Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 500

bt>T7

NGUYỀN MẠNH CƯỜNG


NGUYỄN THỊ HỔNG HẢ

NHO GI1ÍO - ĐẠO HỌC


TRÊN ĐẤT KINH KỲ
(THĂNG LONG - DÔNG DÔ - HÀ NỘI)

NHÀ XUẤT BẢN VĂN HÓA - THÔNG TIN


& VIỆN VÃN HÓA
HÀ NỘI, 2007
Tự bạch

Ngay từ cuối thập niên 80 của thế kỷ XX, các tác giả
đã có ý quảng bá Văn Miếu trong tập sách Du lịch Việt
Nam. Trên thực tế thì nãm 1990 - nhân nãm du lịch Việt
Nam, chúng tôi đã cho ấn hành cuốn sách ấy và đã bán cho
khách thăm quan di tích Văn Miếu. Thấm thoắt đã hơn 15
nám trôi qua, chúng tôi vẫn ấp ủ đề tài viết về Nho giáo,
Văn Miếu và chế độ học hành thi cử của Việt Nam, ngay
khi còn là những người làm công tác nghiên cứu cũng như
bảo tồn di sản Hà Nội. Song chưa dễ gì có điều kiện để
thực hiện ý định này. Nhân kỷ niệm Ngàn năm Thăng
Long - Hà Nội, đã mấy lần chúng tôi định viết nhưng lại
thôi; vì sách viết về Vãn Miếu, học hành và nhất là các tiến
sĩ Nho học Thãng Long - Hà Nội, thì chưa dễ gì bằng được
các GS, các TS ở nhiều cơ quan nghiên cứu chuyên sâu của
Trung ương, của các trường Đại học đóng tại Hà Nội, cùng
các nhà nghiên cứu Hà Nội học. Lần Iữa mãi chỉ nhằm đi
tìm một hướng thể hiện các nghiên cứu này theo một cách
riêng của mình. Cũng không còn nhiểu thời gian nữa là
đến ngày tiến hành kỷ niệm 1000 nãm thành lập kinh đô
Thăng Long (1010 - 2010), hơn nữa, sô' lượng các đầu
sách viết về Văn Miếu, về học hành khoa bảng Việt Nam,
các tiến sĩ Nho học Thăng Long - Hà Nội lại in ra quá
nhanh và quá nhiều, đã làm chúng tôi thoái chí tưởng như
sẽ bỏ dở công trình này.
Chẳng lẽ lại bỏ dở đề tài này khi mà bao nhiêu công
sức theo đuổi bỏ ra trong nhiều năm qua? Còn nếu viết thì
sẽ viết gì đây để khống trùng với những người đi trước? Một
thoáng loé lên trong đầu, chúng tối quyết định chọn một
hình thức thể hiện khác là viết về ĐẠO HỌC VIỆT NAM.
ĐẠO HỌC là một thuật ngữ bao hàm những ý nghĩa
kép. Có một ý nghĩa là ĐẠO và một ý nghĩa là học. Đạo
theo nghĩa chữ Hán là con đường, song đồng thời cũng lại
là một từ ám chỉ tâm linh mang ý nghĩa của một tôn giáo.
Học là một từ chỉ sự cố gắng nỗ lực của con người trong
quá trình rèn luyện cách sống, mở mang trí tuệ nên cha
ông ta thường nói học làm người, học làm thầy, học làm
quan.... Sau này chúng ta vẫn thường nhắc lại câu nói của
Lênin: “Học, học nữa, học mãi” ... Như vậy, HỌC ở đây
không chỉ là học chữ thuần tuý mà còn học nhân cách, học
lễ nghĩa, học để sống... Do vậy, ĐẠO HỌC mà chúng tôi
đề cập ở trong đề tài này là vấn đề giáo dục. Đã nói đến
giáo dục, học hành thì không chỉ thuần là Nho giáo, Nho
học mà trong cái nghĩa cụ thể nó còn được hiểu là học
hành thi cử và nền giáo dục Việt Nam những năm từ xa
xưa đến tận ngày nay.
Hăm hở với ý tưởng mới, chúng tôi bắt tay vào công
việc. Càng đọc, càng tìm hiểu chúng tôi lại càng bị choáng

6
bởi nếu viết về Đạo học dưới góc độ giáo dục thì chỉ mấy
năm Đổi mới và Cải cách giáo dục của nước ta thôi đã
ngồn ngộn một khối tư liệu. Tư liệu nói về những mặt
mạnh có, những mặt tiêu cực trong giáo dục thì cũng
khống thiếu. Rồi nền ĐẠO HỌC của chúng ta trước những
thách thức của nền kinh tế thị trường hiện nay. Cho nên
làm cách nào thê hiện được Đạo học Việt Nam từ xa xưa
đến nay không tô son mà cũng không bôi đen? Đây là thử
thách lớn đối với người viết.
Nghién ngâm trong khối tư liệu ngày một đồ sộ này,’
người viết cuối cùng cũng tìm ra một tiêu đề: NHO GIÁO -
ĐAO HOC TRÊN ĐẤT KINH KỲ (Thăng Long - Đông Đô
• Hà Nội). Ban đầu các tác giả chỉ định dừng lại phần trên
là Nho giáo Đạo học trên đất Kinh kỳ mà bỏ phần Thăng
Long - Đông Đô - Hà Nội. Sau khi viết mới thấy kẹt. Kẹt
một nỗi đến thời các vua Nguyễn (1802-1945), kinh đô
chuyển về Phú Xuân (Huế), mãi đến 1945 trở về sau Hà
Nội mới lại chính thức trở thành thủ đô của nước Việt Nam
dân chủ công hoà (1945-1975) và thủ đô của nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (từ 197Ó trở lại đây). Nếu
hiểu Kinh kỳ theo một nghĩa là thủ đô thì khi viết sẽ phải
bỏ qua một giai đoạn quan trọng từ 1802-1945. Và nếu cứ
viết thì người đọc có thể hiểu phần thời Nguyễn được thể
hiện là mảnh đất Thừa Thiên - Huế ngày nay, thật là không
hợp với chủ để lắm. Từ suy nghĩ trên, các tác giả, phải bổ

7
khuyết bằng một đề tít nhỏ ở dưới chỉ nhằm nói rõ mảnh
đất đang viết.
Mặc dù đề tài viết về Đạo học trên đất Kinh kỳ
(Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội) nhưng người viết không
chỉ khoanh gọn mang tính giới hạn của một địa phương mà
còn coi mảnh đất Kinh kỳ này (Thăng Long - Đông Đô -
Hà Nội) là một trung tâm giáo dục đào tạo tiêu biểu cho cả
nước và một khu vực lớn nên có nhiều người tuy không
phải sinh ra ở đây mà chỉ là bằng nhiều cách, có thể là con
nuôi, có thể theo gia đình lên học và đỗ đạt tại mảnh đất
này nên vẫn tính là người thuộc đất Kinh kỳ. Chính vì vậy,
nêu có phát hiện được một số tiến sĩ ở Thăng Long - Hà
Nội được thống kê trong sách này là những người sinh ra ở
địa phương khác cũng mong bạn đọc hiểu đúng ý đồ này
của những người viết.
Thêm nữa, khi đề cập tới chế độ học hành khoa cử ở
cấp tiến sĩ có nghĩa là chúng ta đang đề cập tới khía cạnh
đào tạo chất lượng cao mà ngày nay chúng ta gọi là đào tạo
sau đại học và thực tế hiện đang là như vậy. Cho nên, Văn
Miếu - Quốc Tử Giám chúng ta gọi là Trường đại học đầu
tiên của Việt Nam thì không sai nhưng về quy mô đào tạo
thì chưa xứng với tầm vóc của nó. Vậy có khi chúng ta nên
coi Văn Miếu - Quốc Tử Giám với quy mô như một học
viện lớn - một Đại học Quốc Gia - một Trung tâm đào tạo
ra các tiến sĩ chứ không chỉ đơn thuần đào tạo ra các cử

8
nhân như chúng ta quan niệm ngày nay. Và như vậy, trong
đề tài dù là thời xa xưa hay hiện tại, phần viết của đề tài
xin nghiêng về phần đào tạo sau đại học.
Cũng xin nói thêm rằng, những nghiên cứu về một nền
giáo dục chất lượng cao hiện nay của nước ta, các tác giả
cũng chỉ như là những người “cưỡi ngựa xem hoa” và cũng
chưa có thời gian, chưa dành trọn cho việc thống kê ghi
chép danh sách các tiến sĩ là người Hà Nội được phát bằng
Phó tiến sĩ, Tiến sĩ trong nước khoảng 30 năm trở lại đây.
Với tư cách là những người con của Hà Nội, đồng
thời cũng là những người đã từng có nhiều năm tháng
nghiên cứu và làm việc tại V ăn Miếu và hiện nay tuy ờ
những cương vị công tác khác nhau, các tác giả vẫn mơ
ước và cố gắng thực hiện cho được để tài này về Hà Nội.
Nhân kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội, nhân
kỷ niệm 30 năm đào tạo sau đại học trong nước (1976 -
2006), các tác giả mong muốn thể hiện và giới thiệu cùng
bạn đọc về một đề tài nhỏ: NHO GIÁO - ĐẠO HỌC TRÊN
ĐẤT KINH KỲ (Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội). Trong
khi thể hiện có gì sơ suất xin được lượng thứ và kính mong
nhận được những góp ý chân tình.
Hà Nội mùa xuân Bính Tuất
Các tác giả

9
NHO GIÁO - ĐẠO HỌC TRẼN ĐẤT KINH KÌ (THĂNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

Chương I
Nho giáo có phải là một tôn giáo?
Và những tác động của nó vào
“đạo học” ỏ Việt Nam
■ I ■

1.1. NHO GIÁO C Ó PHẢI LÀ MỘT TÔN GIÁO?


1.1.1. Nho g iáo qua con mắt của một nhà truyền
giáo châu Âu
A. De Rhodes một giáo sĩ Dòng Tên đã đến Việt
Nam truyền giáo hồi đầu thế kỷ X V II và đã có nhiều cống
hiến trong việc làm ra chữ Quốc ngữ nước ta. Trong quá
trình truyền giáo và học tiếng Việt ống đã làm cuốn từ điển
Việt - Bồ - La in tại Roma năm 1653. Bên cạnh đó, ông
còn viết một cuốn sách về Lịch sử xứ đàng Ngoài. Trong
cuốn sách này về phần Nho giáo ông viết:
“ ...Người đàng Ngoài cũng như người Tầu nói
chung, tin theo ba thứ tôn giáo gọi là tam giáo. Nhưng dân
tộc này tuy rất chất phác và rất có lương tri, lại theo rất
nhiều dị đoan trước khi ánh sáng Phúc Âm đến soi sáng
CHUÔNG 1: NHO GIÁO C Ó PHẢI LÀ MỘT TÔN GIÁO?

cho họ. Từ khi đức tin Kitô giáo được rao giảng và nhiều
người nhận biết đức Giê su Kitô thì họ đã thoát khỏi u
minh và tăm tối sai lầm bao trùm lên họ. Họ thoát khỏi
cảnh nô lệ khốn đốn ma quỷ bắt họ chịu.
Giáo phái thứ nhất và thời danh hơn cả là Đạo Nho.
Người khai sáng đạo này là một người Tầu tên là Khổng Tử,
sinh sống ở nước Tầu, theo sử liệu vào cùng thời với
Aristote bên Hi Lạp, nghĩa là vào khoảng 300 năm trước
thiên chúa giáng sinh. Người đàng Ngoài tôn ông là Thánh
nhân, nhưng vô lí và trái lẽ, như tôi đã có lần thuyết phục
họ. Bởi vì, theo tôi, nếu ngài được gọi là thánh nhân, thì
ngài phải biết có một đức Chúa Trời dựng nôn trời và đất,
nếu ngài không biết thì sao có thể là thánh được; không biết
đấng là cội nguồn và là nguyên nhân cho mọi sự thánh, ngài
chỉ thông truyền cho loài có lí trí bằng sự hiểu biết và yêu
mến thiên chúa cao cả. Nếu ông nhận biết, vì ông tự xưng là
bậc tiến sĩ và tôn sư thì phải giảng dạy sự hiểu biết cần thiết
cho sự cứu rỗi, đàng này ông không dạy nhưng rõ ràng
trong kinh sách của ông, ông không đề cập tới thiên chúa
nguyên lý mọi sự, thì sao có thể gọi ông là thánh?
Khi tôi giảng như thế trong nhà thờ trước mặt chừng
bốn chục người theo đạo này và là đồ đệ của Khổng Tử, thì
tôi trách giáo dân tân tòng và không cho họ được gọi ông
như thế nữa để khỏi phạm tới tên thánh và khỏi trái với
lương tâm, thì người ta rất chăm chú nghe và rất bằng lòng,

12
NHO GIÁO - ĐẠO HỌC TRẼN ĐẤT KINH KÌ (THẢNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

nhưng phái của Khổng Tử ở trong nhà thờ liền rút lui buồn
nản và xấu hổ nhưng vẫn ngoan cô' trong sai lầm như xưa,
trừ một người đã lôi cuốn được mấy người khác, ông đã ở
lại với chúng tôi, chứ không theo đám kia và ông đã nhận
được lời giáo huấn đầy đủ về các chân lý của đạo Kitô và
chịu phép rửa tội, tồi đặt tên là Gioan, ông đã muốn làm đồ
đệ Giê su Kitô hơn là môn đồ của Khổng Tử mà cho tới
nay ông đã theo.
Thực ra, Khổng Tử nhà hiến triết này, trong những
sách ông để lại, có nhiều giáo huấn về thuần phong mỹ
tục, như khi ông nói: trước hết hãy sửa mình và muốn thế
thì x ct mình mỗi ngày 3 lẩn đổ sửa điổu lầm lỗi. Sau đó
mới đem tâm trí và chuyên cần xếp đặt và điểu khiển gia
đình. Và sau khi đã cẩn thận chu toàn chức vụ đầu tiên này
chứ không trước khi đó, thì bấy giờ mới lo dìu dắt và cai trị
quốc gia.
Ông còn luận về nhiều điều liên hệ tới pháp lý dân
chính, về xét xử các vụ kiện và về thi hành công lý, do đó
các tiến sĩ đàng Ngoài nghiên cứu kinh sách của ông một
cách chuyên cần như chúng ta khảo sát hiến pháp hay bộ
luật. Ông còn trình bày và phân giải những châm ngôn về
chính trị và luật pháp tự nhiên. Vì thế ông không nói trái
với những nguyên lý của Kitô giáo và cũng không nói
những gì phải bác bỏ hay bị kẻ tin theo lên án.

13
CHƯƠNG 1: NHO GIẢO CÓ PHẢI LÀ MỘT TÔN GIÁO?

Nhưng khi ông đề cập trong một bộ sách về nguyên


lý độc nhất của vạn vật thì ông rơi vào một cảnh hỗn độn
to lớn và mù quáng trí khôn và lí luận không sao hiểu
được. Ông nhận nguyên lý đệ nhất thuộc vật thể và vô tri
không đáng được kính thờ. Thế nhưng ông muốn cho
người ta tôn kính và thờ cúng Trời mà ông công nhận đã
phát sinh và thoát ra từ nguyên lý đệ nhất mà ông chối
không cho tôn thờ đó. Và những sự tôn thờ này, ông còn
cho rằng tất cả mọi người không đồng hàng xứng đáng
được thực hiện, chỉ có bậc vua chúa trị dân mà thôi, như
thể nghĩa vụ tôn giáo không chung cho người dân cũng
như bậc vua chúa. Lại còn đáng trách hơn nữa, trong giáo
thuyết và kinh sách nhà hiền triết, đó là ông không đề cập
tới đời hằng sống và hồn bất tử, nghĩa là ông chỉ coi con
người thuộc về vật thể và nếu có hồn thì cũng là thứ hồn
vật lý, chìm trong khối và tan trong các phần thân thể, như
hồn súc sinh mà thôi. Ông cho con người chểt là hết,
không còn gì, những yếu tố cấp trên nhận di hài những
phần tinh vi và những yếu tố cấp dưới thì nhận di hài
những phần thô kệch. Rõ ràng là đưa tới vô thần và mờ
xấu, chỉ còn để lại một hình ảnh, một cái bóng hay hiện
tượng bên ngoài của nhân đức.
Thế mà người Đàng Ngoài, sang hay hèn, đều có
lòng tôn kính Khổng Tử rất mực và thờ kính như một
thượng đế. Họ dạy con cái lòng tôn thờ đó ngay từ khi

14
NHO GIÁO - ĐẠO HỌC TRẼN ĐẤT KINH KÌ (THẢNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

chúng còn nhỏ, vì ngay ngày đầu tiên đến trường để học
chữ Tầu, thì ông thày trước khi nhận trò làm môn đồ, đã
quì gối cùng trò và dạy bài thứ nhất cho trò biết cách phải
xưng Khổng Tử thế nào và phải kêu xin ngài phù hộ cho để
được trí khôn minh mẫn và dễ dàng học những điều người
ta chỉ bảo cho, gọi là sáng dạ - nghĩa là có bụng sáng. Điều
mơ ước này còn tha thứ được vì họ tưởng các khoa học
cũng như thịt thà được nhận và chứa trong bụng; họ tin
rằng từ một người chết và vô đạo, họ hy vọng nhận được
một trí thông minh. Cả những tiến sĩ và các văn nhân cũng
rơi vào điên cuồng này, khi họ đi thi để được bằng cấp, và
khi được rồi thì tới phục dưới đất trước bàn thờ ông Khổng
Tử để lễ tạ. Thật là một dị đoan điên dại thông dụng nơi
lương dân. Nhưng giáo dân tân tòng chỉ nhận có đức Giê
su Kitô là nguyên lý tối cao và là ánh sáng soi tất cả, do đó
mà nảy sinh trí minh mẫn. Họ phục lạy ba lần trước ảnh
Người, từ lúc còn thơ ấu, xin Người ban ơn vì được hạnh
phúc khởi sự, được tiến bộ trong việc học hành và thành
đạt trong thi cử. Họ còn tạ ơn Người vì những ơn huệ đã
được....”1.
Không khác nhiều với ý kiến trên, vào thập niên 70 -
80 của thế kỷ X X , nhiều học giả Trung Quốc, Việt Nam và

'Alexandre De Rhodes. Lịch sử vương quốc đàng Ngoài - Histoire du


Royaum de Tunquin. Bản Việt ngữ cùa Hổng Nhuệ. Tủ sách Đại Kết. ƯB
đoàn kết công giáo Tp H C M .1994 (tr: 38-41).

