, phương châm
tác chiến chiến lược kịp thời, chính xác, động viên cao độ tinh thần quyết chiến,
quyết thắng của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta tập trung mọi nguồn lực cho
tiến công địch trên một hướng xác định, trong thời điểm quyết định, làm xoay
chuyển cục diện chiến tranh theo hướng có lợi cho ta.

Thắng lợi của chiến dịch biên giới 1950 chứng minh tính đúng đắn của đường
lối chiến tranh toàn dân, toàn diện, trường kỳ dựa vào sức mình là chính mà
Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch ra từ những ngày đầu của cuộc kháng
chiến. Bài học về phát huy nội lực trong nhân dân, bài học về sự lãnh đạo của
Đảng, về nghệ thuật chỉ đạo điều hành chiến tranh và phát huy sức mạnh chiến
tranh nhân dân, về huy động tiềm lực và khối đại đoàn kết dân tộc để tạo thành
sức mạnh tổng hợp.

Trong đó, bài học về nghệ thuật lãnh đạo, chỉ đạo chiến lược tài tình, sắc bén
của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh là bài học lớn, sâu sắc nhất, bao trùm và chủ
đạo nhất. Nhờ có tầm nhìn chiến lược và sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn, nhạy
bén, Đảng ta đã đánh giá đúng thực lực kẻ thù, đề ra chủ trương, phương châm
tác chiến chiến lược kịp thời, chính xác, động viên cao độ tinh thần quyết chiến,
quyết thắng của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta; tập trung mọi nguồn lực cho
tiến công địch trên một hướng xác định, trong thời điểm quyết định, làm xoay
chuyển cục diện chiến tranh theo hướng có lợi cho ta. Bài học kinh nghiệm quý
báu về phát huy nguồn lực địa phương được rút ra từ chiến dịch 1950 để sau này
tiếp tục vận dụng cho chiến dịch Điện Biên Phủ sau này giành thắng lợi kết thúc
cuộc kháng chiến chống Pháp giành thắng lợi.

3.4 Cuộc tiến công chiến lược Đông-Xuân 1953 – 1954

Trong giai đoạn 1946-1954, tình trạng kéo dài cuộc chiến tranh xâm lược Đông
Dương đã đẩy nền kinh tế của nước Pháp lâm vào khủng hoảng trầm trọng, các
15
phong trào đấu tranh đòi chấm dứt chiến tranh Đông Dương của nhân dân Pháp
ngày càng lan rộng, mâu thuẫn trong giới cầm quyền Pháp ngày càng gay gắt.
Chỉ trong vòng 8 năm tiến hành chiến tranh Đông Dương, nội các Chính phủ
Pháp đã phải thay đổi tới 18 lần. Trước tình hình trên, giới cầm quyền hiếu
chiến Pháp chủ trương dựa vào sự viện trợ của Mỹ nhiều hơn để tiếp tục đẩy
mạnh chiến tranh xâm lược, nhằm tìm cho nước Pháp “một lối thoát danh dự” ra
khỏi cuộc chiến tại Việt Nam.

Với sự hậu thuẫn của Mỹ, tháng 5-1953, Hăngri Nava (Henri Navarre), Tham
mưu trưởng lục quân khối NATO, được cử làm Tổng chỉ huy quân đội viễn
chinh Pháp ở Đông Dương. Nava vạch ra một kế hoạch có quy mô rộng lớn,
nhằm trong vòng 18 tháng sẽ tiêu diệt phần lớn chủ lực của ta, giành thắng lợi
quyết định, làm cơ sở cho một giải pháp chính trị có lợi cho chúng. Theo kế
hoạch Nava, phần tác chiến gồm hai bước và hoàn thành trong 18 tháng: Bước
1, từ thu - đông 1953 đến xuân 1954, giữ thế phòng ngự chiến lược ở Bắc Bộ,
thực hiện tiến công chiến lược ở miền Nam, tập trung binh lực xây dựng lực
lượng cơ động chiến lược mạnh. Bước 2, từ thu - đông 1954, dồn toàn bộ lực
lượng ra Bắc, chuyển sang tiến công chiến lược trên chiến trường chính Bắc Bộ,
giành thắng lợi quân sự quyết định, buộc ta phải đàm phán theo những điều kiện
có lợi cho chúng nhằm kết thúc chiến tranh.

Trước tình hình trên, tháng 9-1953, tại Tỉn Keo, huyện Định Hoá, tỉnh Thái
Nguyên, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì Hội nghị Bộ Chính trị bàn và phê chuẩn
phương án tác chiến đông xuân 1953-1954 là hướng Tây Bắc, Tây Nguyên và
Trung - Hạ Lào của Bộ Tổng tham mưu. Tổng Quân uỷ quyết tâm chọn phương
án trên với chủ trương: chưa nên đánh vào đồng bằng ngay mà phải phá tan âm
mưu tập trung binh lực của địch để tạo điều kiện tác chiến tương đối lớn.

Thực hiện cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân, quân và dân ta đã làm đảo
lộn kế hoạch chiến tranh của Pháp - Mỹ, làm xoay chuyển cục diện chiến trường
có lợi cho ta. Trong khi Nava tập trung quân xây dựng lực lượng cơ động chiến
16
lược để có “quả đấm” mạnh, thì những chiến dịch của quân ta trên các chiến
trường, đặc biệt là hướng Lai Châu, Trung Lào, Hạ Lào, Bắc Tây Nguyên và
Thượng Lào làm cho quân địch hết sức bị động, lúng túng, phải căng mỏng lực
lượng ra đối phó.

3.5 Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ (1954)

3.5.1 Bối cảnh

Giữa tháng 11-1953, bộ đội chủ lực của ta tiến lên Tây Bắc, giải phóng Lai
Châu; phối hợp với quân đội Pathét Lào tiến công địch ở Trung - Hạ Lào. Nava
buộc phải cho quân nhảy dù xuống Điện Biên Phủ và xây dựng thành một tập
đoàn cứ điểm gồm ba phân khu yểm hộ lẫn nhau, có cơ cấu phòng ngự vững
chắc, với hơn 16 ngàn quân tinh nhuệ. Mục đích của chúng là biến thế trận này
thành bàn đạp chiếm lại Tây Bắc, khống chế chiến trường Lào, đồng thời giữ
quân chủ lực ta ở Việt Bắc để quân Pháp rảnh tay hoạt động ở đồng bằng Bắc
Bộ và đánh chiếm Liên khu 5. Mặc dù có tới 50 vạn quân, bao gồm cả quân
ngụy, nhưng Nava không thể đối phó với cuộc tiến công của quân ta trên khắp
các chiến trường. Hy vọng duy nhất của Nava là ở tập đoàn cứ điểm Điện Biên
Phủ, một cứ điểm quân sự mà cùng với các Bộ trưởng, tướng lĩnh Pháp và nhiều
tướng lĩnh Mỹ đã nhiều lần tới kiểm tra cứ điểm Điện Biên Phủ, kể cả Phó Tổng
thống Mỹ Níchxơn, đều hết lời ca ngợi và tuyên truyền đây là “một cứ điểm
đáng sợ”, “một pháo đài bất khả xâm phạm, không thể công phá”

Ngày 6-12-1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Bộ Chính trị Trung ương Đảng
quyết định tập trung đại bộ phận chủ lực tinh nhuệ của ta, mở cuộc đại tiến công
vào tập đoàn cứ điểm mạnh nhất của địch ở Điện Biên Phủ, và coi đây là điểm
quyết chiến chiến lược. Người chỉ thị: “Chiến dịch này là một chiến dịch rất
quan trọng, không những về quân sự mà cả về chính trị, không những đối với
trong nước mà đối với quốc tế. Vì vậy, toàn quân, toàn dân, toàn Đảng phải tập
trung hoàn thành cho kỳ được” Cũng trong cuộc họp quan trọng này, Người
cùng Bộ Chính trị quyết định thành lập Bộ Chỉ huy và Đảng ủy Mặt trận do Đại
17
tướng Võ Nguyên Giáp trực tiếp làm Chỉ huy trưởng kiêm Bí thư Đảng ủy Mặt
trận.

Do tính chất tối quan trọng của chiến dịch Điện Biên Phủ nên Bác dành nhiều
thời gian trực tiếp chỉ đạo, theo dõi, động viên quân và dân ta từ lúc khởi đầu
cho đến khi kết thúc chiến dịch. Ngay khi các đơn vị ta tiến lên Tây Bắc, Người
đã gửi thư cho cán bộ và chiến sĩ mặt trận Điện Biên Phủ: “Thu – Đông năm
nay, các chú lại có nhiệm vụ tiến quân vào Điện Biên Phủ để tiêu diệt thêm sinh
lực địch, mở rộng thêm căn cứ kháng chiến, giải phóng thêm đồng bào bị giặc
đè nén. Năm ngoái, các chú đã anh dũng chiến đấu, tiêu diệt nhiều địch, đã
thắng lợi to. Bác rất vui lòng... các chú phải chiến đấu anh dũng hơn, chịu đựng
gian khổ hơn, phải giữ vững quyết tâm trong mọi hoàn cảnh... Bác và Chính phủ
chờ tin thắng lợi để khen thưởng các chú”

Ngày 13-3-1954, quân ta mở cuộc tấn công vào tập đoàn cứ điểm Điện Biên
Phủ. Đây là một cuộc đọ trí, đọ sức hết sức gay go, quyết liệt giữa ta và địch, để
giành giật từng thước đất. Để động viên kịp thời, ngày 15/3, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã gửi điện khen ngợi cán bộ, chiến sĩ đã chiến thắng hai trận mở màn
chiến dịch ở Him Lam, Độc Lập. Đồng thời, Người nêu rõ ý nghĩa lịch sử quan
trọng của chiến dịch cả về quân sự, chính trị và nhắc nhở quân đội ta phải cố
gắng, chiến đấu dẻo dai, bền bỉ, chớ chủ quan, khinh địch để giành toàn thắng
cho chiến dịch này.

