Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 34

TÁC GIẢ XUÂN DIỆU

Phong cách thơ Xuân Diệu trong phong trào Thơ Mới

Đầu thập niên 1930, văn chương Việt Nam diễn ra một cuộc vận động đổi mới mạnh
mẽ mang tầm ảnh hưởng to lớn cho các nhà thơ với sự xuất hiện một làn sóng thơ mới
với cá tính sáng tác độc đáo, mạnh mẽ, quyết liệt, thể hiện được bản chất riêng biệt
của mỗi nhà thơ lúc bấy giờ. Cuộc đổi mới văn chương này mang được mang
tên Phong trào Thơ mới và được sự ủng hộ của rất nhiều nhà thơ mới.

Như đã nói, phong trào Thơ mới thu hút sự quan tâm của đông đảo các nhà thơ. Thơ
mới đã chiếm được ưu thế tuyệt đối và đã mở ra một thời kì cho nền văn học thơ ca
Việt Nam. Cũng kể từ đó, nhiều nhà thơ với phong cách thơ độc đáo khác lạ đã xuất
hiện và nổi lên như một vì sao sáng. Trong đó phải kể đến Xuân Diệu – ông là biểu
tượng rực rỡ nhất cho những sáng tạo của phong trào thơ mới.

Thơ Xuân Diệu mang nỗi niềm chung nhưng vẫn tạo nét riêng

Một nét thơ vừa riêng vừa chung là nét thơ buồn, cô đơn pha lẫn chút lãng mạn mà
mỗi nhà thơ thể hiện đều có cái hay riêng, cái khác lạ không thể lẫn với nhà thơ khác
được. Vì sao họ lại có chung một nỗi niềm như vậy, có lẽ vì do hoàn cảnh nước ta lúc
bấy giờ khiến họ hoang mang, không định hướng được. Và các nhà thơ ấy cũng không
chấp nhận được cuộc sống bình thường, tầm thường, vô vị như bao người xung quanh,
họ không chấp nhận được lối sống đó, họ muốn tìm một lối sống khác đi nhưng mãi
vẫn chưa tìm ra. Do đó, họ cảm thấy cô đơn, lạc lõng, bơ vơ giữa xã hội mênh mông,
rộng lớn này.

Trong thơ, Xuân Diệu khẳng định không có gì là vĩnh cửu

Con người được ví như là trung tâm của thế giới nhưng con người tồn tại trong thế
giới nào mới là điều quan trọng để xem xét ? Theo Xuân Diệu, thì con người tồn tại
trong một thế giới mà ở đó đầy sự biến đổi, biến đổi về xã hội, biến đổi về nhận thức,
biến đổi về thời gian, không gian, đầy sự biến đổi mà không ai có thể lường trước
được. Đây cũng là một nét nghệ thuật độc đáo trong sự nghiệp văn chương của ông.
Với Xuân Diệu thì không có gì là vĩnh cửu mà chỉ có mọi thứ luân phiên thay đổi theo
thời gian, không gian.

Vẻ đẹp cuộc sống được nhìn nhận rõ nét qua phong cách thơ Xuân Diệu

Từ cái nhìn đầy sâu sắc, đầy nghệ thuật và đầy cả tính chất triết học như vậy, cái nhìn
nghệ thuật của Xuân Diệu hướng đến khía cạnh vạn vật đổi thay, vạn vật sẽ chuyển
biến đổi. Thơ của Xuân Diệu là những tiếng lòng là những khao khát trước vẻ đẹp
trước cuộc đời bao la rộng lớn này.
Sự thật phũ phàng của hiện tại thể hiện trong thơ của Xuân Diệu

Xuân Diệu là người có nhận thức về sự đổi thay, ông hiểu được rằng mọi việc trên đời
này đều sẽ sớm đến chóng tàn, không gì là vĩnh viễn, bởi lẻ nếu có vĩnh viễn thì con
người sẽ không chết đi, hoa sẽ không tàn. Và nếu có vĩnh viễn thì con người sẽ không
biết trân trọng hiện tại. Từ đó, nó đến sự khác biệt trong hồn thơ Xuân Diệu chính là
khẳng định sự biến hóa khôn lường của thời gian, của tạo hóa, và sự thật trần trụi của
thực tại của hiện tại.

Những cuộc chia ly trong thơ của thi nhân Xuân Diệu với nhiều cung bậc

Trong thơ Xuân Diệu, có một ngọn lửa đang hừng hực, rạo rực, cháy bỏng trong tâm
hồn Xuân Diệu. Ông biết rằng cuộc vui nào cũng đến lúc chia ly, tình dù sâu đậm đến
đâu cũng sẽ phai theo thời gian, nở hoa dù có đẹp đến mấy rồi cũng rơi rụng dần chỉ
còn là một cành khô như trong bài thơ :”Hoa nở để mà tàn” ông đã viết:

“Hoa nở để mà tàn

Trăng tròn để mà khuyết

Bèo hợp để chia tan

Người gần để ly biệt

Hoa thu không nắng cũng phai màu

Trên mặt người kia in nét đau.”


Người ta chỉ tiếc nuối khi mọi chuyện đã là quá khứ, khi mọi chuyện đã qua nhưng
với Xuân Diệu ông tiếc nuối nó khi nó đang đến, khi nó trong khoảnh khắc đẹp đẽ
nhất: “Trong gặp gỡ đã có mầm li biệt”…

Xuân Diệu bắt trọn từng khoảnh khắc của cuộc đời, thể hiện rõ nét qua thơ

Xuân Diệu không chấp nhận được sự chảy trôi của tạo hóa, của vạn vật, của thời gian
của không gian, ông luôn tìm cách giữ chúng lại thế nên ông thường “vĩnh cửu hóa”
những khoảnh khắc hiện tại, những khoảnh khắc đẹp nhất, rạo rực nhất, cháy bỏng
nhất nhất, chỉ để mong chúng đừng trôi qua một cách nhanh chóng, hững hờ. Mặt trời
chiếu sáng với những tia nắng sớm, trông thật đẹp đẽ mà bình yên, nhưng những ánh
nắng đó chỉ xuất hiện trong những giây phút mà đối với ông là ngắn ngủi nên ông
muốn “tắt nắng” đi cũng như muốn “buộc gió” để những cơn gió thoảng hương thiên
nhiên trong lành thoáng mát đừng bay đi, mà chung qui lại ông chỉ muốn giữ nguyên
vẹn cái sự sống hiện tại mà ông vẫn chưa thể nắm bắt được hết:

Tôi muốn tắt nắng đi

Cho màu đừng nhạt mất

Tôi muốn buộc gió lại


Cho hương đừng bay đi

(“Vội vàng”)

Phong cách thơ Xuân Diệu luôn khẳng định cái tôi sâu sắc, đầy riêng biệt

Con người là trung tâm của thế giới, của vũ trụ. Mà trong nơi ấy, con người luôn biến
đổi đa chiều, cùng hòa vào sự biến đổi của thiên nhiên, của tạo hóa, của vạn vật. Ông
luôn muốn khẳng định bản thân ở một vị thế cao nhất, nó sẽ là độc nhất vô nhị, chỉ có
một trên đời này, Xuân Diệu là Xuân Diệu, tiếng lòng thơ Xuân Diệu cũng sẽ không
lẫn lộn vào đâu được, không thể lẫn lộn với bất kì nhà thơ nào khác:

“Ta là Một, là Riêng, là Thứ Nhất

Không có chi bè bạn nổi cùng ta.”

(“Hi – Mã – Lạp – Sơn”)


Đó còn là cái tôi có phần ngông nghênh trước cuộc đời: “Chân vồng thành những
bước nghênh ngang”, “liếc đời bằng những khóe ham mê”.

Ta thấy trong thơ Xuân Diệu còn là sự quý trọng về thời gian

Có thể nói bài thơ Cảm xúc là chuyên môn nghệ thuật thơ của Xuân Diệu, đó là cảm
xúc khát khao của lòng ham sống, trân quý thời gian. Chính vì điều đó nên ông khát
khao tận hưởng trọn vẹn từng cảm xúc cho cuộc sống. Ông sống cho thực tại và sống
hết mình vì thực tại, Tất cả mọi điều ấy đều được qui tụ vào những ngôn từ văn thơ
của ông:

Là thi sĩ, nghĩa là ru với gió

Mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây.

Để linh hồn ràng buộc bởi muôn dây.

Hay chia sẻ bởi trăm tình yêu mến

(“Cảm xúc”)

Sự cống hiến của thi nhân cho cuộc đời thể hiện rõ trong thơ

Ông luôn sống mãnh liệu, sống dào dạt và có phần hơi vội vàng từ trong thơ lẫn cả
bên ngoài cuộc sống. Ông không chấp nhận một cuộc sống bình thường, một cuộc
sống bình thường, tẻ nhạt. Một cuộc sống phẳng lặng ấy khi không chút biến cố nào
không phải là cách sống của Xuân Diệu. Ông có thể chấp nhận việc mình có thể bị
lãng quên sau này, nhưng ở hiện tại, ông sẽ sống và cống hiến hết sức mình để mọi
người biết đến và tôn vinh ông:

“Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối


Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm.”

(“Giục giã”)

Nỗi buồn ẩn hiện trong đặc điểm thơ Xuân Diệu

Một trong những cảm hứng nổi bật của thời đại thơ ca mới đó chính là nỗi buồn. Đó
có thể là nỗi buồn man mác của Huy Cận, nỗi cô đơn sầu thảm đến tuyệt vọng của Chế
Lan Viên. Nhưng trong thời đại nỗi buồn ngự trị ấy, Xuân Diệu đã lựa chọn cho mình
ngã rẽ riêng. Cô đơn là thế, nhưng ông vẫn sống hết mình cho thực tại, và đây cũng là
nét nổi bật trong thơ của ông.

Tình yêu và tuổi trẻ luôn là chủ đề đậm nét trong thơ ca Xuân Diệu

Tình yêu là chủ đề muôn thuở của con người. Bởi lẽ tình yêu là những cảm xúc chân
thành chất của con người, giúp trái tim kết nối với trái tim.

“Tình yêu đến, tình yêu đi, ai biết

Trong gặp gỡ đã có mầm li biệt”

(“Giục giã”)
Một cái nhìn thế giới đầy đổi thay như vậy tất yếu sẽ dẫn đến hệ quả là hốt hoảng
nhưng đó là cảm xúc của con người nên nó cung sẽ thay đổi khi con người đổi thay.
Đối diện với cuộc sống vốn nhiều trắc trở dường như không có gì có thể đảm bảo chắc
chắn rằng mọi thứ sẽ vẹn nguyên như ngày đầu gặp gỡ đặc biệt là trái tim. Chính vì
con người luôn cảm thấy bất an luôn cảm thấy hoảng sợ trước tình yêu trước sự đổi
thay của thời gian, trước sóng gió của cuộc đời.

Thế giới xoay vần. Trong sự biến thiên của không gian, thời gian, con người dường
như chỉ có thể bị động, phó mặc cho dòng đời chảy trôi. Con người tuy chỉ là một hạt
cát nhỏ nhoi trong vũ trụ bao la rộng lớn này, không thể thoát khỏi quy luật sinh lão
bệnh tử của cuộc đời thế nên cuộc đời tưởng rằng dài nhưng thật ra rất ngắn ngủi như
mây gió thoảng qua. Chúng ta không thể biết được ngày mai như thế nào nhưng chúng
ta có thể biết được ngày hôm nay sống như thế nào. Vì vậy phải vội vàng mà sống.
Hơn một lần Xuân Diệu đã giải thích điều này:

“Men trời sực nức nên mau tạ

Biết trước cho nên đã vội vàng.”

(“Trò chuyện với Thơ thơ”)


Như đã nói, tình yêu luôn là đề tài muôn thuở trong nền văn học thơ ca, nguồn cảm
hứng chủ đạo của nhiều nhà thơ, có tình yêu mãnh liệt, có tình yêu cô đơn, có tình yêu
bình dị, có tình yêu thầm lặng nhưng sâu lắng. Nhưng tình yêu trong thơ của Xuân
Diệu lại mang một sắc thái khác, một quan niệm khác:

“Hãy sát đôi đầu! Hãy kề đôi ngực!


Hãy trộn nhau đôi mái tóc ngắn dài!”

(“Xa cách”)
Và để không bơ vơ, cô đơn giữa cuộc đời, ông đã lựa chọn bám víu vào tình yêu. Vì
vậy tình yêu đã trở thành mục đích sống, là động lực để sống đối với ông:

“Làm sao sống được mà không yêu

Không nhớ không thương một kẻ nào…”

(“Bài thơ tuổi nhỏ”)


Những nỗi băn khoăn, trắc trở của cuộc sống trong thơ Xuân Diệu
Bên cạnh niềm khao khát sống mạnh liệt, khao khát tình yêu cháy bỏng thì trong thơ
Xuân Diệu còn phảng phất những nỗi băn khoăn, trăn trở của cuộc đời, ông không
ngừng đặt ra những câu hỏi thảng thốt, lo âu, những câu hỏi mà trong đó ẩn chứa cả
một niềm trăn trở trước cuộc đời:

“Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”

(“Chiều”)
Vẫn là sự băn khoăn về vô hạn của cuộc đời. Con người thì nhỏ bé mà vũ trụ lại rộng
lớn, làm sao biết trước được điều gì sẽ xảy ra… Điều đó nó sẽ đến như thế nào, sẽ ra
sao nếu ta đón nhận nó, và sẽ ra sao khi ta không đón nhận nó, vẫn chưa có câu trả lời
nào cho ngày mai. Và liệu rằng ngày mai có đến hay không.. Một sự bất lực rõ nét
trong thơ ca của Xuân Diệu…

Quan điểm sống của Xuân Diệu xuất hiện ngay từ những câu thơ đầu tiên:

Tôi muốn tắt nắng đi

Cho màu đừng nhạt mất

Tôi muốn buộc gió lại

Cho hương đừng bay đi

Khát khao mãnh liệt cháy bỏng, muốn chiếm lĩnh thế giới tự nhiên bao la và rộng lớn.
Ước muốn này, khát khao này được thoát lên qua từng câu chữ thật mãnh liệt. Từ “tôi
muốn” được điệp lại hai lần như nhấn mạnh hơn nữa khát khao ấy thật cháy bỏng.
“Nhạt nắng” và “buộc gió” là những hình ảnh vô hình, không thể sờ, nắm giữ cho
riêng mình được. Nhưng Xuân Diệu lại khát thèm được làm những thứ đó. Ông không
muốn để thời gian, để cho mưa nắng cuộc đời làm nhạt phai, cuốn đi hết tuổi trẻ đang
tràn đầy năng lượng và nhiệt huyết.

