cái-chung-cái-riêng-ft-KTTT 2

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 14

Vận dụng được mối quan hệ biện chứng giữa cái riêng

và cái chung và cái riêng trong nhận thức và hoạt động


thực tiễn
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU...................................................................................................1
PHẦN NỘI DUNG...............................................................................................2
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CẶP PHẠM TRÙ CÁI CHUNG VÀ CÁI
RIÊNG...................................................................................................................2
1.1.Phạm trù cái chung, cái riêng, cái đơn nhất....................................................2
1.2. Mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng.....................................2
1.3.Ý nghĩa phương pháp luận..............................................................................4
CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG CẶP PHẠM TRÙ CÁI CHUNG – CÁI RIÊNG
VÀO QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH
HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM..................................................5
2.1.Khái niệm, tính tất yếu của nền kinh tế thị trường..........................................5
2.2. Mối quan hệ “cái chung” và cái riêng của nền kinh tế thị trường theo cơ chế
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam với kinh tế thế giới.................................................5
2.3. Thành tựu và khó khăn trong xây dựng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. .7
2.4.Giải pháp khắc phục những khó khăn của nền kinh tế thị trưởng ở nước ta
hiện nay.................................................................................................................8
CHƯƠNG 3: LIÊN HỆ TRÁCH NHIỆM SINH VIÊN TRONG VIỆC ĐÓNG
GÓP VÀO QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM.....................9
PHẦN KẾT LUẬN.............................................................................................10
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................11
PHẦN MỞ ĐẦU
Có thể thấy rằng, trong suốt lịch sử phát triển và hình thành của Việt Nam,
chúng ta cũng như bao nhiêu quốc gia khác gặp rất nhiều những khó khăn trong
việc phát triển nền kinh tế. Từ những ngày còn áp dụng chế động Phong kiến,
Việt Nam đã sai lầm khi thực thi một nền kinh tế đóng kín; hạn chế giao thương,
buôn bán với nước ngoài. Chính vì vậy mà xã hội Việt Nam vào thời kì cuối thế
kỉ không thể phát triển, trở nên lạc hậu với thế giới và trở thành mục tiêu xâm
lược của thực dân Pháp. Để cuối cùng Việt Nam đã trở thành thuộc địa của Pháp
vào năm 1884.
Tuy nhiên đến khi giành được độc lập và bước vào thời kì xây dựng chủ
nghĩa xã hội, Việt Nam lại quá vội vàng muốn phát triển đất nước mà áp dụng
hình thức nền kinh tế bao cấp. Điều đó đã làm cho Việt Nam càng chậm phát
triển vì xu hướng của thế giới bấy giờ một nền kinh tế thị trường, cởi mở, khác
hẳn với một bộ máy kinh tế tự cung tự cấp bảo thủ, khép kín. Nhận thức được
những tác hại của cơ chế bao cấp đối với Việt Nam, Đảng và Nhà nước đã đưa
ra một quyết định quan trọng nhằm chuyển đổi nền kinh tế của nước ta từ một
nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội- chủ
nghĩa. Qua đó giúp nền kinh tế Việt Nam có thể phát triển vững mạnh và theo
kịp các cường quốc khác trên thế giới.Vào những ngày đầu chuyển đổi, Việt
Nam cũng gặp rất nhiều khó khăn, thử thách. Tuy nhiên, bằng việc vận dụng
một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin, tiêu biểu là mối quan hệ giữa cái
chung và cái riêng, Đảng và Nhà nước đã thành công đưa nền kinh tế nước nhà
thoát khỏi khủng hoảng và tiến vào công cuộc xây dựng một nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển vững chắc và nhanh chóng hội
nhập với thế giới.
Và đó là lý do em chọn đề tài: “Vận dụng được mối quan hệ biện chứng
giữa cái riêng và cái chung và cái riêng trong nhận thức và hoạt động thực
tiễn” làm chủ đề cho bài tiểu luận của mình.