15
CHƯƠNG 1: NHO GIÁO CÓ PHẢI LÀ MỘT TÔN GIÁO?

một Số nước khác cũng, cho rằng Nho giáo lại không phải
là một tôn giáo.
Gần đây, trong một cuộc hội thảo về “Tôn giáo và
những biến đổi xã hội” tổ chức tại Hà Nội, tác giả Trần
Hiếu Minh ở Đại học Trung Sơn (Quảng Đông) đã cho
rằng, nếu xét về tính thực tiễn xã hội của Nho giáo thì Nho
giáo không phải là một tôn giáo. Song nếu xét trong bối
cảnh các yếu tô' văn hoá truyền thống Phương Đông thì có
thể coi Nho giáo là một tôn giáo dù là sơ khai. Vậy Nho
giáo nên hiểu như thế nào?
1.1.2. Chu Công - Khổng Tử
1.2.1.Chu Công (1066 - 770)
Chu Công họ Cơ, tên Đán, là em ruột của Chu Vũ
vương, có công giúp Vũ vương hội quân các chư hầu đánh
bại Trụ vương nhà Ân, lập nên triều đại Tây Chu (1066-
770). Sau khi Vũ vương mất, Thành vương nối ngôi còn
nhỏ tuổi, Chu Công hết lòng phò tá, sửa định quan chế,
quy định Pháp độ, trăm họ được vui sống. Khổng Tử từng
nói rằng: "Nhà Chu noi gương tốt của hai triều trước (Hạ,
Thương), lễ nghi nhà Chu rực rỡ làm sao!" (Sử ký Khổng
Tử thế gia).
Mặc dù ở địa vị cao, có uy tín lớn, Chu Công không
mưu toan giành ngôi báu cho mình. Sau 7 năm dẹp loạn
lập trị, cũng vừa lúc Thành vương khôn lớn, Chu Công trao

16
NHO GIÁO - ĐẠO HỌC TRÊN ĐẤT KINH KÌ (THẰNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

lại quyền trị nước cho Thành vương. Người đời ca tụng sự
nghiệp của Chu Công, thường lấy sự tích Chu Công phụ
chính cho Thành vương làm đề tài vẽ tranh, sáng tác thơ
văn để biểu dương mẫu mực của bậc trung thần.
1.2.2. Khổng Tử (551-479 tCn)
Khổng Tử quê ở Âp Trâu, huyện Xương Bình nước
Lỗ, nay thuộc huyện Khúc Phụ tỉnh Sơn Đông, sinh ngày
27 tháng 8 năm thứ 21 đời Chu Linh Vương (28-9-
551tCn). Cha là Khổng Thúc Lương Ngột trước có một đời
vợ, ngoài 60 tuổi mới lấy bà Trưng Tại họ Nhan; mất khi
Khổng Tử mới chào đời.
Khổng Tử nhà nghèo nhưng ham học, đến khi khôn
lớn từng làm người tính toán đo lường cho nhà họ Quý.
Chưa đến 30 tuổi đã nổi danh học vấn, học trò gần xa đến
theo học ngày càng đông. Năm 35 tuổi vì nước Lỗ loạn lạc,
Khổng Tử sang nước Tề, sau 2 năm lại trở về nước Lỗ.
Năm 506, Khổng Tử có chuyến đi lịch sử cùng với Tả
Khâu Minh đến kinh đô nhà Chu sưu tập sử liệu của nhà
Chu. Cùng trong năm này Khổng Tử đến thăm Lão Tử
đang làm Sử quan trông giữ kho tàng thư của nhà Chu.
Trở về nước Lỗ ít lâu, Khổng Tử lần đầu tiên nhậm
chức quan Tế thành Trung Đô của Lỗ Định Công (501
tCn), có chính tích tốt, được thăng làm Tư Không (499) rồi
Đại Tư Khấu nước Lỗ (498) từng đươc giữ chức Tướng

1?
CHUONG 1: NHO GIÁO CÓ PHẢI LÀ MỘT TÔN GIÁO?

quốc. Trong 3 tháng cầm quyền, Khổng Tử đã hạ lộnh giết


Thiếu Chính Mão là quan Đại phu làm rối loạn chính sự,
nước Lỗ được yên trị lớn:" Những người bán cừu bán lợn
không dám bán thách, con trai con gái đi đường theo 2
phía khác nhau, trên đường đi không ai nhặt của rơi; những
người khách từ 4 phương tới Thành Âp không cần phải nhờ
tới các quan, vì người ta đều xem họ như người trong
nhà."2. Nhưng chủ trương chính trị của Khổng Tử không
được vua nước Lỗ ưa thích, Khổng Tử bèn bỏ nước Lỗ
sang nước Vệ (484) nhân có Quý Khang Tử sang đón, thầy
trò Khổng Tử lại trở về nước Lỗ mà ông hằng yêu quý gọi
là "phụ mãu chi bang" (nước của cha mẹ), Khổng Tử tiếp
tục dạy học, đào tạo hàng loạt trí thức Nho sĩ cho đất nước.
Tuy hoạt động chính trị của Khổng Tử không mấy
thành công nhưng ông lại đạt thành tựu lớn lao trong sự
nghiệp dạy học, trở thành nhà giáo dục vĩ đại nhất trong
lịch sử Trung Quốc. Trước Khổng Tử giáo dục còn là một
đặc quyền của tầng lớp quý tộc, Khổng Tử là người đầu
tiên đề xướng chủ trương "Hữu giáo vô loạt" - Có nghĩa là
trong việc giáo dục không nên phân biệt loại người này
hay loại người kia, dù xuất thân nghèo hèn, chỉ một bó
nem đưa đến yết kiến cũng được Khổng Tử thu nhận vào
trường. Rất nhiều học trò của ông thuộc vào số này, trong

2 Xem thêm: Sử ký Tư Mã Thiên, Khổng Tử thế gia.

18
NHO GIÁO - ĐẠO HỌC TRẼN ĐẤT KINH KÌ (THĂNG LONG - ĐỔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

đó CÓ những người rất nổi tiếng như: Nhan Uyên, Tăng


Sâm, Mãn Tử Khiên, Nhiễm Canh, Nhiễm Ung ... Khổng
Tử tự hào về ý chí ham học, cầu tiến suốt đời học không
biết chán, dạy người không biết mỏi. Qua tất cả những việc
ông đã làm hầu như chỉ muốn minh chứng về một xã hội
với những quan niệm lý tưởng có thể coi là một chủ thuyết
về Đức Nhân cao cả, đủ sức quy tụ mọi giá trị tinh thần tốt
đẹp của xã hội.
Trong đạo đức từng người, Đức Nhãn đó là tiêu
chuẩn để tu thân rèn trí, dám xả thân vì chính nghĩa (sát
thân thành nhân). Trong quan hệ xã hội, Đức Nhân là sự
Ihành thực, lòng irung thành, biếl đại mình vào hoàn cảnh,
vị trí của người khác. Đó cũng là đạo "Trung thứ” gắn
liền với danh tiếng của Khổng Tử.
Trong những năm cuối đời, Khổng Tử tiếp tục san
định Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, bình giải Kinh Dịch,
viết sử Xuân Thu, có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển tư
tưởng, văn hoá của nước Trung Hoa vĩ đại, được tôn xưng
là "Đại thành ch í thánh tiên sư" hoặc “Vạn thê sư biêu ”.
1.1.3. Học thuyết của Khổng Tử
Khổng Tử khảo cứu những chế độ và phong tục thời
cổ, ngẫm nghĩ những tư tưởng của các bậc thánh hiền đời
trước và suy xét cái lẽ biến hoá của trời đất, rồi đem những
điều của Ngài đã tâm đắc lập thành một cái học thuyết có

19
CHUONG 1: NHO GIÁO CÓ PHẢI LÀ MỘT TÔN GIÁO?

tôn chỉ rất cao, quán triột cả căn nguyên của vạn vật và các
lẽ sinh hoá ở trong vũ trụ, cả tâm tính và sự hành động của
con người ta. Cái học thuyết ấy thành ra một môn nhân
sinh triết học rất cao, rất rộng, có thể thi hành ở đời nào và
xứ nào cũng được. Ngài đem học thuyết ấy truyền thụ cho
học trò. Học trò của Ngài ai học được điều gì, hay ghi nhớ
được những lời Thầy dạy, đem ra làm thành các sách để
truyền lại cho hậu thế.
Nay xem kỹ các kinh truyộn do học trò ghi lại, có thể
biết rõ các manh mối các học thuyết ấy được chia ra làm
hai phần: một là Hình nhi học thượng tức là cái học về
những lẽ vô hình, rất uyên áo cao viễn; hai là Hinh nhi
học hạ tức là cái học thuộc về những điều quan hệ đến
nhân sinh nhật dụng của người đời.
Khổng Tử có nhiều điều nói rõ ở trong Kinh Dịch, là
sách để làm căn bản cho sự lý học của Nho giáo và trong
sách Trung dung là sách triết học bàn về thiên đạo và nhân
đạo rất sâu xa. Có thể chia phần ấy ra thành các mục sau:
Quan niệm về Trời và Người: Thái cực và sự biến hoá
của thiên lý; Người và sự Tri giác - Trung - Sinh - Nhân -
Thiên mệnh - Quỷ thần - Kính và Thành - Sinh tử. Đạo
của Khổng Tử - Cái vui trong sự sinh hoạt.
Phàm đã là triết học cao xa, thì tất phải có quan niệm
về các nguyên lý và các nguyên nhân của sự sinh hoá trong

20
NHO GIÁO - ĐẠO HỌC TRÊN ĐẮT KINH KÌ (THẢNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

VŨ trụ. Khổng Tử là bậc thượng trí, Ngài nghĩ ngợi mà suy


xét mọi việc rồi phát minh ra học thuyết, lấy thiên lý làm
căn bản. Ngài cho là đất trời và vạn vật đều có cái lý ấy cả,
tất cả là cùng một thể, cho nên ngài mới chủ định lấy thiên
địa vạn vật nhất thể làm chủ thuyết của mình.
Cái động thể của lý ấy là bởi hai thể khác nhau là
động và tĩnh. Động là dương, tĩnh là âm. Dương lên đến
cực độ lại biến ra âm. Âm lên đến cực độ lại biến ra dương.
Hai thể ấy cứ theo liền nhau, rồi điều hoà với nhau sinh ra
đất trời và vạn vật.
Trước hai thể tương đối ấy dẫu gì cũng là không, vì
khởng sao mà biết được. Song khi hai cái tương đôi ay
được phát hiện ra, thì cái gì cũng hiển nhiên, không thể nói
là không có được. Đó là cốt yếu của lý tưởng Kinh Dịch.
Vậy Dịch là gì? Dịch là biến đổi. Trong trời đất không có
gì là không biến đổi. Đó là quan niệm rất trọng yếu của
Khổng giáo. Phàm đã nói là biến đổi, thì cái đơn nhất cái
tuyệt đối không biến đổi được, tất phải có hai cái tương
đối, tương điều hoà, thì mới sinh sinh hóa hoá được. Theo
cái ý tưởng ấy thì cái đạo trời đất khởi đầu rất giản dị. Do
cái giản dị mà thành ra những cái phức tạp. Âm dương
thuộc về phần hình nhi thượng, tức là không phải vật có
hình, chẳng qua là cái phụ hiệu hai cái tương đối mà thôi.
Đạo trời đất phải có tương đối thì mới biến hoá vô cùng,
không bao giờ nghỉ, cho nên vạn vật trong vũ trụ chỉ có

21
CHUONG 1: NHO GIẢO C Ó PHẢI LÀ MỘT TÔN GIÁO?

biến chứ không có định. Vậy học thuyết của Khổng tử cốt
ở đạo Dịch, mà đạo Dịch là đạo biến hoá của trời đất. Sự
biến hoá của Trời như sự mở sự đóng, mà đạo Trời thì cứ
qua lại mãi. Một mở một đóng gọi là biến, qua lại không
cùng gọi là đạo. Đạo Trời chỉ có thế thôi.
Con người có địa vị rất lớn trong vạn vật, cho nên
người ta phải biết người là thế nào và tại làm sao người lại
có địa vị ấy. Trời đất sinh ra người lại phú cho cái tính rất
quý, tức là người chịu cái đức của trời đất. Người lại bẩm
thụ được hoàn toàn cả cái tinh thần linh diệu và cái khí
chất tinh tú, cho nên mới nói là linh hơn vạn vật. Nhờ có
cái tinh thần và cái khí chất ấy người ta mói có cái sáng
suốt để hiểu hết các sự vật.
Cái sáng suốt tự nhiên có sẵn là cái tính rất quý của
con người. Nhờ nó mà người ta có thể hiểu được điều phải,
điều trái, việc hay việc dở. Cũng chính nhờ nó mà con
người mới có cái giá trị rất cao và cùng vói trời đất mà
chiếm được cái địa vị tôn quý trong vũ trụ.
Thiên lý tuy biến hoá ra trăm đường ngàn lối, nhưng
rút lại cũng chỉ thuộc về một mối mà thôi. Hễ người ta biết
rõ như thế, thì còn phải lo nghĩ gì nữa.
Cái học của Khổng Tử là cốt khiến người ta gắng hết
sức, đem cái sáng suốt tự nhiên mà hiểu rõ cái nghĩa tinh
vi, vào cho đến cái thần diệu của các sự vật, thì sự biết mới
thực là xác thực và việc làm mới thật là hay.

22
NHO GIÁO - ĐẠO HỌC TRÊN ĐẤT KINH KÌ (THẢNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

Khi Sự biết của con người vào được sâu xa như thế,
thì người ta hiểu rằng ở trong thế gian tuy có trăm gường
ngàn mối, nhưng thiên lý chỉ có một mà thôi.
Đạo trời đất là cứ biến hoá luôn luôn, mà trong sự
biến hóa nào cũng có điều hoà, có bình hành, tức là cái
trung vậy. Trời đất và vạn vật có trung thì mới đứng được
và có cái hòa thì mới hoá dục được. Cho nên trung là gốc
của lớn của thiên hạ, hoà là cái đạt đạo của thiên hạ. Trung
có thể và có dụng. Thể là cái thái độ ngay chính lúc nào
cũng không nghiêng không lệch, mà lại có cái sáng suốt
biết rõ sự thực. Dụng là thi hành ra thì làm việc gì cũng
không thái quá, không bất cập. Theo được đạo trung thực
là rất khó, học giả phải giữ cái tâm của mình cho tinh
thuần và chuyên nhất thì mới có thể theo đúng được. Trung
là cái yếu điểm của Khổng giáo. Hễ người ta giữ được cái
trung thì mọi hành vi động tác của mình mới điều hoà và
mới trúng cách. Nhưng phải biết rằng cái trung của Nho
giáo không bao giờ có cái định vị tuyệt đối, cứ phải tuỳ cái
địa vị, cái cảnh ngộ mà tìm ra cái Trung.
Đạo trời đất theo cái trung mà biến hoá luôn, làm cho
mỗi ngày một mới hơn, một tốt hơn, đó là cái thịnh đức
của trời đất. Một âm một dương biến hoá ra vạn vật, mà
Dịch là để biểu thị cái đạo ấy, cho nên mới nói rằng: sinh
sinh chi vị Dịch, Sinh sinh ra mãi gọi là Dịch. Xem ra như
thế thì mới biết cái đạo của Khổng Tử cốt lấy sự sinh là

23
CHUƠNG 1: NHO GIÁO CÓ PHẢI LÀ MỘT TÔN GIÁO?

trọng hơn cả. Ngài cho sự sinh của vạn vật là theo lẽ tự
nhiên. Đó là quan niệm rất trọng yếu của Khổng giáo.
Khổng giáo sở đĩ không giống các tôn giáo khác cũng có
cái quan niệm ấy mà thôi. Thường thì tôn giáo nào cũng
cho sự sống là một cảnh khổ, cho nên cứ phải tìm cách giải
thoát, như Phật giáo thì cầu lấy sự “bất sinh”, Lão giáo thì
cầu lấy sự “Vô vi tịch mịch” không thích gì đến sự đời.
Duy chỉ có Khổng giáo là lấy cái lẽ sinh hoạt ở đời làm vui
thú, hợp với lẽ trời đất. Khổng giáo cho sự sinh hoạt tự nó
là cái mục đích của tạo hoá, không cần phải hỏi rằng: sinh
ra để làm gì? hay là chết thì đi về đâu? Lẽ trời chỉ có âm
dương biến hoá mà thôi, tinh khí tụ lại là sinh, tan ra là lử,
cứ tự nhiên lưu hành như thế mãi, vạn vật đều theo cả cái
lệ ấy.
Người là một phần trong vạn vật, cho nên phải theo lẽ
trời mà biến hoá, nhưng chỉ có phần vật chất là phải biến
hoá mà thôi. Còn phần tinh thần của Trời phú cho thì bao
giờ cũng có cái tư cách độc lập và cái năng lực tự do để cố
gắng mà tiến lên cho đến chí thiện, chí mỹ. Vì hợp với cái
đức sinh là thiện, trái với đức sinh là ác. Cái quan niệm về
sự thiện ác của Khổng giáo cốt ở sự sinh. Sự sinh là phần
rất linh hoạt trong đạo Khổng. Bởi có phần ấy cho nên
những điều nhân nghĩa lễ trí mới có tinh thần. Vì những
điều ấy chủ ở sự gây thành cái sinh thú của nhân loại. Nếu
người ta sống ở đời mà chỉ tuỳ tùng cái vật dục, để nó sai

24
NHO GIÁO - ĐẠO HỌC TRÊN ĐẤT KINH KÌ (THĂNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

khiến, rồi chỉ cầu lấy tư tâm tư trí mà bày việc ra để làm
nhiễu loạn nhân tâm, thì thật là làm hại cho cái sinh cơ của
tạo hoá. Vậy nên cái tôn chỉ của Khổng giáo là theo thiên
lý mà bồi bổ cho sự sinh của trời đất. Sự bồi bổ đó là gốc ở
đạo nhân là cái cơ sở giáo hoá của đạo Khổng.
Đạo Trời có bốn đức là nguyên, hanh, lợi, trinh; thì
đạo Người cũng có bốn đức là nhân, nghĩa, lễ, trí.
Chữ nhân được cấu tạo là có chữ nhân và có chữ nhị
tạo thành một chữ hội ý. Nghĩa là nói cái thể và cái đức
chung của mọi người đều có với nhau như một. Bởi vậy
hiểu rõ chữ nhân, thì hiểu rõ cái tôn chỉ nhất thể của
Khổng giáo.
Thế nào là nhân? Các đệ tử hỏi Khổng Tử, thì Ngài
tuỳ học lực, tư cách của từng người mà trả lời với mỗi
người một khác. Nhan Tử hỏi nhân. Ngài nói rằng: “Sửa
mình trở lại theo lễ là nhân”. Phàn Trì hỏi nhân. Ngài nói
rằng: “Yêu người”. Trọng Cung hỏi nhân. Ngài nói rằng:
“Ra cửa phải như tiếp khách lớn, trị dân phải làm như lễ tế
lớn, điều gì mình không muốn ai làm cho mình, thì không
nên làm cho ai”. Tử Trương hỏi nhân. Ngài nói: Có thể
làm được năm điều ở thiên hạ là nhân vậy. Năm điều là
cung, khoan, kính, mẫn, huệ. Cung thì không khinh nhờn,
khoan thì được lòng người, tín thì người ta tin cậy được,
mẫn thì có công, huệ thì đủ khiến được người.