Suốt quá trình diễn ra chiến dịch, Bác còn dành sự quan tâm đặc biệt tới tình
hình chiến trường. Để khắc phục những khó khăn, trở ngại, bảo đảm cung cấp
cho tiền tuyến, Bộ Chính trị và Bác đã kịp thời ra Nghị quyết, chỉ rõ “Toàn dân,
toàn Đảng và Chính phủ nhất định đem toàn lực chi viện cho Điện Biên Phủ và
nhất định làm mọi việc cần thiết để giành toàn thắng cho chiến dịch này”. Chỉ
trong một thời gian ngắn, ta đã huy động được một khối lượng lớn sức người,
sức của từ nhiều vùng miền, từ nhiều giai cấp, tầng lớp trong cả nước. Theo số
liệu tổng kết chiến dịch Điện Biên Phủ, nhân dân đã đóng góp 25.560 tấn gạo,
18
266 tấn muối, 1.909 tấn thực phẩm, 26.453 lượt dân công với 18.301.507 ngày
công, 20.991 xe đạp thồ, 1.800 mảng nứa, 756 xe thô sơ, 914 con ngựa thồ và
3.130 chiếc thuyền. Trong khi đó chiến trường Điện Biên Phủ ở cách xa hậu
phương có nơi tới 500-600 km, địa thế hiểm trở.

Trải qua 55 ngày đêm “khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt” chiến đấu cực
kỳ ngoan cường và anh dũng, vượt qua bao gian khổ và hy sinh, ngày 7-5-1954,
lá cờ “Quyết chiến quyết thắng” của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phất phới tung
bay trên nóc hầm Sở chỉ huy của địch. Quân và dân ta đã làm nên Chiến thắng
Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”. Chiến thắng Điện Biên
Phủ đã giáng đòn quyết định, đập tan dã tâm xâm lược của các thế lực đế quốc,
thực dân hiếu chiến, buộc Chính phủ Pháp phải ký Hiệp định Giơnevơ, chấm
dứt chiến tranh ở Đông Dương, mở ra bước ngoặt mới cho cách mạng Việt
Nam.

Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ mãi mãi là biểu tượng sáng ngời của dân
tộc Việt Nam quật cường, bất khuất, thông minh, sáng tạo, là niềm tin của các
dân tộc bị áp bức trong cuộc đấu tranh vì độc lập tự do. Để có được chiến công
lẫy lừng đó, chính là nhờ sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng, mà đứng đầu
là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bác không chỉ theo dõi sát sao tình hình ngoài trận địa
để đưa ra những phương châm, chiến lược chỉ đạo đúng đắn mà còn quan tâm,
săn sóc và cổ vũ, động viên kịp thời các cán bộ, chiến sĩ, đồng bào đang chiến
đấu vì độc lập tự do của nước nhà. Người đã truyền cho các chiến sĩ ta một ý chí
quyết chiến quyết thắng, một nghị lực, một sức mạnh phi thường, một niềm tin
sắt đá để quân và dân ta vượt qua khó khăn hiểm nguy giành thắng lợi hoàn
toàn.

Chính vì vậy, khi trả lời một chính khách nước ngoài, Đại tướng Võ Nguyên
Giáp nói: “Chiến thắng Điện Biên Phủ là công đầu thuộc Chủ tịch Hồ Chí Minh
- Hồ Chí Minh là một nhà chiến lược thiên tài, là người cha thân yêu của các lực
lượng vũ trang nhân dân Việt Nam". Bởi dựa trên nền tảng chỉ đạo chiến thuật
19
"chắc thắng mới đánh" của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp
đã kiên quyết thay đổi phương án tác chiến, góp phần quyết định vào thắng lợi
của chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ. Còn Đại tướng Henri Nava, người đối đầu
với Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong trận Điện Biên phủ cũng thừa nhận: “Phía
Việt Nam chiến thắng là đúng. Vì trong suốt 9 năm chiến tranh, họ chỉ có 1
người chỉ huy quân sự duy nhất là Đại tướng Võ Nguyên Giáp, và 1 người chỉ
huy chính trị cao nhất là Hồ Chí Minh”. Trong khi đó, phía Pháp có tới 20 Chính
phủ, 7 Tổng tư lệnh, 8 Cao ủy thay nhau liên tiếp chỉ huy ở Đông Dương mà vẫn
thất bại”.

Thắng lợi quân sự của ta trong chiến cuộc đông xuân 1953-1954, nhất là chiến
thắng Điện Biên Phủ đã giáng đòn quyết định đập tan ý chí xâm lược của thực
dân Pháp.

Chiến thắng Điện Biên Phủ 1954 của quân dân Việt Nam đã đập tan những cố
gắng quân sự cao nhất của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, buộc chính phủ Pháp
phải ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ (7/1954) công nhận độc lập, chủ quyền, thống
nhất và toàn vẹn lãnh thổ ba nước Đông Dương, kết thúc vẻ vang cuộc kháng
chiến trường kỳ, gian khổ kéo dài 9 năm (1945 - 1954). Đồng thời, chấm dứt ách
thống trị của thực dân Pháp kéo dài hàng thế kỷ, mở ra bước phát triển mới cho
cách mạng Việt Nam, Lào, Cam-pu-chia.

CHƯƠNG 2:“VIỆT NAM CHIẾN ĐẦU VÀ CHIẾN THẮNG “1946-1954”


VÀ VAI TRÒ CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH TRONG QUÁ TRÌNH
LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN TA GIÀNH THẮNG LỢI TRONG CUỘC
KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP CỨU NƯỚC - LIÊN HỆ THỰC TIỄN.

1.Cuộc kháng chiến chống Pháp “1946-1954”