Tác giả say mê cảm nhận sự chuyển động của đất trời cũng như vẻ đẹp tuyệt vời của
mùa xuân và tuổi trẻ:\
Của ong bướm này đây tuần tháng mật

Này đây hoa của đồng nội xanh rì


Này đây lá của cành tơ phơ phất

Của yến anh này đây khúc tình si

Mỗi buổi sáng thần Vui hằng gõ cửa

Tháng giêng ngon như một cặp môi gần

Một đoạn thơ thật đẹp, trữ tình, lãng mạn, tràn đầy tình yêu cuộc sống. Ngòi bút tài
hoa, tinh tế của tác giả khiến bức tranh mùa xuân hiện lên như một “thiên đường trên
mặt đất” đầy say mê và quyến rũ. Thiên nhiên căng tràn nhựa sống, đất trời như ngập
trong sắc hương của hoa. Những hình ảnh tuyệt đẹp gắn với mùa xuân khiến tác giả cứ
ngỡ mùa xuân như ‘tuần tháng mất”. Tuần tháng mật có ý chỉ sự ngọt ngào, viên mãn
và lãng mạn của mùa xuân không mùa nào có thể sánh bằng. Với biện pháp liệt kê, tác
giả đã lần lượt phác họa từng đường nét tinh khôi, tươi đẹp của mùa xuân.

Hình ảnh “tháng giêng ngon như cặp môi gần” thực sự là hình ảnh táo bạo của Xuân
Diệu. Hình ảnh này khiến người đọc liên tưởng đến sự khát thèm đến tột độ của Xuân
Diệu về mong muốn được giữ lại mùa xuân, giữ lại tuổi trẻ cho riêng mình.

Tuy nhiên khi đang đắm chìm trong vị ngọt của thiên nhiên, của tình yêu thì Xuân
Diệu cũng chua xót nhận ra sự trôi đi vội vàng, quá hững hờ của thời gian khiến chúng
ta không thể nhìn lại được.

Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa

Tôi không chờ nắng hạ mới hồi xuân

Dấu chấm được đặt ngay giữa câu thơ gợi tả sự đứt quãng, cảm xúc chuyển đổi đột
ngột khiến cho nhân vật trữ tình hoảng hốt, vội vàng, không thể kiềm chế được mình.
Niềm vui còn ở đó nhưng tác giả nhận ra nỗi buồn đang đến gần, tuổi trẻ cũng sắp qua
đi trong tiếc nuối. Đây là một quan điểm rất hiện đại, rất mới của Xuân Diệu trong
thời đại đó.

Suy nghĩ của ồng về thời gian còn được tiếp diễn:
Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua

Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già

Quan niệm thời gian rất đúng đắn, phù hợp với quy luật của tự nhiên. Việc tác giả
nhận ra sự nghiệt ngã này của thời gian khiến cho lòng ngươi chùng xuống khi phải
trải qua sự đau đớn, tiếc nuối, dằn vặt khi tuổi trẻ đã đi qua. Cuộc đời con người “sinh,
lão, bệnh, tử” đều không đoán trước được, nhưng ý thức về thời gian của Xuân Diệu
khiến chúng ta thêm nâng niu và trân trọng hơn nữa cuộc đời này.

Nhận ra sự khắc nghiệt của thời gian,tác giả muốn sống vội vàng, sống như thể ngày
mai sẽ chết. Khát khao, ước vọng và sự sống vội đó được thể hiện:

Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn

Ta muốn riết mây đưa và gió lượn

Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi

Khổ thơ này là khát khao đến cháy bỏng của Xuân Diệu về thời gian, về cuộc đời, về
tuổi trẻ. Ông sống vội vàng, yêu vội vàng để không uổng phí những năm tháng của
tuổi trẻ. Cuộc sống này vẫn còn tươi đẹp, hãy tận hưởng, hãy hưởng thụ hết sự tươi
đẹp và viễn mãn đó. Đây chính là thông điệp mà Xuân Diệu muốn gửi đến người đọc.

Như vậy bài thơ “VỘi vàng” của Xuân Diệu với những hình ảnh đẹp và những khát
khao chát bỏng đã khiến cho người đọc chìm đắm vào đó và khó có thể thoát ra ngoài.

Phong cách thơ Xuân Diệu có sự kết hợp hiện đại với truyền thống

Trong thơ Xuân Diệu ta thấy ngôn ngữ vẫn có những từ cổ quen thuộc: buồn cô liêu,
người du tử, buồn tiêu tao, ta như cô khách… Nỗi niềm trân quý cuộc sống ấy đã
được chuyển háo vào thơ theo một cách rất riêng. Nhưng cái riêng ấy lại được tạo nên
từ cái quen thuộc. Đó là sự kết hợp của truyền thống phương Đông với tinh thần dân
chủ hiện đại của phương Tây. Xuân Diệu cũng mượn thiên nhiên để giãi bày nỗi lòng
của mình như các nhà thơ xưa dùng bút pháp tả cảnh ngụ tình. Nhưng cái ngụ tình
trong thơ Xuân Diệu lại mượn hình ảnh thiên nhiên quen thuộc gần gũi:

“Càng cao càng lạnh trao lôi,

Trên cung xanh vắng lạnh thôi mấy chừng!”

(Bụi mưa mờ cũ)

Đặc sắc nghệ thuật trong phong cách thơ Xuân Diệu

Trong thơ Xuân Diệu không chỉ mới mẻ về cách dùng từ, cách đặt câu, hình ảnh mới
mẻ mà còn mới ở cái cảm xúc ông mang đến cho người đọc. Ở thời đại Thơ mới, ông
thể hiện được cảm xúc mới mẻ, một nỗi niềm khát khao mới, một tình yêu mới, một
triết lý sống mới – một sức sống dạt dào, sôi nổi, đầy nhiệt huyết. Và không thể không
kể đến đó là một quan niệm nhân sinh mới.

Kho tàng thơ của ông rất đa dạng và phong phú, nhiều thể loại sáng tác, nhiều đề tài
mới lạ, nhiều sự phản ánh mà đó giờ chưa một nhà thơ nào lên tiếng. Không chỉ thế
ông còn đa dạng và phong phú trong cách dùng từ, cách sử dùng các hình ảnh một
cách hài hòa, sinh động. Và đặc biệt hơn hết là bút pháp nghệ thuật của ông luôn đặc
sắc, tạo được dấu ấn riêng trong lòng người đọc. Xuân Diệu quả nhiên xứng đáng với
danh xưng “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”.

Xuân Diệu là một trong những cái tên có sức hút mạnh mẽ trong nền thơ ca Việt Nam
hiện đại. Ở thi nhân, người ta tìm thấy sự giao cảm mãnh liệt với đời và người. Nếu
như trước Cách mạng tháng 8, Xuân Diệu được coi là gương mặt tiêu biểu nhất của
phong trào thơ ca lãng mạn và được mệnh danh là “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ
Mới”.

Khát vọng sống cùng khát vọng đổi mới thơ ca đã hòa quyện cộng hưởng nhuẫn
nhuyễn trong phong cách thơ Xuân Diệu để tạo nên tác phẩm nghệ thuật có giá trị.
Cũng như khát vọng sống mạnh mẽ, nhiệt tình và sôi nổi, cùng với phong cách thơ
Xuân Diệu đầy riêng biệt, thơ của thi sĩ sẽ tiếp tục hành trình trong cuộc sống hôm nay
cũng như mai sau.

MỘT SỐ ĐỀ THI HSG LIÊN QUAN ĐẾN BÀI THƠ VỘI VÀNG

Câu 2 (12 điểm).


“Nghệ thuật chỉ làm nên câu thơ, trái tim mới làm nên thi sĩ ” (Andre Chenien)
Anh (chị ) có đồng tình với quan điểm trên? Bằng những dẫn chứng tiêu biểu trong bài
thơ “Vội vàng ” của Xuân Diệu , anh (chị) hãy làm sáng tỏ.

Giải thích
– “Nghệ thuật” ở đây có thể hiểu là các yếu tố như : các biện pháp tu từ,
hình thức ngôn ngữ, các phương tiện biểu đạt…làm nên cái vỏ bên ngoài
của câu thơ.
– “Trái tim mới làm nên thi sĩ ” : Trái tim có thể hiểu là thế giới tâm hồn,
tình cảm, tâm tư của người sáng tác đã gửi gắm trong tác phẩm nghệ thuật
nói chung, trong thơ ca nói riêng. Chính tâm hồn, tình cảm, cảm xúc của thi
sĩ mới làm nên cái nội dung bên trong của câu thơ.
– Có đủ hai yếu tố “nghệ thuật” và “trái tim” thì câu thơ mới tồn tại. Chỉ có
hình thức nghệ thuật mà không có trái tim của thi sĩ thì không thể thành thơ.
Chỉ có trái tim mà không có nghệ thuật thì không thể có thơ hay được . Nhà
thơ Cuba José Marti nói: “Thiếu tình cảm thì có thể trở thành người thợ
làm những câu có vần, chứ không làm được nhà thơ”. Một câu thơ (một
tác phẩm văn chương) thật sự có giá trị khi hai yếu tố này kết hợp hài hoà
với nhau.

2. Chứng minh
– Lí luận về:
+ Vai trò của tình cảm trong thơ
+ Sự hài hòa giữa nội dung và hình thức của tác phẩm thơ
– HS sử dụng đúng dẫn chứng từ bài thơ “Vội vàng” để minh họa cho
luận điểm
VD:
+ Nghệ thuật: Phép so sánh độc đáo, dùng từ, dùng dấu câu…
+ Trái tim: Bài thơ được viết bằng tình yêu đời ham sống đến cuồng nhiệt ,
ham hố của Xuân Diệu. cảm xúc và nghệ thuật đã gắn bó hài hòa tạo sự
thăng hoa của ngòi bút “nhà thơ mới nhất trong những nhà thơ mới ”…

3. Bình luận
– Nhận xét của Andre Chenien đã khẳng định vai trò của tình cảm
trong thơ và sự hài hòa giữa nội dung và hình thức
– Là bài học cho người sang tác và người tiếp nhận văn học

Câu 2 (12 điểm)

Lamactin – nhà thơ Pháp tâm sự:

“Thế nào là thơ? Đó không phải chỉ là một nghệ thuật, đó là sự giải thoát của lòng
tôi”.

Anh/chị có suy nghĩ gì về lời tâm sự trên ? Bằng hiểu biết về bài thơ “Vội vàng”
(Xuân Diệu), hãy làm sáng tỏ những suy nghĩ của mình?

a. Giải thích:

– Thơ không chỉ là một nghệ thuật: thơ là nghệ thuật kì diệu nhất của ngôn ngữ, hấp
dẫn, lay động lòng người bởi cái đẹp của từ ngữ, hình ảnh, âm thanh, nhịp điệu…

– Thơ là sự giải thoát của lòng tôi: Thơ là tiếng nói tình cảm, tâm hồn của nhà thơ
với bao vui buồn, ước mơ, hi vọng…

-> Thơ không chỉ là sản phẩm kì diệu của nghệ thuật ngôn từ mà thơ là phương tiện
giai tiếp, bộc bạch tình cảm của người nghệ sĩ với đời.

Bàn luận, mở rộng


Ý kiến nói lên được đặc trưng cơ bản của thơ.
– Những nhà thơ lớn là những bậc thầy về ngôn ngữ, những bài thơ hay phải có ngôn
ngữ cô đọng, hàm súc, giàu cảm xúc, giàu sức gợi, hình ảnh đẹp, phong phú…

– Thơ chỉ tràn ra khi các cung bậc cảm xúc trong tâm hồn nhà thơ dâng trào cao độ,
đòi hỏi được giãi bày, chia sẻ, cảm thông…

– Thơ là tiếng nói tâm hồn nên thơ dễ lay động hồn người. Đó là tiếng lòng đi đến
những tấm lòng đồng điệu.

c. Chứng minh qua “Vội vàng” của Xuân Diệu


– Nghệ thuật: Bài thơ hay bởi những cảm xúc được biểu hiện trong một hệ thống
ngôn ngữ giàu tính nghệ thuật:
+ Hình ảnh thơ phá cách, mới lạ, độc đáo (Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;
Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi…)

+ Điệp từ, điệp ngữ, điệp cấu trúc sử dụng với mật độ dày đặc…

+ So sánh, đối lập…


– Nội dung:

+ Tiếng nói sôi nổi, mãnh liệt của một hồn thơ yêu đời ham sống, bởi những quan
niệm nhân sinh, quan niệm thẩm mĩ mới mẻ.

d. Đánh giá:

– Ý kiến đúng về tiêu chí về một bài thơ hay

– Những cảm xúc, tình cảm mãnh liệt chân thành, mang tính thẩm mĩ cùng sự sáng tạo
trong hình thức biểu hiện sẽ làm nên sức sống cho thơ

– Đó là bài học quý giá cho những người muốn trở thành thi sĩ, những người yêu thơ
muốn thâm nhập thế giới bí ẩn của thơ.