1
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CẶP PHẠM TRÙ CÁI CHUNG VÀ CÁI
RIÊNG
1.1.Phạm trù cái chung, cái riêng, cái đơn nhất
1.1.1.Phạm trù cái riêng.
Khái niệm: cái riêng là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, hiện
tượng, một quá trình riêng lẻ nhất định.
Ví dụ: con chó, mèo, cây cối v.v...
1.1.2.Phạm trù cái chung
Cái chung là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc
tính chung không những có ở một sự vật, một hiện tượng nào đó, mà còn
lặp lại trong nhiều sự vật, hiện tượng (nhiều cái riêng) khác nữa.
Ví dụ: cái chung của các sinh vật sống đều là cơ thể sống nên đều có đồng
hoá và dị hoá, tức là nạp năng lượng và giải phóng năng lượng, đều có hệ cơ
quan như thần kinh, bài tiết v.v.., các hệ cơ quan lặp đi lặp lại ở các cơ thể sống
của các loài khác nhau kể cả con người.
1.1.3.Phạm trù cái đơn nhất
Cái đơn nhất là những đặc tính, những tính chất,… chỉ tồn tại ở một sự vật,
hiện tượng nào đó mà không lặp lại ở các sự vật, hiện tượng khác. Cái đơn nhất
và cái chung không đơn giản tồn tại trong cái riêng, mà gắn bó hữu cơ với nhau
và trong những điều kiện xác định có thể chuyển hóa vào nhau.
Ví dụ: Vân tay, cấu trúc gen của mỗi người là độc nhất
1.2. Mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng.
Phạm trù cái chung, cái riêng được bàn đến nhiều trong triết học phương
tây thời trung cổ. Phái duy thực đồng nhất thượng đế với cái chung và nhấn
mạnh rằng: “cái chung tồn tại độc lập, không phụ thuộc vào cái riêng”. Phát
triển ý tưởng của Platôn về ý niệm, và của Arirstote về “hình dạng thuần tuý”,
các đại biểu nổi tiếng của trường phái này như G.Origenơ và Thomas Aquin cho
rằng chỉ có khái niệm phổ biến là tồn tại thực sự, có trước các sự vật riêng biệt.
Chủ nghĩa duy danh lại cho rằng: “cái chung không tồn tại thực trong hiện thực
khách quan, chỉ có sự vật đơn lẻ, cái riêng mới tồn tại thực, chỉ tồn tại trong tư
duy con người, chỉ là tên gọi của các đối tượng đơn lẻ”. Khắc phục những nhược
2
điểm trên chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng cái riêng, cái chung tồn tại
khách quan và giữa chúng có mối liên hệ hữu cơ với nhau. Điều đó thể hiện ở
chỗ:
1.2.1.Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu
hiện sự tồn tại của mình. Nghĩa là không có cái chung thuần túy tồn tại bên
ngoài cái riêng.
Ví dụ: Cái chung của các loài cá là động vật có xương sống, thở bằng
mang... phải thông qua những con cá cụ thể như cá mè, cá chép... (cái
riêng)v.v..Rõ ràng cái chung tồn tại thực sự, nhưng không tồn tại ngoài cái riêng
mà phải thông qua cái riêng.
1.2.2.Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ với cái chung. Nghĩa là
không có cái riêng nào tồn tại tuyệt đối độc lập, không có liên hệ với cái
chung.
Điều này có nghĩa “cái riêng” tồn tại độc lập, nhưng sự độc lập này không
có nghĩa là cô lập với những cái khác. Thông qua hàng ngàn mối liên hệ, hàng
ngàn sự chuyển hóa, “cái riêng” của loại này có liên hệ với những “cái riêng”
của loại khác.
Ví dụ: Nền kinh tế Việt Nam (cái riêng) khi tham gia hội nhập quốc tế, đặc
biệt vào WTO thì phải liên hệ và tuân theo cái chung như phải tuân thủ luật
pháp quốc tế; tuân thủ các quy luật của kinh tế thị trường như quy luật giá trị,
cung cầu...; một con người (cái riêng) tồn tại trong mối liên hệ với cái chung
(đồng hoá, dị hoá…)
1.2.3.Cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung, cái chung là cái bộ
phận nhưng sâu sắc hơn cái riêng.
Cái riêng phong phú hơn cái chung vì ngoài những đặc điểm chung, cái riêng
còn có cái đơn nhất.
Thí dụ, người nông dân Việt Nam bên cạnh cái chung với nông dân của các
nước trên thế giới là có tư hữu nhỏ, sản xuất nông nghiệp, sống ở nông thôn,
v.v., còn có đặc điểm riêng là chịu ảnh hưởng của văn hóa làng xã, của các tập
quán lâu đời của dân tộc, của điều kiện tự nhiên của đất nước, nên rất cần cù lao
động, có khả năng chịu đựng được những khó khăn trong cuộc sống.
Cái chung sâu sắc hơn cái riêng vì cái chung phản ánh những thuộc tính, những
mối liên hệ ổn định, tất nhiên, lặp lại ở nhiều cái riêng cùng loại. Do vậy cái