1.1 VIỆT NAM XÂY DỰNG CHÍNH QUYỀN MỚI (SAU CÁCH MẠNG
THÁNG 8/1945 – 12/1946)

20
Ngay trước khi Chính phủ lâm thời chính thức ra mắt đồng bào, ngày 22/8/1945,
20 vạn quân Tưởng do Lư Hán chỉ huy bắt đầu kéo vào Đông Dương. Ngày 7
đến ngày 10/9, các tên Tạ Sùng Kỳ và Tiêu Văn đến Hà Nội nhân danh phái bộ
Trung Hoa, đem theo các tổ chức phản động: Việt Nam Quốc dân đảng (Việt
Quốc), Việt Nam Cách mạng đồng minh hội (Việt Cách). Ngày 14/9, Lư Hán
đáp máy bay đến Hà Nội. Ngày 26 và 27/9, hàng vạn quân Tưởng lếch thếch
kéo vào thủ đô. Ngày 7/10, Hà Ứng Khâm, Tổng Tham mưu trưởng quân đội
của Tưởng Giới Thạch, đến Hà Nội cùng tướng Mỹ Mac Lure để xúc tiến xâm
lược nước ta. Ngày 24/10, bọn Việt Quốc, Việt Cách dựa vào áp lực của quân
Tưởng đã bắt cóc nhân viên chính phủ ta, đòi ta phải nhượng cho chúng 7 ghế
trong Chính phủ: Nội vụ, Quốc phòng, Tài chính, Kinh tế, Thanh niên, Giáo
dục, Kiều vụ và 2 chức Tổng lý Nội các và Tổng Tham mưu trưởng. Tuy nhiên,
chúng ta chỉ chấp nhập nhân nhượng hạn chế: lãnh đạo Việt Cách Nguyễn Hải
Thần được bổ nhiệm vào ghế Phó Chủ tịch Chính phủ; đồng thời hai ghế bộ
trưởng Y tế và Vệ sinh, một ghế thứ trưởng Quốc dân kinh tế được giao cho các
thành viên của Việt Quốc, Việt Cách. Cuối tháng 12/1945, Lư Hán đưa tối hậu
thư đòi Chính phủ ta phải loại các bộ trưởng là đảng viên cộng sản… Cùng với
các hoạt động chính trị, quân Tưởng và các thế lực phản động liên tục thực hiện
nhiều hoạt động cướp bóc, khủng bố, phá hoại, buôn lậu…
Ở miền Nam, dựa vào quân Anh, thực dân Pháp đã trở lại xâm lược nước ta.
Ngày 23/9/1945, tiếng súng chống Pháp đã nổ tại Sài Gòn, sau đó lan rộng toàn
Nam bộ, báo hiệu một trận chiến mới vô cùng khắc nghiệt.
Tình thế lúc này được những người trong cuộc và những người chép sử gọi là
“ngàn cân treo sợi tóc”. Thực sự không có hình tượng nào phản ánh đúng hơn!
Đảng, Nhà nước ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những đối sách vô cùng sáng
suốt, linh hoạt, mềm dẻo nhưng cũng rất kiên quyết. Riêng trong việc xây dựng
và củng cố chính quyền, vấn đề được coi là cơ bản, cốt yếu của mọi cuộc cách
mạng xã hội, đã được thực hiện rất quyết liệt và đạt được những kết quả rất quan
trọng, góp phần giữ vững thành quả cách mạng.
21
Ngày 3/9/1945, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã nêu 6 nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa: chống giặc đói; chống giặc dốt; tổ chức tổng tuyển cử; giáo dục lại tinh
thần của nhân dân bằng cách thực hiện cần, kiệm, liêm, chính; bỏ thuế thân, thuế
chợ, thuế đò và cấm thuốc phiện; thực hiện tự do tín ngưỡng.
Đối với thực dân Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi nhân dân cảnh giác và
sẵn sàng chiến đấu. Ngày 5/9/1945, Người kêu gọi: “(Nhân dân Việt Nam)
cương quyết phản đối quân Pháp kéo vào Việt Nam, vì mục đích của họ chỉ là
hãm dân tộc Việt Nam vào vòng nô lệ một lần nữa… Hiện một số quân Pháp đã
lọt vào nước ta. Đồng bào hãy sẵn sàng đợi lệnh Chính phủ để chiến đấu!”.
Ngày 10 và 11/9/1945, Hội nghị cán bộ Bắc kỳ của Đảng đã ra nghị quyết, trong
đó về vấn đề chính quyền, nghị quyết nêu rõ: huy động các hạng nhân tài và
chính trị phạm ra giúp việc; cấp tốc tổ chức các ủy ban nhân dân các làng, các
phố; thi hành thống nhất các chương trình của Việt Minh và do Chính phủ quyết
định…
Ngày 11/9/1945, với bút danh Chiến Thắng, Hồ Chí Minh nêu “cách tổ chức các
ủy ban nhân dân” (làng, huyện, tỉnh, thành phố), đăng trên báo Cứu quốc. Theo
đó, mỗi ủy ban có từ 5 - 7 người, gồm một chủ tịch, một phó chủ tịch, một thư
ký, một ủy viên phụ trách chính trị, một ủy viên phụ trách kinh tế - tài chính,
một ủy viên phụ trách quân sự, một ủy viên phụ trách xã hội. Người nhấn mạnh:
“Ủy ban nhân dân tổ chức và làm việc theo một tinh thần mới, một chế độ dân
chủ mới, khác hẳn các cơ quan do bọn thống trị cũ đặt ra”.
Từ ngày 17 đến 24/9/1945, Chính phủ tổ chức “Tuần lễ vàng” để có nguồn tài
chính phục vụ việc xây dựng đất nước và chuẩn bị chiến tranh chống xâm lược.
Trong một tuần, nhân dân quyên góp tổng cộng 60 triệu đồng Đông Dương và
370 ký vàng. Khi Cách mạng thành công, chúng ta chiếm được Ngân hàng Đông
Dương nhưng chỉ thu được 1,25 triệu đồng Đông Dương mà trong đó phần lớn
là tiền rách nát! Điều đó cho thấy ý nghĩa lớn lao của “Tuần lễ vàng” như thế
nào.
22
Để đối phó với sự công kích trực diện của kẻ thù, ngày 11/11/1945, Đảng Cộng
sản Đông Dương tuyên bố tự giải tán và rút vào hoạt động bí mật, đồng thời
thành lập Hội Nghiên cứu chủ nghĩa Mác, hoạt động công khai.
Bấy giờ, để tập hợp đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia các hoạt động
cách mạng, Đảng ta đã chỉ đạo phát triển rộng khắp các tổ chức quần chúng, mở
rộng mặt trận đoàn kết toàn dân. Chẳng hạn, trong các xí nghiệp thì có ủy ban
công nhân (sau đổi thành ủy ban xí nghiệp); tổ chức lực lượng Thanh niên cứu
quốc, Tự vệ chiến đấu (kể cả trong học sinh, thanh niên Công giáo và hướng
đạo); tổ chức Phụ nữ cứu quốc; tiếp tục phát triển Hội Văn hóa cứu quốc; đồng
thời hình thành nhiều tổ chức quần chúng khác như Công thương cứu quốc
đoàn, Cựu binh sĩ cứu quốc đoàn, Liên đoàn Công giáo cứu quốc, Hội Phật giáo
cứu quốc…
Ngày 25/11/1945, Trung ương Đảng ban hành chỉ thị về kháng chiến kiến quốc
(mật), nêu rõ “kẻ thù chính của ta lúc này là thực dân Pháp xâm lược” nên
“chiến thuật của ta lúc này là lập Mặt trận Dân tộc thống nhất chống thực dân
Pháp xâm lược”, đồng thời “phải củng cố chính quyền chống thực dân Pháp xâm
lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống cho nhân dân”, “xúc tiến việc đi đến
Quốc hội để quy định Hiến pháp, bầu Chính phủ chính thức”.
Ngày 6/1/1946, cuộc bầu cử Quốc hội khóa I đã diễn ra tại 71 tỉnh thành trong
cả nước theo lối phổ thông đầu phiếu và chọn ra 333 đại biểu. Hai Đảng đối lập
trong Chính phủ là Việt Quốc và Việt Cách không tham gia bầu cử; trong kỳ
họp thứ nhất, Quốc hội đã đồng ý công nhận thêm 70 ghế thuộc các đảng này,
nâng tổng số đại biểu là 403. Cuộc bầu cử đã được toàn dân nô nức tham gia; dù
diễn ra trong điều kiện chiến sự, có sự cản trở, phá hoại của bọn phản động và
sự hạn chế đi lại nhưng có đến 89% cử tri đi bầu; thậm chí ở Trung bộ và Nam
bộ, cuộc bầu cử đã có đổ máu, với ít nhất 42 cán bộ của ta hy sinh. Tại kỳ họp
đầu tiên, Quốc hội đã công nhận Chính phủ liên hiệp kháng chiến do Chủ tịch
Hồ Chí Minh đứng đầu; với hai đảng đối lập, Việt Quốc nắm một số bộ gồm
Kinh tế, Ngoại giao, Việt Cách nắm chức Phó Chủ tịch Chính phủ, Bộ Xã hội, Y
23
tế, Cứu tế - Lao động, Canh nông. Sau đó, Quốc hội đã thông qua Hiến pháp
năm 1946 tại kỳ họp thứ hai.
Đối với vấn đề ngoại xâm, ngày 6/3/1946, Chính phủ ta đã ký Hiệp định Sơ bộ
với Pháp, đồng ý cho 15.000 quân Pháp thay thế quân Tưởng giải giáp quân
Nhật. Đến tháng 6/1946, toàn bộ quân Tưởng rút khỏi Việt Nam; bọn phản động
mất chỗ dựa nên ra sức chống phá, nhân Chủ tịch Hồ Chí Minh đi thăm Pháp đã
mưu toan đảo chính lật đổ Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tháng
7/1946, âm mưu của chúng bị vạch trần, thông qua sự kiện vụ án phố Ôn Như
Hầu. Vụ phá án đã đập tan cuộc đảo chính phản cách mạng, làm tan rã hệ thống
tổ chức của một đảng phản động, phá vỡ liên minh phản cách mạng giữa bọn
phản động bên trong với thế lực xâm lược bên ngoài.
Có thể thấy, việc giành chính quyền trong Cách mạng tháng Tám dưới sự lãnh
đạo của Đảng là hết sức ngoạn mục, vừa chớp được thời cơ, vừa giành thắng lợi
trọn vẹn, vừa hạn chế tối đa đổ máu. Các diễn biến tiếp theo đó trong việc giữ
vững thành quả cách mạng cũng ngoạn mục không kém, khi chính quyền non trẻ
đã phải cùng lúc đương đầu với rất nhiều kẻ thù, rất nhiều thử thách khốc liệt.
Nhưng dưới sự sáng suốt của Đảng, của Chính phủ, đứng đầu là Chính phủ Hồ
Chí Minh, chính quyền cách mạng không những được giữ vững mà còn không
ngừng được củng cố và phát triển. Đến tháng 12/1946, khi toàn quốc kháng
chiến nổ ra, chính quyền cách mạng đã thực sự vững mạnh và đủ sức lãnh đạo
nhân dân thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược quan trọng là vừa kháng chiến vừa
kiến quốc. Nhờ đó, cuộc kháng Pháp của nhân dân ta dù lúc đầu hết sức khó
khăn nhưng dần dần ta đã chiếm ưu thế và giành thắng lợi cuối cùng.
Phân tích hành động khiêu khích, xâm lược của thực dân Pháp trong những
tháng cuối năm 1946, nhất là từ giữa tháng 12, Hội nghị nhận định: âm mưu của
Pháp là mở rộng cuộc chiến tranh xâm lược, chuyển cuộc chiến tranh sang một
bước mới; thời kì hoà hoãn đã qua, khả năng hoà bình không còn nữa.

24
Sáng 19-12-1946, thực dân Pháp gửi tiếp cho Chính phủ ta một tối hậu thư đòi
tước vũ khí của tự vệ, đòi đình chỉ mọi hoạt động chuẩn bị kháng chiến và để
cho quân Pháp làm nhiệm vụ giữ trật tự trong thủ đô Hà Nội.

Cho tới lúc này, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn gởi thư cho Xanhtơni đề nghị phía
Pháp cùng với Chính phủ ta "tìm một giải pháp cải thiện bầu không khí hiện
tại". Thực dân Pháp khước từ đề nghị đó.

Trưa ngày 19-12, Ban Thường vụ Trung ương Đảng điện cho các Chiến khu và
Tỉnh uỷ, chỉ thị "Tất cả hãy sẵn sàng!".

Lúc 20 giờ ngày 19-12-1946, Đài Phát thanh Tiếng nói Việt Nam phát tín hiệu
bắt đầu cuộc kháng chiến trong toàn quốc. Bộ trưởng Quốc phòng công bố mệnh
lệnh chiến đấu cho tất cả các lực lượng vũ trang. Công nhân Nhà máy đèn Bờ
Hồ phá máy.

Đèn điện toàn thành phố Hà Nội phụt tắt. Đó là hiệu lệnh tấn công của quân ta.
Cùng thời điểm ấy, các pháo đài Láng, Xuân Canh, Xuân Tảo... đồng loạt nhả
đạn vào nội thành. Ở các khu phố, nhân dân quẳng bàn, ghế, cánh cửa, sập gụ,
hòm xiểng, bao cát... ra mặt đường. Công nhân đẩy toa tàu chặn các ngã tư, ngã
năm. Cây cối, cột điện cũng được ngả xuống ngáng đường. Vật cản vài chiến
luỹ dựng lên khắp nơi. Người dân Hà Nội trong tư thế sẵn sàng đứng lên kháng
chiến chống quân xâm lược với tất cả những gì có trong tay và với một ý chí
quyết thắng.

Tiếng súng kháng chiến ở thủ đô Hà Nội nhanh chóng lan rộng ra cả nước.