Câu II :
Nhà văn I.X Tuốc- ghê- nhép cho rằng: Cái quan trọng trong tài năng văn học là
tiếng nói của mình, là cái giọng riêng biệt của chính mình không thể tìm thấy trong
cổ họng của bất kì một người nào khác
.( Dẫn theo Khrapchenco. Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển văn học. Nhà
xuất bản tác phẩm mới, 1978).
Anh (chị) hãy bình luận ý kiến trên và làm sáng tỏ cái giọng riêng biệt của Xuân Diệu
qua một số bài thơ tiêu biểu.
Câu 2 :Bình luận ý kiến của nhà văn I.X Tuốc- ghê- nhép và làm sáng tỏ cái giọng
riêng biệt của Xuân Diệu qua một số bài thơ tiêu biểu
1 Giới thiệu vấn đề ( 1,0 điểm)
– Nhà văn I.X Tuốc- ghê- nhép cho rằng: Cái quan trọng trong tài năng văn học là
tiếng nói của mình, là cái giọng riêng biệt của chính mình không thể tìm thấy trong cổ
họng của bất kì một người nào khác.
– Xuân Diệu, nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới. Qua sáng tác của mình, ông đã
in được dấu vào nền văn học với một giọng riêng biệt, độc đáo hiếm thấy.
2 Giải thích ý kiến (2,0 điểm)
– Tài năng văn học: Khả năng văn học, sự giỏi giang, điêu luyện của người nghệ sĩ
ngôn từ trong sáng tạo nghệ thuật. Tài năng văn học còn là cách nói hoán dụ để chỉ
những nhà văn nhà thơ có tài.
– Nói : Là thể hiện thành lời một nội dung nào đó, giọng : Là cách phát âm, cách nói.
Tiếng nói của mình, cái giọng riêng biệt của chính mình : Là cách diễn đạt, cách thể
hiện độc đáo của một cá nhân về vấn đề nào đó.
– Không thể tìm thấy trong cổ họng của bất kì một người nào khác: Duy nhất, không
thể có người thứ hai giống mình.
=> Nhận định là cách nói hình ảnh có tính chất đúc kết về cái quan trọng của những tài
năng văn học lớn. Đó là: Một nghệ sĩ có tài phải là người có phong cách riêng độc
đáo, không lẫn với bất cứ ai, không giống với bất cứ người nào.
3 Bình luận ý kiến (3,0điểm)
– Phong cách nghệ thuật của nghệ sĩ là một cái gì đó bền vững, xuyên suốt, lặp đi lặp
lại trong các sáng tác trên cả hai phương diện nội dung và hình thức nghệ thuật. Nói
cách khác phong cách là biểu hiện tài nghệ của người nghệ sĩ ngôn từ trong việc đem
đến cho người đọc một cái nhìn mới mẻ chưa từng có về cuộc đời thông qua những
phương thức, phương tiện nghệ thuật mang đậm dấu ấn cá nhân người sáng tạo.
– Phong cách nghệ thuật biểu hiện ở cái nhìn có tính chất khám phá, ở giọng điệu
riêng biệt, ở hệ thống hình tượng, ở các phương diện nghệ thuật…
– Điều quan trọng trong tài năng của người nghệ sĩ là cái riêng biệt, độc đáo mà không
ai có thể bắt chước, làm theo. Đây vừa là yêu cầu, vừa là tiêu chuẩn để đánh giá vị trí
của nghệ sĩ ấy trên văn đàn. Cái riêng ấy sẽ giúp họ ghi được dấu ấn trên nền văn học,
được người đọc yêu mến, tôn vinh.
4 Phân tích một số bài thơ tiêu biểu của Xuân Diệu để làm rõ phong cách nghệ thuật
độc đáo của ông. (5,0 điểm)
– Thơ Xuân Diệu thể hiện đầy đủ nhất cho ý thức cá nhân của cái tôi thơ mới nhưng
đồng thời cũng mang đậm bản sắc riêng của cái tôi trong thơ Xuân Diệu. Đó là cái tôi
tích cực, mãnh liệt, lúc nào cũng thèm yêu, khát sống, khát khao tận hưởng, cống hiến
ngay trên thiên đường trần thế này. Cái tôi mang giọng điệu vồ vập, vội vàng, cuống
quýt…Dù khi vui hay khi buồn đều nồng nàn, tha thiết.
– Cái nhìn của Xuân Diệu là cái nhìn tình tứ nên thiên nhiên luôn hiện ra với vẻ đẹp
xuân tình.
– Thơ Xuân Diệu tiêu biểu cho tinh thần lãng mạn. Mỗi tiếng thơ như một cơn lũ cảm
xúc tuôn chảy, câu nọ gọi câu kia, hình ảnh này gọi hình ảnh kia trong một hơi thơ dồi
dào, lôi cuốn.
– Mỗi thi phẩm của Xuân Diệu đều có một cấu tứ khá chặt chẽ, không chỉ phơi trải
tình cảm một cách đơn thuần, thi sĩ còn đưa ra những quan niệm, những triết lí về tình
yêu, tuổi trẻ, hạnh phúc, thời gian…
– Xuân Diệu có những nỗ lực, có những cách tân thơ tiếng Việt bằng sự bền bỉ học hỏi
và vận dụng cấu trúc thơ phương Tây, sáng tạo những điệu nói, những cách nói mới,
phát huy được triệt để các giác quan trong cảm nhận.
Lưu ý: Học sinh chọn các bài thơ tiêu biểu như Vội vàng, Thơ duyên, Đây mùa thu
tới… để minh họa cho từng đặc điểm trên của phong cách thơ Xuân Diệu.
5 Đánh giá (1,0 điểm)
– Phong cách độc đáo chính là yếu tố quyết định tài năng và sức sống của tác phẩm
văn học.
– Xuân Diệu đã khẳng định được vị trí của mình trên văn đàn bởi giọng điệu riêng biệt
của chính mình mà không thể tìm thấy trong cổ họng của bất kì một người nào khác

TÁC GIẢ HÀN MẶC TỬ

Phong cách nghệ thuật thơ Hàn Mặc Tử

Ánh sáng khác thường Hàn Mặc Tử:

Hàn Mặc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí sinh ngày 22/9/1912. Nhà thơ là một hiện
tượng độc đáo có một không hai trong thi ca Việt Nam. Thơ của ông kế thừa sâu sác
nền Hán học truyền thống, nhưng cũng đầy những tìm tòi sáng tạo mới mẻ, tiếp nhận
và tiếp biến từ phương Tây.

Hàn Mặc Tử được xem là “vị chúa” trong ‘Trường thơ loạn”, không chỉ căn cứ vào
“Tuyên ngôn thứ nhất” của trường thơ mà bởi lẽ vị chủ soái này đã trung thành trong
sáng tác theo hướng điên loạn, đồng thời nhà thơ còn thể hiện tư tưởng sáng tác qua
lời tựa trong hai tập thơ “Điêu tàn ” của nhà thơ Chế Lan Viên và “Tinh huyết” của tác
giả Bích Khê, cũng như trong lời bạt tập thơ “Một tấm lòng ” của nhà thơ Quách Tấn.

Cuộc đời Hàn ngắn ngủi, thời gian dành cho thơ quá ít, nhưng thi sĩ Hàn Mặc Từ đã
trở thành một tác giả độc đáo, đặc sắc với hồn thơ “kì dị” (Hoài Thanh, Hoài Chân),
“bí ẩn” (Bích Thu), “lạ nhất” (Chu Văn Sơn)… như vậy phải nói rằng hiện tượng Hàn
Mặc Tử đã vượt ra ngoài khuôn khổ, thoát khỏi biên độ của cái thông thường, trở
thành cái khác thường, bước ra khỏi vòng nhân gian. Cuộc đời Hàn trở thành nguồn
cảm hứng sáng tác cho nhiều loại hình nghệ thuật như: âm nhạc, hội họa, điêu khắc,
sân khấu, điện ảnh.

Trong đời sống, văn học, thi sĩ Hàn Mặc Tử không chỉ được quan tâm trong nước, sự
nghiệp thơ Hàn trở thành một đối tượng nghiên cứu đầy mê hoặc và lôi cuốn, dẫn dụ
bao tâm hồn dam mê thơ ca vào vườn thơ của người. Hơn bảy mươi năm qua, hiện
tượng Hàn Mặc Tử đã là sự quan tâm đặc biệt và cho đến nay đã có hàng trăm công
trình, bài viết lớn nhỏ, nhiều cuộc hội thảo trên nhiều bình diện: thi pháp học, phong
cách học, ngôn ngữ học, văn hóa học,… về sự nghiệp văn chương của Hàn. Tuy nhiên
phải nói rằng những băn khoăn hoài nghi, những vỉa tầng sâu thẳm trong mỗi tập thơ
vẫn còn đó, thi nhân và những sáng tạo của thi nhân vẫn ẩn sâu trong thế giới hư ảo.

Cuộc đời ngắn ngủi ở kiếp nhân gian nhưng Hàn đã đi một con đường thơ dài và
tương đối trọn vẹn, từ thơ Đường luật với tập “Lệ Thanh thi tập ” đến Thơ mới với
những tập thơ: “Đau thương”, “Xuân như ý”; “Thượng thanh khí”; “cẩm châu duyên”;
hai vở kịch “Duyên kì ngộ,“Quần tiên hội”; tập thơ văn xuôi “Chơi giữa mùa trăng”…
cái thú vị của thơ Hàn là còn mới hơn cả Thơ mới.

Trong số những thi phẩm trên tập “Đau thương” (Điên) đạt đến một giá trị nghệ thuật
siêu việt, khắng định tên tuổi Hàn Mặc Tử sừng sững như ngày hôm nay. “Đau
thương” có ba phần: “Hương thơm”; “Mật đắng”; “Máu cuồng và hồn điên”.

Phong cách cá nhân:

Đọc thơ Hàn Mặc Tử ta bắt gặp một tâm hồn thiết tha yêu cuộc sống, yêu thiên cảnh,
yếu con người đến khát khao, cháy bỏng; một khát vọng sống mãnh liệt đến đau đớn
tột cùng. Trong thơ Hàn, nhiều bài thơ mang khuynh hướng siêu thoát vào thế giới
siêu nhiên, tôn giáo, nhưng đó là hình chiếu ngược của khát vọng sống, khát vọng giao
cảm với đời. Một số bài thơ cuối đời của thi sĩ họ Hàn còn đan xen những hình ảnh ma
quái – dấu ấn của sự đau đớn, giày vò về thể xác lẫn tâm hồn. Đó là sự khủng hoảng
tinh thần, bế tắc và tuyệt vọng trước cuộc đời:

“Ta còn trìu mến biết bao người


Vẻ đẹp xa hoa của một thời
Đầy lệ, đầy thương, đầy tuyệt vọng
Ôi! giờ hấp hối sắp chia phôi.”

(Trút linh hồn)


Hàn Mặc Tử trải nghiệm đau thương bằng cả tâm hồn lẫn thể xác, bằng cả điên lẫn
tỉnh, bằng cả mơ lẫn thực. Thơ được phóng xuất ra từ đấy, được phóng xuất ra như
thế. Trong ngồn ngữ và cả trong im lặng. Nguồn thơ đó băng ra từ tiếng kêu thống
thiết và lâm lụy của đời mà vẫn đầy yêu thương. “Cơn lâm lụy vừa trải qua dưới thế”
(Thánh nữ đồng trinh Maria).

Tuy nhiên, càng về cuối đời, thơ ông càng tha thiết, thanh thoát, an nhiên, chấp nhận,
không còn chất gào thét điên cuồng dữ dội như đã trút hết cơn “lâm lụy” nơi trần thế,
dọn sạch mình để chuẩn bị đi vào cõi vĩnh hàng viên mãn một vườn Xuân như ý, cầu
nguyện để lại “ra đời” làm một Á Thánh cưỡi “Phượng hoàng bay trong một tối trăng
sao ” (Đêm xuân cầu nguyện).

Biểu tượng Trăng, Hồn và Máu đã trở thành biểu tượng nghệ thuật bất biến, thường
trực và xuyên suốt trong thơ Hàn Mặc Tử. Từ lúc bắt đầu làm thơ cho đến những ngày
cuối đời ông, biểu tượng này đã theo ông bay lên “Trên thiên triều ngời chói vạn hào
quang”:

Để cho hoa gió thì thào


Để cho mây nước nôn nao
Quên câu thương nhớ rồi sao
Em ơi thế nghĩa là sao

Khi hương thơm kề lỗ miệng


Khi tình mới chạm vào nhau
Em ơi thế nghĩa là sao
Trăng đang nằm trên sóng cỏ

Cỏ đùa trăng đến bên ao


Trăng lại đẫm mình xuống nước
Trăng nước đều lặng nhìn nhau…
Đôi ta bắt chước thì sao ?

(Bắt Chước)

“Ta trút linh hồn giữa lúc đây


Gió sầu vô hạn nuôi trong cây
– Còn em sao chẳng hay gì cả?
Xin để tang anh đến vạn ngày.”

(Trút linh hồn)

Hay:

“Máu tim ta tuôn ra làm bể cả


Mà sóng lòng rồn rập như mây trôi
Sóng lòng ta tràn lan ngoài xứ lạ
Dâng cao lên, cao tột tới trên trời.”

(Biển hồn ta)


Ngôn ngữ thuần Việt được sử dụng một cách sáng tạo, được nâng lên một trình độ rất
cao nên rất “mới” nhưng cũng rất “Việt Nam”. Nói cách khác, Hàn Mặc Tử bao giờ
cũng dùng tiếng Việt một cách “đắt” và táo bạo nhất:

“Làn môi mong mỏng tươi như máu


Đã khiến môi tôi mấp máy thèm.
Từ lúc bóng em bỏ trái đào
Tới chừng cặp má đỏ au au
Tôi đều nhận thấy trong con mắt
Một vẻ ngây thơ và ước ao”

(Gái quê)

Mỗi bài thơ của Hàn Mặc Tử vừa mang cấu trúc chặt chẽ vừa vận động hết sức trôi
chảy và thường là rất mãnh liệt. Thơ ông khi thì như một dòng suối, nhưng thường thì
giống như một dòng thác, một vệt sao băng, chứng tỏ một khí lực thơ hết sức dồi dào
và nhất quán. Chính vì thế, ngươi đọc thơ Hàn Mặc Tử như bị một “ma lực” lôi cuốn
vào một dòng rung cảm sôi sục của tim và óc.

Hàn Mặc Tử đã đưa vào Thơ mới những sáng tạo độc đáo, những hình tượng ngôn từ
đầy ấn tượng, gợi cảm giác liên tưởng và suy tưởng phong phú. Ngoài bút pháp lãng
mạn, nhà thơ còn sử dụng bút pháp tượng trưng và yếu tố siêu thực.

Vai trò Hàn Mặc Tử đối vói công cuộc hiện đại hóa văn học dân tộc:

Thành công và hạn chế:

Thành công: Hàn Mặc Tử là một trong những nhà thơ tiên phong trong việc cách tân
thi pháp của phong trào Thơ mới. Ông đã góp phần làm cho nền văn học dân tộc phát
triển đa dạng hơn. Sự đóng góp tích cực của Hàn Mặc Tử phải kể đến việc lập nên “
Trường thơ loạn Bình Định”, mà ở đó thi sĩ họ Hàn là vị chủ soái.

Ma lực của “Thơ điên” mạnh mẽ đến nỗi cuốn hút được cả những nhà thơ tài ba của
thời đại Thơ mới đến nhập cuộc: Bích Khê và Chế Lan Viên, Quách Tấn, Yến Lan.
Một số nhà thơ đương đại cũng ít nhiều chịu ảnh hưởng của ‘Thơ điên ”, viết những
bài thơ “phá phách”, những câu thơ dữ dội kiểu Hàn Mặc Tử. “Thơ điên” còn là một
thành tựu đặc sắc vào bậc nhất của thi ca Việt Nam hiện đại mà Hàn Mặc Tử là người
có công đầu.

Hàn Mặc Tử – con người tài hoa nhưng bạc mệnh. Thi nhân ra đi khi còn quá trẻ và sự
nghiệp văn thơ cũng vừa mới bắt đầu. Tuy nhiên, dù chỉ có hon 10 năm từ khi chập
chững bước vào làng thơ cho đến khi rời xa cõi đời, Hàn Mặc Tử cũng đã kịp cho xuất
bản hơn 10 tập thơ với hàng chục bài thơ đặc sắc; không chỉ có vậy, thi nhân để lại
trong lòng hàng triệu người hâm mộ trên khắp mọi miền tình cảm mến thương và tiếc
nuối khôn nguôi.

Hạn chế: Sự nghiệp thơ ca của Hàn Mặc Tử là một tháp ngà kiêu sa, tráng lệ, ánh hào
quang của nó tỏa sáng chói lòa nhân thế… vì vậy những hình tượng thơ của người đời
khi khiến người đọc khó đến gàn, khó nắm bắt và có khi khó hiểu. Âu đó cũng có thể
được xem là những hạn chế nhất định của thơ Hàn.