3
chung là cái gắn liền với cái bản chất, quy định phương hướng tồn tại và phát
triển của cái riêng.
1.2.4.Cái đơn nhất và cái chung có thể chuyển hóa lẫn nhau trong quá trình
phát triển của sự vật.

+ Cái chung chuyển hoá thành cái đơn nhất khi nó là cái đã cũ, lỗi thời, lạc hậu
và không còn phù hợp. Ví dụ: cơ chế xin cho, bao cấp của nhà nước trong nền
kinh tế kế hoạch hoá, tập trung trước đây (cái chung đã dần bị xóa bỏ) không
phù hợp với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay (cơ chế thị
trường)... ;

+ Cái đơn nhất (cái mới) chuyển hoá thành cái chung khi nó là cái tiến bộ, cách
mạng và ngày càng trở nên phù hợp với quy luật khách quan

Ví dụ: Cách làm khoán của Bí thư Kim Ngọc ở Vĩnh Phúc trước đây (cuối năm
60) xuất hiện dưới dạng cái đơn nhất (mới) -> Sau trở thành một chính sách của
Nhà nước (1988 - Khoán 10)...->Nền nông nghiệp Việt Nam thành tựu (Xuất
khẩu nông sản > 49 tỷ USD).

1.3.Ý nghĩa phương pháp luận


Thứ nhất, vì cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng nên
chỉ có thể tìm cái chung trong cái riêng chứ không phải từ ý muốn chủ quan của
con người hoặc bên ngoài cái riêng. Cái chung là cái sâu sắc, cái bản chất nên
nhận thức phải nhằm tìm ra cái chung, trong hoạt động thực tiễn phải dựa vào
cái chung để cải tạo cái riêng.
Thứ hai, phải thấy được mối quan hệ qua lại giữa cái chung và cái riêng để
khi áp dụng cái chung vào những trường hợp riêng biệt không rơi vào tả khuynh,
giáo điều bằng cách cá biệt hóa, không áp dụng rập khuôn, máy móc cái chung.
Để khắc phục bệnh hữu khuynh xét lại thì phải tránh tuyệt đối hóa cái đơn nhất,
xem thường cái chung. Và để tránh khỏi tình trạng mò mẫm tùy tiện, kinh
nghiệm chủ nghĩa thì khi giải quyết vấn đề riêng không thể không đặt trong mối
liên hệ với những vấn đề chung có liên quan đến vấn đề riêng đó.
Thứ ba, trong quá trình phát triển của sự vật, ở những điều kiện nhất định,
cái đơn nhất có thể biến thành cái chung và ngược lại. Vì vậy, trong hoạt động
thực tiễn cần tạo điều kiện thuận lợi cho cái đơn nhất biến thành cái chung nếu
cái đơn nhất đó có lợi cho con người và ngược lại, biến cái chung thành cái đơn
nhất nếu cái chung đó là không cần thiết và bất lợi cho con người.
4
CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG CẶP PHẠM TRÙ CÁI CHUNG – CÁI RIÊNG
VÀO QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH
HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
2.1.Khái niệm, tính tất yếu của nền kinh tế thị trường
- Khái niệm: Kinh tế thị trường là nền kinh tế mà ở đó tồn tại nhiều
thành phần kinh tế, nhiều loại hình sở hữu cùng tham gia, cùng vận động và
phát triển trong một cơ chế cạnh tranh bình đẳng và ổn định.
- Tính tất yếu:
o Một là, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là
phù hợp với xuhướng phát triển khách quan của Việt Nam trong bối cảnh
thế giới hiện nay.
o Hai là, do tính ưu việt của kinh tế thị trường trong thúc đẩy phát
triển Việt Nam theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
o Ba là, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với
nguyện vọng mong muốn dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh của người dân Việt Nam.
o Mặt khác, kinh tế thị trường sẽ còn tồn tại lâu dài ở nước ta là một
tất yếu khách quan,là sự cần thiết cho quá trình xây dựng và phát triển đất
nước, bởi lẽ sự tồn tại hay không tồn tại của kinh tế thị trường là do những
