Về hội nhập quốc tế và tham gia tiến trình toàn cầu hóa của Việt Nam

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 117

1

Về hội nhập quốc tế và tham gia tiến trình toàn cầu hóa của Việt Nam

TCCS - Trong công cuộc phát triển đất nước, Việt Nam đẩy mạnh quá trình toàn cầu hóa, hội
nhập sâu rộng với khu vực và thế giới. Hiện nay, tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam
đang được triển khai tích cực trong bối cảnh mới của thế giới có nhiều biến động.

Từ quá trình nhận thức về “toàn cầu hóa” và “hội nhập quốc tế”…

Trước Đại hội IX năm 2001, văn kiện của Đảng chỉ nói đến “quốc tế hóa”, chưa đề cập tới
“toàn cầu hóa”. Từ Đại hội IX của Đảng, Việt Nam đề cập đến “toàn cầu hóa kinh tế”. Khi
đó, Báo cáo chính trị Đại hội IX nhận định: “Toàn cầu hóa kinh tế là một xu thế khách quan,
lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia; xu thế này đang bị một số nước phát triển và các tập
đoàn kinh tế tư bản xuyên quốc gia chi phối, chứa đựng nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực
vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác vừa có đấu tranh”(1). Qua hai nhiệm kỳ Đại hội IX và
Đại hội X của Đảng, Việt Nam nhấn mạnh tới “toàn cầu hóa kinh tế”. Đến Đại hội XI của
Đảng (năm 2011), Việt Nam chuyển từ nhận thức về “toàn cầu hóa kinh tế” sang nhận thức về
“toàn cầu hóa”. Báo cáo chính trị Đại hội XI nhận định: “Toàn cầu hóa và cách mạng khoa
học - công nghệ phát triển mạnh mẽ, thúc đẩy quá trình hình thành xã hội thông tin và kinh tế
tri thức”(2). Đại hội XII của Đảng (năm 2016) tiếp tục khẳng định: “Toàn cầu hóa, hội nhập
quốc tế, cách mạng khoa học - công nghệ, kinh tế tri thức tiếp tục được đẩy mạnh”(3). Báo
cáo chính trị Đại hội XIII của Đảng (năm 2021) nhấn mạnh: “Toàn cầu hóa và hội nhập quốc
tế tiếp tục tiến triển nhưng đang phải đối mặt với sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc...”(4).

Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc dự phiên thảo luận thứ hai
Hội nghị thượng đỉnh Nhóm các nền kinh tế phát triển và mới nổi hàng đầu thế giới (G20) với
chủ đề: “Xây dựng tương lai bền vững, bao trùm và có sức chống chịu” bằng hình thức trực
tuyến, ngày 22-11-2020_Ảnh: TTXVN)

Cùng với nhận thức về toàn cầu hóa, Việt Nam từng bước tiến hành hội nhập quốc tế. Đại hội
IX của Đảng đã đề ra chủ trương: “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh
thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và
định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa
dân tộc, bảo vệ môi trường”(5). Đại hội X của Đảng (năm 2006) tiến thêm một bước trong
nhận thức và hành động hội nhập quốc tế; đề ra chủ trương: “Chủ động và tích cực hội nhập
kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác. Việt Nam là bạn,
đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác
quốc tế và khu vực”(6). Đến Đại hội XI của Đảng, Việt Nam nhấn mạnh đến hội nhập quốc
tế: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển;
đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác
tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì
một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh”(7).
2

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển
năm 2011) đã xác định 8 phương hướng cơ bản của cách mạng Việt Nam, trong đó phương
hướng thứ năm là: “Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp
tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”(8). Cương lĩnh đặt ra yêu cầu: “Thực
hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương
hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế của đất
nước; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh; là bạn,
đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp
hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”(9). Ngày 10-4-2013, Bộ
Chính trị (khóa XI) đã ban hành Nghị quyết số 22-NQ/TW “Về hội nhập quốc tế”. Một trong
những nhiệm vụ tổng quát mà Đại hội XII của Đảng đề ra là: “Thực hiện đường lối đối ngoại
độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; giữ vững
môi trường hòa bình, ổn định, tạo điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc; nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới”(10). Đại hội XII đề
ra chủ trương: “Nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện đầy đủ các cam kết
quốc tế, xây dựng và triển khai chiến lược tham gia các khu vực mậu dịch tự do với các đối
tác kinh tế, thương mại quan trọng, ký kết và thực hiện hiệu quả các hiệp định thương mại tự
do thế hệ mới trong một kế hoạch tổng thể với lộ trình hợp lý, phù hợp với lợi ích của đất
nước… Đẩy mạnh hội nhập quốc tế trong lĩnh vực văn hóa, xã hội, khoa học - công nghệ,
giáo dục - đào tạo và các lĩnh vực khác”(11). Báo cáo chính trị Đại hội XIII của Đảng đưa ra
định hướng lớn bao quát những vấn đề phát triển quan trọng của đất nước trong giai đoạn 10
năm tới, trong đó “tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa
dạng hóa, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, có hiệu quả; bảo vệ vững
chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, không ngừng nâng cao vị thế, uy tín
quốc tế của Việt Nam. Đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ kinh tế quốc tế, tránh lệ thuộc
vào một thị trường, một đối tác. Nâng cao khả năng chống chịu của nền kinh tế trước tác động
tiêu cực từ những biến động của bên ngoài; chủ động hoàn thiện hệ thống phòng vệ để bảo vệ
nền kinh tế, doanh nghiệp, thị trường trong nước phù hợp với các cam kết quốc tế. Thực hiện
nhiều hình thức hội nhập kinh tế quốc tế với các lộ trình linh hoạt, phù hợp với điều kiện, mục
tiêu của đất nước trong từng giai đoạn”(12).

Như vậy, từ Đại hội IX của Đảng đến nay, quan điểm của Đảng về “toàn cầu hóa” và “hội
nhập quốc tế” ngày càng đầy đủ và đóng vai trò hết sức quan trọng đối với việc hoạch định
đường lối, chủ trương, chính sách phát triển đất nước. Từ nhận thức về “quốc tế hóa” đã phát
triển thành nhận thức về “toàn cầu hóa kinh tế” và đi đến nhận thức về “toàn cầu hóa”. Trên
cơ sở thực tiễn về “toàn cầu hóa”, Đảng và Nhà nước ta đưa ra chủ trương “chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế và khu vực”, “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở
rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác” và ngày nay là chủ trương “chủ động và tích cực
hội nhập quốc tế”, “nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế”, “đẩy mạnh hội nhập quốc tế
3

trong lĩnh vực văn hóa, xã hội, khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo và các lĩnh vực
khác”.

Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân gửi thông điệp tới phiên họp
cấp cao kỷ niệm 25 năm Hội nghị Thế giới về Phụ nữ lần thứ IV với chủ đề: “Thúc đẩy bình
đẳng giới và trao quyền cho tất cả phụ nữ và trẻ em gái”(trong khuôn khổ Tuần lễ cấp cao của
Đại hội đồng Liên hợp quốc Khóa 75), ngày 10-1-2020_Ảnh: TTXVN

… đến bối cảnh mới của “toàn cầu hóa” hiện nay

Những năm gần đây, ở Việt Nam, cũng như trên thế giới, có ý kiến cho rằng, “toàn cầu hóa”
đang chững lại; thậm chí có ý kiến đề cập đến “phi toàn cầu hóa”. Luồng ý kiến này nhấn
mạnh đến xu hướng gia tăng hoạt động bảo hộ ở nhiều nước trên thế giới, đến cuộc chiến
thương mại Mỹ - Trung Quốc và những tranh chấp về thương mại giữa các trung tâm kinh tế
lớn của thế giới, đến việc Mỹ đe dọa rút và đã rút khỏi một vài định chế quốc tế... Do vậy, câu
hỏi đặt ra hiện nay là phải chăng toàn cầu hóa đang chững lại? Việc trả lời câu hỏi này là một
trong những cơ sở căn bản để Đại hội XIII của Đảng hoạch định đường lối phát triển đất nước
trong những năm tiếp theo.

Xét về bản chất, “toàn cầu hóa” là quá trình hình thành nên “cái toàn cầu”, phân biệt với “cái
khu vực” (chỉ liên quan đến những khu vực địa - kinh tế - chính trị nhất định trên thế giới),
“cái phe, khối” (chỉ liên quan đến các tập hợp lực lượng trên thế giới), “cái quốc gia - dân
tộc” (chỉ liên quan đến từng đất nước). Xã hội loài người ngày nay, với nền kinh tế thế giới,
nền chính trị thế giới và nền văn minh nhân loại, cho thấy toàn cầu hóa đã tiến rất xa và sâu
rộng; đồng thời, khẳng định “toàn cầu hóa” thực sự là một xu thế khách quan, không thể đảo
ngược. Điều rõ ràng là, dù còn rất nhiều hạn chế, khiếm khuyết hay khuyết tật... trong cả ba
hệ thống lớn nói trên, nhưng nhu cầu phát triển nội tại, tự thân của xã hội loài người chính là
gốc rễ quy định xu thế toàn cầu hóa. Điều đáng chú ý là tiến trình toàn cầu hóa không diễn ra
một cách tuyến tính, mà có những bước nhảy vọt, gắn với các cuộc cách mạng trong lực
lượng sản xuất xã hội loài người. Có thể khẳng định rằng, trong thời gian tới, khi cuộc Cách
mạng công nghiệp lần thứ tư (Cách mạng công nghiệp 4.0) bùng nổ, nhất định sẽ có bước
nhảy vọt mới trong tiến trình toàn cầu hóa, toàn cầu hóa hoàn toàn không chững lại.

Sự gia tăng các hoạt động bảo hộ trong những năm gần đây không đồng nghĩa với việc chia
cắt thị trường thế giới thành những thị trường quốc gia hay phe, khối biệt lập, không làm đứt
đoạn các dòng đầu tư xuyên quốc gia, không làm mất đi các vấn đề toàn cầu nảy sinh trong
quá trình phát triển kinh tế thế giới mà việc giải quyết chúng đòi hỏi phải tăng cường hợp tác
và những nỗ lực chung của cộng đồng quốc tế. Có chăng, chủ nghĩa bảo hộ chỉ đặt ra những
“trở ngại” mới về thuế quan và phi thuế quan cho lưu thông hàng hóa, dịch vụ và đầu tư, mà
những trở ngại này luôn tồn tại trong tiến trình toàn cầu hóa. Những số liệu thống kê của thế
giới về thương mại và đầu tư cho thấy rất rõ rằng, bất chấp sự gia tăng của các hoạt động bảo
hộ trong những năm gần đây, thương mại thế giới và đầu tư quốc tế vẫn tăng lên.
4

Việc hình thành “cái toàn cầu” trong quá trình toàn cầu hóa kéo theo việc ra đời các định chế
toàn cầu, như Liên hợp quốc và các tổ chức thuộc Liên hợp quốc, Tổ chức Thương mại thế
giới (WTO), Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF)... Các định chế này không
phải là “nhất thành, bất biến”, cơ chế hoạt động của chúng phải luôn cần đổi mới, cập nhật
cho phù hợp với từng giai đoạn phát triển của “cái toàn cầu”. Đây là sự thích nghi, bảo đảm
sức sống, nâng cao tính hiệu quả của các định chế quốc tế, chứ không phải và càng không thể
ngăn cản tiến trình toàn cầu hóa. Bước phát triển mới của toàn cầu hóa gắn với sự bùng nổ
của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 tất yếu kéo theo những đổi mới, cải tổ, cải cách các định
chế toàn cầu hiện có và có thể ra đời những định chế quản trị toàn cầu mới.

Yêu cầu đặt ra đối với quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam hiện nay

Đại sứ Đặng Đình Quý, Trưởng phái đoàn Thường trực Việt Nam tại Liên hợp quốc chủ trì
phiên thảo luận về quan hệ hợp tác giữa Liên hợp quốc và ASEAN trong duy trì hòa bình và
an ninh quốc tế, tháng 1-2020_Nguồn: UN

Có thể hiểu quá trình hội nhập quốc tế của một đất nước (quốc gia) là sự tham gia vào hệ
thống thế giới và trở thành một bộ phận cấu thành của chỉnh thể thế giới, trước hết là bộ phận
cấu thành của “nền kinh tế thế giới”, “nền chính trị thế giới” và “nền văn minh nhân loại”. Sự
tham gia ở đây là thông qua các hoạt động tương tác (hợp tác, cạnh tranh và đấu tranh...) với
các bộ phận cấu thành khác nhau trong “hệ thống”, bao gồm cả việc gia nhập hay rút khỏi các
“phân hệ” khác nhau trong hệ thống. Tất cả các hoạt động này đều là hoạt động có chủ đích,
nhằm: 1- Phát triển quốc gia; 2- Khẳng định bản sắc quốc gia; 3- Giành vị thế xứng đáng cho
quốc gia trong hệ thống; 4- Tham gia hoàn thiện và phát triển hệ thống...

Cần loại bỏ lối suy nghĩ giản đơn nhưng cũng khá phổ biến hiện nay ở Việt Nam, rằng “hội
nhập quốc tế” là hình thức phát triển cao của “hợp tác quốc tế”. Vấn đề là ở chỗ “hợp tác quốc
tế” và “hội nhập quốc tế” là thuộc các lớp khái niệm khác nhau. Hợp tác quốc tế chỉ là một
trong nhiều phương thức tương tác giữa các nước với nhau; bên cạnh hợp tác quốc tế còn có
cạnh tranh, đấu tranh, liên minh, liên kết, đối đầu, chiến tranh... Điểm cơ bản là ở chỗ, khác
với khái niệm “hội nhập quốc tế”, khái niệm “hợp tác quốc tế” không đề cập tới việc cấu
thành hệ thống chỉnh thể thế giới.

Để đánh giá thực trạng hội nhập quốc tế của một quốc gia, cần lấy phạm vi, mức độ tham gia
và vị thế của quốc gia đó trong các mặt đời sống của cộng đồng quốc tế, trong các hệ thống
thế giới làm tiêu chí:

Về chiều “rộng - hẹp”, có ba cấp độ hội nhập: Một là, hội nhập hẹp, khi quốc gia hội nhập chỉ
tham gia một vài lĩnh vực trong đời sống cộng đồng quốc tế; hai là, hội nhập tương đối rộng,
khi quốc gia hội nhập tham gia phần lớn các lĩnh vực trong đời sống cộng đồng quốc tế; ba là,
5

hội nhập rộng, khi quốc gia hội nhập tham gia tất cả các lĩnh vực trong đời sống cộng đồng
quốc tế.

Về chiều “nông - sâu”, cũng có ba cấp độ hội nhập: Một là, hội nhập nông, khi quốc gia hội
nhập hầu như không có vị trí, vai trò trong cộng đồng quốc tế; hai là, hội nhập tương đối sâu,
khi quốc gia hội nhập có vị trí, vai trò nhất định trong cộng đồng quốc tế; ba là, hội nhập sâu,
khi quốc gia hội nhập có vị trí, vai trò đáng kể trong cộng đồng quốc tế. Nói theo ngôn ngữ
của lý thuyết hệ thống, hội nhập sâu là trường hợp quốc gia hội nhập với tư cách là một bộ
phận cấu thành hệ thống, có ảnh hưởng đáng kể đến việc hình thành và phát triển “tính trồi”
(emergent) của cả hệ thống; còn hội nhập nông là trường hợp quốc gia hội nhập hầu như
không có ảnh hưởng đến việc hình thành và phát triển “tính trồi” của cả hệ thống.

Với cách tiếp cận trên, có thể thấy, sau hai thập niên chủ động và tích cực hội nhập quốc tế từ
Đại hội IX của Đảng đến nay, Việt Nam từng bước tham gia tất cả các lĩnh vực của đời sống
chính trị - xã hội quốc tế; trở thành thành viên có trách nhiệm, có vị trí, vai trò và ảnh hưởng
nhất định trong cộng đồng quốc tế, cả về kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội... Điều đó có
nghĩa là Việt Nam tích cực hội nhập vào chỉnh thể thế giới. Do vậy, để phát triển đất nước
trong bối cảnh mới của “toàn cầu hóa” và giai đoạn mới của “hội nhập quốc tế”, cần quan tâm
một số vấn đề lớn sau:

Thứ nhất, nhận thức đúng về “toàn cầu hóa” và “hội nhập quốc tế” để làm cơ sở cho việc
hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách phát triển đất nước, kết hợp sức mạnh dân tộc
với sức mạnh thời đại. Đặc biệt, cần thấy rõ bước phát triển mới của toàn cầu hóa trong những
năm tới khi cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 bùng nổ; từ đó, tính toán sách lược, chiến lược
trong tiến trình chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.

Thứ hai, Việt Nam hiện tham gia các mặt đời sống chính trị - xã hội quốc tế, tức là đã hội
nhập rộng vào chỉnh thể thế giới, nhưng mới chỉ dừng ở mức độ hội nhập tương đối sâu với vị
trí, vai trò nhất định trong một số lĩnh vực. Tiến trình chủ động và tích cực hội nhập quốc tế
của Việt Nam đã đưa Việt Nam trở thành bộ phận cấu thành của chỉnh thể thế giới. Tới đây,
cần xác định việc giành lấy vị trí, vai trò ngày càng đáng kể trong nền kinh tế thế giới, nền
chính trị thế giới và nền văn minh nhân loại là nội dung chủ yếu của tiến trình chủ động và
tích cực hội nhập quốc tế của Việt Nam.

Về kinh tế, cần phấn đấu giành chỗ đứng trong các chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu; ưu
tiên thúc đẩy phát triển nhanh các ngành kinh tế số và công nghiệp 4.0. Cơ hội đang mở ra
cho Việt Nam ở thời hậu dịch bệnh COVID-19, không được bỏ lỡ. Muốn thế, cần ưu tiên phát
triển các mạng kết nối Việt Nam với thế giới, cả “kết nối cứng” và “kết nối mềm”.

Về chính trị, tiếp tục nâng cao vị thế của Việt Nam trong quan hệ với các nước lớn, nhất là
các nước Ủy viên Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, trong ASEAN. Chủ động
tham gia xử lý các vấn đề quốc tế và khu vực. Thể hiện vai trò của Việt Nam “là bạn, đối tác
6

tin cậy, thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hòa bình,
độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”.

\Về văn hóa - xã hội, cần đẩy mạnh quảng bá lịch sử, văn hóa, ngôn ngữ Việt Nam với thế
giới; bảo tồn và phát huy giá trị của các di sản thiên nhiên, công viên địa chất, công viên sinh
thái, di sản văn hóa thế giới, cả vật thể lẫn phi vật thể; khẳng định các giá trị xã hội và truyền
thống tốt đẹp của Việt Nam, bản sắc Việt Nam; tích cực tham gia sáng tạo các sản phẩm văn
hóa, nghệ thuật, khoa học... có tầm ảnh hưởng quốc tế; tham gia xử lý các vấn đề nhân đạo
trên trường quốc tế; tham gia đấu tranh với các hiện tượng, hoạt động phi văn hóa, phản văn
hóa, chống lại nhân loại... Cần đặc biệt quan tâm việc nhân thêm và phát huy “sức mạnh
mềm” của đất nước, cạnh tranh về “sức mạnh mềm” trên trường quốc tế. Trong bối cảnh cuộc
Cách mạng công nghiệp 4.0, các phương tiện truyền thông xã hội ngày càng có vai trò lớn
trong quảng bá văn hóa và cả trong “xâm lăng” văn hóa, lan tỏa các giá trị xã hội và cả làm
xói mòn các giá trị xã hội, phát huy “sức mạnh mềm” và cả hạn chế “sức mạnh mềm” của các
quốc gia, phát triển ổn định xã hội và cả gây bất ổn xã hội... Phương tiện truyền thông xã hội
trở thành một hiện tượng văn hóa, một kênh thông tin, một công cụ quản trị. Bên cạnh việc
tăng cường quản lý nhà nước đối với các phương tiện truyền thông xã hội, một số nước chủ
động sử dụng và phát huy vai trò kênh thông tin, công cụ quản trị của các phương tiện truyền
thông này. Việt Nam cần có cách tiếp cận mới đối với các phương tiện truyền thông xã hội,
không chỉ dừng ở chỗ coi chúng là đối tượng quản lý.

Thứ ba, khi triển khai các hoạt động hội nhập quốc tế, luôn nảy sinh những vấn đề cần xử lý
về mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế. Đơn cử như,
trong tiến trình hội nhập quốc tế, cần luôn điều chỉnh, sửa đổi hệ thống pháp luật trong nước,
tuy nhiên, phải có lộ trình, bước đi cẩn trọng, để vừa củng cố độc lập, tự chủ, vừa hội nhập
quốc tế thành công. Hay là vấn đề đối phó với nguy cơ lệ thuộc vào thị trường bên ngoài, lệ
thuộc kinh tế dẫn đến lệ thuộc về chính trị...; hoặc vấn đề phải đối phó với sự xâm lăng văn
hóa, xử lý hiện tượng giao thoa văn hóa trong hội nhập quốc tế, những mâu thuẫn trong xây
dựng con người Việt Nam dưới tác động của trào lưu hình thành công dân toàn cầu, sự xâm
nhập của các giá trị xã hội không phù hợp đối với nước ta...

Thứ tư, Việt Nam cần chủ động và tích cực tham gia vào việc đổi mới, cải tổ, cải cách hay
thiết lập các định chế toàn cầu và khu vực; đóng góp nhiều hơn vào xây dựng “luật chơi”, coi
đây là lợi ích quan trọng của quốc gia.

Thứ năm, trong quá trình hội nhập quốc tế, luôn nảy sinh ngày càng nhiều những tranh chấp.
Ngoài những cơ chế quốc tế phổ biến, thế giới còn có những cơ chế giải quyết tranh chấp
quốc tế mang tính khu biệt, chuyên ngành mà ta chưa có nhiều kinh nghiệm. Do đó, vấn đề
cấp bách trong quá trình hội nhập là nâng cao năng lực phòng, chống, xử lý, giải quyết những
tranh chấp quốc tế, gắn với đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chuyên sâu về các lĩnh vực này./.
7

Vấn nạn ô nhiễm môi trường, khủng hoảng sinh thái và sự cần thiết phải xây dựng tư
duy văn minh sinh thái

TCCS - Hiện nay, vấn nạn ô nhiễm môi trường sống, sự đe dọa của cuộc khủng hoảng sinh
thái toàn cầu đã và đang đặt ra cho nhân loại nhiệm vụ hết sức cấp bách, đó là cần phải thay
đổi tư duy cũng như thái độ, hành vi, nhất là thay đổi những hành động cụ thể trong việc ứng
xử với giới tự nhiên. Có như vậy, con người mới có thể ngăn chặn được cuộc khủng hoảng
môi trường toàn cầu và từ đó hình thành được văn minh sinh thái.

1- Trong suốt quá trình xuất hiện, tồn tại và phát triển, con người luôn gắn kết chặt chẽ với
môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Chừng nào còn tồn tại thì con người không thể
sống ở đâu khác ngoài môi trường tự nhiên, trong lòng giới tự nhiên và cũng không thể sống
ngoài môi trường xã hội. Về điều này, nhà triết học Hy Lạp thời cổ đại A-ri-xtốt (384 - 322
TCN) đã từng viết rằng: “con người là một động vật mà do bản tính tự nhiên phải sống trong
một nhà nước (con người là một động vật chính trị)”(1). Trong “Bản thảo kinh tế - triết học
năm 1844”, C. Mác viết rằng, “giới tự nhiên... là thân thể vô cơ của con người. Con người
sống bằng giới tự nhiên. Như thế nghĩa là giới tự nhiên là thân thể của con người... Con người
là một bộ phận của giới tự nhiên”(2). Năm 1876, Ph. Ăng-ghen cũng khẳng định: “Chúng ta
hoàn toàn không thống trị được giới tự nhiên như một kẻ xâm lược thống trị một dân tộc
khác, như một người sống bên ngoài giới tự nhiên, mà trái lại, bản thân chúng ta, với tất cả
xương thịt, máu mủ và đầu óc chúng ta, là thuộc về giới tự nhiên, chúng ta nằm trong lòng
giới tự nhiên”(3).

Như vậy, sự ra đời, tồn tại, phát triển của con người và xã hội loài người gắn chặt với môi
trường tự nhiên. Chính giới tự nhiên cung cấp các vật dụng cần thiết, tức là dòng vật chất và
dòng năng lượng, để nuôi sống con người.

Từ nửa sau thế kỷ XIX, thuật ngữ “environment” (môi trường) mới thật sự được sử dụng
trong khoa học. Nó được rút ra từ những thuật ngữ đã có từ trước đó như “environ” (vùng
ngoại vi) và “environing” (vây quanh). Trong đó, cuốn sách của nhà sinh học người Mỹ, Ra-
chen Ca-xơn (Rachel Carson), có tên “Silent Spring” (“Mùa xuân yên tĩnh” hay “Mùa xuân
vắng lặng”) xuất bản năm 1962, được coi là cột mốc đánh dấu mối quan tâm thật sự đến vấn
đề môi trường sống của con người. Đây là lần đầu tiên một nhà khoa học đã lên tiếng cảnh
báo về hậu quả tiêu cực, về mối hiểm nguy của việc sử dụng thuốc trừ sâu bừa bãi trong sản
xuất nông nghiệp(4).

Từ giữa những năm 60 của thế kỷ XX, các thành viên của Câu lạc bộ Roma đã có những báo
cáo cảnh báo nghiêm túc về nạn ô nhiễm môi trường sống; về mối đe dọa từ sự nóng lên của
toàn cầu; về tình trạng thiếu nước ngọt cho các ngành sản xuất nông nghiệp và công nghiệp
cũng như cho mọi sinh hoạt thường ngày của con người; về nguy cơ nạn đói đe dọa ở nhiều
nơi trên thế giới,... Đỉnh điểm về những mối đe dọa này được trình bày khá sâu và có đầy đủ
căn cứ trong một báo cáo khoa học của Câu lạc bộ Roma mang tên “Giới hạn để tăng trưởng”
8

(Limits to Growth)(5). Mặc dù có một vài điều cần phải thảo luận, song báo cáo này đã chỉ rõ
tất cả những mối nguy hiểm về môi trường do sự can thiệp của chính con người và chỉ có thể
được khắc phục thông qua sự thay đổi thái độ và hành vi của con người với tự nhiên. Đây là
luận điểm hết sức quan trọng mang tính gợi mở về cách thức hữu hiệu duy nhất để từng bước
hạn chế và tiến tới khắc phục tình trạng hủy hoại sinh thái, phá hoại môi trường sống của con
người. Báo cáo “Giới hạn để tăng trưởng” cũng chỉ rõ, chính việc khai thác và sử dụng tài
nguyên không hợp lý, thiếu khoa học, vì mục đích chạy theo lợi nhuận trước mắt của con
người mà môi trường tự nhiên bị tàn phá nặng nề, hệ sinh thái ở nhiều nơi bị hủy hoại rất
nghiêm trọng. Về điều này, năm 1868, C. Mác đã từng cảnh báo: “nếu canh tác được tiến
hành một cách tự phát mà không được hướng dẫn một cách có ý thức... thì sẽ để lại sau nó đất
hoang”(6). Tất cả những cảnh báo đó của các nhà khoa học thuộc nhiều trường phái khác
nhau về nguy cơ môi trường tự nhiên bị tàn phá, bị ô nhiễm, hệ sinh thái bị suy thoái đã và
đang trở thành sự thật, thành vấn nạn trong thời đại chúng ta.

Ở nước ta, nạn phá rừng đầu nguồn, rừng phòng hộ để xây dựng các nhà máy thủy điện ở một
số nơi nhưng không tính đến điều kiện tự nhiên cùng với nạn chặt phá, đốt rừng để lấy đất
canh tác, nạn khai thác trộm gỗ quý ở các cánh rừng nguyên sinh gây nên tình trạng lụt lội, lũ
ống, lũ quét, sạt lở đất đá thời gian qua đã và đang hủy hoại nơi sinh sống của các loài sinh
vật và đe dọa nghiêm trọng sự sống của cả con người. Theo Tổng cục Lâm nghiệp, trong năm
2017 và năm 2018, toàn khu vực Tây Nguyên đã xảy ra hơn 1.800 vụ phá rừng trái phép;
trong đó có trên 1.200 vụ phá rừng để chiếm đất làm nương rẫy, gây thiệt hại hơn 700ha rừng
các loại. Riêng trong 4 tháng đầu năm 2019, cơ quan chức năng các tỉnh Tây Nguyên đã phát
hiện gần 200 vụ phá rừng với mục đích lấn chiếm làm đất rừng để sản xuất(7). Rừng nguyên
sinh của đại ngàn Trường Sơn, rừng tại các Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng, Vườn quốc
gia Tam Đảo,... cũng nằm trong tình trạng bị chặt phá nặng nề. Cùng với các vụ phá rừng, cả
nước cũng đã xảy ra hàng chục vụ cháy thiêu hủy hàng trăm héc-ta cả rừng trồng và rừng
nguyên sinh. Tuy nhiên, có thể thấy, nạn ô nhiễm môi trường trên thế giới và ở nước ta chủ
yếu do các ngành sản xuất, nhất là do sản xuất công nghiệp, gây ra. Đó là các dạng ô nhiễm
đất, nước, không khí do các loại chất thải mà nhiều loại trong số đó bằng mắt thường con
người không thể nhìn thấy được. Tình trạng ô nhiễm môi trường đang làm gia tăng và phát tán
nhanh chóng các loại bệnh tật bệnh quái ác, thậm chí dẫn tới những đại dịch đe dọa sự sống
của con người.

2- Vấn nạn ô nhiễm môi trường đang báo hiệu một cuộc khủng hoảng sinh thái toàn cầu ngày
càng gần hơn, với tốc độ nhanh hơn và nguy hiểm hơn đối với con người và mọi sinh vật đang
sinh sống trên trái đất. Khủng hoảng sinh thái toàn cầu được hiểu là khủng hoảng trong mối
quan hệ giữa các sinh vật, trong đó có con người với môi trường trên phạm vi toàn cầu.

Trong công trình “21 bài học cho thế kỷ XXI”, Y.N. Ha-ra-ri (Yoval Noah Harari) nhận định:
“Trong quá khứ, chúng ta đạt được quyền năng kiểm soát thế giới xung quanh và tái định hình
cả hành tinh này; nhưng chúng ta không hiểu sự phức tạp của hệ sinh thái toàn cầu nên những
9

thay đổi [do] chúng ta tạo ra đã vô tình làm gián đoạn toàn bộ hệ sinh thái và giờ ta đang đối
mặt với một cuộc sụp đổ sinh thái”(8).

Có thể thấy, cùng với thời gian, càng ngày càng cần phải thẳng thắn thừa nhận rằng, đến nay,
con người vẫn đang cố gắng điều khiển thế giới tự nhiên một cách chủ quan, duy ý chí theo
ước muốn và tham vọng ích kỷ của mình nhiều hơn là tìm hiểu tự nhiên một cách tường tận
và khoa học. Do lối tư duy chủ quan mà con người đã vô tình làm gián đoạn, phân mảnh toàn
bộ hệ sinh thái vốn gắn bó hữu cơ và phụ thuộc lẫn nhau nên bây giờ phải đối mặt với nguy
cơ của một cuộc sụp đổ sinh thái.

Thật ra, trước Y.N. Ha-ra-ri nửa thế kỷ, câu lạc bộ Roma đã dự báo về nguy cơ ô nhiễm môi
trường và khủng hoảng sinh thái. Năm 2006, Phrít-men (T. L.Friedman) đã cho rằng: “thế
giới đang ngày càng nóng bức, bằng phẳng, và chật chội hơn... hành tinh này có thể rơi vào
trạng thái bất ổn đầy nguy hiểm”(9). Đó là do từ khi bắt đầu cuộc cách mạng công nghiệp cho
đến nay, con người đã san phẳng các dải rừng nguyên sinh để lấy đất xây dựng nhà máy. Các
ngành công nghiệp đã sử dụng một lượng rất lớn các loại nhiên liệu hóa thạch, như than đá,
dầu mỏ, khí tự nhiên, bởi cho rằng chúng là vô tận, không bao giờ cạn kiệt. Song, chính việc
“hạ sát” rừng nguyên sinh, việc sử dụng số lượng lớn các nhiên liệu hóa thạch không chỉ thải
ra quá nhiều CO2 cùng các chất gây ô nhiễm không khí và các chất gây ô nhiễm khác, mà còn
dẫn đến sự cạn kiệt nhanh chóng các nguồn tài nguyên này. Các ngành công nghiệp, như nhiệt
điện, luyện kim, dệt, nhuộm, điện tử, chế biến nhựa,... ở nhiều nước, nhất là ở các nước đang
phát triển vận hành với công nghệ lạc hậu, còn thải ra môi trường những loại hóa chất và rác
thải chưa được xử lý cực kỳ nguy hại đã làm ô nhiễm trầm trọng đất đai, các nguồn nước, bầu
khí quyển và cả đại dương.

Cùng với quá trình đô thị hóa, các ngành công nghiệp thải ra một lượng lớn CO2 và rất nhiều
chất gây ô nhiễm khác. Việc các khu rừng tự nhiên sau một thời gian nắng nóng kéo dài dễ bị
cháy do sét gây ra, hoặc do con người đốt để lấy đất làm nương rẫy, thì lượng CO2 thoát ra
“còn lớn hơn lượng phát thải của toàn bộ các phương tiện giao thông trên thế giới cộng lại,
bao gồm ô tô con, xe tải, máy bay, tàu hỏa và tàu thủy”(10). Đặc biệt là nạn phá rừng lấy gỗ,
đốt than đã làm cho tình trạng biến đổi khí hậu ngày càng trở nên trầm trọng hơn. Nhiệt độ
trái đất tăng lên đã làm cho nhiều vùng trên trái đất trở nên khô hạn hơn. Bên cạnh đó, việc
băng tan nhanh ở Grin-len (Greenland) dẫn đến nước biển dâng cao đang làm cho khí hậu,
thời tiết ngày càng trở nên vô cùng khó đoán định.

Một nguyên nhân gây ô nhiễm nghiêm trọng khác và có ảnh hưởng rất lâu dài qua nhiều thế
hệ là các cuộc chiến tranh và các vụ thử nhiều loại vũ khí ở nhiều khu vực trên thế giới, nhất
là vũ khí hóa học, vũ khí vi trùng, vũ khí nguyên tử. Đó là những loại vũ khí không chỉ gây
chết người, mà còn tiêu diệt tất cả sự sống ở những nơi chúng được dùng. Đây là loại tội ác đã
được thế giới gọi là “ecocide”, tức là “sự phá hủy hệ sinh thái, nhân loại và sự sống”(11).
10

Tất cả những sự thay đổi đó đang hủy hoại dần các hệ sinh thái tự nhiên và nhất là sự đa dạng
sinh học. Đa dạng sinh học được hiểu là “tổng thể sự sống trên trái đất, tất cả các thành phần
trong quần xã sinh vật và hệ sinh thái mặt đất, đại dương và nước ngọt, và mọi loài - cây cối,
động vật, nấm và các vi sinh vật - sống trong các hệ sinh thái đó, bao gồm cả hành vi của
chúng, mối tương tác giữa chúng và chu trình sinh thái. Đa dạng sinh học có quan hệ trực tiếp
với những yếu tố phi sinh vật trên trái đất - gồm hệ thống khí quyển, đại dương, nước ngọt,
thành phần địa chất và đất đai - qua đó tạo nên một hệ thống vĩ đại, phụ thuộc lẫn nhau, đó là
sinh quyển”(12). Chính các hệ sinh thái tự nhiên và sự đa dạng sinh học có vai trò hết sức
quan trọng mà nhiều khi con người không thấy hết, hoặc không biết rõ tác dụng của chúng.
Sự đa dạng sinh học mất đi biểu hiện đứt đoạn nguy hiểm chu trình sinh học của các loài sống
trên trái đất. Chính những hành động thiếu ý thức, vô trách nhiệm, thiếu kiến thức và lòng
tham của con người là những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến cuộc khủng hoảng sinh thái trên
quy mô toàn cầu.

3- Với tư cách một loài sinh vật, con người không thể đi ngược lại hoặc làm trái các quy luật
của tự nhiên. Bởi vậy, con người cần chủ động thích ứng với tự nhiên bằng những hành động
thiết thực, mà trước hết là cần hình thành tư duy khoa học về văn minh sinh thái cùng một
chương trình hành động thật sự hữu ích để tránh các thảm họa sinh thái.

Suốt hơn nửa thế kỷ qua, các nhà khoa học thế giới đã cảnh báo bằng những công trình nghiên
cứu về nhiệm vụ bảo vệ môi trường sống, cả môi trường tự nhiên lẫn môi trường xã hội, và về
nguy cơ khủng hoảng sinh thái trên phạm vi toàn cầu. Nhiều tổ chức bảo vệ môi trường đã
được thành lập ở nhiều nơi, cả trên phạm vi khu vực lẫn quốc tế, với sứ mệnh góp phần ngăn
chặn khủng hoảng sinh thái xảy ra. Giờ đây, cấp bách hơn lúc nào hết, ô nhiễm môi trường
nặng nề, sự mất cân bằng sinh thái nghiêm trọng đã và đang đòi hỏi mỗi cá nhân cũng như
toàn nhân loại nhìn nhận lại thực trạng văn hóa sinh thái và cần hình thành tư duy sinh thái
mới, từ đó xây dựng văn minh sinh thái, để con người có cuộc sống hài hòa với thiên nhiên,
hướng tới sự phát triển bền vững.

Trước hết, để hình thành văn minh sinh thái thì đòi hỏi mỗi người phải có tư duy về văn minh
sinh thái; cụ thể là nhận thức về sự gắn bó chặt chẽ giữa con người với tự nhiên. Con người
cũng phải luôn nhớ rằng, mọi hiện tượng và mọi quá trình diễn ra trong tự nhiên đều có ảnh
hưởng lẫn nhau và tác động qua lại với nhau. Việc con người khai thác thiên nhiên cũng
không nằm ngoài quy luật này. Bởi vì, “cứ mỗi lần ta đạt được một thắng lợi, là mỗi lần giới
tự nhiên trả thù lại chúng ta... hay phá hủy tất cả những kết quả đầu tiên đó”(13). Cho nên,
cùng với sự thay đổi tư duy thì đòi hỏi con người còn phải có những sự thay đổi về thái độ và
hành vi cụ thể trong ứng xử với giới tự nhiên. Sự thay đổi từ tư duy đến thái độ và hành động
trong cách ứng xử với giới tự nhiên là hết sức quan trọng.

Tuy nhiên, để có văn minh sinh thái thì sự thay đổi tư duy và thái độ cư xử của con người với
giới tự nhiên tuy là quan trọng, nhưng chắc chắn là chưa đủ. Những thay đổi trong tư duy và
11

trong thái độ nhất định phải dẫn tới sự thay đổi hành vi và hành động thực tế, trong đó hành
động thực tế đầu tiên mà con người cần làm là thay đổi thói quen và quan niệm tiêu dùng dựa
trên sự “hạ sát” tự nhiên để có các sản phẩm “độc”, “lạ” và quý giá từ tự nhiên (chẳng hạn,
thói quen sử dụng các sản phẩm từ động vật hoang dã...). Những thói quen đó đã dẫn tới sự
tuyệt chủng của không ít loài động vật quý hiếm trên thế giới. Sự biến mất của chúng đã làm
đứt đoạn, thậm chí đã phá vỡ chu trình sinh học các loài sinh vật trên trái đất. Vì thế, các nhà
khoa học thế giới đã phải xếp một số loài động vật vào sách đỏ để cảnh báo về nguy cơ cuộc
khủng hoảng sinh thái trên quy mô toàn cầu.

Đặc biệt, văn minh sinh thái đòi hỏi tất cả các quốc gia phải thay đổi tư duy trong phát triển
kinh tế, hết sức tránh việc chạy theo lợi nhuận đơn thuần mà hy sinh, hay đánh đổi bằng các
giá trị môi trường. Cụ thể nhất là phải thay đổi cách thức tăng trưởng kinh tế chủ yếu chỉ dựa
vào sự khai thác và sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên không tái tạo, nhưng lại làm
phát sinh ra nhiều chất thải có hại và cực độc. Các ngành, nghề và tất cả mọi người trong xã
hội cần có cách thức thiết kế, vận hành và tiêu dùng hiệu quả để giảm mức tiêu thụ năng
lượng, nhằm giảm thiểu những chất thải đe dọa cuộc sống của con người và muôn loài. Văn
minh sinh thái đòi hỏi mỗi quốc gia phải “giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa phát triển kinh
tế với bảo vệ môi trường”(14); “chủ động giám sát, ứng phó có hiệu quả với biến đổi khí hậu;
phát triển kinh tế xanh, ít chất thải, giảm nhẹ phát thải khí nhà kính, cácbon thấp; khuyến
khích phát triển mô hình kinh tế tuần hoàn để sử dụng tổng hợp và hiệu quả đầu ra của quá
trình sản xuất”(15). Chính phủ của các quốc gia trên thế giới cần có tầm nhìn dài hạn trong
công tác hoạch định chính sách; các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội cần
hướng tới mục tiêu phát triển bền vững, chú trọng tới việc bảo đảm những lợi ích của các thế
hệ tương lai. Nghĩa vụ và trách nhiệm đạo đức của thế hệ hiện tại đối với các thế hệ tương lai
không cho phép họ coi trái đất và tất cả tài nguyên thiên nhiên chỉ là của riêng hiện tại mà
toàn quyền tác động bất chấp hậu quả sinh thái.

Để hình thành tư duy văn minh sinh thái, cần coi trọng vai trò của giáo dục đạo đức sinh thái
cho tất cả mọi người, trước hết là thế hệ trẻ ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Các
hình thức tuyên truyền, phổ biến chính sách, chủ trương, pháp luật và các thông tin về môi
trường và phát triển bền vững cần không ngừng đổi mới về nội dung và đa dạng về hình thức.
Vấn đề môi trường và tư duy văn minh sinh thái cần được đưa vào hệ thống chương trình
được giảng dạy ở các cấp học cũng như đưa vào cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng
đời sống văn hóa”; qua đó, góp phần giáo dục và xây dựng ý thức bảo vệ môi trường, nếp
sống gần gũi, gắn bó với thiên nhiên trong mỗi người dân, nhất là thanh thiếu niên.

Bên cạnh đó, hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách về bảo vệ môi trường cần được hoàn
thiện; năng lực tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về môi trường cần được kiện toàn và tăng
cường, bảo đảm thực hiện hiệu quả công tác bảo vệ môi trường từ Trung ương đến cơ sở.
12

Việc thực thi luật pháp về môi trường ở từng nước cũng như các điều ước và luật pháp quốc tế
cần tiếp tục được thúc đẩy. Hệ thống và cơ chế giám sát tài nguyên, môi trường và biến đổi
khí hậu, hệ thống dự báo, cảnh báo thiên tai, ô nhiễm và thảm họa môi trường cần được xây
dựng và không ngừng củng cố. Ngoài ra, cần đẩy mạnh việc nghiên cứu, ứng dụng và chuyển
giao các giải pháp công nghệ trong xử lý ô nhiễm, khắc phục suy thoái và sự cố môi trường;
sử dụng hiệu quả tài nguyên, năng lượng; ứng dụng và phát triển công nghệ sạch, thân thiện
với môi trường. Đây là những công cụ hết sức quan trọng để từng bước góp phần hình thành
tư duy văn minh sinh thái, nhất là để kịp thời ngăn chặn thảm họa sinh thái, đặc biệt là tội ác
“ecocide”, góp phần cải thiện chất lượng môi trường và điều kiện sống của nhân dân, bảo đảm
thực hiện được mục tiêu phát triển bền vững./.

Những vấn đề môi trường cấp bách hiện nay: Thực trạng và giải pháp

Những năm qua, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn trên mọi lĩnh vực, nhất
là nền kinh tế tăng trưởng nhanh, đời sống vật chất và tinh thần của người dân không
ngừng được nâng cao. Tuy nhiên, quá trình phát triển kinh tế - xã hội đã bộc lộ nhiều
bất cập và tạo ra nhiều áp lực lớn nên môi trường, các hệ sinh thái và đa dạng sinh học
của đất nước. Tình trạng ô nhiễm môi trường tiếp tục diễn biến phức tạp, với nhiều
điểm nóng, chất lượng môi trường nhiều nơi suy giảm mạnh.

Thực trạng môi trường ở nước ta hiện nay

Sau hơn 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn
trên mọi lĩnh vực, tạo nhiều dấu ấn nổi bật, trong đó kinh tế tăng trưởng mạnh, trở thành một
trong những nền kinh tế tăng trưởng nhanh; đời sống vật chất và tinh thần của người dân
không ngừng được nâng cao; y tế và chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân được tăng
cường; quốc phòng, an ninh được củng cố và ổn định; quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế
ngày càng sâu rộng và hiệu quả,... Tuy nhiên, quá trình phát triển kinh tế - xã hội đã bộc lộ
những bất cập và tạo áp lực lớn đối với môi trường sinh thái. Tình trạng ô nhiễm môi trường
tiếp tục diễn biến phức tạp, chất lượng môi trường nhiều nơi suy giảm mạnh, không còn khả
năng tiếp nhận chất thải, đặc biệt ở các khu vực tập trung nhiều hoạt động công nghiệp; đa
dạng sinh học và chất lượng rừng suy thoái đến mức báo động, nguồn gen bị thất thoát; hạn
hán và xâm nhập mặn gia tăng;..., gây hậu quả nghiêm trọng, an ninh sinh thái bị đe dọa.
Những vấn đề này cản trở mục tiêu phát triển bền vững của đất nước.

Ô nhiễm nguồn nước mặt ở lưu vực các sông, đặc biệt là sông Nhuệ - Đáy, Bắc Hưng Hải,
Cầu, Vu Gia - Thu Bồn, Đồng Nai - Sài Gòn… diễn ra nghiêm trọng và tiếp tục diễn biến
theo chiều hướng xấu. Lượng nước thải đô thị phát sinh ngày càng lớn, hầu hết không qua xử
lý, xả trực tiếp ra môi trường, gây ô nhiễm nguồn nước mặt trong các đô thị, khu dân cư; hạ
tầng thu gom, xử lý nước thải chưa đáp ứng yêu cầu.

Ô nhiễm không khí, đặc biệt là ô nhiễm bụi (PM10, PM2.5) đang trở thành vấn đề báo động ở
Việt Nam, trực tiếp ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, gây tâm lý bất an và lo lắng cho nhân dân.
Tình trạng ô nhiễm không khí trong thời gian qua tại một số địa phương có xu hướng gia tăng
do gia tăng các chất ô nhiễm từ hoạt động kinh tế; chất lượng không khí ở các đô thị, khu vực
đông dân cư, nhất là tại thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh suy giảm.

Ô nhiễm tại các khu công nghiệp, cụm công nghiệp và làng nghề ở mức đáng lo ngại. Chất
thải rắn đang là vấn đề nóng, mang tính cấp bách cần được ưu tiên đầu tư giải quyết. Hiện
13

nay, với hàng chục triệu tấn rác thải sinh hoạt, chất thải rắn công nghiệp, hàng trăm nghìn tấn
chất thải nguy hại, rác thải nhựa phát sinh mỗi năm, trong khi đó, hầu hết chất thải rắn chưa
được phân loại tại nguồn. Phần lớn chất thải rắn được xử lý theo hình thức chôn lấp, nhiều bãi
chôn lấp không hợp vệ sinh gây phát tán mùi ra các khu dân cư, gây bức xúc trong nhân dân.

Ô nhiễm trên Biển Đông diễn biến phức tạp và chưa có biện pháp ứng phó hiệu quả, trong đó
có vấn đề rác thải nhựa, nạo vét, nhận chìm vật liệu nạo vét. Các sự cố môi trường biển có xu
hướng gia tăng, như ô nhiễm dầu từ các hoạt động hợp tác khai thác dầu khí, giao thông vận
tải biển; sự cố tràn dầu trên Biển Đông đã ảnh hưởng lớn đến các vùng ven biển ở nước ta.
Các chất có nguồn gốc từ đất liền thải ra đã và đang gây ảnh hưởng tới chất lượng nước biển
ven bờ.

Các hệ sinh thái tự nhiên tiếp tục bị chia cắt, thu hẹp về diện tích và xuống cấp về chất lượng;
dẫn đến mất cân bằng sinh thái, giảm chức năng phòng hộ, mất nguồn cung cấp nước ngầm,
mất nơi sinh cư và sinh sản của các loài sinh vật. Số loài và số cá thể các loài hoang dã bị
giảm mạnh. Nhiều loài bị săn bắt, khai thác, buôn bán trái phép dẫn đến nguy cơ bị tuyệt
chủng cao; nguy cơ mất an ninh sinh thái do sinh vật ngoại lai xâm hại và rủi ro từ các sinh
vật biến đổi gen.

Có nhiều nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường, đáng chú ý như:

- Quy mô nền kinh tế và dân số nước ta ngày càng tăng, mức độ công nghiệp hoá và đô thị
hóa ngày càng cao, công tác quản lý khai thác tài nguyên thiên nhiên còn nhiều hạn chế, phát
sinh nhiều nguồn gây ô nhiễm, chất thải ngày càng tăng về thành phần và khối lượng, kết
cấu hạ tầng thu gom và xử lý chất thải còn thiếu và không được đầu tư đồng bộ, dẫn đến các
áp lực lên môi trường ngày càng cao, tác động xấu đến chất lượng môi trường.

- Môi trường sinh thái nước ta chịu tác động mạnh của biến đổi khí hậu toàn cầu, các vấn đề
môi trường phi truyền thống gia tăng cùng với hội nhập thương mại quốc tế và thách thức từ
vấn đề ô nhiễm môi trường xuyên biên giới.

- Vẫn còn tồn tại quan điểm ưu tiên và coi trọng tăng trưởng triển kinh tế, thu hút đầu tư bằng
mọi giá và xem nhẹ yêu cầu bảo vệ môi trường; văn hóa, ý thức trách nhiệm của người dân và
doanh nghiệp trong việc bảo vệ môi trường còn nhiều hạn chế; việc thực thi các chính sách và
công cụ bảo vệ môi trường còn nhiều bất cập và mang lại hiệu quả thấp.

- Hệ thống chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường còn bất cập; các công cụ quản lý môi
trường chưa phát huy được hiệu lực, hiệu quả; cách tiếp cận và cộng cụ quản lý mới chưa
được thể chế hóa kịp thời và không theo kịp với những diễn biến nhanh của các vấn đề môi
trường và yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế của đất nước.

- Năng lực quản lý nhà nước về môi trường và quản trị môi trường của doanh nghiệp chưa
đáp ứng được yêu cầu. Mô hình tổ chức cơ quan quản lý về bảo vệ môi trường từ Trung ương
đến địa phương còn bất cập, chưa đáp ứng kịp yêu cầu quản lý đối với một số lĩnh vực lớn,
phức tạp, nhạy cảm đang gia tăng hiện nay.

- Nguồn lực tài chính đầu tư cho bảo vệ môi trường từ ngân sách nhà nước và vốn doanh
nghiệp chưa đáp ứng yêu cầu; thiếu cơ chế đột phá để huy động nguồn tài chính cho công tác
này.
14

- Các dự án có nguy cơ cao gây ô nhiễm môi trường cao vẫn được cấp phép đầu tư vào Việt
Nam. Năng lực dự báo, cảnh báo phòng ngừa và ứng phó với các sự cố môi trường của cơ
quan quản lý nhà nước, địa phương và các doanh nghiệp còn nhiều hạn chế.

- Công tác tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm bảo vệ môi
trường trong và ngoài hệ thống giáo dục quốc gia còn hạn chế, chưa thật hiệu quả.

Một số giải pháp

Thực trạng và xu hướng diễn biến môi trường sinh thái của Việt Nam trong những năm qua
cho thấy, môi trường Việt Nam đang đứng trước những thách thức rất lớn trong những năm
tiếp theo, do đó cần có những giải pháp khắc phục kịp thời.

Một là, thay đổi tư duy bảo vệ môi trường: Phải đổi mới tư duy và hành động; các mô hình
phát triển kinh tế - xã hội cần dựa trên quan điểm tôn trọng và sống hài hòa với thiên nhiên,
phát triển dựa trên hệ sinh thái phải trở thành triết lý cho mục tiêu phát triển bền vững và giải
quyết tận gốc các vấn đề suy thoái tài nguyên và ô nhiễm môi trường hiện nay.

Hai là, hoàn thiện hệ thống chính sách và pháp luật về bảo vệ môi trường: Hoàn thiện hệ
thống thể chế, chính sách và pháp luật về bảo vệ môi trường. Xây dựng và phát triển các công
cụ kinh tế trong quản lý môi trường phù hợp với điều kiện của Việt Nam.

Ba là, tăng cường nguồn nhân lực và năng lực quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường các
cấp: Ưu tiên đầu tư phát triển nguồn nhân lực đủ mạnh và tăng cường năng quản lý nhà nước
về bảo vệ môi trường từ Trung ương đến địa phương đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình
hình mới. Chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ, kỹ năng quản lý cho đội ngũ cán bộ quản lý môi trường các cấp.