VÀI NÉT VỀ THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT TRONG


BÀI THƠ “ĐÂY THÔN VĨ DẠ” CỦA HÀN MẶC TỬ
Hàn Mặc Tử là một hiện tượng thơ kì lạ vào bậc nhất của phong trào Thơ mới. Đọc
thơ Hàn thi sĩ ta bắt gặp một tâm hồn thiết tha yêu cuộc sống, yêu thiên cảnh, yêu con
người đến khát khao, cháy bỏng; một khát vọng sống mãnh liệt đến đau đớn tột cùng.
Trong thơ Hàn, nhiều bài thơ mang khuynh hướng siêu thoát vào thế giới siêu nhiên,
tôn giáo…nhưng đó là hình chiếu ngược của khát vọng sống, khát vọng giao cảm với
đời. Một số bài thơ cuối đời của thi sĩ họ Hàn còn đan xen những hình ảnh ma quái-
dấu ấn của sự đau đớn, giày vò về thể xác lẫn tâm hồn. Đó là sự khủng hoảng tinh
thần, bế tắc và tuyệt vọng trước cuộc đời. Nhưng dù được viết theo khuynh hướng
nào, thơ Hàn Mặc Tử vẫn là những vần thơ trong sáng, lung linh, huyền ảo, có một ma
lực với sức cuốn hút diệu kì đối với người yêu thơ Hàn Mặc Tử.
Hàn Mặc Tử là một trong những nhà thơ tiên phong trong việc cách tân thi pháp của
phong trào Thơ mới. Thế giới nghệ thuật trong thơ Hàn Mặc Tử là một thế giới đa
dạng, nhiều sắc màu. Hàn Mặc Tử đã đưa vào Thơ mới những sáng tạo độc đáo,
những hình tượng ngôn từ đầy ấn tượng, gợi cảm giác liên tưởng và suy tưởng phong
phú. Ngoài bút pháp lãng mạn, nhà thơ còn sử dụng bút pháp tượng trưng và yếu tố
siêu thực.
Tiếp cận với thế giới nghệ thuật trong thơ Hàn Mặc Tử là cảm nhận được tính hàm
súc, mới lạ của ngôn từ, hình ảnh thơ; tính đa nghĩa, tạo sinh của văn bản thơ; tính
điêu luyện trong cách tổ chức, cấu trúc tác phẩm và tính mơ hồ, khó hiểu. Bài thơ
“Đây thôn Vĩ Dạ” có thể xem là một chủ âm trong cây đàn thơ muôn điệu của
Hàn Mặc Tử, là một thi phẩm xuất sắc của thi đàn Thơ mới. Tìm hiểu thế giới nghệ
thuật của bài thơ sẽ giúp người đọc hoá giải được phần nào lòng yêu đời, yêu cuộc
sống mãnh liệt nhưng đầy uẩn khúc của hồn thơ Hàn Mặc Tử.
Thế giới nghệ thuật là chỉnh thể của hình thức văn học. Văn bản ngôn từ xét về một
mặt chỉ là biểu hiện của hình thức bề ngoài của tác phẩm. Tác phẩm trọn vẹn xuất hiện
như một thế giới nghệ thuật, một khách thể thẩm mĩ. Dùng từ “thế giới” để chỉ tác
phẩm văn học là có cơ sở khoa học, bởi thuật ngữ “thế giới nghệ thuật” thoã mãn các
ý nghĩa của khái niệm “thế giới”: chỉ sự thống nhất vật chất của các biểu hiện đa dạng;
có giới hạn về không- thời gian; phạm vi tác động của các qui luật chung, chứng tỏ có
một trật tự thống nhất cho toàn bộ; có tính đầy đủ về các qui luật nội tại; là một kiểu
tồn tại, thực tại.
Thế giới nghệ thuật là sản phẩm sáng tạo của con người. Tuy nhiên, việc xác định thế
giới nghệ thuật như thế nào thì chưa có ý kiến thống nhất. Từ khái niệm “thế giới” nêu
trên có thể hiểu “thế giới nghệ thuật” là sản phẩm sáng tạo của người nghệ sĩ chỉ có
trong tác phẩm văn học nói riêng và trong tác phẩm nghệ thuật nói chung, trong cảm
thụ của người tiếp nhận, ngoài ra không tìm thấy ở đâu cả. Thế giới nghệ thuật mang
tính cảm tính, có thể cảm thấy được và là một kiểu tồn tại đặc thù trong chất liệu và
trong cảm nhận của người thưởng thức, là sự thống nhất của mọi yếu tố đa dạng trong
tác phẩm. Tóm lại, thế giới nghệ thuật hiểu một cách khái quát là tập hợp tất cả các
phương thức, hình thức nghệ thuật biểu hiện mà nhà văn sử dụng để phản ánh và sáng
tạo hiện thực.
Để tìm hiểu thế giới nghệ thuật trong “Đây thôn Vĩ Dạ”, thiết nghĩ cũng nên cần trở lại
một số vấn đề có liên quan đến bài thơ :
Hồi còn làm ở Sở Đạc điền Bình Định, Hàn Mặc Tử có một mối tình đơn phương với
Hoàng Thị Kim Cúc- con gái của chủ sở, người Huế. Mối tình chưa được mặn nồng
thì Hàn Mặc Tử vào Sài Gòn làm báo nhưng lòng vẫn nuôi hy vọng ở mối tình đơn
phương đó. Khi trở lại Qui Nhơn thì Hoàng Cúc đã theo cha về ở hẳn ngoài Huế nên
thi sĩ rất đau khổ. Về sau khi biết Hàn mắc bệnh hiểm nghèo phải xa lánh mọi người
để chữa bệnh, Hoàng Cúc đã gửi vào cho Hàn một tấm thiếp kèm vài lời động viên.
Tấm thiếp là bức phong cảnh in hình dòng sông với hình ảnh cô gái chèo thuyền bên
dưới những cành trúc loà xoà, phía xa xa là ráng trời, có thể là rạng đông hay hoàng
hôn. Nhận được tấm thiếp ở một xóm vắng Bình Định- nơi cách li để chữa bệnh- xa
xứ Huế. Hàn Mặc Tử đã nghẹh ngào. Tấm thiếp như một chất xúc tác tác động mạnh
mẽ đến hồn thơ Hàn Mặc Tử. Những ấn tượng về xứ Huế đã thức dậy cùng với niềm
yêu đời vô bờ bến. Thi sĩ liền cất bút viết bài thơ này trong một niềm cảm xúc dâng
trào.
Nội dung tự thân của bài thơ đã vượt ra khuôn khổ của một kỉ niệm riêng tư. Được gợi
hứng từ tấm thiếp nhưng bài thơ không đơn thuần là những lời vịnh cảnh, vịnh người
từ tấm thiếp mà đó là tiếng lòng đầy uẩn khúc của một tình yêu cháy bỏng nhưng vô
vọng; một niềm khao khát sống, thiết tha gắn bó với cuộc đời, nhất là lúc nhà thơ đang
mắc phải căn bệnh hiểm nghèo.
Đến với thế giới nghệ thuật của bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” là đến với một thế giới nghệ
thuật đầy cá tính sáng tạo, mang những nét riêng cá tính và dị biệt của một hồn thơ
đau thương, đa sầu, đa cảm trước thiên nhiên, cuộc sống và con người.
Trước tiên nhìn từ góc độ không- thời gian nghệ thuật, bài thơ liên kết với nhau không
tuân theo tính liên tục của thời gian và tính duy nhất của không gian: cảnh vườn thôn
Vĩ tươi sáng trong ánh nắng mai với cảnh sắc bình dị mà tinh khôi, đơn sơ mà thanh
tú, nghiêng về cảnh thực; cảnh sông nước đêm trăng huyền ảo, thực hư xen lẫn vào
nhau chập chờn chuyển hoá và hình bóng “khách đường xa” nơi chốn sương khói
mông lung, cảnh chìm trong mộng ảo. Không- thời gian nghệ thuật của bài thơ được
sáng tạo mang tính chủ quan gắn với tâm lí và cảm quan của nhà thơ.
Thời gian trong bài thơ tồn tại không có tính liên tục, bị đứt nối, ngắt quãng: cảnh thôn
Vĩ vào buổi sớm tinh mơ- cảnh sông nước đêm trăng và cuối bài thơ chỉ còn là thời
gian vô thức, không xác định. Thời gian trong “Đây thôn Vĩ Dạ” như một dòng chảy
trôi những đứt nối của một nỗi niềm thiết tha gắn bó với đời, khát vọng sống đến khắc
khoải.
Thời gian nghệ thuật là một biểu tượng thể hiện một quan niệm thẩm mĩ của nhà văn
về cuộc đời và con người. Thời gian trong “Đây thôn Vĩ Dạ” đã thể hiện quan niệm
của Hàn Mặc Tử về thế thái nhân sinh. Cuộc đời là một chuỗi thời gian đứt gãy, chắp
nối và cuối cùng tan vào hư vô. Mở đầu bài thơ, thời gian bắt đầu một ngày mới “Nhìn
nắng hàng cau, nắng mới lên”, cảnh vật tràn đầy sức sống. Thời gian thường vận động
theo dòng vận động tuyến tính, một chiều. Thế nhưng, nét khác là thời gian trong bài
thơ không liên tục mà ngắt quãng. Thời gian mở đầu là buổi sớm tinh khôi nhưng đột
ngột chuyển sang đêm trăng đầy mong ngóng, lo âu, buồn đến nao lòng và kết thúc
trong thời gian mộng ảo, không xác định. Sự đứt nối thời gian trong bài thơ như một
nỗi niềm tâm sự của nhà thơ về cuộc đời và kiếp sống mong manh, đứt đoạn của con
người, của Hàn Mặc Tử- một kiếp người dang dở tình duyên và sự nghiệp văn
chương.
Thời gian của bài thơ không mang tính liên tục còn không gian lại không tuân theo
tính duy nhất. Không gian trong “Đây thôn Vĩ Dạ” là không gian của sự chia lìa.
Không gian nghệ thuật trong tác phẩm văn học là mô hình thế giới độc lập, có tính chủ
ý và mang ý nghĩa tượng trưng của tác giả, là không gian tinh thần của con người, là
không gian sống mà con người cảm thấy trong tâm tưởng. Không gian nghệ thuật là
loại không gian topos, là không gian cảm giác được, là không gian nội cảm chứ không
phải như không gian mặt phẳng kiểu Euclid. Không gian nghệ thuật là sản phẩm sáng
tạo của người nghệ sĩ nhằm biểu hiện con người và thể hiện một quan niệm nhất định
về cuộc sống. Do đó không thể quy không gian trong “Đây thôn Vĩ Dạ” về không gian
địa lí hay không gian vật lí, vật chất.
Không gian trong bài thơ là không gian xứ Huế và không gian một vùng quê Bình
Định xa vời, cách trở, huyền hồ ”mờ nhân ảnh”. Hai không gian nhuốm màu cách biệt
như mối tình đơn phương dang dở cuả Hàn- Hoàng khiến ta chạnh lòng nhớ lại hai
không gian li biệt khi Thúc Sinh từ biệt Thuý Kiều- một cuộc chia li đầy xót xa, đau
đớn:
Người lên ngựa, kẻ chia bào,
Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san.
Nhưng dù sao Hàn Mặc Tử vẫn đợi chờ và nuôi mầm hi vọng cho mối tình tuyệt vọng
ấy. Hai không gian xa xôi, ngăn cách ấy không phải vì không gian địa lí mà đó là sự
cách trở của hai tâm hồn, là nỗi niềm thổn thức của Hàn thi sĩ. Không gian ở đây được
soi chiếu qua lăng kính cảm xúc chủ quan của nhà thơ.
Tóm lại, cả bài thơ liên kết với nhau không theo một trật tự nào của không gian và thời
gian. Nhưng về mạch cảm xúc thì vận động nhất quán trong cùng dòng tâm tư: Đó là
lòng yêu đời, lòng ham sống mãnh liệt nhưng đầy uẩn khúc của một hồn thơ, lòng
thiết tha với cảnh vật, với con người và cuộc sống. Vì thế, bố cục tuy có vẻ “đầu Ngô
mình Sở”nhưng lại liền mạch, liền khổ. Đây là một nét độc đáo của tác phẩm.
Thế giới nghệ thuật trong bài thơ còn thể hiện ở sự lựa chọn và sử dụng các phương
tiện ngôn ngữ nghệ thuật để miêu tả hiện thực và nội tâm một cách sinh động và sâu
sắc. Mở đầu bài thơ, tác giả đã khai thác có hiệu quả biện pháp tu từ truyền thống -Câu
hỏi tu từ :
Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên.
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc,
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” là một câu hỏi có nhiều sắc thái: vừa hỏi han, vừa
hờn trách, vừa nhắc nhở, vừa mời mọc. Câu hỏi như xoáy sâu vào nỗi đau trong lòng
nhà thơ- một người đang mang căn bệnh hiểm nghèo, bế tuyệt trước tình yêu và cuộc
sống- biết bao giờ được quay gót trở về thôn Vĩ tươi đẹp, thơ mộng. Nơi đã để lại
trong kí ức nhà thơ những dấu chân kỉ niệm với biết bao hình ảnh nên thơ, gợi cảm.
Thôn Vĩ là nơi Hàn Mặc Tử thường lui tới khi còn là học sinh trường Pellerin ở Huế.
Hơn thế nữa, nơi ấy Hàn đang ấp ủ một mối tình tuyệt vọng. Chính vì vậy, việc trở về
thăm thôn Vĩ như một sự thôi thúc bên trong tâm hồn nhà thơ nhưng biết khi nào ước
mơ ấy hoá thành hiện thực.
Hình tượng chủ thể trong câu thơ trên là “cái tôi” li hợp, bất định ( vừa là mình, vừa
phân thân ra cùng một lúc nhiều mình khác nữa ). Tác giả đang tự phân thân để hỏi
chính mình về một việc đáng ra phải thực hiện từ lâu nhưng giờ đây không biết có còn
cơ hội nữa không. Sự phân thân và những sắc thái tình cảm phức hợp hoà trộn vào
nhau trong cùng một câu hỏi làm cho niềm ao ước được trở về thôn Vĩ vừa mãnh liệt,
vừa uẩn khúc, khó giãi bày. Nghĩa là ao ước đấy song cũng đầy mặc cảm.
Ở khổ hai của bài thơ, câu hỏi tu từ lại tiếp tục xuất hiện như một dấu nhấn cảm xúc,
tâm trạng:
Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay.
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó,
Có chở trăng về kịp tối nay?
Câu hỏi ở cuối khổ thơ có ngữ điệu hỏi thể hiện trong các từ “Thuyền ai”…
“đó”…”có chở”…”kịp”…Ngữ điệu hỏi ấy toát lên một niềm hi vọng đầy khắc khoải,
phấp phổng trong tâm trạng.
Khổ cuối của bài thơ lại xuất hiện một câu hỏi tu từ như một lời ướm hỏi đậm nét hoài
nghi:
Mơ khách đường xa, khách đường xa,
Áo em trắng quá nhìn không ra.
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh,
Ai biết tình ai có đậm đà?
Câu hỏi là niềm hoài nghi về sự đậm đà trong tình cảm của ”ai” đó đối với Hàn Mặc
Tử. Chữ “ai” thứ nhất là chủ thể- tác giả. Chữ “ai” thứ hai có thể hiểu theo nghĩa hẹp
là “khách đường xa” nhưng có thể mở rộng ra là những người tình trong cõi mộng,
thoắt ẩn, thoắt hiện trong tâm trí của Hàn Mặc Tử. Ở đây không phải là nhà thơ
“không tin” mà là “không dám tin” cho tình ai có đậm đà thì đúng hơn. Không tin thì
nghiêng về thái độ lạnh lùng, không mong đợi gì, còn không dám tin thì vẫn còn bao
hàm cả một hi vọng sâu kín.
Qua những câu hỏi tu từ rải dọc dọc suốt chiều dài bài thơ, ta như cảm nhận được diễn
biến tâm trạng của Hàn Mặc Tử từ ao ước, đắm say đến hoài vọng, đợi chờ và mơ
tưởng, hoài nghi để cuối cùng sầu muộn và bi quan, yếm thế. Tất cả chỉ là những cung
bậc khác nhau nhưng cốt lõi vẫn là một nỗi niềm thiết tha giao cảm với đời, với con
người. Đó là những cảm xúc lành mạnh của một tâm hồn trong trẻo chứ không chán
chường đập phá, tiêu cực.
Nhìn chung đây không phải là những vần thơ trao- đáp. Hỏi chỉ là hình thức trình bày
nỗi niềm tâm trạng. Các câu hỏi được phân bố khắp toàn bài. Vì thế, âm điệu bài thơ
bị chi phối bởi ngữ điệu của những câu hỏi ấy. Cảm xúc trong bài thơ phần lớn đã
được chuyển vào âm điệu của những câu hỏi.
Trong thế giới nghệ thuật của tác phẩm văn học không chỉ có yếu tố ngôn từ mà còn
có cả thế giới được miêu tả theo các nguyên tắc nghệ thuật. Đến với thế giới nghệ
thuật của “Đây thôn Vĩ Dạ”, ta bắt gặp hàng loạt những hình ảnh đầy chất thơ và giàu
sức gợi cảm.
Mở đầu bài thơ là hình ảnh thật giản dị, mộc mạc, gần gũi với biết bao làng quê Việt
“Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên…”. Hình ảnh ấy hiện lên trước tiên trong kí ức
nhà thơ bởi nơi ấy đong đầy kỉ niệm của một thời cắp sách mà Hàn Mặc Tử không thể
xoá nhoà và nơi đây cũng là quê hương của người tình trong mộng- Hoàng Cúc. Vì
thế, cảnh vật cũng gợi nhớ, gợi thương, gợi sự trắc trở, uẩn khúc trong lòng nhà thơ.
Hình ảnh quen thuộc ấy như những con sóng xô bờ khơi đậy nỗi nhớ Vĩ Dạ đến cồn
cào, da diết.
Hình ảnh “Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên” sao lại soi chiếu đầu tiên vào cảm quan
tác giả và có sức lan toả mạnh mẽ như vậy? Có phải chăng đó là hình ảnh tinh thanh
nhất của làng quê xứ Huế? So sánh với hình ảnh “nắng” trong bài “Mùa xuân chín”:
Trong làn nắng ửng, khói mơ tan…/ Dọc bờ sông trắng, nắng chang chang…thì
“nắng” ở đây được miêu tả một cách trực quan nên gây ấn tượng mạnh đối với người
đọc. Riêng ánh nắng trong “Đây thôn Vĩ Dạ”chỉ gợi chứ không tả nhưng vẫn có sức
lôi cuốn, hấp dẫn bởi nó gián tiếp gợi tả vẻ đẹp tinh khôi, thanh khiết, thanh thoát của
ánh nắng và cảnh thiên nhiên buổi sớm. Sáng sớm, cau là thứ cây đầu tiên trong vườn
được nhận những tia nắng ấm áp, tinh khôi nhất. Sau một đêm đắm mình trong sương
lạnh, những hàng cau xanh như được tắm trong làn nắng ấm long lanh và trở nên tinh
khiết hơn. Thân cau mảnh mai vươn vào bầu trời trong xanh in bóng xuống mảnh
vườn quê với dáng điệu thật thanh thoát.
Hình ảnh mở đầu bài thơ thật tươi sáng, thật thơ mộng. Thế nhưng sang khổ hai đột
ngột xuất hiện những hình ảnh gợi sự chia lìa, li tán, khác thường:
Gió theo lối gió, mây đường mây,
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay.
Hình ảnh thơ thoạt nhìn đã thấy ngay sự phi lí. Theo logic hiện thực thì mây, gió làm
sao có thể tách rời nhau. Gió có thể bay “theo lối gió” nhưng mây làm sao có thể tự
bay theo lối riêng của mình. Thế mà gió và mây như những cánh lục bình trôi tan tác
trên dòng sông. Sự chia phôi này thật ngang trái và phi lí đến mức khó hiểu.Chính sự
chia li này làm cho dòng nước buồn man mác và hoa bắp cũng lay động nghẹn ngào.
Tại sao Hàn thi sĩ lại khắc hoạ một hình ảnh như thế? Nhà thơ sáng tạo nên hình ảnh
thơ ấy không phải bằng giác quan mà bằng cái nhìn mặc cảm: mặc cảm của sự chia
lìa. Nhà thơ mang nặng mặc cảm của một người gắn bó sâu nặng với cuộc đời, khát
vọng được sống và được yêu hết mình nhưng lại sắp sửa phải chia tay với cuộc sống
bởi căn bệnh nan y nên cảm nhận tất cả đều chia lìa, vỡ vụn. Thậm chí những ước
vọng tưởng chừng nằm trong tầm tay nhưng đã vuột mất để lại trong tâm hồn nhà thơ
một khoảng trống vô biên của nuối tiếc và tuyệt vọng.
Về nhịp điệu, câu thơ “Gió theo lối gió, mây đường mây…” cũng có cách ngắt nhịp
khác thường. Câu thơ thất ngôn thường ngắt nhịp 2/2/3 nhưng lại được ngắt nhịp 4/3.
Mỗi hình ảnh bị chia cách trong một khuôn nhịp riêng biệt càng làm tăng thêm sự
ngăn cách. Hình ảnh và nhịp điệu câu thưo như hoà quyện vào nhau tạo nên không khí
đau buồn của cuộc chia li giữa mây và gió hay nỗi buồn đau trong tâm tưởng nhà thơ.
Nếu phần đầu khổ thơ là hình ảnh cách trở thì phần cuối khổ thơ là những hình ảnh
đẹp đẽ, nên thơ với tâm trạng mong chờ, thấp thỏm , lo âu:
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó,
Có chở trăng về kịp tối nay?...
Hình ảnh “sông trăng”, “thuyền trăng” thật giàu chất thơ. Hiệu quả nghệ thuật của câu
thơ là tạo nên không khí mơ hồ, thực hư chập chờn chuyển hoá cho nhau khá thơ
mộng. Nhưng vẻ đẹp của trăng chưa phải là hình ảnh mang dấu ấn thật sự riêng biệt
của Hàn Mặc Tử. Chính ý nghĩa của hình tượng “trăng” mới là dấu ấn in đậm trong
tâm thức người đọc. Trong khổ thơ, tất cả hình ảnh đều gợi khái niệm phiêu tán. Tất cả
đều bị trôi chảy về tận cuối trời xa khiến nhà thơ cảm thấy như mình bị bỏ rơi bên bờ
sông quên lãng. Trong khoảnh khắc ( moment ) lạc lõng, bơ vơ, cô đơn ấy, Hàn Mặc
Tử chỉ còn biết bầu bạn cùng trăng như một niềm an ủi cuối cùng. Trăng giờ đây là
điểm tựa tinh thần của nhà thơ. Cho nên, thi sĩ đặt hết niềm hi vọng vào trăng, vào con
thuyền chở trăng có về kịp tối nay để xoa dịu vết thương lòng của Hàn Mặc Tử. Trong
khổ thơ chỉ có vầng trăng không chấp nhận sự chảy trôi vô lí ấy mà trở về kết bạn tri
âm cùng thi sĩ. Nhưng tiếc thay cuối đời vầng trăng thơ ấy cũng không làm nguôi
ngoai nỗi sầu của Hàn Mặc Tử nên nhà thơ đành ngậm ngùi chia tay trong đau đớn,
xót xa và hờn trách “Ai mua trăng, tôi bán trăng cho?...”
Thuyền có chở trăng về kịp tối nay như một sự cảm nhận ngắn ngủi về thời gian và
không gian, sống như chạy đua với những giây phút còn lại của cuộc đời. Cũng chạy
đua với thời gian nhưng tâm thế của cái tôi Xuân Diệu lại khác. Xuân Diệu nhận ra cái
chết luôn đang chờ mỗi người ở cuối con đường huỷ diệt nên cần sống và tận hưởng
men nồng của tình yêu trong “Vội vàng”:
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn,
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều…
Đối với Hàn Mặc Tử cái chết đã cận kề, chỉ được sống và yêu không thôi là một niềm
hạnh phúc quá lớn lao. Vì vậy, chữ “kịp” nghe ngắc ngoải, lo âu, đầy xót thương.
Trong “Đây thôn Vĩ Dạ” có một nét phong cách đặc thù là cực tả. Ngôn từ của nhà thơ
thường có thiên hướng miêu tả ở mức cực điểm. Ở khổ 1 tác giả cực tả về sắc xanh kì
lạ của vườn quê Vĩ Dạ “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”.
Trong quan niệm của Hàn Mặc Tử, trinh bạch, tinh khiết là vẻ đẹp lí tưởng mà nhà thơ
say mê, khao khát. Trong thơ của Hàn thi sĩ, vẻ đẹp ấy thường hiện ra trong sắc trắng
lạ lùng. Sắc trắng loá của tà áo người thiếu nữ mà nhà thơ mơ tưởng hay bờ sông trắng
nắng chang chang. Có thể nói vấn đề tạo hình là phương thức biểu hiện chủ đạo tạo
nên sắc thái biểu cảm trong thơ Hàn Mặc Tử. Với thế giới các hình ảnh nên thơ, huyền
hoặc, đầy sức quyến rũ phần nào đã giúp người đọc cảm nhận được những rung động,
những cung bậc khác nhau trong tâm hồn và cảm xúc lạ thường của nhà thơ được bộc
lộ qua nghệ thuật ngôn từ.
Hàn Mặc Tử đã đi xa nhưng con đường thơ ca của nhà thơ vẫn còn đó, vẫn còn mới
mẻ, tinh khôi. Đến với: Gái quê, Đau thương, Xuân như ý, Thượng thanh khí, Chơi
giữa mùa trăng…ta như lạc vào một vườn thơ đầy hương sắc của một hồn thơ luôn
yêu đời, yêu cuộc sống. “Đây thôn Vĩ Dạ” là một thông điệp tình yêu đối với thiên
nhiên, với con người và cuộc sống đầy lãng mạn nhưng cũng đầy tuyệt vọng.
Thế giới nghệ thuật trong “Đây thôn Vĩ Dạ” nói riêng và trong toàn bộ sự nghiệp văn
thơ của Hàn Mặc Tử nói chung là một thế giới đa âm sắc, đầy cá tính sáng tạo, mang
tính truyền thống về đề tài nhưng cách tân, hiện đại trong câu chữ, nghệ thuật tạo nên
những nét lạ thường, độc đáo. Trong “Đây thôn Vĩ Dạ”, người đọc nhận ra dạng kết
cấu vừa đứt đoạn, vừa liên kết, nhất quán của mạch thơ. Hình ảnh thơ mộc mạc, giản
dị nhưng sắc nét.
Với thế giới nghệ thuật ấy, Hàn Mặc Tử đã có những đóng góp mới lạ, tạo một phong
cách riêng, một thi pháp riêng, một quan niệm nghệ thuật riêng cho làng thơ Bình
Định thời bấy giờ với cái tên đày ấn tượng: “Trường thơ loạn”. “Đây thôn Vĩ Dạ” đã
trải qua bảy mươi năm thăng trầm cùng lịch sử văn học nhưng nó vẫn giữ nguyên giá
trị. Đây cũng là một trong những bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ Hàn Mặc Tử đầy tài
năng mhưng tiếc thay đoản mệnh!