25
CHUONG 1: NHO GIÁO CÓ PHẢI LÀ MỘT TÔN GIÁO?

Cứ theo ý nghĩa mấy câu ấy thì nhân là sự hành động


của con người phải phù hợp với thiên lý chí công và phải
bỏ hết các tư tâm tư ý, khiến cho đối với người 'cũng như
đối với mình, lúc nào cũng kính cẩn và thân ái. Song đó
mới chỉ là cái dụng của nhân.
Nhân còn cái nghĩa khác rộng hơn như Khổng Tử
nói: “Ngưci trí giả thích nước, người nhân giả thích núi, trí
giả động, nhân giả tĩnh”3. Nhân là cái gốc lớn của sự sinh
hoá trong trời đất. Thế gian nhò đó mà đứng, vạn vật nhờ
đó mà sinh, quốc gia nhờ đó mà còn, lễ nghĩa nhờ đó mà
phát hiện ra, cho nên Khổng giáo lấy cái nhân làm cái tôn
chỉ duy nhất trong tôn giáo, chính trị và học thuật của thiên
hạ. Đối với từng người một thì cái nhân là cái hành xích để
biết việc phải trái, điều hay dở. Sự ngôn luận, sự hành vi
của người ta mà hợp với đạo nhân là hay là phải, trái với
đạo nhân là dở là xấu.
Đạo nhân to lớn như vậy, sâu xa như vậy, cho nên cái
học của Khổng Tử chủ cả ở chữ nhân. Vì thế cho nên mới
nói: “Người quân tử trong khoảng bữa ăn cũng không trái
nhân, vội vàng cũng phải theo nhân, hoạn nạn cũng phải
theo nhân”4.
Đạo nhân có thể vừa thấp cho ai cũng với đến được,
mà cao thì cũng cao vô cùng. Học đạo nhân thì phải lập chí

’ Trần Trọng Kim: Nho giáo, Nxb Vân hoá thông tin - Hà Nội 2001; ữ: 88-89.
4 Luận Ngữ: phần Lý Nhân, VI.

26
NHO GIÁO - ĐẠO HỌC TRẼN ĐẤT KINH KÌ (THĂNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

theo cho đến cùng, dẫu chết cũng không bỏ. Khổng Tử nói
rằng: Người chí sĩ bậc nhân nhân, không ai cầu sống mà
hại đạo nhân, chỉ có kẻ giết mình mà làm cho thành đạo
nhân. Nhân là cái đích tu dưỡng của Nho học. Ai đã tu đến
bậc nhân thì làm việc gì cũng đúng cách, có điều hoà và có
bình hành, thích hợp với thiên lý lưu hành tự nhiên.
Quan niệm của Khổng Tử về Trời hay Thượng đế
không giống như quan niệm như nhiều người đang tưởng
tượng ra, ông Trời và Thượng đế có hình dáng, có tình
cảm, có tư dục như con người. Theo Khổng Tử thì Trời hay
Thượng đế chỉ là cái Lý vô hình, rất linh diệu, rất cương
kiện, m à khi đã định sự biô'n động ra thế nào thì dẫu sao
cũng không thể cưỡng lại được. Khổng Tử tin có Trời như
thế, và có thiên mệnh cho nên Ngài nói rằng: “Không biết
mệnh trời thì không lấy gì làm quân tử”5. Những công việc
ta đang làm ở đời thành hay bại, thế cục thịnh hay suy đều
do thiên mệnh cả. Cái đạo của Ngài mà thi hành được cũng
là mệnh trời, mà không thi hành ra được cũng là mệnh trời.
Tri mệnh tức là biết vui theo mệnh Trời mà sinh hoạt,
mà làm cho phải đạo, chứ không thể lấy cái riêng tư của
mình mà cưỡng lại. Nhưng tri mệnh là điều rất khó, đến
ngài Khổng Tử cũng phải tới năm mươi tuổi mới biết mệnh
Trời, huống chi là người thường. Theo mệnh Trời thì con

5 Luận Ngữ. phần Nghiên viết, X X .

27
CHUONG 1: NHO GIÁO CÓ PHẢI LÀ MỘT TÔN GIẢO?

người phải có cái khí cương kiện mới theo nổi, không thì
thành sẽ thất bại ngay.
Xem như thế mới thấy đạo của Khổng Tử vẫn là cái
đạo có khí lực mạnh mẽ, khiến người ta phải cô' gắng mà tự
cường luôn, chứ không có điều gì là hèn yếu trễ nải. Cụ
Khổng tin có Trời, có thiên mệnh tất tin có quỷ thần. Quỷ
thần là cái khí thiêng liêng ở trong trời đất, tuy mắt ta
không trông thấy, tai ta không nghe thấy nhưng vẫn thể
được cả muôn vật, không sót một vật nào, đâu cũng hình
như ở trên đầu ta, ở bên trái, ở bên phải.
Tế quỷ thần là lấy sự tận tâm để tỏ cái lòng tôn kính,
chứ không phải là tế để cầu lấy cái phúc riêng cho mình
như những người thường vẫn tin tưởng. Quỷ thần là thông
minh chính trực, có lẽ nào lại thiên vị ai bao giờ. Người ta
ở đời cứ theo cái lẽ công chính mà làm, đừng làm việc gì
tàn bạo gian ác. Những người làm những điều trái với đạo,
phải tội với trời thì dẫu có cầu nguyện quanh năm cũng
không có ích gì.
Khổng Tử tin có Tròi và có Quỷ thần nên cái đạo của
Ngài không phải là vô thần. Song phải biết rằng Khổng Tử
cho Trời là cái Lý linh diệu chí công chí chính, mà quỷ
thần là cái linh khí của trời đất, rất thông minh chính trực,
tức là Trời và Quỷ thần không có điều gì thiên tư. Người và
vạn vật sinh ra trong thế gian cùng thừa hưởng một lý, một
khí của Trời, duy chỉ có thanh trọc khác nhau mà thôi. Vậy

28
NHO GIÁO - ĐẠO HỌC TRÊN ĐẮT KINH KÌ (THẢNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

nên đối với Trời và Quỷ thần, người ta phải lấy lòng kính
cẩn và thành thực mà thờ phụng. Kinh Thư nói rằng: “Trời
không thân với ai, chỉ thân với người hay kính..., quỷ thần
không thường chứng giám cho ai, chỉ chứng giám cho kẻ
hay thành.”. Do vậy chỉ có kính và thành mói cảm động
đến Trời và Quỷ thần được. Đã thờ Trời tất phải thờ quỷ
thần. Nhưng thờ quỷ thần chỉ cốt ở lòng thành. Như vẠy
kính thành là cái gốc luân lý của Nho giáo.
Có kính thì mới giữ được cái bản tính cho thuần nhất,
và có thành thì Người với Trời và Quỷ thần mới tương cảm
với nhau. Thiết tưởng kẻ học giả có hiểu rõ hai chữ kính
Ihành mới biếi đưực nghĩa lý những điẽu nhan nghĩa lẽ trí
và mới hiểu được cái tinh thần của Nho giáo.
Đạo của Khổng Tử là cái lý tự nhiên của Trời, Đất, là
con đường rộng ai cũng phải theo mà đi, tức là cái công lệ
trung chính để làm quy tắc cho sự hành động của người
đời. Khổng Tử theo lẽ điều hoà của Trời Đất và đem những
tư tưởng và sự hành vi của các đế vương đời trước mà lập
thành đạo để dạy thiên hạ. Ai theo được đạo ấy mà ăn ở là
hay, là người quân tử. Không theo được đạo ấy là dở, là kẻ
tiểu nhân. Cho nên mới gọi là quân tử chi đạo - Đạo của
người quân tử. Đạo ấy gồm tất cả cái phải, cái hay, tổng
hợp các đức tính tốt để gây thành cái nhân cách hoàn toàn
của con người ta. Muốn làm được vậy con người ta phải

29
CHUONG 1: NHO GIÁO C Ó PHẢI LÀ MỘT TÔN GIẢO?

học, học làm người quân tử, học làm quan phục vụ đất
nước, phục vụ nhân dân.
Theo Khổng Tử thì học là để giữ được cái tâm cho
trung chính và làm việc cho thành thực, để sự biết và sự
làm hợp làm một, trong ngoài không có hai. Ngài nói:
“Quân tử tiến đức tu nghiệp. Trung tín là để tiến đức, tu
tỉnh ngôn từ, lập cái thành thực của mình, là để giữ vững
cái nghiệp vậy. Biết chỗ đến mà đến chỗ ấy là có thể gần
cái đức. Biết chỗ cuối cùng mà suốt cuộc đời giữ vững là
có thể giữ cho còn cái nghĩa vậy”. (Văn Ngôn truyện)6.
Cái học hoàn toàn của Khổng giáo, nói rút gọn lại là
để chí vào cái đạo, giữ lấy cái đức, tựa vào cái nhân, ưu du
ở nghệ thuật. Nghĩa là cái đạo của Khổng Tử không phải là
chỉ học đạo đức mà thôi mà vẫn chuộng cả sự tinh thông
lục nghệ để sống ở trên đời nữa.
Người quân tử bao giờ cũng muốn có đức song còn
phải có học nữa, thì cái đức mới thật là tốt, là hay. Khổng
Tử dạy rằng: “Muốn nhân mà không muốn học thì bị cái
che mờ là ngu; muốn trí mà không muốn học thì bị cái che
mờ là cao kỳ thái quá; muốn tín mà không muốn học thì bị
cái che mờ là hại nghĩa; muốn trực mà không muốn học thì
bị cái che mờ là ngang ngạnh; muốn dũng mà không muốn
học thì lại bị cái che mờ là loạn; muốn cương mà không

6 Trần Trọng Kim đã dản; tr: 126.

30
NHO GIÁO - ĐẠO HỌC TRÊN ĐẤT KINH KÌ (THĂNG LONG - ĐÔNG ĐỒ - HÀ NỘI)

muốn học thì bị cái che mờ là táo bạo khinh suất”7. Tóm
lại người quân tử muốn làm gì cũng phải học. Học thuyết
của Khổng Tử là như vậy. Khổng giáo - Nho giáo người
Việt Nam chúng ta gọi đơn giản đi là Đạo - Đạo học. Học
làm người, học làm thầy, học làm quan thông qua một hệ
thống đào tạo và thi cử khống đơn giản.
1.1.4. C ơ sở thờ tự
Thuật ngữ này có thể có nhiều cách gọi khác nhau.
Tôn giáo học gọi là cơ sở thờ tự. Văn hoá học, Sử học thì
gọi chúng bằng cái tên di tích - tức là những cái của lịch sử
còn để lại cho mai sau. Trên thực tế, thuật ngữ di tích, di
lích lịch sử, di lích van hoá chỉ dưọc sử dụng rất hạn hẹp
trong khuôn khổ khi chúng ta nghiên cứu lịch sử. Còn với
các cơ sở mà người ta bây giờ mới xây dựng để thờ cúng thì
khó có thể gọi là di tích nhưng nó lại mang đầy đủ chức
năng như các di tích khác. Do vậy trong phần này chúng tôi
sử dụng khái niệm cơ sở thờ tự cho nghiên cứu của mình.
Tất cả những nơi thờ tự ấy rất khác nhau về mặt cấu
trúc và nhất là về mục đích sử dụng. Có cả thảy tám loại, là
đình, đền, chùa, miếu, điện, tĩnh, cây hương hay cây nhang,
vãn miếu. Có nghĩa nhất về phương diện kiến trúc là đình,
chùa, đền và văn miếu, còn bốn loại kia hầu hết chỉ là
những ngôi nhà bằng gạch, bằng tre hay bằng đất trát.

7 Trần Trọng Kim dã dẫn; tr: 127

31
CHUONG 1: NHO GIÁO CÓ PHẢI LÀ MỘT TỔN GIÁO?

1.4.1. Đình
Nói về đình, trước đây ông Nguyên Văn Khoan đã
có một công trình nghiên cứu rất súc tích, có thể xếp nó
vào kiến trúc dân dụng và cả kiến trúc tôn giáo cũng được.
Nó ăn vào kiến trúc dân dụng với tính cách là ngôi nhà
công cộng, nơi các kỳ hào hội họp khi làng có hội hè hay
để bàn công việc của làng xã; và ăn vào kiến trúc tôn giáo
vói tính cách là thờ tự, có đặt bàn thờ của một hay nhiều vị
thành hoàng của làng.
Về nguyên tắc, nó gồm có hai căn nhà lớn, song hành
và hàng cột kích mái phía trước. Căn nhà phía trong
thường là hình chữ T đảo ngược, gồm có hai phần tách
bạch; bàn thờ của một hay nhiều vị thành hoàng và những
gian rộng có nhiều cấp ngày tế thần dùng làm nơi chè chén
và lúc khác thì làm chỗ hội họp của các kỳ hào đến bàn
việc hành chính hay tư pháp.

Ở phía giữa và thẳng góc với hai căn nhà lớn này có
hai dãy nhà ngang, cách nhau bằng một cái sân rộng. Hai
dãy nhà này là nơi đặt bếp và mổ bò, mổ lợn để làm cỗ bàn.

Có nhiều làng ở vùng Bắc Bộ, đình làng làm khá đơn
giản, có khi chỉ là một ngôi nhà hình chữ nhật. Trái lại, ở
những làng khác, đình làng rất hoành tráng, gồm nhiều căn
nhà lớn.

32
NHO GIÁO - ĐẠO HỌC TRỄN ĐẤT KINH KÌ (THẢNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

Cùng với chùa, đình là một trong những kiến trúc có


ý nghĩa cũng như nghệ thuật trang trí khung nhà thể hiện
phong phú nhất.
Nguồn gốc của đình chưa được biết rõ lắm, có người
định tìm nguồn gốc của nó ở Trung Quốc. Có nhiều sách
nói rằng kiến trúc này đã xuất hiện ở Trung Quốc từ đời
Hán. Theo họ, đình là nơi nhân dân định cư yên ổn. Chữ
đình có nghĩa là dừng lại hay cư trú, phán đoán hay dàn xếp.
Điều này hoàn toàn không đưa lại một bằng chứng gì
vế nguồn gốc Trung Quốc của nó. Chúng tôi có phần tin
hơn rằng nó có nguồn gốc Indonesien.
Thật vậy, đáng chú ý ở chỗ nó là loại kiến trúc Việt
Nam duy nhất xây dựng trên sàn cột. Chúng tôi chưa hể
thấy một sự vi phạm nhỏ nào đối với nguyên tắc ấy. Ở
Trung Quốc, lối xây dựng này không thấy có, ít ra theo
như chỗ chúng tôi được biết. Ngược lại thì mọi thể loại
kiến trúc Indonesien đều xây dựng trên sàn cột. Hơn nữa,
chúng ta cũng gặp lại ở tất cả các dân tộc đó, kể cả người
dân tộc Tây Nguyên, những ngôi nhà công cộng (nhà
rông), những nơi để cho du khách dừng chân tạm trú, nếu
hiểu theo nghĩa chữ đình trong sách Ying điêng pa che.
Chúng ta đã thấy những kiến trúc loại đó ở trên mặt
trống đồng. Loại hiện vật này rõ ràng là gốc Indonesien
mà V. Gô Lu Bép đã chỉ ra.

33
CHƯƠNG 1: NHO GIÁO CÓ PHẢI LÀ MỘT TÔN GIÁO?

Căn cứ vào mức độ hiểu biết rộng rãi hơn, thì loại
kiến trúc này không phải đã được du nhập từ đất Trung
Quốc do quân xâm lược nhà Hán đằ đưa sang khi họ chiếm
lĩnh phần cực nam nước Trung Hoa ngày nay và đất Bắc
Kỳ, vào những thế kỷ đầu của Công lịch. Dường như nó là
một trong những vết tích của người Indonesien xưa kia cư
trú ở miền Đông Nam Châu Á này, và về sau này, đã có
một ảnh hưởng Trung Quốc đến ghép thêm vào.
1.4.2. Đền thờ
Đền là nhà thờ của cả nước hay riêng một địa phương
dựng lên để tưởng nhớ một vị hoàng đế, một vị thần. Nếu
thờ bà chúa Liẽu, thì người ta gọi ngôi nhà thờ đó là phủ.
Đồ án của đền không cố định. Nó giống đồ án của
ngôi nhà Trung Quốc hơn là chùa. Khi thì nó gồm nhiều
gian nhà hình chữ nhật, nằm song song khi thì hình chữ H
nằm nghiêng hay chữ T lộn ngược, giống như điện thờ của
chùa. Hầu như bao giờ cũng có một cái nằm ở đằng trước,
có tường xây xung quanh. Lối ra vào cũng giống như chùa,
là một chiếc cổng lớn hay bốn cột trụ.
Nếu trông bề ngoài đền có phần giống với chùa, thì
ngược lại, ở bên trong, nó hoàn toàn khác. Nói chung trong
đền không có pho tượng nào, và nếu như có một pho nào
đó thì pho tượng ấy được đặt một cách cung kính ở trong
hậu điện thường không ai được vào, hoặc có thì cũng rất

34
NHO GIẢO - ĐẠO HỌC TRẼN ĐẤT KINH KÌ (THẢNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

khó khăn. Đồ tế tự trong điện thờ và các đồ vũ khí tượng


trưng giống như bộ đồ thường thấy ở đình.
Đối khi, chúng ta thấy đền và chùa cũng để ở một
nơi. Ở đây, chúng ta thấy trước hết là một chiếc cổng lớn
phía trước có một đám rộng, rồi đến đền và chùa cũng nằm
trong một lớp hành lang chạy bao quanh; cuối cùng là đến
gác chuông có hình dáng đẹp. Hai ao nước nhỏ hai bên và
một cái nữa nằm giữa chùa và cổng ra vào làm cho toàn
cảnh thêm hoàn chỉnh.
Tóm lại, đền thờ là nơi để thờ cúng các vị hoàng đế,
các nam thần, nữ thần đã có công lao rất lớn đến việc hưng
vượng nước nhà, giúp dân làm ãn sản xuất, giúp dân khai
hoá học hành, thi cử ....
1.4.3. Văn Miếu
Loại kiến trúc quan trọng nhất hiện nay còn tồn tại
là Văn Miếu, nơi thờ Khổng Tử và các môn đệ của ông; ở
mỗi tỉnh lỵ, dựng một ngôi. Cũng loại hình này xây dựng ở
phủ hay huyện thì gọi là Văn Chỉ. Trong nhiều làng, nhất
là những làng có nhiều người học hành thi cử họ cũng có
miếu thờ riêng, gọi là Từ Chỉ.
Đồ án của Văn Miếu ở Hà Nội đại thể giống với
đền thờ Khổng Tử, xây dựng ở Khúc Phụ (Kliu- feou) hiện
là thị trấn quê hương của ông. v ề kích thước, mặc dù quy
mô của Vãn Miếu Hà Nội khá lớn, với 75 mét bề rộng và