Bốn là, tăng cường đầu tư và đa dạng hóa nguồn tài chính cho công tác bảo vệ môi
trường: Tăng tỷ lệ chi ngân sách nhà nước cho bảo vệ môi trường theo tốc độ tăng trưởng của
nền kinh tế. Có cơ chế đẩy mạnh đa dạng hóa nguồn tài chính cho công tác này (ngân sách
nhà nước; các dự án và chương trình tài trợ trong và ngoài nước; Quỹ bảo vệ môi trường Việt
Nam; Quỹ bảo vệ môi trường của địa phương huy động vốn từ cộng đồng, hợp tác công tư,
…). Ưu tiên xã hội hóa, kêu gọi đầu tư, hỗ trợ cho việc phát triển các công nghệ xử lý, tái chế
chất thải phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội, điều kiện cụ thể của Việt Nam.

Năm là, tăng cường hoạt động quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường theo hướng hiệu lực,
hiệu quả: Đổi mới và nâng cao chất lượng công tác đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá
tác động môi trường. Tăng cường cơ chế giám sát, thanh tra, kiểm tra công tác bảo vệ môi
trường đối với các dự án đầu tư, các cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ; kiểm soát chặt chẽ
hoạt động nhập khẩu phế liệu; tăng cường công tác bảo vệ môi trường các khu công nghiệp,
cụm công nghiệp, làng nghề. Triển khai đồng bộ hệ thống quan trắc chất thải tại nguồn tự
động liên tục và truyền số liệu trực tiếp về cơ quan quản lý. Tăng cường quan trắc và giám sát
môi trường xuyên biên giới, nhất là đối với các lưu vực sông xuyên biên giới, môi trường
biển, các tác động do mở cửa thương mại kinh tế, tình trạng dịch chuyển công nghệ, thiết bị
sản xuất lạc hậu từ các nước trong khu vực và trên thế giới vào Việt Nam. Kiểm soát chặt chẽ
tình hình nhập khẩu các sinh vật ngoại lai và sinh vật biến đổi gen từ nước ngoài về Việt
Nam….

Sáu là, đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa học - công nghệ trong bảo vệ môi trường. Ưu
tiên và đầu tư mạnh mẽ cho công tác nghiên cứu phát triển khoa học - công nghệ tiên tiến ứng
15

dụng vào quản lý và bảo vệ môi trường hiệu quả, như công nghệ sản xuất thân thiện môi
trường, công nghệ ít chất thải, công nghệ tái chế và tái sử dụng chất thải, công nghệ carbon
thấp, công nghệ vật liệu mới thay thế và ứng dụng trong xử lý môi trường,…

Bảy là, đẩy mạnh công tác truyên truyền và giáo dục môi trường. Xây dựng và hoàn thiện
chương trình đào tạo và giáo dục môi trường trong hệ thống giáo dục phổ thông các cấp phù
hợp với điều kiện và chương trình giáo dục của Việt Nam. Đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền,
nâng cao nhận thực về bảo vệ môi trường, tăng trưởng xanh, phát triển kinh tế tuần hoàn, kinh
tế ít chất thải, carbon thấp theo hướng đổi mới nội dung, đa dạng hình thức tuyên truyền phù
hợp với từng đối tượng, các vùng miền và khu vực. Đẩy mạnh công tác xây dựng chuyên
trang, chuyên mục, chuyên đề, phóng sự về bảo vệ môi trường, đồng thời phát hiện, nêu
gương, nhân rộng các điển hình, mô hình tốt, cách làm hay để tạo chuyển biến tích cực trong
toàn xã hội…/.

Đường lối đổi mới, phát triển kinh tế thị trường

TCCS - Đường lối đổi mới kinh tế do Đảng ta khởi xướng đã đem lại những thay đổi đặc biệt
to lớn, tích cực cho đất nước trong những năm qua. Bối cảnh hiện nay xuất hiện nhiều vấn đề
mới, đòi hỏi cần nhận diện, làm rõ những giá trị cốt lõi và những nội dung cần tiếp tục bổ
sung, hoàn thiện trong đường lối phát triển kinh tế của Đảng. Đây là công tác có ý nghĩa đặc
biệt quan trọng đối với sự phát triển đất nước trong những năm tới.

Những giá trị cốt lõi, phản ánh tư duy đột phá, sáng tạo của Đảng trong lý luận về đường lối
đổi mới, phát triển kinh tế

Từ Đại hội VI (tháng 12-1986) đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã có nhiều tìm tòi, đổi
mới tư duy phát triển kinh tế nhằm đưa đất nước vượt qua những khó khăn, khủng khoảng do
hậu quả của chiến tranh để lại, những tác động tiêu cực của cơ chế kế hoạch hóa tập trung
quan liêu bao cấp, sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch, sự bao vây cấm vận…;
thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, đưa đất nước vững bước trên con đường mà Đảng và nhân
dân ta đã lựa chọn. Thực tiễn hơn 36 năm tiến hành công cuộc đổi mới, hơn 30 năm thực hiện
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta cho phép
khẳng định những giá trị cốt lõi, phản ánh tư duy đột phá, sáng tạo của Đảng trong lý luận về
đường lối đổi mới, phát triển kinh tế, thể hiện trên các phương diện sau:

Thứ nhất, lý luận về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là “đột phá lý luận rất cơ bản và
sáng tạo”(1), mang tính chất nền tảng, then chốt trong lý luận về đường lối đổi mới, phát triển
kinh tế của Đảng ta, bắt nguồn từ những cơ sở lý luận và thực tiễn sâu sắc. Đây là thành quả
16

lý luận quan trọng của công cuộc thực hiện đường lối đổi mới toàn diện đất nước từ Đại hội
VI của Đảng, sự đúc kết xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm
của các nước trên thế giới.

Từ sau khi thống nhất đất nước đến trước Đại hội VI của Đảng, nền kinh tế nước ta vận hành
trong khuôn khổ cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp cao độ. Bước vào thực hiện
đường lối đổi mới, Đảng ta mới chỉ quan niệm kinh tế hàng hóa, các thành phần kinh tế có
những mặt tích cực cần được vận dụng trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ đi lên
chủ nghĩa xã hội. Qua thực tiễn thực hiện đường lối đổi mới nền kinh tế, nhận thức lý luận
của Đảng về tính tất yếu, bản chất, đặc trưng, cấu trúc, cơ chế vận hành, mục tiêu của nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và cơ chế quản lý của Nhà nước
đối với nền kinh tế ngày càng rõ hơn, phù hợp hơn với thực tế trong nước và thông lệ quốc tế.

Từ thực tiễn đổi mới, Đảng ta đã nhận thức ngày càng rõ và khẳng định: Kinh tế hàng hóa,
kinh tế thị trường là phương thức tất yếu để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Sản xuất
hàng hóa, kinh tế thị trường không đối lập với chủ nghĩa xã hội, là thành tựu phát triển của
văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Có thể khẳng định, đây là đột phá căn bản trong tư duy lý luận của Đảng về con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội, tạo tiền đề lý luận cho việc lựa chọn mô hình phát triển kinh tế ở nước ta
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nhận thức đó là cơ sở để chúng ta áp dụng cơ chế
thị trường vào thực tiễn đời sống kinh tế, thống nhất nhận thức, hình thành quan niệm và từng
bước hoàn thiện lý luận về mô hình kinh tế tổng quát trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam, tạo cơ sở cho việc định hình và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa cũng như xử lý các vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội, môi trường đối
nội và đối ngoại của đất nước.

Tại Đại hội IX, Đảng ta khẳng định: “Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và
lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị
trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đó chính là nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”(2) và đó là “mô hình kinh tế tổng quát của nước ta
trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội”(3). Có thể thấy, “chủ trương xây dựng và phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thể hiện tư duy, quan niệm của Đảng
ta về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất.”(4),
thể hiện sự nhận thức ngày càng sâu sắc và vận dụng ngày càng đúng đắn chủ nghĩa Mác -
Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào hoàn cảnh thực tế của đất nước.
17

Những tìm tòi, đổi mới đó đã góp phần to lớn để đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế -
xã hội, tạo sự thay đổi cơ bản và toàn diện: Kinh tế tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế được đẩy mạnh. Đời sống nhân dân được cải thiện
rõ rệt; hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường; chính
trị - xã hội ổn định; quốc phòng - an ninh được giữ vững. Vị thế nước ta trên trường quốc tế
không ngừng nâng cao; sức mạnh tổng hợp của quốc gia tăng lên, tạo ra thế và lực mới cho
đất nước(5). Từ thực tiễn đó, Đảng ta tổng kết thực tiễn, đúc rút lý luận: Để đi lên chủ nghĩa
xã hội, phải phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa(6).

Thành quả của quá trình đổi mới là căn cứ thực tiễn vững chắc để Đảng ta khẳng định: Nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản. Đây là một hình thái kinh tế thị trường vừa tuân theo những quy luật của kinh
tế thị trường, vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của
chủ nghĩa xã hội. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cơ chế thị trường
phải được vận dụng đầy đủ, linh hoạt để phát huy mạnh mẽ và có hiệu quả mọi nguồn lực
nhằm phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân, khuyến khích
làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói, giảm nghèo, tăng cường đồng thuận xã hội để thực hiện
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh(7).

Qua thực tiễn đổi mới nền kinh tế, nhận thức lý luận của Đảng về nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta tiếp tục được hoàn thiện và cụ thể hóa phù hợp với hoàn
cảnh cụ thể của đất nước, nguyện vọng của nhân dân. Điều đó đã góp phần tạo nên những
thành tựu to lớn của đất nước không chỉ về mặt kinh tế, mà trên tất cả các mặt khác của đời
sống xã hội: Góp phần giải phóng mạnh mẽ tiềm năng và huy động được nhiều nguồn lực
trong và ngoài nước cho quá trình phát triển kinh tế. Nhờ đó, tốc độ tăng trưởng kinh tế tương
đối cao, quy mô nền kinh tế được mở rộng, đất nước thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh
tế - xã hội những năm 1980. Thu nhập bình quân đầu người được nâng cao, mức sống người
dân được cải thiện mạnh mẽ. Đảng và Nhà nước có điều kiện thuận lợi hơn để giải quyết
những vấn đề đối nội và đối ngoại của đất nước. Khoảng cách tụt hậu giữa Việt Nam và một
số quốc gia khác được rút ngắn. Vị thế, tiếng nói, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế
ngày càng được cải thiện và khẳng định. Từ một trong những quốc gia nghèo nhất thế giới
những năm 1980, thiếu đói thường xuyên, lạc hậu, kém phát triển (khoảng ¾ dân số sống
dưới mức nghèo khổ), chỉ trong vòng một thế hệ, Việt Nam đã trở thành quốc gia đang phát
triển, với thu nhập bình quân đầu người 3.512 USD vào năm 2020; quy mô GDP không
ngừng được mở rộng, năm 2020 đạt 342,7 tỷ USD (theo số liệu tính toán lại), trở thành nền
kinh tế lớn thứ tư trong ASEAN.
18

Thứ hai, chủ trương bảo đảm sự gắn kết hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ
và công bằng xã hội, bảo đảm tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển.kj

Trong suốt tiến trình xây dựng đất nước, Đảng ta luôn coi trọng việc thực hiện tiến bộ, công
bằng xã hội. Tuy nhiên, trong thời kỳ trước đổi mới (tính từ thời điểm giải phóng miền Nam,
thống nhất đất nước đến trước tháng 12-1986), việc giải quyết vấn đề tiến bộ, công bằng xã
hội ở nước ta còn mang tư tưởng nóng vội, chủ quan, duy ý chí, vượt quá khả năng đáp ứng
của nền kinh tế, mang tính bình quân, bao cấp. Điều đó đã triệt tiêu động lực và kìm hãm sự
phát triển của nền kinh tế. Các mục tiêu về tiến bộ, công bằng xã hội đặt ra lại chậm được
hiện thực hóa, thậm chí có lúc sai lệch.

Trong tiến trình đổi mới, qua tổng kết thực tiễn, nghiên cứu, tìm tòi, nhận thức của Đảng về
mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế, tiến bộ và công bằng xã hội cũng như mục tiêu, điều
kiện, phương thức giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế, tiến bộ và công bằng xã
hội từng bước được hoàn thiện, phù hợp với trình độ phát triển của đất nước, với nguyện vọng
của đại bộ phận người dân, thể hiện rõ định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường
Việt Nam. Đảng ta khẳng định, trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phải
bảo đảm sự gắn kết hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội, bảo đảm tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong
từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển. Đây là một đặc trưng cơ bản của
định hướng xã hội chủ nghĩa trong kinh tế thị trường ở Việt Nam. Chúng ta “không chờ đến
khi kinh tế đạt tới trình độ phát triển cao rồi mới thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, càng
không “hy sinh” tiến bộ và công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần. Trái
lại, mỗi chính sách kinh tế đều phải hướng tới mục tiêu phát triển xã hội; mỗi chính sách xã
hội đều phải nhằm tạo ra động lực thúc đẩy phát triển kinh tế và bảo đảm tiến bộ, công bằng
xã hội; khuyến khích làm giàu hợp pháp phải đi đôi với bảo đảm an sinh xã hội, xoá đói, giảm
nghèo, chăm sóc những người có công, những người có hoàn cảnh khó khăn. Đây là một yêu
cầu có tính nguyên tắc để bảo đảm sự phát triển lành mạnh, bền vững, theo định hướng xã hội
chủ nghĩa”(8).

Công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế theo định hướng nêu trên đã đem lại những thay đổi to
lớn, tốt đẹp cho đất nước trên phương diện thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội: Thu nhập
của người dân được cải thiện; Tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh, từ 58% năm 1993 xuống còn 5,8%
năm 2016 (theo chuẩn nghèo theo thu nhập) và dưới 3% năm 2020 (theo chuẩn nghèo đa
chiều). Đến năm 2020, hơn 60% số xã đạt chuẩn nông thôn mới; hầu hết các xã đều có đường
ôtô đến trung tâm, có điện lưới quốc gia, trường tiểu học và trung học cơ sở, trạm y tế và điện
thoại. Đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân được cải thiện đáng kể. Chỉ số phát triển con
người (HDI) của Việt Nam liên tục được cải thiện, thuộc nhóm nước có HDI cao trên thế giới
19

và cao hơn so với các nước có cùng trình độ phát triển kinh tế. Việt Nam được Liên hợp quốc
công nhận là một trong những nước đi đầu trong việc hiện thực hóa các Mục tiêu phát triển
Thiên niên kỷ.

Những thành tựu nêu trên góp phần tạo sự đồng thuận và ổn định chính trị - xã hội, củng cố
lòng tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, qua đó tạo điều kiện thuận lợi và động
lực để nền kinh tế tiếp tục phát triển.

Thứ ba, chủ trương kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại trong điều kiện
mới, hợp tác bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các nước, không phân biệt chế độ chính trị -
xã hội khác nhau trên cơ sở các nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình nhằm tranh thủ mọi nguồn
lực để phát triển đất nước.

Từ thực tiễn cách mạng Việt Nam và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội sau ngày giải phóng
miền Nam, thống nhất đất nước, Đảng ta đã rút ra bài học kinh nghiệm quý báu: “Phải biết kết
hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại trong điều kiện mới”(9) để phục vụ sự
nghiệp phát triển kinh tế, xây dựng chủ nghĩa xã hội, đồng thời khẳng định, nhiệm vụ phát
triển kinh tế, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước “tiến hành nhanh hay chậm,
điều đó phụ thuộc một phần quan trọng vào việc mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối
ngoại”(10). Trên cơ sở đó, Đảng ta chủ trương thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc
lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối
ngoại; bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến
chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi; kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu
rộng; Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng
đồng quốc tế.

Chủ trương trên đã góp phần to lớn đưa Việt Nam từ quốc gia bị bao vây, cấm vận kinh tế trở
thành quốc gia hội nhập sâu, rộng vào nền kinh tế thế giới. Đến nay, chúng ta đã khôi phục,
mở rộng và thiết lập quan hệ ngoại giao với tất cả các nước lớn trên thế giới, là thành viên của
nhiều tổ chức kinh tế quốc tế quan trọng, tham gia tích cực, có trách nhiệm vào đời sống quốc
tế. Hiện Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 189/193 nước thành viên Liên hợp quốc, có
quan hệ đối tác chiến lược với 14 nước lớn, quan hệ đối tác hợp tác toàn diện với nhiều nước
khác; đã ký kết 15 hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương..., qua đó góp phần
tạo dựng hình ảnh, vị thế Việt Nam trên trường quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi vì lợi ích phát
triển của đất nước.

Điều đó đã tạo điều kiện để Việt Nam tranh thủ mọi nguồn lực, mở rộng quan hệ đầu tư,
thương mại với các nước, phát huy tiềm năng, lợi thế của đất nước để phục vụ công cuộc phát
triển kinh tế và xây dựng chủ nghĩa xã hội nói chung: Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tăng
nhanh, năm 2020 đạt trên 540 tỷ USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt trên 280 tỷ USD. Dự
trữ ngoại hối tăng mạnh, đạt 100 tỷ USD vào năm 2020(11). Đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng
20

nhanh, tính đến ngày 31-12-2021, Việt Nam đã thu hút được 408 tỷ USD vốn đăng ký, đứng
thứ 18 trên thế giới và thứ 2 Đông Nam Á,...

Những đột phá trong lý luận về đường lối đổi mới, phát triển kinh tế nêu trên đã góp phần làm
cho đất nước ta có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay.

Một số vấn đề đặt ra để bổ sung, hoàn thiện trong lý luận về đường lối đổi mới, phát triển
kinh tế

Sau hơn 36 năm thực hiện đường lối đổi mới, bên cạnh những thành tựu to lớn, nền kinh tế
Việt Nam vẫn bộc lộ không ít hạn chế, yếu kém, đặc biệt trong bối cảnh hiện nay: Tốc độ tăng
trưởng kinh tế tương đối cao, nhưng chưa đạt mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
đề ra, chất lượng tăng trưởng, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp, thiếu bền vững; nền
kinh tế ở thời điểm hiện tại vẫn tụt hậu so với nhiều nền kinh tế khác trong khu vực và trên
thế giới.

Đến nay, chúng ta vẫn chưa trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, khu vực công
nghiệp chế biến, chế tạo còn nhỏ bé, có giá trị gia tăng thấp hoặc phụ thuộc vào nguyên, nhiên
vật liệu nhập khẩu(12). Việt Nam vẫn chưa có ngành công nghiệp quốc gia có thể đảm đương
vai trò trụ đỡ của nền kinh tế, đồng thời giúp khẳng định vị thế của đất nước trong quan hệ
với các đối tác kinh tế khác. Nội lực của nền kinh tế còn yếu(13), năng lực độc lập, tự chủ,
khả năng chống chịu của nền kinh tế trước các cú sốc từ bên ngoài còn thấp.

Khu vực kinh tế trong nước, đặc biệt là khu vực kinh tế tư nhân, còn nhiều hạn chế (đã gia
tăng về số lượng, nhưng quy mô và tiềm lực không mạnh): Xét trên phương diện quan hệ sở
hữu, kinh tế nhà nước đóng góp khoảng 27% tổng sản phẩm quốc nội của Việt Nam, kinh tế
tập thể, kinh tế hộ, kinh tế tư nhân trong nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đóng góp
tương ứng 4%, 30%, 10% và 20%(14).

Dây chuyền sản xuất, lắp ráp các linh kiện đo lường nhiệt độ tại Công ty TNHH Sankoh Việt
Nam - doanh nghiệp 100% vốn đầu tư Nhật Bản tại Khu công nghiệp Bờ trái Sông Đà, tỉnh
Hòa Bình_Ảnh: TTXVN

Việt Nam đã và đang hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, nhưng chúng ta
đang tham gia ở những công đoạn có giá trị gia tăng thấp và dễ dàng bị thay thế bởi các quốc
gia khác khi những yếu tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư (giá năng lượng, chi phí thuê đất,
giá nhân công, thuế, phí...) không còn đáp ứng được kỳ vọng của các nhà đầu tư.

Chúng ta thu hút nhiều đầu tư trực tiếp nước ngoài(15) và đã thu được những kết quả nhất
định trên các phương diện tạo việc làm, cải thiện đời sống người dân, gia tăng giá trị xuất
khẩu, thúc đẩy việc cải thiện quản lý nhà nước về kinh tế và hoạt động của nền kinh tế nói
chung, góp phần quảng bá hình ảnh, thương hiệu Việt Nam trên trường quốc tế, cải thiện mối
quan hệ giữa Việt Nam và các nước, góp phần giữ gìn hòa bình, bảo vệ độc lập, chủ quyền đất
nước..., qua đó tạo thuận lợi cho sự nghiệp phát triển kinh tế cũng như công cuộc xây dựng
21

chủ nghĩa xã hội nói chung. Tuy nhiên, tác động lan tỏa của khu vực này đến nền kinh tế
không đạt được như kỳ vọng. Đặc biệt, một số chỉ số kinh tế vĩ mô phụ thuộc chặt chẽ vào
khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, như cán cân thương mại...

Phân hóa giàu nghèo có xu hướng gia tăng, đời sống của một bộ phận người dân còn khó
khăn, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào ở vùng bị thiên tai; chênh lệch phát triển
giữa các địa phương, vùng, miền còn khá lớn.

Thực trạng đó đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết, mà về mặt lý luận, cần tập trung thực hiện
tốt một số nội dung sau:

Thứ nhất, cần phân định rõ sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước đối với nền kinh
tế, thực hiện tốt phương châm “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”.

Phương châm “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” đã được Đảng, Nhà
nước ta triển khai thực hiện khá sớm trong đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực kinh tế. Tuy
nhiên, để thực sự phát huy hiệu quả, trước hết, cần phân định rõ sự lãnh đạo của Đảng và
quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế. Theo đó, cần phân định rõ phạm vi, thẩm quyền,
trách nhiệm lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế, bảo đảm tăng
cường sự lãnh đạo toàn diện của Đảng đối với Nhà nước nhưng không để xảy ra tình trạng
Đảng làm thay Nhà nước, mà tạo điều kiện để phát huy tính chủ động, năng động và nâng cao
hiệu quả quản lý, điều hành nền kinh tế của Nhà nước. Cùng với điều đó, cần bảo đảm sự
công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình gắn với trách nhiệm người đứng đầu trong công
tác lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế, bảo đảm sự tham gia của
người dân và phản biện xã hội trong các khâu của những công tác này.

Thứ hai, nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ, đảng viên các cấp, đặc biệt là cấp chiến lược,
đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ trong tình hình mới.

Công tác cán bộ có tầm quan trọng đặc biệt, quyết định sự thành bại của sự nghiệp cách
mạng, công tác cán bộ là khâu “then chốt của then chốt”. Trong thời gian qua, Đảng ta đặc
biệt chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng
lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, đã ban hành nhiều chỉ thị, nghị quyết liên quan để giải
quyết những vấn đề đặt ra. Tuy nhiên, để phát huy hơn nữa hiệu quả của công tác này, cần
tăng cường hơn nữa tính công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình, tăng cường sự tham gia
của người dân trong các khâu của công tác cán bộ. Đồng thời với điều đó, cần chú trọng giải
quyết thỏa đáng vấn đề tiền lương, chế độ đãi ngộ, bảo đảm sự gắn kết chặt chẽ giữa tiền
lương, chế độ đãi ngộ với kết quả thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao.

Thứ ba, thực hiện quản trị nhà nước tốt.

Ở Việt Nam, Đại hội XIII của Đảng đã đặt ra mục tiêu xây dựng nền quản trị quốc gia hiện
đại, hiệu quả. Quản trị nhà nước thực chất là vấn đề thể chế - có ý nghĩa quan trọng đặc biệt
với sự phát triển của các quốc gia. Ở cấp độ quốc tế, Liên hợp quốc khuyến khích các quốc
22

gia thực hiện quản trị nhà nước tốt theo những tiêu chí pháp quyền, minh bạch, trách nhiệm
giải trình, sự tham gia của nhân dân, kịp thời, hiệu lực, hiệu quả, bao trùm và định hướng
đồng thuận. Vì vậy, việc đẩy nhanh nghiên cứu áp dụng các tiêu chí của quản trị nhà nước tốt
ở Việt Nam hiện nay là rất cần thiết.

Thứ tư, nâng cao chất lượng nguồn lực lao động.

Kỹ năng thấp là rào cản đối với người lao động Việt Nam trong tiếp cận thị trường việc làm,
cũng là rào cản đối với Việt Nam trong việc đạt được những thành tựu lớn hơn trong hội nhập
quốc tế trong điều kiện cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Đặc biệt, Việt Nam sẽ mất
dần lợi thế cạnh tranh vì lao động giá rẻ trong các ngành đòi hỏi kỹ năng thấp và thâm dụng
lao động khi tiền lương chắc chắn sẽ tăng cùng với tiến trình phát triển của nền kinh tế. Do
vậy, cần đổi mới giáo dục và đào tạo trên cơ sở tôn trọng và vận dụng các nguyên tắc thị
trường để nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, qua đó nâng cao chất lượng lao động
nhằm cải thiện năng suất lao động, tăng khả năng cạnh tranh của đất nước trong hội nhập
quốc tế.

Thứ năm, xây dựng và thực thi chính sách công nghiệp quốc gia.

Cần xác định ngành, lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo then chốt quốc gia, dựa trên nền
tảng tiến bộ khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo, bảo đảm thực hiện tốt vai trò trụ đỡ
của nền kinh tế, bảo đảm vị thế của Việt Nam trong quan hệ kinh tế đối ngoại.

Tạo lập các điều kiện môi trường, chính sách khoa học - công nghệ, chính sách nhân lực và
chính sách tài chính, đặc biệt là chính sách thúc đẩy phát triển thị trường vốn, phục vụ phát
triển các ngành, lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo then chốt quốc gia.

Thứ sáu, đổi mới chiến lược thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, thúc đẩy phát triển mạnh mẽ
khu vực kinh tế tư nhân trong nước.

Đổi mới chiến lược thu hút và quản lý đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hướng gắn thu hút đầu
tư trực tiếp nước ngoài với các chiến lược và quy hoạch phát triển tổng thể quốc gia, bảo đảm
hình thành các chuỗi cung ứng và cụm liên kết ngành công nghiệp, tập trung vào các ngành,
công đoạn tạo ra giá trị gia tăng cao, sử dụng công nghệ thân thiện với môi trường và tiêu tốn
ít năng lượng. Để đạt được mục tiêu này, bên cạnh các công cụ chính sách đang được sử
dụng, cần áp dụng công cụ thuế một cách hợp lý để thúc đẩy các doanh nghiệp có vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài sử dụng công nghệ tiên tiến và mở rộng liên kết với doanh nghiệp trong
nước.

Bên cạnh đó, cần nhận thức rõ đầu tư trực tiếp nước ngoài chỉ là động lực dẫn dắt, không có
nền kinh tế nào có thể “cất cánh”, không có nền kinh tế nào có thể độc lập, tự chủ chỉ thuần
túy dựa trên ngoại lực hoặc dựa trên sự quá coi trọng ngoại lực (đầu tư nước ngoài). Chỉ có
thúc đẩy doanh nghiệp tư nhân trong nước lớn mạnh trên cơ sở bảo đảm vai trò chủ đạo thực
23

sự của khu vực kinh tế nhà nước mới bảo đảm sự năng động của nền kinh tế, mới là nền tảng
vững chắc để giúp Việt Nam vượt qua “bẫy thu nhập trung bình”, trở thành quốc gia phát
triển, có thu nhập cao, theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào năm 2045. Do vậy, phải xây
dựng được lực lượng doanh nghiệp trong nước vững mạnh, có quy mô lớn, có vai trò dẫn dắt
và hình thành chuỗi cung ứng trong nước, đủ khả năng vươn ra thị trường thế giới./.

(1), (8), (11), (14) Xem: Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa
xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà
Nội, 2022, tr. 25, 92, 31, 31

(2), (3), (4) Xem: Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII tại Đại
hội IX của Đảng, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-
hoi-dang/lan-thu-ix/bao-cao-chinh-tri-cua-ban-chap-hanh-trung-uong-dang-khoa-viii-tai-dai-
hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-ix-cua-dang-1545

(5), (6) Xem: Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII tại Đại hội
IX của Đảng, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-hoi-
dang/lan-thu-ix/bao-cao-chinh-tri-cua-ban-chap-hanh-trung-uong-dang-khoa-viii-tai-dai-hoi-
dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-ix-cua-dang-1545

(7) Xem: Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X tại Đại hội XI của
Đảng, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-hoi-dang/
lan-thu-xi/bao-cao-chinh-tri-cua-ban-chap-hanh-trung-uong-dang-khoa-x-tai-dai-hoi-dai-bieu-
toan-quoc-lan-thu-xi-cua-dang-1526

(9), (10) Xem: Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa V trình tại Đại
hội VI của Đảng, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-
hoi-dang/lan-thu-vi/bao-cao-chinh-tri-cua-ban-chap-hanh-trung-uong-dang-khoa-v-trinh-tai-
dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-vi-cua-1491

(12) Theo Tổng cục Thống kê, năm 2022, 37% nguyên liệu đầu vào phục vụ hoạt động sản
xuất trong nước là nhập khẩu. Riêng trong ngành công nghiệp chế biến, tỉ trọng nguyên liệu
nhập khẩu chiếm 50,98%. Điều này cho thấy nền kinh tế Việt Nam phụ thuộc rất nhiều vào
nước ngoài

(13) Báo cáo nghiên cứu tổng thể của JICA về thực trạng trạng phát triển nguồn nhân lực
công nghiệp Việt Nam giai đoạn 9-2021 – 5-2022, trong những năm gần đây, năng suất lao
động của Việt Nam có xu hướng cải thiện. Tuy nhiên, tốc độ cải thiện ko lớn, thiếu ổn định,
chưa đủ để rút ngắn khoảng cách quá lớn về năng suất lao động giữa Việt Nam và các nước
khác. Thậm chí, tốc độ tăng năng suất lao động của Việt Nam đang đối mặt với xu hướng
giảm và đình trệ trong thập kỉ qua. Do vậy, đến nay Việt Nam vẫn là một trong những nước
có năng suất lao động thấp nhất trong khu vực.
24

(15) Tính đến 31-12-2021, Việt Nam thu hút được 408 tỉ USD vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài (vốn đăng kí), đứng thứ 18 trên thế giới và thứ 2 ở Đông Nam Á

Sự hình thành nhân cách của sinh viên Việt Nam - góc nhìn từ sự tác động của Triết học
Mác - Lênin

Khi bàn về sự cần thiết của việc giảng dạy triết học cho sinh viên, một số ý kiến cho rằng, đào
tạo đại học là đào tạo nghề, đào tạo các chuyên gia làm việc trong các lĩnh vực khác nhau của
nền kinh tế quốc dân nên chỉ cần giảng dạy các môn học chuyên ngành là đủ. Luận điểm này
thoạt nghe dường như có lý, nhưng thực ra là sai lầm. Thực tế cho thấy, Nhà nước không đơn
giản chỉ cần đến những chuyên gia, mà hơn hết là cần những công dân có trách nhiệm với
tương lai của bản thân và tiền đồ của đất nước. Để giáo dục ý thức công dân thì cần có triết
học và các môn khoa học xã hội, nhân văn khác. Lịch sử Tổ quốc hướng mỗi người ý thức về
cội nguồn của mình trong một cộng đồng dân tộc xác định, vị trí của thế hệ mình trong dãy
những thế hệ thay thế lẫn nhau, hiểu được tính đặc thù và độc đáo của thời đại.

Sinh viên ở các thời đại khác nhau và ở các nước khác nhau đều thường đi tiên phong trong
các phong trào và các tiến trình chính trị. Triết học đóng vai trò quan trọng trong việc hình
thành thế giới quan, phương pháp luận, nhân sinh quan, hệ thống giá trị văn hóa nhân văn cho
sinh viên, nó như “la bàn” giúp họ định hướng tính tích cực xã hội và chính trị của mình vào
mục đích xây dựng, sáng tạo. Triết học đem lại cho sinh viên tri thức về các mối quan hệ xã
hội, về bản chất, chức năng của nhà nước và của pháp luật, về mục đích tồn tại của con người,
về cái thiện và cái ác, về mối quan hệ giữa cá nhân với nhà nước và xã hội, về tự do và trách
nhiệm. Vì vậy, triết học có vai trò quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển nhân
cách sinh viên.(*)

1. Sinh viên Việt Nam hiện nay là một bộ phận thanh niên đã được tuyển chọn qua các kỳ thi
quốc gia và được đào tạo trong các trường đại học, cao đẳng. Họ là lớp người đang trưởng
thành, đang chuẩn bị hành trang nghề nghiệp cần thiết và chín muồi về nhân cách. Là bộ phận
dân cư có tuổi đời trẻ chủ yếu khoảng từ 18 - 23, sinh viên được xã hội đào tạo theo hệ thống
cơ bản để trở thành những nhà quản lý xã hội, lực lượng sản xuất hiện đại và quan trọng trong
tương lai. Với tư cách bộ phận xã hội đặc thù, sinh viên có những đặc điểm riêng. Một là, số
lượng sinh viên thay đổi từng năm, tùy thuộc vào quá trình tuyển sinh và theo xu hướng tăng
dần. Hai là, sinh viên là đội dự bị trí thức tương lai. Vì vậy, họ mang trong mình những đặc
điểm của tầng lớp trí thức, như có khả năng lĩnh hội và sáng tạo tri thức khoa học, kỹ thuật và
công nghệ, khá nhạy cảm với những vấn đề chính trị - xã hội... Họ là nhóm xã hội dễ tiếp thu
tư tưởng mới (kể cả tích cực lẫn tiêu cực). Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Óc những người
tuổi trẻ trong sạch như một tấm lụa trắng. Nhuộm xanh thì nó sẽ xanh. Nhuộm đỏ thì nó sẽ
đỏ”(1). Vì vậy, các lực lượng xã hội khác nhau, các đảng phái khác nhau đều tìm cách lôi kéo
sinh viên, mong muốn sự ủng hộ từ phía họ cho các hoạt động của mình. Ba là, sinh viên chưa
25

có một “vị trí thực” trong cơ cấu nghề nghiệp cũng như trong xã hội. Bởi lẽ, họ chưa có một
nghề nghiệp ổn định, chưa có một vị trí riêng trong quá trình sản xuất của nền sản xuất xã hội.
Hoạt động chủ yếu nhất của họ là hoạt động học tập và bước đầu tham gia nghiên cứu khoa
học, nắm vững một lĩnh vực tri thức nghề nghiệp nhất định để sau này trở thành chuyên gia
của nghề nghiệp đó.

Tóm lại, sinh viên có vị trí "song hành", vị trí "kép" trong xã hội. Một mặt, họ là những thanh
niên sinh viên đang dần hoàn thiện nhân cách, là lực lượng sản xuất hiện đại, người chủ của
đất nước trong tương lai. Mặt khác, họ là nguồn lực cơ bản để bổ sung vào đội ngũ trí thức
trong tương lai. Họ chính là nguồn nhân lực chất lượng cao đầy tiềm năng sáng tạo và ứng
dụng khoa học - công nghệ để góp phần thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới đất nước, hội
nhập quốc tế hiện nay.

Mỗi cá nhân ở những địa vị xã hội khác nhau đều có sự thể hiện nhân cách đặc trưng phù hợp
với vị thế xã hội của mình. Ví dụ, nhân cách người cán bộ lãnh đạo, nhân cách người giáo
viên... Sinh viên - một bộ phận xã hội đặc thù cũng có phương diện thể hiện tính đặc thù trong
nhân cách của mình. Nhân cách sinh viên là trường hợp cụ thể của nhân cách, là hình thức
biểu hiện tính Người ở một tầng lớp xã hội đặc biệt. Có thể hiểu nhân cách sinh viên là tổng
thể những phẩm chất đạo đức và tài năng, thể chất và tinh thần được hình thành một cách lịch
sử - cụ thể, qui định giá trị và những hành vi xã hội của sinh viên, được thể hiện, thực hiện
trong hoạt động học tập, hoạt động giao tiếp, ứng xử, hoạt động xã hội của cá nhân mỗi sinh
viên.

Nhân cách sinh viên Việt Nam trong điều kiện hiện nay, ngoài những đặc điểm chung của
nhân cách, thì còn có những biểu hiện riêng về phẩm chất đạo đức và năng lực, như sinh viên
hiện nay năng động, sáng tạo và thực tế hơn. So với các thế hệ sinh viên trước đổi mới, sinh
viên hiện nay có tính thực tế cao. Chọn ngành học là biểu hiện đầu tiên của tính thực tế. Họ
tập trung nhất vào những ngành học mà ra trường có thể xin việc được ngay vì xã hội đang
cần, những nghề có thu nhập cao, chỉ số ít sinh viên chọn nghề theo mơ ước.

Sinh viên hiện nay rất năng động. Họ năng động trong phương thức tiếp nhận tri thức để hoàn
thành tốt nhiệm vụ chính là học tập; năng động trong quá trình tham gia vào hoạt động xã hội:
Làm thêm dưới nhiều hình thức thời gian (nửa ngày, vài ngày trong một tuần, buổi tối), phong
phú về nghề (làm gia sư, bán hàng, giúp việc nhà...). Một số sinh viên có tham vọng trở thành
những nhà kinh doanh giỏi đã mở cửa hàng kinh doanh thể hiện tính chủ động, sáng tạo cao
trong công việc của mình.

Tính sáng tạo của sinh viên được thể hiện ở việc rất nhiều sinh viên tham gia nghiên cứu khoa
học và đạt giải cao trong các kỳ thi quốc tế, quốc gia, giải thưởng Tài năng trẻ Việt Nam hàng
năm do Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức...

Sinh viên hiện nay đề cao vai trò cá nhân: Kinh tế thị trường có tác động mạnh mẽ đến quá
trình hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam hiện nay. Sinh viên luôn có ý
26

thức cao việc khẳng định nhân cách bằng cách trau dồi kiến thức chuyên môn, khẳng định vị
trí của mình trước xã hội. Đồng thời, họ thể hiện rõ vai trò cá nhân, lợi ích cá nhân trong hành
động. Lợi ích chung và sự quan tâm, chia sẻ với những người xung quanh dường như bị lấn át
bởi việc thực hiện những lợi ích riêng, nhu cầu cá nhân ở một bộ phận sinh viên.

Sinh viên xác định rõ phương pháp thực hiện lý tưởng của mình: Lý tưởng cao cả của sinh
viên Việt Nam hiện nay là giữ vững nền độc lập dân tộc và xây dựng thành công chủ nghĩa xã
hội. Trong đó, đạo đức cộng sản là yếu tố cấu thành quan trọng nên lý tưởng của sinh viên.
Khẳng định điều này vì đạo đức là thành phần đặc biệt trong nhân cách của sinh viên, cái để
phân biệt sự khác nhau giữa nhân cách này với nhân cách khác xuất phát từ điểm gốc là "đức"
trong mỗi con người.

Trong thời đại hiện nay, mỗi sinh viên hiểu rằng, sống có lý tưởng trước hết phải trân trọng và
bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc, bởi đó là thành quả được đổi bằng biết bao mồ hôi và xương
máu của các thế hệ cha ông trong dựng nước và giữ nước. Thứ hai, sinh viên phải dốc lòng
học tập, rèn luyện để góp sức mình thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới, đưa đất nước tiến
những bước vững chắc trong quá trình hội nhập, phát triển trong bối cảnh toàn cầu hóa. Họ
hiểu muốn củng cố và bảo vệ nền độc lập tự do của dân tộc chỉ có một con đường duy nhất
đúng là đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Lý tưởng của sinh viên được biểu hiện rõ nhất
ở khát vọng học tập, nghiên cứu, ở sự nỗ lực, chuyên cần, sáng tạo trong học tập nhằm nắm
vững những tri thức vươn lên chiếm lĩnh những đỉnh cao của khoa học - công nghệ, nhanh
chóng hội nhập với xu thế phát triển của nền văn minh nhân loại. Bởi vì, trong xu thế phát
triển hiện nay, dân tộc nào vươn lên đến đỉnh cao trí tuệ thì dân tộc đó sẽ chiến thắng. Đúng
như khẳng định của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu"(2).

2. Khi nghiên cứu tính quy luật của sự hình thành nhân cách, nhân cách sinh viên, chúng ta
thấy rằng nhân cách chỉ được hình thành và phát triển cùng với quá trình giáo dục và tự giáo
dục, quá trình giao tiếp, quá trình hoạt động thực tiễn bộc lộ những "phẩm chất người" của
mỗi con người..; trong đó, giáo dục giữ vai trò chủ đạo. Giáo dục triết học Mác - Lênin cho
sinh viên là một yếu tố hợp thành quan trọng của nền giáo dục đại học nước ta hướng đến việc
xây dựng những thế hệ sinh viên có nhân cách trong sáng, có lập trường tư tưởng chính trị
vững vàng, đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của quá trình hội nhập và phát triển đất nước. Cơ
sở để khẳng định điều đó là:

Thứ nhất, giáo dục triết học Mác - Lênin trong trường đại học nhằm góp phần hình thành thế
giới quan khoa học trong nhân cách sinh viên Việt Nam

Giáo dục triết học Mác - Lênin trước hết là giáo dục những nguyên lý, phạm trù cơ bản của
chủ nghĩa Mác - Lênin nhằm xây dựng lập trường thế giới quan cho sinh viên. Đó chính là thế
giới quan duy vật biện chứng - nền tảng để sinh viên nhận thức và tiếp thu những nguyên lý,
quy luật khác. Thế giới quan là toàn bộ hệ thống tri thức, những quan niệm của con người về
thế giới và về vị trí của chính con người trong thế giới đó. Là một hệ thống tri thức, quan
27

niệm về thế giới nhưng thế giới quan được hiểu là kết quả của quá trình nhận thức đặc thù của
con người, chứ không phải là phép cộng giản đơn tổng số các tri thức khoa học cụ thể.([2])

Việc giáo dục triết học Mác - Lênin trong các trường đại học có vị trí đặc biệt quan trọng đối
với quá trình hình thành và phát triển thế giới quan khoa học - thế giới quan duy vật biện
chứng của sinh viên. Bởi lẽ, triết học Mác - Lênin nghiên cứu những quy luật chung nhất của
tự nhiên, xã hội và tư duy, nó cung cấp cho con người một cách nhìn khoa học đối với hiện
thực khách quan và khẳng định vai trò, vị trí của con người trong hoạt động nhận thức và cải
tạo thế giới. Từ đó, giúp họ có thái độ đúng đắn, khoa học đối với hiện thực, có phương
hướng chính trị vững vàng, có khả năng nhận biết, phân tích và giải quyết các vấn đề mới nảy
sinh trong thực tiễn xã hội trên tinh thần thế giới quan Mác - Lênin.

Với tư cách một hệ thống lý luận, một học thuyết, triết học Mác - Lênin đã lý giải một cách
khoa học nhất về thế giới và vị trí của con người trong thế giới đó. Như vậy, triết học Mác -
Lênin đóng vai trò là cơ sở lý luận, là "hạt nhân" của thế giới quan. Gọi là "hạt nhân" của thế
giới quan, bởi vì ngoài triết học Mác - Lênin, thế giới quan Mác - Lênin còn có các quan điểm
về chính trị, kinh tế, đạo đức, luật pháp, thẩm mỹ... Song, tất cả các quan điểm trên đều được
xây dựng trên nền tảng khoa học của triết học Mác - Lênin. Quan điểm và niềm tin khoa học
của triết học Mác - Lênin đã tạo dựng cơ sở nền tảng cho toàn bộ hệ thống thế giới quan Mác
- Lênin. Triết học đã lý giải về mặt lý luận toàn bộ các dữ kiện của hiện thực khách quan và
hoạt động thực tiễn của con người một cách lịch sử - cụ thể và khoa học nhất. Vấn đề cơ bản
của triết học, như Ph.Ăngghen đã nói, là vấn đề về mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại. Việc
con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không cũng là những vấn đề của thế giới
quan. Thế giới quan của chủ nghĩa Mác - Lênin, mà cốt lõi là chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử, là hệ thống lý luận khoa học và cách mạng; nó đã, đang và sẽ là
một công cụ tư duy quan trọng nhất định hướng cho toàn Đảng, toàn dân ta nói chung và sinh
viên nói riêng trong hoạt động nhận thức cũng như trong hoạt động thực tiễn. Vì vậy, xây
dựng và phát triển thế giới quan Mác - Lênin chính là nhân tố đặc biệt quan trọng trong quá
trình hình thành và phát triển nhân cách nói chung và nhân cách sinh viên Việt Nam nói riêng.

Tuy nhiên, thế giới quan khoa học không hình thành một cách tự động, tức cứ trang bị tri thức
là có thế giới quan; trái lại, đó còn phải là quá trình chuyển tri thức thành niềm tin khoa học
trong mỗi sinh viên. Cơ sở để hình thành và phát triển thế giới quan là những nhận thức về tự
nhiên và xã hội, là kết quả của quá trình giáo dục và những kinh nghiệm được tích lũy trong
thực tiễn của sinh viên. Đó chính là quá trình hình thành và phát triển các quan điểm, quan
niệm, niềm tin về vai trò và khả năng của con người trong quá trình nhận thức và cải tạo thế
giới. Nói cách khác, tri thức, niềm tin, lý tưởng và tình cảm là những yếu tố cơ bản nhất cấu
thành nên thế giới quan. Trong đó, tri thức tự nó chưa thể trở thành thế giới quan. Nó chỉ gia
nhập thế giới quan khi trở thành niềm tin trong mỗi người. Nhờ có niềm tin, tri thức mới trở
28

thành cơ sở cho hành động của mỗi người. Khi biến thành niềm tin, tri thức đóng vai trò động
cơ, động lực tinh thần cho hoạt động của con người, giúp con người xác định lý tưởng sống.
Đạt đến "độ" này, mỗi sinh viên thể hiện trình độ sâu sắc trong nhận thức và tri thức, hình
thành thế giới quan và khi đó, thế giới quan trở thành nhân tố định hướng quan trọng trong
mọi hoạt động nhận thức và thực tiễn.

Thứ hai, giáo dục triết học Mác - Lênin còn góp phần xây dựng nhân sinh quan cộng sản chủ
nghĩa cho sinh viên, xây dựng trong họ những quan niệm đúng đắn về cuộc đời, về ý nghĩa và
mục đích của cuộc sống. Cụ thể là, triết học Mác - Lênin giúp sinh viên hiểu được mục đích
cao nhất của con người là xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; trong đó, mọi
người đều có một cuộc sống đầy đủ về vật chất và tinh thần. Đó là một xã hội mà "sự phát
triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người".

Giáo dục triết học Mác - Lênin sẽ góp phần từng bước xây dựng và bồi dưỡng nhân sinh quan
cộng sản chủ nghĩa cho sinh viên thông qua việc trang bị cho họ những kiến thức cơ bản về lý
luận cách mạng xã hội, về bản chất và chức năng của nhà nước, về con người và các quan hệ
xã hội của con người, về giai cấp, dân tộc, về xu hướng phát triển tất yếu của xã hội... Đồng
thời, từng bước xây dựng cho sinh viên cách nhìn, lối sống cũng như cách vận dụng những
định hướng giá trị xã hội đã được nhận thức vào thực tiễn cuộc sống. Chẳng hạn, từ tri thức
về những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy, cung cấp cho sinh viên một cách
nhìn khoa học đối với hiện thực khách quan và khẳng định vai trò, vị trí của con ng ười trong
việc nhận thức và cải tạo thế giới. Hoặc là, khi phân tích kết cấu của mỗi hình thái kinh tế - xã
hội, với tất cả các quy luật tác động và chi phối nó, C.Mác đã kết luận: Sự thay thế của các
hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên. Chính những kết luận như vậy tự
nó đã mang đến cho mỗi sinh viên một niềm tin vào sự phát triển. Từ đó giúp họ có thái độ
đúng đắn, khoa học đối với hiện thực cũng như khả năng phân tích và giải quyết các vấn đề
mới nảy sinh trên tinh thần thế giới quan và phương pháp luận duy vật biện chứng. Điều này
tạo ra trong mỗi sinh viên thái độ lạc quan cách mạng để vượt qua những thử thách, cam go
trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội. Ở đây, với những tri thức được học, sinh viên sẽ
hiểu rằng lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học được xây dựng trên cơ sở kế thừa một cách
chọn lọc những tư tưởng về chủ nghĩa xã hội của nhân loại trong lịch sử và được phát triển
một cách khoa học lên tầm cao mới, đáp ứng đúng quy luật phát triển của xã hội. Và Đảng ta
đã vận dụng một cách sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa xã hội khoa học vào thực tiễn
nước ta để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Khi nhận thức rõ vấn đề đó, sinh viên sẽ tự
nguyện, tự giác sống theo quan điểm sống của nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa như là một
sự thôi thúc nội tâm. Mặt khác, việc giáo dục triết học Mác - Lênin còn giúp sinh viên có
năng lực nhận diện rõ và đấu tranh chống lại những quan điểm trái với những nguyên lý của
chủ nghĩa xã hội khoa học, trái với chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng; kiên quyết
đấu tranh chống lại chủ nghĩa xét lại, chủ nghĩa giáo điều, đứng vững trong cuộc đấu tranh
phòng chống "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch.
29

Chủ nghĩa Mác - Lênin thực chất là học thuyết về con người và giải phóng con người. Học
thuyết Mác - Lênin nói chung, triết học Mác - Lênin nói riêng trang bị cho sinh viên một nhân
sinh quan khoa học và nhân đạo, chỉ ra mục đích cao cả nhất của cuộc sống là vì con người và
vì sự nghiệp giải phóng con người. Mỗi con người chỉ đạt được lợi ích, nhu cầu cá nhân cao
nhất khi nhận thức đúng đắn và tự nguyện, tự giác thực hiện lợi ích xã hội, lợi ích dân tộc
mình. Nhân cách chỉ được hình thành và phát triển khi giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa lợi
ích cá nhân và lợi ích xã hội, hạnh phúc của mỗi cá nhân chỉ được đảm bảo và thực hiện khi
hạnh phúc của toàn thể xã hội được đảm bảo, được thực hiện. Mỗi cá nhân chỉ được giải
phóng khi sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng nhân loại được thực hiện. Qua việc thẩm
thấu những tri thức này, mỗi sinh viên tự nguyện hướng đến lẽ sống cao đẹp "mình vì mọi ng -
ười và mọi người vì mình".

Thứ ba, giáo dục triết học Mác - Lênin góp phần xây dựng lý tưởng cộng sản cho các thế hệ
sinh viên Việt Nam. Lý tưởng giữ vai trò quan trọng trong quá trình hình thành nhân cách
sinh viên, vì lý tưởng là mục đích cao nhất, đẹp nhất, tạo ra nghị lực giúp con người vượt qua
mọi thách thức đạt đến mục tiêu đề ra. Mục tiêu cao nhất mà lý tưởng cộng sản hướng tới là
xây dựng một chế độ xã hội tốt đẹp: Xã hội xã hội chủ nghĩa và sau này là xã hội cộng sản
chủ nghĩa. Ở đó, con người được tự do, bình đẳng và hạnh phúc. Sinh viên khi tiếp nhận
những tri thức khoa học Mác - Lênin sẽ tìm kiếm được sức mạnh từ chính bản thân tri thức ấy
để tự mình vươn lên, bồi dưỡng lý tưởng cộng sản, tin tưởng vào con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội. Có niềm tin, có hoài bão, sinh viên tất có ý chí thực hiện lý tưởng. Việc thực hiện lý
tưởng không phải trừu tượng, xa vời, mà ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường họ cần xác
lập ý chí học tập để sau này góp phần xây dựng Tổ quốc. Đồng thời, họ cần có tinh thần đấu
tranh với những hành vi lệch chuẩn của một bộ phận sinh viên sống thiếu trách nhiệm, mất
phương hướng, lòng tin, lý tưởng sa đà vào cuộc sống hưởng thụ, thực dụng chỉ nghĩ đến lợi
ích riêng mình, vô cảm với lợi ích của đồng loại, của dân tộc.