MỘT SỐ ĐỀ THI LIÊN QUAN ĐẾN BÀI THƠ ĐÂY THÔN VĨ DẠ


Câu 1: “Thơ không cần nhiều từ ngữ, nó cũng không quan tâm đến hình xác sự sống.
Nó chỉ cần cảm nhận và chuyển đi một chút linh hồn của cảnh vật thông qua linh hồn
thi sĩ”

(Nguyễn Đăng Mạnh)

Anh chị hiểu ý kiến trên thế nào? hãy làm rõ qua bài thơ “Đây Thôn Vĩ Dạ” của Hàn
Mặc Tử.

“Bài thơ anh, anh làm một nửa mà thôi

Còn một nửa để mùa thu làm lấy

Cái xào xạc hồn anh chính là xào xạc lá

Nó không là anh nhưng nó là mùa thu”

(Chế Lan Viên)

Tâm hồn người thi sĩ lúc nào cũng xôn xao cũng đa cảm như tiếng lá lao xao của mùa
thu vậy, luôn nặng trĩu tâm sự và cảm xúc ,có như vậy bài thơ mới mang sức gợi biểu
đạt được những tâm tư tình cảm sâu kín mà thi sĩ khó có thể nói thành lời . Giáo sư
Nguyễn Đăng Mạnh đã từng nhận xét về thơ rằng: “thơ không cần nhiều từ ngữ nó
cũng không quan tâm đến hình xác của sự sống nó cũng chỉ cần cảm nhận và truyền đi
một chút linh hồn của cảnh vật thông qua linh hồn thi sĩ”.Điều này được thể hiện rõ
nét qua bài thơ “Đây Thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử một bài thơ rất giàu hình ảnh và
giàu cảm xúc.

Giải thích ý kiến của GS .Nguyễn Đăng Mạnh về thơ


Huy Trực từng nói thơ là rượu của thế gian, thơ có thể khiến con người ta say mê ngây
ngất, thơ có sức quyến rũ lớn như vậy nhưng Thơ không cần nhiều từ ngữ. Bởi vì thơ
luôn ngắn gọn xúc tích nhưng lại hàm chứa nhiều ý nghĩa sâu xa và giàu lòng trắc ẩn,
thơ không quan tâm đến hình xác của sự sống, tức là thơ không miêu tả chi tiết cặn kẽ
cụ thể của sự việc mà thơ chỉ cần cảm nhận và truyền đi một chút linh hồn của cảnh
vật thông qua linh hồn thi sĩ, nghĩa là thơ phải được viết nên từ cảm xúc chân thực về
những rung động trái tim, những giao cảm tâm hồn của người nghệ sĩ với vạn vật “thơ
chính là tâm hồn” (M.Gorki). Vì thế trong sáng tác thơ ca người nghệ sĩ không chú
trọng vào miêu tả chi tiết từng chút một mà chỉ cốt làm sao nắm được cái hồn, cái cốt
của sự vật thông qua từ ngữ hình ảnh, vần nhịp của bài thơ.

Ý kiến của giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh muốn đề cập đến đặc trưng của thơ ca và sứ
mệnh của nhà thơ trong việc truyền tải cảm hứng đến người đọc qua tác phẩm của
mình.