điều kiện kinh tế - xã hội khách quan sinh ra nó quy định. Trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, những điều kiện cho sự ra đời và tồn tại
của sản xuất hàng hóa như: phân công lao động xã hội, các hình thức khác
nhau của quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất không hề mất đi, do đó, việc sản
xuất và phân phối sản phẩm vẫn phải được thực hiện thông qua thị trường.
2.2. Mối quan hệ “cái chung” và “cái riêng” của nền kinh tế thị trường theo
cơ chế xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam với kinh tế thế giới
Mặc dù nền kinh tế của Việt Nam theo một cơ chế đặc biệt, thế nhưng theo
mối quan hệ biện chứng giữa “cái chung” và “cái riêng”: “cái riêng” tồn tại độc
lập, song song bên cạnh cái riêng khác nhưng không biệt lập mà nằm trong mối
quan hệ “cái riêng”dẫn tới “cái chung”. Nền kinh tế của Việt Nam cũng có
những đặc điểm chung của nền kinh tế thế giới. Nền kinh tế của Việt nam bắt
buộc phải tuân theo những quy luật như quy luật tiền tệ, quy luật cung- cầu,…
giống như thế giới. Cũng như tất cả các nền kinh tế khác, Việt Nam cũng bị ảnh
hưởng bởi thị trường và các xu hướng của thế giới. Nền kinh tế của Việt Nam

5
cũng là một nền kinh tế hội nhập, luôn sẵn sàng gia nhập với thế giới, áp dụng
các công nghệ kĩ thuật cao
Nền kinh tế của Việt Nam là một nền kinh tế đặc biệt, nền kinh tế tuân thủ
theo mọi quy tắc, hoạt động của nền kinh tế thị trường nhưng đồng thời đảm bảo
những yêu cầu của chủ nghĩa xã hội, có sự chỉ đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam và Nhà nước. Điều này đã được thể hiện qua các mặt: mục tiêu kinh tế; đặc
trưng về sở hữu, cơ cấu kinh tế; phân phối; cơ chế vận hành của nền kinh tế;
phương tiện, công cụ, động lực của nền kinh tế.
Về mục tiêu kinh tế, “mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa là phát triển sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật
chất- kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân”
Về đặc trưng sở hữu, trước đổi mới, nước ta với nền kinh tế bao cấp chỉ có
duy nhất một chế độ về tư liệu sản xuất là chế độ công hữu. Nhưng từ khi tiến
hành đổi mới, nền kinh tế của nước ta xuất hiện cả hai đối tượng sở hữu: tư hữu
và công hữu.
Về cơ cấu kinh tế, nền kinh tế Việt Nam xuất hiện nhiều thành phần kinh
tế đa dạng khác nhau, trong đó thì kinh tế tư nhân là một động lực qua trọng của
nền kinh tế, tuy nhiên Nhà nước vẫn đóng vai trò chủ đạo. Việc có nhiều thành
phần tham gia đóng góp và nền kinh tế sẽ tạo nên sự cạnh tranh, thúc đẩy nền
kinh tế phát triển.
Về đặc trưng phân phối, khác với chế độ bao cấp, nền kinh tế thị trường
phân phối theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, mức đóng góp nguồn vốn và
các điều kiện khác, dựa trên các nguyên tắc của cơ chế thị trường, có sự quản lý
của Nhà nước, từ chỗ coi Nhà nước là chủ thể phân phối chuyển dần sang xác
định thị trường quyết định phân phối lần đầu và Nhà nước thực hiện phân phối
lại.
Về cơ chế vận hành, kết hợp giữa cơ chế thị trường với vai trò quản lý,
điều hành của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đảm bảo các mục tiêu
phát triển kinh tế. Vì có sự quản lý của Nhà nước nên nền kinh tế có hiệu quả
trên cơ sở đảm bảo lợi ích quốc gia. Đồng thời do có sử dụng cơ chế thị trường
nên nền kinh tế được kích thích sản xuất, phát triển nhưng vẫn tránh được những