35
CHƯONG 1: NHO GIÁO CÓ PHẢI LÀ MỘT TÔN GIÁO?

khoảng 350 mét chiều dài, nó vẫn không thể sánh kịp ngôi
đền lộng lẫy mà nó dập theo kiểu đồ án và cũng tái hiện lại
một vài căn nhà.
Văn Miếu Hà Nội, còn gọi là Chùa Giám hay chùa
Quạ, có lẽ được xây dựng năm 1070. Đồ án của nó làm
theo một kiểu hình bình hành to, tứ bề có tường xây và bên
trong có năm cái sân rộng, ngãn cách bằng những bức
tường chắn ngang, có trổ cửa thông nhau hoặc những cổng
lớn để dễ qua lại.
Cửa chính là một chiếc cổng gạch to, nhìn về phía
đường phố Sinh Từ. Qua cổng chính thì bước vào khu sân
thứ nhất, ở đây không có ngôi nhà nào, cũng như khu sân
thứ hai ăn thông vói sân trước bằng một cửa chính mở ở
chính giữa bức tường ngăn và hai lối cửa nhỏ mở ở hai bên
nách. Lầu Khuê Văn Các, là nơi ngâm thơ, vịnh nguyệt,
mở vào khu sân thứ ba, đặc sắc nhất trong cả năm khu sân,
thường được mệnh danh là sân bia. Ở giữa sân này, người
ta xây một bể cạn hình vuông, gọi là Dương Quang tỉnh và,
ở mỗi bên tả, hữu dựng một cái chòi bốn mái; cứ mỗi kỳ tế
lễ đức Khổng Tử, những người hành lễ đến đó đốt hương
để tưởng nhớ các vị tiến sĩ ngày xưa. Ở hai bên mỗi nhà
chòi bốn mái đó, có 82 tấm bia được dựng thành hai dãy,
trên bia ghi rõ ngày mở các khoa thi và danh sách những
người mở trúng tuyển; cả thảy có tới 1295 ông Nghè gồm

36
NHO GIÁO - ĐẠO HỌC TRÊN ĐẤT KINH KÌ (THẢNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

các hạng khác nhau. Tấm bia cổ nhất mang niên đại 1484
và tấm bia mới nhất tạo năm 1779. Một chiếc cổng lớn
nhất có ba cửa tam quan đều đóng kín gọi là Đại Thành
môn, - hai bên còn có hai cửa nách mở ở bức tường ngăn
giống như ở phía trước; cửa phía Đông gọi là Ngọc Trân
môn, cửa phía Tây gọi là Kim Thanh môn - ngăn sân bia
với khu bên trong. Trong sân này, ở hai bên tả hữu là hai
căn nhà dành cho 62 môn đệ của Khổng Tử, phân chia
thành Đông hiền và Tây hiền. Chính ở cuối sân này được
dựng lên những ngôi nhà chính của Văn Miếu. Trong ngôi
thứ nhất, gọi là Miếu đường, đặt bàn thờ Khổng Tử ; ngôi
thứ hai, nằm tiôp ngay suu, là nhà thờ trong đó bài vị của
Khổng Tử để trên chiếc ngai, đặt ở trên một bệ cao. Hai
bên chiếc ngai đó, đặt bài vị của bốn môn đệ đầu tiên của
Khổng Tử, và phía sau bốn bài vị đó mới đến bài vị của
mười hai môn đệ thứ yếu khác. Phía sau nhà thờ, có một
chiếc cổng cuối cùng thông vào khu sân thứ nãm và cũng
là sân cuối cùng có hai ngôi nhà dành cho hai thân phụ của
Khổng Tử và các môn đệ chính. Phía trước ngôi nhà này
đặt bốn chiếc thống bằng đá và ở mỗi bên có hai dãy nhà
ngang; một dãy dành cho những người đến hành lễ và một
dãy dành cho ông Từ và gia đình ở. Ở bên trái sân này,
ngoảnh mặt về hướng Tây đật bàn thờ thổ thần. Tất cả các
ngôi nhà trong Văn Miếu đều xây dựng theo một kiểu như
nhau, bất luận là căn nhà thờ vị nào, chỉ riêng có kích

37
CHUONG 1: NHO GIÁO C Ó PHẢI IÀ MỘT TÔN GIÁO?

thước và đồ đạc kê bên trong là có phần khác nhau. Cũng


vậy, cách trang trí bày biện của các ngôi nhà đều tương tự
nhau, song không ngôi nào còn giữ nguyên trạng thái như
lúc mới xây dựng, vì trải qua các thời đại đã nhiều lần
được tu sửa hoặc làm lại.
Nếu như ngôi đền này là một trong những ngôi lớn
nhất do vẻ bề thế và bố cục chung của nó, thì về mặt kiểu
hình kiến trúc và thuật trang trí bày biện của nó, không
phải là ngôi đẹp nhất. Còn biết bao nhiêu ngôi đình, chùa
khác được trang trí đẹp và phong phú hơn nhiều.
Việc thờ cúng Khổng Tử diễn ra ở mọi nơi trên đất
Viột Nam. Các cơ sở thờ tự này tuy có khác nhau vé tôn
gọi. Nếu như tỉnh thành lớn đền thờ Khổng Tử gọi là Văn
Miếu, thì ở phủ, huyện người ta lại gọi là Văn Chỉ. Còn
cũng loại hình thờ tự ấy ở các làng thì lại gọi là Từ Chỉ.
Bằng cách gọi tên kiểu nào chăng nữa thì ở Việt Nam và
nhiều nơi khác trên thế giới đã tồn tại một loại hình mà ta
gọi là Cơ sở thờ tự, trong đó thờ Khổng Tử và những môn
độ của Ngài.
Như vậy về cơ sở thờ tự tại Việt Nam chúng ta thấy
có mấy loại hình cơ bản như: Đình, Đền, Văn Miếu, Từ
Chỉ, Văn Chỉ... là những loại hình di tích trực tiếp có thờ
Chu Công và Khổng Tử8.

8 Chúng tôi sẽ trình bày kỹ hệ thống thờ Nho giáo - Khổng Tử trong chương
vm .

38
NHO GIÁO - ĐẠO HỌC TRÊN ĐẤT KINH KÌ (THẢNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

1.1.5. Hệ thống nho gia và những tác động của


tầng lớp này vào thực tiễn x ã hội
Ngoài Chu Công - Khổng Tử những người sáng lập
ra Nho giáo, chúng ta cũng cần phải nhắc tới hệ thống Nho
gia hay các đệ tử của Khổng Tử với những tên gọi theo quy
định khá chặt chẽ.
4.1. Tứ Phối
1. Nhan Hồi, Phục Thánh (513-482 tCn).
Nhan Hồi tự là Tú Uyên, cũng thường gọi là Nhan
Uyên, người nước Lỗ thời Xuân Thu, học trò của Khổng
Tử, cùng với Tăng Sâm, được coi là học trò xuất sắc nhất
của Khổng Mon. Nhan Uyen bản tính thong minh, hiếu
học nghe một biết mười, chưa từng giận dữ với một ai,
khồng phạm lỗi lầm đến lần thứ hai. Hoàn cảnh túng thiếu,
"một nắm cơm, một bầu nước, ở trong ngõ hẹp" Nhan Hồi
có tiếng là người "an bần lạc đạo", hợp ý Khổng Tử trong
số những học trò. Người đời sau coi Nhan Hồi là người
thừa kế lý tưởng của Đạo thống Khổng Môn. Nhan Hồi
mất khi mới 32 tuổi, được Nho gia suy tôn là "bậc
thánh"lại gọi là Phục Thánh vì theo sự đánh giá của Khổng
Tử, Nhan Hồi là người có Đức Nhân, biết "Sửa mình khôi
phục lễ", xếp hàng đầu trong hàng tứ phối.
2. Tăng Sâm, Tông Thánh (505-436 tCn)
Tăng Sâm tức Tăng Tử, tự Tử Dư, người thành Nam
Vũ thời Xuân Thu. Trong số học trò của Khổng Tử, Tăng

39
CHUONG 1: NHO GIÁO CÓ PHẢI LÀ MỘT TÔN GIÁO?

Sâm không phải là người thông minh mẫn tuệ nhất, nhưng
hiểu biết cặn kẽ, chắc chấn lĩnh ngộ sâu sắc đạo lý xuyên
suốt của học thuyết Khổng Tử. Đạo "Trung thứ" của
Khổng Tử được Tăng Sâm phát huy tiếp nối truyền thụ cho
Tử Tư. Khi Khổng Tử qua đời, Tăng Sâm mới 27 tuổi, tự
mình tu dưỡng học vấn, nổi tiếng với câu nói: "Mỗi nhật
tam tỉnh ngô thân"(Hàng ngày ba lần kiểm xét bản thân
mình). Đại Học và Hiếu Kinh là 2 tác phẩm do Tăng Sâm
ghi lại lời Khổng Tử dạy học trò. Người đời coi học phái
Tăng Tử bảo tồn được tinh tuý của học thuyết Khổng Tử.
3. Khổng Cấp, Thuật Thánh (492-431)
Khổng Cấp tự là Tử Tư, con của Khổng Lý (tự Bà
Ngư), cháu đích tôn của Khổng Tử, học trò của Tăng Sâm.
Tử Tư được coi là người thừa kế chính thống của học
thuyết Khổng Tử. Sách Trung Dung do Tử Tư biên soạn là
tác phẩm đanh tiếng tiêu biểu cho nhân sinh quan của triết
học Nho gia. Những lời bình luận của Tử Tư về tâm, tính
được coi là tinh tế, có sức gợi mở. Tư tưởng của Tử Tư:
"bất thiên, bất dịch, trung dung chi đạo"(không thiên lệch
không thay đổi, ấy là đạo Trung Dung) có vị trí quan trọng
trong lịch sử tư tưởng Trung Quốc. Tử Tư đã từng đi chu
du giảng học ở nước Tống, nước Vệ, đem tinh hoa của học
thuyết Khổng Tử truyền bá rộng khắp, đương thời mến mộ,
Nho gia thường gọi Tử Tư là Thuật Thánh vì ông là người
có công truyền thuật tư tưởng sự nghiệp của Khổng Tử.

40
NHO GIÁO - ĐẠO HỌC TRẼN ĐẤT KINH KỈ (THẢNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

4.M ạnh Kha, Á Thánh (371-289)


Thường gọi là Mạnh Tử, tự là Tử Dư (trùng tên với
Tăng Sâm, vì vậy thường phải kèm theo họ Mạnh để phân
biệt). Mạnh Tử người đất Trâu, nước Lỗ, thời Chiến Quốc,
là dòng dõi công tộc Mạnh Tôn, cha mất sớm, mẹ họ Cừu,
thường gọi là bà Mạnh mẫu. Bà là tấm gương mẫu mực của
người làm mẹ, nổi tiếng về sự tích muốn dạy con thành
người mà 3 lần phải rời nhà. Mạnh Kha được thu nhận vào
trường của Tử Tư. Bấy giờ các nước chư hầu của nhà Chu
khuynh loát xâm đoạt lẫn nhau, thiên hạ đại loạn, kẻ sĩ bôn
tẩu để thực hành mưu kế hợp tung liên hoành. Mạnh Kha
chu du đến c á c nước Tề, Lương đcm hết tâm huyết đề cao
xã hội thòfi Đường Ngu tam đại. Mạnh Tử chủ trương
thuyết 'Tính thiện"-, coi nhân nghĩa là tiêu chuẩn để phân
biệt Vương đạo và Bá đạo trong đường lối trị nước của kẻ
cầm quyền. Ông là đại diện xuất sắc của Nho gia đã nêu
cao tư tưởng "Dân vi quý" coi chính sự hà khắc còn hung
bạo hơn cả hổ báo. Cùng vói quan điểm đó, Mạnh Tử có
lập trường lên án chiến tranh, đòi hỏi từng lớp thống trị
phải thực hành đường lối nbân chính. Tác phẩm chủ yếu là
bộ Mạnh Tử gồm 7 thiên, ghi lại những cuộc biện thuyết
hùng hồn của Ngài với lời văn nhiều hình ảnh sinh động,
có ảnh hưởng trong việc truyền bá phát huy học thuyết của
Khổng Phu Tử, được các thế hệ nhà Nho đời sau suy tôn là
bậc Á Thánh.

41
CHUÔNG 1: NHO GIÁO C Ó PHẢI LÀ MỘT TÔN GIẢO?

4.2. Thập nhị triết


Nguyên trong sô' học trò của Khổng Tử có 10 vị thật
xuất sắc từng được Khổng Tử nêu tên, coi là có thể tiêu
biểu cho từng mặt. v ề đức hạnh có Nhan Uyên, Mẫu Tử
Khiêm, Nhiễm Bá Ngưu, Trọng Cung; về ngôn ngữ có:
Nhiễn Hữu, Quý Lộ; về vãn học có: Tử Du, Tử Hạ. Nho
gia đời sau thưòng gọi 1Q vị này là "Thập triết".
Về sau Nhan Uyên được xếp vào Tứ Phối, Tăng Sâm
được chọn thay vào. Rồi Tãng Sâm được nâng lên hàng Tứ
phối còn lại 8 người, nâng Hữu Nhược thuộc hạng Hiền,
chọn thêm Chu Hy đời Tống gọi chung là Thập triết (10
học trò xuất sắc sau Tứ Phối).
1. Mản Tử Tổn (536-497 tCn), tự là Tử Khiên, nổi
tiếng là người có hiếu. Mẹ mất sớm, Mẫn Tử bị dì ghẻ
ngược đãi. Mùa đông 2 anh em con dì ghẻ được may áo
bông, Mẫn Tổn chỉ được chiếc áo mỏng độn bằng bông
lau, rét cóng không ngồi đánh xe cho cha được. Người cha
biết chuyện muốn đuổi bà vợ kế ấy đi. Mẫn Tổn thưa với
cha rằng: "Có mẹ kế thì một mình Mẫn Tổn con chịu đựng.
Đuổi mẹ kế đi thì 3 anh em đều bị cô đơn. Dì ghẻ về sau
biết lỗi, đối xử với 3 anh em như nhau. Họ Quý Tôn mộ
tiếng, muốn mòi Mẫn Tổn về làm ấp tể ấp phí, nhưng Mẫn
Tổn từ chối không đi.
2. Nhiễm Ung (522-483 tCn), tự Trọng Cung, người
nước Lỗ thời Xuân Thu. Cha Ung là người khòng tốt,

42
NHO GIÁO - ĐẠO HỌC TRẼN ĐẤT KINH KÌ (THẢNG LONG - ĐÔNG ĐỔ - HÀ NỘI)

nhưng Ung lại là người đôn hậu, có đức hạnh. Khổng Tử


từng nhận xét:"Cha Trọng Cung như con trâu tạp sắc mà
sinh được con nghé lông đỏ... đúng là vật hiến tế rất hợp
với triều ta." Lại nói: "Trò Ung có thể sai đi làm vua nước
chư hầu."
3. Đoan Mộc Tứ (520-483 tCn), tự là Tử Cống,
người nước Vệ thời Xuân Thu (nay là vùng phía nam,
huyện Đại Danh tỉnh Hà Bắc, phía bắc huyện Cấp tỉnh Hà
Nam) Trong số học trò của Khổng Tử, Tử Cống là người
có tài biện thuyết, giỏi suy đoán sự lý, trù liệu công việc.
Tử Cống từng giữ chức tướng quốc nước Lỗ và nước Vệ,
thuyết phục được vua nước Ngô xuất binh đánh nước Tề để
cứu nước Lỗ. Sau khi Khổng Tử mất, các học trò đều ở lại
giữ mộ 3 năm, riêng Tử Cống ở lại giữ mộ thêm 3 năm
nữa. Những lời nói và việc làm của Tử Cống được ghi chép
chiếm một vị trí quan trọng trong sách Luận Ngữ.
4. Trọng Do (542-481 tCn), tự Tử Lộ còn gọi là Quý
Lộ, người Biện Ấp (nay là huyện Tứ Thuỷ tỉnh Sơn Đông)
nước Lỗ thời Xuân Thu. ông là người dũng cảm, chí hiếu
từng đi trăm dặm đội gạo về nuôi cha mẹ, lại nổi tiếng về
việc biết đổi lỗi, thành thực vui mừng khi nghe người khác
chỉ trích lầm lỗi của mình. Khổng Tử nêu câu hỏi cho học
trò, Tử Lộ thường trả lời trước nhất. Khổng Tử có điều gì
sai trái, người can gián trước tiên cùng lại là Tử Lộ. Tử Lộ
theo hầu Khổng Tử đi chu du các nước, cuối cùng làm
quan ở nước Vệ, chết trong cuộc biến Khoái Ngại.

43
CHUƠNG 1: NHO GIẢO CÓ PHẢI LÀ MỘT TÔN GIÁO?

5. Bốc Thương (518-446 tCn), tự Tử Hạ, người nước


Vộ thời Xuân Thu, có sở trường về văn học, yêu thích Kinh
Thi. Tử Hạ từng nói:"Học thức cần phải rộng, chí hướng
cần phải vững, làm việc cần phải hỏi han cặn kẽ, bắt đầu từ
chỗ nông gần rồi suy nghĩ, rồi theo từng loại việc mà suy
rộng ra cho xa rộng lớn.", v ề sau Tử Hạ về dạy học ở vùng
Tây Hà (thuộc tỉnh Thiểm Tây) được đại phu nước Tấn là
Nguỵ Thành Tử đón làm thầy. Học trò của Tử Hạ rất đông.
Tác phẩm Luận Ngữ của Khổng Tử có khả năng là do Tử
Hạ và học trò của ông ghi chép, tuyển chọn mà thành.
6. Hữu Nhược (518-446tCn), tự Tử Hữu, người nước
Lỗ thời Xuân Thu. Sau khi Khổng Tử mất, vì Tử Hữu có
dáng mạo hao hao giống Khổng Tử, cho nên các bạn đổng
môn tôn làm thầy để việc giảng học được tiếp tục như cũ
đỡ phần thương nhớ Khổng Tử. Sau Hữu Nhược làm quan
nước Lỗ. Gặp năm mất mùa, Lỗ Ai công hỏi kế, Hữu
Nhược đáp: "Đã có thuế triệt thu 1/10 hoa lợi đấy thôi!" Lõ
Ai công nói:"Thu đến 2/10 vẫn chưa đủ cho ta, huống là
thuế triệt." Hữu Nhược đáp: "Trăm họ đủ thì nhà vua lo gì
không đủ? Trảm họ không đủ thì nhà vua đủ với ai?".
7. Nhiễm Canh (544-505 tCn), tự Bá Ngưu, người
nước Lỗ thời Xuân Thu, là cha của Nhiễm Ung, hai cha
con đều có tiếng đức hạnh. Bá Ngưu từng làm quan lệnh tể
Trung đô nước Lỗ, có thanh danh tốt.