“Thơ là thơ, đồng thời là họa là, nhạc” (Sóng Hồng) vì vậy mà thơ luôn có sức hấp
dẫn mạnh mẽ đến mọi người. Thơ ngắn gọn súc tích nhưng qua mỗi câu chữ lại toát
lên rất nhiều điều mà không thể hiện ra bên, ngoài ẩn ý đó buộc người đọc phải suy
nghĩ cảm nhận những tâm tư của tác giả trong hoàn cảnh sáng tác bài thơ, tưởng tượng
ra khung cảnh mà nhà thơ gây dựng lên qua câu, chữ, từ đó hút lấy cái thần thái, cái
hồn của sự vật, cái hồn của sự vật đó phải được vẽ lên từ cái hồn và tài năng của thi sĩ.
Nhà thơ phải là người có trái tim sống, từ đó nhà thơ mới cảm nhận được từng chút
mơn trớn, man mác trong sự vật xung quanh, từ đó nhà thơ nắm bắt lấy cái hồn của sự
vật và dùng tài năng của mình giúp người đọc cũng có những rung cảm sâu sắc với
cuộc đời, với mọi điều xung quanh như mình đã từng. Âm nhạc sử dụng giai điệu tiết
tấu hội họa dùng đường nét màu sắc còn thơ ca muốn toát lên được cái hồn nơi sự vật
cần phải có ngôn ngữ giàu sức gợi hình ảnh đặc sắc gây nhiều liên tưởng và người
thưởng thức thơ ca phải cảm nhận được nét đặc trưng cái ý vị của thơ Đây thôn Vĩ Dạ
là một bài thơ giàu sức gợi và tạo nhiều cảm xúc trong lòng người đọc.

Phân tích bài Đây Thôn Vĩ Dạ để chứng minh nhận định


Hàn Mặc Tử là một nhà thơ nổi tiếng khởi đầu cho dòng lãng mạn Việt Nam, là người
khởi xướng ra trường thơ loạn. Mặc dù là người có tài năng và tình yêu cuộc sống sâu
sắc nhưng Hàn Mặc Tử đã không có cơ hội tận hưởng hết tuổi trẻ tươi đẹp của mình
khi mới 23 tuổi, cái tuổi còn rất say mê với đời đang tràn đầy sức sống thì Hàn Mặc
Tử mắc căn bệnh hiểm nghèo mà bấy giờ không có thuốc chữa. Sau 5 năm vật lộn
trong đau đớn với bệnh tật ông đã ra đi trong khi sự nghiệp văn học còn dang dở, cuộc
đời còn lưng chừng, bài thơ Đây Thôn Vĩ Dạ được viết khi tác giả đang nằm trên
giường bệnh chống chọi với sự giằng xé về cả tâm hồn lẫn thể xác. Đây Thôn Vĩ Dạ là
bài thơ hay, giàu hình ảnh, giàu liên tưởng và chứa đựng những suy tư của tác giả.

Leonardo Devinci từng nói thơ là một bức họa để cảm nhận thay vì để ngắm, qua ngôn
ngữ hình ảnh và cách diễn đạt nhà thơ vẽ lên trước mắt người đọc những điều đẹp đẽ
giúp họ tưởng tượng một cách dễ dàng về phong cảnh sự việc và con người. Khổ thơ
đầu tiên của bài thơ Đây Thôn Vĩ Dạ đã giúp người đọc được thưởng thức bức tranh
Thôn Vĩ Dạ vào buổi bình minh thật là đẹp, Hàn Mặc Tử không viết là “nắng sớm
mai”, “nắng bình minh” cũng không có một từ ngữ nào thông báo về thời gian là buổi
sáng cho mọi người nhưng chúng ta vẫn hiểu được điều đó.

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”, “nắng mới lên” những ánh nắng xuất hiện đầu
tiên của ngày mới câu thơ với việc từ nắng gợi trong mắt người đọc một không gian
ngập tràn ánh sáng, thiên nhiên, cảnh vật hiện lên rõ nét, sống động mà đập vào mắt
người ta đầu tiên là vẻ đẹp của những thân cây cau cao thẳng kiêu hãnh đang tắm táp
dưới ánh nắng mặt trời. Nhà thơ chọn hình ảnh những hàng cau xanh bởi đó là loài cây
thân thuộc với làng quê Việt Nam, mang linh hồn Việt Nam. Chọn hình ảnh hàng câu
đưa vào trong thơ tác giả gợi cho người đọc sự yên bình, dân dã của thôn Vĩ lúc bình
minh.

Bên cạnh đó hình ảnh thôn Vĩ Dạ còn hiện lên ở vẻ đẹp của khu vườn đầy nhựa sống,
nhà thơ đã phải thốt lên trầm trồ rằng “vườn ai mướt quá xanh như ngọc” vườn ai là
vườn của ai? điều này không xác định người đọc chỉ có thể cảm nhận được vẻ đẹp của
khu vườn ấy qua một từ “mướt quá”, quả thật Thơ không cần nhiều từ ngữ người đọc
dễ dàng tưởng tượng ra một khu vườn tươi tốt, tràn trề nhựa sống. Khu vườn ấy mang
một màu xanh “như ngọc” một màu xanh đi liền với ánh sáng nhưng không chói
chang mà rất dịu. Quá xanh nên ta cảm thấy trong câu thơ chỉ thấy chữ nhưng lại miêu
tả đầy đủ vẻ đẹp và sức sống của thiên nhiên, cảnh vật. Không dừng lại ở đó Hàn Mặc
Tử đã đưa hình bóng con người vào đoạn thơ nhưng lại đặc sắc ở chỗ nhà thơ tiếp tục
không dùng một chữ người nào để thông báo sự xuất hiện của con người, đồng thời
nhà thơ khiến người đọc thắc mắc và hoang mang bởi cụm từ “mặt chữ điền” trong
câu thơ không chỉ gợi sự xuất hiện của con người mà còn mang ý nghĩa nào đó nữa.

“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Câu thơ gây cho người đọc rất nhiều sự liên tưởng, phong phú. “Lá trúc” mảnh mai,
thanh tao còn mặt chữ điền gợi sự vuông vắn đầy đặn, phúc hậu. Hàn Mặc Tử chỉ biết
là “mặt chữ điền”, không nói, không giải thích thêm đó là khuôn mặt của ai? khiến đã
có nhiều tranh cãi về hình ảnh đặc sắc này. Theo giáo sư Bùi Minh Đức mặt chữ điền
là mặt của người phụ nữ miền Trung được xây dựng bằng bút pháp cách điệu hóa, còn
theo nhà nghiên cứu Nguyễn Bích Thuận thì khuôn mặt chữ điền tả thực do nhà thơ tự
họa khuôn mặt mình khi trở về thôn Vĩ. Hàn Mặc Tử vì mặc cảm bệnh tật chỉ dám
đứng sau khóm trúc lặng lẽ say xưa ngắm vẻ đẹp thần tiên của thôn Vĩ, chỉ qua bốn
câu thơ tác giả đã rất thành công khi mang đến cho người đọc nhiều liên tưởng. Bốn
câu thơ đã vẽ lên cả một bức tranh Thôn Vĩ Dạ rất đẹp, rất tươi sáng. Người đọc dễ
dàng nắm lấy được cái hồn của sự vật và cảm nhận được tình yêu quê hương, nỗi nhớ
quê sâu sắc của Hàn Mặc Tử thể hiện qua việc miêu tả khung cảnh thôn vĩ đẹp và thơ
mộng đến như vậy.

Thi sĩ là người mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây là người lúc nào cũng chất chứa rất
nhiều tâm sự, họ gửi gắm những cảm xúc của mình vào thơ. Có những cảm xúc rõ
ràng khiến chúng ta dễ dàng nhìn thấu được, nhưng có những cảm xúc thật khó nói lên
thành lời, cảm xúc đó đôi khi được hình thành từ những cảm giác của nhà thơ trước
thiên nhiên cảnh vật. Và nhà thơ lại dùng chính thiên nhiên cảnh vật ấy để diễn tả cho
tâm trạng của mình.

“Gió theo lối gió, mây đường mây

Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”

Câu thơ miêu tả cảnh vật quanh đôi bờ sông Hương nhưng đó lại là những sự vật
không có một mối quan hệ nào đến nhau, cái cần liên quan đến nhau thì nhà thơ lại
khiến chúng xa rời nhau.

“Gió theo lối gió mây đường mây”


Người ta thường nói gió thổi mây trôi, nhưng ở đây mây và gió lại chia hai ngả, gió lối
gió, mây đường mây không liên quan đến nhau. Dòng nước sông Hương lững lờ trôi
và những bông hoa khẽ lay trong gió cảnh vật thật buồn thật ảm đạm, nhà thơ có lẽ
cũng đang mang một nỗi buồn tâm cảnh đúng như nhà thơ. Nguyễn Du từng nói
“Người buồn cảnh cũng vui đâu bao giờ”. Qua hai câu thơ tác giả chỉ phắc họa vài nét
mờ nhạt nhưng lại giúp cho người đọc nhìn thấu được cả một nỗi buồn đang nặng trĩu
trong lòng nhà thơ, dường như có những dự cảm và sự chia ly khi cảm nhận cảnh vật
không có sự gắn kết với nhau một bức tranh buồn hiu hắt mọi cử động đều rất khẽ, rất
nhẹ tạo cảm giác vắng lặng quạnh hiu từ cảm xúc buồn, cô đơn rất thực đó.

Hàn Mặc Tử Đưa người đọc về cõi mộng như một tuyệt tác kết tinh rực rỡ, bút phát tài
hoa, lãng mạn của Hàn Mặc Tử.

“Thuyền ai đâu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay”

Vẫn là dòng sông Hương, vẫn là Huế thơ mộng nhưng không còn nắng, không còn
xanh mà trước mắt người đọc là một không gian tràn ngập ánh trăng, con thuyền trở
thành thuyền trăng, dòng sông trở thành trở thành dòng sông trăng và bến thì thành
bến trăng. Người đọc tưởng tượng ra một dòng sông trong vắt, in bóng xuống dòng
sông là mặt trăng sáng dịu hiền và ánh trăng đang dát vàng lên mọi cảnh vật chỉ qua từ
sông trăng ta liên tưởng đến một khung cảnh hư hư, thực thực huyễn hoặc như lạc vào
cõi mộng. Cảnh tuy hư ảo nhưng cảm xúc trong nhà thơ lại rất sâu sắc và trỗi dậy một
cách mạnh mẽ.

“Thuyền ai đâu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay?”

“Thuyền ai” là thuyền của ai? và tối nay là tối nào? tối nay phải chăng là giới hạn cuối
cùng của cuộc đời nhà thơ đang chạy đua với thời gian giành giật từng giây từng phút
để được tận hưởng cuộc đời. Câu thơ không gợi lên khung cảnh buồn bã, hiu hắt
nhưng qua cái hư hư thực thực ấy tác giả bộc lộ cảm xúc rất mãnh liệt về sự hoang
mang sợ hãi câu hỏi tu từ vang lên thật cần thiết.

“Có chở trăng về kịp tối nay?”

Hàn Mặc Tử ý thức được quãng đời còn lại của mình không còn dài thì thế ông đã rất
lo lắng liệu rằng con thuyền ấy có kịp cập đến trước khi mình trở về với cõi vĩnh hằng
hay không? Chỉ một câu hỏi mà chứa chất báo tâm sự, nỗi niềm khắc khoải mong chờ
hạnh phúc, khát khao giao cảm với đời, khát vọng sống mãnh liệt khi cái chết cận kề
của tác giả. Qua một đoạn thơ ngắn nhưng nhà thơ đã khiến người đọc như trải lòng
cùng mình, đi qua từng cung bậc cảm xúc giúp người đọc thấu hiểu được tâm hồn và
những tâm tư về cuộc đời mà tác giả muốn gửi gắm qua từng câu chữ.

“Thơ là tiếng lòng” (Diệp tiếp), thơ ca là tiếng hát của trái tim, là nơi dừng chân của
tinh thần, do đó không đơn giản mà cũng không thần bí thiêng liêng. thơ xuất phát từ
tình cảm, từ những rung động chân thực nhất của trái tim. Không được viết bằng cảm
xúc, thơ chỉ còn là những con chữ đơn thuần nằm thẳng đơ trên trang giấy. Ở khổ thơ
cuối cùng của bài thơ Đây Thôn Vĩ Dạ tác giả đã thể hiện những cảm xúc của mình ở
mức độ cao nhất của nỗi đau là sự tuyệt vọng. Dường như bởi vì cảm xúc quá hỗn độn
nên nhà thơ không còn thể hiện được điều gì rõ nét qua hình ảnh nữa mà tác giả vẽ nên
một bức tranh sương khói mờ, ảo như trong cõi mơ.

“ Mở khách đường xa khách đường xa

Áo em trắng quá nhìn không ra

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà?”

Nhịp thơ có sự thay đổi, cảnh giường như không phải ở Huế nữa. Từ “khách đường
xa” được lặp lại hai lần trong một câu thơ khiến câu thơ 7 chữ chỉ còn 1 chữ duy nhất
không lập lại đó là “mơ”. Người đọc mơ hồ, tưởng tượng khách đường xa mà tác giả
nhắc đến có lẽ là cô gái Huế xuất hiện trong màu áo trắng màu áo tượng trưng cho vẻ
đẹp tinh khôi và cũng như là màu trắng trong mối tình đầu của thi nhân. Hình ảnh cô
gái thật hư ảo do màu áo” trắng quá” không thể nhìn ra và tác giả đã gợi cho người
đọc một cảm giác trống vắng. “Ở đây sương khói mờ nhân ảnh”

Lại một từ ngữ bất định “ ở đây” là ở đâu? “ở đây” và “ ngoài kia” có gì khác biệt, có
gì xa xôi cách trở mà không thể với tới. Không những đưa người đọc vào một thế giới
hư ảo, nhà thơ còn bộc lộ những cảm xúc mãnh liệt, Hàn Mặc Tử đã từng viết rằng:

“Làm sao giết được người trong mộng

Để trả thù duyên kiếp lỡ làng”

Nhà thơ tự cảm thấy chua xót cho cuộc đời, cho lương duyên của mình để rồi đặt ra
một câu hỏi đầy hoài nghi khắc khoải về một mối tình đơn phương vô vọng

“ Ai biết tình ai có đậm đà”

“ Tình ai” là tình ai? tình anh, tình em hay tình đời, tình người? Câu thơ không một từ
ngữ bộc lộ cảm xúc, không một dấu chấm than nhưng người đọc vẫn cảm thức được
nỗi khổ tâm của nhà thơ. Hàn Mặc Tử rơi vào trang thái hoài nghi, bị giày vò vì quá
khao khát nên rơi vào trạng thái trống trải, cô đơn. Nhà thơ “ mơ” về “ khách đường
xa”, về cô gái Huế trong bộ áo dài trắng. là “ mơ” chứ không phải mong bởi mong
không được nên mới mơ. Khổ thơ cuối cùng chính là cao trào của cảm xúc trong lòng
tác giả và gây cho người đọc những cảm giác mơ hồ khó diễn tả.