Sự hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam hiện nay dưới tác động của giáo
dục triết học Mác - Lênin cũng chính là quá trình hình thành ở họ những phẩm chất cần thiết,
thể hiện sự tri thức hóa, sự trưởng thành đến độ nhất định về mặt xã hội, giúp sinh viên nâng
cao nhận thức lý luận, ý thức chính trị, nhạy bén với thực tiễn, xử lý tốt các tình huống xảy ra
trong thực tiễn, sống có lý tưởng, có ước mơ để học tập, phấn đấu và cống hiến. Trong cuộc
sống con người không thể sống mà thiếu lý tưởng phấn đấu. Lý tưởng là sự thôi thúc nội tâm
giúp con người hành động để thỏa mãn những nhu cầu, lợi ích của cá nhân và xã hội. Vì vậy,
giáo dục triết học Mác - Lênin nhằm từng bước xây dựng lý tưởng cách mạng cho sinh viên là
vấn đề được quan tâm hàng đầu. Đó cũng chính là giá trị đạo đức của từng cá nhân sinh viên
mang nhân cách, là mục tiêu phấn đấu của mỗi sinh viên. Đạt đến mục tiêu này, giáo dục triết
học Mác - Lênin hoàn toàn khẳng định vai trò quan trọng và quyết định của mình trong cuộc
đấu tranh ngăn ngừa những biểu hiện về suy thoái đạo đức, nhân cách của sinh viên trước
những tác động tiêu cực của quá trình phát triển kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế hiện nay.
30

Lối sống tích cực và tiêu cực của sinh viên

Việc xây dựng phong cách sống, lối sống văn hóa lành mạnh hiện đang là vấn đề được quan
tâm trong trong công cuộc xây dựng cuộc sống mới xã hội chủ nghĩa của nước ta hiện nay.
Sinh viên là lớp thanh niên trí thức đại diện và quyết định tương lai đất nước, chính vì thế việc
bàn về lối sống của sinh viên là một điều quan trọng và hết sức cần thiết. Nói đến sinh viên
Việt Nam tức là nói đến một thế hệ trẻ đầy sức sống và sức sáng tạo. Họ nắm trong tay tri
thức của thời đại, chìa khóa mở ra cánh cửacho tiến bộ xã hội nói chung và sự phát triển đất
nước nói riêng. Về mặt số lượng, sinh viên là một lực lượng không nhỏ. Hiện cảnước có
khoảng gần 120 trường đại học, cao đẳng; trung bình mỗi trường có khoảng 6000 sinh viên
theo học. Thử nhân lên bạn sẽ được một con số khổng lồ: 720 000 người, gần bằng dân số
trung bình của một tỉnh. Về mặt chất lượng, sinh viên là lớp người trẻ được đào tạo toàn diện
và đấy đủ nhất, bao gồm các chuyên ngành học trên khắp các lĩnh vực tự nhiên, xã hội, khoa
học… chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố: chuyên ngành theo học,sự phân bố các trường, khu
vực sinh sống và học tập…, lối sốngcủa sinh viên Việt Nam nhìn chung cực kỳ đa dạng và
phong phú. Tuy nhiên ta có thể phân chia lối sống của sinh viên theo hai hướng: tích cực và
tiêu cực. - Lối sống tích cực : là lối sống văn hóa, lành mạnh, phù hợp với sự phát triển xã hội,
có tác dụng thúc đẩy sự hoàn thiện cá hân nói riêng và thúc đẩy tiến bộ xã hội nói chung. Lối
sống tiêu cực, ngược lại, là lối sống không lành mạnh, có tác động xấu đến sự phát triển con
nguời nói riêng và kìm hãm sự đi lên của đất nước nói chung. Trước hết, hãy bàn vế lối sống
của sinh viên Việt Nam với những biểu hiện tích cực của nó.

+ Điểm nổi bật đầu tiên khi ta nghĩ về sinh viên, đó là những con người năng động và sáng
tạo. Chính sinh viên là những người tiên phong trong mọi công cuộc cải cách, đổi mới về kinh
tế, giáo dục…Trong đầu họ luôn đầy ắp các ý tưởng độc đáo và thú vị; và họ tận dụng mọi cơ
hội để biến các ý tưởng ấy thành hiện thực. Không chỉ chờ đợi cơ hội đến, họ còn tự mình tạo
ra cơ hội.Đã có nhiều sinh viên nhận được bằng phát minh , sáng chế; và không ít trong số
những phát minh ấy được áp dụng, được biến thành những sản phẩm hữu ích trong thực tiễn.
Với thế mạnh là được đào tạo vừa toàn diện vừa chuyên sâu, sinh viên có mặt trong mọi lĩnh
vực của đời sống kinh tế, xã hội của đất nước. Trong học tập, sinh viên không ngừng tự đổi
mới phương phấp học sao cho lượng kiến thức họ thu được là tối đa. Không chờ đợi, thụ động
dựa vào thầy cô, họ tự mình đọc sách, nghiên cứu, lấy thông tin, tài liệu từ mọi nguồn. Phần
lớn sinh viên đều có khả năng thích nghi cao với mọi môi trường sinh sống và học tập. Họ
không chỉ học tập trong một phạm vi hẹp ở trường, lớp; giới trẻ ngày nay luôn phát huy tinh
thần học tập ở mọi nơi, mọi lúc. Không chỉ lĩnh hội tri thức của nhân loại, sinh viên Việt Nam
còn tiếp thu những cái hay, cái đẹp trong mọi lĩnh vực khác như văn hóa, nghệ thuật… Sự
năng động của sinh viêncòn được thể hiện ở việc tích cực tham gia các hoạt động xã hội như y
tế, từ thiện…Ngoài giờ học, những sinh viên-tuyên truyềnviên hiến máu nhân đạo lại ngược
xuôi đi lại mang kiến thức về hiến máu đến mọi người, mọi nhà… Bằng sự năng động, sinh
31

viên luôn tự cập nhật thông tin, kiến thức, làm mới mình phù hợp với sự thay đỏi và phát triển
của xã hội. Rõ ràng, năng độngvà sáng tạo là những ưu điểm nổi bật của sinh viên Việt Nam
thời đại mới.

+ Thứ hai, chính vì năng động và sáng tạo nên sinh viên Việt Nam luôn thể hiện mình là
những con người táo bạo và tự tin. Sinh viên dám nghĩ , dám làm, dám chịu thử thách. Các ý
tưởng độc đáo không chỉ nằm trong suy nghĩ mà luôn được thử nghiệmtrong thực tế. Có thể
thành công hoặc thất bại, song họ không hềchùn bước. Với họ, mỗi lần thất bại lại làm họ tự
tin hơn với nhiều kinh nghiệm hơn. Đứng trước cha anh, họ luôn tự tin vào chính mình. Họ tin
rằng với những tri thức mình có trong tay, với những gì họ đã, đang và sẽ làm, các bậc cha
anh sẽ tự hào vềhọ.Tự tin nhưng không kiêu- đó chính là sinh viên Việt Nam. Phần lớn sinh
viên đều rất khiêm tốn, họ không bao giờ nghĩ rằng như thế là mình đã hơn các bậc tiền bối.
Trong suy nghĩ của họ, họ còn thiếu nhiều lắm, nhất là kinh nghiệm và sự từng trải. Chính vì
thế, khi quyết định một điều gì, sinh viên không bao giờ quên tham khảo ý kiến của những
người xung quanh, đặc biệt là bậc cha chú của mình. Và khi đã nhận được sự ủng ộ của lớp
người đi trước, họ thêm tự tin thực hiện ý định của mình. Táo bạo song sinh viên không hề
liều lĩnh. Trước khi thựchiện một việc gì, họ luôn tính toán, xem xét vấn đề một cách thận
trọng. Nói rằng táo bạo, nghĩa là trước đó chưa có ai dám làm, dám thử nghiệm, họ là người
đầu tiên thực hiện, chứ khôngphải họ đâm đầu thực hiện một việc mà họ không biết tỉ lệ
thànhcông của mình. Khi cảm thấy mình đã có đủ mọi điều kiện cần thiết, họ mới bắt tay vào
thực hiện. Một điều quan trọng đáng nói ở đây, đó là nếu gặp rủi ro thất bại thì họ sẵn sàng
chấp nhậnnhư một chuyện đương nhiên tất yếu sẽ xảy ra, tức là có thất bại thì thất bại ấy cũng
nằm trong kế hoạch. Họ dám nhìn thẳng vàothất bại và vượt qua nó. Tóm lại, táo bạo và tự tin
cũng là điểm rất đáng quý trong lối sống của sinh viên Việt Nam.

+ Thứ ba, phong cách độc lập trong cuộc sống cũng như trong học tập cũng góp phần xây
dựng một hình tượng đẹp về sinh viên Việt Nam. Không giống như sinh viên các thế hệ trước
chỉ biết sống phụ thuộc vào gia đình, sinh viên ngày nay đã biết thân tự lập thân. Không chỉ
riêng việc học tập, mà mọi vấn đề khác trong cuộc sống đều được sinh viên giải quyết trong
sự chủđộng. Nếu như trong quá khứ, sinh viên còn chờ đợi tiền chu cấp của gia đình mỗi đầu
tháng thì ngày nay mọi chuyện dường như đã khác đi rất nhiều. Ngoài giờ học, họ tìm việc
làm kiếm thêm tiền mua sách vở hay phục vụ cho những chi tiêu thường ngày khác. Nhiều
người không chỉ lo được cho bản thân mà còn có thể giúp đỡ những người bạn khác thiệt thòi
hơn mình, hay giúp đỡ gia đình ngay cả khi họ vẫn còn ngồi trong gảng đường đại học.
Những con người ấy thật đáng khâm phục, xứng đáng trở thành những gương mặt tiêu biểu
đại diện cho sinh viên Việt Nam thời đại mới.

+ Ngoài ra, sinh viên Việt Nam còn được thừa hưởng một truyềnthống tốt đẹp của dân tộc, đó
là truyền thống hiếu học. Sinh viênViệt Nam mọi thời đại luôn ham học, ham hiểu biết. Họ
khao khát tìm tòi, khám phá chân trời tri thức. Họ say mê với những điều mới lạ. Thủa xưa
học trò nghèo không có tiền mời thầy dạy,đứng ngoài lớp học nghe trộm lời thầy giảng bên
32

trong. Không có tiền mua sách vở, dầu đèn, họ lấy que làm bút, lấy lấ làm vở, lấy đom đóm
làm đèn. Tất cả đều vì lòng ham học, ham kiến thức. Ngày nay tuy điều kiện học đã tốt hơn
cha ông nhưng sinh viên Việt Nam vẫn phải vượt qua nhiều khó khăn khác để đến với chân
trời tri thức. Có những người dù bị tật nguyền vẫn đi học như bao bạn bè cùng trang lứa khác,
họ không những tần màkhông phế mà còn trở thành những sinh viên giỏi, làm được nhiều
điều cho gia đình, đất nước. Có những người dù gia đình gặp nhiều khó khăn, bất hạnh, khiến
họ phải bôn ba kiếm sống không được học hành đến nơi đến chốn vẫn mang trong mình khát
vọng được chiếm lĩnh tri thức nhân loại; và khi có cơ hội họ lại đi học trở lại, với niềm hạnh
phúc lớn lao. Ham học, ham hiểu biết chính là động lực cho việc lĩnh hội tri thức của sinh
viên. Không thỏa mãn với những gì được dạy trong truờng, họ tự mình học thêm bên ngoài,
qua sách báo, qua bạn bè khắp nơi.

Thêm vào đó, siêng năng cần cù, chịu thương chịu khó của sinh viên Việt Nam cũng là một
đức tính cần được nói đến. Nhiều sinh viên sinh ra ở những miền đất còn nghèo khó của đất
nước nhưng họ biết khắc phục những khó khăn ấy để học tốt. Không phải không có những
sinh viên với những bữa cơm chỉ hai nghìnđồng mà ngày ngày vẫn đến giảng đường đều đặn,
vẫn có mặt tại thư viện trường mỗi buổi chiều, tối tối vẫn đạp xe đi dạy thêm hay làm thêm.
Biết mình không được như bạn bè, có những trang thiết bị hiện đại riêng phục vụ học tập,
những sinh viên nghèo tận dụng mọi nguồn trợ giúp từ nhà trường, mượn tàiliệu của bạn bè,
tận dụng sự giúp đỡ của các tổ chức khuyến học. Sống và học tập trong bao khó khăn, nhiều
sinh viên vẫn giữ vững và liên tục là sinh viên xuất sắc trong nhiều năm học đại học, cao
đẳng. Họ thực sự xứng đáng nhận được sự khâm phục, ngưỡng mộ từ tất cả mọi người. Rồi,
phải kể đến những sinh viên Việt Nam đi du học ở nước ngoài. Bạn bè quốc tế luônnói về đức
tính siêng năng cần cù của sinh viên Việt Nam với sựkhen ngợi và khâm phục chân thành.
Đức tính ấy cũng bắt nguồn từ truyền thống tốt đẹp của dân tộc, ngày càng được giữ vững và
phát huy bởi thannh niên Việt Nam. Một biểu hiện tích cực nữa trong lối sống của sinh viên
Việt Nam là phong cách tự khẳng định mình. Không chỉ sinh viên mà giới trể ngày nay nói
chung đều thích tự khẳng định mình. Đó là một thế mạnh không phải mọi tầng lớp đều có
được. Phải thực sự có tri thức và đủ tự tin thì mới dám tự khẳng định mình. Sánh ngang vai
cùng các tầng giới khác, sinh viên Việt Nam luôn tạo ra được thế đứng cho mình. Dù trong
bất cứ lĩnh vực nào sinh viên cũng tự tin vàotiếng nói của mình. Họ đã chứng minh cho chúng
ta thấy được sức mạnh của họ, vai trò to lớn của họ trong công cuộc xây dựng đất nước và
phát triển xã hội. Chúng ta không thể coi thường hay hạ thấp vai trò quan trọng của sinh viên.
Lối sống hiện đại, mới mẻ của sinh viên Việt Nam ngày nay cũng là một điều tốt. Với sự phát
triển của nền kinh tế thị trường cộng với sựtiến bộ nhanh chóng của khoa học kỹ thuật, cơ chế
thoáng, mở trong lối sống giúp cho sinh viên Việt Nam dễ dàng hơn trong việc tiếp thu kiến
thức cũng như tinh hoa văn hóa nhân loại. Cuộc sống hướng ngoại tạo thuận lợi cho việc theo
kịp với sự phát triển của nước ngoài nói riêng và tiến bộ của toàn xã hội nói chung. Chúng ta
không còn lo sợ sẽ bị tụt hậu hay chậm tiếnso với các nước khác. Đặc biệt là trong xu thế hội
33

nhập kinh tế, toàn cầu hóa hiện nay thì lối sống hiện đại là một điều không thểthiếu trong việc
xây dựng cơ sở vật chất cho sự phát triển sự phát triển của đất nước. Như vậy, ta có thể nói lối
sống của sinh viên Việt Nam hiện nay có rất nhiều biểu hiện tích cực. Nhìn chung, những biểu
hiện ấy khá rõ rệt trong đa số sinh viên, và đáng được ngợi khen. Tuy nhiên, bên cạnh những
biểu hiện tích cực đã kể trên, những biểu hiện tiêu cực trong lối sống của sinh viên Việt Nam
hiện nay cũng không phải là ít.

- Nét tiêu cực lớn nhất, đáng báo động nhất trong giới sinh viên hiện nay chính là về vấn đề tư
tưởng. Có thể nói chưa bao giờ sinh viên Việt Nam lại sống thiếu lý tưởng như hiện nay. Nếu
như ngày trước lý tưởng xã hội chủ nghĩa luôn sục sôi trong mỗithanh niên Việt Nam, thì
ngày nay để tìm được một sinh viên như thế quả là không dễ. Thậm chí có những người
không hiểu lý tưởng ấy là gì ! Họ sống và học tập chỉ vì chỉ để đạt được mục đích cá nhân nào
đó. Hoặc thậm chí có người chẳng có mụcđích gì. Sống thiếu niềm tin, mục đích là một điểm
yếu cúa giới trẻ ngày nay. Thế giới quan của một số sinh viên nhiều khi còn lệch lạc, không
đúng với thế giới quan mà con người mới xã hội chủ nghĩa cần phải có. Đó là thế giới quan
Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Dưới sự tác động ồ ạt của nền kinh tế thị trường, dường
như giới trẻ ngày nay luôn nhìn sự vật hiện tượngvới cái nhìn của con người tư bản chủ nghĩa.
Nhiều người trong số họ không tin vào chế độ xã hội chủ nghĩa, chỉ nhìn thầy những điểm
không tốt của chế độ ta. Đó là cái nhìn thiển cận, lệch lạc chỉ nhìn từ một phía chưa thấy được
bản chất sự việc. Đành rằng trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của nước ta có nhiều
thiếu sót, đôi lúc còn sai lầm nghiêm trọng, nhưng đó là do ta chưa thực hiện đúng các nấc
thang trong quá trình xây dựng, bên cạnh đó còn bị các thế lực thù địch phá hoại; chế độ xã
hội chủ nghĩa tự thân nó là tốt đẹp và ta phải có niềm tin vào nó. Tuy nhiên nhiều sinh viên
không ý thức được điều này, đánh mất niềm tin vào bản chất của chủ nghĩa xã hội. Điều đó
hết sức quan trọng, bởi những người chủ tương lai của đất nước mà lại không in vào những gì
cha ông ta đang xây dựng, đanghướng đất nước đi theo, thì làm sao có thể chèo lái con thuyền
đất nước một cách vững vàng được? Nét tiêu cực trong lối sống của sinh viên còn thể hiện
trong việc nhìn nhận một cách sai lầmvề giá trị cuộc sống. Đó là hiện tượng sùng bái giá trị
vật chất. Nhiều thanh niên lấy đồng tiền làm thước đo giá trị trong cuộc sống. Đó là thang giá
trị của xã hội tư bản chủ nghĩa. Trong xã hội ấy, kẻ có tiền là kẻ mạnh. Chính vì thế, không ít
sinh viên con nhà giàu đã sử dụng đồng tiền gây ra nhiều chuyện sai trái: mua điểm, chèn ép
bạn bè…

+ Lối sống hưởng thụ dẫn đến nhiều vấn đế tiêu cực khác trong sinh viên. Tệ nạn xã hội, thái
độ không đúng đắn đối với lao động xảy ra nhiều trong sinh viên. Chủ nghĩa cá nhân có xu
hướng tăng trong giới trẻ ngày nay. Nhiều người chỉ quan tâm tới những lợi ích cá nhân truớc
mắt mà quên mất lợi ích tập thể, thậm chí chà đạp lên lợi ích của ngưới khác. Vì đồng tiền, vì
lợi ích cá nhân, một số thanh niên còn bất chấp tất cả: luật pháp, giađình, bạn bè…Một số
khác sống không động chạm đến ai, nhưng cũng không quan tâm đến ai. Chỉ cần biết đến
mình, còn người khác thì mặc kệ kiểu “đèn nhà ai nấy rạng”. Điều đó cũngkhó mà chấp nhận
34

được trong một đất nước theo chế độ xã hội chủ nghĩa. + Lối sống thực dụng trong sinh viên
bắt nguồn từ cuộc sống gắn với sự phát triển của nền kinh tế thị trường. Sùng bái đồng tiền,
làm tất cả để đạt được mục đích của mình bất chấp thủ đoạn; coi những vấn đề tiêu cực nảy
sinh trong cuộc sống là tất yếu không những không thể thiếu mà còn rất quan trọng và hữu ích
trong việc đạt mục đích cá nhân. Cái nhìn thực tế không ảo tưởng viển vông, không mơ mộng
hóa sự việc là điều tốt, song tới mức thực dụng thì lại là chuyện khác.

+ Thái độ bi quan, chán đời xuất hiện ở một số sinh viên cũng cần phải phê phán. Trong khi
phần lớn thanh niên đều cố gắng sống và học tập vì tương lai, ít nhất vì lợi ích của bản thân,
thì lại có những người chỉ vì những chuyện nhỏ nhặt không đâu mà không tha thiết gì cuộc
sống. Đôi khi chỉ vì bị thất tình hay không đạt được một điều mong muốn mà họ khép chặt
cánh cửatâm hồn không thèm quan tâm tới chuyện xung quanh, mặc kệ ra sao thì ra. Có người
thậm chí còn tự tử vì lí do nay nọ. Nhữngchuyện như thế nghe thật nực cười nhưng không thể
không nhắctới. Theo các con số thống kê thì các vụ tự tử trong sinh viên xảy ra ngày càng
nhiều, nguyên nhân của các vụ tự tử đó thườnglà do chuyện tình cảm đổ vỡ (!). Tại sao cuộc
sống có bao điều phải làm, và bao điều tốt đẹp để tận hưởng mà họ lại hành động một cách
mê muội mù quáng như vậy? Khách quan mà nói thì những nét tiêu cực trong lối sống của
sinh viên Việt Nam hiện nay vẫn còn nhiều điều nữa cần được xem xét, song trong phạm vi
một bài tiểu luận tôi chỉ muốn đề cập đến những điểm cơ bản dễ nhận thấy nhất như đã nói ở
trên. Vấn đề quan trọng ở đây không phải là chỉ nêu ra rồi bỏ đấy.Chúng ta cần phải làm điều
gì đó giúp sinh viên nhận thức được những sai lầm trong lối sống của mình để từ đó xây dựng
cho mình một lối sống tích cực, lành mạnh. Nhà trường, cụ thể là các trường đại học, cao
đẳng có vai trò rất quan trọng trong việc giáo dục nhận thức cho sinh viên. Đây chính là nơi
có nhiệm vụ đào tạo những thế hệ công dân mới, người chủ tương lai của đất nước. Không chỉ
cung cấp kiến thức về các vấn đề khoa học, xã hội, những tri thức mới nhất, cập nhật nhất của
nhân loại mà nhàtrường còn có nhiệm vụ giáo dục giá trị sống cho thanh niên, sinh viên. Độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội phải là tiêu chuẩntrước tiên của những định hướng giá trị
trong thanh niên, sinh viên Việt Nam hiện nay. Đây là nhiệm vụ chính trị cơ bản của nhà
trường, của hệ thống giáo dục nước ta. Vì vậy, trong các nộidung, chương trình giáo dục,
trong các hoạt động ngoại khóa… phải làm cho quan điểm trên thấm nhuần vào mọi lĩnh vực
hoạt động của sinh viên. Nhà trường cần giáo dục cho sinh viên thấy rằng để có được cuộc
sống hòa bình, độc lập như ngày nay biết bao thế hệ cha ông đã phải ngã xuống đổi bằng
xương máu. Từ đó, giúp sinh viên nhận thức được nhiệm vụ của mình là phải giữ gìn, bảo vệ
vững chắc nền độc lập tự do của Tổ quốc; quyết tâm thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới
của đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng, vì một nước Việt Nam dân giàu nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ văn minh. Đây chính là định hướng giá trị sống chân chính, lý tưởng sống
cao đẹp cần có trong thanh niên, sinh viên. Việc giáo dục cho sinh viên có một cái nhìn đúng
đắn đối với lao động cũng là một nhiệm vụ quan trọng của nhà trường. Hiện nay, bên cạnh
những sinh viên biết yêu lao động, có thái độ đúng đắn với người lao động thì vẫn còn một sồ
35

sinh viên có biểu hiện ngược lại. Một số lười lao động, coi lao động là gánh nặng; nhìn người
lao động, đặc biệt là lao động thủ công tay chân với con mắt coi thường khinh miệt. Nhà
trưòng cần kêt hợp giáo dục kiến thức với giáo dục lao động thực tiễn, nhẵm xây dựng trong
sinh viên tình yêu lao động. Dù làm gì, ở đâu, con người có hiểu biết, có tự trọng đều phải
biết lấy hiệu quả hành động của mình làm thước đo giá trị. Yêu lao động, lao động hết mình,
tiết kiệm, có hiệu quả cao… phải là định hướng giá tị sống thường trực của người sinh viên
Việt Nam hiện nay. ý thức, trách nhiệm cao trong công việc, tínhnăng động, sáng tạo, hiệu
quả cao là chuẩn giá trị chung cho mọi thời đại và lại càng đòi hỏi hơn với xã hội nước ta.
Việc giáo dục trong nhà trưòng còn cần tập trung vào tất cả các khía cạnh khác của đạo đức.
Cần xây dựng trong sinh viên trước hết là lòng nhân ái yêu thương con người nói chung, yêu
đồng bào, đồng chí. Xã hội xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân ta đang xây dựng là dựa
trên chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất là chủ yếu, mối quan hệ giữa người với
người trong xã hội này là mối quan hệ tập thể tương thân tương ái, vì thế lòng nhân ái yêu
thương con người là một điều vô cùng quan trọng không thể thiếu. Những tiêu chuẩn đạo đức
mà sinh viên Việt Nam cần phải được giáo dục là tiêu chuẩn đạo đức xã hội chủ nghĩa: cần
kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Nhưng nhân tố ấy là cơ sở không thể thiếu được để xây
dựng lối sống theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tác động của những nhân tố ấy đối với con
ngườiluôn luôn diễn ra trong một môi trường xã hội cụ thể, phụ thuộc vào trạng thái của môi
trường ấy, nhưng đồng thời lại là một tác động tích cực đối với những quan hệ xã hội- kinh tế.
Đồng thời cũng cần phải nói đến việc giáo dục một lý tưởng thẩm mỹ tốt đẹp cho sinh viên.
Xây phải đi đôi với chống. Trong giáo dục nhà trường cần nghiêm khắc, kiên quyết hơn nữa
trong việc xử lý và giáo dục những thành phần bất hảo trong sinh viên. Thực tế cho thấy việc
lơi là trong giáo dục ý thức luôn dẫn đến những hậu quả khôn lường. Tuy nhiên, để công tác
giáo dục đạo đức được hiệu quả, không gì tốt hơn là việc người giáo viên phải là một tấm
gương sáng cho sinh viên noi theo. Hãy thử nghĩ xem, khó có thể có những sinh viên ưu tú
trong một nhà trường mà nơi đó xuất hiện và tồn tại những điều tiêu cực ngay trong nội bộ
giáo viên. Hiện tượng thoái hóa bản chất đạo đức xã hội chủ nghĩa trong đội ngũ những người
thầy trong những năm gần đâydường như đã trở thành vấn đề nóng hổi. Hiện tượng mua
điểm, bán điểm không lẽ chỉ xảy ra giữa các sinh viên với nhau mà không hề có sự tiếp tay
những người thầy như thế? Rõ ràng, để việc giáo dục sinh viên được hiệu quả, song song với
việc nghiêm khắc đối với học sinh, sinh viên, nhà trường cũng cần phải nghiêm khắc đối với
tình trạng tiêu cực xảy ra trong chính đội ngũ giáo viên của trường. Bên cạnh việc xử lý, kiểm
điểm, phạt nhà trường cần tăng cường hơn nữa công tác biểu dương khen thưởng những sinh
viên, giáo viên không chỉ giỏi chuyên môn ngiệp vụ mà còn có tinh thần đạo đức tốt như: có
trách nhiệm cao trong công tác, học tập, có hành động, hành vi cử chỉ cao đẹp. Việc làm này
có tác dụng động viên khuyến khích sinh viên, giáo viên xây dựng cho mình lối sống lành
mạnh, đúng mực; đồng thời phát huy những điểm tích cực của mình. Sống trong một tập thể
mà xung quanh mình có bao nhiêu gương sángnhư thế hẳn sẽ khó có sinh viên nào lại không
tiến bộ, tích cực trong suy nghĩ cũng như hành động. Vai trò của nhà trường với hệ thống giáo
36

dục của nó thực sự quan trọng và giữ vị trí chủ đạo. Để phát huy được vai trò ấy, nhà trường
cần xây dựng mối quan hệ mật thiết với các nhân tố khác như xã hội, gia đình. Nhàtrường- gia
đình- xã hội là những nhân tố quan trọng không thể tách rời trong công tác giáo dục tri thức,
đạo đức, tư tưởng cho sinh viên. Tuy nhiên, nói tới nhân tồ nào đi chăng nữa, bản thân sinh
viên vẫn đóng vai trò quyết định trong việc xây dựng cho mình một lối sống văn hóa lành
mạnh, tích cực. Sinh viên, tự thân họ phải nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề, từ đó có
những hướng đi đúng đắn cho mình. Trước hết, thanh niên, sinh viên phải ý thức được vai trò
và nhiệm vụ của mình trong công cuộc xây dựng, bảo vệ đất nước. Thanh niên, sinh viên
họcsinh chúng ta chính là những người chủ tương lai của đất nước, người sẽ chèo lái con
thuyền đất nước. Vì vậy chúng ta phải có một lý tưởng Mác xít vững chắc, phải thầm nhuần
tư tưởng Hồ Chí Minh để làm kim chỉ nam cho mọi hành động của mình. Phải xây dựng cho
mình một quan điểm giai cấp rõ ràng, đứng yết vấn đề. Có lý tưởng và tư tưởng đúng đắn như
vậy, thanh niên, sinh viên mới có nền tảng để trở thành người chủ của đất nước. Để trở thành
những con người mới xã hội chủ nghĩa như mục tiêu của Đảng và nhà nước ta hiện nay, sinh
viên Việt Nam phải không ngừng học hỏi nâng cao tri thức cho mình; phải nắm vững khoa
học kỹ thuật công nghệ, có trình độ lý thuyết và thực hành để đáp ứng với yêu cầu công
nghiệp hóa và hiện đại hóa. Con người mới Việt Nam bao giờ cũng quý trọng sự sáng tạo,
làm giàu trí tuệ, tâm hồn, mãi mãi nuôi trong lòng những hoài bão lớn để phục vụ Tổ quốc,
phục vụ nhân dân. Thấm nhuần lời dạy của Lênin: “Dù thế nào chúng ta cũng phải tự đặt cho
mình nhiệm vụ…thứ nhất là: học, thứ hai là: học, thứ ba cũng là: học và sau đó kiểm tra để
kiến thức của chúng ta không chỉ là một từngữ vô dụng hoặc một câu nói hợp “mốt”… để
kiến thức thấm sâu vào máu thịt thực sự và hoàn toàn biến thành yếu tố cấu thành của đời
sống.” Thực tế chúng ta thấy con người mới Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh đã quyết
tâm học tập không những chỉ để hiểu biết khi bước chân vào đời mà còn muốn chiếm lĩnh
đỉnh cao của trí tuệ khoa học để trả nợ cho đời, cống hiến cho đời bằng việc tạo ra nhiều sản
phẩm cho xã hội. Đó chính là ý thức tồn vong và phát triển của nước Việt Nam mới. Mặt
khác, sinh viên chúng ta cần đấu tranh không khoan nhượngchống mọi biểu hiện tiêu cực ở
mọi nơi mọi lúc, không làm ngơ trước những hoạt động trái pháp luật, vô đạo đức, phản văn
hóa, ồng thời phải bảo vệ lẽ phải, bảo vệ giá trị của cái đẹp, bảo vệ giá trị văn hóa truyền
thống, tôn trọng phong tục tập quán mới. Sinh viên cần kết hợp việc nâng cao trình độ giác
ngộ, rèn luyệnthế giới quan và rèn luyện theo tiêu chuẩn đạo đức trong xã hội. Một điều quan
trọng nữa không thể bỏ qua là việc nâng cao tinh thần cảnh giác đối với âm mưu diễn biến
hòa bình, bạo loạn lật đổ của các thế lực phản cách mạng. Việc hội nhập kinh tế, xu hướng
toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ khắp nơi kéo theo không chỉ những ưu điểm mà còn có cả
những mặt trái tiêu cực của nó.Các giá trị văn hóa nhiều khi bị đảo lộn. Người chịu ảnh hưởng
nhiều nhất của những tác động trên không ai khác chính là giới trẻ. Kẻ thù của chúng ta có thể
lợi dụng cơ hội này để tiến hành chống phá ta dưới mọi hình thức, mà đối tượng chủ yếu và
dễ bị đánh gục nhất lại chính là thanh niên, sinh viên. Bằng sức mạnh của đồng tiền, những
cám dỗ của thú sống hưởng lạc… chúng dễ dàng lôi kéo giới trẻ vào những cạm bẫy nguy
37

hiểm. Không có bản lĩnh, thanh niên, sinh viên sẽ bị khuất phục, chịu đầu hàng và đánh mất
mình. Chính vì vậy, hơn bao giờ hết, sinh viênViệt Nam phải giương cao tinh thần cảnh giác
đề phòng mọi âm mưu của kẻ thù. Tóm lại, trên đây là những ý kiến cá nhân của tôi về vấn đề
lối sống trong sinh viên Việt Nam thời nay, đứng dưới góc nhìn của một sinh viên và một số
kiến nghị kèm theo. Trong phạm vi của một bài tiểu luận tôi hi vọng đã đưa ra được một số
gợi ý hữu ích cho việc xây dựng một lối sống tích cực, lành mạnh trong sinh viên nói riêng và
trong thanh niên Việt Nam nói riêng

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NGUỒN NHÂN LỰC LAO ĐỘNG VIỆT NAM

Hiện nay, Việt Nam đang là một trong những quốc gia có nguồn nhân lực lao động cực kì
phát triển và ổn định và được xem là thời kỳ dân số vàng, bình quân mỗi năm tăng khoảng
một triệu dân. Tuy nhiên, để nguồn nhân lực này có thể phát huy được hết giá trị và nâng cao
chất lượng lao động vẫn cần đến rất nhiều giải pháp cải thiện lực lượng lao động tại Việt
Nam.

1. Nguồn nhân lực lao động là gì?

Nguồn nhân lực là một nguồn lực cho sự phát triển ổn định kinh tế xã hội, đây là những người
có khả năng lao động vẫn trong độ tuổi cho phép theo quy định. Nguồn nhân lực lao động còn
được hiểu là tổng hợp sức lao động của các cá nhân cùng tham gia vào quá trình lao động để
tạo ra các thành phẩm phục vụ cho nhu cầu của cuộc sống con người. Trong quá trình lao
động họ sẽ có cùng yếu tố thể chất và tinh thần cùng hướng đến một mục đích chung trong lao
động. Như vậy nguồn nhân lực lao động được hiểu là những người bắt đầu bước vào độ tuổi
lao động trở lên theo quay định của pháp luật đều có thể tham gia vào nền sản xuất xã hội.

Để đánh giá được nguồn nhân lực có tốt hay không thường mọi người sẽ xem xét dưới góc độ
số lượng và chất lượng. Số lượng của nguồn nhân lực được quyết định dựa vào các chỉ tiêu
quy mô và tốc độ tăng dân số. Quy mô dân số càng lớn, tốc độ tăng dân số càng nhanh thì sẽ
tỷ lệ thuận với việc tăng quy mô và tốc độ của nguồn nhân lực xã hội. Đối với chất lượng của
nguồn nhân lực cũng sẽ được xem xét dựa trên các mặt: tình trạng sức khỏe, trình độ văn hóa,
trình độ chuyên môn và năng lực phẩm chất …

2. Đặc điểm nguồn nhân lực tại Việt Nam

Hiện nay nguồn nhân lực của Việt Nam đang được đánh giá là một trong những quốc gia có
nguồn nhân lực chất lượng nhất với những đặc điểm cụ thể như sau:

Việt Nam là nước có nguồn nhân lực trẻ khoảng 51,2 triệu người trong độ tuổi lao động.

Nguồn nhân lực có quy mô lớn, số lượng tăng nhanh hàng năm.

Năng suất lao động của nguồn nhân lực Việt Nam đang ngày càng tăng cao đáp ứng nhu cầu
thị trường lao động thế giới.
38

Cơ cấu nguồn nhân lực phân bổ còn chưa hợp lý giữa thành thị – nông thôn, thông thường
nguồn nhân lực ở các vùng thành thị có tỷ lệ thất nghiệp cao và thời gian lao động thấp ở khu
vực nông thôn.

Nguồn nhân lực Việt Nam chưa đồng đều về tay nghề, thu nhập thấp.

3. Vai trò của nguồn nhân lực lao động

Có thể thấy, vai trò của nguồn nhân lực lao động đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với mỗi
quốc gia, chính vì thế, hiện nay nhiều quốc gia đã chú trọng vào việc đầu tư vào nguồn nhân
lực. Đây là một cách để tiết kiệm được các chi phí khác nếu như nguồn nhân lực hoạt động
hiệu quả. Một minh chứng rõ ràng nhất chính là các quốc gia như Hàn Quốc, Singapore, Hồng
Kông hay một số nước khác trong khu vực có tỷ lệ tăng trưởng kinh tế nhanh vào thập kỷ
70,80 thì người dân đều đạt mức độ phổ cập tiểu học là thấp nhất.

Tuy nhiên, đối với Hàn Quốc, Nhật Bản ngoài sự đầu tư về chất lượng học tập cho người dân
thì một nguyên nhân nữa thúc đẩy sự phát triển kinh tế của họ chính là nhờ vào những chính
sách kinh tế, trình độ quản lý hiện đại đã tạo ra được một nguồn nhân lực chất lượng cao
không phải quốc gia nào cũng làm được. Không thể phủ nhận vai trò của nguồn nhân lực lao
động đến từ chính con người trong xã hội.

- Con người là động lực của sự phát triển kinh tế xã hội:

Bất cứ một quốc gia nào muốn phát triển đều phải có một động lực thúc đẩy nhất định. Để
phát triển kinh tế xã hội thì cần phải dựa trên nhiều yếu tố khác nhau như: nhân lực (nguồn
lực con người ), Tài lực (nguồn lực về tài chính tiền tệ ), Vật lực (Nguồn lực vật chất, công cụ
lao động đối tượng lao động, tài nguyên thiên nhiên ), … song chỉ có nguồn lực con người
mới là động lực để thúc đẩy sự phát triển cho kinh tế và không ngừng tạo ra các giá trị vật
chất.

Từ xa xưa con người đã luôn lao động bằng thực lực để sản xuất các sản phẩm đáp ứng nhu
cầu của cuộc sống và phục vụ chính bản thân họ. Tuy nhiên, trong thời đại hiện nay khi sản
xuất ngày càng phát triển, phân công lao động ngày càng cao cùng với sự phát triển của công
nghệ đã tạo cơ hội cho việc chuyển dần hoạt động lao động từ con người sang máy móc, cũng
đã thay đổi tính chất của lao động từ thủ công sang trí tuệ và cơ khí giảm dần sức lao động
của con người.

Nhưng ngay cả khi đạt được tiến bộ khoa học kỹ thuật hiện đại đến vậy thì vẫn không thể tách
rời các nguồn lực của con người khi chính con người đã tạo ra những máy móc thiết bị đó và
phải do con người điều khiển thì máy móc cũng mới có thể hoạt động một cách hoàn thiện.
Thậm chí, trong quá trình sản xuất máy móc vẫn xảy ra những sai sót khiến cho các sản phẩm
bị lỗi thì lại cần đến sức lực của con người để sửa chữa, cải thiện lại sản phẩm một cách hoàn
chỉnh.
39

-Con người là mục tiêu của sự phát triển:

Phát triển kinh tế xã hội đến mức nào thì cuối cùng vẫn là để phục vụ cho cuộc sống và công
việc của con người. Con người luôn muốn làm cho cuộc sống ngày càng tốt hơn, xã hội ngày
càng văn minh, nên đương nhiên con người sẽ là mục đích và trung tâm chính của những sự
phát triển đã thể hiện rõ ràng mối quan hệ giữa người lao động và sản xuất tiêu dùng.

Mặc dù mức độ tiêu dùng được quyết định bởi sự phát triển của sản xuất nhưng cũng chính
nhu cầu tiêu dùng của con người tác động tới năng suất sản xuất và định hướng phát triển của
sản xuất thông quan hệ cung cầu hàng hoá trên thị trường. Trên thị trường khi nhu cầu tiêu
dùng của một sản phẩm tăng lên thì cũng sẽ thu hút lao động cần thiết để sản xuất ra mặt hàng
đó và ngược lại.

Nhu cầu của con người vô cùng phong phú và thay đổi qua từng giai đoạn những nhu cầu này
bao gồm nhu cầu về vật chất, nhu cầu về tinh thần. Chính những nhu cầu này sẽ quyết định
đến số lượng và chất lượng của sản phẩm và với từng tầng lớp khách hàng khác nhau cũng sẽ
có phân khúc sản phẩm khác nhau.

-Yếu tố con người trong phát triển kinh tế xã hội:

Con người không chỉ là mục tiêu, động lực của sự phát triển trong lao động mà con người
cũng là các chủ thể tạo ra sự phát triển đó. Trong suốt quá trình phát triển của lịch sử con
người đã chứng minh cần phải có sự lao động chăm chỉ mới tạo ra được một thế giới như thời
điểm hiện tại. Trong mỗi giai đoạn phát triển con người sẽ càng hoàn thiện nâng cao các khả
năng của bản thân để tăng thêm sự cải thiện chất lượng cuộc sống, chinh phục những điều khó
hơn. Một đất nước có thể phát triển mạnh mẽ hay không còn phụ thuộc rất nhiều vào trình độ
khoa học và công nghệ của nghệ của nước đó. Trình độ khoa học và công nghệ lại phụ thuộc
vào khả năng và chuyên môn của con người. Do đó, các quốc gia càng phát triển công nghệ
lại càng có nhiều ưu thế trong kinh tế xã hội.

Con người không chỉ là mục tiêu, động lực của sự phát triển trong lao động mà con người
cũng là các chủ thể tạo ra sự phát triển.

4. Những cách để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực?

Muốn nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cần đến sự kết hợp của nhiều cơ quan quản lý để
đưa ra những chính sách, biện pháp hữu hiệu nhất cho việc phát triển kinh tế xã hội. Để tạo ra
nguồn nhân lực lao động chất lượng cao cần lưu ý đến những biện pháp như sau:

-Chiến lược phát triển nguồn nhân lực:

Nhà nước và doanh nghiệp cần đưa ra chiến lược nguồn nhân lực một cách hợp lý gắn liền với
sự phát triển thiết thực của kinh tế xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Cần phải
nhận định rõ xây dựng nguồn nhân lực vững mạnh là trách nhiệm của những nhà quản lý và
doanh nghiệp, tổ chức.
40

-Đưa ra biện pháp giải quyết trường hợp phát sinh kịp thời:

Các cơ quan, công ty, doanh nghiệp cần đưa ra những biện pháp giải quyết kịp thời để giải
quyết các vấn đề mang tính cấp bách, lâu dài đối với nguồn lực của mỗi quốc gia. Trong đó,
cần phải chú trọng vào việc khai thác, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực để giúp nâng cao
chất lượng mới cso thể cải tạo được chất lượng sản xuất.

Cần có những chương trình và khóa đào tạo chuẩn hóa đối với từng ngành nghề cụ thể, đồng
thời đưa ra những công cụ đánh giá, ghi nhận trình độ của họ qua mỗi thời điểm đào tạo tránh
những việc đào tạo tốn thời gian mà không mang lại chất lượng gì hết.

-Nâng cao trình độ học vấn:

Đây cũng là vấn đề quan trọng mà cần phải thực hiện được ở Việt Nam vì nhìn chung trên cả
nước tỷ lệ biết chữ trong độ tuổi lao động đạt khoảng 97,85%. Do đó cần đưa ra những giải
pháp để nâng cao trình độ học vấn thúc đẩy người dân tích cực hoàn thành chương trình học
tập một cách cơ bản.

-Đưa ra chính sách đãi ngộ hợp lý về nguồn nhân lực:

Nhà nước và doanh nghiệp cần có những chính sách hợp lý để cải thiện đời sống của người
lao động dựa trên thực tiễn. Qua đó có thể đưa ra các chính sách đãi ngộ, hướng nghiệp một
cách thỏa đáng thúc đẩy sự phát triển của người lao động như:

Mở thêm nhiều lớp hướng nghiệp, dạy nghề, học nghề

Dự báo nhu cầu lao động trong thời gian tới

Đưa ra chính sách cụ thể với những lao động Việt Nam làm ở nước ngoài

Chính sách đảm bảo quyền và mức lương xứng đáng cũng như bảo vệ các quyền lợi an sinh
xã hội của người lao động.

Việt Nam đang trở thành điểm đến được nhiều nhà đầu tư yêu thích vì có nguồn nhân lực trẻ
trung, năng động.

Việt Nam là một trong những quốc gia được nhiều các nhà đầu tư nước ngoài chú trọng đến vì
đây là một thị trường có nguồn nhân lực lao động phát triển và trẻ hóa, chúng ta cần dựa vào
đó để cải thiện tình hình phát triển kinh tế xã hội.

Xu hướng phát triển kỹ năng lao động Việt Nam

(TG) - Kỹ năng là khả năng vận dụng những kiến thức thu nhận được trong một lĩnh vực nào
đó vào thực tế (Từ điển Tiếng Việt); là khả năng thực hiện một hoạt động với những kết quả
xác định thường trong khoảng một thời gian, năng lượng hoặc cả hai (theo Bách khoa toàn
thư).
41

Kỹ năng là sự thành thục khi áp dụng tri thức vào thực tiễn nghề nghiệp. Kỹ năng có được khi
người lao động lặp lại nhiều lần có hoàn thiện những thao tác, hoạt động nhất định nào đó.
Theo tổ chức kỹ năng nghề quốc tế (Worldskills International), kỹ năng được xác định là sự
thành thạo cụ thể mà thông thường có được bằng giáo dục, đào tạo và thực hành.

Kỹ năng lao động là kỹ năng quan trọng, bắt buộc, cần thiết mà một cá nhân cần có để được
thừa nhận có kỹ năng để thực hiện có hiệu quả và có khả năng lựa chọn nguồn lực hoặc giải
pháp thay thế để đạt được những kết quả đầu ra của các nhiệm vụ hay công việc trong bối
cảnh, điều kiện cụ thể khi làm việc ở một nghề hoặc một ngành sản xuất, kinh doanh, dịch vụ.

Kỹ năng nghề là khả năng thực hiện nhiệm vụ hay công việc nhất định của một nghề trong bối
cảnh, điều kiện cụ thể của nghề.

Một số kỹ năng cốt lõi theo Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) xác định cho cuộc sống và công
việc trong thế kỷ 21: Là một tập hợp các kỹ năng phi kỹ thuật, chẳng hạn như kỹ năng xã hội
và cảm xúc, kỹ năng nhận thức và siêu nhận thức, kỹ năng số căn bản, kỹ năng xanh căn
bản... có thể dùng chung giữa các ngành, nghề, cũng như giữa các công việc với mức độ yêu
cầu từ thấp đến cấp cao. Cả kỹ năng cốt lõi và các kỹ năng chuyên môn kỹ thuật là yêu cầu
cần thiết cho mọi cá nhân người lao động giúp họ tìm được việc làm, duy trì việc làm và phát
triển nghề nghiệp trong một thế giới việc làm việc thay đổi nhanh chóng, ứng dụng công nghệ
số trong công việc và cuộc sống, đạt được các mục tiêu cuộc sống và đóng góp cho hạnh phúc
của chính người lao động và của cộng đồng.

Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) là sự kết hợp của công nghệ trong các
lĩnh vực vật lý, công nghệ số và sinh học, tạo ra những khả năng sản xuất hoàn toàn mới và có
tác động sâu sắc đến đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của thế giới. Có thể khái quát bốn đặc
trưng chính của CMCN 4.0: (1). Dựa trên nền tảng của sự kết hợp công nghệ cảm biến mới,
phân tích dữ liệu lớn, điện toán đám mây và kết nối internet vạn vật sẽ thúc đẩy sự phát triển
của máy móc tự động hóa và hệ thống sản xuất thông minh. (2). Sử dụng công nghệ in 3D để
sản xuất sản phẩm một cách hoàn chỉnh nhờ nhất thể hóa các dây chuyền sản xuất không phải
qua giai đoạn lắp ráp các thiết bị phụ trợ - công nghệ này cũng cho phép con người có thể in
ra sản phẩm mới bằng những phương pháp phi truyền thống, bỏ qua các khâu trung gian và
giảm chi phí sản xuất nhiều nhất có thể. (3). công nghệ nano và vật liệu mới tạo ra các cấu
trúc vật liệu mới ứng dụng rộng rãi trong hầu hết các lĩnh vực. (4). Trí tuệ nhân tạo và điều
khiển học cho phép con người kiểm soát từ xa, không giới hạn về không gian, thời gian,
tương tác nhanh hơn và chính xác hơn.

Những đột phá về mặt công nghệ đã và đang tác động nhanh chóng tới chất lượng cung - cầu
và cơ cấu thị trường lao động, tự động hóa xóa nhòa ranh giới giữa các công việc trong thế
giới việc làm, ở nhiều lĩnh vực, ngành nghề, robot đang dần thay thế vị trí con người. Thị
trường lao động toàn cầu đang trong quá trình thay đổi về chất, một quá trình khách quan và
không chờ đợi bất kỳ quốc gia nào nếu chưa có sự chuẩn bị sẵn sàng ứng phó với làn sóng
42

thay đổi của khoa học công nghệ 4.0. Nói cách khách, CMCN 4.0 đang mở ra những cơ hội
rộng lớn về việc làm, sự thịnh vượng của mỗi quốc gia và cải thiện cuộc sống công dân toàn
cầu. Trái lại, cuộc cách mạng này cũng mang tới nhiều thách thức như sự thiếu hụt kỹ năng
của thị trường lao động, sự bất bình đẳng và phân cực trong xã hội ngày một lớn hơn nếu các
quốc gia không có sự chuẩn bị tốt nhất để ứng phó. Theo báo cáo tại Diễn đàn kinh tế thế giới
(WEF 2018), quá trình chuyển đổi của thị trường lao động ở mỗi quốc gia cơ bản dựa trên các
xu hướng sau đây:

Thứ nhất, sự xuất hiện các công nghệ mới chưa từng có bao gồm: Internet vạn vật, trí tuệ
nhân tạo, dự liệu lớn, điện toán đám mây đã và đang là động lực của tăng trưởng kinh tế toàn
cầu giai đoạn 2018 - 2022.

Thứ hai, thế giới đang đẩy mạnh ứng dụng các công nghệ mới, tới năm 2022, ước tính khoảng
85% doanh nghiệp toàn cầu có xu hướng mở rộng ứng dụng công nghệ dữ liêu lớn. Tương tự,
có tỷ lệ lớn các doanh nghiệp mở rộng ứng dụng công nghệ như Internet vạn vật, các thị
trường hỗ trợ ứng dụng Web, điện toán đám mây, thực tế ảo.

Thứ ba, robot hóa trong công việc đang là xu hướng của doanh nghiệp toàn cầu cho dù trong
giai đoạn 2018 – 2022 vẫn còn hạn chế, xong một số mô hình ứng dụng công nghệ Robot đã
được thương mại hóa, có khoảng từ 23% tới 37% các doanh nghiệp có xu hướng đầu tư ứng
dụng công nghệ này trong hầu khắp quy mô công nghiệp.

Thứ tư, tự động hóa đang làm thay đổi loại hình công việc trong thế giới việc làm. Khoảng
50% doanh nghiệp cho rằng, tự động hóa sẽ giảm bớt đáng kể nhân lực tại doanh nghiệp. Tuy
vậy, 38% doanh nghiệp mong muốn tự động hóa sẽ mở rộng nhân lực theo hướng nâng cao
năng suất tại doanh nghiệp và 25% doanh nghiệp kỳ vọng tự động hóa sẽ tạo ra các vị trí việc
làm mới tại doanh nghiệp.

Thứ năm, tự động hóa và các công nghệ mới sẽ thu hẹp ranh giới giữa con người và máy móc
trong hoạt động của doanh nghiệp. Máy móc có xu hướng dần thay thế con người trong công
việc. Theo ước tính, năm 2018 trung bình có 71% số giờ trong 12 lĩnh vực công nghiệp thực
hiện bởi con người, 29% số giờ thực hiện bởi máy móc. Kỳ vọng tới năm 2022, tỷ lệ có sự
thay đổi với 58% số giờ thực hiện bởi con người, 42% thực hiện bởi máy móc.

Thứ sáu, với sự tác động của công nghệ mới và tự động hóa, kỹ năng lao động ngày càng có
xu hướng kém ổn định, thay đổi nhanh chóng. Xuất hiện yêu cầu về đào tạo lại, đào tạo kỹ
năng nghề thiếu hụt cho người lao động. Theo báo cáo, đến năm 2022, trên 54% người lao
động tại doanh nghiệp cần phải được đào tạo lại hoặc đào tạo nâng cao kỹ năng nghề nghiệp.
Trong số này, khoảng 35% có nhu cầu tham gia khóa đào tạo bổ sung kỹ năng thiếu hụt kéo
dài khoảng 6 tháng, 9% có nhu cầu với khóa đào tạo từ 6 đến 12 tháng, trong khi 10% đỏi hỏi
khóa đào tạo có thời gian trên 1 năm. Nhu cầu về kỹ năng tiếp tục tăng mạnh và đạt đỉnh điểm
43

trong năm 2022 với các kỹ năng phản biện, đổi mới sáng tạo, kỹ năng chiến lược học tập
tương tác. Vai trò, tầm quan trọng của nhóm kỹ năng thiết kế công nghệ, lập trình sẽ tăng lên
trong hầu khắp các lĩnh vực khoa học công nghệ. Tuy nhiên, thành thạo về công nghệ chỉ
chiếm 50% về mức độ quan trọng, 50% còn lại dành cho các kỹ năng “con người” như kỹ
năng sáng tạo, tư duy phản biện, kỹ năng đàm phán, kỹ năng giải quyết vấn đề mang tính tích
hợp, linh hoạt.

Thứ bảy, các chiến lược giải quyết vấn đề thiếu hụt kỹ năng người lao động tại doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp đưa ra 3 chiến lược để ứng phó với sự thiếu hụt kỹ năng do sự tác động của
công nghệ: Tuyển mới nhân lực có kỹ năng nghề phù hợp với công nghệ mới; tìm kiếm giải
pháp tự động hóa hoàn toàn đối với các công việc liên quan; đào tạo lại kỹ năng nghề nghiệp
cho lao động tại doanh nghiệp. Tuy vậy, gần 25% số doanh nghiệp không có ý định đào tạo
lại kỹ năng nghề cho người lao động tại doanh nghiệp, trong khi đó gần 67% doanh nghiệp
mong muốn lao động tại doanh nghiệp có thể bổ sung các kỹ năng thiếu hụt thông qua các
khóa đào tạo giúp chuyển đổi nghề nghiệp.