Đêm 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến,
khẳng định thiện chí, nguyện vọng hoà bình, quyết tâm kháng chiến và niềm tin
tất thắng của nhân dân ta; đồng thời nêu lên tư tưởng cơ bản của đường lối chiến
tranh nhân dân. Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh là
lời hịch tiến công, thôi thúc, giục giã toàn dân Việt Nam đứng dậy cứu nước.
Sau khi kêu gọi toàn quốc kháng chiến, ngày 21-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí
25
Minh gửi thư cho nhân dân Việt Nam nhân dân Pháp và nhân dân các nước
Đồng minh để cho thế giới biết rõ mục tiêu và quyết tâm đấu tranh vì độc lập tự
do của nhân dân Việt Nam. Trong thư, Người khẳng định: "Cuộc kháng chiến
rất lâu dài và đau khổ. Dù hi sinh bao nhiêu và thời gian kháng chiến đến bao
giờ, chúng ta cũng nhất định chiến đấu đến cùng, đến bao giờ nước Việt Nam
được hoàn toàn độc lập và thống nhất. Chúng ta có 20 triệu chống lại 10 vạn
thực dân. Cuộc thắng lợi của ta rất có bảo đảm...".

1.2 NHỮNG NĂM ĐẦU CỦA CUỘC KHÁNG CHIẾN (19/12/1946 - CUỐI
1950)

Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng mở rộng (18-19 - 12-1946) tại làng
Vạn Phúc (Hà Đông), trên cơ sở phân tích tình hình so sánh lực lượng giữa địch
và ta, xác định chính xác ý đồ chiến lược của thực dân Pháp, cùng với quyết
định phát động kháng chiến chống thực dân Pháp trên phạm vi cả nước, cũng
nêu lên một số vấn đề cơ bản về đường lối kháng chiến.

Tháng 3-1947, Tổng Bí thư Đảng Trường Chinh đã kịp thời tổng kết cuộc chiến
đấu và viết một loạt bài đăng liên tiếp trên 11 số báo Sự thật (năm 1951 đổi tên
thành báo Nhân dân) nhằm giải thích rõ thêm đường lối kháng chiến.

Xuất phát từ sự tin tưởng vào khả năng cách mạng của quần chúng, Đảng đề ra
đường lối kháng chiến toàn dân. Đây là nội dung cơ bản của chiến tranh nhân
dân Việt Nam chống thực dân Pháp xâm lược, là tư tưởng xuyên suốt, chỉ đạo
mọi kế hoạch tác chiến và xây dựng lực lượng. Với đường lối kháng chiến toàn
dân, chúng ta sẽ tạo được thế trận cả nước cùng đánh giặc, mỗi người dân là một
chiến sĩ, mỗi làng xã là một pháo đài.

Cuộc chiến đấu của quân và dân Hà Nội diễn ra trong điều kiện so sánh lực
lượng giữa hai bên rất chênh lệch. Tuy nhiên, với khí thế nhất tề xông lên, quân
và dân Hà Nội đã giành được quyền chủ động và phá tan thế trận bao vây của
quân Pháp, đẩy chúng vào tình trạng bị động đối phó. Chỉ trong vài giờ đầu, các

26
chiến sĩ Vệ quốc đoàn và tự vệ, với sự giúp đỡ của nhân dân, đã tiêu diệt phần
lớn các ổ chiến đấu của quân Pháp.

Trong các trận đánh của quân và dân thủ đô đêm 19-12, oanh liệt nhất là trận
chiến đấu bảo vệ Bắc Bộ phủ - nơi đặt trụ sở làm việc của Bộ Nội vụ, Bộ Lao
động, nhà làm việc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trận chiến đấu ở Ô Chợ Dừa,
Ô Cầu Dền, Cửa Nam, nhất là ở khu chợ Đồng Xuân đều là những trận đánh tiêu
biểu cho khí phách anh hùng và sự kết hợp giữa lòng dũng cảm với trí thông
minh, sáng tạo của các chiến sĩ cảm tử thủ đô, của nhân dân ta trong những ngày
đầu toàn quốc kháng chiến chống Pháp.

Từ trong khói lửa chiến đấu ác liệt, ngày 6-1-1947, Trung đoàn Thủ đô chính
thức thành lập. Lực lượng của Trung đoàn gồm ba tiểu đoàn, với số quân gắn
2.000 người, có cả phụ nữ, người nhiều tuổi và thanh, thiếu niên đã từng sống,
chiến đấu bảo vệ thủ đô trong những ngày đầu kháng chiến.

Trải qua hai tháng (19-12-1946 - 18-2-1947), quân và dân Hà Nội đánh gần 200
trận, tiêu diệt một phần quan trọng sinh lực địch, giam chân chúng nhiều ngày
để hậu phương kịp tổ chức, triển khai thế trận kháng chiến lâu dài; bảo vệ các cơ
quan đầu não của Đảng, Chính phủ, Mặt trận di chuyển về căn cứ an toàn, bảo
vệ hàng vạn đồng bào thủ đô rời thành phố về vùng hậu phương.

Cuộc chiến đấu anh dũng của quân và dân Hà Nội tượng trưng cho ý chí kiên
cường, bất khuất của dân tộc Việt Nam quyết đánh thắng quân đội xâm lược nhà
nghề của một đế quốc để bảo vệ độc lập tự do của Tổ quốc.

Ở thành phố Nam Định - nơi được thực dân Pháp coi là quan trọng vào hàng thứ
ba sau Hà Nội và Hải Phòng, quân và dân ta bao vây địch trong gần ba tháng (từ
19-12-1946 đến 12-3-1947), diệt hơn 400 tên. Địch mở nhiều đợt tiến công phá
vây nhưng đều bị quân ta đánh lui. Sau khi có quân đến ứng cứu, địch tăng
cường những cuộc phản kích. Để bảo toàn lực lượng, ngày 12-3- 1947, quân ta
rút khỏi thành phố.

27
Ở thành phố Huế, bị quân ta tiến công mạnh, địch buộc phải cố thủ trong các
căn cứ chiếm đóng. Trong 50 ngày đêm tiến công và bao vây, quân và dân ta đã
diệt hơn 200 tên địch, hạ 1

máy bay, phá 3 xe thiết giáp, nhiều xe vận tải, thu nhiều súng đạn.

Ở thành phố Đà Nẵng, quân và dân ta tiến công, bao vây, cô lập sân bay và đánh
lùi nhiều đợt tiến công phá vây của địch.

Đầu tháng 1-1947, được tăng viện, quân Pháp điều 2.000 quân lên giải vây sân
bay, thành phố.

Tại Nam Bộ, quân và dân ta đẩy mạnh chiến tranh du kích, đánh phá bình định,
"không để cho Pháp đem hết tài sản chiếm được ở Nam Bộ ra đánh Trung -
Bắc".

Phong trào kháng chiến ở Nam Trung Bộ, Tây Nguyên có bước phát triển mới.
Quân và dân ta liên tiếp đánh bại các cuộc tiến công của địch, giữ vững vùng tự
do.

Cuối tháng 12-1946, sau khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, các cơ quan
Trung ương lần lượt rời Hà Nội về phía tây nam, chuyển đến địa phận các tỉnh
Hà Đông, Sơn Tây; sau đó (đầu năm 1947), chuyển đến địa phận các tỉnh thuộc
căn cứ Việt Bắc. Các huyện Định Hoá, Đại Từ, Phú Lương, Võ Nhai (Thái
Nguyên); Chợ Đồn (Bắc Kạn); Sơn Dương, Yên Sơn, Chiêm Hoá (Tuyên
Quang) được chọn làm an toàn khu (ATK) của Trung ương Căn cứ địa cách
mạng Việt Bắc trước đây trở thành căn cứ địa kháng chiến của cả nước.

Trong các công tác chuẩn bị vật chất cho kháng chiến lâu dài, vấn đề tích trữ
muối và gạo được đặc biệt chú ý. Ngay từ mùa hè năm 1946, các cơ quan chức
năng đã được chỉ thị thu mua và vận chuyển muối từ đồng bằng ven biển lên căn
cứ. Nhờ có hàng vạn tấn muối được chuyển kịp thời lên Việt Bắc, Tây Bắc, nên
khi miền duyên hải bị địch chiếm đóng, hậu phương kháng chiến vẫn có một
lượng muối dự trữ cần thiết cho đời sống của cán bộ, bộ đội và nhân dân.
28
Cũng ngay từ đầu cuộc kháng chiến, Chính phủ đã có nhiều biện pháp tổ chức
việc thu mua, bảo vệ, bảo quản thóc, gạo chu đáo. Bộ Tài chính đặt kho dự trữ
thóc, gạo phân tán ở nhiều nơi.

Bài học kinh nghiệm của ông cha thực hành kế thanh dã, vườn không nhà trống
trong lịch sử chống ngoại xâm được vận dụng triệt để Chỉ thị Toàn dân kháng
chiến của Ban Thường vụ Trung ương Đảng chỉ rõ: "Phá hoại nhiều hơn bắn;
triệt để làm cho địch đói, khát, què, mù, điếc, câm, tiêu hao, mệt mỏi, chán
nản"1. Nghị quyết Hội nghị quân sự toàn quốc lần thứ nhất (12 đến 16-1-1947)
nêu rõ mức độ phá hoại đối với từng vùng, từng nơi. Ngày 16-1-1947, Chủ
tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi đồng bào phá hoại để kháng chiến: "Đánh thì
phải phá hoại...

Bây giờ ta phải phá đi, để chặn bọn Pháp lại, không cho chúng tiến lên, không
cho chúng lợi dụng. Ta vì nước hi sinh, chịu khổ một lúc. Đến ngày kháng chiến
thắng lợi, ta sẽ cùng nhau kiến thiết sửa sang lại . . . ".

Hiểu rõ nội dung và ý nghĩa của công tác phá hoại để kháng chiến, từ đầu tháng
12-1946, các địa phương đã lập được kế hoạch phá hoại. Các Ban phá hoại được
tổ chức và đi vào hoạt động.

Cho đến giữa năm 1947, cuộc kháng chiến toàn quốc đã trải qua 5 tháng. Về cơ
bản, chúng ta đã đạt được các mục tiêu chiến lược do Trung ương Đảng đề ra:
"Địch thiệt hại khá nhiều ở Bắc Bộ... Chiến sự ở Nam Bộ và miền Nam Trung
Bộ khá hơn trước. Quân du kích của ta ở đó hoạt động dữ, đã thu được nhiều kết
quả khá".