6
hạn chế tiêu cực của nền kinh tế thị trường như các nước tư bản do theo hướng
xã hội chủ nghĩa.
Như vậy ta có thể thấy Đảng và Nhà nước đã nghiên cứu rất kĩ “cái chung”,
thay đổi cái chung cho phù hợp trước khi áp dụng vào cái riêng.Về phương tiện,
công cụ, động lực của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đó là một
nền kinh tế hiện đại, hội nhập quốc tế, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại
hoá.Như vậy, có thể nói, nền kinh tế thị trường theo hướng xã hội chủ nghĩa là
một nền kinh tế vừa có những cái chung và những cái đơn nhất so với nền kinh
tế thế giới. Thể hiện rõ mối quan hệ “cái chung” là một bộ phận của “cái riêng”
trong Triết học. Trong đó, cả “cái chung” và “cái đơn nhất” đều đóng vai trò là
hai bộ phận quan trọng để thúc đẩy “cái riêng”- nền kinh tế- phát triển.
2.3. Thành tựu và khó khăn trong xây dựng nền kinh tế thị trường ở Việt
Nam
-Thành tựu : Qua 20 năm đổi mới, trong đó có phát triển nền KTTT theo định
hướng XHCN, nền kinh tế- xã hội nước ta đã có những thay đổi đáng kể. Kinh
tế thoát khỏi khủng hoảng và bắt đầu bước vào thời kì phát triển toàn diện và
tăng trưởng liên tục.

-Nhiều nhà máy lớn với thiết bị máy móc hiện đại được xây dựng và phát triển
mạnh. Ngày nay xuất hiện ngày càng nhiều ngành công nghiệp mới như các
ngành : chế tạo máy chế biến thực phẩm, công nghiệp chế biến hàng tiêu dùng,
công nghiệp điện.
-Ngành du lịch và dịch vụ gần đây đã đem lại cho nền kinh tế một thu nhập lớn.
Các khu du lịch nổi tiếng di tích lịch sử được bảo tồn, tôn tạo hàng năm thu hút
lượng du khách rất lớn cả trong nước và quốc tế.

-Ngành giao thông vận tải đáp ứng khá đầy đủ nhu cầu của nền kinh tế Xây
dựng hệ thống giao thông trên nhiều loại hình, đảm bảo lưu thông được nhanh
chóng, phù hợp với tốc độ vận động của kinh tế thị trường.

-Trong thương nghiệp: những năm gần đây còn mở rộng các quan hệ kinh tế
trong khu vực và thế giới, đặc biệt việc nước ta gia nhập WTO vừa qua đã tạo ra
nhiều cơ hội cho nền kinh tế nước ta hội nhập thế giới.

-Sự nghiệp công nghiệp hóa- hiện đại hoá đưa máy móc vào sản xuất nông
nghiệp đã giải phóng dẫn dần sức lao động của người dân đưa, máy móc vào sản
7
xuất nông nghiệp đã giải phóng dẫn dẫn sức lao động của người dân. Việc áp
dụng khoa học kĩ thuật, đưa phân bón, thuốc trừ sâu, các giống lúa mới, kì thuật
canh tác mới vào sản xuất đã nâng cao năng suất lao động. Sản lượng nông
nghiệp không ngừng đáp ứng nhu cầu người dân mà còn dư thừa để xuất khẩu
và nước ta đã trở thành một trong những nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới,
đây có thể coi là một thành tích to lớn của nền nông nghiệp nước ta.