Tại Việt Nam, dự báo trong 10 năm tới, khoảng 70% số việc làm có rủi ro cao, 18% có rủi ro
trung bình và 12% có rủi ro thấp. Đặc biệt, cuộc CMCN 4.0 không chỉ đe dọa việc làm và an
sinh xã hội đối với những lao động trình độ kỹ năng thấp mà ngay cả lao động có kỹ năng bậc
trung cũng sẽ bị ảnh hưởng, nếu như họ không được trang bị những kỹ năng mới để thích ứng
với cuộc CMCN 4.0. Theo một số chuyên gia, những ngành nghề liên quan đến lao động giản
đơn, sử dụng nhiều lao động như: Nông nghiệp, dệt may, lắp ráp, thủ công... sẽ chịu rủi ro
nhất từ cuộc CMCN 4.0 trong khi lao động các ngành nghề này chiếm tỷ trọng lớn trong lực
lượng lao động (khoảng 68%).

Như vậy, dưới tác động của cách mạng công nghiệp, khả năng dẫn đến tỷ lệ thất nghiệp cao
trong thị trường lao động là tất yếu sẽ xảy ra. Do đó, nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng mới
để bù đắp những kỹ năng thiếu hụt cho người lao động có nhu cầu rất lớn.

Để có những định hướng đúng đắn, nhằm phát triển kỹ năng nghề cho lực lượng lao động
nước ta thích ứng với xu hướng cuộc CMCN 4.0. Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản
chỉ đạo quan trọng:

1. Luật Việc làm 2013 quy định về hoạt động đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia
tại Chương IV (Điều 29 đến Điều 35); quy định mục đích của đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ
năng nghề quốc gia nhằm: (i) Đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia nhằm công
nhận cấp độ theo trình độ kỹ năng của người lao động và (ii) người lao động được tham gia
đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia để hoàn thiện năng lực nghề nghiệp của bản
thân, tìm công việc phù hợp hoặc công việc yêu cầu phải có chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia;
44

2. Chỉ thị số 37-CT/TW ngày 06/6/2014 của Ban Bí thư khóa X về tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng đối với công tác đào tạo nhân lực có tay nghề cao, theo đó Chỉ thị xác định: “Định
hướng đào tạo nhân lực có tay nghề cao phải trên cơ sở nhu cầu thực tế về nguồn nhân lực của
thị trường lao động, lấy tín nhiệm của thị trường lao động đối với người học sau khi tốt
nghiệp là tiêu chí để đánh giá uy tín, chất lượng của các cơ sở giáo dục nghề nghiệp”.

3. Quyết định số 622/QĐ-TTg ngày 10/5/2017 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành
Chương trình hành động quốc gia thực hiện chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền
vững, đặt nhiệm vụ “Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao để
phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước theo các mục tiêu phát triển bền vững ở mọi lĩnh vực”.

4. Quyết định số 681/QĐ-TTg ngày 04/6/2019 về việc ban hành lộ trình thực hiện các mục
tiêu phát triển bền vững đến 2030. Trong đó đặt mục tiêu tăng đáng kể số lao động có các kỹ
năng phù hợp với nhu cầu thị trường lao động để có việc làm tốt và làm chủ doanh nghiệp đến
năm 2025 và 2030 có tỷ lệ lao động qua đào tạo lần lượt là 70% và 75%; tỷ lệ lao động có
các kỹ năng công nghệ thông tin lần lượt là 80% và 90%.

5. Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị khóa XII về một số chủ trương,
chính sách chủ động tham gia cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, theo đó tại khoản 5,
Mục III đã nêu về chính sách phát triển nguồn nhân lực: “Rà soát tổng thể, thực hiện đổi mới
nội dung và chương trình giáo dục, đào tạo theo hướng phát triển năng lực tiếp cận, tư duy
sáng tạo và khả năng thích ứng với môi trường công nghệ liên tục thay đổi và phát triển”;
“Đổi mới cách dạy và học trên cơ sở áp dụng công nghệ số; lấy đánh giá của doanh nghiệp
làm thước đo cho chất lượng đào tạo của các trường đại học trong lĩnh vực công nghệ thông
tin. Khuyến khích các mô hình giáo dục, đào tạo mới dựa trên các nền tảng số”.

6. Chỉ thị số 24/CT-TTg ngày 28/5/2020 của Thủ tướng Chính phủ về đẩy mạnh và phát triển
nhân lực có kỹ năng nghề, góp phần nâng cao năng suất lao động và tăng năng lực cạnh tranh
quốc gia trong tình hình mới, theo đó “khuyến khích các doanh nghiệp công nhận, tuyển
dụng, sử dụng, trả tiền lương, tiền công cho người lao động dựa trên kỹ năng và năng lực
hành nghề; tuyển dụng, sử dụng người lao động đã qua đào tạo hoặc có chứng chỉ kỹ năng
nghề quốc gia theo quy định của pháp luật”.

7. Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Chương
trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”. Theo đó mục tiêu
đến 2030 “Chương trình Chuyển đổi số quốc gia nhằm mục tiêu kép là vừa phát triển Chính
phủ số, kinh tế số, xã hội số, vừa hình thành các doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam có
năng lực đi ra toàn cầu”.
45

8. Quyết định số 1486/QĐ-TTg ngày 01/10/2020 của Thủ tướng Chính phủ về ngày kỹ năng
lao động Việt Nam nhằm mục đích: Hưởng ứng Ngày Kỹ năng thanh niên thế giới hằng năm
(ngày 15/7) được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua năm 2014; đồng thời kêu gọi cộng
đồng trong nước hưởng ứng và ủng hộ phát triển kỹ năng lao động bằng các hành động cụ thể
để nâng tầm kỹ năng lao động Việt Nam, góp phần nâng cao năng suất, hiệu quả lao động và
năng lực cạnh tranh quốc gia. Khích lệ tinh thần học tập, rèn luyện suốt đời để nâng cao kỹ
năng trình độ của học sinh, sinh viên và người lao động; tôn vinh và khẳng định vị thế, tầm
quan trọng của người lao động có kỹ năng nhất là người lao động có tay nghề cao, kỹ năng
nghề nghiệp xuất sắc. Thúc đẩy sự đồng hành, gắn kết của Nhà nước - Nhà trường - Nhà
doanh nghiệp và toàn xã hội trong phát triển kỹ năng cho người lao động thích ứng với bối
cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.

9. Quyết định số 2289/QĐ-TTg ngày 31/12/2020 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Chiến
lược quốc gia về cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đến năm 2030. Theo đó, quy định “đánh
giá kỹ năng người lao động trong tương quan với yêu cầu của cách mạng công nghiệp lần thứ
tư và đề xuất giải pháp, chính sách nâng cao kỹ năng của lực lượng lao động”; “Xây dựng các
chương trình đào tạo lại cho người lao động để chuyển đổi sang các công việc cần các kỹ
năng mới của cách mạng công nghiệp lần thứ tư”.

10. Quyết định số 176/QĐ-TTg ngày 05/02/2021 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành
Chương trình hỗ trợ phát triển thị trường lao động đến năm 2030, đặt ra giao nhiệm vụ “Thiết
kế các chương trình đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng lao động dựa trên các tiêu chuẩn kỹ năng
nghề”; “Kiện toàn tổ chức, nhân sự và nâng cao hiệu quả của các công cụ giám sát, đánh giá,
công nhận kỹ năng nghề nghiệp theo tiêu chuẩn quốc gia để người lao động được đánh giá và
công nhận, phản ánh đúng năng lực làm việc thực tế” nhằm đảm bảo việc hỗ trợ phát triển
cung - cầu lao động.

11. Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội Việt Nam giai đoạn 2021-2030, đặt ra nhiệm vụ đột
phá chiến lược “Đẩy nhanh thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện và nâng cao chất lượng giáo
dục, đào tạo, trọng tâm là hiện đại hoá và thay đổi phương thức giáo dục, đào tạo, nhất là giáo
dục đại học, giáo dục nghề nghiệp. Chú trọng đào tạo nhân lực chất lượng cao, phát hiện và
bồi dưỡng nhân tài; có chính sách vượt trội để thu hút, trọng dụng nhân tài, chuyên gia trong
và ngoài nước” và nhiệm vụ “Đào tạo con người theo hướng có đạo đức, kỷ luật, kỷ cương, ý
thức trách nhiệm công dân, xã hội; có kỹ năng sống, kỹ năng làm việc, ngoại ngữ, công nghệ
thông tin, công nghệ số, tư duy sáng tạo và hội nhập quốc tế (công dân toàn cầu)”;

12. Bộ luật Lao động 2019 quy định hoạt động giáo dục nghề nghiệp và Phát triển kỹ năng ở
Chương IV (từ Điều 59 đến Điều 62); quy định Nhà nước có chính sách phát triển, phân bố
nguồn nhân lực; nâng cao năng suất lao động; đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao trình độ kỹ
năng nghề cho người lao động; hỗ trợ duy trì, chuyển đổi nghề nghiệp, việc làm cho người lao
động; ưu đãi đối với người lao động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao đáp ứng yêu cầu
46

của cách mạng công nghiệp, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; phát triển thị
trường lao động, đa dạng các hình thức kết nối cung, cầu lao động; người lao động được tự do
lựa chọn đào tạo nghề nghiệp, tham gia đánh giá, công nhận kỹ năng nghề quốc gia, phát triển
năng lực nghề nghiệp phù hợp với nhu cầu việc làm và khả năng của mình; Tổ chức thi kỹ
năng nghề cho người lao động; tham gia hội đồng kỹ năng nghề; dự báo nhu cầu và xây dựng
tiêu chuẩn kỹ năng nghề; tổ chức đánh giá và công nhận kỹ năng nghề; phát triển năng lực
nghề nghiệp cho người lao động; Cấm các hành vi sử dụng lao động chưa qua đào tạo hoặc
chưa có chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia đối với nghề, công việc phải sử dụng lao động đã
được đào tạo hoặc phải có chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia.

Có thể khẳng định, phát triển nguồn nhân lực có kỹ năng lao động, nhất là nguồn nhân lực
chất lượng cao gắn kết chặt chẽ với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ được coi là
một đột phá chiến lược, là yếu tố quyết định để cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình
tăng trưởng và lợi thế cạnh tranh, bảo đảm cho phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững. Trong
bối cảnh hội nhập quốc tế và Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư sự xuất hiện công nghệ
mới, tự động hóa và một số xu hướng phát triển có ảnh hưởng sâu sắc tới thị trường lao động,
làm thay đổi cấu trúc việc làm và yêu cầu mới về kỹ năng lao động. Trình độ kỹ năng người
lao động càng cao sẽ thúc đẩy nhanh tốc độ ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ hiện đại,
giúp doanh nghiệp khai thác, sử dụng hiệu quả các nguồn lực và đổi mới mô hình sản xuất
kinh doanh từ đó nâng cao năng suất lao động và năng lực cạnh tranh. Do vậy, để giữ lợi thế
cạnh tranh của doanh nghiệp bên cạnh đầu tư công nghệ và vốn thì nguồn nhân lực có kỹ
năng động trở thành nhân tố có tính quyết định đối với tăng trưởng bền vững./.

Thủ tướng Tập Cận Bình thăm VN

TCCS - Nhận lời mời của Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
Nguyễn Phú Trọng và Phu nhân, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Võ Văn
Thưởng và Phu nhân, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc,
Chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Tập Cận Bình và Phu nhân đã tới Thủ đô Hà
Nội, bắt đầu chuyến thăm cấp Nhà nước tới Việt Nam từ ngày 12-12 đến ngày 13-12-2023.

Lễ đón chính thức Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình và Phu nhân được
tổ chức trọng thể tại Phủ Chủ tịch theo nghi thức cao nhất dành đón nguyên thủ quốc gia.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Phu nhân chủ trì lễ đón.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Phu nhân chủ trì lễ đón Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Cộng
hòa Nhân dân Trung Hoa Tập Cận Bình và Phu nhân_Ảnh: TTXVN

Ngay sau lễ đón, tại trụ sở Trung ương Đảng, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã tiến hành
hội đàm với Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng bày tỏ vui mừng và nhiệt liệt chào mừng Tổng Bí thư, Chủ
tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình cùng Phu nhân và Đoàn đại biểu cấp cao Đảng, Nhà
47

nước Trung Quốc sang thăm cấp Nhà nước Việt Nam. Tổng Bí thư nhấn mạnh chuyến thăm
Việt Nam lần thứ ba của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình diễn ra đúng
vào dịp hai nước kỷ niệm 15 năm thiết lập quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện (2008
- 2023), thể hiện tình cảm đặc biệt của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tập Cận Bình đối với
truyền thống hữu nghị, tầm vóc quan hệ song phương hiện nay cũng như triển vọng tốt đẹp
trong thời gian tới của quan hệ hai nước. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tin tưởng chuyến
thăm là một dấu mốc lịch sử mới, đưa quan hệ giữa hai Đảng, hai nước lên tầm cao mới, đáp
ứng nguyện vọng và lợi ích chung của nhân dân hai nước, vì hòa bình, hợp tác và phát triển
của khu vực và thế giới.

Trong bầu không khí thân tình, hữu nghị, chân thành, thẳng thắn, hai nhà lãnh đạo đã đi sâu
trao đổi về tình hình mỗi Đảng, mỗi nước, quan hệ hai Đảng, hai nước và những vấn đề khu
vực, quốc tế cùng quan tâm.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng một lần nữa chúc mừng và đánh giá cao ý nghĩa lịch sử, dấu
mốc quan trọng của Đại hội XX Đảng Cộng sản Trung Quốc với việc xác lập vị trí “hạt nhân”
của đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tập Cận Bình và vai trò chỉ đạo của tư tưởng Tập
Cận Bình về chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc trong thời đại mới. Tổng Bí thư chúc mừng
Trung Quốc dưới sự lãnh đạo của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tập Cận Bình đã giành được
nhiều thành tựu to lớn mới từ sau Đại hội XX đến nay. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tin
tưởng Đảng, Nhà nước và nhân dân Trung Quốc sẽ hoàn thành các mục tiêu, nhiệm vụ Đại
hội XX đề ra, thực hiện thắng lợi mục tiêu phấn đấu 100 năm thứ hai, xây dựng Trung Quốc
thành cường quốc hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa giàu mạnh, dân chủ, văn minh, hài hòa và
tươi đẹp.

Chia sẻ về tình hình Việt Nam, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cho biết, Đại hội XIII của
Đảng Cộng sản Việt Nam đã đánh giá đất nước chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế
và uy tín quốc tế như ngày nay. Tổng Bí thư nhấn mạnh qua nửa nhiệm kỳ của Đại hội XIII,
trong bối cảnh khó khăn, thách thức đặt ra gay gắt, phức tạp hơn so với dự báo, Việt Nam đã
phấn đấu và đạt được những kết quả quan trọng, khá toàn diện trên các lĩnh vực. Tổng Bí thư
Nguyễn Phú Trọng chia sẻ về mục tiêu, định hướng phấn đấu đưa Việt Nam trở thành nước
phát triển có thu nhập cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào giữa thế kỷ này, cùng với các
mục tiêu phát triển cụ thể cho các năm 2025, 2030 và 2045 được đề ra tại Đại hội XIII của
Đảng.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định đường lối đối ngoại nhất quán của Đảng, Nhà
nước Việt Nam là độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa
phương hóa quan hệ đối ngoại cũng như đường lối quốc phòng “4 không”; chủ động và tích
cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng. Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên
tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định
48

Việt Nam coi phát triển quan hệ với Trung Quốc là ưu tiên hàng đầu và là sự lựa chọn chiến
lược; ủng hộ nước Trung Quốc xã hội chủ nghĩa phát triển lớn mạnh, đóng góp ngày càng
quan trọng hơn vào sự nghiệp hòa bình và tiến bộ của nhân loại. Tổng Bí thư Nguyễn Phú
Trọng bày tỏ trân trọng sự giúp đỡ của nhân dân Trung Quốc đối với sự nghiệp cách mạng và
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, phát triển đất nước của Việt Nam.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình bày tỏ vui mừng thăm lại Việt Nam,
xúc động được gặp lại Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng; cảm ơn sự đón tiếp trọng thị, thân
tình, chu đáo của Đảng, Nhà nước, nhân dân Việt Nam và Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đối
với cá nhân Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tập Cận Bình và Phu nhân và Đoàn đại biểu cấp cao
Đảng, Nhà nước Trung Quốc.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình nhiệt liệt chúc mừng, đánh giá cao
những thành tựu mà Việt Nam đã đạt được trong gần 40 năm đổi mới, đặc biệt là những thành
quả quan trọng, toàn diện trong triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng Cộng
sản Việt Nam, thúc đẩy sức mạnh tổng hợp và không ngừng nâng cao ảnh hưởng, vị thế quốc
tế. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tập Cận Bình tin tưởng dưới sự lãnh đạo kiên cường của Đảng
Cộng sản Việt Nam đứng đầu là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Đảng, Nhà nước và nhân
dân Việt Nam nhất định sẽ thực hiện thắng lợi các mục tiêu và nhiệm vụ lớn mà Đại hội XIII
đề ra, tạo tiền đề quan trọng cho việc thực hiện thắng lợi hai mục tiêu 100 năm mà Đại hội
XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình khẳng định, Đảng, Chính phủ và nhân
dân Trung Quốc coi trọng cao độ quan hệ với Việt Nam, coi Việt Nam là phương hướng ưu
tiên trong chính sách ngoại giao láng giềng; khẳng định Trung Quốc kiên định ủng hộ sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của Việt Nam, ủng hộ Việt Nam phát triển phồn vinh, nhân
dân hạnh phúc. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tập Cận Bình nhắc lại và nhấn mạnh sự kiện
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng lên thăm cửa khẩu Hữu nghị và trồng cây hữu nghị vừa qua
chính là gửi gắm thông điệp về niềm tin và sự phát triển trong quan hệ hai Đảng, hai nước và
nhân dân hai nước.

Hai nhà lãnh đạo đã cùng nhìn lại quá trình phát triển quan hệ hai Đảng, hai nước, nhất trí cho
rằng tình hữu nghị truyền thống vừa là đồng chí, vừa là anh em do Chủ tịch Hồ Chí Minh,
Chủ tịch Mao Trạch Đông cùng các nhà lãnh đạo tiền bối đích thân gây dựng và dày công vun
đắp là tài sản quý báu của nhân dân hai nước, cần không ngừng kế thừa và phát huy. Hai nhà
lãnh đạo nhất trí đánh giá 15 năm kể từ khi hai nước thiết lập quan hệ đối tác hợp tác chiến
lược toàn diện vào năm 2008 đến nay và với phương châm “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn
diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và tinh thần “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí
tốt, đối tác tốt”, hợp tác trên các lĩnh vực đã đạt được nhiều tiến triển tích cực, toàn diện; quan
hệ hai Đảng, hai nước không ngừng mở rộng và đi vào chiều sâu.
49

Từ việc coi trọng cao độ quan hệ giữa hai Đảng, hai nước, với những thành tựu của quan hệ
đối tác hợp tác chiến lược toàn diện trong 15 năm qua và trước những yêu cầu mới, hai bên
nhất trí xây dựng Cộng đồng chia sẻ tương lai Việt Nam - Trung Quốc có ý nghĩa chiến lược,
nỗ lực vì hạnh phúc của nhân dân hai nước, vì hòa bình và tiến bộ của nhân loại, phù hợp với
Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, trên nguyên tắc tôn trọng lẫn nhau, hợp tác
bình đẳng cùng có lợi, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, kiên trì
giải quyết bất đồng thông qua biện pháp hòa bình.

Quang cảnh hội đàm_Ảnh: TTXVN

Theo các định hướng, nguyên tắc nêu trên, hai bên nhất trí không ngừng củng cố tin cậy chính
trị, tăng cường giao lưu giữa lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai nước thông qua các hình thức đa
dạng, linh hoạt, phát huy vai trò định hướng chiến lược của quan hệ kênh Đảng đối với tổng
thể quan hệ song phương. Hai bên nhất trí tăng cường hợp tác quốc phòng - an ninh thực chất
hơn, trở thành một trong những trụ cột của quan hệ song phương; đẩy mạnh hợp tác kinh tế,
thương mại, đầu tư bền vững và sâu sắc hơn; tăng cường giáo dục về quan hệ truyền thống
quan hệ hai Đảng, hai nước, thúc đẩy xây dựng nền tảng xã hội vững chắc hơn cho quan hệ
hai Đảng, hai nước; tăng cường phối hợp đa phương chặt chẽ hơn, vì lợi ích của hai nước và
đóng góp tích cực vào lợi ích chung của cộng đồng quốc tế.

Về vấn đề trên biển, hai nhà lãnh đạo đã đi sâu trao đổi ý kiến chân thành, thẳng thắn, nhấn
mạnh cần kiểm soát tốt hơn và tích cực giải quyết bất đồng trên biển, duy trì hòa bình, ổn định
ở Biển Đông và khu vực. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đề nghị hai bên cùng thực hiện tốt
những nhận thức chung cấp cao, tôn trọng các lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhau, không
làm phức tạp thêm tình hình, giải quyết tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình, phù hợp với
luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Luật Biển năm 1982 của Liên hợp quốc (UNCLOS
1982), thực hiện Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), thúc đẩy Bộ Quy tắc
ứng xử ở Biển Đông (COC) phù hợp với UNCLOS 1982.

Tại hội đàm, hai Tổng Bí thư đã đi sâu trao đổi nhiều vấn đề quốc tế, khu vực cùng quan tâm.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh trong bối cảnh tình hình quốc tế, khu vực có
nhiều diễn biến phức tạp, điều quan trọng là các nước cùng thực hiện chính sách hòa bình,
hợp tác và phát triển, tuân thủ luật pháp quốc tế, tôn trọng sự bình đẳng, lợi ích chính đáng
của nhau, giải quyết các bất đồng bằng biện pháp hòa bình, không đe dọa và sử dụng vũ lực
trong quan hệ quốc tế; hợp tác cùng phát triển, phối hợp ứng phó với các thách thức an ninh
truyền thống cũng như phi truyền thống.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình nhất trí với ý kiến của Tổng Bí thư
Nguyễn Phú Trọng về việc hai bên cùng chỉ đạo, quán triệt sâu rộng trong toàn Đảng, toàn
dân, toàn quân của hai nước tinh thần cao hơn, quyết tâm lớn hơn để thúc đẩy quan hệ Việt -
Trung phát triển vững chắc, ổn định, bền vững lâu dài và hiệu quả hơn nữa trên tầm cao mới
của quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện.
50

Sau hội đàm cấp cao, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Trung
Quốc Tập Cận Bình đã cùng xem và nghe giới thiệu về 36 văn bản thỏa thuận hợp tác trên
nhiều lĩnh vực được ký kết giữa các ban, bộ ngành, địa phương hai nước, thể hiện thành quả
phong phú, toàn diện mà hai bên đạt được trong chuyến thăm lần này./.

Ý nghĩa chuyến thăm Việt Nam của Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình

Đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc cho rằng chuyến thăm Việt Nam của Tổng Bí thư, Chủ tịch
Trung Quốc Tập Cận Bình sẽ nâng tầm Quan hệ Đối tác Hợp tác Chiến lược Toàn diện Việt
Nam-Trung Quốc.

Nhận lời mời của Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn
Phú Trọng và Phu nhân, Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam Võ Văn
Thưởng và Phu nhân, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc,
Chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Tập Cận Bình và Phu nhân thăm cấp Nhà nước
tới Việt Nam trong hai ngày 12 và 13/12.

Nhân dịp này, Đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc Phạm Sao Mai đã có cuộc trả lời phỏng vấn
báo chí Việt Nam tại địa bàn về quan hệ hai nước cũng như ý nghĩa và tầm quan trọng của
chuyến thăm.

Nói về ý nghĩa chuyến thăm Việt Nam lần này của Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập
Cận Bình đối với Quan hệ Đối tác Hợp tác Chiến lược Toàn diện Việt Nam-Trung Quốc, Đại
sứ Phạm Sao Mai cho biết đây là chuyến thăm Việt Nam lần thứ 3 của Tổng Bí thư, Chủ tịch
nước Tập Cận Bình trên cương vị Người đứng đầu Đảng và Nhà nước Trung Quốc, diễn ra
vào thời điểm rất có ý nghĩa, đúng vào dịp hai nước kỷ niệm 15 năm thiết lập Quan hệ Đối tác
Hợp tác Chiến lược Toàn diện, là sự nối tiếp các hoạt động giao lưu cấp cao giữa hai Đảng,
hai nước từ sau chuyến thăm lịch sử tới Trung Quốc của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng
(30/10-01/11/2022), thể hiện sự coi trọng của Đảng và Nhà nước Trung Quốc và cá nhân
Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đối với quan hệ Việt Nam-Trung Quốc.

Lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai nước sẽ đi sâu trao đổi các định hướng lớn, toàn diện về việc
làm sâu sắc và nâng tầm Quan hệ Đối tác Hợp tác Chiến lược Toàn diện Việt Nam-Trung
Quốc; phát huy truyền thống giao lưu giữa lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai nước nhằm củng cố
hơn nữa tin cậy chính trị; tích cực thúc đẩy các lĩnh vực hợp tác ngày càng đi vào chiều sâu,
góp phần đưa quan hệ song phương bước sang giai đoạn phát triển mới thực chất hơn, hiệu
quả hơn.

Kế thừa truyền thống hữu nghị và thông lệ giữa hai bên, Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt
Nam hết sức coi trọng chuyến thăm, sẽ dành cho Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận
Bình sự tiếp đón đặc biệt, thắm tình hữu nghị, đồng chí anh em.
51

Thời gian qua, quan hệ Việt-Trung tiếp tục duy trì đà phát triển ổn định, có những bước tiến
triển mới, đặc biệt sau chuyến thăm Trung Quốc của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng (30/10-
01/11/2022).

Trong bức tranh sáng màu ấy, nói về điểm nhấn ấn tượng nhất trong quan hệ hai nước, Đại sứ
Phạm Sao Mai cho biết, trước tiên, cần phải khẳng định chuyến thăm chính thức Trung Quốc
của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng (30/10-01/11/2022) đã tạo xung lực mạnh mẽ để hai
nước không ngừng củng cố và tăng cường quan hệ láng giềng hữu nghị và hợp tác toàn diện,
tạo nền tảng thuận lợi đưa quan hệ Việt-Trung bước sang giai đoạn phát triển mới, toàn diện
và bền vững.

Thời gian qua, với nỗ lực chung của cả hai bên, Quan hệ Đối tác Hợp tác Chiến lược Toàn
diện Việt Nam-Trung Quốc về tổng thể tiếp tục duy trì đà phát triển ổn định, đạt nhiều thành
quả quan trọng. Đặc biệt, kể từ đầu năm nay sau khi Trung Quốc tối ưu hóa chính sách phòng
chống dịch COVID-19, giao lưu hợp tác trực tiếp giữa hai nước chính thức được khôi phục và
đạt nhiều tiến triển tích cực.

Về quan hệ chính trị, trao đổi, tiếp xúc cấp cao diễn ra mật thiết, góp phần quan trọng vào
việc tăng cường tin cậy chính trị giữa hai Đảng, hai nước.

Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng tham dự Diễn đàn cấp cao hợp tác quốc tế “Vành đai và Con
đường” (BRF) lần thứ 3 do Trung Quốc tổ chức (tháng 10/2023); Thủ tướng Chính phủ Phạm
Minh Chính thăm chính thức Trung Quốc và dự Hội nghị Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) tại
Thiên Tân (tháng 6/2023), dự Hội chợ Trung Quốc-ASEAN (CAEXPO) và Hội nghị thượng
đỉnh thương mại-đầu tư Trung Quốc-ASEAN (CABIS) lần thứ 20 tại Nam Ninh (tháng
9/2023); đồng chí Thường trực Ban Bí thư Trương Thị Mai thăm và làm việc tại Trung Quốc
(tháng 4/2023).

Trong các chuyến đi này, Lãnh đạo cấp cao hai nước đã có nhiều hoạt động tiếp xúc quan
trọng, tiếp tục đưa ra những biện pháp lớn nhằm triển khai hiệu quả nhận thức chung quan
trọng của hai nhà lãnh đạo cấp cao nhất, tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy quan hệ hữu nghị và
hợp tác cùng có lợi Việt Nam-Trung Quốc phát triển ổn định, lành mạnh.

Hợp tác, giao lưu kênh Đảng, giữa hai Chính phủ, Quốc hội/Nhân đại, Mặt trận Tổ
quốc/Chính Hiệp cũng như giữa các bộ, ngành quan trọng như Ngoại giao, Quốc phòng, Công
an…, các địa phương biên giới và giao lưu nhân dân hai nước đạt nhiều kết quả thực chất. Hai
bên vừa tổ chức thành công Phiên họp lần thứ 15 Ủy ban chỉ đạo hợp tác song phương Việt
Nam-Trung Quốc (12/2023) với nhiều kết quả phong phú.

Hợp tác kinh tế-thương mại tiếp tục là điểm sáng trong quan hệ hai nước. Trong bối cảnh
thương mại giữa Trung Quốc và các đối tác đều giảm, Việt Nam là một trong số ít các đối tác
vẫn giữ ổn định thương mại với Trung Quốc. Kim ngạch thương mại hai chiều Việt Nam-
52

Trung Quốc 10 tháng đầu năm đạt 139,2 tỷ USD (số liệu của hải quan Trung Quốc đạt 185 tỷ
USD). Trung Quốc duy trì là đối tác thương mại lớn nhất và thị trường xuất khẩu lớn thứ hai
của Việt Nam; trong khi Việt Nam là đối tác thương mại lớn nhất của Trung Quốc trong
ASEAN và đối tác lớn thứ 8 của Trung Quốc trên thế giới.

Về đầu tư, 11 tháng đầu năm 2023, Trung Quốc đầu tư vào Việt Nam 3,06 tỷ USD, chiếm
18,7% tổng số vốn đầu tư nước ngoài được cấp phép mới, đứng thứ 4 (sau Singapore, Hàn
Quốc, Hong Kong), song dẫn đầu về số dự án đầu tư mới vào Việt Nam (chiếm 22,1%). Hai
bên cũng tích cực phối hợp từng bước tháo gỡ giải quyết vướng mắc tồn đọng trong một số dự
án hợp tác kinh tế trước đây.

Hợp tác trong các lĩnh vực khác như du lịch, văn hóa, giáo dục tiếp tục đạt nhiều tiến triển.
Trung Quốc cơ bản khôi phục các chuyến bay thương mại với Việt Nam; hiện mỗi tuần có
hơn 200 chuyến bay qua lại giữa hai nước; trong 11 tháng đầu năm 2023, có 1,5 triệu lượt du
khách Trung Quốc đến Việt Nam; Trung Quốc đã triển khai cấp lại thị thực cho lưu học sinh
và người lao động Việt Nam quay trở lại Trung Quốc.

Biên giới trên bộ Việt-Trung duy trì hòa bình, ổn định. Hai bên đã phối hợp chặt chẽ triển
khai thực hiện các văn kiện pháp lý về biên giới trên đất liền Việt Nam-Trung Quốc, tăng
cường quản lý an ninh, an toàn khu vực biên giới; phối hợp chặt chẽ, xử lý thỏa đáng vấn đề
nảy sinh trên cơ sở 03 văn kiện pháp lý về biên giới trên đất liền.

Trong vấn đề trên biển, hai bên đạt nhận thức chung về kiểm soát thỏa đáng bất đồng, duy trì
hòa bình, ổn định trên biển phù hợp với Luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên hợp
quốc về Luật Biển (UNCLOS) 1982, đồng thời tích cực thúc đẩy các cơ chế đàm phán về các
vấn đề trên biển, thực hiện đầy đủ, hiệu quả Tuyên bố về Ứng xử của Các bên ở Biển Đông
(DOC), phấn đấu xây dựng Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) thực chất, hiệu lực, hiệu
quả.

Ngoài ra, hai bên cũng tích cực phối hợp tại các diễn đàn đa phương nhằm thúc đẩy hòa bình,
ổn định và hợp tác tại khu vực và trên thế giới, phát huy vai trò trung tâm của ASEAN, tuân
thủ Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế.

Dư luận cho rằng, trong bối cảnh quan hệ “vừa là đồng chí, vừa là anh em” giữa hai nước
đang tiến triển tốt đẹp, chuyến thăm Việt Nam lần này của Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc
Tập Cận Bình chắc chắc sẽ tạo ra bước ngoặt mới, động lực mới cho mối quan hệ giữa hai
nước.

Đánh giá về nhận định này, Đại sứ Phạm Sao Mai nói rằng Việt Nam và Trung Quốc có quan
hệ truyền thống hữu nghị lâu đời, được nhiều thế hệ lãnh đạo và nhân dân hai nước dày công
xây dựng và vun đắp.

Trong bối cảnh quan hệ hai nước đang phát triển tốt đẹp hiện nay, chuyến thăm cấp Nhà nước
tới Việt Nam của Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình chắc chắn sẽ tạo thêm
53

động lực làm sâu sắc và nâng tầm Quan hệ Đối tác Hợp tác Chiến lược Toàn diện Việt Nam-
Trung Quốc, tạo cơ sở để các cấp, các ngành hai bên tích cực đi sâu và mở rộng quan hệ hợp
tác, đem lại lợi ích thiết thực cho hai Đảng, hai nước và nhân dân hai nước.

Đại sứ Phạm Sao Mai cho rằng, để phát huy hơn nữa tiềm năng, thế mạnh của quan hệ song
phương, thời gian tới, hai nước cần phối hợp chặt chẽ, thực hiện nghiêm túc, đầy đủ nhận
thức chung của lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai nước cũng như các thỏa thuận song phương,
góp phần tăng cường hơn nữa tin cậy chính trị; cùng nhau tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, đẩy
mạnh và nâng cao chất lượng hợp tác thực chất trên các lĩnh vực.

Đại sứ Phạm Sao Mai bày tỏ tin tưởng vững chắc rằng, trên cơ sở lợi thế, tiềm năng, nhu cầu
và nền tảng quan hệ song phương hiện có, với quyết tâm và nỗ lực chung của hai Đảng, hai
nước và nhân dân hai nước, Quan hệ Đối tác Hợp tác Chiến lược Toàn diện Việt Nam-Trung
Quốc sẽ phát triển mạnh mẽ trong thời gian tới, vì lợi ích của nhân dân hai nước, vì hòa bình,
ổn định, hợp tác và phát triển tại khu vực và trên thế giới./.

Một vài suy ngẫm từ hình tượng cây tre đến bản sắc ngoại giao Việt Nam

TCCS - Từ bao đời nay, cây tre luôn gắn bó với cộng đồng dân tộc Việt Nam, mang trong
mình cốt cách riêng của nền văn hóa, con người Việt Nam: kiên cường mà mềm dẻo, bản lĩnh
mà linh hoạt, dung dị mà sáng tạo... Hình tượng, cốt cách ấy của cây tre rất gần gũi với nền
ngoại giao Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh. Đó là nền ngoại giao độc lập, tự chủ, đa phương
hóa, đa dạng hóa và hội nhập quốc tế, kiên trì về nguyên tắc, linh hoạt về sách lược, thủy
chung, chính nghĩa, vì hòa bình, hợp tác và tiến bộ của nhân loại.

Trong lịch sử và văn hóa Việt Nam, hoa sen và cây tre là hai hình tượng đặc trưng. Nếu như
hoa sen là sự kết tinh những giá trị nhân văn của dân tộc, thì cây tre là biểu trưng của bản lĩnh
quật cường, ý chí bất khuất của con người Việt Nam. Từ thuở hồng hoang, những ý niệm về
quốc gia - dân tộc của Việt Nam được hình thành từ sự cố kết cộng đồng trải qua hàng nghìn
năm trường kỳ phòng, chống thiên tai và địch họa. Cây tre tạo nên những lũy, thành, giúp cha
ông ta bảo vệ làng quê trước thử thách của thiên nhiên và bảo vệ đất nước khỏi giặc ngoại
xâm.

Hình tượng Thánh Gióng cùng cây tre hóa thân thành một trong “Tứ bất tử”(1) sống mãi
trong tâm thức của mỗi người dân Việt Nam. Những bụi tre mà Thánh Gióng nhổ trên đường
đã trở thành vũ khí đánh giặc. Giữa lúc vận nước nguy nan, tre là biểu tượng cho khối đại
đoàn kết toàn dân tộc, là tinh thần quật cường đồng sức, đồng lòng cứu nước. “Sức mạnh
cứng” có thể có hạn, nhưng “sức mạnh mềm”, sức dân là vô tận.

Hình tượng Thánh Gióng cùng cây tre hóa thân thành một trong “Tứ bất tử” sống mãi trong
tâm thức của mỗi người dân Việt Nam _Ảnh: Tư liệu

Cũng từ ngàn đời nay, hình ảnh cây tre luôn gần gũi với đời sống của người dân Việt Nam,
trở thành biểu tượng và một phần không thể thiếu cho bản sắc dân tộc Việt Nam. Cây tre Việt
54

Nam đi từ làng quê đến phố thị, từ miền ngược đến miền xuôi, từ quá khứ đến hiện tại, có mặt
ở khắp mọi nơi trên đất nước ta. Hàng tre xanh được trồng tại Quảng trường Ba Đình lịch sử
và Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh tượng trưng cho tinh thần và cốt cách dân tộc Việt Nam, mọi
người dân Việt Nam khi đến nơi đây đều cảm thấy rất đỗi thân thuộc.

Thấm đượm bản sắc và văn hóa Việt Nam, hình tượng cây tre và ngoại giao Việt Nam rất gần
gũi nhau. Ngoại giao là sự giao thoa của chính trị - an ninh, kinh tế - xã hội và văn hóa, là sợi
dây kết nối quá khứ với hiện tại, lịch sử và tương lai, đất nước với thế giới. Ngoại giao lấy cái
gốc là văn hóa dân tộc và mang trong mình nội hàm văn hóa dân tộc. Bản sắc của ngoại giao
Việt Nam là một phần của bản sắc dân tộc Việt Nam, được tôi rèn qua thực tiễn khắc nghiệt
để gây dựng nên nền văn hiến dài lâu.

Cội nguồn sâu xa của bản sắc ngoại giao Việt Nam xuất phát từ những triết lý và truyền thống
ngoại giao của cha ông ta. Đó là tinh thần độc lập, tự cường, hòa mục bên trong, hòa hiếu bên
ngoài. Đó là kiên quyết, kiên trì, biết thắng từng bước để đạt thắng lợi cuối cùng. Đó là nghệ
thuật dùng ngòi bút thay giáp binh, lấy lẽ phải, chính nghĩa để thuyết phục lòng người. Nền
tảng cốt lõi của bản sắc ngoại giao Việt Nam hiện đại là tư tưởng, phương pháp, phong cách,
nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh. Bản sắc đó được nâng lên tầm cao mới bởi tư tưởng
ngoại giao Hồ Chí Minh, với những bài học “dĩ bất biến ứng vạn biến”, “ngũ tri”, biết nhu,
biết cương, giúp bạn là tự giúp mình, vì hòa bình, hợp tác và sự tiến bộ của nhân loại. Đặc
trưng quan trọng của bản sắc ngoại giao Việt Nam là không ngừng kế thừa và phát triển, sàng
lọc qua thực tiễn và chắt lọc, tiếp thu những giá trị tinh hoa văn hóa nhân loại.

Hình tượng cây tre và bản sắc ngoại giao Việt Nam

Từ những hình ảnh dung dị, quen thuộc trong cuộc sống hằng ngày, hình tượng cây tre đã gắn
với bản sắc ngoại giao Việt Nam một cách nhuần nhị, thấm đượm triết lý dựng nước và giữ
nước, đối nhân xử thế và quan hệ bang giao của dân tộc.

Tre Việt Nam cứng cỏi mà linh hoạt. Theo triết lý phương Đông, cây tre là biểu tượng của
mẫu người quân tử: trọng chữ tín và đạo nghĩa. Vững chắc và linh hoạt, cương và nhu là hai
mặt có mối quan hệ biện chứng. Nếu chỉ uyển chuyển mà không vững được ở gốc, thì khi gió
bão sẽ bị lay đổ, bật gốc. Còn nếu chỉ chắc ở gốc rễ mà không biết linh hoạt lựa thế, thì thân
sẽ gãy, cành sẽ lìa. Tre mọc thẳng, nhưng dáng mềm, gió táp tứ phía mà không đổ gãy. Tre
cũng giống như người quân tử không hạ mình, mà biết nhún nhường; người quân tử chính
trực, mà cũng dung hòa vì đại cục.

Ngày nay, trước một thế giới cạnh tranh chiến lược gay gắt của các nước lớn, Việt Nam luôn
kiên định nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, tự cường, vì chính nghĩa. Chính điều này khiến
Việt Nam luôn được các nước nể trọng và đánh giá cao.

Tre Việt Nam do đó thể hiện đặc điểm đáng quý của truyền thống ngoại giao Việt Nam thời
đại Hồ Chí Minh là thủy chung, chính nghĩa, “kiên trì về nguyên tắc, linh hoạt về sách lược”.
55

Nguyên tắc là độc lập, tự chủ, là lợi ích quốc gia - dân tộc. Sách lược là những biện pháp khéo
léo, linh hoạt nhằm giữ vững nguyên tắc đó. Vì cội gốc và mục đích vững chắc đó nên ngoại
giao Việt Nam luôn vững vàng, thích ứng trước những khắc nghiệt và chuyển biến của thời
cuộc.

Tre Việt Nam phát triển tốt ở cả những nơi đất cằn, không kén chọn. Dù đất nước phồn thịnh
và cả khi gặp khó khăn, dù môi trường thế giới bên ngoài thuận lợi hay trắc trở, ngoại giao
luôn chắt lọc cơ hội, nhận diện và kiến tạo cơ hội, là nghệ thuật, là dấn thân vượt khó khăn.
Khi ở vào hoàn cảnh khó khăn, ngoại giao cũng như đất nước luôn coi nghịch cảnh là nơi thử
thách bản lĩnh và trí tuệ, là bước đà tạo thế lập thời, từ đó mà quật khởi vươn lên. Còn khi đất
trời thuận lợi, tre biết vươn ra vừa đủ, rồi thu mình khiêm nhường thành khóm, thành cụm, cố
kết với nhau để mạnh mẽ hơn.

Với bề dày lịch sử hào hùng và truyền thống vẻ vang, sứ mệnh của ngoại giao Việt Nam là
luôn “phải nhìn cho rộng, suy cho kỹ”, đi tiên phong góp phần củng cố môi trường hòa bình,
tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi để phát triển đất nước, giúp đất nước vượt qua những rủi
ro, thách thức, đặt đất nước vào vị trí thuận lợi nhất trong dòng chảy của thời đại.

Tre phục vụ đất nước, phục vụ người dân. Cả đời tre cống hiến cho cuộc sống của người dân
Việt Nam: là thức ăn, là nguyên liệu tạo nên công cụ lao động, để làm nhà, làm rào chắn, làm
vũ khí… Ngoại giao cũng như vậy, phục vụ đất nước từ những điều nhỏ bé đến mục tiêu lớn
lao, trong mọi tình huống, hoàn cảnh. Cũng như tre dựa vào thổ nhưỡng, ngoại giao dựa vào
thế và lực của đất nước, luôn góp phần bảo vệ và làm gia tăng vị thế và uy tín của đất nước.
Tre bắc cầu nối bờ bến thì ngoại giao cũng bắc nhịp cầu hòa bình và hữu nghị, hợp tác và phát
triển, hiểu biết và giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc và quốc gia, giữa đất nước và thế giới.

Trong thời chiến, ngoại giao kết hợp cùng quân sự kiến tạo nền hòa bình cho dân tộc. Trong
thời bình, ngoại giao phục vụ phát triển đất nước, góp phần mở rộng các mối quan hệ giao
lưu, tiếp nhận những giá trị tinh hoa văn hóa của nhân loại. Thời điểm đất nước bị bao vây, cô
lập, ngoại giao bảo vệ sự nghiệp chính nghĩa của dân tộc, đấu tranh đàm phán, tạo đột phá,
mở đường để đất nước tham gia hội nhập quốc tế. Trong bối cảnh đất nước chịu tác động
nặng nề của đại dịch COVID-19, ngoại giao Việt Nam là “mũi chủ công” trong mặt trận ngoại
giao y tế, ngoại giao vaccine, cùng các lực lượng khác đóng góp vào sự bình an của người dân
và ổn định của đất nước.

Tre tiên phong giữ đất, giữ làng, góp phần giữ gìn cuộc sống yên bình và no ấm. Rặng tre bao
kín quanh làng, trở thành một thành lũy kiên cố tự nhiên ngoài cùng bao bọc cộng đồng cư
dân. Cũng như tre, ngoại giao có sứ mệnh là lực lượng tiên phong trong việc gìn giữ môi
trường hòa bình, ổn định, bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”, đóng vai trò quan trọng cùng các
lực lượng khác trong bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Ngoại giao kiến tạo
và gìn giữ những điều kiện thuận lợi nhất để phục vụ phát triển đất nước, nâng cao vị thế đất
nước.
56

Thế giới đang biến động rất nhanh và phức tạp, có những thách thức, rủi ro tiềm ẩn khó dự
báo và có cả những cơ hội nảy sinh mà nếu không nhạy bén, thấu suốt sẽ bị bỏ lỡ. Trong mọi
hoàn cảnh, ngoại giao phát huy tinh thần tiên phong, “đi trước, về sau”, “lo trước cái lo của
thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ”. Sự vẻ vang của người làm công tác ngoại giao không
phải là vẻ vang cho riêng mình, mà là những điều làm được để đất nước bình an, phát triển và
hội nhập quốc tế, được bạn bè năm châu biết đến và nể trọng.

Tre Việt Nam không đứng một mình, mà sống quần thể, thành khóm, thành bụi, nhờ đó mà
vững vàng và làm nên thành lũy. Đối ngoại và hội nhập quốc tế là sự nghiệp của cả đất nước
và dân tộc. Trong đó, ngoại giao không làm một mình, mà luôn đồng lòng sát cánh cùng các
lực lượng khác, từ đó phát huy vai trò chủ chốt trong tổng thể chung của mặt trận đối ngoại.

Đại hội XIII của Đảng đã đề ra chủ trương xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại với ba
trụ cột là đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân. Trong đó, dưới sự lãnh
đạo của Đảng, ngoại giao nhà nước là lực lượng chủ công, với sự phối hợp nhịp nhàng giữa
các binh chủng làm đối ngoại là ngoại giao, quốc phòng, an ninh, kinh tế đối ngoại và các lĩnh
vực khác. Chính sự kết hợp chặt chẽ những trụ cột và binh chủng này đã, đang và sẽ “nên lũy,
nên thành”, tạo nên sức mạnh tổng hợp của mặt trận đối ngoại để bảo vệ, xây dựng và phát
triển đất nước.

Tre già, măng mọc - đó là lẽ tự nhiên, là bản chất, quy luật truyền thống. Tre Việt Nam là sự
kế thừa, tiếp nối từ đời này sang đời khác, dù phải trải qua giông bão hay khi phải hy sinh
thân mình. Trải qua bao thăng trầm cùng đất nước, nền ngoại giao Việt Nam qua bao thế hệ
xây dựng vẫn tiếp tục phát triển ngày một vững vàng hơn, luôn có sự “truyền nghề” và
“truyền lửa” từ những thế hệ đi trước cho những người đi sau trong ngành đối ngoại.

Ngoại giao luôn cầu thị, tự hoàn thiện mình, cũng là tự tu thân, để phấn đấu và phấn đấu hơn
nữa trở thành đội ngũ “vừa hồng, vừa chuyên”, hết lòng, hết sức vì Đảng, vì đất nước, vì nhân
dân; “biết gắn bó và san sẻ”, “phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở; làm nên đất nước muôn
đời”(2). Cốt cách, truyền thống và sự nghiệp cách mạng của dân tộc đã tôi luyện ngành ngoại
giao ngày càng trưởng thành về bản lĩnh và trí tuệ, phát triển vững mạnh về tổ chức và lực
lượng(3). Nhờ đó mà ngoại giao cùng đất nước trải qua gần 77 năm vất vả và gian lao, đã và
sẽ luôn đồng hành, phục vụ cho sự trường tồn của đất nước, của dân tộc(4).

Vững ở gốc, chắc ở thân, uyển chuyển ở cành

Phát biểu tại Hội nghị đối ngoại toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của
Đảng, ngày 14-12-2021, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ ra rằng, cây tre Việt Nam,
cũng như ngoại giao Việt Nam là sự kết hợp hài hòa giữa gốc vững, thân chắc, cành uyển
chuyển(5). Nhân dịp này, nguyên Phó Thủ tướng Vũ Khoan đã đúc kết nội hàm văn hóa ngoại
57

giao với bốn đặc trưng nổi bật là: kiên định trong mục tiêu, nhân văn trong cốt cách, rộng mở
trong tinh thần và linh hoạt trong hành động (6).

Có thể thấy được ở tre Việt Nam những nội hàm ấy. Và ngược lại, những ý niệm về tre đều có
giá trị phóng chiếu tới nền ngoại giao Việt Nam hiện đại. Điều đó được thể hiện từ trong bản
sắc đến đường lối, chính sách và phong cách của nền ngoại giao Việt Nam thời đại Hồ Chí
Minh.

Về bản sắc ngoại giao: Vững ở gốc là truyền thống tự lực, tự cường, vì lợi ích quốc gia - dân
tộc, là tinh thần đoàn kết, nhân ái, thủy chung. Chắc ở thân là bản lĩnh, kiên định, can trường
trước mọi thử thách và khó khăn, trước vất vả và gian lao. Uyển chuyển ở cành là sự mềm
mại, khôn khéo, sáng tạo.

Về đường lối, chiến lược và chính sách ngoại giao: Vững ở gốc là đường lối đối ngoại độc lập
- tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế trong thời kỳ đổi
mới. Đường lối đó đã mở ra cho đất nước vận hội phát triển mới, có được cơ đồ, tiềm lực, vị
thế và uy tín như ngày nay. Đường lối đó tiếp tục là nền tảng vững chắc để Việt Nam hiện
thực hóa khát vọng phát triển với các mục tiêu trong những thập niên sắp tới: Đến năm 2025:
Là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung
bình thấp. Đến năm 2030: Là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung
bình cao. Đến năm 2045: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao(7). Chắc ở thân là những
phương châm, quan điểm chỉ đạo và bài học kinh nghiệm, như bảo đảm cao nhất lợi ích quốc
gia - dân tộc, bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý tập trung của Nhà
nước đối với các hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại, hợp tác và đấu tranh, bảo vệ đất nước từ sớm, từ xa, từ khi nước còn chưa
nguy... Đó cũng là những đường lối, chính sách, các văn kiện, nghị quyết về đối ngoại đã
được thể chế hóa, đi vào cuộc sống và kiểm nghiệm trước thực tiễn một thế giới đầy biến
động và những định hướng chiến lược đối ngoại đã và đang được đề ra cho giai đoạn tiếp
theo. Uyển chuyển ở cành là cách ứng xử linh hoạt về sách lược, đặc biệt trong bối cảnh cạnh
tranh nước lớn gay gắt, sự va đập giữa những xu thế và phản xu thế đang diễn ra trên thế giới,
giữa đòi hỏi phải hài hòa cái chung và cái riêng, nhằm giữ vững bản sắc, giá trị đất nước và
bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc Việt Nam phù hợp với những giá trị chung của
nhân loại.

Về phong cách ngoại giao: Vững ở gốc là bản lĩnh can trường, lập trường chính trị và văn
hóa, cốt cách dân tộc thấm đượm trong mỗi người làm đối ngoại. Chắc ở thân là kiến thức sâu
rộng, tư duy nhạy bén, phương pháp ngoại giao khoa học. Uyển chuyển ở cành là kỹ năng đối
ngoại đa văn hóa, nghệ thuật “kiến tạo tương đồng và hóa giải tương khắc”, để từ đó hài hòa
được lợi ích riêng của Việt Nam với lợi ích chung của cộng đồng quốc tế, vì hòa bình và phát
triển của nhân loại.
58

Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn cán bộ ngoại giao phải “có quan điểm và lập trường của Đảng,
của chủ nghĩa Mác - Lênin vững vàng và thông suốt, lấy đó làm kim chỉ nam cho mọi hoạt
động của mình; phải học chủ nghĩa Mác - Lênin”; “Cán bộ, nhân viên ngoại giao… là đại diện
cho dân tộc, cho đất nước”; “Phải hiểu rõ tình hình, chính sách về chính trị, kinh tế, văn hóa
của nước ta và của nước mình đến”; “Phải có tư cách đạo đức tốt, trình độ văn hóa và hiểu
biết về ngoại giao.”; “Phải học tiếng nước ngoài. Công tác ở nước nào phải học tiếng của
nước ấy”(8). Những lời dạy đó của Người luôn được các thế hệ cán bộ ngoại giao khắc cốt
ghi tâm, là cẩm nang soi đường để không ngừng phấn đấu và tự rèn luyện để phục vụ đất
nước.