Về phía thực dân Pháp, ở Bắc Bộ, tuy đã được tăng viện lên 11 tiểu đoàn Âu -
Phi từ Pháp sang, nhưng chúng cũng chỉ đủ sức chiếm giữ một số thành phố, thị
xã (Hà Nội, Nam Định, Hải Dương, Hải Phòng). Trên con đường giao thông
chiến lược nối liền Hà Nội với Hải Phòng, tuy địch đã sử dụng một lực lượng

29
bảo vệ khá lớn, nhưng vẫn không ngăn chặn được hoạt động của quân ta; không
có cuộc hành quân nào của địch trên tuyến đường này được an toàn.

Về phía ta, bộ đội chủ lực vẫn được bảo toàn và phát triển cả về số lượng và
trình độ tác chiến. Cơ quan đầu não kháng chiến được bảo vệ an toàn. Thế trận
chiến tranh nhân dân được củng cố và mở rộng. Cuộc chiến tranh vẫn kéo dài và
ngày càng mở rộng đã khiến cho thực dân Pháp lâm vào tình trạng khó khăn,
quân số thiếu hụt. Trước tình hình trên, thực dân Pháp âm mưu kết hợp chặt chẽ
giữa thủ đoạn chính trị và biện pháp quân sự. Về chính trị, chúng vừa cố tạo ra
một chính quyền tay sai bản xứ, vừa tìm cách lôi kéo, lừa bịp quần chúng bằng
một thứ lí tưởng đối lập với chủ nghĩa yêu nước chân chính. Về quân sự, chúng
vừa bình định miền Nam, vừa tập trung lực lượng lớn đánh đòn quyết định ở
miền Bắc, hòng đè bẹp tinh thần và lực lượng kháng chiến của đối phương.

Thực hiện kế hoạch trên, từ ngày 7-10, cuộc hành quân mang mật danh "LEA"
bắt đầu được triển khai: - Khoảng 8 giờ 15 phút sáng 7-10-1947, binh đoàn quân
dù do Trung tá Xôvanhắc (Sauvagnac) chỉ huy lần lượt đổ quân xuống thị xã
Bắc Kạn, nơi chúng nghi có cơ quan đầu não kháng chiến. Khoảng 14 giờ 30
phút cùng ngày, chúng thả tiếp một bộ phận quân dù xuống thị trấn Chợ Mới
nhằm khống chế tuyến đường Thái Nguyên đi Bắc Kạn và lấy đó làm nơi tập kết
những đạo quân lùng sục cơ quan đầu não kháng chiến của ta.

Ngày 9-10-1947, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị cần kíp gửi các
đồng chí Tỉnh uỷ Bắc Kạn và các đồng chí phụ trách quân, chính, dân Bắc Kạn.
Bản Chỉ thị nêu lên nhiệm vụ trước mắt của tỉnh lúc này là dùng lực lượng bộ
đội, dân quân du kích và toàn dân bao vây địch chung quanh tỉnh lị, "giam chân
địch ở đó, không cho chúng chiếm toả ra, đặc biệt ngăn địch trên mấy đường
này: Đường Bắc Kạn - Chợ Đồn, Bắc Kạn - Chợ Rã, Bắc Kạn - Cao Bằng, Bắc
Kạn - Chợ Mới, Bắc Kạn - Na Rì, Bắc Kạn - Chợ Chu” 1. Ngày 15-10-1947,
Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra bản Chỉ thị Phải phá tan cuộc cuộc tấn
công mùa đông của giặc Pháp. Chỉ thị vạch rõ phương hướng hành động cụ thể
30
của quân và dân ta là bao vây giam chân địch tại những căn cứ chúng vừa
chiếm, triệt để làm vườn không nhà trống chung quanh chỗ địch chiếm đóng;
chặt đứt giao thông liên lạc giữa các cứ điểm của địch, không cho chúng tiếp
ứng và tiếp tế.

Trước tình thế bế tắc, Bộ chỉ huy Pháp quyết định vừa tổ chức rút lui vừa huy
động thêm lực lượng cùng với các lực lượng đã tham gia Kế hoạch LEA mở
cuộc càn quét khu tứ giác Tuyên Quang - Thái Nguyên - Việt Trì - Phủ Lạng
Thương, trên một phạm vi rộng hơn 8.000 km2. Nhận thấy hiện tượng địch
chuẩn bị rút quân, ngày 10 và 29- 11, Bộ Tổng chỉ huy kịp thời chỉ thị cho các
mặt trận bố trí lại lực lượng, bám sát hoạt động của địch, không bỏ lỡ thời cơ
diệt địch, khiến cho quân Pháp đi tới đâu cũng bị chặn đánh. Do không đạt được
mục tiêu của cuộc tấn công, lại bị thiết hại nặng nề , ngày 21-12-1947, đại bộ
phận quân Pháp phải rút khỏi Việt Bắc, đánh đấu thất bại chiến lược đầu tiên
trong cuộc chiến tranh xam lược của chúng.

Trải qua 75 ngày đêm chiến đấu dũng cảm, vận dụng nghệ thuật tác chiến của
chiến tranh nhân dân một cách sáng tạo, quân và dân ta đã loại khỏi vòng chiến
đấu khoảng 6.000 địch, bắn rơi 16 máy bay; bắn cháy, bắn chùn 11 ca nô, tàu
chiến; phá huỷ hàng trăm xe quân sự; tịch thu của địch hơn 100 khẩu pháo, súng
cối các loại, hàng ngàn súng bộ binh cùng với hàng chục tấn quân trang, quân
dụng. Việt Bắc trở thành mồ chôn giặc Pháp.

31
Một số hình ảnh minh họa trận chiến ( Ảnh : Bảo tàng Hồ Chí Minh)

Sau thất bại trong cuộc tấn công Việt Bắc, thực dân Pháp buộc phải chuyển sang
đánh lâu dài với ta. Chúng thay đổi lại việc bố trí lực lượng, thay đổi cách đóng
quân, thực hiện âm mưu "Dùng người Việt đánh người Việt", "Lấy chiến tranh
nuôi chiến tranh".

Tại Hà Nội, từ đầu năm 1950, địch ra sức củng cố, tổ chức lại hệ thống phòng
thủ, tăng cường công sự và binh lực, ráo riết lùng sục và khủng bố. Chúng chỉnh
đơn lại hệ thống ngụy quyền ở cơ sở, lập thêm Sở công an Bắc Việt bên cạnh Sở
mật thám Pháp.

Đảng bộ Hà Nội chủ trương xây dựng và củng cố lực lượng, chống khủng bố,
bảo vệ phong trào. Sau sự kiện 9-1-1950 ở Sài Gòn - Chợ Lớn, theo chủ trương
của Thành uỷ, học sinh Hà Nội tổ chức đợt đấu tranh kéo dài trong một tuần lễ
(từ ngày 13 đến 20- 1). Kết hợp với đấu tranh chính trị, các lực lượng vũ trang
cũng đẩy mạnh hoạt động trừ gian diệt ác, đánh phá các cơ sở kinh tế, quân sự
của địch. Ờ Sài Gòn, quân và dân ta trong trị tên thực dân cáo già Đờ la
Sơvrôchie (De la Chevrotière), trùm mật thám Badanh (Bazin), Bộ trưởng ngụy
32
quyền Vương Văn Nhường. Tại Hà Nội, bộ đội ta tập kích sân bay Bạch Mai
(18-l-1950), phá huỷ 22 máy bay, đất cháy 600.000 lít xăng.

1.3 CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP KẾT THÚC (1953 – 1954)

Giữa tháng 11-1953, bộ đội chủ lực của ta tiến lên Tây Bắc, giải phóng Lai
Châu; phối hợp với quân đội Pathét Lào tiến công địch ở Trung - Hạ Lào. Nava
buộc phải cho quân nhảy dù xuống Điện Biên Phủ và xây dựng thành một tập
đoàn cứ điểm gồm ba phân khu yểm hộ lẫn nhau, có cơ cấu phòng ngự vững
chắc, với hơn 16 ngàn quân tinh nhuệ. Mục đích của chúng là biến thế trận này
thành bàn đạp chiếm lại Tây Bắc, khống chế chiến trường Lào, đồng thời giữ
quân chủ lực ta ở Việt Bắc để quân Pháp rảnh tay hoạt động ở đồng bằng Bắc
Bộ và đánh chiếm Liên khu 5. Mặc dù có tới 50 vạn quân, bao gồm cả quân
ngụy, nhưng Nava không thể đối phó với cuộc tiến công của quân ta trên khắp
các chiến trường. Hy vọng duy nhất của Nava là ở tập đoàn cứ điểm Điện Biên
Phủ, một cứ điểm quân sự mà cùng với các Bộ trưởng, tướng lĩnh Pháp và nhiều
tướng lĩnh Mỹ đã nhiều lần tới kiểm tra cứ điểm Điện Biên Phủ, kể cả Phó Tổng
thống Mỹ Níchxơn, đều hết lời ca ngợi và tuyên truyền đây là “một cứ điểm
đáng sợ”, “một pháo đài bất khả xâm phạm, không thể công phá”.