-Quá trình cải cách kinh tế không chỉ thành công trong việc thúc đẩy kinh tế mà
còn mang lại lợi ích thiết thực cho các tầng lớp dân cư Việt Nam. Các mặt xã
hội trong vài năm gần đây được nâng cao và cải thiện đặc biệt việc giáo dục đã
đạt được những thành tựu đáng kể trong giai đoạn phát triển. Công tác xoá đói
giảm nghèo được đẩy mạnh bằng nhiều hình thức, công tác bảo vệ và chăm sóc
sức khoẻ nhân dân được chú trọng,

-Tuy vậy vẫn còn nhiều khó khăn: Chất lượng phát triển kinh tế- xã hội và năng
lực cạnh tranh của nền kinh tế còn kém. Cơ cấu ngành dịch chuyển chậm kết cấu
hạ tầng kinh tế, Việc xây dựng thể chế KTTT định hướng XHCN còn nhiều
vướng mắc và chưa thật đồng bộ. Thị trưởng tài chính, thị trường bất động sản,
thị trường khoa học và công nghệ phát triển chậm, chưa đáp ứng kịp yêu cầu.

2.4.Giải pháp khắc phục những khó khăn của nền kinh tế thị trưởng ở nước
ta hiện nay
Để có thể xây dựng một nền kinh tế thị trường vững mạnh, theo em, Việt
Nam cần tập trung vào các điều sau.
Thứ nhất, ta phải nâng cao nhận thức của toàn dân về nền kinh tế thị
trường theo hướng xã hội chủ nghĩa bởi vì muốn làm tốt cái gì nhất định ta phải
có hiểu biết về thứ đó. Từ đó, ta mới có thể đưa ra những chính sách, quyết định
đúng đắn và phù hợp.
Thứ hai, ta cần phải tạo dựng một hành lang, cơ sở vững chắc đảm bảo giữ
vững định hướng xã hội chủ nghĩa cho nền kinh tế thị trường. Để làm được điều
đó, ta cần phải củng cố, tăng cường hiệu lực của Quốc hội ban hành các luật
pháp còn thiếu, điều chỉnh bổ sung các bộ luật sao cho phù hợp với thực tiễn
hiện tại của Việt Nam. Thứ ba, ta cần phải xây dựng một hệ thống cơ sở vật chất
vững mạnh, tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế tăng trưởng, phát triển.
Thứ ba, ta phải tạo lập được một nền kinh tế tự do, cởi mở, không ngại
cạnh canh với quốc tế.
8
Thứ tư và cũng là quan trọng nhất, ta cần phải xây dựng được một bộ máy
Nhà nước vững mạnh, chí công vô tư, liên chính trong sạch. Nhà nước sẽ có
được uy tín trong mắt của người dân và các doanh nghiệp, từ đó sẽ thực hiện
được công việc quản lý và điều hành nền kinh tế một cách dễ dàng hơn.
CHƯƠNG 3: LIÊN HỆ TRÁCH NHIỆM SINH VIÊN TRONG VIỆC
ĐÓNG GÓP VÀO QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG PHÁT TRIỂN NỀN KINH
TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
Thứ nhất, cần nhận thức đúng, hành động đúng đối với sự cần thiết phải
học lý luận chính trị, tu dưỡng đạo đức cách mạng, bồi dưỡng lý tưởng cách
mạng.
Thứ hai, cần nhận thức rằng không ai khác, chính mình là những chủ nhân
tương lai của đất nước, đất nước đang trông chờ rất nhiều ở việc học tập và rèn
luyện của sinh viên. Việc học tập các môn chuyên ngành là điều cần thiết, song
nếu chỉ có kiến thức chuyên ngành sinh viên sẽ bị lạc hậu về mặt lý luận, vì việc
học tập các môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh giúp chúng ta
nắm bắt được những kiến thức cơ bản, kết hợp với việc liên hệ thực tiễn, từ đó
có tư duy độc lập, đúng đắn, hành động phù hợp trong cuộc sống, qua đó sinh
viên có được phương pháp tiếp cận, nắm bắt thông tin, kiến thức một cách hiệu