44
NHO GIẢO - ĐẠO HỌC TRÊN ĐẤT KINH KÌ (THẢNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

8. T ể Dư (520-481 tCn), tự Tử Ngã, cùng gọi là Tể


Ngã, người nước Lỗ có tài biện thuyết. Sau làm đại phu ở
Lâm Tri nước Tề.
9. Nhiễm Cầu (522-462 tCn) tự là Hữu Chung cùng
gọi là Nhiễm Hữu người nước Lỗ, bản tính khiêm nhường,
sở trường về chính sự. Khi nước Tề đem quân sang đánh,
Nhiễm Cầu giữ việc trù hoạch kế sách chỉ huy, tự mình
cầm giáo xông lên giao chiến, nổi tiếng trí dũng song toàn.
Sau khi Khổng Tử từ quan về ở ẩn, sự cấp dưỡng chi dùng
chủ yếu nhờ Nhiễm Cầu.
10. Ngôn Yển (506-443 tCn) tự Tử Du, người nước
Ngô, sở trường về văn học, Tử Du từng làm lệnh tể Vũ
Thành nước Lỗ, giỏi dùng lễ nhạc để giáo hoá dân chúng.
Khổng Tử từng hỏi Tử Du"Ngươi làm huyện tể Vũ Thành
có biết được người nào khá không?" Tử Du đáp: "Có Đam
Đài Diệt Minh, đi không theo lối tắt, không phải việc công
chưa từng đặt chân đến nhà Yển." Người đời khen Tử Du
biết kính trọng người hiền.
11. Chuyên Tôn Sư (503-446 tCn) tự Tử Trương,
người nước Trần thời Xuân Thu (phía đông huyện Khai
Phong tỉnh Hà Nam, phía bắc huyện Bặc tỉnh An Huy) bản
tính khoan dung độ lượng, có tài năng hiểu biết hơn người.
12. Chu Hy (1130-1200 sCn), tự Trọng Hối, hiệu
Hối Am, người huyện Vụ Nguyên đời Tống(huyện Hấp,

45
CHƯƠNG 1: NHO GIÁO CÓ PHẢI LÀ MỘT TÔN GIÁO?

tỉnh An Huy) nhà nghèo hiếu học, đậu tiến sĩ năm Thiệu
Hưng, làm quan trải 4 đời vua từ Cao Tông tới Minh Tông
đời Nam Tống, thăng đến chức Hoán chương các đãi chế,
Bí các3tu soạn. Đến khi tuổi già, ông từ quan về ở huyện
Bổng Lư, tỉnh Phúc Kiến, mở Thương Châu tịnh xá dạy
học, người đời thường gọi là khảo đình học phái. Trước tác
của Chu Hy rất nhiều, nổi tiếng là nhà Lý học đời Tống.
Ông chú giải bộ Tứ Thư, có ảnh hưởng lớn trong việc dung
hợp nhân sinh quan của Tống Nho. Tác phẩm của ông
được tập hợp trong bộ Chu Văn Công tập, gồm 100 quyển.
Sau khi ông mất, vào năm Thuần Hựu (1241-1253), vua
Tống Lý Tông chuẩn cho thờ phụng Chu Vân Công ở
Khổng miếu. Đến niên hiộu Khang Hy đời Thanh thăng
cấp thờ Chu Văn Công vào hàng thập triết9.
Ngoài ra còn có thêm danh sách của 61 người nữa
cũng là những học trò ưu tú của Khổng Tử.
*

* *

Như vậy có thể coi Nho giáo về mặt hình thức là một
tôn giáo? Trên thực tế nó là một tôn giáo nghiêng về xuất
thế dựa trên nền tdng giáo dục nên chúng ta có thể gọi
Nho giáo là một thứ Đạo học. Chính cái Đạo học: học làm
người, học làm quan, học làm thầy đ ã có ảnh hưởng rất

9 Nếu tính cả Nhan Uyên và Tăng Sâm gọi chung là thập nhị ưiết.

46
NHO G IÁ O - ĐẠO HỌC TRÊN ĐẤT KINH KÌ (THẢNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

lớn đến chính trị xã hội không chỉ của Trung Quốc ngày
xưa mà còn tác động tới nền đạo học của nhiều nước xung
quanh như Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên...

1.2. ẢNH HƯỞNG CỦA NHO GIÁO VÀO “ĐẠO HỌC”


VIỆT NAM
1.2.1. Sự du nhập của Hán học vào Việt Nam
Năm 214 TCN Tần Thuỷ Hoàng sai tướng Đồ Thư
làm sứ mệnh đi chinh phục Bách Việt, An Dương Vương
vua của nước Âu Lạc bấy giờ sợ cái thế lực hùng cường
của nước Tần nên chịu khuất phục. Nhà Tần chia đất này
thành 3 quận là Nam Hải. Quế Lâm, và Tượng Ọuận đặt
dưới quyền cai trị của tướng Nhâm Ngao và trợ thủ của
ông là Triệu Đà. Khi nhà Tần sụp đổ, các nước có sự tranh
quyền lẫn nhau. Nhâm Ngao lợi dụng tình thế đó, muốn
chuyển nước Âu Lạc thành một lãnh địa độc lập của mình
để trị vì các nước ở phía Nam. Song ông ta đã chết trước
khi thực hiện được ý đồ này.
Triệu Đà nối nghiệp, ông ta đã cho tiêu diệt hết
những tướng còn trung thành với nhà Tần và thay vào đó
những phụ tá thân cận của mình.
Nãm 207 tCn, Triệu Đà trở thành vua của nước Nam
Việt. Nam Việt lúc ấy do 3 quận là Nam Hải, Quế Lâm và
Tượng Quân tạo nên. N ăm l96 tCn, Triệu Đà được nhà Hán

47
CHƯƠNG 1: NHO GIẢO CÓ PHẢI LÀ MỘT TÔN GIÁO?

Sắc phong làm Nam Việt Vương, nhưng đến khi thái hậu
Lã Hậu vợ goá của Hán Cao tổ ban sắc lệnh cấm bán sắt
cho Nam Việt thì Triệu Đà đoạn tuyệt vói Trung Quốc, và
đến năm 183 tCn, lên ngôi hoàng đế. Thái Hậu sai quân đi
chinh phạt Triệu Đà nhưng quân Hán bị thua, Triệu Đà trở
thành bá chủ các nước phương Nam. Lãnh thổ các nước
này là Tây - Âu- Lạc bị chia thành 2 quân là Giao Chỉ và
Cửu Chân. Năm 179 tCn, sau khi triểu đình nhà Hán cử sứ
bộ đến Triệu Đà, bấy giờ ông mới bỏ hiệu hoàng đế trở lại
xưng là Nam Việt Vương.
Nhà Triệu, do Triệu Đà sáng lập mãi đến năm 111
tCn mới chấm dứt, khi mà Hán Vũ đế sai LỌ Bác Đức và
Dương Bộc đánh tan nhà Triệu, thu phục Nam Việt thành 1
tỉnh của Trung Hoa gọi là Giao Chỉ bộ. Các cứ liệu trên
cho thấy thì Việt Nam sớm có những giao lưu văn hoá với
Trung Hoa.
Một trong những người mang những ảnh hưởng văn
hoá Trung Hoa vào Việt Nam chúng ta phải kể tới là Triệu
Đà. Khi Tần Thuỷ Hoàng có sắc lệnh tịch thu điển tích
Khổng Nho và đốt sách thì Triệu Đà bản thân là một học
giả, là một đệ tử của Khổng giáo đã tự mình nỗ lực mở
mang học vấn Khổng giáo tại Nam Việt.
Tuy nhiên ảnh hưởng Hán học vào khối Bách Việt thì
phải chờ tới thế kỷ đầu công nguyên, khi nền giáo dục này

48
NHO GIÁO - ĐẠO HỌC TRẼN ĐÁT KINH KÌ (THẢNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HẢ NỘI)

CÓ chế độ thi cử và rất được sùng trọng. Có sự kiện đó là


do sự thay đổi chính sách cai trị của người Hán với cư dân
Nam Việt. Cụ thể chúng ta thấy sau khi bình định được
Nam Việt, nhà Hán khống đặt quyền cai trị trực tiếp mà
vẫn theo chế độ tự trị của người Việt. Các chúa quận bản
sứ thì phụ thuộc vào Hán đế như chư hầu, nhưng quyền cai
trị nội bộ vẫn do họ nắm giữ như trước đây.
Tích Quang cai trị Giao Chỉ vào khoảng năm 1 - 2 5
sCn, chuyên tâm khai hoá nhân dân Việt về lễ nghĩa của
Trung Hoa, vì ông theo gương Đặng Nhượng không công
nhận sự tiếm ngôi nhà Hán của Vương Mãng. Chính trong
thòvi gian này, có nhiều học giả trung thành với nhà Hán di,
cư xuống vùng Giao Chỉ. Cùng trong thời kỳ họ cư trú tại
đây họ là một trong những tác nhân tích cực giúp vào việc
đẩy nhanh quá trình Hán học ở Nam Việt.
Còn Nhâm Diên tới quận Cửu Chân khoảng năm 29
sCn. Nhân dân ở đây còn sinh sống bằng cách săn bắn và
đánh cá, được Nhâm Diên dạy cho cách dùng cày sắt để
làm ruộng, cầy cấy. Người dân ở đây còn được dạy về hôn
thú và gia đình. Nhâm Diên ở Cửu Chân khoảng 4 năm thì
được thăng chức và được triệu về triều.
Những công việc của Tích Quang và Nhâm Diên chỉ
là màn khởi đầu của công cuộc Hán hoá tại Việt Nam ở
những thế kỷ sau. Ảnh hưởng của Hán học vào người Việt
sâu đậm nhất có lẽ phải kể đến thái thú Sĩ Nhiếp mà có

49
CHƯƠNG 1: NHO GIÁO CÓ PHẢI LÀ MỘT TÔN GIÁO?

nhiều tài liệu còn gọi là Sĩ Vương. Ông trị vì tại Giao Chỉ
từ 187 - 226 sCn. Chính ông ta là người đầu tiên mở trường
dạy chữ Nho cho người Việt tại Giao Châu. Hiện tại trong
lãng và đền thờ Sĩ Nhiếp tại làng Tam Á, Thuận Thành (Hà
Bắc) mãi tới gần đây chúng ta vẫn thấy có dòng chữ “Nam
Giao học tổ", tức là ông tổ học phía Nam.
Lăng và đền thờ ông hiện toạ lạc trên một khu đất
cao của làng Tam Á cách chùa Dâu và thành Luy Lâu
khoảng 2 km về phía tây bắc. Trên lăng hiện còn một con
cừu đá giống với con cừu đang để cạnh tháp Hoà Phong
của chùa Dâu.
Lãng có kiến trúc hình chữ nhật đơn giản. Đển thờ ở
ngay cạnh lăng có kết cấu kiến trúc rất quy mô bề thế.
Từ ngoài đi vào là Tam quan. Tam quan xây theo
dạng tam quan đình chùa với ba lối vào.
Qua tam quan 'à một khoảng sân rộng, xvng quanh
cây cối um tùm.
Qua sân, đi thẳng là vào tới đền thờ, còn nếu rẽ sang
tay trái là đi ra lãng.
Đền thờ có kết cấu kiến trúc hình chữ nhị, sau khi
trùng tu trở thành kết cấu kiến trúc chuôi vồ.
Trong gian chuôi vồ của đền thờ có bầy 8 pho tượng
đứng chầu 2 bên cửa.

50
NHO GIẢO - ĐẠO HỌC TRÊN ĐẤT KINH KÌ (THẢNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

Trong hậu cung là khán thờ thờ tượng Sĩ Vương hay


Sĩ Nhiếp. Phía trên gian hậu cung có một hoành phi với 4
chữ ‘W«m Giao học tổ".
Chúng ta còn chưa rõ cái trường dạy chữ Hán của Sĩ
Vương nằm trong thành hay ngoài thành. Phải chăng lăng
và đền thờ Sĩ Vương chính là cái nền trường học ngày ấy?.
Khi nhắc tới những công lao của tiền nhân đã đưa
ảnh hưởng của Nho học vào Việt Nam chúng ta không chỉ
kể tới ST Vương mà trước đó phải kể tới Triệu Đà, người
sáng lập ra nước Nam Việt đã sớm sử dụng chữ Tầu trong
phạm vi nhỏ. v ề mặt khác trước thời Sĩ Nhiếp đến làm thái
thú và cho dạy chữ Hán một cách có hệ thống thì ngay bản
thân đất Nam Việt cũng đã có một số người Việt du học và
đỗ đạt trong các khoa thi văn học tại Trung Hoa như:
Trương Trọng, Lý Tiến và Lý Cầm.
Ngoài lĩnh vực truyền bá Hán học vào thời kỳ này
chúng ta phải kể tới một số học giả, một số nhà sư chạy
loạn xuống Giao Chỉ thời Hán Linh đ ế ... Tiêu biểu cho các
học giả thời này phải kể tới Mâu Tử.
Trong thời kỳ rối loạn cuối thế kỷ thứ 2 ở lục địa
Trung Quốc, thì đất Giao Chỉ lại đang an hưởng thái bình.
Nhiều học giả đã di cư xuống đây, và sự tò mò trí thức của
họ đã là những yếu tố quan trọng trong việc tạo nên một

51
CHUƠNG 1: NHO GIÁO CÓ PHẢI lÀ MỘT TÔN GIẢO?

hỗn dung vãn hoá với những thứ tôn giáo pha trộn. Trong
số những trí thức này chúng ta phải kể đến Mâu Tử.
Thực sự chúng ta không biết gì nhiều về Mâu Tử,
ngoài những điều mà bài tựa của ông cho biết. Chắc chắn
ông sinh ra ở Thương Ngô trên Tây Giang. Ông chạy
xuống Giao Chỉ cùng với mẹ, có khả năng ông chạy loạn
trước khi Hán Linh Đê' qua đời năm 189 sCn.
Có nhiều khả năng Mâu Tử sinh vào khoảng các năm
155-170. Ngay khi di cư xuống Giao Chỉ người Nho sĩ trẻ
tuổi này bị cuốn hút vào Phật giáo. Tuy bị các nhà Nho
đương thời chê trách ông vẫn tán dương Phật giáo và chính
vì vây mà ông đã viết cuớn "Lý hoậc Luận'' nổi tiếng.
Theo bài tựa của tiểu luận ấy có nhan để là Mâu Tử
Lý Hoặc (Nghĩa đen là luận về sự nghi hoặc do Mâu Tử,
mà nhiều học giả dịch sang tiếng Pháp là “Meou-Tseu ou
les doutes levees.”
Cuốn sách của Mâu Tử đặt ra nhiều vấn đề tranh cãi,
có những cái thuộc về chuyên ngành Phật học, có những
cái là vấn đề văn bản học... chúng tôi chỉ kể ra đây, trong
chuyên đề với sự có mặt của một nhà Nho, đã gắn bó với
đạo Phật, đã dành nhiểu trang dòng cùng như hiểu biết của
mình để nói về Đạo Phật, trong đó có nhiều sắc thái tôn
giáo Việt Nam buổi đầu Công nguyên. Cạnh đó chúng ta
phải nói tới một khía cạnh khác mà ít khi chúng ta quan

52
NHO GIẢO - ĐẠO HỌC TRẼN ĐẤT KINH KÌ (THĂNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HẢ NỘI)

tâm đó là những tư liệu lịch sử quý nhằm góp phần xác


nhận sự có mặt của các nhà Hán học theo Khổng giáo phát
triển tại Việt Nam thời đó.
Sĩ Nhiếp, Mâu Tử và các nhà trí thức Trung Hoa vào
buổi đầu Công nguyên đã làm cho công cuộc Hán học được
đẩy mạnh. Hơn thế nữa, chính các học giả này đã góp phần
cải tiến chữ Hán cùng những tư tưởng và khoa cử một cách
có hệ thống. Như vậy, có thể coi đó là Hán Nho kinh điển.
1.2.2. Sự tiến triển của Nho học ở Việt Nam
Trong mười thế kỷ đấu tranh chống đồng hoá về
nhiều mặt của người Viột, chúng ta đã nhận thấy rằng công
cuộc Hán học chảng mấy khi Ihồng đổng bén giọt. Khởi
nghĩa giành chính quyền nổi lên khắp nơi.
Người Việt không chỉ có biết đến Hán học mà bản
thân họ còn có cả một nền văn hoá riêng của mình phát
triển trên cơ sở của Vãn minh Đông Sơn. Bên cạnh đó các
nhà sư Ân Độ và các nước Trung A đã mang vào Việt Nam
những luồng tư tưởng mới. Những luồng tư tưởng này vừa
chống nhau song lại vừa hoà nhập với nhau qua tư duy
người Việt Nam.
Ngay từ buổi đầu của giai đoạn mười thế kỷ sau công
nguyên người Việt đã nhanh chóng chấp nhận tư tưởng của
Phật giáo, lấy Phật giáo làm cơ sở để đấu tranh chống đồng
hoá. Song lại không bài trừ Nho giáo. Họ học Nho là để

53
CHƯONG 1: NHO GIÁO C Ố PHẢI LÀ MỘT TÔN GIÁO?

lấy cái chữ cho mình. Trong thòi gian này tại Luy Lâu10,
chúng ta thấy có rất nhiều ngôi chùa nổi tiếng tói tận ngày
nay như: Chùa Dâu, Chùa Đậu, Chùa Dàn, Chùa Tướng...
quanh đó còn biết bao ngôi chùa khác như: Chùa Bút Tháp,
Chiếp Đông, Chùa Mãn Xá... Những ngôi chùa này phản
ánh một thực tiễn là người Việt với Phật giáo hưng thịnh ra
sao? Còn các trường học chữ thì sao? Ở Luy Lâu ngày đó
có trưcmg hay không? Các trường học đó hình thù ra sao?
Chương trình dạy dỗ như thế nào? Hiện chúng ta chưa đủ
tư liệu, chưa đủ hiểu biết vé vấn đề này.
Nhiều lần vể Luy Lâu, chúng tôi đã cố gắng đi tìm
dấu vết còn lại của những trường học đầu tiên. Song mãi
tận bây giờ ngoài lăng Sĩ Nhiếp với hoành phi “Nam Giao
Học Tổ”, chúng ta không còn thấy dấu vết gì khác. Phải
chăng Lăng Sĩ Nhiếp ở Tam Á chính là cái nền nhà trường
cũ? Đó cùng mới chỉ là suy đoán.
Chúng ta được biết rằng chính Sĩ Nhiếp là người có
công tổ chức học cổ điển Trung Hoa trên một cơ bản có hệ
thống. Thành tựu này của ông đã đem lại cho ông danh
hiệu là Sĩ Vương tức là Vua học giả. Sự nỗ lực của Sĩ
Nhiếp để khuyến khích Hán học về sau được thứ sử Giao
Châu là Đỗ Tuệ Độ cuối đời nhà Tấn và Cao Biền tướng
quân An Nam đô hộ thời nhà Đường kế tiếp theo đuổi.