Những tư tưởng, phương châm và phong cách ngoại giao đó góp phần tạo nên trường phái
ngoại giao Việt Nam, trong một thế giới biến động, đa dạng và phụ thuộc lẫn nhau như hiện
nay. Đó là nét độc đáo dựa trên nền tảng tư tưởng, phương pháp, phong cách và nghệ thuật
ngoại giao Hồ Chí Minh, thấm đậm truyền thống, bản sắc ngoại giao và khí phách, cốt cách
của dân tộc Việt Nam.

Cây tre có ở nhiều nơi trên thế giới. Hình tượng cây tre cũng xuất hiện trong văn hóa của
nhiều quốc gia khác. Có điều, mỗi quốc gia, dân tộc đều có bản sắc riêng và bản chất gắn bó
riêng với cây tre. Cây tre được trồng trên đất nước Việt Nam, ăn nắng, uống sương của bầu
trời Việt Nam, nên mang trong mình cốt cách riêng của người Việt Nam. Hình tượng ấy, cốt
cách ấy rất gần gũi với bản sắc ngoại giao Việt Nam - nền ngoại giao kết tinh vẻ đẹp của ý chí
kiên cường, bản lĩnh vượt qua khó khăn, mà mềm dẻo, hòa hiếu, rộng mở, bao dung, tất cả vì
sự độc lập, tự do, phát triển của đất nước, cuộc sống bình an, ấm no, hạnh phúc của nhân
dân./.

Trường phái đối ngoại và ngoại giao đặc sắc và độc đáo của thời đại Hồ Chí Minh, mang
đậm bản sắc “cây tre Việt Nam”

TCCS - Phát biểu tại buổi Lễ ra mắt cuốn sách Xây dựng và phát triển nền đối ngoại, ngoại
giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam”, đồng chí Trương
Thị Mai, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tổ
chức Trung ương khẳng định: Cuốn sách của Tổng Bí thư là kim chỉ nam đường lối, chủ
trương của Đảng về công tác đối ngoại; đóng góp to lớn, góp phần hoàn thiện hệ thống lý luận
và cơ sở thực tiễn về xây dựng chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của
Việt Nam.

Với dung lượng hơn 800 trang, cuốn sách được chia làm 3 phần, bao gồm bài tổng quan “Kế
thừa, phát huy truyền thống dân tộc, tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, quyết tâm xây dựng
và phát triển nền đối ngoại, ngoại giao toàn diện, hiện đại, mang đậm bản sắc “cây tre Việt
59

Nam”” và 85 bài viết, bài phát biểu, trả lời phỏng vấn, thư, điện đối ngoại,... của Tổng Bí thư
Nguyễn Phú Trọng, 52 ý kiến của các nhà chính trị, chuyên gia, học giả và bạn bè quốc tế.
Nội dung cuốn sách khẳng định quan điểm toàn diện, nhất quán, thể hiện tầm nhìn chiến lược,
tư duy sắc sảo, quyết đoán của người đứng đầu Đảng ta đối với công tác đối ngoại, ngoại
giao, góp phần thực hiện chủ trương của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng về
“xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại với ba trụ cột là đối ngoại đảng, ngoại giao nhà
nước và đối ngoại nhân dân”(1), bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các
nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác,
cùng có lợi, nâng cao vị thế và uy tín đất nước.

Ngoại giao “Cây tre Việt Nam” thể hiện phẩm chất và bản lĩnh của dân tộc Việt Nam

Ngoại giao “cây tre Việt Nam” là khái niệm được nhiều nhà ngoại giao nhắc đến khi đề cập
chính sách đối ngoại của Việt Nam. Khái niệm này không phải là một trường phái ngoại giao
mới, mà là sự đúc kết, hình tượng hóa đường lối đối ngoại mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã và
đang thực hiện với những đóng góp quan trọng vào sự phát triển của đất nước.

Tại Hội nghị Ngoại giao lần thứ 29 (tháng 8-2016), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng
định trường phái ngoại giao độc đáo, mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam”. Tiếp đó, đến Hội
nghị Đối ngoại toàn quốc triển khai Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng (tháng 12-2021), Tổng
Bí thư tiếp tục khẳng định và bổ sung, phân tích, làm sâu sắc thêm về trường phái đối ngoại
và ngoại giao rất đặc sắc và độc đáo của thời đại Hồ Chí Minh, mang đậm bản sắc “cây tre
Việt Nam”: “Hơn 90 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đối ngoại,
ngoại giao Việt Nam đã kế thừa và phát huy bản sắc, cội nguồn văn hóa và truyền thống dân
tộc, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa thế giới và tư tưởng tiến bộ của thời đại, phát triển trên nền
tảng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, hình thành nên trường phái
đối ngoại, ngoại giao rất đặc sắc và độc đáo, mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam”. Đó là
vừa kiên định về nguyên tắc, vừa uyển chuyển về sách lược; mềm mại, khôn khéo nhưng
cũng rất kiên cường, quyết liệt; linh hoạt, sáng tạo nhưng rất bản lĩnh, can trường trước mọi
khó khăn, thử thách, vì độc lập dân tộc, vì tự do, hạnh phúc của nhân dân; đoàn kết, nhân ái
nhưng kiên quyết, kiên trì bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc”(2).

Nội dung này được làm rõ thông qua bài viết tổng quan và 7 bài phát biểu của Tổng Bí thư
Nguyễn Phú Trọng tại các Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng, hội nghị ngoại giao,
Hội nghị đối ngoại toàn quốc. Theo đồng chí Bùi Thanh Sơn, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ
trưởng Bộ Ngoại giao, bài viết tổng quan là điểm nhấn nổi bật của phần này cũng như cả cuốn
sách, bởi đây là bài viết mới nhất của Tổng Bí thư về đối ngoại và lần đầu tiên được công bố,
đã tổng kết toàn diện, sâu sắc và khái quát hóa lý luận và thực tiễn đối ngoại của Việt Nam
trong thời kỳ đổi mới.

Xuyên suốt các bài phát biểu, bài viết, Tổng Bí thư đặc biệt nhấn mạnh và khẳng định quan
điểm: “Đối ngoại là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân, của cả hệ thống chính trị, dưới sự
60

lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng, quản lý tập trung của Nhà nước; sự gắn kết chặt chẽ,
nhịp nhàng giữa đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân”(3). Đối ngoại
đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân gắn bó chặt chẽ và hỗ trợ cho nhau, cùng
hướng tới mục tiêu chung là lợi ích quốc gia - dân tộc. Việc triển khai đồng bộ, sự phối hợp
chặt chẽ và nhuần nhuyễn giữa đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân sẽ
phát huy thế mạnh của từng trụ cột đối ngoại, tạo nên sức mạnh tổng hợp của nền ngoại giao
Việt Nam. Đây vừa là truyền thống quý báu, vừa thể hiện sự sáng tạo, độc đáo của nghệ thuật
đối ngoại, ngoại giao Việt Nam, được Tổng Bí thư phân tích, lý giải và định hướng cụ thể
bằng nhãn quan chính trị sâu sắc và tầm tư duy chiến lược, cho thấy bước phát triển về tư duy
đối ngoại Việt Nam, vừa là yêu cầu cấp thiết, vừa có ý nghĩa lâu dài, đáp ứng nhiệm vụ trong
tình hình mới.

Cùng với việc khẳng định vai trò tiên phong của đối ngoại, ngoại giao trong tạo lập và giữ
vững môi trường hòa bình, ổn định, huy động các nguồn lực bên ngoài để phát triển, nâng cao
vị thế và uy tín của đất nước, sự phát triển trong tư duy đối ngoại của Đảng còn thể hiện ở sự
kiên định mục tiêu đối ngoại và có những bước đi phù hợp trong giải quyết mối quan hệ giữa
giữ vững độc lập, tự chủ và tích cực, chủ động hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng; việc ứng
xử linh hoạt, mềm dẻo, đa dạng về phương thức, biện pháp trước thực tiễn phức tạp và nhiều
biến động của tình hình quốc tế, đặc biệt là trong kiến tạo điểm tương đồng, xử lý bất đồng để
đưa quan hệ đối ngoại đi vào chiều sâu với các quốc gia trên thế giới.

Trong những năm qua, công tác đối ngoại, ngoại giao Việt Nam đã đạt được những kết quả
nổi bật, đóng góp quan trọng vào thành tựu chung to lớn, có ý nghĩa lịch sử của đất nước ta
sau gần 40 năm đổi mới; truyền tải thông điệp về một quốc gia thân thiện, sẵn sàng hợp tác,
giúp đỡ và sẻ chia với cộng đồng quốc tế: “Việt Nam luôn luôn lấy con người làm trung tâm,
luôn sẵn lòng hỗ trợ bất cứ ai, dù mang quốc tịch nào”(4). Từ đó, góp phần quan trọng trong
việc tạo dựng nên một thực tế không thể phủ nhận, đó là “Đất nước ta chưa bao giờ có được
cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”(5).

Những cố gắng, kết quả nổi bật nói trên của đối ngoại, ngoại giao đã góp phần rất quan trọng
vào thành tựu chung to lớn, có ý nghĩa lịch sử của đất nước ta sau gần 40 năm đổi mới, nhờ
đó vị thế và uy tín của Việt Nam ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế.

Bên cạnh việc làm rõ kết quả và nhiều thành quả to lớn, Tổng Bí thư cũng yêu cầu “cần nhìn
thẳng các mặt còn hạn chế để khắc phục, tiếp tục phấn đấu và hoàn thiện mình để đạt được
những thành tựu to lớn hơn”. Tổng Bí thư phân tích, thẳng thắn chỉ rõ 5 mặt hạn chế của công
tác đối ngoại, ngoại giao(6):

Một là, công tác đối ngoại, ngoại giao có lúc còn bị động, chưa kịp thời phát hiện, xử lý các
biến động mới có tác động đến Việt Nam. Công tác nghiên cứu, dự báo chiến lược, dự báo
tình hình có lúc thiếu tính chủ động, thiếu sự phối hợp liên thông, đồng bộ giữa các cơ quan
tham mưu chủ chốt.
61

Hai là, trong quan hệ với một số đối tác, kể cả đối tác chiến lược, toàn diện chưa sâu sắc, còn
“điểm nghẽn” cản trở tiềm năng hợp tác. Hiệu quả hội nhập quốc tế vẫn chưa tương xứng,
chưa tận dụng lợi ích của hội nhập. Nhận thức, năng lực hội nhập chưa đồng đều giữa các
ban, bộ, ngành, địa phương và người dân. Triển khai thực hiện các thỏa thuận quốc tế còn
chậm do thiếu sự đôn đốc sát sao hoặc do chậm cụ thể hóa. Công tác đào tạo cán bộ làm công
tác hội nhập quốc tế chưa ngang tầm yêu cầu thực tiễn.

Ba là, chúng ta chưa thật sự tự tin thể hiện xứng tầm với thế và lực mới, tâm thế mới của đất
nước trong ứng xử đối ngoại và xử lý các mối quan hệ quốc tế trước những điều chỉnh nhanh
chóng về chiến lược và quan hệ của các nước lớn. Chưa quyết liệt chủ động trong những vấn
đề liên quan đến lợi ích chiến lược, chưa có suy nghĩ và hành động vượt tầm quốc gia, đạt tầm
khu vực và quốc tế.

Bốn là, công tác đào tạo, bố trí và sử dụng cán bộ làm công tác đối ngoại có lúc, có trường
hợp chưa hiệu quả, hợp lý. Cá biệt, có trường hợp để cán bộ thiếu tu dưỡng, rèn luyện, suy
thoái về đạo đức, lối sống, thậm chí vi phạm pháp luật làm ảnh hưởng đến uy tín của ngành,
suy giảm niềm tin của nhân dân.

Năm là, công tác thông tin đối ngoại chưa thực sự sáng tạo, hiệu quả; có lúc còn để một số đối
tác hiểu lầm, nghi ngại, hiểu chưa đầy đủ, chưa cập nhật thông tin thường xuyên về chủ
trương, đường lối của Đảng, về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và sự nghiệp đổi mới của
Việt Nam. Thông tin cho nhân dân về chủ trương, đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước
ta chưa đầy đủ.

Trên cơ sở đánh giá những kết quả, thành tựu, chỉ rõ những hạn chế của đối ngoại, ngoại giao
trong thời gian qua, đồng chí Tổng Bí thư đã đúc rút 5 bài học kinh nghiệm quý báu, trong đó
“bài học bao trùm và bất biến là luôn luôn bảo đảm sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng,
quản lý tập trung của Nhà nước đối với công tác đối ngoại, ngoại giao”(7); coi sự lãnh đạo
của Đảng là nhân tố quan trọng nhất để phát huy hiệu quả và sức mạnh tổng hợp của đối
ngoại. Đồng thời, chỉ rõ nguyên tắc, mục tiêu, nhiệm vụ, định hướng cho công tác đối ngoại
nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.

Theo Tổng Bí thư, trước những biến chuyển lớn của thời đại, dù phải đối mặt với không ít
khó khăn, thách thức, đối ngoại, ngoại giao Việt Nam càng phải thể hiện rõ cốt cách của nền
ngoại giao thời đại Hồ Chí Minh, mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam” để tiếp tục nhận
được sự tin tưởng, ủng hộ và đáp ứng được sự kỳ vọng của Đảng, Nhà nước và nhân dân.

Nhằm bảo đảm thực hiện thắng lợi các mục tiêu đối ngoại của đất nước trong thời gian tới,
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng xác định: “Nâng cao bản lĩnh,
phẩm chất, năng lực, phong cách chuyên nghiệp, đổi mới sáng tạo của đội ngũ cán bộ làm
công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế; chủ động thích ứng trước chuyển biến của tình hình;
tăng cường cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa các kênh và các cơ quan đối ngoại, đẩy mạnh, nâng
cao hiệu quả công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế”(8) và “xây dựng nền ngoại giao toàn
62

diện, hiện đại với ba trụ cột là đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân”.
Nhiệm vụ đặt ra đối với công tác đối ngoại của Việt Nam trong thời gian tới hết sức nặng nề,
đòi hỏi các thế hệ cán bộ ngoại giao Việt Nam kế thừa và phát huy tinh hoa ngoại giao truyền
thống, luôn nêu cao tinh thần yêu nước, đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết, “dĩ bất biến
ứng vạn biến”, phát huy bản lĩnh, trí tuệ, sự tận tâm, chuyên nghiệp của bản thân và tinh thần
đoàn kết của tập thể, phải thật sự thấm nhuần quan điểm chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú
Trọng tại Hội nghị ngoại giao lần thứ 30 (tháng 8-2018): “Một nhà ngoại giao giỏi trước hết
phải là một nhà chính trị giỏi, luôn lấy lợi ích của quốc gia, của chế độ làm kim chỉ nam trong
hành động. Nhà ngoại giao luôn ghi nhớ rằng, phía sau mình là Đảng, là đất nước, là nhân
dân. Phải tự tin, vững vàng, kiên định và khôn khéo”(9).

Trước bối cảnh đất nước ta đang bước vào giai đoạn phát triển mới với những nhiệm vụ vô
cùng trọng đại, đối ngoại, ngoại giao đóng vai trò quan trọng, không chỉ là sự nối tiếp của
chính sách đối nội, giúp tạo lối, mở đường, từng bước phá thế bao vây, cấm vận, khơi thông
quan hệ, mở ra cục diện mới thuận lợi, nâng cao thế và lực của Việt Nam, mà đây còn là một
trong những động lực mạnh mẽ, góp phần quan trọng, xứng đáng vào việc thực hiện hai
nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Đồng chí Trương Thị Mai, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư, Trưởng Ban Tổ
chức Trung ương cùng các đại biểu tham quan trưng bày sách tại Lễ giới thiệu cuốn sách Xây
dựng và phát triển nền đối ngoại, ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, mang đậm bản sắc
“cây tre Việt Nam” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng _Ảnh: TTXVN

Bản sắc “ngoại giao cây tre”: Lấy độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, đa dạng hóa và đa
phương hóa làm kim chỉ nam

Trong 37 năm đổi mới vừa qua, kế thừa và phát huy truyền thống đối ngoại vẻ vang của dân
tộc, nhất là tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người đặt nền móng cho nền ngoại giao thời
đại Hồ Chí Minh, Đảng ta đã kế thừa và không ngừng bổ sung, phát triển, hoàn thiện đường
lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở vì hòa bình, hợp tác và phát triển, thực thi chính sách
đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Nghị quyết Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng nhấn mạnh quyết tâm “Thực hiện nhất quán
đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa
phương hóa quan hệ đối ngoại. Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các
nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác,
cùng có lợi. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chủ động và tích cực hội nhập
quốc tế toàn diện, sâu rộng; Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có
trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”(10).

Đồng chí Lê Hoài Trung, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Đối ngoại Trung ương khẳng
định: Cuốn sách có giá trị vô cùng to lớn bởi đây là công trình đầu tiên mang tính hệ thống,
tập hợp những phát biểu, bài viết của Tổng Bí thư về lĩnh vực đối ngoại, ngoại giao. Các bài
63

viết thể hiện một cách cụ thể, sâu sắc và sinh động sự đóng góp to lớn, quan trọng của đồng
chí Tổng Bí thư trên nhiều cương vị khác nhau trước đây và với cương vị là lãnh đạo cao nhất
của Đảng ta hiện nay trong việc xây dựng và phát triển đường lối đối ngoại của Việt Nam;
đồng thời, khẳng định sự quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo sát sao, toàn diện, xuyên suốt của Đảng,
đứng đầu là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, đối với công tác đối ngoại trên cả ba trụ cột là
đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân(11).

Từ đầu nhiệm kỳ khóa XIII của Đảng đến nay, chúng ta tiếp tục mở rộng, làm sâu sắc hơn
quan hệ với các đối tác, trọng tâm là các nước láng giềng, đối tác quan trọng và bạn bè truyền
thống.

Đối với quan hệ song phương, các bài nói, bài viết, bài phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn
Phú Trọng luôn thể hiện sự đánh giá cao mối quan hệ hữu nghị, hợp tác với các quốc gia trên
nguyên tắc tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng, hợp tác cùng có lợi. Phát huy truyền thống hòa hiếu
của cha ông, Tổng Bí thư khẳng định cần tiếp tục đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ với
các nước láng giềng, đối tác chiến lược toàn diện, đối tác chiến lược, đối tác toàn diện và bạn
bè truyền thống, tăng cường tin cậy, phát huy điểm đồng, linh hoạt, sáng tạo trong xử lý các
tranh chấp và thúc đẩy hòa bình, hợp tác cùng phát triển nhằm củng cố vững chắc cục diện
đối ngoại ổn định, phục vụ công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Đối với mối quan hệ hữu nghị vĩ đại, tình đoàn kết đặc biệt và sự hợp tác toàn diện Việt Nam
- Lào, Lào - Việt Nam, Tổng Bí thư khẳng định: “Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, việc
tăng cường và củng cố tình đoàn kết đặc biệt và sự hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào có ý
nghĩa hết sức quan trọng, là một nhân tố bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc ở mỗi nước”(12); Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam “hết sức coi trọng và dành
ưu tiên hàng đầu cho mối quan hệ đặc biệt vừa là đồng chí, vừa là anh em giữa hai Đảng, hai
nước chúng ta”(13). Trong quan hệ đối tác, hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Trung
Quốc, Tổng Bí thư coi đây là cơ sở quan trọng, định hướng chiến lược lâu dài, thúc đẩy quan
hệ hai Đảng, hai nước phát triển tốt đẹp, ổn định và bền vững. Trong Điện mừng gửi đồng chí
Tập Cận Bình nhân dịp được bầu lại là Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng
sản Trung Quốc khóa XX, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Tôi luôn luôn hết
sức coi trọng và sẵn sàng cùng đồng chí tiếp tục dành sự quan tâm cao độ, chỉ đạo các cấp,
các ngành, các địa phương hai bên quán triệt, thực hiện tốt các thỏa thuận và nhận thức chung
cấp cao, đưa quan hệ láng giềng hữu nghị và đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam -
Trung Quốc lên một tầm cao mới, ổn định, lành mạnh, bền vững, đáp ứng lợi ích căn bản, lâu
dài của hai Đảng, hai nước và nhân dân hai nước, vì hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển
của khu vực và trên thế giới”(14). Đối với quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam -
Hoa Kỳ vì hòa bình, hợp tác và phát triển bền vững, Tổng Bí thư khẳng định: “Sự hiểu biết
lẫn nhau, hoàn cảnh của nhau, tôn trọng các lợi ích chính đáng của nhau và không can thiệp
vào công việc nội bộ của nhau là những nguyên tắc cơ bản, có ý nghĩa rất quan trọng trong
64

quan hệ hai nước và quan hệ quốc tế. Việt Nam đánh giá cao và coi trọng sự khẳng định của
Hoa Kỳ ủng hộ một nước Việt Nam “mạnh, độc lập, tự cường và thịnh vượng””(15)...

Chủ trương đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ hợp tác song phương còn được thể hiện qua
nhiều bài viết, bài phát biểu và trả lời phỏng vấn: “Phát huy mối quan hệ hữu nghị truyền
thống, hợp tác toàn diện, bền vững lâu dài Việt Nam - Campuchia”; “Không ngừng vun đắp
tình hữu nghị đặc biệt và quan hệ hợp tác toàn diện Việt Nam - Cuba”; “Không ngừng củng
cố quan hệ hợp tác giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Lao động Triều Tiên trong giai
đoạn mới”; “Việt Nam luôn coi trọng và ưu tiên củng cố, tăng cường quan hệ đối tác chiến
lược toàn diện với Liên bang Nga”; “Tăng cường tin cậy chính trị, củng cố quan hệ hữu nghị,
thúc đẩy hợp tác thực chất, tạo lập bước phát triển mới trong quan hệ Việt Nam - Inđônêxia”;
“Nhật Bản là một trong những đối tác kinh tế quan trọng hàng đầu và lâu dài của Việt Nam”...
Qua đó, khẳng định Việt Nam sẵn sàng tham gia vào các cơ chế hợp tác đa phương, các tổ
chức khu vực, quốc tế và các khuôn khổ hợp tác cũng như trong những vấn đề quan trọng có
tầm chiến lược, phù hợp với yêu cầu, khả năng và điều kiện của đất nước.

Trong quan hệ với các đảng cộng sản, công nhân, các đảng cầm quyền và các đảng dân chủ,
vì hòa bình, tiến bộ trên thế giới, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng luôn dành sự quan tâm đặc
biệt, có đóng góp quan trọng về cả lý luận và thực tiễn vào kho tàng chủ nghĩa Mác - Lê-nin
và tư tưởng Hồ Chí Minh từ công cuộc đổi mới của Việt Nam, kiên định mục tiêu độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội, xây dựng một xã hội công bằng và tiến bộ, thật sự vì con người;
khẳng định Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong
cộng đồng quốc tế. Tổng Bí thư nhấn mạnh: Đảng Cộng sản Việt Nam “luôn coi trọng quan
hệ với các nước xã hội chủ nghĩa, với các đảng cộng sản, công nhân và bạn bè truyền
thống”(16); “Trong sự nghiệp cách mạng của mình, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn phát huy
tinh thần độc lập, tự chủ, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, kiên định mục tiêu
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”(17); “Chủ nghĩa Mác - Lênin đã, đang và sẽ
tiếp tục là ngọn đuốc soi đường cho cách mạng Việt Nam trong thời đại mới... Đảng Cộng sản
Việt Nam luôn luôn coi trọng và sẵn sàng mở rộng hợp tác với các chính đảng mácxít và lực
lượng tiến bộ trên thế giới”(18). Đặc biệt, theo Tổng Bí thư, để giữ gìn một khu vực hòa bình,
ổn định, đoàn kết và thống nhất trên cơ sở luật pháp quốc tế, cần định vị chỗ đứng, tiếp tục
phát huy vai trò và giá trị cốt lõi của ASEAN, “hoạt động của AIPO ngày càng đi vào thực
chất hơn, các nghị quyết của AIPO phải thực sự đi vào đời sống chính trị của mỗi quốc
gia”(19), “Vì một AIPA hướng tới cộng đồng của nhân dân, vì nhân dân, đùm bọc và chia
sẻ”(20), đồng thời tận dụng tốt những cơ hội từ khi gia nhập WTO và phát huy những lợi thế,
ưu việt của phong trào hợp tác xã quốc tế trong phát triển kinh tế - xã hội...

Trong các bài viết, bài phát biểu, tư tưởng “đối ngoại là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân và
của cả hệ thống chính trị” cũng được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhất quán chỉ đạo; trong
đó, đặc biệt coi trọng vấn đề xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và chủ động hội nhập kinh
tế quốc tế, coi đây là hai mặt có mối quan hệ biện chứng với nhau, bổ sung cho nhau, nhằm
65

phát triển nền kinh tế nước ta ngày càng vững mạnh theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Theo
Tổng Bí thư, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ không có nghĩa là coi nhẹ vấn đề hội nhập
kinh tế quốc tế. Trái lại, hội nhập kinh tế quốc tế là một nội dung trong đường lối kinh tế,
đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta, kết hợp nội lực với ngoại lực để tạo ra sức
mạnh tổng hợp của sự nghiệp phát triển đất nước. Hội nhập kinh tế quốc tế cũng chính là
nhằm xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, đáp ứng yêu cầu và lợi ích của quốc gia; đồng
thời, thông qua hội nhập kinh tế quốc tế để phát huy vai trò và tiềm năng của nước ta trong
quá trình hợp tác và phát triển của khu vực và thế giới.

Nằm trong tổng thể nội dung “đối ngoại là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân và của cả hệ
thống chính trị”, Tổng Bí thư gửi gắm sự quan tâm và tình cảm đặc biệt đối với cộng đồng
người Việt Nam ở nước ngoài, cũng như người dân nước sở tại. Đối với người Việt Nam ở
nước ngoài, Tổng Bí thư khẳng định: “Bà con kiều bào dù ở bất cứ nơi đâu, luôn luôn là một
phần máu thịt không thể tách rời của Tổ quốc”(21); Cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài
“là “chất xúc tác” quan trọng đối với những thành công của hoạt động ngoại giao nhân dân
nước ta trong công cuộc đổi mới. Thông qua các hoạt động giao lưu văn hóa, tôn giáo, bà con
kiều bào ta đã và đang góp phần giữ gìn bản sắc và quảng bá những giá trị văn hóa dân tộc,
xây dựng hình ảnh Việt Nam ở nước ngoài, thúc đẩy, lan tỏa và giành được sự yêu mến của
bạn bè các nước, góp phần nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế”(22).
Đối với nhân dân các nước sở tại: Lào, Cu-ba, Trung Quốc, Liên bang Nga, Hoa Kỳ, Nhật
Bản, Hàn Quốc, Hung-ga-ri..., Tổng Bí thư nhấn mạnh việc chia sẻ những giá trị tương đồng
và tiềm năng để đẩy mạnh giao lưu, hợp tác, nỗ lực hình thành các thỏa thuận và cơ chế hữu
hiệu để duy trì hòa bình, ổn định, bảo đảm an ninh chung, ngăn ngừa xung đột và chiến tranh,
đối phó hiệu quả với các thách thức an ninh truyền thống và phi truyền thống, đồng thời tăng
cường hiểu biết lẫn nhau, củng cố tình hữu nghị và kiến tạo nền tảng xã hội cho quan hệ giữa
Việt Nam và các quốc gia trên thế giới.

Dấu ấn đối ngoại, ngoại giao của Việt Nam trên trường quốc tế

Các hoạt động đối ngoại theo tinh thần “ngoại giao cây tre” đã củng cố vững chắc cục diện
đối ngoại để Việt Nam có môi trường hòa bình, ổn định, bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn
vẹn lãnh thổ, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao hơn nữa vị thế, uy tín quốc tế của
đất nước. Thực tiễn ngoại giao trong hai năm qua cũng tiếp tục làm phong phú và sâu sắc hơn
các bài học quý báu về đối ngoại trong công cuộc đổi mới. Đó là: Càng đứng trước khó khăn,
thử thách, càng phải kiên định trong nguyên tắc, linh hoạt, sáng tạo trong sách lược; xử lý
đúng đắn mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và đoàn kết, hợp tác quốc tế, giữa lợi ích quốc gia
- dân tộc và nghĩa vụ, trách nhiệm quốc tế.

Cuốn sách đăng tải 52 ý kiến của các chuyên gia, nhà chính trị, nhà ngoại giao, nhà nghiên
cứu, bạn bè quốc tế về vai trò, đóng góp của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong việc hình
thành và phát triển trường phái ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, mang đậm bản sắc
66

“cây tre Việt Nam”. Đó là những kỷ niệm, tình cảm, những câu chuyện của các đại sứ, các
cán bộ làm công tác đối ngoại, ngoại giao, các nhà báo, người Việt Nam ở nước ngoài được
tháp tùng, được gặp Tổng Bí thư trong các chuyến thăm và làm việc ở trong và ngoài nước.

Bàn về những thành tựu đối ngoại và dấu ấn của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, đồng chí
Thongsavanh Phomvihane, Ủy viên Trung ương Đảng, Trưởng Ban Đối ngoại Trung ương
Đảng Nhân dân Cách mạng Lào khẳng định: “Những thành tựu của Việt Nam nói chung,
những thành tựu trong công tác đối ngoại nói riêng cũng chính là những thành tựu, là bài học
kinh nghiệm quý báu cho đất nước Lào”(23); “Đặc biệt, Đảng, Nhà nước Lào đánh giá cao ý
kiến chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong việc nhấn mạnh 6 nhóm vấn
đề là mục tiêu, nhiệm vụ to lớn, nặng nề nhưng đầy vẻ vang trong việc triển khai thực hiện
đường lối đối ngoại của Việt Nam”(24). Trong bài viết “Giá trị thời đại của trường phái ngoại
giao mang bản sắc “cây tre Việt Nam” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng”, đồng chí Hàn
Phương Minh, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại Chính hiệp toàn quốc Trung Quốc, Chủ tịch
Học hội ngoại giao và quan hệ quốc tế CHARHAR, nhận định: “Ngoại giao “cây tre Việt
Nam”... là vừa kiên trì sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, vừa tích cực mở rộng trong
lĩnh vực ngoại giao, bảo vệ và phát triển lợi ích quốc gia của Việt Nam, kết hợp nhuần nhuyễn
tính linh hoạt và tính nguyên tắc, nỗ lực thích ứng với thế giới không ngừng biến đổi; mặt
khác, cùng với việc phát triển các quan hệ ngoại giao hiện có, thiết lập các quan hệ hợp tác
mới. Đây chính là nền tảng ngoại giao để Việt Nam vẫn phát triển ổn định, lành mạnh dù
đứng trước tình hình thế giới vô cùng phức tạp”(25). Qua bài viết “Ấn tượng về Tổng Bí thư
Nguyễn Phú Trọng trong ngoại giao văn hóa Việt Nam - Nhật Bản”, ông Kuroiwa Yuji,
Thống đốc tỉnh Kanagawa, Nhật Bản không chỉ bày tỏ tình cảm yêu mến, kính trọng đối với
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng bởi sự gần gũi, thân thiện của đồng chí dành cho người dân
tỉnh Kanagawa, mà còn thể hiện niềm tin tưởng rằng: việc giao lưu được thúc đẩy ở cấp độ
chính quyền địa phương hai nước sẽ góp phần giúp quan hệ hai nước được “mở rộng, uyển
chuyển và vững chắc”, thực sự là kết quả triển khai trên thực tiễn “ngoại giao cây tre Việt
Nam”(26). Còn rất nhiều nhận định, khẳng định quý báu và đầy tâm huyết qua nội dung của
các bài viết “Ngoại giao Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng -
kiên cường và ngày càng phát triển”; “Ngoại giao Việt Nam cung cấp mô hình tốt hơn cho
các quốc gia trên thế giới”; “Trường phái ngoại giao mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam”
đã được Việt Nam áp dụng thành công trong thực tiễn”;... Hay đơn giản, ngắn gọn như tiêu đề
“Ấn tượng Việt Nam”, song lại chứa đựng suy ngẫm và tình cảm sâu sắc của bà Lorena Pena
Mendoza, Chủ tịch Liên đoàn Phụ nữ dân chủ quốc tế, về những kinh nghiệm thực tiễn của
Việt Nam và hệ thống lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam; từ đó hun đúc nên niềm hy vọng
về một tương lai tươi sáng cho cuộc đấu tranh mà chúng ta đang tiến hành vì một thế giới hòa
bình, công bằng, đa cực, nơi quyền của các dân tộc và đặc biệt là quyền của phụ nữ và trẻ em
gái được tôn trọng đầy đủ(27). Có thể khẳng định, chính phong cách ngoại giao mang đậm cốt
cách văn hóa dân tộc Việt Nam của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã làm sâu sắc
67

thêm tình cảm quý trọng, ngưỡng mộ và sự tin cậy của bạn bè quốc tế đối với Đảng ta và đất
nước ta, trở thành một trong những nhân tố làm nên sức mạnh của ngoại giao Việt Nam.

Bên cạnh việc đề cập những ý kiến, đánh giá và suy ngẫm của bạn bè quốc tế, cuốn sách cũng
góp phần khẳng định sự ủng hộ và đồng thuận to lớn của nhân dân Việt Nam đối với đường
lối, chính sách đối ngoại của Đảng ta dưới sự chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng;
đồng thời, thể hiện sự kính trọng, tình cảm trân quý và sự tri ân sâu sắc của nhân dân đối với
Tổng Bí thư, từ đó thêm tin tưởng, tự hào về những thành tựu to lớn của đất nước, trong đó có
đóng góp quan trọng của công tác đối ngoại, ngoại giao Việt Nam. Đó là “Đôi dòng về người
lĩnh xướng ngoại giao “cây tre Việt Nam””, “Về trường phái ngoại giao Việt Nam hiện đại”,
là ấn tượng với “Phong cách ngoại giao nhân văn của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng”,
““Ngoại giao vì con người” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng”,...; hay nhẹ nhàng mà vô
cùng sâu sắc, như “Những năm tháng quý giá - những kỷ niệm không quên với Tổng Bí thư
Nguyễn Phú Trọng” - câu chuyện của một người làm Trưởng Ban Đối ngoại Trung ương
Đảng 12 năm, trong đó có tới 10 năm dưới sự chỉ đạo trực tiếp và được chuẩn bị, phục vụ các
hoạt động đối ngoại của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Qua đó, người đọc càng thêm ấn
tượng về phong cách ngoại giao của Tổng Bí thư: “Tổng Bí thư không quá chú ý đến trang
phục, bài trí mà có thể nói là rất giản dị, khiêm nhường, lễ tân ứng xử với khách quốc tế luôn
rất chân thành, cởi mở, thân thiện với nụ cười đôn hậu, cái bắt tay nồng ấm, lúc trao đổi với
khách luôn khúc chiết, chặt chẽ, dí dỏm, tác phong khoan thai, phong nhã”(28), để rồi từ đó
như thấu tỏ: Tổng Bí thư của chúng ta là thế - luôn hiểu và tôn trọng bạn bè quốc tế.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng hiện nay, việc thấm
nhuần triết lý và thực hành hiệu quả trường phái ngoại giao mang bản sắc “cây tre Việt Nam”
có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Cuốn sách thực sự là cuốn cẩm nang, tài liệu tham khảo hữu
ích, không chỉ giúp chúng ta hiểu rõ lý luận và thực tiễn hoạt động đối ngoại của Tổng Bí thư
Nguyễn Phú Trọng, mà còn hiểu rõ và đồng thuận với chủ trương, đường lối, chính sách đối
ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Tổng Bí thư - một trường
phái ngoại giao đặc sắc của thời đại Hồ Chí Minh, thấm đượm tâm hồn và khí phách của dân
tộc Việt Nam./.

Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong bối cảnh cuộc Cách
mạng công nghiệp lần thứ tư

TCCS - Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã và đang diễn ra mạnh mẽ trên thế giới, tác động
sâu sắc đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đòi hỏi nhận thức về công nghiệp hóa, hiện đại
hóa ở nước ta cần được tiếp tục bổ sung, hoàn thiện và phát triển. Trên cơ sở đó, đề ra các giải
pháp tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo Nghị quyết Hội nghị
Trung ương 6 khóa XIII của Đảng.

Một số kết quả quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta
68

Công nghiệp hóa (CNH) là vấn đề có tính quy luật của quá trình chuyển từ sản xuất nhỏ lên
sản xuất lớn. Ở nước ta, đường lối CNH được hình thành khá sớm, ngay từ Đại hội III của
Đảng (năm 1960). Kể từ đó, CNH luôn được xác định là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội. Tới Đại hội VII, yêu cầu gắn CNH với hiện đại hóa (HĐH) bắt đầu
được Đảng ta đề cập. Theo đó, nhận thức mới về mục tiêu, nội dung, phạm vi, lộ trình, chủ
thể CNH gắn với HĐH được hình thành. Trong những giai đoạn tiếp theo, đường lối CNH,
HĐH tiếp tục được Đảng ta bổ sung, hoàn thiện, phát triển phù hợp tình hình, đặc điểm kinh
tế - xã hội của đất nước và bối cảnh thế giới. Từ Đại hội XI của Đảng (năm 2011) đến nay,
quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH đã đạt được những kết quả quan trọng:

Một là, CNH, HĐH đã thúc đẩy nền kinh tế nước ta tăng trưởng cao, cải thiện chất lượng tăng
trưởng, đưa nước ta trở thành nước đang phát triển, có thu nhập trung bình.

Trong giai đoạn 2016 - 2020, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân của nước ta là 6,0%/năm(1),
cao hơn mức trung bình của các nước đang phát triển. Riêng 9 tháng đầu năm 2022, mặc dù
kinh tế thế giới vẫn đang chịu ảnh hưởng nặng nề của đại dịch COVID-19, tốc độ tăng trưởng
thấp, nhưng kinh tế - xã hội Việt Nam vẫn phát triển ổn định, vượt và đạt 14/15 chỉ tiêu đề ra,
tăng trưởng GDP cả năm ước đạt 8,0%(2). Quy mô GDP nước ta năm 2020 tăng 1,4 lần so
với năm 2015, đạt khoảng 271,2 tỷ USD (theo đánh giá lại, đạt khoảng 343,2 tỷ USD), thu
nhập bình quân đầu người đạt 2.779 USD, gấp 1,3 lần năm 2015(3). Chất lượng tăng trưởng
kinh tế từng bước được cải thiện trên cơ sở nâng cao năng suất lao động, ứng dụng tiến bộ
khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Đóng góp của năng suất các yếu tố tổng hợp (TFP)
vào tăng trưởng GDP bình quân cả giai đoạn 2011 - 2020 đạt 39,0%. Tốc độ tăng năng suất
lao động bình quân giai đoạn 2011 - 2015 là 4,3%/năm, giai đoạn 2016 - 2020 là 5,8%/năm.
Hiệu quả đầu tư được nâng lên; hệ số ICOR giảm từ gần 6,3 giai đoạn 2011 - 2015 xuống còn
6,1 giai đoạn 2016 - 2019.

Hai là, cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động chuyển dịch tích cực; công nghiệp có đóng góp ngày
càng lớn trong nền kinh tế.

Cơ cấu các ngành kinh tế đã chuyển dịch tích cực theo hướng CNH, HĐH. Tỷ trọng khu vực
nông, lâm nghiệp và thủy sản trong GDP giảm từ mức 18,9% năm 2010 xuống còn 14,8%
năm 2020; tỷ trọng khu vực công nghiệp, xây dựng và dịch vụ (bao gồm cả thuế sản phẩm trợ
cấp) tăng từ 81,1% năm 2010 lên 85,2% năm 2020, vượt mục tiêu đề ra. Các thành phần kinh
tế có đóng góp tích cực vào quá trình CNH, HĐH đất nước. Cơ cấu kinh tế vùng có sự chuyển
dịch theo hướng phát huy các lợi thế so sánh của từng vùng, tăng cường liên kết, kết nối vùng.
Cơ cấu lao động chuyển dịch tích cực theo cơ cấu kinh tế, tỷ lệ lao động khu vực nông, lâm
nghiệp, thủy sản trong tổng lao động xã hội giảm từ 48,6% năm 2010 xuống còn 34% năm
2020. Tỷ trọng lao động ngành công nghiệp và xây dựng tăng từ 21,7% lên 30,3%, ngành
dịch vụ từ 29,7% lên khoảng 35,7% cùng giai đoạn(4).
69

Quy mô sản xuất của ngành công nghiệp liên tục mở rộng, chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP)
của toàn ngành công nghiệp tăng từ 7,4% năm 2016 lên 9,1% năm 2019; năng lực cạnh tranh
toàn cầu của ngành công nghiệp tăng từ vị trí 58 vào năm 2009 lên thứ 42 vào năm 2019(5).
Đã hình thành được một số ngành công nghiệp chủ lực của nền kinh tế, như khai thác, chế
biến dầu khí; điện tử, viễn thông, công nghệ thông tin; luyện kim, sắt thép; xi măng, vật liệu
xây dựng; cơ khí, chế biến, chế tạo ô tô, xe máy; dệt, may, da giày... Một số ngành công
nghiệp ưu tiên, công nghiệp mũi nhọn đã phát triển lớn mạnh, đóng góp lớn cả về sản xuất,
đầu tư, xuất khẩu, giải quyết việc làm, như dệt may, da giày, thực phẩm chế biến, thép, hóa
chất, nhựa. Một số ngành công nghiệp nền tảng, như cơ khí chế tạo; luyện kim; hóa chất; vật
liệu; công nghiệp năng lượng từng bước đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế.

Ba là, CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn góp phần thúc đẩy sản xuất nông nghiệp hàng hóa
theo hướng tập trung, quy mô lớn, ứng dụng công nghệ cao; thúc đẩy tăng trưởng nông
nghiệp ổn định, bền vững; ngành dịch vụ phát triển mạnh, chuyển dịch theo hướng hiện đại.

Tốc độ tăng trưởng GDP toàn ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản giai đoạn 2011 - 2020 đạt
trung bình 3%/năm. Nông nghiệp chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hóa, hiện đại gắn với
thị trường. Công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản được đẩy mạnh; cơ giới hóa, hiện đại
hóa trong sản xuất nông nghiệp được áp dụng rộng rãi, tạo nhiều thay đổi về phương thức
canh tác, năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh. Trình độ khoa học, công nghệ trong sản xuất
nông nghiệp từng bước được nâng cao theo hướng áp dụng công nghệ mới. Đóng góp của
ngành dịch vụ vào tăng trưởng kinh tế ngày càng tăng. Tăng trưởng bình quân của khu vực
dịch vụ giai đoạn 2011 - 2020 là 6,4%/năm(6). Một số ngành có tiềm năng, lợi thế, có hàm
lượng khoa học, công nghệ cao, như thông tin, bưu chính, viễn thông, du lịch, hàng không,...
phát triển với tốc độ nhanh. Thương mại điện tử phát triển mạnh. Một số ngành dịch vụ được
hiện đại hóa, hình thành các sản phẩm dịch vụ hiện đại, có chất lượng cao, như y tế, bảo
hiểm,... Kinh tế số được chú trọng phát triển trở thành động lực tăng trưởng của nền kinh tế,
thúc đẩy quá trình chuyển đổi số, phát triển chính phủ số, xã hội số.

Tuy nhiên, quá trình CNH, HĐH ở nước ta cũng còn những hạn chế: Nhiều chỉ tiêu, tiêu chí
trong mục tiêu phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo
hướng hiện đại không đạt; năng lực độc lập, tự chủ của nền kinh tế còn thấp, nội lực còn yếu;
mô hình tăng trưởng chưa dựa trên nền tảng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; năng
suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế chưa cao; chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, cơ cấu lao động chưa đạt mục tiêu đề ra; công nghiệp phát triển thiếu ổn định, chưa
bền vững và chưa đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH; chuyển đổi số, phát triển kinh tế số, xã hội số
vẫn còn khoảng cách xa so với mục tiêu đề ra và so với các nước phát triển; đô thị hóa còn
nhiều hạn chế, kết cấu hạ tầng phát triển chưa đồng bộ và hiện đại; chưa giải quyết tốt mối
quan hệ giữa CNH, HĐH với các vấn đề văn hóa, xã hội, con người...

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa trước tác động của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư
70

Ngày nay, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CN 4.0) đã và đang diễn ra mạnh mẽ trên
phạm vi toàn thế giới, tác động sâu sắc đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có quá
trình CNH, HĐH, đòi hỏi nhận thức về CNH, HĐH cần được tiếp tục bổ sung, hoàn thiện và
phát triển.

Nội dung cốt lõi của CN 4.0 là sự phát triển của khoa học và công nghệ, các hệ thống thông
minh chiếm vai trò chủ đạo, giao tiếp giữa các nền tảng thông minh, sự “cộng sinh” giữa trí
tuệ sáng tạo của con người và những sản phẩm trí tuệ nhân tạo trên phạm vi rộng lớn, có tính
phổ quát, tạo nên sự biến đổi của toàn bộ các hệ thống sản xuất, quản lý và quản trị trong xã
hội. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tác động toàn diện, sâu sắc đến CNH, HĐH ở nước ta
trên các khía cạnh chủ yếu sau:

Một là, thế giới được số hóa, kết nối số mọi lúc, mọi nơi, kết hợp thế giới thực với thế giới ảo.
Do đó, CNH, HĐH sẽ diễn ra cả trong môi trường thực và môi trường số.

Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư dựa trên ba lĩnh vực chính, đó là: lĩnh vực kỹ thuật
số, bao gồm dữ liệu lớn (Big Data), internet kết nối vạn vật (IoT), trí tuệ nhân tạo (AI); lĩnh
vực công nghệ sinh học (ứng dụng trong nông nghiệp, thủy sản, y dược, chế biến thực phẩm,
bảo vệ môi trường, năng lượng tái tạo, hóa học và vật liệu); lĩnh vực vật lý, bao gồm rô-bốt
thế hệ mới, in 3D, xe tự lái, các vật liệu mới (graphene, skyrmions...), công nghệ nano. Trong
đó, công nghệ kỹ thuật số là nền tảng cho tất cả các lĩnh vực. Các thành tựu của trí tuệ nhân
tạo với máy móc tự động và thông minh, như phương tiện tự hành, in 3D, internet kết nối vạn
vật (IoT), công nghệ sinh học và công nghệ nano,... chính là đột phá của công nghệ số, tiếp
nối thành quả của cuộc cách mạng số hóa đã diễn ra mấy chục năm qua từ khi có máy tính.
Đây là sự thay đổi cơ bản về cách thức sản xuất của con người, sản xuất được điều khiển và
quyết định từ không gian số. Có hai khía cạnh của công nghệ số, một là việc số hóa và hai là
việc quản trị và xử lý các dữ liệu được số hóa. Công nghệ số có phần chung rất lớn với công
nghệ thông tin, đó là phần quản trị và xử lý dữ liệu được số hóa. Trải qua các làn sóng của
công nghệ số, những đột phá trong thời gian gần đây, như điện toán đám mây, thiết bị di động
thông minh, trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, internet kết nối vạn vật (IoT)... đang tạo điều kiện
cho sản xuất thông minh được thực hiện rộng rãi.

Trí tuệ nhân tạo làm cho máy tính không những biết tính toán, mà còn có các khả năng của trí
tuệ con người, tiêu biểu là các khả năng lập luận, hiểu ngôn ngữ và biết học tập. “Học máy” là
việc phân tích các tập dữ liệu ngày càng lớn và phức tạp để đưa ra các quyết định hành động.
Với sự bùng nổ của dữ liệu, kết quả của việc số hóa và kết nối internet rộng rãi, khoa học dữ
liệu - với trung tâm là phân tích dữ liệu dựa vào “học máy” và thống kê - đang trở thành nền
tảng của CN 4.0. Trong lĩnh vực sinh học, dựa vào các phương pháp của “học máy” có thể
phân tích nguồn dữ liệu sinh học khổng lồ nhằm khám phá về sự sống, góp phần vào những
tiến bộ của công nghệ sinh học, mở ra nhiều triển vọng cho y học và nông nghiệp. Công nghệ
71

nano cũng có những bước tiến dựa vào công nghệ số. Gần đây nước Mỹ khởi đầu chương
trình nghiên cứu lớn về vật liệu tính toán nhằm dùng các kỹ thuật của “học máy” để rút ngắn
giai đoạn thử nghiệm trong phòng thí nghiệm khi chế tạo các vật liệu mới. Một chương trình
tương tự ở Nhật Bản cũng đã bắt đầu từ ba năm qua.

Hai là, Cách mạng công nghiệp lần thứ tư có quy mô và tốc độ phát triển chưa có tiền lệ, làm
thay đổi lực lượng sản xuất, thúc đẩy chuyển đổi CNH, HĐH sang giai đoạn mới: thâm dụng
tri thức và đột phá đổi mới sáng tạo; mở ra nhiều cơ hội “bắt kịp”, “đi cùng” và vượt lên ở
một số lĩnh vực so với khu vực và thế giới.

Nếu như các cuộc cách mạng công nghiệp trước đây diễn ra với tốc độ theo cấp số cộng (hay
tuyến tính) thì tốc độ phát triển của CN 4.0 này theo cấp số nhân. Thời gian từ khi các ý tưởng
về công nghệ và đổi mới sáng tạo được phôi thai, hiện thực hóa các ý tưởng đó trong các
phòng thí nghiệm và thương mại hóa ở quy mô lớn được rút ngắn đáng kể.

Tốc độ sáng tạo những công nghệ đột phá hiện nay đang phá vỡ cấu trúc của hầu hết các
ngành công nghiệp ở mọi quốc gia. Bề rộng và chiều sâu của những thay đổi này tạo nên sự
biến đổi trong toàn bộ các hệ thống sản xuất, quản lý và quản trị. Hàng tỷ người đang được
kết nối với nhau thông qua điện thoại di động, qua mạng xã hội. Các thế hệ máy tính hiện nay
đang có sức mạnh xử lý chưa từng có với dung lượng lưu trữ tăng lên đáng kể cho phép con
người dễ dàng truy cập vào kho kiến thức không giới hạn. Những khả năng này được nhân lên
nhờ những công nghệ đột phá trong các lĩnh vực, như trí tuệ nhân tạo, rô-bốt, internet kết nối
vạn vật, phương tiện tự hành, in 3D, công nghệ nano, công nghệ sinh học, khoa học vật liệu,
lưu trữ năng lượng và máy tính lượng tử. Những đột phá công nghệ diễn ra trong nhiều lĩnh
vực với tốc độ rất nhanh và tương tác thúc đẩy nhau tạo ra một thế giới được số hóa, tự động
hóa và ngày càng trở nên hiệu quả, thông minh hơn.

Ba là, Cách mạng công nghiệp lần thứ tư có phạm vi tác động bao trùm, toàn diện, hình thành
các quan hệ sản xuất mới, các hình thức kinh tế mới, tạo sự chuyển dịch các dòng vốn, công
nghệ, lao động; thúc đẩy xã hội hóa, quốc tế hóa cả lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất,
đòi hỏi CNH, HĐH của mỗi nước phải đặt trong chuỗi sản xuất - kinh doanh toàn cầu.

Cuộc cách mạng này tạo ra nền sản xuất và dịch vụ linh hoạt, tạo ra kỷ nguyên mới trong
công nghệ rô-bốt, thay đổi nguyên lý sản xuất, chuyển từ sản xuất tự động hóa sang sản xuất
bởi các nhà máy thông minh. Trong các nhà máy thông minh, các máy móc được kết nối
internet và liên kết với nhau qua một hệ thống điều khiển, có thể tự hình dung toàn bộ quy
trình sản xuất rồi đưa ra quyết định. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tác động mạnh mẽ trên
nhiều lĩnh vực, với sự xuất hiện của rô-bốt có trí tuệ nhân tạo mang lại nhiều ứng dụng trong
xã hội, tạo ra nền sản xuất và dịch vụ linh hoạt, làm tăng thu nhập và cải thiện chất lượng
cuộc sống cho người dân.
72

Số hóa thực hiện trong tất cả các ngành, nghề khác nhau. Công nghệ tạo ra những sản phẩm
và dịch vụ mới. Đổi mới về công nghệ tạo ra một “phép màu” cho dịch vụ cung ứng, cải thiện
năng suất và hiệu suất về lâu dài. Chi phí vận chuyển và thông tin liên lạc sẽ giảm, các dịch
vụ hậu cần (logistics) và chuỗi cung ứng toàn cầu sẽ trở nên hiệu quả hơn, chi phí thương mại
sẽ giảm.

Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với sự phát triển mạnh mẽ của lĩnh vực kỹ thuật số
làm cho dữ liệu, thông tin trở thành dữ liệu đầu vào của hầu hết các ngành, lĩnh vực; tạo ra
phương thức sản xuất mới, nền kinh tế bước vào giai đoạn tăng trưởng chủ yếu dựa vào động
lực khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, vì vậy, dường như không có giới hạn. Sự giao
thoa, hội tụ các lĩnh vực công nghệ cao sẽ xóa mờ dần ranh giới giữa các ngành kinh tế, giữa
các khâu, quy trình sản xuất. Công nghiệp hóa, HĐH trong bối cảnh CN 4.0 không chỉ là hiện
đại hóa máy móc, công nghệ, mà còn là đổi mới, thông minh hóa quá trình sản xuất; cá thể
hóa sản phẩm, đòi hỏi phải chú trọng nâng cao nội lực, tính tự chủ, khả năng thích ứng, sức
chống chịu cho cả nền kinh tế và mỗi doanh nghiệp.

Một số giải pháp tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong bối cảnh Cách mạng
công nghiệp lần thứ tư ở nước ta

Những phân tích, nhận định trên đây về tác động của CN 4.0 đến nội dung, mục tiêu, động lực
của CNH, HĐH đất nước trong tình hình mới cho thấy CNH, HĐH ở nước ta đã bước sang
một nấc thang mới, đòi hỏi phải có sự thay đổi mạnh mẽ trong tư duy, cách thức tổ chức thực
hiện, tiến trình và bước đi; xây dựng, thực thi cơ chế, chính sách; xác định trách nhiệm của
các chủ thể. Để tiếp tục đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước trong bối cảnh mới cần quán triệt sâu
sắc quan điểm, mục tiêu, nội dung CNH, HĐH được xác định trong Nghị quyết Hội nghị
Trung ương 6 khóa XIII, “Về tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến
năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”.

Về quan điểm, CNH, HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện nền kinh tế và đời sống
xã hội ngày càng dựa nhiều hơn vào sự phát triển của công nghiệp và dịch vụ trên nền tảng
khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; là nhiệm vụ trung tâm của chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, phát triển nhanh, bền vững.

Đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước là sự nghiệp của toàn dân, cả hệ thống chính trị, lấy con
người là trung tâm, doanh nghiệp là chủ thể, hài hòa giữa các mục tiêu kinh tế, xã hội, môi
trường; gắn kết chặt chẽ, đồng bộ với đô thị hóa.

Công nghiệp hóa, HĐH phải khai thác, phát huy tốt nhất tiềm năng, lợi thế của cả nước, vùng,
địa phương, nước đi sau trong thời kỳ dân số vàng; kết hợp đồng bộ giữa tuần tự với đi tắt,
đón đầu; CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là ưu tiên hàng đầu; chuyển đổi số là đột phá để
rút ngắn quá trình CNH, HĐH.
73

Thực hiện CNH, HĐH phải có lộ trình, bước đi cụ thể, có trọng tâm, trọng điểm; ưu tiên
nguồn lực, cơ chế, chính sách để phát triển các cực tăng trưởng, ngành công nghiệp nền tảng,
công nghiệp ưu tiên, dịch vụ có giá trị gia tăng cao; nguồn lực trong nước là cơ bản, chiến
lược, lâu dài, quyết định, nguồn lực bên ngoài là quan trọng, đột phá; doanh nghiệp trong
nước là động lực chính, chủ đạo, doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) có
vai trò quan trọng.

Công nghiệp hóa, HĐH phải bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô; chủ động, tích cực hội nhập kinh
tế quốc tế sâu, rộng, hiệu quả; khơi dậy khát vọng phát triển, khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo;
phát huy giá trị, truyền thống, bản lĩnh con người Việt Nam và vai trò xung kích của doanh
nhân, doanh nghiệp và giai cấp công nhân hiện đại.

Mục tiêu tổng quát của CNH, HĐH đến năm 2030 của nước ta là: Hoàn thành các tiêu chí của
nước công nghiệp, trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung
bình cao, đời sống mọi mặt của nhân dân được nâng cao. Xây dựng được nền công nghiệp
quốc gia hiện đại, vững mạnh, từng bước làm chủ được công nghệ lõi, công nghệ nền của các
ngành công nghiệp nền tảng, công nghiệp ưu tiên; nông nghiệp phát triển nhanh, bền vững
theo hướng sinh thái, ứng dụng mạnh mẽ khoa học, công nghệ tiên tiến; các ngành dịch vụ
được cơ cấu lại đồng bộ, hiệu quả trên nền tảng công nghệ hiện đại, công nghệ số với chất
lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh cao, hình thành được nhiều ngành dịch vụ mới, có giá
trị gia tăng cao.

Nội dung cốt lõi của CNH, HĐH đất nước đến năm 2030 là: Thúc đẩy mạnh mẽ ứng dụng
khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, nhất là thành tựu của CN 4.0 để tạo nên sự bứt phá về
năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của các ngành, lĩnh vực và cả nền kinh tế;
thực hiện chuyển đổi số toàn dân, toàn diện, hiệu quả, thực chất; đẩy mạnh nghiên cứu và ứng
dụng công nghệ, từng bước làm chủ được thiết kế công nghệ, công nghệ lõi, công nghệ nền
của một số ngành công nghiệp nền tảng, công nghiệp ưu tiên; cơ cấu lại các ngành dịch vụ
dựa trên nền tảng công nghệ hiện đại, công nghệ số, phát triển các loại dịch vụ mới có tính
liên ngành và giá trị gia tăng cao, đẩy nhanh dịch vụ hóa các ngành công nghiệp chế biến, chế
tạo.

Để thực hiện tốt mục tiêu CNH, HĐH đất nước theo nghị quyết của Đảng, trong thời gian tới,
cần tập trung nỗ lực thực hiện các giải pháp sau:

Một là, xây dựng, đổi mới và hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách thúc đẩy CNH, HĐH đất
nước nhanh, bền vững.

Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về phát triển công nghiệp quốc gia và các lĩnh vực
công nghiệp đặc thù. Rà soát, sửa đổi, bổ sung, ban hành mới hệ thống văn bản quy phạm
pháp luật về doanh nghiệp, thương mại, đầu tư, kinh doanh, khởi nghiệp, sáng tạo, sở hữu trí
tuệ, công nghệ thông tin và truyền thông và giao dịch điện tử. Hoàn thiện các chính sách
74

khuyến khích và tạo điều kiện phát triển các ngành công nghiệp nền tảng, công nghiệp ưu
tiên, quá trình chuyển đổi số, phát triển kinh tế số.

Tạo lập khuôn khổ pháp lý cho phát triển sản xuất thông minh, nhà máy thông minh, xây
dựng các tiêu chuẩn quốc gia về sản xuất thông minh. Có chính sách thí điểm, đặc thù về phát
triển thị trường khoa học, công nghệ, ứng dụng các công nghệ mới, mô hình kinh doanh mới,
nâng cao giá trị gia tăng và tỷ lệ nội địa hóa.

Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện chính sách về đất đai, tài khóa, tín dụng, khoa học, công nghệ,
phát triển nguồn nhân lực để thúc đẩy, hỗ trợ CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn; có chính
sách đột phá để thu hút đầu tư của tư nhân, đầu tư nước ngoài vào nông nghiệp, nông thôn.

Đổi mới chính sách tài chính, tín dụng nhằm khơi thông các nguồn lực tài chính quốc gia,
tăng cường huy động các nguồn lực ngoài ngân sách nhà nước. Đổi mới chính sách ưu đãi về
thuế phù hợp với thông lệ quốc tế; điều chỉnh, tập trung tín dụng chủ yếu vào các ngành công
nghiệp nền tảng, công nghiệp ưu tiên, nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao; phát triển mạnh
tài chính xanh, tín dụng xanh.

Sửa đổi, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách về khoa học, công nghệ; đổi mới
cơ chế, chính sách, pháp luật về đầu tư, đầu tư công, mua sắm công, ngân sách nhà nước, tài
sản công, thuế của hoạt động khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Có cơ chế, chính sách
riêng để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho các ngành công nghiệp nền tảng, công
nghiệp ưu tiên với cơ chế hỗ trợ tài chính của Nhà nước.

Hoàn thiện tiêu chí về đầu tư để lựa chọn, ưu tiên thu hút đầu tư phù hợp với chiến lược, quy
hoạch, định hướng phát triển các ngành, lĩnh vực, địa bàn trong CNH, HĐH. Thí điểm thực
hiện các cơ chế đặc thù để tạo đột phá trong phát triển kết cấu hạ tầng, nhất là đường bộ,
đường sắt. Nghiên cứu hình thành Quỹ phát triển hạ tầng. Ban hành cơ chế, chính sách phù
hợp về đền bù, hỗ trợ tái định cư, thu hồi đất phục vụ cho các dự án kết cấu hạ tầng quan
trọng cấp quốc gia, vùng. Xây dựng khung tiêu chí và hoàn thiện hành lang pháp lý cho phát
triển các khu công nghiệp sinh thái, thông minh, khu đô thị công nghiệp - thương mại - dịch
vụ.

Hai là, xây dựng nền công nghiệp quốc gia vững mạnh, tự lực, tự cường.

Đẩy nhanh thực hiện chủ trương của Đảng về định hướng xây dựng chính sách phát triển công
nghiệp quốc gia. Tiếp tục cơ cấu lại ngành công nghiệp theo hướng chú trọng xây dựng năng
lực nội sinh dựa trên cơ sở tự chủ về nguyên liệu, sản xuất và thị trường để hình thành năng
lực sản xuất quốc gia mới, phát triển các ngành công nghiệp có giá trị gia tăng cao, phát thải
các-bon thấp. Điều chỉnh phân bố không gian phát triển công nghiệp vùng, địa phương gắn
với các hành lang kinh tế trọng điểm, phù hợp quy hoạch tổng thể quốc gia, lợi thế của vùng,
chuyên môn hóa cao.
75

Xây dựng và triển khai Chương trình quốc gia về nâng cao năng lực độc lập, tự chủ, tự lực, tự
cường của nền sản xuất Việt Nam đến năm 2045. Quy hoạch và có cơ chế khuyến khích phát
triển khu công nghiệp hỗ trợ, khu, cụm công nghiệp chuyên biệt cho một số ngành công
nghiệp nền tảng, công nghiệp ưu tiên.

Hình thành hệ thống khu công nghiệp quốc gia quy mô lớn theo hướng sinh thái. Tiếp tục
triển khai thí điểm mô hình khu kinh tế đặc thù, khu kinh tế mới. Tăng cường liên kết, chuyển
giao, chuyển đổi công nghệ giữa công nghiệp dân sinh và công nghiệp quốc phòng, hình
thành một số nền tảng đổi mới sáng tạo dùng chung.

Phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh theo hướng lưỡng dụng, hiện đại, tự lực, tự
cường, liên kết chặt chẽ với công nghiệp dân sinh và trở thành mũi nhọn của công nghiệp
quốc gia. Cơ cấu lại công nghiệp quốc phòng, hình thành các cơ sở công nghiệp quốc phòng,
an ninh theo hướng tinh gọn, hiệu quả, hiện đại, lưỡng dụng. Tăng cường hợp tác, liên doanh,
liên kết, đầu tư nguồn lực hỗ trợ các cơ sở dân sinh phục vụ công nghiệp quốc phòng, an ninh.
Phát triển công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng đáp ứng cơ bản nhu cầu trong nước và xuất
khẩu, ưu tiên phát triển các vật liệu xanh, vật liệu mới. Phát triển công nghiệp hỗ trợ nhằm
phục vụ các ngành công nghiệp xuất khẩu lớn và tăng cường khả năng đáp ứng các quy tắc về
nguồn gốc xuất xứ trong các hiệp định thương mại tự do (FTA).

Ba là, đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn; tiếp tục cơ cấu lại ngành dịch vụ dựa
trên nền tảng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.

Triển khai thực hiện đồng bộ, hiệu quả Nghị quyết của Trung ương về nông nghiệp, nông dân,
nông thôn. Tiếp tục phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa lớn gắn với công
nghiệp chế biến, thị trường; chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng tăng tỷ trọng
giá trị sản phẩm và lao động các ngành công nghiệp và dịch vụ, tổ chức lại sản xuất theo
chuỗi giá trị. Phát triển công nghiệp hỗ trợ và dịch vụ logistics phục vụ nông nghiệp.

Khuyến khích phát triển công nghiệp cơ khí, hóa chất và công nghệ sinh học phục vụ sản xuất
nông nghiệp và chế biến nông, lâm thủy sản. Phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng nông nghiệp,
nông thôn, kết nối nông thôn với đô thị. Thúc đẩy chuyển đổi số toàn diện, thực chất, hiệu quả
nông nghiệp, nông thôn.

Thúc đẩy dịch vụ hóa các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo; tiếp tục cơ cấu lại các ngành
dịch vụ dựa trên nền tảng công nghệ hiện đại, công nghệ số, phát triển dịch vụ công nghệ cao,
các loại dịch vụ mới của kinh tế số. Xây dựng hệ sinh thái dịch vụ trong các lĩnh vực tài
chính, ngân hàng, bảo hiểm, pháp lý, y tế, giáo dục - đào tạo, viễn thông và công nghệ thông
tin, logistics, vận tải...

Bốn là, phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và nguồn nhân lực chất lượng cao
đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH trong tình hình mới.
76

Đẩy nhanh thể chế hóa và cụ thể hóa chủ trương, định hướng của Đảng về phát triển khoa
học, công nghệ, đổi mới sáng tạo; phát triển thị trường khoa học, công nghệ. Có lộ trình tăng
tỷ lệ chi từ ngân sách nhà nước cho nghiên cứu và phát triển.

Xây dựng và phát triển hệ sinh thái đổi mới sáng tạo quốc gia và hệ sinh thái đổi mới sáng tạo
mở, lấy doanh nghiệp làm trung tâm, liên kết hội nhập khu vực và thế giới. Hình thành các hệ
thống đổi mới sáng tạo quốc gia gắn với các cụm liên kết ngành, các chuỗi giá trị, các ngành
có giá trị xuất khẩu và doanh thu lớn. Xây dựng và phát triển các nền tảng, mạng lưới đổi mới
sáng tạo mở. Thực hiện thí điểm cơ chế, chính sách mới, đặc thù về khoa học, công nghệ, đổi
mới sáng tạo tại một số địa phương, trường đại học, viện nghiên cứu làm cơ sở để phổ biến và
nhân rộng. Chú trọng đầu tư và chuẩn bị trước một bước nguồn nhân lực khoa học, công nghệ
và đổi mới sáng tạo trong tương lai. Khuyến khích phát triển các nền tảng học trực tuyến mở,
thí điểm các mô hình đại học mới thích ứng với quá trình chuyển đổi số.

Rà soát, xây dựng và hoàn thiện các chiến lược về phát triển nguồn nhân lực quốc gia, giáo
dục - đào tạo, giáo dục nghề nghiệp đáp ứng yêu cầu chuyển đổi nhân lực sang nhân lực chất
lượng cao, nhân lực số đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH. Xây dựng và triển khai chương trình đào
tạo chuyên gia, nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực công nghiệp nền tảng, công nghiệp ưu
tiên. Quan tâm đào tạo nâng cao trình độ lao động nông thôn; phát triển nhân lực nghiên cứu,
chuyên gia trong nông nghiệp.

Năm là, phát triển kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại; thúc đẩy đô thị hóa nhanh và bền vững
gắn kết chặt chẽ và tạo động lực cho đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.

Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại cả về kinh tế và xã hội; ưu tiên phát triển
một số công trình hạ tầng trọng điểm quốc gia và vùng về giao thông, thích ứng với biến đổi
khí hậu, năng lượng, hạ tầng số. Phát triển hệ thống đường cao tốc; nghiên cứu, sớm đầu tư
xây dựng tuyến đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam, các tuyến đường sắt đô thị tại Hà Nội và
Thành phố Hồ Chí Minh; kết nối đồng bộ hệ thống giao thông với các khu kinh tế, khu công
nghiệp, cảng hàng không, cảng biển.

Có đề án tổng thể, thống nhất về cơ chế quản lý, khai thác các tài sản kết cấu hạ tầng giao
thông hàng hải, hàng không, đường bộ, đường sắt, đường thủy nội địa theo hướng tăng cường
xã hội hóa, tách biệt rõ vai trò quản lý nhà nước với vai trò quản lý, khai thác kết cấu hạ tầng
giao thông vận tải; nghiên cứu áp dụng thí điểm mô hình đầu tư công - quản trị tư.

Xây dựng và triển khai chiến lược phát triển hạ tầng số; quy hoạch hạ tầng thông tin và truyền
thông cho giai đoạn tới theo định hướng hạ tầng số là thiết yếu, bảo đảm an toàn thông tin
mạng là then chốt, ưu tiên đầu tư, phát triển nhanh, đi trước một bước.

Khuyến khích phát triển các mô hình khu công nghiệp - đô thị - dịch vụ, nhất là tại các đô thị,
vùng đô thị có mật độ dân số cao. Phát triển hệ thống đô thị theo mạng lưới, đồng bộ, hiện đại
77

dựa trên lợi thế của từng vùng, miền với mật độ kinh tế và tập trung lao động ở mức cao, gắn
kết chặt chẽ với CNH, HĐH. Tập trung xây dựng và nhân rộng mô hình khu kinh tế, khu công
nghiệp sinh thái ven biển gắn với hình thành, phát triển đô thị và các trung tâm kinh tế biển
mạnh./.

Kết hợp phát triển kinh tế với củng cố tiềm lực quốc phòng, an ninh - Từ góc độ quản lý
nhà nước

TCCS - Kết hợp phát triển kinh tế với củng cố tiềm lực quốc phòng, an ninh là một tất yếu
khách quan, một nội dung quan trọng trong đường lối phát triển đất nước của Đảng ta, nhằm
thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Thực tế phát triển nền kinh tế thị trường (KTTT) định
hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) cho thấy không phải mọi lúc, mọi nơi, sự kết hợp này được
bảo đảm. Vì vậy, cần xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách cũng như tổ
chức thực hiện nhằm kết hợp hài hòa, hiệu quả giữa phát triển kinh tế với củng cố tiềm lực
quốc phòng, an ninh của đất nước.

Tác động qua lại của kinh tế thị trường đối với quốc phòng, an ninh

Quá trình phát triển nền KTTT định hướng XHCN có tác động hai mặt đến việc củng cố tiềm
lực quốc phòng, an ninh đất nước. Về tác động tích cực:

Thứ nhất, tiềm lực quốc phòng, an ninh của một quốc gia phụ thuộc rất lớn vào trình độ phát
triển kinh tế của quốc gia đó. Kinh tế phát triển tạo nền tảng vật chất, kỹ thuật, công nghệ và
nhân lực cho quốc phòng, an ninh. Khi kinh tế phát triển, nguồn vốn tích lũy, nguồn thu ngân
sách không ngừng được tăng lên chính là điều kiện để phát triển đất nước về mọi mặt. Từ đó,
góp phần củng cố và tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh. Kinh tế phát triển gắn với đổi
mới kỹ thuật, công nghệ là cơ sở để đổi mới kỹ thuật, công nghệ trong công nghiệp quốc
phòng, sản xuất ra các loại vũ khí, phương tiện kỹ thuật phục vụ quốc phòng, an ninh. Kinh tế
phát triển cũng là cơ sở để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao tăng cường cho các lực
lượng vũ trang.

Thứ hai, phát triển KTTT góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, từ đó
củng cố và tăng cường lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, củng cố khối đại đoàn
kết toàn dân tộc, tăng cường ổn định xã hội và tiềm lực quốc phòng, an ninh. Khi cuộc sống
về mọi mặt của người dân được nâng cao, tiến bộ, công bằng, dân chủ được tăng cường thì
người dân, các lực lượng xã hội yên tâm, tin tưởng vào đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước, vững vàng trước sự lôi kéo, xúi bẩy, kích động của các thế lực
thù địch. Cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có cơ hội phát triển toàn diện của nhân dân là
nền tảng chính trị vững chắc để tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh.
78

Thứ ba, KTTT phát triển khơi thông các tiềm lực kinh tế, tác động đến việc tăng cường sức
mạnh của lực lượng quân đội và công an cả về vật chất và tinh thần. Về vật chất, kinh tế phát
triển, đời sống của cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng vũ trang và gia đình họ sẽ được cải thiện
và nâng cao, là cơ sở để nâng cao năng lực thể chất và trí tuệ mọi mặt của cán bộ, chiến sĩ
trong lực lượng vũ trang. Về tinh thần, kinh tế phát triển, đời sống của nhân dân, trong đó có
gia đình cán bộ, chiến sĩ thuộc lực lượng vũ trang được cải thiện, giúp cán bộ, chiến sĩ yên
tâm phục vụ quân đội, công an; đồng thời, tạo cơ hội để họ tập trung vào công tác huấn luyện,
rèn luyện, học tập nâng cao trình độ kỹ thuật, chiến thuật, đủ kiến thức và kỹ năng làm chủ
các phương tiện, vũ khí, khí tài hiện đại, nâng cao sự sẵn sàng, khả năng chiến đấu và chiến
thắng.

Thứ tư, KTTT gắn với việc mở cửa, hội nhập quốc tế thúc đẩy sự phát triển kinh tế trong
nước thông qua phát huy các lợi thế, tạo tiền đề vật chất cho tăng cường tiềm lực quốc phòng,
an ninh. Đồng thời, mở cửa, hội nhập quốc tế tạo sự hiểu biết, sự gắn kết và ràng buộc lẫn
nhau về lợi ích kinh tế, đầu tư, thương mại, hạn chế nguy cơ chiến tranh. Bên cạnh đó, xu
hướng hội nhập quốc tế đặt ra khả năng và yêu cầu khách quan liên kết các quốc gia trong các
thể chế khu vực và toàn cầu. Chủ động hội nhập quốc tế theo yêu cầu phát triển của KTTT, sự
tham gia có trách nhiệm vào hoạt động của các tổ chức quốc tế, bên cạnh mở rộng quan hệ
kinh tế và ngoại giao song phương, còn góp phần củng cố thế và lực của đất nước trong xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Sự phát triển KTTT cũng có những tác động tiêu cực đến tiềm lực quốc phòng, an ninh đất
nước, cụ thể:

Một là, phát triển KTTT dẫn đến sự phân hóa giàu nghèo, phân tầng xã hội. Đây là một tất
yếu do có sự hoạt động và phát huy tác dụng của các quy luật kinh tế khách quan. Sự phân
hóa giàu nghèo làm phát sinh những biểu hiện tiêu cực, bất mãn - cơ hội, điều kiện để các thế
lực thù địch, tội phạm có thể lợi dụng để dụ dỗ, lôi kéo, mua chuộc, kích động người dân gây
tình huống phức tạp về an ninh, trật tự xã hội, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, làm
ảnh hưởng xấu tới việc xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân.

Hai là, phát triển KTTT tác động đến tư tưởng, tình cảm của cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng
vũ trang. Kinh tế thị trường tạo điều kiện cho mọi cá nhân trong xã hội làm giàu hợp pháp và
đang có nhiều người, bằng tài năng, sức lực và nguồn lực của mình trở nên giàu có. Nhưng
cũng có không ít cá nhân làm giàu bất chính và một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức lợi
dụng vị trí công tác có hành vi tham nhũng, nhận hối lộ, có nhiều tài sản bất hợp pháp. Điều
này tác động đến nhận thức chính trị, tư tưởng, tình cảm, tâm lý, đạo đức của mỗi con người
trong đó có cán bộ, chiến sĩ các lực lượng vũ trang, đặc biệt là đối với những người có hoàn
cảnh gia đình khó khăn.

Ba là, đầu tư và thương mại quốc tế bên cạnh những kết quả tích cực mang lại cho nền kinh tế
cũng có những tác động tiêu cực tới lĩnh vực quốc phòng, an ninh. Thông qua con đường hợp
79

tác đầu tư, thương mại, các thế lực thù địch, phản động có thể lợi dụng để thâm nhập vào
trong nước, móc nối với các nhân vật bất mãn, phản động, tổ chức các hoạt động chống phá.
Cũng thông qua hoạt động đầu tư, thương mại, các thế lực thù địch tìm cách mua chuộc,
khống chế cán bộ, công chức trong các cơ quan trọng yếu của Đảng và Nhà nước để cung cấp
cho chúng các thông tin liên quan đến quốc phòng, an ninh, phục vụ âm mưu phá hoại, lật đổ.
Thông qua đầu tư, đặc biệt là đầu tư vào lĩnh vực giáo dục, đào tạo, văn hóa, nghệ thuật... để
truyền bá tư tưởng, văn hóa độc hại, thực hiện chiến lược diễn biến hòa bình.

Thực trạng kết hợp phát triển kinh tế với củng cố tiềm lực quốc phòng, an ninh - Từ góc độ
quản lý nhà nước

Hoạt động vận chuyển hàng hóa tại Tân Cảng Sài Gòn, thuộc Tổng công ty Tân Cảng Sài
Gòn (Quân chủng Hải quân) - doanh nghiệp quốc phòng tiên phong đi đầu trong sản xuất,
phát triển hiệu quả kinh tế biển và logistics_Ảnh: TTXVN

Từ yêu cầu kết hợp phát triển kinh tế với củng cố tiềm lực quốc phòng, an ninh, thời gian qua,
công tác quản lý nhà nước đạt được những kết quả khá toàn diện.

Trong xây dựng thể chế, Nhà nước đã ban hành hệ thống thể chế phát triển KTTT, tạo hành
lang pháp lý thuận lợi để giải phóng năng lực sản xuất trong xã hội, khai thác tiềm năng đất
nước đi đôi với thu hút vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý từ bên ngoài, giúp nền kinh tế
có những chuyển biến hết sức to lớn. Tăng trưởng GDP trung bình hằng năm của nước ta giai
đoạn 2016 - 2019 đạt trên dưới 7%, mức cao trên thế giới. Hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế -
xã hội không ngừng được phát triển. Đây là những điều kiện thuận lợi để Đảng, Nhà nước đầu
tư toàn diện cho lực lượng vũ trang nhân dân, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân
dân là lực lượng nòng cốt, từ phương tiện, trang thiết bị kỹ thuật hiện đại đến con người nhằm
củng cố, tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh của đất nước.

Bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế - xã hội và bộ máy quản lý nhà nước về quốc phòng, an
ninh ở Trung ương và địa phương được kiện toàn với các nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm
đối với công tác quốc phòng, an ninh theo quy định của Luật Quốc phòng và Luật An ninh
quốc gia, trong đó, xác định rõ nhiệm vụ: Tổ chức thực hiện các quy hoạch, kế hoạch của Nhà
nước về quốc phòng trong thời bình và thời chiến theo nhiệm vụ được giao; thực hiện việc kết
hợp chặt chẽ quốc phòng với kinh tế, kinh tế với quốc phòng trong xây dựng và thực hiện quy
hoạch, kế hoạch của bộ, ngành, lĩnh vực được giao phụ trách; bảo vệ an ninh trong các lĩnh
vực kinh tế, quốc phòng, đối ngoại và các lợi ích khác của quốc gia; bảo vệ bí mật nhà nước
và các mục tiêu quan trọng về an ninh quốc gia.

Các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch trung và dài hạn đầu tư phát triển kinh tế - xã hội luôn
được nghiên cứu, xây dựng và tổ chức thực hiện trong mối quan hệ với chiến lược quốc
phòng, an ninh. Đây là bước tiến quan trọng, thể chế hóa một cách đồng bộ các quan điểm của
Đảng, nhất là những tư duy, quan điểm mới về quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc bằng các
văn bản quy phạm pháp luật - cơ sở pháp lý quan trọng để tăng cường sức mạnh quốc phòng,
80

bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước
trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh. Đồng thời, cũng là căn cứ để chỉ đạo các cấp, các ngành,
các lực lượng và địa phương triển khai thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội gắn với
tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc.

Trong hoàn thiện các chính sách phân phối thu nhập, lĩnh vực văn hóa - xã hội, Nhà nước chủ
động giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện công bằng xã hội. Nhờ đó,
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện; hạn chế một phần sự phân hóa
giàu nghèo cũng như khoảng cách về mức sống và cơ hội phát triển giữa các vùng, miền, các
dân tộc, giữa nông thôn và thành thị. Chế độ, chính sách đối với cán bộ, chiến sĩ trong lực
lượng vũ trang và gia đình họ được đặc biệt quan tâm để cán bộ, chiến sĩ yên tâm phục vụ và
sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Cơ chế, chính sách phát triển khoa học - công nghệ và
môi trường không chỉ nhằm nâng cao trình độ công nghệ, cải thiện năng suất lao động mà còn
ưu tiên cho các mục tiêu hiện đại hóa nhanh chóng lực lượng quân đội và công an, đặc biệt là
trình độ phòng vệ quốc gia trước các nguy cơ an ninh truyền thống và phi truyền thống (chiến
tranh mạng, vũ khí sinh học, hóa học, ô nhiễm môi trường...).

Trong triển khai các chính sách hội nhập quốc tế, Đảng và Nhà nước chủ động đưa nền KTTT
mà Việt Nam xây dựng trở thành một bộ phận hữu cơ của nền KTTT thế giới, “kế thừa có
chọn lọc những thành tựu phát triển kinh tế thị trường của nhân loại”, “hệ thống pháp luật, cơ
chế, chính sách và các yếu tố thị trường, các loại thị trường đầy đủ, đồng bộ, vận hành thông
suốt, gắn kết chặt chẽ với các nền kinh tế trên thế giới”(1), tuân thủ các nguyên tắc, chuẩn
mực chung của thế giới để phát triển. Các chính sách hội nhập quốc tế, mở rộng thị trường để,
một mặt, phát triển nhanh và bền vững kinh tế của đất nước; mặt khác, tạo sự hiểu biết lẫn
nhau, tăng cường gắn bó lợi ích kinh tế, quan hệ ngoại giao hữu nghị giữa nước ta với các
nước trên thế giới, góp phần hình thành trật tự thế giới mới theo xu hướng bảo đảm an ninh,
hòa bình chung cho phát triển, bình đẳng trong quan hệ quốc tế. Đồng thời, trên cơ sở quan hệ
hợp tác về đầu tư và thương mại, có chính sách lựa chọn các đối tác hợp tác về quốc phòng,
an ninh để tăng cường vũ khí, trang thiết bị kỹ thuật, công nghệ quốc phòng, an ninh hiện đại
và đào tạo nhân lực, phục vụ hiện đại hóa các lực lượng vũ trang.

Sự kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh trong chiến lược
phát triển kinh tế được thể hiện ngay trong việc hoạch định mục tiêu phát triển quốc gia, trong
huy động nguồn lực, trong lựa chọn và thực hiện các giải pháp chiến lược. Tuy nhiên, một số
chính sách vẫn chưa xác định cụ thể các giải pháp để tổ chức thực hiện. Vì vậy, một số quy
hoạch, kế hoạch, dự án kinh tế, một số khu kinh tế, khu công nghiệp được bố trí ở các địa bàn
không bảo đảm yêu cầu của chiến lược quốc phòng, an ninh. Mặt khác, khi xây dựng các quy
hoạch, kế hoạch đầu tư phát triển kinh tế, các cơ quan ở Trung ương và địa phương dành sự
quan tâm chủ yếu đến phương diện lợi ích kinh tế, chưa xem xét đầy đủ tác động của các dự
án đó đến vấn đề bảo đảm quốc phòng, an ninh.
81

Nguyên nhân của hạn chế này xuất phát từ việc cán bộ, công chức một số cơ quan Trung
ương và địa phương chưa nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của việc kết hợp nhiệm vụ phát
triển kinh tế với củng cố tiềm lực quốc phòng, an ninh; không nắm vững các yêu cầu bảo đảm
quốc phòng, an ninh trong xây dựng một số dự án đầu tư. Còn các cơ quan có trách nhiệm
phối hợp thẩm tra, thẩm định các dự án đầu tư do thiếu trách nhiệm, không đủ năng lực, hoặc
do cả hai nguyên nhân trên, không phát hiện được những nguy cơ tiềm ẩn trong các dự án đầu
tư đó đối với quốc phòng, an ninh. Không loại trừ khả năng, vì lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm,
lợi ích cục bộ của ngành, địa phương, hoặc bị mua chuộc, mà cơ quan hoặc công chức chủ trì
xây dựng, thẩm định dự án, công chức có thẩm quyền phê duyệt, tổ chức thực hiện dự án đã
cố tình bỏ qua các nguy cơ tác động tiêu cực của dự án đối với quốc phòng, an ninh đất nước.

Công tác phối hợp giữa các bộ, ngành trong việc xây dựng thể chế, chính sách, các quy hoạch,
kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, ngành, lĩnh vực gắn với quốc phòng, an ninh chưa chặt
chẽ. Cơ quan quản lý nhà nước ở nhiều địa phương chỉ tập trung nỗ lực để kinh tế địa phương
tăng trưởng, tăng nguồn thu mà chưa thật sự chú trọng đến vấn đề quốc phòng, an ninh.

Quan điểm và giải pháp hoàn thiện công tác quản lý nhà nước để tăng cường kết hợp phát
triển kinh tế với củng cố tiềm lực quốc phòng, an ninh

động tích cực, hạn chế tối đa những tác động tiêu cực của phát triển KTTT đối với quốc
phòng, an ninh, kết hợp hài hòa và bảo đảm thực hiện thành công hai mục tiêu chiến lược xây
dựng đất nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, cần có một hệ thống các quan điểm, giải pháp
đồng bộ. Trong đó, giải pháp đặc biệt quan trọng là hoàn thiện công tác quản lý nhà nước.

Hoàn thiện công tác quản lý nhà nước đối với nền KTTT, đáp ứng yêu cầu kết hợp phát triển
kinh tế với tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, cần xuất phát từ quan điểm chủ đạo của
Đảng về quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc được thể hiện trong Cương lĩnh, Điều lệ Đảng,
các nghị quyết, chỉ thị và được hoàn thiện qua các kỳ đại hội Đảng. Đại hội XII của Đảng xác
định mục tiêu trọng yếu của quốc phòng, an ninh là: “Phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp
của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng
đồng quốc tế, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa;
bảo vệ công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo vệ lợi ích quốc gia -
dân tộc; bảo vệ nền văn hóa dân tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, an ninh
quốc gia, trật tự, an toàn xã hội”(2).

Đồng thời, cần quán triệt một số quan điểm sau:

Một là, Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với sự nghiệp quốc phòng, an ninh,
bảo vệ Tổ quốc. Cương lĩnh, Điều lệ Đảng và các văn kiện đại hội Đảng nêu bật nguyên tắc:
Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với sự nghiệp quốc phòng và an ninh. Đây
là nguyên tắc cơ bản, quy định chức năng lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp quốc phòng,
82

an ninh, từ việc xây dựng, hoạch định đường lối, chủ trương chiến lược về quốc phòng, an
ninh đến tổ chức thực hiện.

Hai là, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội và củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia
có mối quan hệ biện chứng, tác động, hỗ trợ và thúc đẩy lẫn nhau. Đây là quan điểm xuyên
suốt trong lãnh đạo, chỉ đạo sự nghiệp cách mạng của Đảng, nhất là trong bối cảnh, tình hình
mới. Đảng ta tiếp tục khẳng định nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, củng cố quốc
phòng, an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên. Trong đó, tăng cường tiềm lực quốc
phòng, an ninh để tạo môi trường, tiền đề vững chắc cho phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội;
ngược lại, mỗi thành quả của nhiệm vụ xây dựng, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội sẽ tạo
điều kiện vững chắc cho sự nghiệp củng cố quốc phòng, an ninh của đất nước.

Ba là, hệ thống pháp luật, chính sách phát triển kinh tế - xã hội và quốc phòng, an ninh phải
đồng bộ, hiệu quả. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân, được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật. Vì vậy, Nhà nước cần phải có
một hệ thống pháp luật, chính sách phát triển kinh tế - xã hội và pháp luật, chính sách về quốc
phòng, an ninh đồng bộ; được tổ chức thực hiện nghiêm túc, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu bảo vệ
vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc trong mọi tình
huống.

Bốn là, thực hiện nhất quán chính sách quốc phòng, an ninh mang tính chất hòa bình, tự vệ.
Chủ trương của Đảng và Nhà nước ta không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong
các quan hệ quốc tế, giải quyết mọi bất đồng và tranh chấp với các quốc gia khác bằng biện
pháp hòa bình. Xây dựng tiềm lực quốc phòng, an ninh dựa trên sức mạnh tổng hợp của cả
nước, khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng; kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh của lực lượng vũ trang và thế trận
quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân.

Trên cơ sở quán triệt quan điểm chủ đạo và các quan điểm nêu trên, trong thời gian tới, để
tăng cường kết hợp phát triển kinh tế với củng cố tiềm lực quốc phòng, an ninh, hoàn thiện
công tác quản lý nhà nước cần tập trung vào các giải pháp chủ yếu sau:

Thứ nhất, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong thực hiện kết hợp phát triển kinh tế với tăng
cường củng cố quốc phòng, an ninh. Quán triệt chủ trương, đường lối của Đảng, xây dựng và
thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển nền kinh tế, ngành, địa phương gắn với
tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh một cách phù hợp. Tăng cường kiểm tra, giám sát
việc thực hiện chủ trương, đường lối về kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường củng cố
quốc phòng, an ninh. Xử lý kỷ luật nghiêm cán bộ, công chức vi phạm, không hoàn thành
nhiệm vụ trong tham mưu, hoạch định chính sách phát triển kinh tế làm nguy hại đến tiềm lực
quốc phòng, an ninh của đất nước.

Thứ hai, hoàn thiện hệ thống pháp luật về KTTT, bảo đảm kết hợp phát triển kinh tế với củng
cố tiềm lực quốc phòng, an ninh. Mọi chủ trương, đường lối của Đảng có liên quan đến kết
83

hợp xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc, phát triển kinh tế với tăng cường củng cố quốc
phòng, an ninh đều phải được thể chế hoá thành hệ thống văn bản quy phạm pháp luật một
cách đồng bộ, thống nhất để quản lý và tổ chức thực hiện hiệu lực, hiệu quả trong cả nước. Cơ
chế, chính sách bảo đảm kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường củng cố tiềm lực quốc
phòng, an ninh cần được xây dựng theo quan điểm quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân.
Việc phân bổ ngân sách đầu tư cho kết hợp phát triển kinh tế - xã hội gắn với tăng cường củng
cố quốc phòng, an ninh theo hướng tập trung cho những mục tiêu chủ yếu, những công trình
có tính lưỡng dụng cao đáp ứng cả cho phát triển kinh tế - xã hội và củng cố quốc phòng, an
ninh, cả trước mắt và lâu dài. Xây dựng chính sách khuyến khích lợi ích vật chất và tinh thần
đối với các tổ chức, cá nhân, các nhà đầu tư có các đề tài khoa học, các dự án công nghệ có ý
nghĩa lưỡng dụng cao, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Thứ ba, hoàn thiện chiến lược tổng thể kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng
cố quốc phòng, an ninh trong thời kỳ mới. Muốn kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường
củng cố quốc phòng, an ninh trong suốt quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất
nước một cách cơ bản và thống nhất trên phạm vi cả nước và từng địa phương, phải tiếp tục
hoàn thiện chiến lược tổng thể quốc gia, các quy hoạch và kế hoạch về kết hợp phát triển kinh
tế với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh. Đây cần được coi là một trong những căn cứ
quan trọng hàng đầu để lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động quản lý nhà nước hiệu lực, hiệu quả.
Trong hoàn thiện chiến lược tổng thể, quy hoạch, kế hoạch về kết hợp phát triển kinh tế với
tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh và đối ngoại trong thời kỳ mới, phải có sự phối hợp
đồng bộ giữa các bộ, ngành, địa phương từ khâu khảo sát, đánh giá các nguồn lực (cả bên
trong và bên ngoài), trên cơ sở đó, xác định mục tiêu, phương hướng phát triển và đề ra các
giải pháp chính sách, như: Chính sách khai thác các nguồn lực; chính sách đầu tư và phân bổ
đầu tư; chính sách điều động nhân lực, bố trí dân cư; chính sách ưu đãi khoa học và công nghệ
lưỡng dụng.

Thứ tư, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước của chính quyền các cấp trong kết hợp phát triển
kinh tế với tăng cường, củng cố quốc phòng, an ninh. Trước hết, mỗi ngành, mỗi cấp phải làm
đúng chức năng, nhiệm vụ theo quy định của pháp luật và Nghị định số 119/2004/NĐ-CP của
Chính phủ(3); đồng thời, nghiên cứu xây dựng Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định này cho
phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ trong điều kiện mới (sự phát triển của cuộc Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế mạnh mẽ; sự xuất hiện của các vấn đề
quốc phòng, an ninh phi truyền thống). Xây dựng và chỉ đạo thực hiện tốt các quy hoạch, kế
hoạch kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh ở ngành, địa
phương, cơ sở. Đổi mới phương pháp quản lý, điều hành của chính quyền các cấp từ khâu lập
quy hoạch, kế hoạch đến công tác nắm tình hình, thu thập xử lý thông tin, định hướng hoạt
động, tổ chức hướng dẫn và thanh tra, kiểm tra ở mọi khâu, mọi bước của quá trình thực hiện
kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh. Tăng cường vai trò
84

giám sát của Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp, của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ
chức chính trị, xã hội.

Thứ năm, đổi mới, nâng cao chất lượng bồi dưỡng kiến thức, kinh nghiệm kết hợp phát triển
kinh tế với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh cho công chức, đặc biệt là công chức
lãnh đạo quản lý các cấp. Căn cứ vào đối tượng bồi dưỡng, yêu cầu nhiệm vụ đặt ra để chọn
lựa nội dung, chương trình bồi dưỡng cho phù hợp và thiết thực nhằm nâng cao cả kiến thức,
kinh nghiệm và năng lực thực tiễn sát với cương vị đảm nhiệm với từng loại đối tượng cán bộ.
Kết hợp bồi dưỡng kiến thức lý luận với thực hành thông qua các cuộc diễn tập thực nghiệm,
thực tế ở các bộ, ngành, địa phương, cơ sở để nâng cao hiểu biết và năng lực tổ chức thực
hiện của đội ngũ cán bộ và của toàn dân, toàn quân về kết hợp phát triển kinh tế với tăng
cường củng cố quốc phòng, an ninh trong tình hình mới.

Thứ sáu, củng cố, kiện toàn và phát huy vai trò tham mưu của cơ quan chuyên trách quản lý
nhà nước về quốc phòng, an ninh các cấp. Cần nghiên cứu, bổ sung chức năng, nhiệm vụ của
các cơ quan chuyên trách quản lý nhà nước về quốc phòng, an ninh nói chung và về kết hợp
phát triển kinh tế gắn với tăng cường, củng cố quốc phòng, an ninh nói riêng. Kết hợp giữa
chấn chỉnh, kiện toàn tổ chức với chăm lo bồi dưỡng, nâng cao năng lực và trách nhiệm của
các cơ quan và cán bộ chuyên trách làm công tác tham mưu về thực hiện kết hợp phát triển
kinh tế với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ trong
thời kỳ mới./.

Mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị trong quá trình đổi mới ở Việt Nam
PGS.TS Trần Văn Phòng - Học viện CT-HCQG Hồ Chí Minh
Giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là một nội dung cốt lõi quan
trọng trong các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng ta từ khi đổi mới đến nay. Sự nhận
thức và giải quyết đúng đắn vấn đề này của Đảng cũng là khâu đột phá trong tư duy và thực
tiễn lãnh đạo sự nghiệp đổi mới của Đảng.
Thời kỳ trước đổi mới, về nhận thức, chúng ta đã nhấn mạnh quá mức vai trò kiến trúc thượng
tầng, coi chính trị là thống soái, quyết định kinh tế và tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội;
chưa đánh giá đúng vai trò của kinh tế trong quan hệ với chính trị. Về cơ chế, chúng ta cũng
nhận thức một cách đơn giản về tác động của kiến trúc thượng tầng chính trị đối với cơ sở
kinh tế. Chính trị can thiệp quá sâu vào các quá trình kinh tế - xã hội bằng hệ thống những
mệnh lệnh chủ quan của các cơ quan quản lý các cấp. Và thiết chế, bộ máy hành chính còn
quan liêu, cửa quyền, cồng kềnh, kém hiệu quả.
Từ khi đổi mới đến nay, về quan điểm Đảng ta chủ trương “Kết hợp ngay từ đầu đổi mới kinh
tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính
trị”1. Đây là nhận thức đúng cả về mặt lý luận cả về mặt thực tiễn.
Khái niệm “đổi mới kinh tế” qua các văn kiện của Đảng được hiểu là quá trình chuyển đổi
nền kinh tế từ cơ chế tập trung, bao cấp chủ yếu dựa trên chế độ sở hữu toàn dân và tập thể
sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam theo định hướng XHCN. Đó là
bước chuyển từ nền kinh tế cơ bản là “khép kín” sang nền kinh tế “mở” đối với khu vực và
thế giới, kết hợp tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện công bằng xã hội, bảo
vệ môi trường sinh thái và từng bước đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
85

Khái niệm “đổi mới chính trị” qua các văn kiện của Đảng được hiểu là đổi mới tư duy chính
trị về CNXH; đổi mới cơ cấu tổ chức và cơ chế vận hành của hệ thống chính trị, trước hết là
đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; đổi mới, nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước
XHCN nhằm giữ vững ổn đinh chính trị để xây dựng chế độ XHCN ngày càng vững mạnh;
thực hiện tốt nền dân chủ XHCN nhằm phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân trong
quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN và phát triển kinh tế-xã hội dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trong quá trình đổi mới, Đảng ta cho rằng ổn định chính trị không có nghĩa là bảo thủ, trì trệ,
ngược lại nó có vai trò quan trọng đảm bảo điều kiện cho các lĩnh vực khác phát triển, làm
cho quá trình đổi mới trở nên toàn diện hơn. Ổn định chính trị cũng đồng thời góp phần tăng
cường vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của
nhân dân trong quá trình đổi mới đất nước.
Để giữ vững ổn định chính trị, tư tưởng trong Đảng và trong nhân dân, Hội nghị lần thứ 6 Ban
Chấp hành Trung ương khoá VI (3-1989) quyết định các nguyên tắc cơ bản để chỉ đạo toàn bộ
quá trình đổi mới theo đúng định hướng XHCN: “Đổi mới tư duy là nhằm khắc phục những
quan niệm không đúng, làm phong phú những quan niệm đúng về thời đại, về chủ nghĩa xã
hội, vận dụng sáng tạo vào phát triển chứ không phải xa rời những nguyên lý của chủ nghĩa
Mác - Lênin”.
Về mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, Hội nghị lần 6 Ban Chấp hành
Trung ương khoá VI đã chỉ rõ: “Chúng ta tập trung sức làm tốt đổi mới kinh tế, đồng thời
từng bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của các tổ chức chính trị. Không thể
tiến hành cải cách hệ thống chính trị một cách vội vã khi chưa đủ căn cứ, mở rộng dân chủ
không có giới hạn, không có mục tiêu cụ thể và không đi đôi với tập trung thì dẫn đến sự mất
ổn định về chính trị, gây thiệt hại cho sự nghiệp đổi mới” 2. Một bước đi cực kỳ đứng đắn và
thể hiện được bản lĩnh chính trị của Đảng ta biểu hiện bằng nghị quyết hội nghị lần thứ 7 Ban
Chấp hành Trung ương khoá VI (8-l989) về công tác tư tưởng trong bối cảnh quốc tế vô cùng
phức tạp khi đó: "Chế độ chính trị của chúng ta là chế độ làm chủ của nhân dân lao động dưới
sự lãnh đạo của Đảng... Chúng ta không chấp nhận chủ nghĩa đa nguyên chính trị, không để
cho các tổ chức chống đối chủ nghĩa xã hội ra đời và hoạt động, không coi việc thực hiện
chính sách kinh tế nhiều thành phần là thực hiện chủ trương đa nguyên về kinh tế” 3.
Chủ trương giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị được tiếp tục
nhấn mạnh trong văn kiện Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VII: “Phải tập trung sức
làm tốt đổi mới kinh tế, đáp ứng những đòi hỏi cấp bách của nhân dân về đời sống, việc làm
và các nhu cầu xã hội khác, xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, coi đó là
điều kiện quan trọng để tiến hành thuận lợi đổi mới trong lĩnh vực chính trị. Đồng thời với đổi
mới kinh tế, phải từng bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị,
phát huy ngày càng tốt quyền làm chủ và năng lực sáng tạo của nhân dân trên các lĩnh vực
chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội” 4. Kinh nghiệm thành công của sự kết hợp đổi mới kinh tế
và đổi mới chính trị được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng khẳng định: “Kết
hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng
tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị”5.
Đó là những quan điểm đúng đắn của Đảng ta phù hợp với nhu cầu và nguyện vọng của nhân
dân lao động, những quan điểm này tiếp tục được khẳng định trong các kỳ Đại hội IX, X với
mục tiêu: “đổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức và cách làm phù
hợp. Phải đổi mới từ nhận thức, tư duy đến hoạt động thực tiễn; từ kinh tế, chính trị, văn hóa,
đối ngoại đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; từ hoạt động lãnh đạo của Đảng, quản lý
của nhà nước đến hoạt động cụ thể trong từng bộ phận của hệ thống chính trị” 6. Đại hội XI
của Đảng đã đưa ra quan điểm về đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị: “Đổi mới chính trị
phải đồng bộ với đổi mới kinh tế theo lộ trình thích hợp, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh
86

tế thị trường xã hội chủ nghĩa, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mở rộng dân chủ trong Đảng và trong xã hội gắn với tăng
cường kỷ luật, kỷ cương..”7. Như vậy,về đổi mới kinh tế, Đại hội XI của Đảng tập trung vào
đổi mới để hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường XHCN. Để hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường XHCN, Đại hội XI của Đảng chủ trương:
Thứ nhất, Đảng ta coi hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường đồng bộ và hiện đại là tiền đề
quan trọng thúc đẩy quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, ổn định
kinh tế vĩ mô.
Thứ hai, đổi mới việc xây dựng và thực thi luật pháp cho cạnh tranh bình đẳng, minh bạch,
giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.
Thứ ba, đổi mới công tác quy hoạch, kế hoạch, điều hành phát triển kinh tế theo cơ chế thị
trường.
Thứ tư, chú ý đặc biệt trong việc thực hiện chính sách tài chính, tiền tệ bảo đảm phát triển
lành mạnh nền kinh tế.
Thứ năm, tạo lập đồng bộ và vận hành thông suốt các loại thị trường: Thực hiện tốt năm giải
pháp này sẽ góp phần trực tiếp hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường XHCN. Đây là nhiệm vụ
trọng tâm của đổi mới kinh tế giai đoạn này.
Về đổi mới chính trị, Đại hội XI của Đảng tập trung 3 yếu tố cơ bản, trọng yếu là đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng; xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN; mở rộng dân chủ
trong Đảng và trong xã hội gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương. Đây là balĩnh vực cơ bản,
trọng yếu mang tính đột phá trong đổi mới chính trị. Trong đó, đổi mới phương thức lãnh đạo
của Đảng là cấp thiết và hàng đầu.
Về đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, Đại hội XI chủ trương:
Thứ nhất, rà soát, bổ sung, điều chỉnh, ban hành mới, xây dựng đồng bộ hệ thống các quy
chế, quy định, quy trình công tác để đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt
động của hệ thống chính trị.
Thứ hai, khắc phục tình trạng Đảng bao biện làm thay, hoặc buông lỏng lãnh đạo các cơ quan
quản lý nhà nước.
Thứ ba, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
nhân dân.
Thứ tư, đổi mới phong cách, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo của Đảng từ trung ương
đến địa phương cơ sở; cải cách thủ tục hành chính trong Đảng.
Thứ năm, đổi mới cách ra nghị quyết, tổ chức thực hiện nghị quyết, kiểm tra, sơ kết, tổng kết
việc thực hiện nghị quyết.
Đối với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, Đại hội XI của Đảng chủ trương:
Thứ nhất, nâng cao nhận thức về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN.
Thứ hai, tiếp tục đối mới tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước.
Thứ ba, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực đáp ứng yêu cầu trong
tình hình mới.
Thứ tư, tích cực thực hành tiết kiệm, phòng ngừa và kiên quyết chống tham nhũng, lãng phí.
Đối với việc mở rộng dân chủ trong Đảng và trong xã hội gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ
cương. Đại hội XI chủ trương:
Thứ nhất, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ XHCN, trước hết là thực hiện dân chủ
trong Đảng.
Thứ hai, có cơ chế cụ thể để nhân dân thực hiện quyền làm chủ trực tiếp của mình; chống tập
trung, quan liêu, khắc phục dân chủ hình thức.
Thứ ba, phát huy dân chủ đi đôi với đề cao trách nhiệm công dân, kỷ luật, kỷ cương; phê
phán, nghiêm trị hành vi vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, những hành vi lợi dụng dân
chủ vì mục đích xấu.
Điều quan trọng là Đại hội XI của Đảng nhấn mạnh phải lấy mục tiêu xây dựng nước Việt
Nam XHCN dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh “làm tiêu chuẩn cao nhất để
87