Ngày 6-12-1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Bộ Chính trị Trung ương Đảng
quyết định tập trung đại bộ phận chủ lực tinh nhuệ của ta, mở cuộc đại tiến công
vào tập đoàn cứ điểm mạnh nhất của địch ở Điện Biên Phủ, và coi đây là
điểm quyết chiến chiến lược. Người chỉ thị:

“Chiến dịch này là một chiến dịch rất quan trọng, không những về quân sự mà
cả về chính trị, không những đối với trong nước mà đối với quốc tế. Vì vậy,
toàn quân, toàn dân, toàn Đảng phải tập trung hoàn thành cho kỳ được”

Trước khi lên đường ra chiến dịch, Đại tướng Võ Nguyên Giáp có tới chào Chủ
tịch Hồ Chí Minh, Người đã căn dặn: "Tổng tư lệnh ra mặt trận, Tướng quân tại
ngoại, Trao cho chú toàn quyền. Có vấn đề gì khó khăn, bàn thống nhất trong

33
Đảng ủy, thống nhất với cố vấn thì cứ quyết định rồi báo cáo sau", và người
nhắc: "Trận này rất quan trọng, phải đánh cho thắng. Chắc thắng mới đánh,
không chắc thắng không đánh"[3]. Chính nhờ sự tin tưởng cao độ của Người mà
Đại tướng đã có một "quyết định khó khăn nhất" trong cuộc đời cầm quân, đó là
quyết định chuyển từ phương án "đánh nhanh, giải quyết nhanh" sang "đánh
chắc, tiến chắc" và thắng lợi của Chiến dịch Điện Biên Phủ đã chứng minh tính
đúng đắn của quyết định này.

Ngày 22/2/1954, Tổng Tư lệnh ra lời kêu gọi toàn thể cán bộ và chiến sĩ, toàn
thể các đơn vị, các binh chủng kiên quyết tiêu diệt toàn bộ quân địch. Lời kêu
gọi phát ra, bộ đội ta hăng hái khoét núi, đào hầm, kéo pháo vào trận địa, đánh
chiếm các cứ điểm Hồng Cúm, sân bay Mường Thanh. Giữa lúc đó có thư của
Bác Hồ: “Các chú ra trận, nhiệm vụ các chú lần này rất to lớn, khó khăn nhưng
rất vinh quang. Các chú vừa được chỉnh quân chính trị và chỉnh huấn quân sự đã
thu được nhiều thắng lợi. Bác tin chắc rằng, các chú sẽ phát huy thắng lợi vừa
qua, quyết tâm vượt mọi khó khăn, gian khổ để làm tròn nhiệm vụ vẻ vang. Bác
chờ các chú báo cáo thành tích để thưởng những đơn vị và cá nhân xuất sắc
nhất. Chúc các chú thắng to - Bác hôn các chú”. Lời động viên kịp thời của
Người đã biến thành hành động thực tế của cán bộ, chiến sĩ trên toàn mặt trận
Điện Biên Phủ.
Ngày 13-3-1954, quân ta mở cuộc tấn công vào tập đoàn cứ điểm Điện Biên
Phủ. Đây là một cuộc đọ trí, đọ sức hết sức gay go, quyết liệt giữa ta và địch,
để giành giật từng thước đất. Để động viên kịp thời, ngày 15/3, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã gửi điện khen ngợi cán bộ, chiến sĩ đã chiến thắng hai trận mở màn
chiến dịch ở Him Lam, Độc Lập. Đồng thời, Người nêu rõ ý nghĩa lịch sử quan
trọng của chiến dịch cả về quân sự, chính trị và nhắc nhở quân đội ta phải cố
gắng, chiến đấu dẻo dai, bền bỉ, chớ chủ quan, khinh địch để giành toàn thắng
cho chiến dịch này.

34
Suốt quá trình diễn ra chiến dịch, Bác còn dành sự quan tâm đặc biệt tới tình
hình chiến trường. Để khắc phục những khó khăn, trở ngại, bảo đảm cung cấp
cho tiền tuyến, Bộ Chính trị và Bác đã kịp thời ra Nghị quyết, chỉ rõ “Toàn dân,
toàn Đảng và Chính phủ nhất định đem toàn lực chi viện cho Điện Biên Phủ và
nhất định làm mọi việc cần thiết để giành toàn thắng cho chiến dịch này”. Chỉ
trong một thời gian ngắn, ta đã huy động được một khối lượng lớn sức người,
sức của từ nhiều vùng miền, từ nhiều giai cấp, tầng lớp trong cả nước. Theo số
liệu tổng kết chiến dịch Điện Biên Phủ, nhân dân đã đóng góp 25.560 tấn gạo,
266 tấn muối, 1.909 tấn thực phẩm, 26.453 lượt dân công với 18.301.507 ngày
công, 20.991 xe đạp thồ, 1.800 mảng nứa, 756 xe thô sơ, 914 con ngựa thồ và
3.130 chiếc thuyền. Trong khi đó chiến trường Điện Biên Phủ ở cách xa hậu
phương có nơi tới 500-600 km, địa thế hiểm trở.

Trải qua 55 ngày đêm “khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt” chiến đấu cực
kỳ ngoan cường và anh dũng, vượt qua bao gian khổ và hy sinh, ngày 7-5-
1954, lá cờ “Quyết chiến quyết thắng” của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phất
phới tung bay trên nóc hầm Sở chỉ huy của địch. Quân và dân ta đã làm nên
Chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”. Chiến
thắng Điện Biên Phủ đã giáng đòn quyết định, đập tan dã tâm xâm lược của các
thế lực đế quốc, thực dân hiếu chiến, buộc Chính phủ Pháp phải ký Hiệp định
Giơnevơ, chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương, mở ra bước ngoặt mới cho cách
mạng Việt Nam.

2.VAI TRÒ CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH TRONG QUÁ TRÌNH
LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN TA GIÀNH THẮNG LỢI TRONG CUỘC
KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP CỨU NƯỚC