10 Trị sở của Giao Chỉ lúc bấy giờ.

54
NHO GIẢO - ĐẠO HỌC TRẼN ĐẤT KINH KÌ (THĂNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

Chữ Hán được truyền bá vào Việt Nam cũng bởi


chính các nhà sư chạy loạn sau thời Hán Linh Đế đưa vào.
Nhiều cuốn kinh Phật từ chữ Phạn được dịch sang chữ Hán
và nhiều bộ kinh chữ Hán được sử dụng trong các chùa
Việt Nam. Chính vì vậy mà chữ Hán có nhiều cơ hội phát
triển. Điều này mới góp phần lý giải một nghịch lý của
lịch sử là sau khi giành được độc lập, tự do và xây dựng
nhà nước Phong kiến tự chủ thì chữ Hán lại được mọi
người Việt Nam ưa chuộng. Vai trò tăng tiến của Hán học
được chứng minh cụ thể bằng nhiều chế độ văn hoá, chế độ
học hành thi cử liên tiếp được dựng lên qua các triều đại
quốc gia, nhất là trong phạm vi giáo dục mà chương trình
nhằm thu hoạch lấy mức độ tri thức luân lý Nho giáo và
văn chương cổ điển Trung Hoa để qua các khoa thi quan
chức nhà nước.
Từ 939 đến 1010 là một thời đại lịch sử ngắn ngủi, vì
thiếu thời gian, Hán học chưa có điều kiện tổ chức để đáp
ứng nhu cầu .củf» một nhà nước độc lập. Tuy nhiên vì Hán
học là một nhu cầu cần thiết giao dịch, ngoại giao với
Trung Hoa và là phương tiện sinh hoạt văn hoá nên nó vẫn
được dạy ở Việt Nam. Song sự giáo huấn này lại không do
Nho sĩ làm mà chủ yếu do các nhà sư đảm nhiệm. Có lẽ vì
các nhà Nho có học thức và thân cận với Trung Hoa nên
không được trọng dụng.
Các nhà sư đóng một vai trò rất quan trọng trong xã
hội, chỉ bởi các nhà nước quân chủ thời kỳ này chủ yếu
dựa vào hệ tư tưởng Phật giáo.

55
CHUONG 1: NHO GIÁO CÓ PHẢI LÀ MỘT TÔN GIÁO?

Việc nhà nước quân chủ Việt Nam dùng hệ thống tư


tưởng Phật giáo là cơ tầng, nền tảng cho sự phát triển xã hội
lúc đó thì kéo dài tới mãi cuối nhà Trần, song Nho giáo và
nền tảng tư tưởng Khổng giáo bắt đầu bắt rễ vào thời kỳ nhà
Lý. Vua Lý Thánh Tông( 1034-1072),bắt đầu tổ chức cho
toàn quốc về Hán học đồng thời với phục hưng Khổng giáo.
Vào năm 1070 Văn Miếu được xây dựng ở kinh đô Thăng
Long11. Tượng Chu Công Khổng Tử với 72 vị tiên hiển được
dựng và thờ phụng tại đấy. Đồng thời Văn Miếu cùng được
dùng làm thành nhà học dành cho thái tử, hoàng tử. Theo
các bộ sử ký xưa thì Hoàng thái tử bắt đầu học tại đây.
Năm 1075, dưới triều vua Lý Nhân Tông khoa thi
Minh kinh và bác học đầu tiên được mở để tuyển người ra
làm quan. Người đỗ đầu kỳ này là Trạng nguyên Lê Văn
Thinh được ban chức Thái sư và các người khác trúng tuyển
được bổ nhiệm giáo chức tại Quốc Tử Giám hay “Đại học
auốc gia” mở vào năm 1076 ở tại chính Văn Miếu.
Năm 1086, một kỳ thi quan chức lại được mở để lấy
người lập Hàn lâm viộn, người đỗ đầu kỳ này là Mạc Hiển
Tích được cử làm Hàn lâm Học sĩ. Các kỳ thi khác được
mở là những năm 1152,1165,1185,1193 và 1195.
Kỳ thi cuối cùng nhằm khảo về thi Tam giáo (Nho
giáo, Phật giáo và Lão giáo). Chính năm 1089 một sắc lệnh
quy định cấp trật cho các quan chức. Phỏng theo cấp trật

11 H à N ội n gày nay.

56
NHO GIÁO - OẠO HỌC TRÊN ĐẤT KINH KÌ (THẢNG LONG - ĐÔNG ĐÔ -

Trung Hoa, gồm có 9 hạng, mỗi hạng 2 cấp, và thứ bậc


quan chức tuỳ theo cấp bậc thi đỗ ở các khoa.
Tất cả những sáng chế của nhà Lý ấy chứng minh sự
quan trọng về Hán học càng ngày càng tăng.
Dưới thời Trần, chế độ Khổng học mói được khuyến
khích cho mục tiêu quốc học. Năm 1232, khoa thi đầu tiên
để tuyển cử lấy Thái học sinh tức như cấp bậc Tiến sĩ. Có
ba hạng đỗ trong hệ thống Tam Giáp. Năm 1247, hệ thống
này được chuyển đổi thành Tam Khôi, phân hạng đầu
thành 3 cấp: Trạng Nguyên, Bảng Nhãn, Thám Hoa.
Cùng vào thời ấy có lập ra khoa thi Tam Giáo trong
toàn quốc. N am 1 2 5 2 m ột sô' sinh đồ xuất sác trong kỳ thi
này được chọn vào Quốc Tử Giám.
Năm 1253 một Đại học quốc gia khác được thành lập
gọi là Quốc học Viện để giảng dạy về Tứ Thư và Ngũ Kinh.
Về sau dưới triều Trần Thánh Tông( 1258-1278) một
trường đặc biệt được mở để huấn luyện các học sĩ mà nhà
vua đặt dưới quyền điều khiển của Trần ích Tắc.
Năm 1304, dưới triều vua Trần Anh Tông(1293-
1314) một chương trình thi cử được minh định rõ ràng.
Đồng thời ban danh hiệu Hoàng Giáp cho người đỗ đầu thứ
2. Về sau dưới triều vua Trần Duệ Tông(1374-1377), một
sắc lệnh mới có liên quan đến việc thi cử đựợc ban bố.
Khoa thi Đình được thiết lập để lựa chọn hạng đỗ tiến sĩ đỗ
hang ba.

57
CHƯƠNG 1: NHO GIÁO C Ố PHẢI LÀ MỘT TÔN GIÁO?

Những người đỗ tiến sĩ được nhà vua ban yến và mũ


áo tương đương với danh hiệu. Trong trường hợp ấy nền
giáo dục cổ xưa và đi đôi với nó, nền học vấn cổ điển
Trung Hoa tiếp tục tăng tiến rất mạnh. Cuối thời Trần, vào
đời vua Trần Thuận Tông( 1388-1389), Lê Quý Ly chấp
chính nắm thực quyền, đã có nhiều cải cách trong phạm vi
giáo dục quốc gia. Lê Quý Ly cho thành lập các học quan
để giảng dạy ở các Lộ, Phủ và Châu. Vé chế độ thi cử có
hai cấp là Hương thí hay khoa thi ở các địa phương. Hội thí
hay khoa thi ở Kinh đô.
Các thí sinh thi xong ở các kỳ Hương thí thì được
phép học một năm. Năm sau dự thi hội ở kinh đô. Cấp bậc
của thí sinh trúng tuyển được quyết định Đình thi tổ chức
tại Kinh đô.
Từ năm 1414 đến 1427 trong thời gian chiếm cứ của
quân Minh, các quan cai trị người Tầu tìm hết cách thi
hành chế độ đồng hoá. Kết quả là nền giáo dục công là chữ
Tầu, và sách điển tịch Tầu được thay thế cho sách của
người Việt. Những sách của người Việt làm ra đều bị bọn
xâm lược tịch thu đốt và gửi về Kim Lăng thủ đô của nhà
Minh ngày đó.
Dưới triều Lê Sơ (1428-1527) nền cổ học Trung Hoa
được phát triển rất mạnh. Ngay sau khi đại thắng quân
Minh và khôi phục nền độc lập nước nhà, vua Lê Thái Tổ
(1428-1433) bắt tay cải tổ định chế độ cũ và tổ chức lại hệ
thống giáo dục.

58
NHO GIÁO - ĐẠO HỌC TRÊN ĐẤT KINH KÌ (THĂNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

Năm 1428 Quốc Tử Giám được mở lại trên cơ sở mới


của Kinh đô. Sinh đồ gồm không những là con em quan
chức nhà nước mà có cả con em bình dân.
Các trường gọi là Lộ học được thiết lập ở các tỉnh hay
là các lộ cho con em bình dân ưu tú. Những học sinh này
gọi là Lộ học sinh được phép theo đuổi học tập ở Quốc tử
giám sau khi tốt nghiệp ở các trường tỉnh. Liên quan đến
chế độ thi cử có mở các kỳ thi Minh kinh và Hoàng từ
trong khi chưa thực hiện được cuộc cải cách, v ề sau vào
năm 1434, triều vua Lê Thái Tông( 1434-1442), chiếu chỉ
ban hành điều chỉnh về thi Hương và thi Hội định lệ tổ
chức vào nam 1438 và 1439. Cứ ba nam một kỳ. Thực ra,
chỉ mãi đến 1442 kỳ thi Hội đầu tiên mới được mở dưới
thời Lê Sơ, và kế hoạch kỳ thi 3 năm chỉ được thực hiện
bắt đầu 1463. Kỳ Hội thí đầu tiên 1442 phỏng theo chế độ
thi cử nhà Trần, cùng gồm những đặc tính như Tam giáp và
Tam khôi.
Dưới triều vua Lê Thánh Tông( 1460-1497) về hệ
thống giáo dục có nhiều cải cách mới. Nhà vua đặt tên mới
cho Quốc Tử Giám là Thái học và chiếu cho mở rộng
thêm. Hơn nữa học sinh được cấp một thư viện và những
tiện nghi ăn ở ngay trong nhà Thái học. Đồng thời theo
như thường lệ vào ngày mồng một đầu tháng, dưới sự
hướng dẫn của giáo thụ, học sinh tề tập tại Văn Miếu bên
cạnh nhà Thái học để làm lễ Khổng Tử. Các vị trúng khoa

59
CHƯƠNG 1: NHO GIÁO CÓ PHẢI LÀ MỘT TÔN GIÁO?

thi Hương được ban cho danh hiệu Hương cống và Sinh đồ.
Vào nãm 1446 bắt đầu thi hành lệ xướng danh hay là công
bô' danh sách đăng khoa và lễ vinh quy là hát rước sách
long trọng về làng các vị khoa bảng. Sau cùng vào năm
1484 bắt đầu có tục khắc bia đề danh khoa Tiến sĩ, ghi tên
tuổi và thứ bậc đỗ đạt, đặt ở tại Văn Miếu.
Dưới thời nhà Mạc (1527-1540) chế độ khoa cử vẫn
được duy trì như các triều đại trước. Sau thời Lê Trung
Hưng năm 1533 tổ chức về giáo dục cổ điển Trung Hoa tức
Hán học lại theo thời Lê Sơ. Tuy vậy cùng có một sô' cải
cách mới như thiết lập ngạch quan Tế tửu và Tư nghiệp
quan có chức vụ giảng dạy Hán học ở Quốc Tử Giám.
Hàng tháng có kỳ khảo chứng khả năng gọi là Tiểu tập và
3 tháng gọi là Đại tập.
Năm 1734, dưới thời Lê Thuận Tông, Trịnh Giang để
tiết kiệm cho kinh tế quốc gia, bèn "cấm nhập cảng điển
tích Trung Hoa và ra lệnh cho khắc in mọc bản ở
Việt Nam.
v ể việc thi cử quan chức, thì khoa thứ nhất được mở
vào năm 1554. Sau đấy bất thường lại mở một sô' chế khoa
đặc biệt. Khoa thi Hội thí đầu tiên được tổ chức vào năm
1590. Kể từ đấy trở về sau, cứ ba năm lại có kỳ thi Hương.
Tuy vậy các kỳ thi này tổ chức cũng không được đều. Chỉ
mãi tới năm 1664 và 1678 mói lần lượt xét lại cho Hội thí
và Hương thí.

60
NHO GIẢO - ĐẠO HỌC TRÊN ĐẤT KINH KÌ (THĂNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

Ở miền Nam bấy giờ, chúa Nguyễn cùng tổ chức các


k) thi để tuyển lựa quan chức có khả năng một khi dùng
vào việc cai trị thì xếp vào ba hạng là hành chính, thuế
khoá, hay lễ nghi.
Mặc dầu những thành tựu của chúa Trịnh ở miền Bắc
và chúa Nguyễn ở miền Nam, giáo dục Hán học trong
những thế kỷ X V II và X V III đã bắt đầu suy thoái trầm
trong bởi sự suy thoái của Khổng giáo đương thời. Tuy
nhiên sự truyền bá của nó trên bình diện quốc gia, các
chúa Nguyễn đã có uy tín chính đáng để đem Hán học
xuống miền Nam với sự giúp sức của nhiều học giả Trung
Hoa lánh nạn, sau khi nhà Minh sụp đổ.
1.2.3. N ho học và Nho giáo Việt Nam th ế kỷ XVIII
- XIX
Nho học và hệ tư tưởng Nho giáo phát triển mạnh ở
cíc thế kỷ X V , X V I, X V II thì bắt đầu có những bước suy
vi của nó. Những thương cảng thế kỷ X V II như: Phố Hiến,
Hội An, Hội Thống, Hà Tiên, Đông Phố, Đồng Nai... đã
làm cho mọi người có những nhận thức mới, nhất là sau
rủững tiếp xúc với không chỉ với các giáo sĩ phương Tây
rrà cả với những thương gia phương Tây. Đồng tiền và nền
knh tế hàng hoá hay đúng hơn là những giao lưu Đông -
Tìy thông qua buôn bán ở các thương cảng, người Việt
Nam có một lúc nào đó muốn “chối từ cái cũ” để đến với
mững yếu tố mói. Việc dùng chữ Nôm, chữ La tinh ghi

61
CHƯƠNG 1: NHO GIÁO C Ố PHẢI LÀ MỘT TÔN GIÁO?

lại âm chữ Việt của các giáo sĩ trong phạm vi hẹp cũng đã
cho xã hội Việt Nam thời ấy những hy vọng mới. Nho học
không tiến kịp với những trào lưu mới, theo đó mà Nho
học hay hệ tư tưởng Nho giáo có lúc đã lâm vào thế bí.
Khoa cử "dĩ văn thủ sĩ" đã được tạo dựng và đạt tới
trình độ mẫu mực từ thời Hồng Đức. Nhưng lối giáo dục và
khoa cử Nho học mang trong nó những hạn chế tất yếu,
những tộ đoan mà tất nó phải sinh ra như lối từ chương,
tầm trích, hư vãn, đề cương... Trong buổi thịnh thời, khoa
cử Nho học chưa bộc lộ những hạn chế đó. Càng về sau
giáo dục và khoa cử càng bài bản, thành "nghề", kỹ sảo
càng cao, rèn rũa càng tinh vi, những mối tệ mới ngày
càng nặng nề và thành một nguy cơ, một lực tác động càng
làm suy yếu Nho giáo, làm tha hoá Nho phong sĩ khí. Đầu
thế kỷ XV III sự thâm nhập của kinh tế hàng hoá, của đồng
tiền vào giáo dục và khoa cử, sự lơi lỏng của quản lý nhà
r.ước càng đẩy giáo dục và khoa cử dần dần hủ bại.
Sang thế kỷ X IX , Minh Mệnh (1820 - 1840) ý thức rõ
ràng Nho học, Nho giáo, Nho sĩ là chỗ dựa tư tưởng, xã hội
của nhà nước. Triều Nguyễn ra sức chấn chỉnh chế độ giáo
dục khoa cử. Ông tổ chức khoa thi tiến sĩ, chấn chỉnh các
khoa thi cử nhân. Giáo dục và khoa cử Nho học từ Minh
Mệnh về sau có quy củ, thể chế kéo dài tới năm 1919. Mặt
khác cho truyền bá công bô' rộng rãi "Huấn địch thập điều"
nêu cao trung hiếu, lễ nghĩa theo quan niệm Nho giáo, ban

62
NHO GIẢO - ĐẠO HỌC TRẼN ĐẤT KINH KÌ (THẢNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

bỏ đến tận làng xã. Vào thời Tự Đức (1848 - 1883) "Huấn
địch" được diễn nôm để dân dễ nghe, dễ nhớ. Nhà nước đã
cố gắng hết mức tăng cường và củng cố Nho giáo.
Kẻ sĩ thế kỷ X IX thực sự là một tầng lớp xã hội đông
đảo và có lẽ "thuần khiết' hơn thời Lê Mạt. Nhà Nguyễn về
học thức và tư tưởng, khống chấp nhận "Tam giáo đồng
nguyên", về tín ngưỡng trên danh nghĩa là hạn chế Phật và
Đạo, độc tôn Nho giáo. Minh Mệnh và Tự Đức là hai ông
vua sùng kính Nho học, đặc biệt nêu cao Nho học thời Lê
Thánh Tông. Năm 1832, Minh Mạng ra dụ: "Nước Việt ta
lấy văn hiến mở nước, các vua anh minh ra đời, duy nhất
Thánh Tông nhà Lê là hiếm có , pháp độ và chính sách hay
đều chép ở trong sử, sau khi cơ mưu muôn việc nhàn hạ,
văn nghệ vui chơi làm ra rất là phong phú, cái phong tao
lưu lại thấy tiếng hay, trảm truy tư cổ nhân rất là hâm mộ".
Minh Mệnh cho sưu tầm các thơ văn của Lê Thánh Tông
khắc in thành sách; "đề cao các vãn hay thời trước, lưu lại
trong rừng văn nghệ nước nhà". Nhìn lại quá khứ, tìm
trong quá khứ bài học kinh nghiệm cho hiện tại và tương
lai là phương pháp tư tưởng Nho giáo thời Minh Mệnh.
Đồng thời giải quyết vấn đề đạt ra trước Nho giáo, để
gạt bỏ những trở ngại trên đường chữa chạy những "căn
bệnh" làm Nho giáo suy yếu, tái lập uy quyền của đạo
thống, tam cương và lễ giáo. Ở góc độ học thuật, Nho sĩ cố
gắng .chuyển hướng từ chỗ chỉ quan tâm tới các vấn đề