Kết thúc bằng một câu hỏi bỏ ngỏ Hàn mặc Tử đã khiến cho người đọc có những ấn
tượng mạnh về bài thơ Đây Thôn Vĩ Dạ là bài thơ không sử dụng nhiều từ ngữ tác giả
cũng không chú trọng vào miêu tả chi tiết từng chút một nhưng bài thơ mỗi hình ảnh
đều có hồn tạo liên tưởng và mỗi chữ đều mang sức gợi lớn trong lòng người đọc. Ý
kiến của giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh đã khẳng định đặc trưng của thơ Thơ luôn gắn
gọn xúc tích miêu tả trong thơ chỉ cốt lấy cái thần cái hồn của sự vật và thi sĩ có sứ
mệnh truyền cảm hứng giúp người đọc cảm nhận được những tâm tư cảm xúc những
rung động qua tâm hồn và cách làm lan tỏa cảm xúc của nhà thơ. Đạt được những điều
này khi phẩm sẽ thành công về cả hình thức lẫn nội dung sẽ mang giá trị tư tưởng tình
cảm lớn dễ chạm được vào trái tim con người .Tác phẩm như vậy sẽ tạo được nhiều ấn
tượng trong lòng người đọc , giúp độc giả thêm thấu hiểu thêm đồng cảm với những gì
mà nhà thơ đang cảm thấy, đang trải qua. Tác phẩm sẽ từ từ bước vào trái tim người
đọc sẽ mang lại thành công trên con đường sự nghiệp thơ ca của tác giả.

Đánh giá chung về giá trị nghệ thuật của Đây thôn Vĩ Dạ
Nghệ thuật cũng là yếu tố đóng vai trò rất quan trọng trong tác phẩm văn học. Bằng
thể thơ 7 chữ ngôn ngữ trong, sáng tinh tế, nhịp điệu, giọng điệu luôn thay đổi khi
chậm rãi gấp gáp lúc tha thiết hoài nghi tuyệt vọng và đặc biệt với việc kết hợp các
biện pháp nghệ thuật một cách đặc sắc, Hàn Mặc Tử đã giúp cho Đây Thôn Vĩ Dạ là
một thi phẩm rất thành công và luôn khiến người đọc trăn trở.

“Thơ phát khởi trong lòng người”

Lê Quý Đôn.

Vì vậy nên mỗi một tác phẩm thơ, đều chan chứa cảm xúc và tâm tư. Những cảm xúc
và tâm tư ấy lại được thể hiện ngắn gọn qua từ ngữ giàu sức gợi cảm, gợi tả. Xuất phát
từ ý nghĩa này Đây Thôn Vĩ Dạ đã trở thành bài thơ hay làm xúc động lòng người và
sẽ mãi mãi ghi dấu ấn trong lòng người ./.

TÁC GIẢ NGUYỄN BÍNH

Nguyễn Bính cũng là một nhà thơ nổi tiếng đứng trong phong trào Thơ mới. Thơ của
ông xuất hiện mang cái vẻ của người nhà quê khó thể phai nhạt trong mắt bạn đọc thời
đó và cả bây giờ. Đọc thơ Nguyễn Bính, người đọc như được tắm gội trong cái trong
trẻo, tinh khiết, chân quê của miền quê Việt, đó là nét riêng thú vị mà người đọc
không thể bắt gặp ở một hồn thơ khác.

Phong cách nghệ thuật:

Nguyễn Bính là thi sĩ của đồng quê. Thơ của ông là Thơ mới nhưng mang đậm phong
cách dân gian. Thơ mới Nguyễn Bính là dấu nối thơ hiện đại và thơ dân gian. Có thể
nói thơ ông đích thực là một thứ thơ dân gian hiện đại. Nói Thơ mới của ông như thế
vì đặc điểm nội dung nghệ thuật, nét độc đáo của phong cách thơ ông. Thơ mới dân
gian của ông là màu sắc ánh sáng khác lạ của ngôi sao thơ Nguyễn Bính trong bầu trời
Thơ mới trước Cách mạng tháng Tám, 1945.

Thơ của ông mang cái vỏ mộc mạc của ca dao, của những câu hát đồng quê. Hồn thi sĩ
tìm đến ca dao để trở về với cội nguồn dân tộc hàng ngàn năm ấp ủ ở làng quê Việt.
Trong bài “Chân quê” thi sĩ viết:

“Hoa chanh nở giữa vườn chanh


Thầy u mình với chúng mình chân quê
Hôm qua em đi tỉnh về
Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều”
Hai tiếng “Chân quê” từ đây mà trở thành một từ ngữ quen thuộc nói lên một tác phẩm
trong đời, trong thơ. Thơ của ông là về làng quê Việt Nam, ông quan tâm nhất là tình
yêu trong cái mộc mạc, bình dị của làng quê:

“Nắng mưa là bệnh của trời


Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”

Hoặc:

“Hồn anh như hoa cỏ may


Một hôm cả gió bám đầy áo em… ”

Vai trò Nguyễn Bính trong công cuộc hiện đại hóa văn học dân tộc:

Mỗi một nhà thơ của phong trào Thơ mới điều có những đóng góp nhất định cho cộng
cuộc hiện đại hóa dân tộc. Với thi sĩ Nguyễn Bính, người đọc không tìm thấy cái kiêu
sa, chói lòa, hay rợn ngợp. Mà người đọc được thấy sự giao thoa độc đáo của nét hồn
ca dao với thơ hiện đại. Thơ Nguyễn Bính đã minh chứng một điều: con đường đến
với hiện đại mang tính bền vững và sâu sắc nhất, đó là biết kế thừa những giá trị
truyền thống của cha ông tự ngàn xưa.

Giữa những cách tân mạnh mẽ cửa Thơ mới, giữa những xô bồ, hỗn tạp của văn hóa
Đông – Tây, người ta vẫn còn có đó một không gian trong tiềm thức người Việt “hoa
cau” “vườn trầu” để thưởng thức và trở về. Những giá trị sâu sắc đó cũng đã thể hiện
rồ nét vai trò của Nguyễn Bính trong công cuộc hiện đại hóa văn học dân tộc.

Thành công và hạn chế của hồn thơ Nguyễn Bính

Thành công: Nguyễn Bính đã đề lại cho nền thơ Việt Nam ỉúc ấy những tác phẩm về
miền quê như: “Lỡ bước sang ngang” (1940), “Tâm hồn tôi” (1940), “Hương cố nhân”
(1941), “Một nghìn cửa sổ” (1941), “Người con gái ở làu hoa” (1942), “Mười hai bến
nước” (1942), “Mây Tần” (1942), “Tỳ bà truyện” (1944), “Ông lão mài gươm”
(1947).

Thành công của Nguyễn Bính trong phong trào Thơ mới đó là những bài thơ về làng
quê Việt Nam. Tuy có nhiều nhà thơ như: Bàng Bá Lân, Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ…
nhưng Nguyễn Bính vẫn là tác gia tiêu biểu nhất. Hoài Thanh đã nhận xét: “Và thơ
Nguyễn Bỉnh đã đánh thức người nhà quê vẫn ẩn náu trong lòng ta. Ta bỗng thấy vườn
cau bụi chuối là hoàn cảnh tự nhiên của ta và những tỉnh tình đơn giản của dân quê là
những tỉnh tình căn bản của ta”. Viết về quê hương, ông không có nhiều số phận đắng
cay của người nông dân bị bóc lột và những cảnh đời lam lũ. ở đó là những hình ảnh
tươi sáng, thơ mộng, chứa chan thi vị.

Nguyễn Bính sử dụng nhiều chất liệu dân gian như ca dao, bản nhạc đồng quê, ông đã
thể hiện được ước vọng sâu xa của những người nông dân lam lũ ước mong về cuộc
sống tốt đẹp hơn, hòa đồng với thiến nhiên cảnh vật làng quê tươi thắm. Trong thơ của
ông có những cặp hình ảnh: cánh bướm và giậu mồng tơi, mưa xuân bay và làng quê
vào hội, giàn trầu không và hàng cau liên phòng, con đê làng và sự hẹn hò chờ đợi,
những cô gái trọng làng đang ở độ tuổi yêu đương: cô gái mơ, cô lái đò, cô hàng
xóm… Không khí làng quê trong những lễ hội của mùa xuân được ông miêu tả rất gợi
cảm, trong bài “Xuân về”:

“Thong thả dân gian nghỉ việc đồng


Lúa thì con gái mượt như nhung
Đầy vườn hoa bưởi hoa cam rụng
Ngào ngạt hương bay bướm vẽ vòng”

Với hoa nở, bướm bay, thiên nhiên sinh sôi nảy nở mà tạo vật như bước vào vận hội
của mùa xuân. Thơ viết về làng quê không chỉ có cảnh vật mà còn có những tình yêu
chân thành tha thiết, nhưng rất mộc mạc, giản dị và chân thành:

“Qua giậu tầm xuân thấy bướm nhiều


Bướm vàng vàng quả, bướm yêu yêu
Em sang bắt bướm vườn anh mãi
Quê cả làng Ngang động trong chèo”

(Hết bướm vàng)

Những cánh bướm bay dập đìu trong thơ góp phần tạo không khí thêm xinh tươi, đồng
thời cảnh vật cũng mang nét đẹp lãng mạn và tình tứ. Cánh bướm ấy là hình ảnh đẹp,
gợi cảm nhất trong Thơ mới. Vì tình yêu trong thơ Nguyễn Bính đẹp nhưng có nhiều
trác trở vô hình, khiến cho họ khó đến được với nhau hoặc là những chuyện tình chỉ
đến từ một phía nên ông đã miêu tả được trạng thái tương tư có tính chân quê. Thi
phẩm “Tương tư” Nguyễn Bính viết:

“Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông


Một người chín nhở mười mong một người
Gió mưa là bệnh của trời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng ”

Nguyễn Bính ngoài sử dụng nhuần nhuyễn những vốn từ thuần việt như: “dầu hoa bấc
gầy”, “chín nhở mười mong”, “cách trở đò ngang”… những từ ngữ của ca dao, dân ca:
“thôn Đoài”, “thôn Đông”, “đỏ đèn”, “miếng trầu”, “hàng cau”. Ngoài ra ông còn sáng
tạo: “nhạt thắm phai đào”, “trăm cay nghìn đắng”, “pháo đỏ rượu hồng”, “xây dựng cơ
đồ”, ‘khoác áo phong trần”, “ngang sông đắm đò”, “sương gió đường xa”, “giá lạnh
sương xa”, “má đỏ môi hồng”… Những nhóm hình ảnh thơ này làm cho dòng thơ bảy
tiếng của kiểu dạng Thơ mới có khuôn hình ổn định, đọc lên vẫn nghe được giọng
điệu, âm vang của những bài ca dao, dân ca lục bát.

Hạn chế: Hạn chế nhất định của hồn thơ Nguyễn Bính mà nhiều nhà nghiên cứu văn
học Việt Nam đã đề cập đến, đó là quá trung thành với nét hồn dân tộc, trung thành
đến mức đôi khi không tiếp nhận tính hiện đại hóa của thời đại.

Phong vị dân gian trong các tác phẩm của Nguyễn Bính
Nguyễn Bính, nhà thơ của thôn quê, một lòng hoài niệm quá khứ, níu giữ những nét
đẹp dân gian ngay trong từng câu thơ của mình. Cùng với tấm lòng sắc son với truyền
thống dân tộc, nỗi trở trăn và nuối tiếc cho một thời đã qua, những tác phẩm của ông
vừa là nỗ lực níu giữ những chuẩn mực truyền thống, vừa là tiếng thở dài cho một thời
đã qua không thể quay đầu lại. Bởi vậy, giọng văn đậm chất ca dao dân ca, mộc mạc
giản dị chính là phong cách của ông. Nguyễn Bính đã tìm một lối đi riêng, trở về với
văn hóa dân gian, với những câu hát cửa đình, rặng mồng tơi, bến đò, cây đa, bến
nước…Cái tôi chân quê hóa thân vào những người nhà quê, viết về nỗi niềm, dở dang
lỡ làng của họ. Phong vị dân gian ướp vào từng ngôn từ.

Thể thơ
Chất dân gian trong thơ Nguyễn Bính trước hết được thể hiện ở thể thơ ông sử dụng
để viết, đó là thể thơ lục bát. Đây là thể thơ truyền thống, được sử dụng rất nhiều trong
ca dao, thích hợp cho những lời tâm sự, bộc bạch. Bản thân thể thơ đã mang trong
mình kết tinh vẻ đẹp của một thế hệ đi trước, có thể nói là thể thơ sinh ra từ đồng
ruộng, mồ hôi, và nước mắt của người dân lao động nên rất đỗi gần gũi. Ta đã từng
nghe trong những lời ru:
Ru con, con ngủ cho say
Để u dệt vải cho thầy nhuộm nâu
Cắt quần cắt áo u khâu
Để thầy con mặc dãi dầu mùa chiêm.
Ta đã từng thấy trong những lời tình tự:
Sợ đời nước mắt soi gương.
Càng yêu nhau đắm càng thương nhớ nhiều – Ca dao
Nay, khi các nhà thơ đang bận bịu đi tìm cái mới, ta lại thấy thể thơ quen thuộc này
trong tác phẩm của Nguyễn Bính:
Em ơi! Em ở lại nhà
Vườn dâu em đốn, mẹ già em thương
Mẹ già một nắng hai sương
Chị đi một bước trăm đường xót xa
Cách ngắt nhịp 2/2/2 ở câu lục và 4/4 ở câu bát khiến cho bài thơ càng giàu tính nhạc,
uyển chuyển trong từng câu thơ, đồng thời thể hiện được tính chân thực của nỗi nhớ
da diết. Thể thơ lục bát gần gũi, song không lạc hậu, lại truyền tải rất tốt thông điệp
của tác giả.