quả nhất. Học lý luận chính trị là học phương pháp luận tiên tiến, là trang bị nền
tảng tư tưởng cách mạng, tư duy đúng về thế giới, biết hành động có ích cho xã
hội.
Thứ ba, tự giác học tập, nghiên cứu, tìm hiểu và chấp hành nghiêm pháp
luật nhà nước, nhất là pháp luật về tư tưởng chính trị; không tham gia các hoạt
động tệ nạn xã hội (cờ bạc, nghiện ma tuý, nghiện rượu, đua xe trái phép). Chấp
hành nghiêm những quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo, nội quy, kỷ luật của
nhà trường. Sinh viên nên tích cực tham gia các phong trào của Đoàn Thanh
niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp thanh niên Việt Nam, phong trào
bảo vệ an ninh trật tự trong trường học và nơi cư trú
 Tóm lại, sinh viên có vai trò quan trọng trong quá trình xây dựng và phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Việc nắm vững kiến
thức, tham gia hoạt động xã hội, đóng góp ý kiến, khám phá công nghệ, tạo giá trị
và xây dựng đạo đức làm việc đều là những cách mà sinh viên có thể đóng góp
vào quá trình này.
9
10
PHẦN KẾT LUẬN
Như vậy, thông qua việc nghiên cứu những kiến thức cơ bản và phân tích
mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng. Ta có thể thấy được sự áp
dụng một cách triệt để quy luật Triết học của Đảng và Nhà nước ta vào trong
công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường theo hướng xã hội chủ
nghĩa. Từ đó, đó ta có thể hiểu thêm được về cách hoạt động, điều hành của nền
kinh tế Việt Nam, thấy được những thành tựu đáng tự hào mà đất nước đã đạt
được trong suốt hơn 35 năm đổi mới, cũng nhìn được những thách thức, khó
khăn mà Việt Nam đang phải đối mặt. Chính nhờ việc phân tích, tìm hiểu nền
kinh tế qua việc vận dụng nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin, ta có thể
đưa ra được những giải pháp cho nền kinh tế nước nhà, đóng góp chất xám của
bản thân vào việc phát triển kinh tế và đời sống của Tổ quốc. Qua đó, giúp kinh
tế Việt Nam năng động, phát triển và có thể sớm sánh vai với các cường quốc
năm châu

11
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Triết học Mác- Lênin, NXB Chính
trị quốc gia Sự thật
2. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia
Sự thật, Hà Nội, 2001, tr. 25
3.PGS. TS Đặng Quang Định, “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” (18/07/2021), Tạp
chí Cộng sản.
https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/kinh-te/-/2018/823673/mot-
so-van-de-ly-luan-va-thuc-tien-ve-nen-kinh-te-thi-truong-dinh-huong-xa-hoi-
chu-nghia-o-viet-nam.aspx5.
4.“Tổng quan về Việt Nam” (07/04/2021), The World bank.
https://www.worldbank.org/vi/country/vietnam/overview#1
5. T.S Nguyễn Sĩ Dũng, T.S Nguyễn Minh Phong, Hoàng Gia Minh, Hồ Quang
Phương (15/02/2018), “Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”, Tạp chí Xây dựng Đảng
http://xaydungdang.org.vn/Home/giai_bua_liem__vang/2018/11291/Phat-trien-
kinh-te-thi-truong-dinh-huong-xa-hoi-chu-nghia.aspx
6. “Những thành tựu nổi bật trong phát triển kinh tế” (05/01/2016), Báo Nhân
dân.
https://nhandan.vn/tin-tuc-su-kien/nhung-thanh-tuu-noi-bat-trong-phat-
trien-kinh-te-252150/

12

You might also like