63
CHƯONG 1: NHO GIÁO CÓ PHẢI LÀ MỘT TỔN GIÁO?

luân lý đạo đức mở rộng sang quan tâm tới các vấn đề xã
hội với hy vọng tăng cường khả năng giải quyết các vấn đề
thực tế của Nho gia.
Sĩ là tầng lớp được trọng vọng tại Việt Nam. Theo
cách nói thông thường người ta gọi là "phần tử trí thức",
"tầng lớp trí thức". Thực tế thì sĩ và tầng lớp trí thức là
không hoàn toàn giống nhau.
Sĩ trong lịch sử Việt Nam là hiện tượng xã hội tương
đối phức tạp không thể lấy một giai đoạn lịch sử nhất định,
mà khái quát. Kẻ sĩ thời Lý - Trần không giống kẻ sĩ thời
Hậu Lê, thời Nguyễn thế kỷ X IX đầu thế kỷ X X . Kẻ sĩ
Việt Nam cũng không giống vói kẻ sĩ Trung Quốc nhất là
thời Minh - Thanh.
Xét về văn hoá Việt Nam truyền thống không thể
không nói đến sĩ, đây chính là một bộ phận xã hội quan
trọng lưu truyền, sáng tạo văn hoá và tư tưởng. Bộ mặt của
kẻ sĩ cũng là bộ mặt của ván hoá tư tưởng xã hội. Đặc biột
từ thời Hậu Lê trở về sau. Sự thăng trầm của Nho học, Nho
giáo, Nho sĩ và những đặc điểm của nó đều liên quan đến
lịch sử đương thời, người ta gọi kẻ sĩ cũng là Nho sĩ.
Kẻ sĩ và Nho sĩ ở Việt nam có từ thời Bắc thuộc, có
người đậu tiến sĩ và làm quan ở Trung Quốc vào thời
Đường( thế kỷ VIII) như Khương Công Phụ và phát triển
mạnh mẽ vào thời Lý - Trần. Giáo dục và khoa cử Nho học
là nơi sinh trưởng và phát triển của tầng lớp sĩ. Tuy nhiên

64
NHO GIẢO - ĐẠO HỌC TRẼN ĐẤT KINH KÌ (THĂNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

vào thời Lý - Trần, kẻ sĩ làm quan không nhất thiết phải


qua khoa cử. Phan Huy Chú có viết: "Về phái Nho học có
người do vãn chương học vấn để chỉ có tài và được cất đặt,
không câu nệ vào tư cách.". Thời Hậu Lê chế độ khoa cử đi
vào quy củ có thể chế chi tiết, cứ 3 năm một kỳ thi hương.
Kẻ sĩ muốn làm quan hầu hết phải qua thi cử.
Mục đích của kẻ sĩ học hành rồi qua khoa cử để làm
quan hoặc làm thày (thầy thuốc, thầy tướng số, thầy cúng);
Nho, y, lý số đi liền với nhau. Họ thường nói "học nhi ưu
tắc sĩ". Con đường làm quan làm thầy thôi thúc họ "dùi
mài kinh sử". Thời Lê sơ bộ máy quân chủ hành chính mở
rộng tìr trung Ưrtng xuống huyện xã khác với thời L ý - Trần
là bộ máy quý tộc quan liêu.
Kẻ sĩ Việt Nam vào thời Lê - Nguyễn lại gắn liền với
nông thôn, nông dân. Thành thị Việt Nam thế kỷ XV II có
sự phồn vinh nhất định, với Thăng Long, Phố Hiến, Hội
An, Thanh Hà...thi sang thê kỷ X V 111, Phố Hiến suy tàn,
Hội An sút kém. Cả các thế kỷ XV II - XV III Phố Hiến
chưa từng có một tiến sĩ, chỉ có vài ba Cống sinh. Thăng
Long là trung tâm của văn hoá Đại Việt, nơi có nhiều vị
tiến sĩ hơn một số địa phương khác. Tuy nhiên các vị tiến
sĩ ở Thăng Long cũng đều gắn với "làng quê ven đô". Hầu
hết các vị đại quan được ghi trong "Lịch triều hiến chương
loại chí " đều xuất thân từ nông thôn. Theo tài liệu Khoa
mục ch í của bộ Lịch triều hiến chương loại chí thì trong

65
CHUONG 1: NHO GIÁO CÓ PHẢI LÀ MỘT TỔN GIÁO?

danh sách các Hội nguyên, Đình nguyên từ khoa Nhâm


Tuất Đại Bảo (1442) đến khoa thi Đinh Mùi Chiêu Thống
(1787) với 94 khoa thi tiến sĩ và 4 chế khoa thì chỉ có 3
người Hội nguyên là ở Thăng Long... Nho sĩ Việt Nam làm
quan hoặc làm thầy, đều ở nông thôn, tư tưởng, đạo đức,
Nho giáo truyền thống đến thời kỳ này cũng không có
chuyển biến đáng kể.
Kẻ sĩ là tầng lớp xã hội không thuần nhất, có thể chia
thành 2 bậc, bậc làm quan và bậc làm thầy, như nhân dân
thường nói: "Tiến vi quan, thoái vi sư". Sô' lượng kẻ sĩ làm
quan không phải nhiều, số lượng làm thầy thì đông đảo
gấp nhiều chục lần. Kẻ sĩ làm quan gắn liền với nhà nước,
là công cụ của nhà nước thống trị; kẻ sĩ làm thầy thì gắn
liền với dân quê. Có lẽ vì vậy mà "chất Nho" trong hai bậc
sĩ này cũng không giống nhau. Những nhà Nho là khoa cử,
là quan lại thì chính cống Tống Nho; các nhà Nho làm
thầy (ihầy dạy học, thầy thuốc, thầy bói) thì dân dã thôn
quê; ở bậc cao thì lễ giáo tam cương chặt chẽ, ở bậc thấp
thì lễ giáo đã giảm nhẹ nhiều. Chính bậc thấp này là trung
gian giữa nông dân và nhà nước, giữa văn hoá dân gian với
Nho giáo chính thống, có sự "tái cấu trúc", Nho sĩ bậc thấp
mang văn hoá Nho giáo có tính dân gian.
Có người nói, Nho giáo càng phát triển thì Đạo giáo
càng suy giảm, bởi lẽ Nho giáo là loại hữu thần nhưng
không mê tín dị đoan còn Đạo giáo là thần tiên lãng mạn,

66
NHO GIẢO - ĐẠO HỌC TRÊN ĐÁT KINH KÌ (THẢNG LONG - ĐÔNG OÔ - HÀ NỘI)

phong thuỷ mê tín, cả hai không đồng hành. Còn Phật giáo
cũng vì sự tăng cường và củng cố Nho giáo đã kém phát
triển. Không phải như vậy. Thực tế vào thời Hậu Lê và nhà
Nguyễn lại khác. Có đôi lúc có nhà vua Gia Long, Minh
Mạng phê phán Phật, Đạo, nhưng chính họ cũng đứng ra
xủy chùa ở Thừa Thiên. Có thể nói phần lớn các vua chúa
thời Hậu Lê, thời Nguyễn đều cho phát triển Phật, Đạo và
chính bản thân họ cũng góp nhiều cống mở mang Phật
giáo. Mặt khác, chính tầng lớp Nho sĩ mà không có may
mắn làm quan thì lại chuyển sang theo Đạo, theo Phật. Họ
là bộ phận giúp cho Nho giáo phát triển, làm thầy dạy học
thường được gọi là thầy đồ; đồng thời chính họ cũng là bộ
phận góp phần mở rộng Phật và Đạo, bởi lẽ Nho học vốn
hài hoà, dung hợp với cộng đồng và xã hội. Phật và Đạo
cũng dễ dàng dung hợp với Nho.
Nho học và Nho giáo các thế kỷ X V III sau những
thời kỳ suy vi cũng muốn chán hưng trở lại. Ngoài việc
tàng cường thi cử và thắt chặt hệ tư tưởng Nho giáo rộng
khắp mọi nơi của các vua chúa Nguyễn. Nho giáo tự thân
còn có một số hành động cụ thể để tự cải biến mình, như
phát triển kinh học và tăng cường khảo cứu học thuật, như
khuynh hướng thực học, khảo chứng và khảo cứu, trong đó
bộ Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú là
một tác phẩm kinh điển. Ngoài ra để mở rộng ảnh hưởng
của Nho giáo, các nhà Nho đã trở lại phương pháp truyền

67
CHƯƠNG 1: NHO GIÁO CÓ PHẢI LÀ MỘT TỔN GIÁO?

thống vốn có từ trước là kết hợp vớc các tôn giáo khác như
Phật giáo và Đạo giáo thành Tam giáo đồng tôn
Trong lịch sử truyền thống dân tộc chúng ta đã làm
quen với từ Tam giáo và những khoa thi Tam giáo ở thời
Lý - Trần. Tam giáo cũng vẫn là Phật giáo, Nho giáo và
Đạo giáo. Song về mặt hình thức nhất là tư tưởng văn hoá
thì chúng lại có những biểu hiện khác nhau. Tam giáo thời
Lý - Trần với hệ tư tưởng Phật giáo làm gốc. Có nghĩa là
Phật giáo kết hợp với Nho giáo, Đạo giáo tạo nên một thứ
Tam giáo mà Phật giáo là chính. Điểu này chỉ chứng tỏ
rằng trong xã hội lúc đó thì Nho giáo đã dần lớn mạnh và
tự khẳng định tư tưởng, cách quản lý xã hội bằng pháp luật
của mình trong một xã hội phong kiến là đúng đắn, để rồi
đến một lúc nào đó tiến vào vũ đài lịch sử thay thế hẳn hệ
tư tưởng Phật giáo.
Không phải chỉ có Nho giáo mà với bất kỳ một hệ tư
tưởng nào, khi nắm được chính quyền đều muốn độc tôn,
thống soái tư tưởng xã hội. Chính vì vậy họ sẩn sàng đặt
các tôn giáo khác, nhất là tôn giáo có trước đó trở thành
một thứ bị đặt trong vòng kiểm soát của luật pháp và nhà
nước. Có không ít những ngôi đền, ngôi chùa ở nước ta bị
các vua, chúa phong kiến Nho giáo bắt cấm không cho
hành nghể. Cũng từ những hành động này dân gian cho
rằng Nho giáo hoặc bất kỳ một hệ tư tưởng nào đó bị gọi là
vô thần, mà thực ra là độc thần mới đúng.

68
NHO GIẢO - ĐẠO HỌC TRÊN ĐẤT KINH KÌ (THẢNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

Nho giáo phát triển tới một thời điểm lịch sử nào đó
rồi bị suy vi cùng với những nhận thức mới, những trào lưu
tư tưởng mới của thế giới bên ngoài mang đến mà cụ thể
\kì thời điểm này là chủ nghĩa Tư Bản Phương Tây, cùng
nền kinh tế hàng hoá phát triển làm đảo lộn xã hội. Nhằm
khôi phục lại Nho học và Nho giáo, các nhà Nho sử dụng
hhh thức Tam giáo (Nho, Phật, Đạo) mà lần này hệ tư
tư*ng chủ đạo là Nho giáo. Nhiều nhà Nho quay về với
th o giáo và Phật giáo. Họ dùng hiểu biết của mình thông
qia minh văn của các chuông bia ở đền, chùa để nói về
nlận thức tư tưởng, xã hội của họ. Đó là một tư tưởng chán
chròmg đạo Nho. muốn hợp với các hình thức tốn giáo
klác tạo nên một tôn giáo mới mà chúng ta quen gọi là
Tim giáo đồng tôn. Thứ tôn giáo này chỉ phô bày tại các
kến trúc tôn giáo chứ không đem nó trở thành một hình
thíc thi cử như ngày xưa. Đó chính là những dấu hiệu suy
Vt/Iìg của hệ thống tu tưởng Nho giáo này.
Nho giáo và Nho học ở các thế kỷ X V III - X IX là sự
siy vi, là sự phục hưng cuối cùng của nhà nước phong kiến
\iệt Nam. Sự phục hưng Nho giáo ở thế kỷ X IX đầu thế kỷ
>x có thể ví như là những ánh chớp lẻ loi loé lên trên bầu
tời ban đêm, để rồi những ánh sáng yếu ớt này chìm hẳn
tong màn đêm của chế độ nô lệ thực dân.
Dưới sự lãnh đạo của Bác Hồ và Đảng Cộng sản
ỉ*ông Dương, nhân dân Việt Nam đứng lên giành lấy chính

69
CHƯONG 1: NHO GIÁO CÓ PHẢI LÀ MỘT TỔN GIÁO?

quyền về tay mình. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Hồ Chủ tịch


đọc Tuyên ngôn độc lập tại Quảng trường Ba Đình khai
sinh ra nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Đạo học
Việt Nam bước sang một trang mới, với việc sử dụng chữ
Quốc ngữ thay cho chữ Nôm và chữ Hán nên đã đạt được
nhiều thành tựu mới.

70
NJHO GIẢO - ĐẠO HỌC TRẼN ĐẤT KINH KÌ (THĂNG LONG - ĐÔNG ĐỎ - HÀ NỘI)
■■MaaMmmnntaniM » ' I Mt— rarc/ %mm 1

Chương II
Nghi án hồ Dôm Đàm
và những điều lịch sử còn bỏ ngỏ
trên đất rồng bay

2.1. NGHI ÁN HỔ DÂM ĐÀM


Về vụ án trên hồ Dâm Đàm (tức Hố Tây) vào buổi
đầu nhà Lý thì dường như ai cũng biết, cũng bàn. Đài
truyền hình Hà Nội, nhân dịp kỷ niệm Ngàn năm Thãng
Long cũng đã có phóng sự về vụ nghi án này. Trong phóng
sự ấy, chúng tôi tliấy sự góp mặt của nhiều nhà nghiên cứu
lịch sử nổi tiếng, nhất là nhà Hà Nội học Nguyễn Vinh
Phúc. Sau khi đưa ra những dữ liệu lịch sử rất thuyết phục,
ông cho rằng đây là sự đấu trí, đấu lực giữa Phật giáo -
một hệ thống tư tưởng chính thống thời Lý với Nho giáo -
một hệ tư tưởng mới đang manh nha trong lòng xã hội Việt
lúc ấy. Điều ấy chắc chắn là đúng. Song để có cái nhìn
toàn cảnh về vụ nghi án này, chúng tôi xin trích giới thiệu
một số tài liệu có liên quan.

71
CHƯONG 2: NGHI ẤN HỔ DÂM ĐÀM VÀ NHŨNG ĐIỂU LjCH sủ CÒN BỎ NGÓ

Trước tiên chúng tôi trích giới thiệu tài liệu có tén:
Dãm đàm mục công lục
Ông họ Mục, tên Thận, người Đoan Chương, Quảng
Đức, tiên tổ ông có người tên là Uấn, từ nhỏ đã rất thạo
sông nước, giỏi nhất là nghề giăng lưới bắt cá. Vào khoảng
niên hiệu Thiên Phúc thời Lê, vì tài bắt cá mà được bề trên
tin dùng, sung vào đội Vân thuỷ làm Hậu nhân. Uấn chết
con là Pha lại kế thừa công việc của cha. Năm Cảnh Thuỵ
thứ hai, vào hầu trong cung Mục Ngư, ngày càng được
sủng ái, thăng làm Thuỷ cơ phòng uý. Khi Lý Thái Tổ lên
ngôi, Pha lấy cớ đau mắt, không đảm đương được nhiệm
vụ. Vợ Pha là Biện thị hỏi rằng:
- Sự cao diệu của nghề chài lưới thì nhà ta vốn đã có
đủ. Nay quân tử lại dùng kế giả thác, vờ làm đau mắt, để từ
bổng lộc. Đó là bần tiện mà ghét phú quý vậy. Không nghe
người xưa nói rằng: nhất nghệ tinh, nhất thân vinh sao?
Pha nói:
- Bà là đàn bà, còn biết điều ấy, huống hồ là ta.
Nhưng ngẫm thấy nhà ta chỉ vì chút nghề mọn đánh cá mà
được hưởng phúc lớn, vinh dự ngẩng chịu ơn trời, no ấm đã
truyền mấy đời rồi. ơn đức cao dày của đế vương lớn như
núi, chẳng may mất đi, tuy gan óc lầy đất cũng không báo
đáp được. VI vậy, tấm lòng thành nhỏ mọn cứ ôm sầu qua
ngày. Sao lại không thể tham bổng lộc để đợi ngày vinh
hoa được?

72
NHO GIÁO - ĐẠO HỌC TRẼN ĐẤT KINH KÌ (THĂNG LONG - ĐÔNG ĐỔ - HÀ NỘI)

V ợ cười rằng:
- Lời phu tử đúng lắm. Nhưng xin ngồi xem trên chốn
triều đường toàn là bọn người nào? Há lại không biết cái lẽ
ấy mà cứ cho là như vậy ư?
Pha nói:
- Lời bà nói đều là lời ham lợi lộc cả. Ta là giống
rgười. sao lại có thể làm được cái việc vô loài ấy?
V ợ đáp:
- Hiểu biết của phu tử chỉ là lông ngỗng ném xuống
rước mà thôi. Sao không nghe cơ hàn thiết thân, bất cố liêm
fỉ. Một ngày không ăn thì đói, cả năm không may áo thì rét.
Lợi hại nhỡn tiền chính là chỗ đó, chứ không đâu xa.
Pha vẫn không chịu nghe, Biện thị lại tiếp:
- Không nghĩ xa, tất có lo gần. Một ngày không tính
còn lo sao kịp? Vả lại họ Lê là bề tồi triều đình, mà còn
cúi mình theo nhà Lý để mưu tiến thủ, huống hồ là chúng
a chỉ có một nghề mọn, trung tiết cũng kịp sao được?
Pha nói:
- Loạn thần tặc tử đều từ đàn bà mà ra cả. Xưa, Hàn
rín không quên thời cơm canh đạm bạc, Dự Nhượng
không phản lại Trí Bá, đến nay, tiếng thơm còn truyền, tuy
chết mà như sống. Bởi vậy, tráng sĩ hy sinh thân mình để
lấy điều nghĩa, liệt nữ tự khoét mắt để làm tin, lẫm liệt

73
CHƯƠNG 2: NGHI ÁN HỐ DÂM ĐÀM VÀ NHŨNG ĐIỂU L|CH sủ c ò n bỏ ngỏ

muôn đời, sáng như nhật nguyệt. Bỏ điều ấy thì khác gì


loài chó lợn?
Vợ ông bất đắc dĩ lại nói:
- Ông đã giữ danh phận để giữ tiết tháo cao cả, thì
con chúng ta đã hai mươi tuổi rồi, sao chẳng cho nó thay
chức của ông?
Pha thấy lời nói ấy khả đĩ, bèn tầu rằng:
- Lão mệt mỏi, không kham được việc, xin sung con
trai lão vào việc sông nước.
Con Pha tên là Hạp, hình dung cao lớn, trạng mạo
khôi ngôi, tính hiếu thiện và hay bô' thí, hiểu biết ít nhimg
cao thượng, bốn mươi tuổi mà chưa có con. Vào năm Long
Thuỵ thứ 4, vợ ông là Lãng thị mới mang thai lạ, sau 12
tháng chỉ sinh ra cái bọc đỏ, màu như son, có ánh sáng
chiếu trong nhà. Mọi người đều cho là quái lạ. Qua 7 ngày
bọc vỡ, lộ ra một bé trai da trắng như ngọc, mịn như tơ, ba
ngày mới biết bú, 10 ngày mới biết khóc. Lúc đầu hai vợ
chồng định vứt đi, nhưng vì thấy mắt nó tinh anh, thần sắc
ấm áp, nên không vứt nữa. Đầy năm đứa bé mới biết ngồi.
Năm tuổi mới biết đi, ăn uống như người bình thường,
không thích chơi bời. Cha nó mừng, nói với mẹ nó rằng:
- Ta đã có người nối dõi rồi. Đứa con này cuối cùng
cũng sẽ kế thừa được nghiệp cha đây. Có thật là vậy
chăng?