đánh giá hiệu quả của quá trình đổi mới và phát triển” 8 nói chung, đổi mới kinh tế và đổi mới
chính trị ở nước ta nói riêng. Tiêu chí này chỉ rõ mục đích của đổi mới kinh tế và đổi mới
chính trị của Đảng ta.
Trong những năm đổi mới, sự kết hợp hài hòa giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị đã
đem lại bước chuyền biến tích cực đối với đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước, với
những thành tựu nổi bật là:
Thứ nhất, thành công lớn nhất và quan trọng nhất có ý nghĩa sống còn đối với dân tộc Việt
Nam là chúng ta tiến hành quá trình đổi mới không phải bắt đầu từ việc “đổi mới” trong lĩnh
vực chính trị như ở Liên Xô và các nước XHCN khác ở Đông Âu, cũng không đồng thời “đổi
mới” ngay lập tức cả hai lĩnh vực chính trị lẫn kinh tế. Chúng ta rất tỉnh táo và đủ bản lĩnh giữ
vững ổn định chính trị, giữ vững sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản để làm trục đỡ chính trị cho
việc điều chỉnh và đổi mới kinh tế.
Thứ hai, nhờ có định hướng chính trị rõ ràng, bằng các chính sách chuyển đổi cơ chế và cơ
cấu phù hợp với yêu cầu khách quan của thực tiễn, kinh tế của nước ta tăng trưởng vượt bậc,
đời sống của nhân dân được cải thiện rỡ rệt. Người dân tin tưởng vào đường lối đổi mới khi
nhận thấy lợi ích của mình được đảm bảo. Nhờ có tư duy mới và dựa vào lợi ích của nhân dân
nên đường lối đổi mới đã gắn chặt với thực tiễn đất nước, mang “hơi thở” cuộc sống. Bằng
các chủ trương, chính sách vừa có tính định hướng, vừa cụ thể thiết thực, đường lối đổi mới
của Đảng đã đi vào cuộc sống, tạo tiền đề để giải phóng sức sản xuất xã hội, phát huy tinh
thần sáng tạo, tính tích cực chính trị của nhân dân. Nhân dân chủ động tham gia vào đời sống
kinh tế, đời sống chính trị để xây dựng, phát triển kinh tế, bảo vệ chế độ đã, đang đảm bảo lợi
ích cho họ. Nhờ vậy, “Sau 20 năm hiện Cương lĩnh, chúng ta đã giành được những thành tựu
to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đất nước thực hiện thành công bước đầu công cuộc đổi mới, ra
khỏi tình trạng kém phát triển; đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và
khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố, tăng cường”9.
Bên cạnh những thành công vừa nêu trên, việc vận dụng và xử lý mối quan hệ biện chứng
giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị của chúng ta còn có nhiều đem cần phải cố gắng
hoàn thiện hơn nữa. Đổi mới là cả một quá trình lâu dài và phức tạp do thực tiễn luôn vận
động và thay đổi. Đường lối đổi mới và định hướng đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị của
Đảng cần phải khẳng định là đúng đắn, tuy nhiên vấn đề lại là hiệu quả của việc thực thi
đường lối đó trên từng giai đoạn cụ thể, trong từng cách làm cụ thể, của từng mối quan hệ cụ
thể. Đại hội XI của Đảng thắng thắn nhìn nhận về hạn chế trong đổi mới chính trị so với đổi
mới kinh tế: “Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc chưa được
phát huy đầy đủ. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân chuyển
biến chậm”10; “Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chưa theo kịp yêu cầu phát
triển kinh tế và quản lý đất nước” 11; “công tác xây dựng Đảng còn nhiều hạn chế, yếu kém,
chậm được khắc phục”12 . Những hạn chế của đổi mới chính trị trong mọi quan hệ với đổi mới
kinh tế này đã cản trở quá trình đổi mới kinh tế, thậm chí kìm hãm kinh tế phát triển. Vấn đề
đổi mới chính trị chưa thực sự có hiệu quả một phần do chúng ta chưa làm rõ và phân định
dứt khoát chức năng lãnh đạo của Đảng với chức năng quản lý của Nhà nước. Mặt khác, trong
đổi mới chính trị chúng ta mới chỉ tập trung nhấn mạnh ý nghĩa của đổi mới tư duy về chính
trị chứ chưa thực sự tiến hành đổi mới ở con người chính trị-chủ thể hoạt động chính trị và cơ
chế hoạt động có hiệu quả của hệ thống chính trị.
Do vậy, để đất nước phát triển hơn nữa cần tiếp tục nhận thức và giải quyết tốt mối quan hệ
giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Đây cũng là thực chất, yêu cầu, nội dung của một
trong tám mối quan hệ lớn trong thời kỳ quá độ lên CNXH nước ta mà Đảng ta đã đề ra cần
giải quyết đúng đắn.
88

Vai trò của kinh tế nhà nước trong xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và hội nhập
quốc tế sâu, rộng
TCCS - Ngày 13-4-2023, Hội đồng Lý luận Trung ương phối hợp với Tạp chí Cộng sản
và Đảng ủy Khối các doanh nghiệp Trung ương tổ chức Hội thảo khoa học: “Vai trò của
kinh tế nhà nước trong xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế sâu,
rộng”.
Tiếp tục khẳng định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước
Phát biểu đề dẫn hội thảo, đồng chí Nguyễn Long Hải nêu rõ, trên thế giới, hầu như tất cả các
nước đều muốn xây dựng một nền kinh tế có tính độc lập - tự chủ cao… Xây dựng nền kinh tế
độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế là quan điểm xuyên suốt và nhất quán của Đảng và Nhà
nước ta kể từ khi thực hiện công cuộc đổi mới đến nay. Trong tiến trình xây dựng nền kinh tế
độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế, qua các kỳ đại hội, Đảng ta xác định kinh tế nhà nước giữ
vai trò chủ đạo, là công cụ, lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước giữ vững ổn định kinh
tế vĩ mô, định hướng, điều tiết, dẫn dắt thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, khắc phục các
khuyết tật của cơ chế thị trường.
Đồng chí Nguyễn Long Hải nhấn mạnh 5 lý do kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp điều kiện của nước ta
và là tiêu chí quan trọng bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa: Thứ nhất, vai trò chủ đạo
của kinh tế nhà nước thể hiện rõ bản chất, đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa hoàn toàn khác với kinh tế thị trường ở các nước tư bản chủ nghĩa, được xây
dựng trên cơ sở sở hữu tư bản độc quyền. Vai trò của kinh tế nhà nước xuất phát từ lợi ích của
đất nước và nhân dân trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; thứ hai, kinh tế nhà nước có
vai trò đầu tàu, hướng dẫn và dẫn dắt các hình thức sở hữu khác trong phát triển các lĩnh vực
quan trọng; thứ ba, kinh tế nhà nước có vai trò chủ đạo bảo đảm phát triển năng lực cạnh
tranh của quốc gia; thứ tư, đối với an ninh quốc gia, kinh tế nhà nước thể hiện vai trò ở việc
nắm giữ các lĩnh vực then chốt, địa bàn quan trọng, quốc phòng, an ninh; thứ năm, về mặt xã
hội, kinh tế nhà nước có vai trò quan trọng trong gánh vác chức năng và vai trò xã hội. Kinh
tế nhà nước đảm nhận những ngành ở những địa bàn khó khăn có ý nghĩa chính trị - xã hội,
bảo đảm sự cân bằng về đầu tư phát triển theo vùng, miền, thực hiện chính sách an sinh xã
hội, các chương trình xóa đói, giảm nghèo...
Với vai trò của mình, những năm qua, kinh tế nhà nước đã góp phần quan trọng vào thành tựu
chung trong xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế sâu, rộng ở Việt Nam.
Thể hiện ở việc giữ vững độc lập, tự chủ trong việc xác định chủ trương, đường lối, chiến
lược phát triển kinh tế đất nước; nền kinh tế phát triển ổn định, năng lực cạnh tranh nâng cao,
cả quy mô của nền kinh tế cũng như sự cạnh tranh của các doanh nghiệp và sản phẩm; giữ
vững các cân đối lớn, chú trọng bảo đảm an ninh kinh tế. Bên cạnh đó, nâng cao khả năng
chống chịu của nền kinh tế trước tác động tiêu cực từ những biến động bên ngoài; nền kinh tế
Việt Nam ngày càng đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ kinh tế quốc tế, tránh lệ thuộc vào
một thị trường, một đối tác…
Đồng chí Nguyễn Long Hải đề nghị, các chuyên gia, nhà khoa học tại hội thảo tập trung thảo
luận 2 nhóm vấn đề chính: Nhóm vấn đề thứ nhất, tập trung vào những vấn đề lý luận, như
nhận thức lý luận về vai trò của kinh tế nhà nước nói chung và đối với xây dựng nền kinh tế
độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế sâu, rộng nói riêng, đặc biệt trong bối cảnh hiện
nay; nhóm vấn đề thứ hai, làm rõ thực trạng vai trò của kinh tế nhà nước trong xây dựng nền
kinh tế độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế sâu, rộng ở Việt Nam hiện nay, đặc biệt trên cơ sở
hoạt động thực tiễn của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước, đánh giá những mặt được, hạn
chế cùng các nguyên nhân, từ đó, đề xuất các giải pháp, kiến nghị để kinh tế nhà nước thực
hiện tốt vai trò của mình trong nền kinh tế quốc dân.
89

TS Nguyễn Long Hải, Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng, Bí thư Đảng ủy Khối Doanh
nghiệp Trung ương phát biểu Đề dẫn hội thảo_Ảnh: Quang Hanh
Để kinh tế nhà nước phát huy hiệu quả hơn trong thời gian tới
Thảo luận tại hội thảo, các nhà khoa học cho rằng, hiện nay, bối cảnh mới cả trong và ngoài
nước đang đặt ra không ít thời cơ lẫn thách thức cho khu vực kinh tế nhà nước. Thời gian tới,
khu vực này cần tiếp tục khẳng định vị trí và phát huy vai trò chủ đạo của mình trong xây
dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, đồng thời hội nhập hiệu quả vào nền kinh tế toàn cầu. Theo
xu hướng phát triển, kinh tế nhà nước, đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước sẽ giảm quy mô,
tỷ trọng và phạm vi hoạt động trong nền kinh tế nhưng lại tập trung vào các lĩnh vực tối quan
trọng, chủ đạo trong các ngành, nghề chủ chốt, những ngành có tính chất tiên phong, đột phá
về công nghệ, tạo tác động lan tỏa và giá trị gia tăng cao, đóng góp nhiều cho ngân sách.
Với tham luận “Vai trò của kinh tế nhà nước trong xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và hội
nhập quốc tế”, PGS, TS Vũ Văn Phúc, Phó Chủ tịch Hội đồng Khoa học các cơ quan Đảng
Trung ương đã phân tích sâu các đặc điểm cần có của một nền kinh tế tự chủ, nghĩa là chủ
động trong việc hoạch định đường lối, có đủ năng lực thực thi các mục tiêu… Cần tiếp tục
nâng cao chất lượng, hiệu quả, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước để làm tốt vai
trò dẫn dắt phát triển các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác, bảo đảm doanh nghiệp
Việt Nam thật sự trở thành lực lượng nòng cốt trong phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trong bối cảnh toàn cầu hóa và
hội nhập quốc tế.
Tham luận “Kinh tế nhà nước trong nền kinh tế số với bối cảnh xây dựng kinh tế độc lập, tự
chủ và hội nhập quốc tế sâu, rộng”, GS, TS Trần Thọ Đạt, Thành viên Hội đồng tư vấn chính
sách tài chính, tiền tệ quốc gia lưu ý, việc phát huy vai trò của kinh tế nhà nước trong xây
dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và hội nhập cần đặc biệt quan tâm đến bối cảnh mới, đó là
quá trình chuyển đổi số diễn ra mạnh mẽ - trong khi bản thân kinh tế nhà nước được đánh giá
là khu vực kinh tế có tốc độ chuyển đổi số còn chậm. Nhà nước cần tiếp tục có cơ chế đầu tư,
khuyến khích khu vực kinh tế nhà nước đẩy mạnh ứng dụng khoa học - công nghệ mới,
chuyển đổi số, ứng dụng những thành tựu của công nghệ số vào hoạt động sản xuất, kinh
doanh, đổi mới sáng tạo mô hình kinh doanh mới...
TS Phan Đức Hiếu, Ủy viên Thường trực Ủy ban Kinh tế của Quốc hội cho rằng, trong nền
kinh tế thị trường, sự tách bạch giữa hoạt động công ích của Nhà nước và hoạt động kinh
doanh cần rõ ràng. Bởi vì, nếu có sự tách bạch thì mọi hoạt động của doanh nghiệp sẽ minh
bạch, đánh giá kết quả và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp mới chính xác. Theo TS Phan
Đức Hiếu, giao nhiệm vụ cho doanh nghiệp nhà nước phải có sự đa dạng về cơ chế để doanh
nghiệp nhà nước có thể hoàn thành tốt nhất vai trò của mình, cả về nhiệm vụ chính trị, cả về
nhiệm vụ kinh tế...
Tham luận “Vai trò của tổ chức đảng tại doanh nghiệp nhà nước trong khẳng định tính độc
lập, tự chủ của nền kinh tế”, đồng chí Nguyễn Trung Hiếu, Ủy viên Ban Thường vụ, Trưởng
Ban Tuyên giáo Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương đề xuất với các cơ quan có thẩm
quyền một số định hướng, giải pháp hoàn thiện cơ chế, chính sách nhằm thúc đẩy doanh
nghiệp nhà nước phát triển bền vững, góp phần bảo đảm vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước,
như: 1- Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật theo hướng cập nhật kịp
thời các quy định của Đảng để việc triển khai được thống nhất, đồng bộ; 2- Tăng cường phân
cấp, ủy quyền cho hội đồng thành viên, hội đồng quản trị các tập đoàn kinh tế, tổng công ty
nhà nước, đồng thời tăng cường hoạt động giám sát, kiểm tra của cơ quan đại diện chủ sở hữu
để kịp thời phòng ngừa, phát hiện, xử lý sai phạm theo quy định của pháp luật. Nghiên cứu
ban hành bộ tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động của từng loại hình doanh nghiệp nhà nước
theo mục tiêu đặt ra; 3- Tăng cường công tác quản lý nội dung trên không gian mạng, có biện
90

pháp ngăn chặn các thế lực thù địch và tội phạm kinh tế xâm nhập vào mạng nội bộ của các
doanh nghiệp nhà nước, gây thiệt hại về kinh tế; 4- Sớm hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp
luật về bảo vệ sở hữu trí tuệ, thương hiệu, bản quyền Việt Nam; có chính sách ưu đãi đối với
những doanh nghiệp thực hiện tốt công tác bảo vệ môi trường, thực hiện kinh tế xanh, kinh tế
tuần hoàn trong giai đoạn mới; 5- Kiện toàn và nâng cao hiệu quả hoạt động của Ủy ban Quản
lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp, có các cơ chế đặc thù để Ủy ban thực sự hoạt động hiệu
lực, hiệu quả. Đây là một trong những giải pháp trọng tâm trong việc thay đổi phương thức
quản lý vốn nhà nước đối với các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước…
Các đại biểu đại diện các tập đoàn, tổng công ty nhà nước tham luận chia sẻ thuận lợi, cũng
như khó khăn của các doanh nghiệp, nhất là những nút thắt về cơ chế trói buộc sự phát triển
của doanh nghiệp nhà nước rất cần tháo gỡ trong thời gian tới. Dưới góc nhìn của ngành dệt
may, da giày - ngành xuất khẩu thâm dụng lao động lớn bậc nhất cả nước - TS Lê Tiến
Trường, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Hội đồng quản trị Vinatex cho rằng, để xác định nền kinh
tế độc lập, tự chủ, một khía cạnh quan trọng cần xem xét là nền kinh tế đó phải tự chủ trong
vấn đề việc làm, từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội…
PGS, TS Phạm Văn Linh, Phó Chủ tịch chuyên trách Hội đồng Lý luận Trung ương phát biểu
Kết luận hội thảo_Ảnh: Quang Hanh
Phát biểu Kết luận hội thảo, PGS, TS Phạm Văn Linh cho biết, với 10 ý kiến phát biểu trực
tiếp tại hội thảo và 39 tham luận gửi tới hội thảo, hầu hết các đại biểu khẳng định tính khách
quan và vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của kinh tế nhà nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam. Một số phát biểu tập trung làm rõ
nội hàm, đặc điểm, vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa theo tinh thần cụ thể hóa những quan điểm của Đảng, đặc biệt là
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng; góp phần làm sáng tỏ thêm về tính tất yếu và nội hàm, đặc
điểm của nền kinh tế độc lập, tự chủ trong hội nhập quốc tế sâu, rộng, trong đó nhấn mạnh
yêu cầu phải bảo đảm độc lập, tự chủ về đường lối, chiến lược, chính sách phát triển kinh tế,
phù hợp với điều kiện của đất nước và xu thế phát triển của thế giới; tạo được sức mạnh nội
lực về kinh tế ngày càng lớn, có khả năng bảo đảm sự phát triển kinh tế - xã hội ổn định, năng
động, chủ động thích ứng với những thay đổi, biến động của thị trường, của khủng hoảng kinh
tế, tài chính ở khu vực, trên thế giới, trong bối cảnh hội nhập quốc tế và cạnh tranh quốc tế
ngày càng tăng.
Phát huy vai trò dẫn dắt của kinh tế nhà nước trong xây dựng nền kinh tế độc lập, tự
chủ

Trao đổi với phóng viên Báo Điện tử Chính phủ, chuyên gia kinh tế, TS. Đinh Thế Hiển
(Viện trưởng Viện Nghiên cứu Tin học và Kinh tế ứng dụng) nhấn mạnh, trước hết, cần
khẳng định kinh tế nhà nước không đồng nhất với doanh nghiệp nhà nước. Kinh tế Nhà nước
là thành phần kinh tế (bao gồm các yếu tố thuộc sở hữu nhà nước và các yếu tố thuộc sở hữu
toàn dân mà Nhà nước được giao quyền đại diện chủ sở hữu) do Nhà nước tổ chức, quản lý,
điều hành. Ngoài doanh nghiệp nhà nước, kinh tế nhà nước còn có các yếu tố khác thuộc sở
hữu Nhà nước như tài nguyên quốc gia, ngân hàng nhà nước, ngân sách, quỹ dự trữ quốc
gia...
91

Khẳng định vai trò dẫn dắt nền kinh tế

Kinh tế nhà nước là công cụ, lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước giữ vững ổn định
kinh tế vĩ mô, định hướng, điều tiết, dẫn dắt thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, khắc phục
những hạn chế của cơ chế thị trường. Các nguồn lực kinh tế của Nhà nước được sử dụng phù
hợp với chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển đất nước và cơ bản được phân bổ theo cơ
chế thị trường. Đảng ta đã chủ trương các doanh nghiệp nhà nước phải "hoạt động theo cơ chế
thị trường, quản trị hiện đại theo chuẩn mực quốc tế; lấy hiệu quả sản xuất, kinh doanh làm
tiêu chí đánh giá chủ yếu, cạnh tranh bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh
tế"...

"Nền kinh tế của Việt Nam đang phát triển rất mạnh về nhiều lĩnh vực mang tính kinh tế công
như: Quốc phòng, an ninh, năng lượng, sân bay, cảng biển, logistics, hạ tầng giao thông, an
sinh xã hội… Với các lĩnh vực then chốt này, hầu hết doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế tư nhân
'ngại' không muốn làm hoặc không có nguồn lực để làm vì cần có vốn đầu tư lớn, triển khai ở
địa bàn khó khăn, nhiều rủi ro, khó thu được lợi nhuận cao...

Do đó, vì tiến trình phát triển đất nước theo mục tiêu đã định, vì lợi ích của đông đảo tầng lớp
nhân dân, nên khu vực kinh tế nhà nước đảm nhận những nhiện vụ trên để dẫn dắt, khai phá
những lĩnh vực quan trọng đối với nền kinh tế. Mặc dù tham gia cung ứng các sản phẩm dịch
vụ công ích nhưng các doanh nghiệp nhà nước vẫn bảo đảm tuân thủ nguyên tắc thị trường,
bình đẳng với các doanh nghiệp khác", chuyên gia Đinh Thế Hiển phân tích.

Số liệu thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư công bố năm 2020 cho thấy: Tuy chỉ chiếm 0,4%
trong tổng số doanh nghiệp cả nước nhưng doanh nghiệp nhà nước huy động, thu hút vốn cho
sản xuất, kinh doanh đạt 9,65 triệu tỷ đồng, doanh thu cao nhất với 13,41 triệu tỷ đồng, lợi
nhuận trước thuế đạt 323,64 nghìn tỷ đồng (chiếm tỉ lệ tương ứng là 24,8%, 56,7% và 36,1%
của toàn bộ doanh nghiệp). Trong khi đó, doanh nghiệp ngoài nhà nước chiếm 96% tổng số
doanh nghiệp cả nước nhưng chỉ thu hút được 22,25 triệu tỷ đồng vốn cho sản xuất, kinh
doanh, doanh thu đạt 3,41 triệu tỷ đồng, lợi nhuận trước thuế đạt 190,36 nghìn tỷ đồng (chiếm
tỉ lệ tương ứng là 57,2%, 14,4% và 21,3%). Thu nhập bình quân tháng cho một lao động của
doanh nghiệp nhà nước đạt 12,56 triệu đồng, so với con số 7,87 triệu đồng ở doanh nghiệp
ngoài nhà nước. Theo số liệu thống kê của Công ty Cổ phần Báo cáo Đánh giá Việt Nam
92

(Vietnam Report JSC. - VNR) công bố TOP 500 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam năm 2020,
có đến 7 doanh nghiệp nhà nước thuộc nhóm 10 doanh nghiệp hàng đầu.

Chuyên gia này cũng nhấn mạnh, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, không phủ định cạnh
tranh mà còn là nhân tố thúc đẩy sự cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Quá
trình đổi mới, hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế quốc tế đặt ra yêu cầu khách quan phải tôn
trọng và thực hiện đầy đủ các quy luật kinh tế thị trường. Đến nay, Việt Nam đã ký kết và
triển khai hiệu quả 14 hiệp định thương mại tự do (FTA), trong đó có các hiệp định tiêu chuẩn
cao, như CPTPP, EVFTA…

Ngoài ra, kinh tế nhà nước giúp tạo điều kiện cho khu vực kinh tế ngoài nhà nước phát triển
(như hỗ trợ, ưu đãi về vốn, hỗ trợ về hạ tầng cơ sở, chuyển giao ứng dụng khoa học công
nghệ,…); giảm thiểu, khắc phục được những khuyết tật của cơ chế thị trường; bảo vệ, hỗ trợ
nhóm yếu thế, dễ gặp rủi ro... Ðặc biệt, kinh tế nhà nước chính là bộ phận quan trọng để định
hướng sự phát triển của các thành phần kinh tế theo mục tiêu xã hội chủ nghĩa tiến bộ, công
bằng, văn minh, không để các doanh nghiệp ngoài nhà nước tự do theo đuổi lợi nhuận bằng
mọi giá, vì lợi ích tư nhân mà bất chấp lợi ích quốc gia, dân tộc, cộng đồng...

Kinh tế nhà nước cần được đổi mới, cơ cấu lại cho đúng chức năng, nhiệm vụ "đầu tàu"

Chuyên gia Đinh Thế Hiển cho rằng, việc xác định kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo là
đúng đắn, phù hợp với điều kiện của Việt Nam và là tiêu chí quan trọng bảo đảm tính định
hướng xã hội chủ nghĩa cho nền kinh tế.

Tuy nhiên, trước thực trạng vẫn còn tồn tại những hạn chế, yếu kém của thành phần kinh tế
này, để bảo đảm vai trò chủ đạo đó, cần phải tăng cường kỷ luật, kỷ cương, kiểm tra, giám sát
hoạt động của doanh nghiệp nhà nước; đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công
chức có năng lực, phẩm chất, uy tín, trách nhiệm ngang tầm nhiệm vụ, đáp ứng yêu cầu hiện
nay.

Để kinh tế nhà nước phát huy được vai trò "đầu tàu", dẫn dắt, chuyên gia Đinh Thế Hiển đề
xuất với Chính phủ một số giải pháp cụ thể.
93

Vấn đề cốt yếu đầu tiên là phải nâng cao chất lượng quy hoạch trong mối quan hệ tổng thể
của chiến lược quốc gia. Các quy hoạch đã được duyệt phải bảo đảm tuân thủ tính xuyên suốt,
không vì lợi ích ngắn hạn của địa phương hay các tập đoàn mà điều chỉnh quy hoạch.

Thứ hai, các lĩnh vực thiết yếu trong đầu tư phát triển như hạ tầng giao thông, hệ thống cảng;
hệ thống năng lượng quốc gia phải do các doanh nghiệp nhà nước có chức năng giữ vai trò
trọng yếu theo hướng mô hình chuỗi cung ứng giá trị. Điều này có nghĩa là không phải doanh
nghiệp nhà nước làm hết mọi việc, mà giử vai trò then chốt trong tổ chức, điều phối.

Chuyên gia này lấy ví dụ, lĩnh vực năng lượng quốc gia, EVN nên tập trung đầu tư và quản lý
thật tốt hệ thống truyền tải, quy hoạch phát triển hệ thống điện hiệu quả và quản lý một số nhà
máy quy mô lớn. Còn việc phát triển các nhà máy điện theo quy hoạch thì để cho các doanh
nghiệp trong, ngoài nước tham gia đầu tư với các chính sách hợp lý, rõ ràng và cạnh tranh.

Thứ ba, cần phát triển hệ thống an sinh xã hội như các nước phát triển để từng bước đưa các
dịch vụ và sản phẩm công như giá điện, giá nước, và một số dịch vụ công khác theo giá thị
trường, bảo đảm sản xuất cạnh tranh và phát triển; đồng thời người lao động cũng không bị
ảnh hưởng do đã có hệ thống an sinh xã hội hỗ trợ.

Thứ tư, Nhà nước nên xem xét có Quỹ đầu tư phát triển hạ tầng, hoạt động như một quỹ tài
chính của các nước phát triển, có vai trò huy động vốn trên thị trường tài chính trong và ngoài
nước để đầu tư vào các dự án quốc gia do các công ty nhà nước hoặc các công ty cổ phần
trúng thầu thực hiện. Việc huy động vốn chủ yếu là trái phiếu Quỹ và trái phiếu công trình,
với việc rót vốn và thu hồi vốn được quản lý theo tiêu chuẩn chặt chẽ của một quỹ đầu tư tài
chính; đây là mô hình mà Singapore thực hiện hiệu quả.

"Thực tiễn cho thấy dù có tuyển được người có tài, nhưng các quy định, quy trình lỏng lẻo,
dựa vào tập thể mà thiếu trách nhiệm cá nhân thì cũng hoạt động không hiệu quả; hoặc là
người tài không thể phát huy, hoặc là bị biến chất. Do vậy, Nhà nước và Chính phủ cần phải
hoàn thiện các quy chế, quy trình về thực hiện, giám sát và kiểm tra theo hướng trách nhiệm
cá nhân rõ ràng để kinh tế nhà nước hoạt động hiệu quả mà không vì một vài cá nhân thiếu
trách nhiệm, hoặc tư lợi làm ảnh hưởng đến nền kinh tế đất nước", chuyên gia này nhấn
mạnh.
94

Nhận diện nền kinh tế độc lập, tự chủ

Nền kinh tế độc lập, tự chủ trong bối cảnh một thế giới phẳng, toàn cầu hóa là nền kinh tế có
khả năng thích ứng cao, ít bị tổn thương trước những biến động của khu vực và quốc tế, trong
bất cứ tình huống nào cũng duy trì được các hoạt động bình thường của đất nước và phục vụ
đắc lực cho nhiệm vụ quốc phòng, an ninh.

Nền kinh tế độc lập, tự chủ phải đáp ứng được tính độc lập về thể chế, về thực lực và tiềm lực
kinh tế. Độc lập, tự chủ trong xây dựng thể chế kinh tế, trong triển khai thực hiện, trong hội
nhập kinh tế quốc tế, phù hợp và tuân thủ các quy định của kinh tế toàn cầu và khu vực.

Dưới góc độ này, độc lập, tự chủ kinh tế chính là chủ động tìm và xác lập một vị thế phù hợp
trong hệ thống kinh tế thế giới, tham gia kiến tạo, biết vận dụng sáng tạo các quy định và cam
kết quốc tế phù hợp với điều kiện và khả năng của đất nước.

Tiềm lực kinh tế thể hiện ở năng lực chống chịu, trụ vững, phục hồi và phát triển trước các
biến cố, cú sốc trong nước và bên ngoài; thể hiện ở khả năng cạnh tranh của các khu vực kinh
tế, đặc biệt của khu vực doanh nghiệp và các sản phẩm quốc gia.

Con người trong mọi lĩnh vực, trên mọi phương diện và ở mọi thời điểm luôn là yếu tố quyết
định, đảm bảo thành công cho tất cả các mục tiêu cao quý. Để đạt được độc lập, tự chủ về
kinh tế đòi hỏi phải đào tạo được đội ngũ công chức và nhân tài của đất nước có năng lực điều
hành hiệu quả, tự lực tối đa trong phát triển khoa học và công nghệ, trong quản trị quốc gia và
doanh nghiệp.

Nhân tài trong khoa học và công nghệ, trong quản trị là yếu tố then chốt, quan trọng trong xây
dựng và phát triển một nền kinh tế độc lập, tự chủ. Ngày nay, đặc biệt trong kỷ nguyên công
nghệ số và trí tuệ nhân tạo, nhân tài trong khoa học và công nghệ có vai trò vô cùng quan
trọng, là nhân tố quyết định để tăng cường, củng cố nền tảng vật liệu và công nghệ quốc gia,
đạt được sự phát triển kinh tế-xã hội nhanh và bền vững.

Các nước, đặc biệt các nước đang phát triển mong muốn độc lập, tự chủ về kinh tế phải nỗ lực
cao nhất để nâng cao hiệu quả, lợi ích trong giáo dục; trong nghiên cứu và ứng dụng khoa học
công nghệ; trong đào tạo, sử dụng đội ngũ công chức và nhân tài theo một chiến lược, kế
hoạch, phương pháp bài bản, đồng thời chủ động phát triển khoa học và công nghệ hiện đại.
95

MỘT SỐ THÁCH THỨC KHI XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ ĐỘC LẬP, TỰ CHỦ
Thứ nhất, sản xuất phụ thuộc vào bên ngoài

Sau hơn 30 năm đổi mới, hội nhập quốc tế, thế và lực của nền kinh tế nước ta đã tăng lên
đáng kể. Đất nước đã ra nhập nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình. Chính trị, xã
hội ổn định; quốc phòng, an ninh được giữ vững, góp phần tạo dựng môi trường thuận lợi và
tăng cường nguồn lực phát triển đất nước.

Bên cạnh những thành tựu, tiềm năng và lợi thế phát triển, nền kinh tế nước ta vẫn đứng trước
nhiều khó khăn, thách thức. Chất lượng tăng trưởng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh
tế còn nhiều hạn chế, yếu kém.

Tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối cao nhưng chủ yếu dựa nhiều vào các yếu tố phát triển
theo chiều rộng, chậm chuyển sang phát triển chiều sâu, năng suất lao động thấp, tụt hậu so
với các nước trong khu vực.

Kinh tế nước ta có độ mở lớn, sản xuất và xuất khẩu phụ thuộc nhiều vào nguyên vật liệu
nhập khẩu từ bên ngoài, chi phí nguyên vật liệu nhập khẩu chiếm tới 40,11% trong tổng chi
phí nguyên vật liệu dùng trong sản xuất của nền kinh tế.

Tỷ lệ này trong ngành công nghiệp chế biến chế tạo - ngành có vai trò quan trọng đóng góp
vào tăng trưởng của đất nước chiếm tới 50,98%. Công nghiệp hỗ trợ chậm phát triển khiến
Việt Nam chưa tham gia sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu.

Việt Nam mỗi năm phải nhập tới 85,4% tổng nhu cầu sơ xợi trong nước. Nhiều ngành sản
xuất chính như dệt may phụ thuộc đến 50% vào nguyên phụ liệu nhập khẩu, với da giày là
khoảng 45% và sản xuất nhựa lên tới 80%. Thậm chí, thế mạnh truyền thống của Việt Nam là
nông nghiệp cũng phải nhập khẩu hơn 70% máy móc, thiết bị; 80% giống rau và 60% giống
ngô;…

Nguyên vật liệu nhập khẩu dùng cho sản xuất phụ thuộc vào một số ít thị trường. Đây là rủi ro
đối với kinh tế Việt Nam khi các thị trường này xảy ra biến cố. Chẳng hạn, Trung Quốc là thị
trường chủ yếu của Việt Nam với kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa chiếm gần 25% tổng
kim ngạch xuất nhập khẩu của toàn bộ nền kinh tế, nhập khẩu tư liệu sản xuất từ Trung Quốc
chiếm khoảng 1/3 tổng kim ngạch nhập khẩu tư liệu sản xuất.
96

Hai là, quá trình mua bán, sáp nhập và đầu tư nước ngoài có thể đẩy nền kinh tế ra xa "bến
bờ" độc lập, tự chủ

Trong những năm qua, vị thế kinh tế Việt Nam trong thương mại quốc tế được củng cố và
khẳng định. Tuy vậy, thương mại quốc tế của nước ta phụ thuộc khá lớn vào khu vực FDI.
Theo số liệu năm 2022, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của khu vực FDI chiếm 74,4% tổng
kim ngạch xuất khẩu của toàn nền kinh tế, kim ngạch chỉ của 2 nhóm hàng thuộc khu vực FDI
chiếm tới 30,8% tổng kim ngạch xuất khẩu. Điều này phản ánh thương mại quốc tế của nước
ta dễ bị tổn thương.

Từ năm 2018 đến nay, dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam có xu hướng chuyển dịch
rất đáng chú ý với mua bán và sáp nhập (M&A) ngày càng chiếm tỷ trọng lớn và có tốc độ
tăng nhanh.

Các nhà đầu tư nước ngoài ngày càng ưa chuộng hình thức M&A là điều dễ hiểu vì đầu tư vào
Việt Nam bằng hình thức này nhanh hơn so với đầu tư trực tiếp thành lập pháp nhân mới.
Việc các nhà đầu tư nước ngoài mua bán và sáp nhập khiến quyền sở hữu các tổ chức kinh tế
của nước ta rơi vào tay các nhà đầu tư nước ngoài, đưa đến kinh tế Việt Nam phụ thuộc nước
ngoài.

Thực tế cho thấy, khi dịch COVID-19 bùng phát, xu hướng bảo hộ ngày càng gia tăng. Chính
phủ các nước đã khẩn trương đưa ra giải pháp bảo vệ các doanh nghiệp có thể bị phá sản do
đại dịch khỏi sự thâu tóm bởi nước ngoài.

Ngày 25/3/2020, Ủy ban châu Âu công bố hướng dẫn mới quy định bổ sung về tiêu chuẩn
sàng lọc đầu tư nước ngoài trong và sau đại dịch, khuyến nghị mạnh mẽ các quốc gia thành
viên thực thi nghiêm túc cơ chế sàng lọc đầu tư nước ngoài để bảo vệ những tài sản nhạy cảm
khỏi bị nước ngoài thôn tính trong đại dịch.

Tây Ban Nha, Ý và Pháp đã sửa đổi chi tiết các quy định về đầu tư nước ngoài, như giảm
ngưỡng xem xét đối với một số hoặc tất cả các nhà đầu tư nước ngoài, đồng thời mở rộng
danh mục các lĩnh vực phải xem xét. Các quốc gia như Úc, Canada và Ấn Độ đều áp đặt
những hạn chế chặt chẽ hơn đối với đầu tư nước ngoài để bảo vệ các mục tiêu trong nước
khỏi bị nước ngoài chiếm đoạt.
97

Ngày 28/4/2020, Pháp ra thông báo hạ thấp ngưỡng kiểm soát đối với việc mua lại cổ phần
của các nhà đầu tư ngoài châu Âu, thắt chặt hơn nữa ngưỡng kiểm soát ở mức 10% so với
ngưỡng 25% đã được hạ xuống chỉ vài tuần trước đó.

Ngày 17/4/2020, Ấn Độ tuyên bố thắt chặt các quy định về đầu tư nước ngoài để hạn chế việc
chiếm đoạt cơ hội và mua lại các công ty Ấn Độ do đại dịch. Ấn Độ còn đưa ra hạn chế mới
áp dụng cho các nhà đầu tư từ các quốc gia có chung biên giới trên bộ với Ấn Độ hoặc chủ sở
hữu thụ hưởng là công dân của quốc gia đó.

Chính phủ Ấn Độ phê duyệt tất cả các dự án đầu tư nước ngoài thuộc mọi lĩnh vực đến từ các
quốc gia có chung đường biên giới, đồng thời Chính phủ cũng yêu cầu phê duyệt đối với
những thay đổi về quyền sở hữu có lợi đối với bất kỳ nguồn vốn đầu tư nước ngoài hiện tại
hoặc tương lai nào thuộc phạm vi của hạn chế mới. Sửa đổi này tác động lớn đến sự dễ dàng
đầu tư từ Trung Quốc.

Ba là, chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội

Thị trường lao động nước ta hiện nay có một số hạn chế đáng lo ngại: cả bên cung và bên cầu
chưa đáp ứng được một thị trường lao động hiện đại, linh hoạt, bền vững và hội nhập. Cơ cấu
lao động theo 3 khu vực kinh tế chưa hợp lý, lao động làm việc trong khu vực nông, lâm
nghiệp và thủy sản chiếm tới 27,5% tổng số.

Số lượng lao động tăng nhanh ở khu vực phi chính thức. Chất lượng lao động không đáp ứng
nhu cầu. Tính bấp bênh và dễ bị tổn thương đến việc làm và thu nhập của người lao động khá
cao. Lao động thời vụ phát triển, hạn chế về đào tạo kỹ năng.

Theo số liệu thống kê năm 2021, tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ rất thấp.
Lao động không có trình độ chiếm 72,5% trong tổng số lực lượng lao động; trình độ sơ cấp
6,8%; trình độ trung cấp 4,3%; Cao đẳng 3,7%; Đại học trở lên 12,5%.

Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản đánh giá khả năng hội nhập của lao động Việt chưa cao.
Trình độ tay nghề tương đối thấp so với tiêu chuẩn khu vực và thế giới. Báo cáo năng lực
cạnh tranh toàn cầu trong thời kỳ 4.0 (GCI 4.0) năm 2019 chỉ ra Việt Nam xếp thứ 67/141
quốc gia về chỉ số GCI 4.0, nhưng chỉ xếp thứ 93 về kỹ năng.
98

Bốn là, nhân lực khoa học và công nghệ vẫn còn hạn chế về chất lượng

Số lượng và trình độ cán bộ nghiên cứu tuy đã tăng lên và được nâng cao nhưng số cán bộ
nghiên cứu quy đổi toàn thời gian của Việt Nam năm 2015 đạt bình quân 6,9 cán bộ trên một
vạn dân, thấp hơn so với Thái Lan 9,7; Trung Quốc 11,1; Malaysia 20,5 và thấp hơn rất nhiều
so với Nhật Bản 53,9; Singapore 66,6.

Chất lượng đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ còn hạn chế, thiếu các nhà khoa học và
chuyên gia giỏi, đầu ngành trong các lĩnh vực công nghệ trình độ cao.

Tinh thần hợp tác nghiên cứu và kỹ năng làm việc nhóm còn yếu, khó hình thành các nhóm
nghiên cứu mạnh và các nhóm nghiên cứu liên ngành hoạt động lâu dài, bền vững.

Điều này dẫn đến nội dung các nhiệm vụ khoa học và công nghệ bị phân tán, hạn chế trong
phối hợp thực hiện các nhiệm vụ khoa học công nghệ quan trọng, quy mô lớn.

Bên cạnh đó nhân lực khoa học và công nghệ phân bố không đều, một bộ phận sử dụng nhiều
thời gian cho công tác quản lý.
Năm là, chưa có chính sách trọng dụng hiệu quả nhân tài quốc gia

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng những nhiệm kỳ gần đây đều khẳng định sự
cần thiết phải đào tạo, thực hiện chính sách trọng dụng nhân tài, các nhà khoa học đầu ngành,
tổng công trình sư, kỹ sư trưởng, thực sự tôn vinh các doanh nhân có tài và thành đạt, đóng
góp nhiều cho xã hội.

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng nhấn mạnh việc xây dựng cơ chế,
chính sách phát hiện, thu hút, sử dụng nhân tài. Luật Cán bộ, Công chức đã quy định: "Nhà
nước có chính sách để phát hiện, thu hút, bồi dưỡng, trọng dụng và đãi ngộ xứng đáng đối với
người có tài năng".

Những chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phản ánh sự nhận thức đầy
đủ về tầm quan trọng và sự cần thiết phải đào tạo, bồi dưỡng, thu hút, trọng dụng nhân tài
trong công cuộc phát triển kinh tế - xã hội.

Tuy vậy, chính sách thu hút, đãi ngộ chưa tạo thành động lực để phát huy hiệu quả năng lực
sáng tạo của đội ngũ trí thức khoa học có trình độ cao, tài năng trẻ. Chưa có chính sách thoả
99

đáng để thu hút và sử dụng các trí thức tài năng là người Việt Nam ở nước ngoài tham gia
hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ cho nước nhà.

Để có nhân tài trong các cơ quan, tổ chức hết lòng hiến dâng tài năng phục vụ đất nước đòi
hỏi người lãnh đạo ở các cơ quan, tổ chức đó phải thực sự có tài, có tâm. Hiện nay, công tác
nhân sự, chọn cán bộ lãnh đạo theo quy trình tưởng là chặt chẽ nhưng không dựa vào đánh giá
kết quả cụ thể họ đã làm được gì trong thực thi nhiệm vụ, trong đề xuất chính sách, đổi mới
nâng cao hiệu quả công việc.

Kinh nghiệm từ Mỹ - quốc gia có nền kinh tế, quân sự phát triển hàng đầu thế giới cho thấy,
vị thế của nước Mỹ được tạo dựng, duy trì và đảm bảo bằng nền tảng khoa học công nghệ tiên
tiến với đội ngũ nhân lực dồi dào về số lượng, ưu tú và vượt trội về chất lượng. Chính phủ Mỹ
qua tất cả các nhiệm kỳ tổng thống luôn xác định "Nhân lực là trung tâm của mọi sự phát
triển", Chính phủ tập trung thực thi với mức độ ưu tiên chiến lược đào tạo và thu hút nhân tài
từ khắp các châu lục, coi đó là chiến lược sống còn xuyên suốt lịch sử phát triển.
Mỹ đặc biệt coi trọng giáo dục đại học trong đào tạo, bồi dưỡng phát triển nhân tài và thực
hiện có hệ thống, được luật hóa. Mỹ thành lập hệ thống quản lý nhân lực nhằm tuyển dụng,
giữ chân và tôn vinh lực lượng lao động đẳng cấp thế giới để phục vụ nhân dân Mỹ. Các nhà
quản lý nhân sự Mỹ nhận thức: "Muốn quản lý được nhân tài, trước hết nhà quản lý phải là
người tài, có những suy nghĩ vượt tầm so với thông thường".

Đất nước Trung Quốc cũng có chính sách đào tạo và thu hút nhân tài khiến thế giới phải nể
phục. Trong 60 năm qua, Trung Quốc từ một quốc gia nghèo đói đã vươn lên trở thành cường
quốc hàng đầu thế giới. Đạt được kết quả thần kỳ này nhờ Trung Quốc thực hiện rất nhiều
chính sách kinh tế, xã hội trọng điểm, trong đó có chính sách đào tạo và thu hút nhân tài.

Trung Quốc luôn quan tâm đến chất lượng hơn là số lượng, thi vào đại học ở Trung Quốc
được đánh giá khốc liệt nhất thế giới. Trung Quốc cũng tích cực gửi sinh viên đi học ở các
nước tiên tiến, đồng thời có chính sách hấp dẫn để họ trở về nước. Số sinh viên Trung Quốc
du học trở về rất đông cho thấy mức độ thành công của chiến lược đào tạo nhân tài ở nước
ngoài.

Bên cạnh chiến lược thu hút nhân tài người Hoa ở nước ngoài, Trung Quốc cũng triển khai
chiến lược thu hút nhân tài của thế giới đến Trung Quốc để nghiên cứu khoa học. Cuối năm
100

2008, Trung Quốc đưa ra Kế hoạch 1.000 nhân tài nhằm thu hút các nhà khoa học, nhà kinh
tế, chiến lược gia hàng đầu thế giới đã có thành tích nghiên cứu tại các nước Âu - Mỹ và Nhật
với chế độ đãi ngộ tuyệt vời.

Trong khu vực Đông Nam Á, Singapore là quốc gia có chính sách thu hút nhân tài nước ngoài
bài bản, rõ ràng nhất thế giới. Chính phủ Singapore xác định nhân tài là yếu tố then chốt quyết
định khả năng cạnh tranh và phát triển của đất nước.

Chính phủ Singapore đã tạo dựng niềm tin người tài luôn có vị trí cao với mức lương tương
xứng với giá trị chất xám, đồng thời chính phủ sẵn sàng chào đón nhân tài ngoại vào bộ máy
nhà nước. Cố Thủ tướng Lý Quang Diệu có quan điểm rất rõ ràng: "Lãnh đạo giỏi là đầu tầu
định hướng cho đất nước phát triển. Lãnh đạo dốt sẽ ngáng chân những người giỏi, không
cho họ ngồi vào những vị trí quan trọng".

Sáu là, giáo dục, đào tạo hướng tới nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nhưng chuyển biến
chậm

Chất lượng của hệ thống giáo dục và đào tạo đáng để nghiêm túc suy nghĩ. Năm 2020, Ngân
hàng Thế giới xếp hạng 1.000 trường đại học theo ba bảng xếp hạng uy tín Webometrics, QS
và THE, Việt Nam đứng cuối cùng, sau Philippines, Indonesia, Malaysia và Thái Lan.

Tại mỗi bảng QS và THE, Việt Nam chỉ có hai trường góp mặt trong top 1.000 và không có
trường nào được xếp hạng theo bảng Webbometrics. Trong khi đó Thái Lan có 8, 5 và 6;
Trung Quốc đứng đầu bảng xếp hạng khi có đến 40 đại diện ở top 1.000 xếp theo QS, 63 đại
diện xếp theo THE và 103 đại diện theo Webometrics.

Hoạt động nghiên cứu trong các đại học Việt Nam tụt hậu. Giai đoạn 2010-2017, tỷ lệ nghiên
cứu trên một triệu dân của Việt Nam tăng từ 23 lên 63, thấp hơn mức 212 của Thái Lan và
kém xa mức 4.813 của Thuỵ Sĩ, quốc gia đứng đầu danh sách. Trong 10 năm 2008-2018, Việt
Nam tăng từ vị trí 64 lên 45 về chỉ số đổi mới toàn cầu nhưng vẫn đứng chót về hầu hết chỉ số
khác.

Trong những năm vừa qua, hệ thống giáo dục Việt Nam có bước tiến quan trọng trong đổi
mới chương trình, lấy người học làm trung tâm. Đây là bước chuyển theo hướng tiếp cận phát
101

triển năng lực, phản ánh nỗ lực của Chính phủ thực hiện mục tiêu nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực Việt Nam trong bối cảnh hội nhập.
Bẩy là, đội ngũ cán bộ, công chức chưa đáp ứng yêu cầu phát triển

Năng lực và trình độ đội ngũ cán bộ, công chức trong bộ máy hành chính chưa đáp ứng đòi
hỏi của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế; trách nhiệm công vụ
còn kém, lề lối làm việc trì trệ, chậm đổi mới, đùn đẩy, né tránh.

Một bộ phận cán bộ, công chức trong bộ máy quản lý chưa nâng cao tinh thần trách nhiệm,
quan liêu, hách dịch, cửa quyền, nhũng nhiễu, coi việc thực thi công vụ, phục vụ nhân dân
như là ban phát ân huệ.

THỰC HIỆN ĐỒNG BỘ, HIỆU QUẢ CÁC GIẢI PHÁP XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ ĐỘC
LẬP, TỰ CHỦ

Đại hội Đảng lần thứ XIII thổi bùng ngọn lửa khát vọng một Việt Nam hùng cường, phồn
vinh, hạnh phúc. Để hiện thực hóa khát vọng cao quý và vinh quang này trong bối cảnh thế
giới có nhiều bất định, biến đổi khó lường, kinh tế Việt Nam hội nhập sâu, rộng vào kinh tế
toàn cầu, cơ hội và thách thức đan xen, nhưng khó khăn thách thức nhiều hơn, đòi hỏi chúng
ta phải khẩn trương xây dựng và phát triển nền kinh tế độc lập, tự chủ.

Để xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, hệ thống chính trị cần khơi dậy khát vọng phát triển
đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Phát huy trí tuệ, bản lĩnh, đạo đức, tài năng, phẩm chất của
con người Việt Nam để thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước.

Đảng, Quốc hội và Chính phủ phải khơi thông, huy động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực
cho phát triển, trong đó nội lực là cơ bản, chiến lược, lâu dài và quyết định; ngoại lực là quan
trọng, đột phá, thường xuyên; thúc đẩy mạnh mẽ quá trình chuyển hóa ngoại lực thành nội
lực.

Đồng thời, cần phải tạo chuyển biến rõ nét trong thực hiện các đột phá chiến lược về thể chế,
nguồn nhân lực và hệ thống kết cấu hạ tầng.

Tập trung hoàn thiện thể chế phát triển, cơ cấu lại nền kinh tế và phát triển doanh nghiệp
thuộc mọi thành phần kinh tế. Nâng cao khả năng chống chịu, sức cạnh tranh của từng doanh
102

nghiệp, từng ngành, lĩnh vực và toàn nền kinh tế. Chính phủ cần thực hiện các nhóm giải pháp
sau:
Phát huy nội lực, tận dụng ngoại lực, nâng cao năng lực kiến tạo, quản trị quốc gia

Hiện nay, ổn định vĩ mô; khu vực doanh nghiệp chủ động, linh hoạt, biết tạo lập và tận dụng
cơ hội trong hoạt động sản xuất kinh doanh; lòng yêu nước và tinh thần đoàn kết toàn dân tộc,
chung sức đồng lòng vượt qua khó khăn; năng lực của Chính phủ trong hoạch định và chỉ đạo
thực hiện các chiến lược, chính sách, Chính phủ chủ động và linh hoạt trong điều hành; cùng
với các yếu tố có quan hệ mật thiết, bổ sung cho nhau, gồm: vốn, công nghệ, năng lực quản
lý, khả năng kinh doanh là các nội lực và ngoại lực của kinh tế nước ta.

Để phát huy nội lực, tranh thủ ngoại lực, Chính phủ cần sửa đổi bổ sung và hoàn thiện luật
pháp, cơ chế, chính sách để khơi thông, giải phóng tối đa và nâng cao hiệu quả sử dụng các
nội lực và ngoại lực của đất nước.

Nâng cao năng lực kiến tạo, quản trị quốc gia, đổi mới và nâng cao chất lượng công tác xây
dựng chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội trên cơ sở tăng cường năng lực, chất
lượng phân tích, đánh giá, dự báo các lĩnh vực.
Về thể chế

Chính phủ cần khẩn trương cải cách thể chế, sửa đổi, bổ sung và xóa bỏ những quy định cản
trở, không còn phù hợp với quá trình phát triển.

Đặc biệt, Chính phủ cần khẩn trương cải cách nền quản trị quốc gia theo quan điểm chuyên
nghiệp hóa phải là linh hồn của những cải cách, các nguyên tắc, chuẩn mực và quy trình
mang tính kỹ trị nghiêm ngặt trong việc ban hành chính sách và pháp luật. Các ưu tiên chính
sách phải được xác lập trên cơ sở lợi ích quốc gia.

Về kinh tế

Tăng cường tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế, Chính phủ cần quán triệt quan điểm và mục
tiêu nâng cao năng lực, tính độc lập, tự chủ trong sản xuất kinh doanh với các nhóm giải pháp:
103

(1) Cơ cấu lại nền kinh tế; sử dụng linh hoạt, hợp lý, hiệu quả các công cụ của chính sách tài
khóa, tiền tệ; củng cố ổn định vĩ mô, tăng khả năng chống chịu của nền kinh tế với các biến
động bên ngoài.

(2) Nâng cao tính độc lập tự chủ, năng lực cạnh tranh của thương mại trong nước và quốc tế;
gia tăng sản xuất tiêu dùng trong nước, thúc đẩy xuất khẩu các mặt hàng có lợi thế cạnh tranh,
đa dạng hóa đối tác thương mại và thị trường.

(3) Chính phủ cần thực hiện Chiến lược xây dựng các nguồn lực vật chất thiết yếu đảm bảo
các cân đối lớn, đảm bảo an ninh năng lượng, lương thực, an ninh tài chính tiền tệ để tạo dựng
độc lập, tự chủ về tiềm lực kinh tế. Đối với an ninh năng lượng, thực hiện chương trình
chuyển đổi từ năng lượng sử dụng than, năng lượng hóa thạch sang năng lượng tái tạo và
năng lượng xanh.