Tổng kết thực tiễn cách mạng đã khẳng định sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhân tố quyết định thắng lợi
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc. Trong đó, vai trò của Hồ
Chí Minh là vô cùng to lớn. Cùng với Trung ương Đảng, Người đã hoạch định,
35
tổ chức và lãnh đạo quân dân ta thực hiện thắng lợi đường lối kháng chiến
chống Pháp. Đường lối đó được xác định với nội dung cơ bản : “Kháng chiến,
kiến quốc”, “Toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh".
Ngay từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã cho rằng “vì cuộc kháng chiến của ta là cuộc
kháng chiến của toàn dân cần phải động viên toàn dân, vũ trang toàn dân.”
Trong bài “Toàn dân kháng chiến” viết ngày 5-11-1946, sau khi phân tích quy
mô và ảnh hưởng của cuộc đấu tranh, Người cho rằng “muốn kháng chiến lâu
dài để đi tới thắng lợi cuối cùng, cần phải động viên hết thảy mọi lực lượng…”.
Trong “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”, ngày 19-12-1946, tư tưởng của
Người về kháng chiến toàn dân được thể hiện rất rõ ràng: “Bất kỳ đàn ông, đàn
bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là
người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có
súng dùng súng. Ai có gươm, dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc,
thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước”.
Căn cứ vào chiến lược kháng chiến toàn dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta
đã tập hợp được đông đảo các tầng lớp xã hội trong Mặt trận dân tộc thống nhất,
từng bước xây dựng một lực lượng chính trị hùng hậu và lực lượng vũ trang
nhân dân lớn mạnh, gồm ba thứ quân, làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc.
Cũng căn cứ vào chiến lược này, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta xác định
“Mỗi công dân là một chiến sĩ. Mỗi làng là một chiến hào”, quyết tâm đánh bại
thực dân Pháp xâm lược.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, tiến hành kháng chiến toàn dân, đồng thời phải
thực hiện toàn diện kháng chiến. Vì, thực dân Pháp tiến hành cuộc chiến tranh
xâm lược nước ta một cách toàn diện, chúng ta phải kháng chiến chống lại
chúng một cách toàn diện trên các mặt trận: quân sự, kinh tế, văn hoá, tư tưởng,
ngoại giao. Người nói: “Không dùng toàn lực của nhân dân về đủ mọi mặt để
ứng phó, không thể nào thắng lợi được”.
Để phát huy sức mạnh toàn dân tộc, thực hiện nhất quán đường lối toàn diện
kháng chiến, Người yêu cầu: “Mỗi người dân Việt Nam, bất kỳ già, trẻ, trai, gái,
36
bất kỳ giàu, nghèo, lớn, nhỏ đều phải cần trở nên một chiến sĩ đấu tranh trên mặt
trận: quân sự, kinh tế, chính trị, văn hoá. Thực hiện khẩu hiệu: Toàn dân kháng
chiến, toàn diện kháng chiến”. Người cho rằng, “trong kháng chiến, quân sự là
việc chủ chốt”. Tuy nhiên, chỉ có đánh địch trên chiến trường thôi thì chưa đủ
mà còn phải biết kết hợp với các mặt trận đấu tranh khác nữa. Ngay khi bước
vào kháng chiến toàn quốc, Người kêu gọi vừa kháng chiến vừa kiến quốc, vừa
xây dựng hậu phương, vừa chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến, vừa tiến
hành đấu tranh ngoại giao, vừa thực hiện binh vận, vừa xây dựng nền văn hoá,
giáo dục kháng chiến, bồi dưỡng nhân dân, vừa động viên, tổ chức nhân dân
tham gia các đoàn thể kháng chiến, xây dựng khối đoàn kết toàn dân. Để mở
rộng khối đoàn kết toàn dân, theo sáng kiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tháng 5-
1946, Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam (Liên Việt) được thành lập. Truyền
thống yêu nước của toàn dân tộc được khơi lên mạnh mẽ, nhân dân ta tỏ rõ sự
đoàn kết, nhất trí chung quanh Chính phủ do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu.
Đó là sức mạnh vô địch để chống thù trong, giặc ngoài. Ngày 31-5-1946, Người
lên đường thăm nước Pháp, với tư cách là thượng khách của Chính phủ Pháp.
Trong thời gian ở Pháp, Người đã tuyên truyền làm sáng tỏ cuộc chiến tranh
chính nghĩa của nhân dân ta, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của nhân dân Pháp,
nâng cao uy tín của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trên trường quốc tế.
Chính dịp này, một số trí thức, nhà khoa học Việt kiều được Người vận động,
thuyết phục và cảm hoá đã tình nguyện theo Bác về nước cống hiến tài năng, trí
tuệ cho cách mạng, cho sự nghiệp kháng chiến, như: kỹ sư Phạm Quang Lễ, Võ
Quý Huân; bác sĩ Trần Hữu Tước...
Trên cơ sở đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện và tương quan lực lượng
địch - ta, đồng thời nắm chắc quy luật chuyển hoá của tương quan đó, Chủ tịch
Hồ Chí Minh chủ trương “kháng chiến trường kỳ”. Trong văn kiện “Công việc
khẩn cấp bây giờ” viết ngày 5-11-1946, Người nhấn mạnh: “Cuộc kháng chiến
sẽ rất gay go cực khổ. Dù địch thua đến 99%, nó cũng rán sức cắn lại. Vì nó thất
bại ở Việt Nam, thì toàn bộ cơ nghiệp đế quốc nó sẽ tan hoang. Vì vậy nó sẽ
37
đem rất nhiều viện binh… Nó sẽ tàn phá khủng bố rất dữ dội… Nhưng ta phải
hiểu: Lực lượng địch chỉ có từng ấy thôi. Ta kiên quyết chống chọi cho qua giai
đoạn “chớp nhoáng” đó, thì địch sẽ xẹp, ta sẽ thắng”.
Tư tưởng kháng chiến truờng kỳ được Người nhiều lần phân tích, giải thích lý
do và luôn chứa đựng sự lạc quan, niềm tin mãnh liệt vào thắng lợi cuối cùng.
Người nói đại ý rằng: trường là dài, tức là đánh bao giờ địch bại, địch “cút”, thế
mới là trường. Vì địch âm mưu đánh chớp nhoáng. Chúng muốn đánh mau,
thắng mau, giải quyết mau, thì ta nêu lên khẩu hiệu: Trường kỳ kháng chiến…
Thế là ngay từ lúc đầu chiến lược ta đã thắng chiến lược địch. Một lý do nữa
Người nêu ra là: “Kháng chiến phải trường kỳ, vì đất ta hẹp, dân ta ít, nước ta
nghèo, ta phải chuẩn bị lâu dài và phải có sự chuẩn bị toàn diện của toàn
dân”.Trên cơ sở phân tích lợi hại của ta và địch khi thực hiện chiến lược trường
kỳ kháng chiến, Người cho rằng: “Nếu chiến tranh kéo dài, hao binh tổn tướng,
chúng sẽ thất bại. Vậy ta dùng chiến lược trường kỳ kháng chiến, để phát triển
lực lượng, tăng thêm kinh nghiệm. Ta dùng chiến thuật du kích, để làm cho địch
hao mòn, cho đến ngày ta sẽ tổng phản công để quét sạch lũ chúng”. Tuy nhiên,
kháng chiến trường kỳ không có nghĩa là kéo dài vô thời hạn mà phải nỗ lực
vượt bậc, vừa tiêu diệt địch, vừa bồi dưỡng phát triển lực lượng của ta, càng
đánh ta càng mạnh, địch càng yếu, đánh bại từng âm mưu chiến lược của địch,
giành thắng lợi từng bước, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn.
Cùng với đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, Chủ tịch Hồ Chí
Minh cũng nhấn mạnh phải “tự lực cánh sinh”. Người cho rằng “Kháng chiến
trường kỳ gian khổ đồng thời lại phải tự lực cánh sinh… Cố nhiên sự giúp đỡ
của các nước bạn là quan trọng, nhưng không được ỷ lại, không được ngồi mong
chờ người khác. Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc
khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập”.Theo Người, tự lực cánh sinh
là chính, kết hợp với sự giúp đỡ quốc tế là hết sức quan trọng. Vì vậy, trong
kháng chiến chống Pháp, Người đã nêu cao ý chí tự lực tự cường, đồng thời khi
có điều kiện, làm mọi việc để tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của chính phủ và
38
nhân dân các nước anh em, của nhân loại tiến bộ, kể cả nhân dân Pháp. Tranh
thủ sự giúp đỡ quốc tế nhưng không ỷ lại, không để ảnh hưởng đến tinh thần độc
lập tự chủ của đất nước. Trong cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ
và tự lực cánh sinh, Chủ tịch Hồ Chí Minh như một người cầm lái bình tĩnh,
sáng suốt, mưu trí, dũng cảm và dày dạn kinh nghiệm, đã đưa con thuyền cách
mạng Việt Nam vượt qua mọi thác ghềnh nguy hiểm. Với đường lối chính trị
đúng đắn, biết phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân, cứng rắn về
nguyên tắc, mềm dẻo về sách lược đối với kẻ thù, Hồ Chí Minh chính là “linh
hồn” của cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc. Không những thế, Người
còn là vị tư lệnh tối cao của lực lượng vũ trang, và vai trò của Người được thể
hiện nổi bật trong các chiến dịch lớn. Những quan điểm, tư tưởng chiến lược
quân sự của Người được quán triệt, thực hiện sáng tạo trong những điều kiện,
hoàn cảnh cụ thể để lại dấu ấn sâu sắc, đậm nét trong lịch sử chiến đấu và chiến
thắng của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng.
Với đường lối kháng chiến “Toàn dân, toàn diện, trường kỳ và tự lực cánh sinh”,
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã lãnh đạo quân dân cả nước từng bước huy
động được sức mạnh của dân tộc vào cuộc chiến đấu và giành thắng lợi cuối
cùng trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.Với vai trò to lớn như
trên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã góp phần quan trọng vào thắng lợi của cuộc
kháng chiến chống Pháp. Đồng thời, những quan điểm, tư tưởng, đường lối
chiến lược của Người vẫn tiếp tục là cơ sở cho những thắng lợi của cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước sau này.

39
Bức tượng chủ tịch Hồ Chí Minh tại bảo tàng Hồ Chí Minh

3.Liên hệ thực tiễn

Ngày nay, chúng ta đang ra sức thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng đất
nước và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN trong điều kiện mới. Đó là, Việt
Nam là thành viên chính thức của WTO, đã và đang đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, tăng cường
hợp tác, hội nhập sâu, rộng vào nền kinh tế toàn cầu, có cả thời cơ, vận hội và
khó khăn, thách thức đan xen. Hơn thế, lại trong tình hình các thế lực thù địch
đang tăng cường các hoạt động chống phá bằng chiến lược “diễn biến hòa bình”,
bạo loạn, lật đổ. Xây dựng, phát triển đất nước là nhiệm vụ trọng tâm, là yêu cầu
bức thiết nhưng phải gắn chặt với bảo vệ vững chắc Tổ quốc XHCN. Trong quá
trình hợp tác, hội nhập, phát triển, nhất là trong lộ trình thực hiện cam kết với
WTO cần thấu suốt quan điểm của Đảng, giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và
CNXH, phát huy nội lực là chính, đồng thời tranh thủ ngoại lực và thông qua
40
hợp tác, hội nhập để biến ngoại lực thành nội lực, không ngừng tạo thế và lực
mới của đất nước. Thiết nghĩ, đó cũng là quá trình vận dụng sáng tạo quan điểm,
đường lối của Đảng, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về “kháng chiến, kiến
quốc”, “ toàn dân, toàn diện, tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính” trong
kháng chiến chống Pháp vào điều kiện lịch sử hiện nay nhằm phát huy nội lực,
tranh thủ thời cơ quốc tế thuận lợi thực hiện thắng lợi mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Cũng vì thế, việc tiếp tục nghiên
cứu, thấu hiểu vai trò to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh với cương vị lãnh tụ của
cách mạng, của dân tộc trong kháng chiến chống Pháp nói riêng, trong sự nghiệp
giữ nước nói chung, không chỉ có ý nghĩa về mặt phương pháp luận mà còn có ý
nghĩa thực tiễn sâu sắc. Tư tưởng của Người luôn là kim chỉ nam của những
quan điểm, đường lối của Đảng trong mỗi thời kỳ cách mạng. Theo đó, trong
tình hình hiện nay, chúng ta phải giữ vững ổn định chính trị, xây dựng, củng cố
khối đại đoàn kết toàn dân tộc ngày càng vững chắc. Đồng thời, kiện toàn, củng
cố, nâng cao hiệu lực quản lý của các cấp chính quyền; cảnh giác với những
phương thức, thủ đoạn mới trong chiến lược “diễn biến hòa bình “ của địch,
quyết không dành cho chúng một sơ hở nhỏ nào để thực hiện âm mưu kích
động, chia rẽ sự đoàn kết thống nhất dân tộc, sự toàn vẹn lãnh thổ. Mặt khác,
chúng ta phải tích cực đấu tranh, khắc phục những thiếu sót trong quản lý, xây
dựng đất nước, những sơ hở, sai lầm trong việc thực hiện các chủ trương, chính
sách, nhất là chính sách về dân tộc, tôn giáo; đấu tranh một cách kiên quyết, có
hiệu quả với tệ nạn quan liêu, tham nhũng, tiêu cực trong bộ máy điều hành các
cấp; thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, động viên toàn dân tham gia xây
dựng, củng cố nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân ngày càng vững chắc.
Không vì hội nhập kinh tế quốc tế mà lơi lỏng trong nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc
Vận dụng bài học về phát huy sức mạnh toàn dân tộc trong xây dựng nền quốc
phòng toàn dân hiện nay, chúng ta cần tập trung xây dựng và phát huy mọi tiềm
lực của đất nước; đó là các tiềm lực: chính trị – tinh thần, quân sự, kinh tế, văn
hóa, khoa học – công nghệ... Để xây dựng tiềm lực chính trị – tinh thần, trước
41
hết cần tập trung xây dựng hệ thống chính trị các cấp trong sạch, vững mạnh, đủ
năng lực, bản lĩnh, trí tuệ để triển khai thực hiện đúng đắn, sáng tạo mọi chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Trong đó,
vấn đề then chốt là nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên trong hệ
thống chính trị các cấp; đẩy mạnh cải cách hành chính, tạo điều kiện thúc đẩy
phát triển kinh tế – xã hội và thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh”. Trong công tác giáo dục quốc phòng – an ninh, cần tập
trung quán triệt, tuyên truyền quan điểm, đường lối của Đảng và chính sách,
pháp luật của Nhà nước; đồng thời, nâng cao nhận thức cho nhân dân về âm
mưu, thủ đoạn trong chiến lược "Diễn biến hoà bình" của các thế lực thù địch.
Thông qua đó, bồi đắp tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, củng cố lòng tin
của các tầng lớp nhân dân đối với Đảng và chế độ XHCN, xây dựng “thế trận
lòng dân” vững chắc, tạo sự đồng thuận của toàn dân đối với sự nghiệp cách
mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng.