Giọng thơ và ngôn ngữ thơ Nguyễn Bính


Giọng thơ của Nguyễn Bính cũng mang đậm hương vị của dân gian, Hoài Thanh đã
từng có những nhận xét: “Nhà thơ đã gọi dậy cái hồn buồn của Ðông Á,...đã khơi lại
cái mạch sầu mấy nghìn năm vẫn ngấm ngầm trong cõi đất này”. Giọng thơ của
Nguyễn Bính gói gọn trong hai chữ chân quê. Nếu như thơ Xuân Diệu mới lạ trong
màu sắc phương Tây , Hàn Mặc Tử siêu thực trong thơ Điên… Nguyễn Bính lại tinh
ròng trong chất ca dao. Tầng sâu nhất của thơ Nguyễn Bính không chỉ là hồn dân tộc,
mà còn là “giọng nói của toàn nhân loại thức dậy” qua giọng nói của một con người,
một cá nhân. Nói cách khác, thơ Nguyễn Bính “dường như nói bằng hàng nghìn
giọng, mê đắm và thuyết phục, nó nâng cái mô tả từ chỗ ngắn ngủi một lần và tạm thời
lên chỗ tồn tại muôn đời”.
Cái giọng thơ chân chất, mang hơi hướng kể chuyện tâm sự trở thành đặc trưng của
thơ ông:
Quê tôi có gió bốn mùa
Có giăng giữa tháng, có chùa quanh năm.
Chuông hôm, gió sớm, giăng rằm:
Chỉ thanh đạm thế, âm thầm thế thôi.
Hay

Cô hái mơ ơi!
Chả giả lời nhau lấy một lời
Cứ lặng rồi đi, rồi khuất bóng
Rừng mơ hiu hắt lá mơ rơi...
Dung dị nhưng đủ tính nghệ thuật, làm dậy lên một truyền thống dân tộc ngỡ đã bỏ
quên rất lâu. Giọng thơ của Nguyễn Bính như những lời tâm tình thủ thỉ mộc mạc giữa
người với người. Cách nói xa xăm, giàu tính nghệ thuật, lại đa sức gợi, mỗi bài thơ tựa
như một bài hát dân ca, hoàn toàn vượt xa địa hạt của thơ ca.
Ngônngữ thơ cũng được kế thừa từ ca dao dân ca khi nhà thơ thường xuyên sử dụng
các biện pháp tu từ thường xuyên được sử dụng trong ca dao như điệp ngữ, so sánh, ẩn
dụ...
Nào đâu cái yếm lụa sồi?
Cái dây lưng đũi nhuộm hồi sang xuân?
Nào đâu cái áo tứ thân?
Cái khăn mỏ quạ, cái quần nái đen?
(Chân quê)
Trong thơ Nguyễn Bính xuất hiện rất nhiều những hình ảnh trong ca dao. Ví dụ trong
Tương Tư, nhà thơ có viết:
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn đông
Một người chín nhớ mười mong một người
Trong ca dao cũng có câu:
Làm trai cho đáng lên trai
Xuống đông, đông tĩnh; lên đoài, đoài tan
Vậy cho nên có thể nói, hồn thơ của Nguyễn Bính là một hồn chân quê, một lòng đi về
với đất với người.

Đề tài trong thơ Nguyễn Bính


Đây có thể nói là phương diện thể hiện rõ nhất chất dân gian trong thơ Nguyễn
Bính. Vào thời điểm đang có sự cách tân mạnh mẽ trên văn đàn Việt Nam, các nhà
thơ, nhà văn đang kêu gào phá bỏ rào cản để cái tôi được cất tiếng sau hàng nghìn năm
bị kìm hãm: “Ðời chúng ta nằm trong vòng chữ tôi. Mất bề rộng, ta đi tìm bề sâu.
Nhưng càng đi sâu, càng lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong
trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm
say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi
tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngơ ngẩn buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận.” – Hoài
Thanh. Ấy vậy mà khi các nhà thơ đang mạnh mẽ tìm đến những đề tài mới lạ, khuôn
từ phá cách, Nguyễn Bính lại nhất quyết chọn cho mình những đề tài gần gũi với cuộc
sống thường nhật. Đó chính là tình yêu đôi lứa:
Nhà em có một giàn giầu
Nhà anh có một hàng cau liên phòng
Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?– Tương Tư
Tình yêu lứa đôi là đề tài quá quen thuộc trong ca dao Việt Nam, những câu ca dao,
câu hát dân ca như những lời tình tự giữa trai gái yêu nhau, nhẹ nhàng và e lệ:
Cô kia cắt cỏ một mình,
Cho anh cắt với chung tình làm đôi.
Cô còn cắt nữa hay thôi,
Cho anh cắt với làm đôi vợ chồng. – Ca dao
Cách nói vòng vo, song lại thể hiện rất rõ sự e lệ của con người khi yêu, Nguyễn Bính
đã khai thác rất tốt đề tài này. Đúng như nhà thơ Vũ Quần Phương nhận xét: “Ngòi bút
Nguyễn Bính có biệt tài diễn tả những mối tình quê thơ và mộng”. Ta bắt gặp trong
thơ ông những mối tình trong sáng của trai, gái nơi thôn quê nảy nở từ những ngày hội
xuân, những đêm hát chèo, những sinh hoạt đời thường với rất nhiều cung bậc cảm
xúc. Đặc biệt, nỗi nhớ là cung bậc cảm xúc được nhà thơ khắc họa thành công nhất,
không điên cuồng song đủ da diết cho một tình yêu chân thành.
Nhà thơ viết rất nhiều về đời sống thôn quê, Nhà phê bình văn học Hoài Thanh đã thật
chí lý khi cho rằng: “Nguyễn Bính đã đánh thức người nhà quê vẫn ẩn náu trong lòng
ta”. Người đọc mọi lứa tuổi thuộc thơ Nguyễn Bính, bởi nhiều câu thơ của ông không
chỉ gợi được cảnh quê mà còn diễn tả chân thành và xúc động hồn quê bình dị mà
thiêng liêng, sâu nặng:
Trên đường cát mịn một đôi cô
Yếm đỏ, khăn thâm trẩy hội chùa
Gậy trúc dắt bà già tóc bạc
Tay lần tràng hạt, miệng nam mô
Những phong tục tập quán được đưa vào thơ rất khéo léo, khiến người đọc không có
cảm giác tù túng chật hẹp trong khuôn phép, lại cảm thấy yêu hơn vùng thôn quê bình
dị.
Nhưng cái hay nhất ở Nguyễn Bính, là ở trong thơ ông luôn phảng phất một nỗi buồn
tiếc nuối, đó chính là tiếng thở dài hiu hắt khi chứng kiến sự lụi tàn của văn hóa dân
gian, dòng người bỏ lại thôn quê yên bình để đi đến ánh sáng phồn hoa đô thị. Đây là
đề tài rất mới trong văn học Việt Nam thời đó, viết về những nghĩ suy trước sự đổi
thay của văn hóa. Ta nghe trong Nguyễn Bính tiếng ngậm ngùi:
Hoa chanh nở giữa vườn chanh
Thầy u mình với chúng mình chân quê
Hôm qua em đi tỉnh về
Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều- (Chân Quê)
Nhà thơ bất lực trước sự đổi thay của con người, chỉ đành thở dài mà than trách:
Không còn ai ở lại nhà
Hỏi còn ai nữa? để hoa đầy vườn
Trăng đầy ngõ, gió đầy thôn
Anh về quê cũ có buồn không anh?.

Nguyễn Bính không dùng chữ trừu tượng hay cầu kỳ để viết nên những vần thơ để đờị
Ông cũng không không dùng những triết lý cao siêu để nói lên những điều hiển nhiên
trong cuộc sống.
Thơ Nguyễn Bính có cái tôi bình dị, viết về nông thôn, đến nỗi người đời gọi ông
bằng một cái tên đặc biệt “thi sĩ chân quê”. Cái tôi gần gũi, mộc mạc, đi vào đời sống
của những người nông dân, tình yêu trong thơ được thể hiện qua những vần thơ dịu
dàng, đậm đà bản sắc dân tộc, đôi khi kết hợp một chút phá cách mới lạ của “cái yêu
mới mẻ, hiện đại” của phương Tây, đã làm cho ông sống mãi trong lòng những người
yêu thơ tình, ghi dấu mãi vào kho tàng thi ca dân tộc một nhà thơ tài hoa, lãng tử.

BÌNH GIẢNG BÀI THƠ TƯƠNG TƯ

Nhận xét về thơ Nguyễn Bính, Tô Hoài có nói rằng: “ Chỉ có quê hương mới tạo nên
được từng chữ, từng câu Nguyễn Bính. Trên chặng đường ngót nửa thế kỉ đời thơ, mỗi
khi những gắn bó mồ hôi nước mắt ướt đầm lên ngây ngất, day dứt không thế yên, khi
ấy xuất hiện những bài thơ tình quê tuyệt của Nguyễn Bính.” Thật vậy, trong phong
trào Thơ mới, Nguyễn Bính đã tạo ra một dòng riêng. Trong khi các nhà thơ lãng mạn
khác cùng thời hướng về phương Tây, chịu ảnh hưởng của nghệ thuật phương Tây thì
Nguyễn Bính lại tìm về và hướng tới nghệ thuật dân tộc, chịu ảnh hưởng của thơ ca
dân gian.
Nguyễn Bính là thi sĩ của đồng quê Việt , thơ ông hấp dẫn người đọc bởi lối ví von
mộc mạc mà duyên dáng mang đậm hình dáng quê hương đất nước cũng như con
người Việt Nam. “Tương tư” là bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ Nguyễn Bính.
Cũng như các nhà thơ lãng mạn, Nguyễn Bính bị “mê hoặc” bởi đề tài tình yêu. Trước
Nguyễn Bính, Nguyễn Công Trứ cũng có “Tương tư”:
“Tương tư không biết cái làm sao
Muốn vẽ mà chơi vẽ được nào…”
Cùng thời với Nguyễn Bính, không ai xa lạ, “Ông hoàng của thơ tình”_ Xuân Diệu
cũng có bài thơ “Tương tư chiều”. Nhưng cách biểu hiện của hai thi sĩ thật trái ngược
nhau biết mấy! Mỗi bài có một nét cuốn hút và hấp dẫn riêng của nó. Xuân Diệu thì
rất Tây mà Nguyễn Bính thì “chân quê”…
Mở đầu bài thơ đó là nỗi nhớ, nỗi mong của kẻ đang yêu. Cái nỗi ấy nó thật quá
sôi sục, mãnh liệt dường như nó hòa vào từng cảnh, từng vật của thôn quê nơi “tôi” và
“nàng” cùng chung sống:
“Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông,
Một người chín nhớ mười mong một người
Gió mưa là bệnh của giời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”.
Có thế nhận xét rằng, cái tôi trong thơ Nguyễn Bính nó không quá nổi bật hẳn lên mà
hòa quyện với từng câu chữ, hòa vào với từng ý thơ, hòa vào không gian nơi làng quê
yên ả. Nghệ thuật nhân hóa kết hợp với hoán dụ thật tài tình được Nguyễn Bính kế
thừa và phát huy từ những câu ca dao dân tộc. Ngân nga đôi dòng thơ đầu tiên, ta liên
tưởng ngay tới câu:
“Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
Như đứng đống lửa như ngồi đống than.”
Cái “ngồi nhớ”, sự “chín nhớ mười mong” của dân ca giờ đã trở thành “bệnh” của
“tôi” mất rồi bởi đơn giản một điều rằng “tôi yêu nàng”. Sự cụ thể hóa nỗi nhớ cùng
với cấu trúc đòn gẩy sau đây thật thú vị:
MỘT NGƯỜI chín nhớ mười mong MỘT NGƯỜI
Mỗi người một đầu, như “thôn Đoài” và “thôn Đông” vậy, sự thế hiện nỗi xa cách kia
quả rất hay và ý nhị. Tâm trạng tương tư của người yêu đơn phương còn ảnh hưởng tới
cả trời đất:
“Tương tư là bệnh của giời
Nắng mưa là bệnh của tôi yêu nàng”
Câu thơ này của Nguyễn Bính khiến rất nhiều người nhầm tưởng đó là ca dao và sử
dụng chúng rất linh hoạt, đặc biệt là các nam thanh niên. Quả là vui mừng thay cho
Nguyễn Bính! Đối với văn nghệ sĩ mà nói thì không có thành công nào của nghệ thuật
sánh bằng việc những đứa con tinh thần của mình được nhân dân áp dụng trong lời ăn
tiếng nói hàng ngày.
Trở lại với bài thơ, “tôi” nhớ mong “nàng”, yêu đơn phương “nàng” nhưng “tôi” cũng
phải trách “nàng”, “tôi” chạnh long:
“Hai thôn chung lại một làng
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này”
Thật tội nghiệp cho cả hai bên, bên bị trách nào biết mình đã lọt vào đôi mắt “tôi” bên
thôn Đoài đây. Nhưng cớ sao “nàng” vô tâm quá? “Tôi” và “nàng”, chúng ta ở “Hai
thôn chung lại một làng” vậy mà nàng vẫn khiến tôi chờ mong vò võ bao ngày, thời
gian ấy sao dằng dặc, triền miên:
“Ngày qua ngày lại qua ngày
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng”
Tiếp tục là những âm hưởng của dân gian với lối láy chữ tựa luyến láy trong âm nhạc
bình dân. Trong hai câu thơ trên, sự sáng tạo của Nguyễn Bính ở chỗ: thể hiện được
sự vận động của thời gian vừa có thanh mà vừa có sắc. Ở đây, thời gian tâm lí đã
khiến cho “tôi” đã phát “bệnh” mà ngày thêm trọng.
Sự trách móc, hờn dỗi rất đáng yêu kia của “tôi” chưa dừng lại ở đó. “Tôi” lại tiếp tục
kiếm cớ với những lí lẽ:
“Bảo rằng cách trở đò giang,
Không sang là chẳng đường sang đã đành.
Nhưng đây cách một đầu đình,
Có xa xôi mấy mà tình xa xôi…”
“Tôi” cứ kể lể dài dòng cũng chỉ vì tôi muốn ai đó tường lòng tôi rằng tôi nhớ mong ai
đó thật nhiều:
“Tương tư thức mấy đêm rồi,
Biết cho ai, hỏi ai người biết cho!”
Chân tình “tôi” đó, có tủi phận không khi mà “nàng” cứ vô tâm mãi, để lòng tôi héo
hon trong não nề vì mong ước của “tôi” sao mà vô vọng quá:
“Bao giờ bến mới gặp đò?
Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau?”
Nguyễn Bính đã vận dụng lối nói ước lệ tượng trưng thương thấy trong ca dao đó là
“bến” – “đò” và “hoa khuê các” – “bướm giang hồ” để thể hiện một mong muốn, khao
khát yêu đương mãnh liệt nhưng đã dự báo trước được kết quả. Yêu vụng dấu thầm
thật là tội nghiệp biết mấy.
“Nhớ mình ra ngẩn vào ngơ
Trông mây trông nước, nay chờ mai mong”
( Tản Đà)
Kết cấu xoay vần, kết lại bài thơ, Nguyễn Bính trở lại giai điệu quen thuộc trong khổ
đầu và thêm thắt và lồng khéo vào đó một vài mong ước mộc mạc, chân thật:
“Nhà em có một giàn giầu,
Nhà anh có một giàn cau liên phòng.
Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông,
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?”
“Nhà anh” và “nhà em”, mỗi nhà chỉ có MỘT hoặc “cau” hoặc “giầu” tức là vẫn còn
cô đơn, lẻ bóng. Ý “anh” phải chăng là muốn chung đôi xe duyên kết phận với “em”?
Cấu trúc song hành này thể hiện sự mong muốn về một hạnh phúc lứa đôi son sắt, bền
lâu.
Câu hỏi tu từ đã kết lại lại thơ hai mươi câu lục bát. Lời bỏ ngỏ còn đó, như nỗi
“tương tư” em còn đó cùng tình yêu này rất chân thành và mộc mạc. Với tài năng và
tâm huyết cùng nghệ thuật dân tộc, Nguyễn Bính đã thành công trong việc giữ lại
“hương đồng gió nội” cho thơ mình và thơ Việt nói chung khi cơn gió Tây học ùa vào
lúc bấy giờ. “Tương tư” đến giờ vẫn giữ được vị trí rất riêng của nó trong lòng nhiều
thế hệ độc giả Việt Nam, nó chính là một phần của hồn thơ Việt, hồn quê Việt.

You might also like