(4) Tái cơ cấu, nâng cao năng lực, tính độc lập tự chủ trong đầu tư, cải thiện thể chế đầu tư;
đẩy nhanh tiến độ thực hiện, nâng cao hiệu quả các dự án đầu tư; sàng lọc, rà soát kỹ, tăng
chất lượng dòng vốn đầu tư nước ngoài; giám sát các hoạt động mua bán sáp nhập để doanh
nghiệp Việt không bị nước ngoài thôn tính.

(5) Công nghệ luôn là phương thức và công cụ mạnh nhất để xây dựng một xã hội thịnh
vượng vượt trội trong mọi thời đại. Chính phủ cần thực thi chính sách phát triển mạnh mẽ
khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo; ứng dụng công nghệ số, trí tuệ nhân tạo trong quản
trị xã hội, sản xuất kinh doanh và đời sống. Thực hiện chính sách tài khóa, tiền tệ đột phá thúc
đẩy áp dụng công nghệ tiên tiến, đổi mới sáng tạo nhằm nâng cao năng suất lao động doanh
nghiệp và xã hội.

Để nhanh chóng đưa giải pháp công nghệ tới doanh nghiệp trong nước, Chính phủ cần thực
hiện hiệu quả vai trò hỗ trợ liên kết và hướng dẫn kỹ thuật giữa doanh nghiệp trong nước với
doanh nghiệp nước ngoài; mời các chuyên gia nước ngoài hỗ trợ giải pháp, xử lý các khó
khăn về kỹ thuật cho doanh nghiệp trong nước.

(6) Phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ và gia công cơ khí để từng bước tự chủ nguồn
nguyên vật liệu, linh phụ kiện trong nước, từ đó nâng cao giá trị gia tăng, sức cạnh tranh của
sản phẩm và doanh nghiệp Việt.
104

Phát triển công nghiệp hỗ trợ là giải pháp quan trọng để Việt Nam tham gia sâu, trở thành mắt
xích không thể thiếu, khẳng định vị thế trong chuỗi cung ứng toàn cầu, hấp thu khoa học,
công nghệ, trình độ kỹ thuật, quản trị tiên tiến từ các doanh nghiệp FDI.

Chính phủ cần xây dựng và chia sẻ cơ sở dữ liệu doanh nghiệp trong và ngoài nước để tạo
dựng cơ hội và thực thi hợp tác, liên kết nhằm phát triển công nghiệp hỗ trợ, tăng sức mạnh
của chuỗi cung ứng trong nước.

Đồng thời, Chính phủ có chính sách ưu đãi, đầu tư phát triển các ngành công nghiệp sản xuất
nguyên vật liệu gốc, hạn chế nhập nguyên vật liệu về làm gia công, nâng cao năng lực tự chủ.
Về nguồn nhân lực

Con người là chủ thể, trung tâm, động lực thực hiện mục tiêu xây dựng nền kinh tế độc lập, tự
chủ. Chính phủ cần hoàn thiện thể chế, chính sách đồng bộ, thống nhất nhằm tạo dựng và
nâng cao hiệu quả vận hành thị trường lao động linh hoạt, hội nhập và bền vững đáp ứng nhu
cầu lao động của doanh nghiệp, xu hướng chuyển đổi chuỗi cung ứng toàn cầu và khu vực,
đảm bảo khả năng cung ứng lao động cho chuyển dịch đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.

Xây dựng và thực thi chính sách thị trường lao động tích cực, chủ động thực hiện phương
châm đào tạo, đào tạo lại, đào tạo thích ứng cho lực lượng lao động đang làm việc. Đồng thời
thực hiện phương châm học suốt đời, học linh hoạt nhằm nâng cao trình độ và kỹ năng của
người lao động đáp ứng đòi hỏi về nâng cao và bồi đắp kỹ năng lao động.

Đổi mới công tác quản lý, sử dụng đánh giá và đào tạo lại đội ngũ nhân lực. Đặc biệt đổi mới
căn bản và toàn diện chính sách tuyển dụng, đánh giá, sử dụng và đề bạt đội ngũ nhân lực
trong bộ máy nhà nước.

Với vị thế địa kinh tế, Việt Nam đang được xem là điểm đến tiềm năng đối với các nhà đầu tư
nước ngoài trên nhiều lĩnh vực. Để nắm bắt được cơ hội, tận dụng được thời cơ, Việt Nam
phải có những đột phá về nguồn nhân lực, hạ tầng và thể chế. Trong đó, quan trọng hơn hết là
phát triển nguồn nhân lực.

Hiện nay, do thị trường lao động không có đủ đội ngũ lao động có trình độ cao, Chính phủ,
các địa phương, tập đoàn kinh tế, các doanh nghiệp phải tận dụng được nhân lực là chuyên gia
nước ngoài để đẩy nhanh việc chuyển giao tri thức công nghệ cũng như nhanh chóng cải thiện
105

năng lực chuyên gia trong nước. Chính phủ có cơ chế gửi lao động có trình độ đi tu nghiệp
nâng cao trình độ, kỹ năng từ các nước có công nghệ phát triển để đưa về phục vụ đất nước.

Thu hút và trọng dụng nhân tài

Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng xác định: "nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, có
cơ chế đột phá để thu hút, trọng dụng nhân tài". Việt Nam rất cần một chiến lược bài bản,
chuyên nghiệp, cụ thể và đột phá để xây dựng hệ sinh thái vững mạnh nhằm tạo dựng đội ngũ
nhân lực, đặc biệt xây dựng hệ sinh thái đào tạo, thu hút và sử dụng nhân tài.

Nghiên cứu và học tập kinh nghiệm quốc tế trong phát hiện, bồi dưỡng, thu hút, trọng dụng và
sử dụng hiệu quả nhân tài. Trước mắt có chính sách và giải pháp đặc thù, hiệu quả để giữ
chân nhân tài trong nước và thu hút nhân tài là người Việt Nam ở nước ngoài yên tâm trở về
làm việc trong "môi trường chuyên môn trong lành" để họ chuyên tâm phát huy tài năng, trí
tuệ.

Nhân rộng chính sách và kinh nghiệm thu hút nhân tài người Việt Nam ở nước ngoài của các
tập đoàn kinh tế như trường hợp của Vingroup. Đặc biệt các tập đoàn kinh tế Nhà nước có
tiềm lực tài chính cần tích cực thực hiện chủ trương thu hút nhân tài hàng đầu thế giới.

Chính phủ cần lập danh sách các chuyên gia, nhà khoa học là người Việt Nam ở nước ngoài
và công bố rộng rãi đến các cơ quan, doanh nghiệp trong nước để thu hút, mời hợp tác trong
các lĩnh vực phù hợp.

Thành công trong việc đào tạo, thu hút và sử dụng nhân tài của Mỹ; kinh nghiệm trong ngăn
chặn chảy máu chất xám, thu hút nhân tài của Trung Quốc; chiến lược thu hút nhân tài bài bản
và chuyên nghiệp của Singapore là những mô hình tốt, những bài học kinh nghiệm hay và quý
cho Việt Nam.
Về giáo dục

Hệ thống giáo dục Việt Nam cần hướng đến sự công bằng đối với tất cả học viên; phát huy
khả năng sáng tạo, học lý thuyết đi đôi với thực hành để học viên tự tin ứng dụng trong công
việc và cuộc sống.
106

Hệ thống giáo dục phải lấy giáo dục đạo đức và nhân cách làm nền tảng cơ bản, khuyến khích
học sinh theo đuổi đam mê và sở thích của mình. Chương trình đào tạo cần biên soạn mang
tính quốc tế, để kết quả giáo dục được thế giới thừa nhận.

Đầu tư nâng cao chất lượng, đạo đức nghề nghiệp và công nghệ giảng dạy cho đội ngũ giảng
viên, cán bộ làm công tác quản lý giáo dục phổ thông, đại học và giáo dục nghề nghiệp. Xây
dựng quy hoạch và kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng phù hợp cho đội ngũ giảng viên. Tạo điều
kiện để các nhà khoa học Việt Nam ở nước ngoài và các chuyên gia quốc tế tham gia vào việc
giảng dạy, nghiên cứu tại các trường đại học trong nước.

Rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện môi trường pháp lý, xây dựng và thực thi chính sách,
giải pháp nhằm tăng cường hợp tác, hội nhập quốc tế về giáo dục và đào tạo đại học. Khuyến
khích các nhà đầu tư trong nước và quốc tế đầu tư vào hệ thống giáo dục đại học ở Việt Nam;
tạo điều kiện thuận lợi để các trường đại học quốc tế hàng đầu mở cơ sở đào tạo tại Việt Nam.
Về hợp tác quốc tế

Chính phủ cần tăng cường và phát triển hợp tác kinh tế, công nghệ với các nền kinh tế phát
triển hàng đầu thế giới và hợp tác Nam - Nam giữa các nước đang phát triển là giải pháp quan
trọng, cần thiết đảm bảo độc lập kinh tế.

Chính phủ cần thúc đẩy các hình thức hợp tác phát triển hiệu quả thông qua học hỏi, chia sẻ
kinh nghiệm và những bài học thực tiễn có giá trị; phát triển và áp dụng những công nghệ
thích hợp giữa các nước đang phát triển; mở rộng thương mại, đầu tư, chia sẻ kiến thức và
hợp tác kỹ thuật; đồng thời cung cấp các giải pháp cụ thể với những thách thức phát triển
chung của toàn cầu.

Với tiềm năng rất lớn về con người, kinh tế và công nghệ, các nước đang phát triển cần mở
rộng, đẩy mạnh hợp tác, trao đổi kinh tế và công nghệ trên nguyên tắc độc lập, tự chủ tập thể.
Một khi tranh thủ và sử dụng hiệu quả các nguồn lực này, các nước đang phát triển sẽ phát
triển nhanh hơn, tăng tốc hơn trong xây dựng kinh tế quốc gia độc lập và phát triển thịnh
vượng chung.

Thực hiện khát vọng một Việt Nam hùng cường, phồn vinh, hạnh phúc trong bối cảnh thế giới
thay đổi sâu sắc, toàn diện với nhiều bất định; khi chúng ta kết hợp được sức mạnh dân tộc
với sức mạnh thời đại; nêu cao ý chí độc lập, tự chủ, chủ động, tích cực hội nhập và nâng cao
107

hiệu quả hợp tác quốc tế; phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, đặc biệt phát huy tối đa
nguồn lực nội sinh, quan trọng nhất là nguồn lực con người để xây dựng nền kinh tế độc lập,
tự chủ; khi lãnh đạo các cấp và mỗi người dân luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm, linh hoạt,
sáng tạo, kiên cường vượt khó, luôn đau đáu mục tiêu xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ;
cùng với sự chỉ đạo kịp thời của Đảng; điều hành chủ động, linh hoạt, thực hiện đồng thời và
hiệu quả các giải pháp của Chính phủ; sự đồng hành trách nhiệm của Quốc hội, Việt Nam sẽ
xây dựng thành công nền kinh tế độc lập, tự chủ đưa đất nước sánh vai cùng các nước phát
triển trên thế giới trong vài thập niên tới./.
Đời sống tinh thần

Đời sống tinh thần người Việt trong xã hội hiện đại là một vấn đề đang thu hút sự chú ý của
toàn xã hội, đặc biệt là các nhà văn, nhà thơ. Những năm gần đây, làn sóng toàn cầu hóa và xu
thế hội nhập quốc tế đã khiến cho nhiều dân tộc, trong đó có người Việt chúng ta, đôi khi
đứng trước những lựa chọn khá nan giải. Hình ảnh người Việt sẽ như thế nào sau vài ba chục
năm nữa đi theo tiến trình toàn cầu hóa? Liệu cái gì có thể đóng vai trò là “van an toàn” để
con người Việt Nam mãi mãi vẫn là Người Việt Nam trong sự sánh vai với các dân tộc khác
trong quá trình mở cửa, hội nhập? Đó là những câu hỏi không dễ trả lời. Chúng ta đang định
hướng xây dựng Con người Việt Nam phát triển toàn diện. Phương châm đúng đắn ấy cần
phải được nhận thức và thực hiện như thế nào?

Vấn đề rất khó và rất phức tạp này đã được Phóng viên báo Văn nghệ trao đổi với TS. triết
học văn hoá Hồ Sĩ Qúy, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Con người, tác giả của một số
công trình gần đây đã gây được sự quan tâm của đông đảo bạn đọc: chẳng hạn, cuốn sách “Về
văn hoá và văn minh” (Nxb CTQG, 1999); cuốn “Quan hệ giữa con người và tự nhiên trong
sự phát triển xã hội” (Nxb KHXH, 2000) và các bài viết khác của ông về triết học và văn hoá,
về giá trị Đông Á, v.v...

PV:Người Việt đi qua thế kỷ XX đầy biến động, anh hùng đã biến đổi như thế nào về đời
sống tinh thần so với hồi đầu thế kỷ, so với những năm trước Cách mạng?

TS. Hồ Sĩ Qúy: Câu hỏi rất hay. Nhưng có lẽ sẽ là nông nổi nếu ai đó trả lời trong một vài câu
ngắn ngủi. Mới đây, tháng 9/2000, đã có cả một Hội thảo khoa học quốc tế “Việt Nam trong
thế kỷ XX” nhằm trả lời cho câu hỏi này, thế mà vấn đề vẫn còn khá ngổn ngang. Tôi thuộc
lớp người sinh vào quãng giữa thế kỷ, nên những gì mà tôi có thể đem so sánh với trước đó
đều chỉ là những so sánh có tính chất sách vở (“Đoạn trường ai có qua cầu mới hay”, các cụ
dạy thế mà!). Sự thực thì, người Việt đã biến đổi rất nhiều trong thế kỷ XX, đặc biệt về đời
sống tinh thần, nhất là trong những thập niên cuối. Có nhiều biến đổi rất đáng mừng. Do
khuôn khổ của một bài phỏng vấn không cho phép dẫn ra những số liệu minh họa, tôi chỉ xin
nói tới những biến đổi về mặt định tính:
108

- Thứ nhất, đó là biến đổi về vốn tri thức. Vốn tri thức của người Việt nói chung hiện nay khá
cao, không chỉ so với trước đây, mà còn so với những nước hiện có thu nhập quốc dân tương
đương (năm nay, theo đánh giá của UNDP, Việt Nam xếp thứ 101 về chỉ số phát triển người,
cao hơn năm ngoái 7 bậc, trong khi thu nhập quốc dân theo đầu người chỉ mới đạt 372 USD;
điều đó do mặt bằng dân trí, do vốn tri thức quy định).

- Thứ hai, là biến đổi phương thức sống. Mỗi thế hệ người Việt đều ít nhiều khác với thế hệ
cha anh về cách thức lao động sản xuất (cách thức kiếm sống) cách thức thoả mãn nhu cầu
sống, sinh hoạt, chữa bệnh, nghỉ ngơi, giải trí và có thể, cả cách đọc tiểu thuyết nữa...

- Thứ ba, là biến đổi về nhịp điệu đời sống tinh thần. Có thể nếp cảm nếp nghĩ thì không thay
đổi nhiều, nhưng nhịp điệu tâm hồn thì chắc chắn đã sôi động hơn, hối hả hơn, thậm chí căng
thẳng hơn... Nếu như cách đây vài thế kỷ, Côn Sơn, cách Hà Nội chưa đầy 100 km, còn là nơi
ẩn đật của Nguyễn Trãi, thì nay, ngay cả nơi vùng sâu vùng xa của đất nước, người ta cũng có
thể (và buộc phải) theo dõi tình hình thời sự hằng ngày. Vui, buồn, lo lắng... của người hiện
đại, bởi vậy, dồn dập hơn rất nhiều.

PV:Sự thay đổi đó dĩ nhiên là có liên quan tới quá trình toàn cầu hóa. Toàn cầu hóa hiện là xu
thế không tránh khỏi. Vậy người Việt hiện nay sẽ chịu tác động như thế nào của quá trình
này? Chúng ta cần phải làm gì để bảo vệ những nét tốt đẹp trong tâm hồn người Việt?

TS. Hồ Sĩ Qúy: Trước đây hai năm, toàn cầu hóa được đón chào tương đối nồng nhiệt. Nhưng
gần đây, toàn cầu hóa bị nhìn nhận một cách hoài nghi hơn. Trên thế giới, đã có những cuộc
biểu tình đổ máu phản đối toàn cầu hóa. Điều này nói lên rằng, sự lo lắng của chúng ta là có
cơ sở. Đời sống tinh thần người Việt chắc chắn sẽ chịu ảnh hưởng của mặt trái của quá trình
toàn cầu hóa.

Tuy vậy, cũng cần phải tỉnh táo để thấy toàn cầu hóa chứa đựng nhiều cơ may đối với sự phát
triển của mỗi xã hội cũng như mỗi cá nhân: Toàn cầu hoá mang lại cơ hội và đặt ra thách thức
cho mọi nước, cho mọi người. Nhưng, việc nắm bắt được cơ hội đó ở mức nào lại tuỳ thuộc
đáng kể vào nội lực của từng quốc gia, dân tộc và nội lực của từng cá nhân. Nói một cách đơn
giản, chẳng hạn, toàn cầu hóa cho phép con em của nhiều gia đình tiếp xúc được với mạng
Internet. Nhưng học được cái gì ở đó, hay trở nên hư đốn vì mạng Internet - điều này lại phụ
thuộc vào vốn văn hoá của từng gia đình. Con cái của những gia đình gia phong, nền nếp thì
dễ gì hư trước những “kẻ bờm xờm”. Tôi muốn nói rằng, bản sắc văn hoá, bản lĩnh làm người
là cái cần phải được rèn luyện, cần phải bảo tồn bằng mọi giá, để bảo vệ những nét tốt đẹp
trong tâm hồn người Việt. Bản sắc văn hoá Việt Nam, bản lĩnh làm người Việt Nam chắc
chắn là cái bất biến. Dĩ bất biến, ứng vạn biến, điều mà Bác Hồ đã dạy, tôi thấy có thể đem
vận dụng ở đây.
109

Dĩ nhiên, bản sắc văn hoá Việt Nam là gì, và bản lĩnh làm người Việt Nam thể hiện ra sao thì
là cả một câu chuyện dài. Nhưng đừng vì “câu chuyện dài” ấy mà nghi ngờ hằng số tinh thần
trong tâm hồn người Việt. Trong một vài bài viết, tôi đã nhận định rằng, người Việt vẫn là
người Việt, dù cho thế giới có biến đổi đến thế nào, dù cho đời sống vật chất nước ta có giống
các nước phương Tây đến mấy, dù mỗi con người cụ thể đã đi đến những đâu đâu, thậm chí
dù cho ai đó đã mang quốc tịch khác... Không ít bà con Việt kiều đã sống nhiều năm trong
những nền văn minh khác, mà vẫn thấy mình chỉ là người Việt. Xin được nói thêm, gần đây,
một nữ văn sĩ người Ôxtrâylia đã cho ra mắt một cuốn sách nói về bản sắc văn hoá của người
Việt di cư sang Ôxtrâylia. Bà chứng minh rằng, chỉ những người có bản sắc văn hoá mạnh,
gắn bó với quê hương, có hiểu biết sâu về truyền thống mới là những người có khả năng hội
nhập thành công vào xã hội Ôxtrâylia. Chính những người bị mất bản sắc, bị hoa mắt khi nhìn
vào văn hoá bên ngoài lại là những người hội nhập kém nhất. Điều này đáng để chúng ta
phảisuy ngẫm!

PV:Người Việt có tâm hồn đa cảm, trắc ẩn. Tuy nhiên theo một số nhà tâm lý học, nhà văn thì
người Việt còn hạn chế trong những suy luận mạnh mẽ của lý trí? Điều này có đúng không?
Tại sao?

TS. Hồ Sĩ Qúy:Trước đây, đã có nhà nghiên cứu xếp người Việt vào kiểu người Duy tình.
Duy tình với nghĩa là đối lập với Duy lý, một truyền thống tinh thần của người ph ương Tây
và khác với Duy ý chí, một kiểu tư duy thường được coi là đặc trưng cho người Trung Hoa.
Nhưng cũng có ý kiến phản bác, cho quan điểm như vậy là máy móc, áp đặt. Tôi nghĩ rằng,
những ý kiến vừa nêu đều chứa đựng một ý tưởng gì đó đáng nghiên cứu. Nghĩa là, đều ít
nhiều có những hạt nhân hợp lý của nó.

Sự thực thì ở người Việt, sức mạnh của lý trí, của lập luận, của lôgích... trong không ít trường
hợp, cha được coi trọng. Trong đời sống tinh thần xã hội, xưa cũng như nay, sức mạnh của
các quan hệ tình cảm, đặc biệt là các quan hệ huyết thống, quan hệ cộng đồng, quan hệ ân
nghĩa... đôi khi, đã vượt qua cả biên giới của lý lẽ, của đạo đức và cả luật pháp nữa. Có quá
nhiều bằng chứng đã được nêu trên báo chí hằng ngày về những điều đáng phê phán do quan
hệ tình cảm chi phối.

Nhng tôi muốn lưu ý một khía cạnh khác. Tình trạng đó phải chăng nói lên rằng khả năng tư
duy lôgích của người Việt bị hạn chế? Tôi không nghĩ như vậy. Theo tôi, khả năng tư duy
lôgích, nói cách khác, khả năng duy lý của người Việt không đến nỗi thua kém ai (một số trắc
nghiệm về IQ, chỉ số thông minh, đã chứng minh điều đó). Thậm chí, chúng ta còn có quyền
tự hào về khả năng tư duy lôgích của người Việt. Những thành tích của trí tuệ Việt Nam trong
những cuộc tranh tài với thế giới xưa và nay đều có những tấm gương đủ sức thuyết phục. Tại
Hội thảo quốc tế “Việt Nam trong thế kỷ XX”, một nhà nghiên cứu người Achentina còn cho
rằng, người Việt Nam có cơ sở để tiến đến một nền kinh tế tri thức nhanh hơn cư dân của một
110

vài nước lân cận. Vậy tại sao chúng ta lại chưa đạt tới những đỉnh cao về sáng tạo, phát minh
như nhiều nước khác? Tại sao ta chưa có được văn hoá tư duy tôn trọng lý lẽ, tôn trọng cái
hợp lôgích như nó đáng được tôn trọng?

Đây quả là vấn đề hóc búa mà nguyên nhân, có lẽ, không nằm ở khả năng của trí tuệ, mà nằm
ở thang giá trị của cộng đồng. Tôi còn nhớ, GS. Trần Đình Hượu trước đây đã từng nói rất
hay rằng, đối với người Việt, sự đề cao giá trị cộng đồng đôi khi đã dẫn đến chỗ tuyệt đối hoá
nó, làm yếu đi, thậm chí làm cản trở giá trị cá nhân. Theo ý ông, đó là nguyên nhân khiến
Người Việt có cái hay là không cuồng tín tôn giáo, nhưng cũng có cái dở là không thích say
mê tranh biện triết học. Khoa học, âm nhạc, hội họa, văn chương... ở người Việt đều không đ-
ược ai đó “điên rồ” phát triển đến tuyệt kỹ. Cũng bởi vậy, chưa bao giờ một ngành hoạt động
tinh thần nào đó trở thành đài danh dự, biểu trưng cho cả nền văn hoá.

Đã đến lúc tình trạng ấy phải được khắc phục. Bởi vì, đời sống con người không chỉ diễn ra
trong thế giới các tiện nghi, mà còn phải diễn ra trong thế giới các giá trị. Toàn cầu hóa có thể
nhanh chóng làm cho thế giới các tiện nghi trở nên phong phú, nhưng không vì thế mà thế
giới các giá trị nghiễm nhiên trở nên dễ chịu hơn đối với con người. Nếu chúng ta không tôn
trọng hoặc vi phạm thế giới những giá trị đó, đời sống của cá nhân sẽ trở nên mất hết “hồn
vía”.

Kế thừa giá trị văn hóa truyền thống trong xây dựng hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực
con người Việt Nam hiện nay
Vai trò của giá trị văn hóa truyền thống trong xây dựng hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực
con người Việt Nam hiện nay

Những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc ta đã được khẳng định: “Đó là lòng yêu nước
nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia
đình - làng xã - Tổ quốc; lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý, đức tính cần cù,
sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống…”(1). Những giá
trị văn hóa truyền thống này đã tạo nên sức mạnh nội sinh của dân tộc Việt Nam; là những
nhân tố quan trọng định hướng tư tưởng, tình cảm, hành động của con người Việt Nam trong
suốt quá trình phát triển; góp phần tạo nên con người Việt Nam có lòng yêu quê hương, đất
nước nồng nàn, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng, giàu lòng nhân ái, lao động cần cù,
chiến đấu dũng cảm, sống thích ứng…

Nói tới văn hóa Việt Nam là nói tới con người Việt Nam. Nói tới giá trị văn hóa truyền thống
Việt Nam là nói tới dân tộc Việt Nam. Giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam là sự chắt lọc và
kết tinh tất cả những gì ưu tú, tinh túy, tốt đẹp nhất trong suốt lịch sử đấu tranh dựng nước và
giữ nước. Nó được lưu truyền cho các thế hệ sau, được các thế hệ gìn giữ, kế thừa, phát huy
để trở thành nguồn lực nội sinh cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Vai trò đặc biệt quan trọng của giá trị văn hóa truyền thống là sự tham gia xây dựng hệ giá trị
văn hóa và chuẩn mực con người Việt Nam hiện nay. Quá trình này được thực hiện thông qua
sự hội tụ và lan tỏa những giá trị văn hóa cốt lõi, làm cho nó được hiện thực hóa trong cuộc
sống, làm cho các giá trị văn hóa và chuẩn mực mới vừa hợp truyền thống vừa mang hơi thở
của thời đại, cụ thể: 1) Thực tiễn lịch sử cho thấy, các giá trị văn hóa truyền thống có khả
năng làm cho các giá trị văn hóa và chuẩn mực mới vẫn đậm đà bản sắc dân tộc, như: các giá
111

trị lòng yêu nước, tự cường, đoàn kết, ý thức cộng đồng, nhân ái, khoan dung, nghĩa tình, đạo
lý, cần cù, sáng tạo… cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị; 2) Các giá trị văn hóa truyền thống
có khả năng làm cho các giá trị văn hóa và chuẩn mực mới được tiếp nhận, bổ sung và phát
triển phù hợp với yêu cầu mới của lịch sử, như: các giá trị văn hóa truyền thống đã định hình
chuẩn mực con người trọng tình nghĩa, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã -
Tổ quốc, nhưng với yêu cầu xã hội mới hiện nay, con người cần tiếp nhận, bổ sung và phát
triển các giá trị mới như dân chủ, kỷ cương, công bằng, trách nhiệm…

Trong giai đoạn hiện nay, việc kế thừa các giá trị văn hóa truyền thống để xây dựng hệ giá trị
văn hóa và chuẩn mực con người Việt Nam mới là nhiệm vụ cách mạng quan trọng, có vai trò
to lớn trong sự phát triển bền vững của đất nước và dân tộc. Theo quy luật của sự phát triển,
các các giá trị văn hóa truyền thống đã xác lập mô thức cho các các giá trị văn hóa và chuẩn
mực mới, vừa tạo nên sự ổn định, vừa tạo cơ sở cho thế hệ hiện nay tiếp nhận, bổ sung, phát
triển các giá trị và chuẩn mực mới. Đó chính là quá trình kế thừa các giá trị văn hóa truyền
thống, định hình các giá trị văn hóa và chuẩn mực mới, để làm giàu các giá trị mà không mất
đi mạch nguồn truyền thống.

Những thành tựu và hạn chế việc kế thừa giá trị văn hóa truyền thống trong xây dựng
hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người Việt Nam hiện nay

Trong hơn 35 năm đổi mới, Đảng ta luôn quan tâm chỉ đạo, lãnh đạo việc phát triển văn hóa
và con người Việt Nam. Có thể nói thành tựu phát triển tư duy lý luận của Đảng ta về kế thừa
giá trị văn hóa truyền thống trong xây dựng hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người Việt
Nam hiện nay có vai trò quan trọng trong việc định hướng hành động.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta xác định:
“Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước,
tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, văn minh vì lợi ích
chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ ngày
càng cao. Chống tư tưởng, văn hóa phản tiến bộ, trái với những truyền thống tốt đẹp của dân
tộc và những giá trị cao quý của loài người, trái với phương hướng đi lên chủ nghĩa xã
hội”(2).

Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) đã xác định phương hướng chung của sự nghiệp văn
hóa nước ta là kế thừa và phát huy chủ nghĩa yêu nước, truyền thống đại đoàn kết dân tộc, ý
thức độc lập tự chủ, tự cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, xây dựng và phát
triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân
loại, làm cho văn hóa thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào từng người,
từng gia đình, từng tập thể và cộng đồng, từng địa bàn dân cư, vào mọi lĩnh vực sinh hoạt và
quan hệ con người, tạo ra trên đất nước ta đời sống tinh thần cao đẹp, trình độ dân trí cao,
khoa học phát triển, phục vụ đắc lực sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, tiến bước vững chắc lên chủ nghĩa xã
hội. Bảo tồn và phát huy những giá trị di sản văn hóa tốt đẹp của dân tộc, sáng tạo nên những
giá trị văn hóa mới xã hội chủ nghĩa, làm cho những giá trị ấy thấm sâu vào toàn bộ đời sống
và hoạt động xã hội, vào mỗi con người, trở thành tâm lý và tập quán tiến bộ, văn minh…
Nghị quyết còn xác định xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới với
những giá trị và chuẩn mực sau: Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc; có ý thức tập thể,
đoàn kết; có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh; lao động chăm chỉ với lương tâm nghề
nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo, năng suất cao; thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình
độ chuyên môn, trình độ thẩm mỹ và thể lực...
112

Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX đã khẳng định: “hoàn thiện hệ giá trị mới của con người
Việt Nam, kế thừa các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa
của loài người, tăng sức đề kháng chống văn hóa đồi trụy, độc hại”(3).

Trước tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không
nhỏ cán bộ, đảng viên, những biểu hiện xa rời mục tiêu, lý tưởng của chủ nghĩa xã hội chưa
được khắc phục, Đảng ta xác định: “Xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt
Nam, bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
hội nhập kinh tế quốc tế. Bồi dưỡng các giá trị văn hóa trong thanh niên, học sinh, sinh viên,
đặc biệt là lý tưởng sống, năng lực trí tuệ, đạo đức và bản lĩnh văn hóa con người Việt
Nam”(4).

Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XI chỉ rõ: “Sớm có chiến lược quốc gia về xây dựng gia đình
Việt Nam, góp phần giữ gìn và phát triển những giá trị truyền thống của văn hóa, con người
Việt Nam, nuôi dưỡng, giáo dục thế hệ trẻ. Đúc kết và xây dựng hệ giá trị chung của người
Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”(5).

Nghị quyết Trung ương 9 (khóa XI) đã xác định quan điểm xây dựng và phát triển văn hóa,
con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước: 1) Văn hóa là nền tảng
tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước. Văn hóa phải được
đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội; 2) Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, với
các đặc trưng dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học; 3) Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện
nhân cách con người và xây dựng con người để phát triển văn hóa. Trong xây dựng văn hóa,
trọng tâm là chăm lo xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp, với các đặc tính cơ
bản: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo; 4) Xây dựng đồng
bộ môi trường văn hóa, trong đó chú trọng vai trò của gia đình, cộng đồng. Phát triển hài hòa
giữa kinh tế và văn hóa; cần chú ý đầy đủ đến yếu tố văn hóa và con người trong phát triển
kinh tế; 5) Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, Nhà
nước quản lý, Nhân dân là chủ thể sáng tạo, đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng.

Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XII đã xác định mục tiêu xây dựng, phát triển văn hóa, con
người Việt Nam: “Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng
đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học”(6).

Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII tiếp tục khẳng định vai trò, vị trí, ý nghĩa, tầm quan trọng
của giá trị văn hóa và sức mạnh con người Việt Nam: “Tập trung nghiên cứu, xác định và
triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người gắn với giữ
gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới”(7); “Từng bước vươn lên khắc
phục các hạn chế của con người Việt Nam; xây dựng con người Việt Nam thời đại mới, gắn
kết chặt chẽ, hài hòa giữa giá trị truyền thống và giá trị hiện đại”(8). Tất cả vì mục tiêu phát
triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
để văn hóa, con người Việt Nam thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất
nước và bảo vệ Tổ quốc.

Từ phân tích ở trên cho thấy, sự phát triển nhận thức trong tư duy lý luận của Đảng ta về văn
hóa, con người Việt Nam thời kỳ mới. Đó là việc xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, sức
mạnh con người Việt Nam là quá trình kết hợp nhuần nhuyễn, sáng tạo giữa kế thừa giá trị
văn hóa truyền thống và xác lập những giá trị văn hóa, chuẩn mực đạo đức mới, vừa khơi dậy
vừa làm lan tỏa những giá trị tốt đẹp của văn hóa truyền thống, chuẩn mực, tinh thần và ý chí
quyết tâm, tiềm năng, thế mạnh, sức sáng tạo của con người Việt Nam; chủ động, tích cực
tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại để bổ sung, làm giàu giá trị văn hóa phù hợp với thực tiễn
113

đất nước. Đây là thành tựu quan trọng của Đảng ta về việc kế thừa giá trị văn hóa truyền
thống trong xây dựng hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người Việt Nam hiện nay.

Bên cạnh những thành tựu to lớn của việc kế thừa giá trị văn hóa truyền thống trong xây dựng
hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người Việt Nam còn không ít những hạn chế. Đảng ta đã
chỉ rõ công tác giáo dục chính trị, tư tưởng còn nhiều hạn chế, thiếu sót; tính định hướng, tính
chiến đấu, tính thuyết phục và hiệu quả chưa cao. Công tác giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo
đức, lối sống còn chung chung, kém hiệu quả. Công tác nghiên cứu lý luận còn yếu, chưa theo
kịp yêu cầu của công cuộc đổi mới.

Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã đánh giá: “Tuy nhiên, so
với những thành tựu trên lĩnh vực chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, thành tựu
trong lĩnh vực văn hóa chưa tương xứng; chưa đủ để tác động có hiệu quả xây dựng con
người và môi trường văn hóa lành mạnh. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống trong Đảng và trong xã hội có chiều hướng gia tăng. Đời sống văn hóa tinh thần ở
nhiều nơi còn nghèo nàn, đơn điệu; khoảng cách hưởng thụ văn hóa giữa miền núi, vùng sâu,
vùng xa với đô thị và trong các tầng lớp nhân dân chậm được rút ngắn. Môi trường văn hóa
còn tồn tại tình trạng thiếu lành mạnh, ngoại lai, trái với thuần phong mỹ tục; tệ nạn xã hội,
tội phạm có chiều hướng gia tăng. Còn ít những tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị cao về
tư tưởng và nghệ thuật, có một số tác phẩm chạy theo thị hiếu tầm thường, chất lượng thấp,
thậm chí có hại. Hoạt động lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật chưa theo kịp thực tiễn sáng
tác. Việc bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa hiệu quả chưa cao, nguy cơ mai một chưa
được ngăn chặn. Hệ thống thông tin đại chúng phát triển thiếu quy hoạch khoa học, gây lãng
phí nguồn lực và quản lý không theo kịp sự phát triển. Một số cơ quan truyền thông có biểu
hiện thương mại hóa, xa rời tôn chỉ, mục đích. Cơ chế, chính sách về kinh tế trong văn hóa,
văn hóa trong kinh tế, về huy động, quản lý các nguồn lực cho văn hóa chưa cụ thể, rõ ràng.
Hệ thống thiết chế văn hóa và cơ sở vật chất, kỹ thuật cho hoạt động văn hóa còn thiếu và
yếu, có nơi xuống cấp, thiếu đồng bộ, hiệu quả sử dụng thấp. Công tác quy hoạch, đào tạo, bố
trí cán bộ lãnh đạo, quản lý văn hóa các cấp, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao còn nhiều
hạn chế, bất cập. Tình trạng nhập khẩu, quảng bá, tiếp thu dễ dãi, thiếu chọn lọc sản phẩm văn
hóa nước ngoài đã tác động tiêu cực đến đời sống văn hóa của một bộ phận nhân dân, nhất là
lớp trẻ”(9).

Công tác quản lý văn hóa còn nhiều lúng túng, chưa theo kịp với sự phát triển của kinh tế, quá
trình toàn cầu hóa, sự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ, nhất là công nghệ
thông tin: “Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý văn hóa còn nhiều lung túng, chậm trễ trong
việc thể chế hóa quan điểm, chủ trương của Đảng về văn hóa”(10). Chính vì vậy, Đảng ta
đánh giá nhận thức chung của xã hội: “Văn hóa chưa được quan tâm tương xứng với kinh tế
và chính trị, chưa thật sự trở thành sức mạnh nội sinh của sự phát triển bền vững đất
nước”(11).

Sự phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, công nghiệp hóa, hiện đại hóa
và hội nhập quốc tế đã tác động không nhỏ đến việc biến đổi cấu trúc gia đình Việt Nam.
Trước kia, cấu trúc gia đình Việt Nam thường có ba thế hệ cùng chung sống nên các giá trị
văn hóa truyền thống và chuẩn mực được giữ gìn và lưu truyền trọn vẹn cho con cháu. Ngày
nay, cấu trúc gia đình Việt Nam thường có hai thế hệ nên ảnh hưởng không nhỏ tới sự trao
truyền các giá trị văn hóa truyền thống và chuẩn mực.

Nhà trường có vai trò rất quan trọng trong việc rèn luyện nhân cách, truyền thụ các giá trị văn
hóa truyền thống và chuẩn mực cho học sinh. Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, do nhiều
nguyên nhân khách quan và chủ quan, việc truyền thụ các giá trị văn hóa truyền thống và
chuẩn mực cho học sinh không đạt hiệu quả như mong muốn. Chính vì vậy, lớp trẻ hiện nay
114

có lối sống năng động, nhanh nhẹn, tháo vát, thạo ngoại ngữ, giỏi chuyên môn… nhưng thiếu
kỹ năng ứng xử, thiếu hiểu biết về lịch sử, các giá trị văn hóa truyền thống và chuẩn mực; một
bộ phận thanh thiếu niên có biểu hiện quay lưng với quá khứ, sống thờ ơ, vô cảm, chỉ coi
trọng giá trị vật chất mà xem nhẹ giá trị tinh thần.

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội thành viên có vai trò rất quan
trọng trong việc kế thừa giá trị văn hóa truyền thống trong xây dựng hệ giá trị văn hóa và
chuẩn mực con người Việt Nam. Tuy nhiên, không ít các tổ chức chính trị - xã hội chưa nhận
thức đầy đủ, quan tâm và làm tốt vai trò của mình; việc cụ thể hóa, thể chế hóa chủ trương,
quan điểm của Đảng về vấn đề này còn chậm, thiếu đồng bộ và trong một số trường hợp thiếu
khả thi; sự tham gia của tổ chức chính trị - xã hội vào công tác tuyên truyền, giáo dục giá trị
văn hóa truyền thống chưa được nhiều; tổ chức bộ máy, phương thức hoạt động của các tổ
chức chính trị - xã hội chậm đổi mới, một số nhiệm vụ còn trùng lắp, vẫn còn tình trạng “hành
chính hoá”, “công chức hoá”; nội dung và phương thức hoạt động có lúc, có nơi chưa thiết
thực, hiệu quả, thiếu sâu sát thực tế.

Một số giải pháp cơ bản nhằm kế thừa giá trị văn hóa truyền thống trong xây dựng hệ
giá trị văn hóa và chuẩn mực con người Việt Nam hiện nay

Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước về việc kế thừa giá trị văn hóa
truyền thống trong xây dựng hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người Việt Nam

Đảng ta đã xác lập các phương hướng cơ bản, tạo điều kiện xây dựng và phát huy giá trị văn
hóa, sức mạnh con người Việt Nam. Đảng ta đã yêu cầu tập trung nghiên cứu, xác định và
triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người gắn với giữ
gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới; tăng cường giáo dục lòng yêu
nước, lòng tự hào dân tộc, truyền thống và lịch sử dân tộc, ý thức trách nhiệm xã hội cho các
tầng lớp nhân dân, nhất là thanh niên; bảo vệ và phát huy các giá trị tốt đẹp, bền vững trong
truyền thống văn hóa Việt Nam. Đảng ta xác định mục tiêu phát triển con người toàn diện và
xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa, con người Việt
Nam thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Vì
vậy, Đảng ta chỉ rõ cần từng bước vươn lên khắc phục các hạn chế của con người Việt Nam;
xây dựng con người Việt Nam thời đại mới, gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa giá trị truyền thống
và giá trị hiện đại. Đảng ta cũng định hướng cho Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức
chính trị - xã hội trong việc kế thừa giá trị văn hóa truyền thống trong xây dựng hệ giá trị văn
hóa và chuẩn mực con người Việt Nam. Đồng thời, Đảng tạo điều kiện và có những cơ chế,
chính sách để các tổ chức này hoạt động có hiệu quả, phát huy cao nhất vai trò, trách nhiệm
của mình với tư cách là các chủ thể xây dựng con người Việt Nam mới. Đặc biệt, Đảng yêu
cầu phải nâng cao hơn nữa vai trò gương mẫu của các đảng viên trong việc kế thừa giá trị văn
hóa truyền thống để hoàn thiện nhân cách của mình.
Tăng cường quản lý nhà nước, bổ sung, hoàn thiện cơ chế chính sách nhằm đẩy mạnh việc
giáo dục các giá trị văn hóa truyền thống. Đẩy mạnh các phong trào hoạt động văn hóa, tuyên
truyền, vận động các tầng lớp nhân dân tham gia thiết thực cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết
xây dựng đời sống văn hóa”. Tổ chức tuyên truyền việc kế thừa giá trị văn hóa truyền thống
trong xây dựng hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người Việt Nam tới các tổ chức chính trị
- xã hội, nòng cốt là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, cũng như tới các tầng lớp nhân dân, tạo điều
kiện cho người nhân nhận thức được tầm quan trọng của việc kế thừa giá trị văn hóa truyền
thống trong xây dựng hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người Việt Nam hiện nay.

Nâng cao vai trò, trách nhiệm của mỗi gia đình về việc kế thừa giá trị văn hóa truyền thống
trong xây dựng hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người Việt Nam
115

Phát huy mạnh mẽ chức năng giáo dục của gia đình, nhất là giáo dục, trao truyền các giá trị
đạo đức truyền thống, kỹ năng ứng xử của mỗi thành viên trong gia đình. Giáo dục trong gia
đình, trước hết mang những nội dung truyền thống tốt đẹp của cha ông như lòng yêu nước,
tinh thần đoàn kết, cần cù, sáng tạo, trung thực, thật thà, hiếu thảo… trong việc xử lý các mối
quan hệ xã hội, tạo môi trường thuận lợi để phát triển những định hướng tốt đẹp, ngăn chặn
những nhận thức và hành vi sai lệch. Nội dung cơ bản của giáo dục gia đình cần tập trung
giáo dục hành vi đạo đức, tri thức căn bản, thái độ, kỹ năng sống và lao động, thể chất và
thẩm mỹ. Kỹ năng sống là một nội dung mới và đặc biệt quan trọng của giáo dục gia đình
trong xã hội hiện đại. Mục tiêu của giáo dục gia đình là tạo ra những con người hiếu thảo, có
đạo đức trong sáng, có suy nghĩ lành mạnh, có thể chất mạnh khỏe và có chuyên môn, nghiệp
vụ nghề nghiệp cao, đáp ứng được mọi yêu cầu của gia đình và xã hội.

Trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế hiện nay, mặc dù đang có rất nhiều tác
động khác nhau, nhưng về cơ bản, gia đình Việt Nam vẫn bảo tồn và phát huy được những giá
trị truyền thống quý báu, đồng thời, gia đình Việt Nam cũng đã tiếp thu nhiều tinh hoa của gia
đình hiện đại như: tôn trọng tự do cá nhân, sự lựa chọn cá nhân; dân chủ, bình đẳng trong
quan hệ; bình đẳng về nghĩa vụ, trách nhiệm và thụ hưởng; không phân biệt đối xử nam, nữ,
trai, gái, dâu, rể… Với những yếu tố trên, rõ ràng gia đình Việt Nam vẫn đang và sẽ là một
giá trị xã hội tốt đẹp và bền vững. Đây chính là cơ sở hiện thực để gia đình Việt Nam tiếp tục
tồn tại và phát triển vững chắc và cũng là cơ sở để gia đình ngày càng thực hiện tốt hơn chức
năng giáo dục của mình.

Để nâng cao vai trò của giáo dục gia đình, chúng ta cần có sự nghiên cứu, kế thừa sâu sắc các
giá trị giáo dục gia đình truyền thống, kết hợp với những xu hướng giáo dục hiện đại, xây
dựng những quy chuẩn mới cho giáo dục gia đình. Đồng thời, sự phối hợp giữa giáo dục gia
đình với việc hỗ trợ của cộng đồng và nhà trường là hết sức cần thiết.

Nâng cao vai trò, trách nhiệm của nhà trường về việc kế thừa giá trị văn hóa truyền thống
trong xây dựng hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người Việt Nam

Nhà trường có vai trò quan trọng trong việc giáo dục kế thừa các giá trị văn hóa truyền thống
để hình thành nhân cách, chuẩn mực học sinh, vừa hiểu biết những giá trị hiện đại, vừa nhận
thức sâu sắc những giá trị truyền thống của dân tộc, đặt nền móng cho việc xây dựng nguồn
nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Để làm được
việc này, đội ngũ thày cô giáo có vai trò quan trọng, quyết định và cần phải có những yêu cầu:
1) Là tấm gương học tập suốt đời cho học sinh noi theo, phải tiếp tục học tập và học tập
không ngừng nhất là trong thời đại công nghệ thông tin, tri thức nhân loại gia tăng một cách
nhanh chóng; 2) Là người nghiên cứu và giải quyết những vấn đề của thực tiễn giáo dục ở nhà
trường, bởi thực tiễn của nhà trường, lớp học luôn tồn tại những yếu tố có ảnh hưởng đến việc
dạy và việc học; 3) Là người không ngừng rèn luyện để hoàn thiện lối sống, nhân cách của
mình, sống có tấm lòng nhân ái, làm việc có trách nhiệm với danh dự nghề nghiệp và xã hội,
chuẩn mực con người để xã hội noi theo; 4) Là người có ý thức trách nhiệm, quyết tâm, nỗ
lực hoàn thành sứ mệnh, nhiệm vụ được giao, đóng góp vào sự tiến bộ, văn minh của xã hội
và sự phát triển của cộng đồng; 5) Là người đổi mới xã hội, bởi giáo dục để làm thay đổi, làm
mới người học và qua đó làm mới xã hội theo hướng tăng trưởng, tích cực.

Nhà trường cần chuyển đổi từ dạy học tiếp cận nội dung là chủ yếu sang tiếp cận năng lực.
Điều đó đặt ra yêu cầu mọi giáo viên phải thay đổi cả về nhận thức và hành động cụ thể, phải
tham gia các đợt bồi dưỡng, kết hợp tự bồi dưỡng để tiếp cận được quan điểm và chương trình
mới, phương pháp dạy học mới. Quá trình đổi mới phương pháp dạy học cũng cần phải chọn
lọc, cải tiến và phát huy giá trị của các hình thức tổ chức hoạt động, các phương pháp, kỹ
thuật dạy học. Để hình thành và phát triển được năng lực cho học sinh về một lĩnh vực nào
116

đó, giáo viên cần phải thông qua tổ chức những hoạt động cụ thể, nghĩa là phải đưa hoạt động
trải nghiệm trở thành nội dung học tập bắt buộc trong nhà trường. Nhà trường không chỉ trao
truyền kiến thức mà là phát triển năng lực của học sinh. Vì vậy, đội ngũ thầy cô giáo cần vận
dụng các nhóm kỹ năng như: tư duy sáng tạo, tư duy phản biện, giải quyết vấn đề, ra quyết
định và học tập suốt đời; nhóm kỹ năng làm việc như khả năng giao tiếp và hợp tác làm việc
theo nhóm; sử dụng các công cụ làm việc; các kỹ năng mềm khác để sống và làm việc, thực
hiện trách nhiệm cá nhân và xã hội. Cần biến các kỹ năng thành những việc làm thực tế trong
hoạt động giáo dục nhằm định hướng đúng và phát triển năng lực học sinh.

Nâng cao vai trò, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã
hội về việc kế thừa giá trị văn hóa truyền thống trong xây dựng hệ giá trị văn hóa và chuẩn
mực con người Việt Nam

Việc kế thừa giá trị văn hóa truyền thống trong xây dựng hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con
người Việt Nam cần có sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, trong đó Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và các tổ chức chính trị - xã hội có vai trò quan trọng. Theo chức năng nhiệm vụ, định
hướng xã hội của mình mà mỗi tổ chức chính trị - xã hội lựa chọn cho mình cách thức, biện
pháp truyền tải, giáo dục các giá trị văn hóa truyền thống cho các thành viên, nhưng cần thống
nhất, đồng bộ, bởi một đối tượng có thể thuộc về nhiều tổ chức chính trị - xã hội khác nhau.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội có vai trò quan trọng trong việc
vận động các tầng lớp nhân dân tích cực trong xây dựng, phát triển con người Việt Nam toàn
diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa thực sự
trở thành sức mạnh nội sinh, động lực khơi dậy truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc,
niềm tin, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, bảo đảm sự phát triển bền
vững, hội nhập quốc tế và bảo vệ Tổ quốc. Đoàn Thanh niên, với nhiệm vụ quan trọng trong
giai đoạn hiện nay là xây dựng lớp thanh viên vừa biết kế thừa các giá trị văn hóa truyền
thống tốt đẹp, vừa biết làm giàu cho văn hóa dân tộc bằng những giá trị tinh hoa văn hóa nhân
loại, tích cực thi đua rèn luyện lối sống, lý tưởng sống, chuẩn mực con người mới. Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội cần tạo ra luồng dư luận xã hội tích cực
nhằm điều chỉnh hành vi con người. Với tư cách là cơ chế đánh giá giá trị hành vi, dư luận xã
hội biểu dương và khuyến khích các hành vi hợp chuẩn, phê phán và góp phần ngăn chặn các
hành vi lệch chuẩn. Nhờ dư luận, con người xác định được giá trị, ý nghĩa đích thực của hành
vi và có được những định hướng cần thiết cho các ứng xử.

Phát huy vai trò của pháp luật về việc kế thừa giá trị văn hóa truyền thống trong xây dựng hệ
giá trị văn hóa và chuẩn mực con người Việt Nam

Pháp luật là một trong những nhân tố quan trọng quyết định sự lành mạnh của xã hội, nhất là
sự bảo đảm trật tự, kỷ cương của xã hội. Là một phương thức điều chỉnh hành vi con người,
pháp luật xác định các giới hạn cho hành động của con người, điều tiết hành vi con người
bằng cách cưỡng chế để bảo đảm cho sự ổn định nhất định của xã hội. Pháp luật giúp con
người hình thành thói quen tốt, biến nó thành nhu cầu và tiến đến trở thành các giá trị, chuẩn
mực. Muốn vậy, chúng ta cần xây dựng những bộ luật mang tính khả thi cao, phù hợp với đời
sống kinh tế - xã hội, tạo điều kiện các giá trị văn hóa truyền thống được kế thừa và phát triển,
đồng thời, thuận lợi cho việc hình thành và phát triển các giá trị văn hóa, chuẩn mực mới. Bên
cạnh việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, chúng ta cũng cần thực hiện giải pháp
giáo dục, nâng cao ý thức thực thi pháp luật. Ý thức pháp luật là sản phẩm của quá trình phát
triển xã hội, gắn với việc hình thành và phát triển văn hóa của mỗi quốc gia. Ý thức pháp luật
không chỉ là công cụ bảo vệ công lý, mà còn có tác dụng xây dựng lối sống, chuẩn mực cho
mỗi con người. Công tác giáo dục, tuyên truyền, phổ biến pháp luật cần phải làm thường
xuyên, liên tục, sử dụng nhiều hình thức và biện pháp thích hợp cho từng đối tượng. Công tác
này tạo ra những khả năng thiết lập trong đời sống thực tiễn những nguyên tắc, chuẩn mực
117

đạo đức, củng cố tình cảm, nghĩa vụ đạo đức cho mỗi con người; tác động một cách có tổ
chức theo một hệ thống và mục đích rõ rệt lên mỗi thành viên của xã hội, nhằm hình thành
một cách bền vững ý thức thực thi pháp luật, những tập quán, thói quen tích cực trong mọi
hành vi ứng xử của con người trong xã hội.

Mặt khác, cần nâng cao tính tích cực của Nhân dân về việc kế thừa giá trị văn hóa truyền
thống trong xây dựng hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người Việt Nam; tự giác tìm hiểu
các giá trị văn hóa truyền thống, qua đó thêm tự hào về quê hương, đất nước, con người Việt
Nam, tạo động lực thôi thúc mỗi con người hăng say lao động, sáng tạo, đổi mới, xây dựng
cuộc sống cho chính mình và các thế hệ mai sau.

You might also like