CHƯƠNG 3. LIÊN HỆ BẢN THÂN

Có thể khẳng định, con đường quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội ở nước ta là một sự
nghiệp lâu dài, vô cùng khó khăn và phức tạp, vì nó phải tạo sự biến đổi sâu sắc
về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Sinh viên là thế hệ trẻ, là
chủ nhân của đất nước, sinh viên cần làm gì, làm như thế nào để khẳng định và
đóng góp sức mình vào công cuộc kiến thiết và bảo vệ Tổ quốc, đưa đất nước
tiến lên Chủ nghĩa Xã hội, nhất là trong giai đoạn hiện nay đất nước bước vào
thời kỳ công nghiệp 4.0, các nước ra sức chạy đua về công nghệ, kỹ thuật với
hàng loạt các công trình nghiên cứu, sáng chế, áp dụng kỹ thuật công nghệ tiên
tiến vào đời sống sản xuất, tối ưu hóa các quy trình sản xuất. Vậy, để phát huy
vai trò của sinh viên trong sự nghiệp xây dựng Tổ quốc, mỗi sinh viên cần phải
rèn luyện bản thân.

Thứ nhất, thế hệ trẻ cần phải chăm chỉ, sáng tạo, có mục đích và động cơ học tập
đúng đắn, học tập để mai sau xây dựng đất nước, hiểu được học tập tốt là yêu
42
nước. Tuổi trẻ Việt Nam nói chung và sinh viên Việt Nam nói riêng đóng vai trò
rất quan trọng trong việc hình thành nguồn nhân lực chất lượng cao, có đầy đủ
kiến thức, kỹ năng để thích ứng với những bước phát triển mới trong khoa học
và công nghệ. Chính vì vậy, thế hệ trẻ - những chủ nhân tương lai của đất nước
phải không ngừng học tập, sáng tạo, tiếp thu các công nghệ mới để trang bị một
nền tảng tốt, giàu kiến thức, vững kỹ năng để tiếp nối các thế hệ cha anh trong
quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển
kinh tế tri thức.

Thứ hai, tích cực rèn luyện đạo đức, tác phong; lối sống trong sáng, lành mạnh,
tránh xa các tệ nạn xã hội; biết đấu tranh chống các biểu hiện của lối sống lai
căng, thực dụng, xa rời các giá trị văn hoá - đạo đức truyền thống của dân tộc.

Thứ ba, luôn nâng cao nhận thức chính trị, học tập chủ nghĩa Mác – Lênin, học
tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, tránh nhạt Đảng,
khô Đoàn, xa rời chính trị. Hiện nay, các thiết bị công nghệ hiện đại và hệ thống
mạng xã hội đang ngày càng phát triển đã tạo ra nhiều ảnh hưởng lớn đến sinh
viên, bao gồm cả những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực, một trong số đó là
khiến giới trẻ nói chung, trong đó có sinh viên sống tách biệt với xã hội, hình
thành lối sống vô tâm, vô cảm, thờ ơ chính trị. Bên cạnh đó, nhiều bạn trẻ chủ
yếu đọc báo qua những bài được chia trẻ trên mạng xã hội chưa được kiểm
chứng cụ thể, thay vì chủ động tiếp cận tới các nguồn tin chính thức, tạo cơ hội
cho các thế lực thù địch truyền bá những thông tin xuyên tạc Đảng và Nhà nước
mà nếu không có những nhận thức chính trị đầy đủ, người đọc sẽ hình thành suy
nghĩ sai lệch, gây ra những hệ lụy khôn lường cho tình hình an ninh xã hội.

Thứ tư, biết trau dồi các kỹ năng hội nhập trong thời kỳ mới, tiếp thu sự phát
triển của công nghệ, phát triển bản thân phù hợp với hoàn cảnh gia đình và xã
hội. Trong quá trình xây dựng nước Việt Nam Xã hội chủ nghĩa, ta không nên
mù quáng phủ nhận tất cả những sản phẩm Chủ nghĩa Tư bản đã tạo ra mà phải
chắt lọc, kế thừa những thành tựu phù hợp với điều kiện phát triển của đất nước.
43
Trong đó, sinh viên với bản chất năng động, sáng tạo, nhiệt huyết, nhanh nhạy là
đối tượng lý tưởng để tiếp thu các công nghệ mới, tham gia giao lưu, hội nhập
quốc tế. Tuy nhiên, trong quá trình hội nhập phải luôn tỉnh táo để không đánh
mất bản sắc văn hóa của dân tộc, phải dung hòa được nếp sống hiện đại với
những giá trị truyền thống.

CHƯƠNG 4: LỜI KẾT VÀ LỜI CẢM ƠN

1. Lời kết

Xây dựng nền quốc phòng toàn dân là quan điểm cơ bản của Đảng ta về sức
mạnh bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Quan điểm đó hình thành trên cơ sở
bài học kinh nghiệm về phát huy sức mạnh toàn dân tộc trong lịch sử dựng
nước, giữ nước của nhân dân ta, mà nổi bật là đường lối: “Toàn dân kháng
chiến, toàn diện kháng chiến, trường kỳ kháng chiến, dựa vào sức mình là
chính" trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Ngày nay, chúng ta có
thuận lợi cơ bản là hệ thống pháp luật từng bước được hoàn thiện. Đó là cơ sở
pháp lý để xây dựng kế hoạch, các biện pháp phối hợp, huy động các tiềm lực,
đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Để vận dụng và phát huy sức mạnh
toàn dân tộc, các cấp, các ngành cần quán triệt sâu sắc quan điểm, đường lối
quốc phòng, quân sự của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đặc biệt là,
kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng với các biện pháp huy động các tiềm lực; phối
hợp chặt chẽ giữa hoạt động quốc phòng, quân sự với an ninh và đối ngoại, tạo
thành sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của cả hệ thống
chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước để bảo
vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN trong tình hình mới.

Công cuộc xây dựng đất nước ta hiện nay, đòi hỏi cần quán triệt, vận dụng sâu
sắc bài học phát huy sức mạnh toàn dân tộc, thực hiện nhất quán quan điểm lấy
“dân làm gốc” trong đường lối lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, trong đó
chú trọng thực hiện tốt một số vấn đề sau:

44
Một là, quán triệt rõ phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra,
dân giám sát, dân thụ hưởng” vào hoạt động chủ đạo thực tiễn nhằm thực hiện
mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Dân thụ hưởng chính là thể hiện mục đích
cuối cùng của Đảng đó là phục vụ nguyện vọng, quyền và lợi ích hợp pháp,
chính đáng của Nhân dân. Việc bổ sung điểm mới này có ý nghĩa lý luận và thực
tiễn nhằm khích lệ tinh thần tích cực của Nhân dân, phát huy vai trò, vị trí của
người dân trong khát vọng xây dựng đất nước thịnh vượng, hùng cường của dân
tộc.

Hai là, phải tăng cường công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đẩy lùi tệ nạn tham
nhũng, “lợi ích nhóm”. Phải quyết liệt chống tiêu cực thì nhân tố tích cực mới có
thể nảy nở như hoa mùa xuân. Vì thế, biểu hiện rõ nhất, tập trung nhất của tư
tưởng lấy “dân làm gốc” hiện nay chính là nói “không” với tham nhũng và đẩy
mạnh công tác phòng chống tham nhũng, triệt tiêu “lợi ích nhóm”.

Ba là, thường xuyên chăm lo xây dựng, củng cố quốc phòng - an ninh vững
mạnh, không ngừng nâng cao sức mạnh tổng hợp của đất nước, đáp ứng yêu cầu
bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ độc
lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc phải trên cơ sở phát
huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của cả nước. Đó là sức mạnh của nền quốc
phòng toàn dân và nền an ninh Nhân dân, của thế trận chiến tranh Nhân dân bảo
vệ Tổ quốc phát triển ở trình độ cao; khi đất nước xảy ra chiến tranh thì “cả
nước một lòng, toàn dân đánh giặc”, thực hiện chiến tranh nhân dân, toàn dân,
toàn diện, lấy lực lượng vũ trang làm nòng cốt...

2. Lời cảm ơn

Bài thu hoạch này của nhóm sinh viên chúng em là thành quả sau chuyến

tham quan thực tế Bảo tàng Hồ Chí Minh. Sau khi được quan sát, tìm hiểu các
hiện vật, tư liệu của bảo tàng và lắng nghe câu chuyện về cuộc đời và con người
45
của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng em đã được thúc đẩy đam mê tự khám phá,
tìm hiểu những di sản văn hóa, tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người, đồng
thời có thêm niềm yêu thích đối với môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh. Chúng em
xin trân thành cảm ơn cô Đỗ Việt Hà đã tận tình chỉ bảo, cung cấp kiến thúc
nhiệt tình giúp chúng em có cơ sở để hoàn thiện bài thu hoạch lớn. Chúng em
cũng mong rằng bài thu hoạch này của nhóm cũng sẽ đóng góp cho việc tuyên
truyền lòng yêu nước, ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, những phẩm chất
đạo đức cách mạng, và hi vọng trong tương lai sẽ có thêm nhiều cơ hội để trải
nghiệm, tương tác thực tế để chứng minh cho tinh thần ham học hỏi và nghiên
cứu của mình, cũng như trau dồi thêm kiến thức, rèn luyện kỹ năng làm việc
nhóm cũng như năng lực tự chủ và trách nhiệm để xứng đáng với hình ảnh đẹp
của sinh viên Đại học Đại Nam.

46

You might also like