74
NHO GIÁO - ĐẠO HỌC TRỀN ĐẤT KINH KÌ ƠHĂNG LONG - ĐÔNG ĐỔ - HÀ NỘI)

Bèn đặt tên là Thận, tự là Công Hoà. Đến khi lớn lên,
đứa bé có dung nhan đẹp đẽ, sức khoẻ hơn người. Một
hôm, Đ ế tới đầm Nam thưởng ngoạn vẻ đẹp của hoa sen.
Ông theo cha hầu thuyền ngự. Đ ế thấy trạng mạo của ông,
bèn ban cho cha ống làm Thái lão và sung ống vào chức vụ
này. Bấy giờ đúng vào... Đ ế lệnh cho xa giá đi chơi Hồ
Dâm Đàm (nay là Hồ Tây), ngồi trên thuyền, thả câu, lấy
việc xem cá làm vui. Gần tới trung lưu, đúng vào buổi trưa,
khí nóng đang mạnh, mây đen giăng khắp, che kín bầu
trời, khí mây hỗn độn, sương mù mờ mịt, hai người giáp
mặt nhau cũng khó nhận ra. Đế đại kinh, lát sau nghe tiếng
chco thuyền từ x a vọng tới, tiếng mái chèo sàn sạt. Đ ế vội
cầm trường mâu ném về phía ấy, bỗng nghe có tiếng rên to
từ trong đám mù. Đế hoang mang, không biết làm thế nào,
vội lệnh cho tả hữu lấy tay đỡ mình. Lát sau mù tan, trong
thuyền có con hổ thân mình cao lớn như con trâu to, lông
vằn đen tai lạ, đuôi cong, ánh mắt như chứp, tiếng ầin nhu
sấm, mài vuốt, đập chân, nhe răng trống rất sợ. Các quan
vãn võ đứng hầu sợ hãi, thất sắc, trong tay lại không có
một tấc sắt, khó mà chống đỡ. Bởi vậy, hoảng hốt chèo
thuyền chạy, đến nỗi mấy lần suýt lật thuyền.
Trước đây ống vốn nghề chài lưới do tổ tiên truyền
lại mà được bề trên tin dùng, tuy không được ở trong các
đại thần thân thích và có công lao, nhưng cũng được ở gần
thiên nhan, thường được quan tâm đầy đủ. Hôm ấy ông

75
CHUƠNG 2: NGHI ÁN HÓ DÂM ĐÀM VÀ NHŨNG ĐIỂU L|CH sủ CÒN BỎ NGỎ

đang giăng lưới ở đầu thuyền, bỗng nghe thấy việc như
vậy, bèn hét to:
- Việc gấp lắm rồi! Không vào hang hổ sao bắt được
hổ con?
Rồi lập tức quăng lưới trùm lên mình hổ, dụng lực
nhảy một nhảy, đã đi lên được lưng hổ và nắm chặt hai
chân trước của nó. Hổ đã bị ông đè chặt, khí lực rã ròi,
không thể cử động được. Thế là tả hữu cùng tới giúp đỡ,
dùng dây trói chặt hổ lại. Trong khoảnh khắc hình hổ đã
biến dần, lộ ra hình một người. Nhìn kỹ hoá là Thái sư Ngô
Văn Thịnh. Đế tức giận xuống chiếu cùm hắn bằng gông
sắt, cùm sắt, đày đi Tuyên Hoá, được vài năm thì chết.
Vốn là Vãn Thịnh thi đỗ khoa Minh Kinh bác học
năm At Mão. Đế yêu vì văn từ thông đạt, chọn sung vào
chức Thị giảng. Sau, ngày một được Đế sủng ái, yêu mến
quan tâm cho hầu hạ ngày đêm bên mình. Hắn được Đế
hậu đãi không ai sánh kịp. Chẳng bao lâu, đã được làm tới
chức Thái sư, xếp vào hàng huân hùng, lại càng kiêu căng
ngang ngược, sinh lòng thoán nghịch.
Trước đây cha Văn Thịnh là Văn Doanh làm Thị
trung Đô lang kỵ uý trong triều Thái Tông. Gặp khi Nùng
Tồn Phúc ở châu Tây Nông làm phản, theo Đế bắc chinh,
bắt được tù binh, đem về kinh sư. Bộ hạ của Tồn Phúc có
một tỳ tướng trẻ trạng mạo cổ quái cũng bị bắt. Văn Doanh
thấy nó đói khát, thương tình thường cho cơm ăn. Nó ngày

76
NHO GIẢO - ĐẠO HỌC TRÊN ĐẤT KINH KÌ (THẢNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

càng cảm động, đến khi được ân xá, tự tới chỗ Văn Doanh
rồi nói:
Mỗ là người nước Đại Lý, lúc trước Tồn Phúc lừa,
dùng Mỗ làm cái túi tham mưu về việc quân, rồi Mỗ bị
triều đình bắt được. Ngài đã đặc biệt thương xót và hậu
đãi, vì thế mới toàn được tính mạng, không thể báo đáp
được. Xin Ngài nhận làm nô lệ, để đền đáp công đức này,
mong Ngài chớ nên ngần ngại. Mỗ vốn có nhiều mẹo thần
và mật chú gia truyền, biến hoá muôn mối, quả thật là
những thuật hiếm trên đời. Nay nghe nói lệnh lang đã khôn
lớn, xin được truyền lại cho lệnh lang, ngõ hầu báo đáp
một trong vạn phần ơn đức vậy.
Văn Doanh cả mừng, bèn thu nhận làm nô lệ, cho ở
cùng. Nó đem hết thuật lạ bày cho Văn Thịnh. Văn Thịnh
đĩnh ngộ xuất chúng, lĩnh hội được tất cả. Đến khi được
làm Thái sư, bèn manh tâm phản loạn. Gặp lúc Đế đi chơi
Tây Hồ, mới dẫn đến như vậy.
Đế vui vì ông dũng liệt, lập được công lao, nhất thời
than rằng:
Xưa Thành Thang được Y Doãn ở Hữu Tân, Văn
Vương được Tử Nha ở Vị Thuỷ, đều là những hạng ti tiện
hạ phẩm mà có thể cứu vãn được đất trời từ chỗ không
thành tựu. Nay ta được Mục Lang cũng giống như vậy
chăng?

77
CHUONG 2: NGHI ÂN HỔ DÂM ĐÀM VÀ NHỮNG ĐlỂU L|CH sử CÒN BỎ N6Ỏ

Bèn phong ông làm Kiêu kỵ tướng quân, sau lại


thăng chức Phụ quốc, xếp vào hàng vương. Ông thọ đến 45
tuổi thì không bệnh mà qua đời. Đế hạ chiếu làm Thái uý,
ban cho thuỵ là Trinh Nghị. Sau khi mất, ông rất linh ứng.
Đế lệnh cho quan Bộ-Công xây dựng từ đường và đắp
tượng để phụng thờ. Bên phải đền thờ ông có một cây
phong cổ thụ, to khoảng trăm vòng ôm, cao ngàn thước, rễ
cong queo như rồng như rắn, ở giữa có một cái hốc to, sâu
và tròn. Bên trong có một đôi trăn trắng vân gấm, một đực
một cái, dài có tới 3 tầm, to có tới 4 tấc. Mỗi rằm, mồng
một, đều bò xuống dưới đền, ngước mắt lên trời như đang
chầu bái, đêm lại chui vào hốc. Đến nay ông còn làm phúc
thần. Năm Trùng Hưng nguyên niên, được gia phong làm
Trung Vũ đại vương. Năm Trùng Hưng thứ 4, được gia
phong hai chữ Vũ Lượng, vì có công âm phù1.
Đấy là toàn bộ câu chuyện được ghi lại trong đền thờ
của Ngài à vcn Hồ Tây Hà Nội ugày nay. Trong chuyện có
một số chi tiết cần có sự đính chính, nhất là các sự kiện
lịch sử. Chính vì vậy, chúng tôi xin giới thiệu tiếp một
chuyện khác, chép về Mục Thận trong Lĩnh Nam chích
quái2. Truyện kể rằng:

1 Đén thờ cùa ông ở chợ Võng, phường Thuỵ Chương, huyện Quảng Đức.
phù Phụng Thiên.
2 Truyện M ục Thặn chép trong Linh Nam chích quái. Nxb Văn học Hà Nội
1990.,tr: 150-151. '

78
N HO GIẢO - ĐẠO HỌC TRẼN ĐẤT KINH KÌ ƠHĂNG LONG - ĐỐNG ĐỔ - HÀ NỘI)

Theo sử ký và truyền thuyết thì ông họ Mục tên


Thận, người Cương Thuỵ, Quảng Đức. Bô' mẹ sống về
nghề chài lưới. Ông tướng mạo khôi ngô, thiên tính tháo
vát, vốn thích cái học bùa chú của Đạo gia, năm 18 tuổi
tìm thầy học pháp thuật. Trước ở núi Thanh Tỉnh, sau tới
núi An Hoạch, ngao du các núi non ở Nghệ An, các thần
phù bảo ấn đều tinh thông cả, mọi bí quyết đều ngầm
thuộc, sau dựng mấy gian nhà lá tại bản ấp để ở, gia công
tinh luyện, rộng cứu người đời. Do giỏi bùa chú mà nổi
danh, song nghề chài lưới vẫn không sao nhãng.
Dưới triều vua Lý Nhân Tông, Thái sư Lê Văn Thịnh
có kẻ nô tỳ người Man ở đA't Đại Lý giỏi thụât hùa chú, có
thể tạo ra sương mù và biến thân thành hổ báo. Văn Thịnh
dụ nó dạy mà học được phép ấy. Bèn âm mưu hại chúa,
nuôi lòng phản nghịch. Một hôm vua thăm chơi Dâm Đàm
(nay là Hồ Tây) cưỡi thuyền nhỏ tìm cá, thốt nhiên sương
mù đấy mặt nước, bốn bề mù mịt. Nghe có tiếng thuyền vỗ
chèo xuống nước oàm oạp. Vua lấy gươm ném phút chốc
sương mù tan Thấy trên thuyền có một con hổ lớn. nhảỵ
chồm chồm mà rống. Mọi người đều sợ xanh mắt. Tinh thế
nguy ngập, vua sai viên Xá Nhân truyền cho các thuyền
chài lại cứu.
Mục Thận nghe tin, vung tay áo mà bói, (thấy mất
mấy chữ). Vội chèo thuyền đến tung lưới đọc câu thần chú
rằng: “Thiên la địa võng, mật bố tứ chi, thẩn quang thần

79
CHUONG 2: NGHI ÁN HÓ DÂM ĐÀM VÀ NHỮNG ĐIỂU L]CH sử CÒN BÒ NGỎ

quang, chiếu triệt vạn chi” (Lưới trời lưới đất, lặng bủa bốn
bề, thần quang thần quang, chiếu rõ chân tướng) đọc xong
bủa lưới lên mình hổ. Lưới biến thành lưới sắt, hổ hiện
nguyên hình là Văn Thịnh. Vua thấy Thịnh là bậc Đại thần
có công, không nỡ giết, đầy lên thượng lưu sông Thao,
phong Mục Thận làm Thái uý Khang định công, ban cho
vùng Tây Hồ làm thực ấp, sau khi chết lại được phong
Thượng đẳng phúc thần, sai lập miếu ở trong ấp để thờ
cúng.
Mộ ông hiện còn ở chỗ cây táo phường Hồ Khẩu, nhà
nước và dân chúng đều thờ cúng, rất cảm ứng. Trước được
phong sau được tặng, ngày càng vinh hiển. Đến năm
Quang Thuận đời Thánh Tông, sai Thoát Hiên Đặng tiên
sinh làm bài thơ tán tụng như sau:
T ế nạn hoằng chi biến ứng tài
Yêu nhân tích lộ đảm tâm thôi
Thuỳ chi nhất đĩnh yên ba khách
Võng đắc Tây hồ thái ấp lai.
(Nghĩa là: Cứu nạn trổ tài ứng biến giỏi, đứa yêu ma
lộ vết, nhụt chí khí. Ai biết rằng khách thuyền trong sương
mù, lại có thể bủa lưới được cả vùng thái ấp ở Hồ Tây.)
Sự nghiệp của ông so với người xưa bên dòng sông
Vị cũng chẳng kém gì. Bên cạnh đền ông có một cây lớn
sống khoảng trăm năm, hình ngoằn ngoèo như con rắn,

80
NHO GIÁO - ĐẠO HỌC TRẼN ĐẤT KINH KÌ (THĂNG LONG - ĐỖNG ĐỒ - HÀ NỘI)

cành lá thưa thớt. Bên trong có một lỗ huyệt thông suốt, có


một con rắn lớn sống ở trong huyệt, hàng tháng đến ngày
mồng một và ngày rằm lại cuốn khúc nằm dưới bàn thờ
trong đền, đến đêm lại chui vào huyệt. Đền gọi là điện
Sung Khánh, ở bên cạnh chùa Vĩnh Khánh.
Khi đọc xong truyện Mục Thận trong Lĩnh Nam
chí:h quái thì chúng ta cảm thấy vừa hoang đường vừa
homg mang; bởi lẽ càng đọc càng rối, đâu đúng đâu sai?
Ông Mục Thận lúc là người lúc là thần tiên ma quỷ? Vậy
thục tế lịch sử là gì? Chúng tôi nhờ cậy vào các tư liệu sử
chtp, trước tiên là Đại Việt sử ký toàn thư chép:
Bính Tý năm thứ 5 (1096) Tống Thiệu Khánh
năn thứ 3. Mùa Xuân tháng 3, Lê Văn năm thứ 3, Lê Văn
Thnh mưu làm phản, tha tội chết, an trí ở Thao Giang. Bấy
gic vua ngự ra hồ Dâm Đàm đi thuyền nhỏ xem cá chợt có
míy mn nổi lên, trong đám mù nghe có tiếng thuyền bơi
đếi, tiếng mái chèo rào rào, vua lấy giáo ném. Chốc lát
míy mù tan thấy trong thuyền có con hổ, mọi người sợ tái
mĩt đi, nói rằng: Nguy lắm rồi! Người đánh cá là Mục
Thìn quăng cái lưới trùm lên trên con hổ, thì ra là thái sư
Lê Văn Thịnh. Vua nghĩ Văn Thịnh là đại thần có công
giip đỡ, không nỡ giết chết, đày lên trại đầu ở sông Thao.
Thrởng cho Mục Thận quan chức và tài vật, lại cho đất
Tố/ Hồ làm thực ấp. Trước đây Văn Thịnh có gia nô người

81
CHƯONG 2: NGHI ÁN HỔ DÂM ĐÀM VÀ NHŨNG ĐIỂU ỰCH sù CÒN BỎ NGỎ

Đại Lý có pháp thụât kỳ dị, cho nên làm ra như thế để định
cướp giết vua.
Sử thần Ngô Sĩ Liên bàn: Người làm tôi định cướp
ngồi giết vua mà được miễn tội chết. Thế là sai trong việc
hình, lỗi ở vua tin sùng Phật giáo”3.
Bộ Đại Nam nhất thống chí, phần tỉnh Hà Nội, tập
III, phần Bổ di có nghĩa là thêm phần còn sót chép về Mục
Thận4 như sau:
“...Mục Thận: người huyện Vĩnh Thuận làm nghề
đánh cá. Lý Nhân Tông chơi Dâm Đàm (Hổ Tây), đi thuyền
nhỏ xem đánh cá, bỗng mây mù nổi lên, trong mù tối nghe
có tiêng thuyén đến, tiếng chèo rầm rập. Vua lấy qua ném
thì chốc lát mây tan, thấy trong thuyền ấy có con cọp, mọi
người sợ thất sắc, nói việc nguy lắm. Thận lấy lưới quăng úp
lên mình con cọp, thì cọp chính là thái sư Lê Vãn Thịnh.
Vua thưởng cho quan tước và tiền của, cho đất Tây Hồ làm
thực ấp. Làm quan đến Thái uý. Nay bên hồ có đền thờ”.
Hồ Dâm Đàm nay là Tây Hồ, sử viết: “Hồ ở phía tây
tỉnh thành; thuộc huyện Vĩnh Thuận, chu vi 21 dặm, nước
sâu từ 1 thước đến 1 trượng, xưa gọi là Lãng Bạc, sông Nhị
bao bọc ở phiá bắc, sông Tô vòng quanh ở phiá nam; nước
hồ trong suốt như gương tức là chỗ mà Mã Viện nhà Hán

3 Xem Đại Việt sừ ký toàn thư. Bản điện tử tr: 242.


4 Đại Nam nhất thống chí, phần tinh Hà Nội, tập III, phần Bổ đi, tr: 217.

82
NHO G IÁ O - ĐẠO HỌC TRỀN ĐẤT KINH KỈ (THĂNG LONG ■ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)
l ■— 1 mmm* m -4U J rmm* »mm I M M iin r a M H H M M H B a M M H M M B B M il

nói là trông thấy chim diều đương bay trên không sà xuống
nước. Đời Đường Hàm Thông, Cao Biền đi khắp nơi tìm
đất tốt phương Nam, nhận chỗ này là kiểu đất “phượng
hoàng ẩm thuỷ”, lại truyền rằng có trâu vàng từ núi Lạn
Kha xổng ra, đến ẩn ở hồ này. Lý Thánh Tông dựng hành
cung ở đây, gọi là Dâm Đàm; nhà Lê đổi tên là Tây Hồ,
thường trồng sen ở hồ để thưởng ngoạn trong khi ngự ở Ly
cung; đời Cảnh Hưng nước hồ tự nhiên đổi sắc, hơi tanh
xông sặc sụa, sau đó ở phía đông hồ, đêm đêm thường thấy
có một con trâu ăn cỏ, nếu người đến gần thì trâu bèn chạy
xuống hồ. Một đêm sấm sét mưa gió, đến sáng thì có vết
chân trâu tìr trong hồ ra đến sông Nhj thì mất. sau không
thấy trâu ấy nữa. Nay bờ hồ dân cư đông đúc, chùa quán
khang trang, thật là thắng địa để chơi dạo thưởng thức”5.
Thật ra, càng đọc các tài liệu xưa, chúng ta càng
thêm rối làm cho vụ án hồ Dâm Đàm trở thành một nghi
án thực sự, hay nói đúng hơn đây là điểm inừ của lịch sử
Việt Nam cũng như của thủ đô Hà Nội. Xin trở lại một vài
tình tiết chưa rõ.
Trong Dâm Đàm công lục thì cha của Văn Thịnh tên
là Văn Doanh, đi đánh Nùng Tồn Phúc, bắt được một vài
tướng trẻ người Đại Lý. Viên tướng này trả cái ơn cứu
mang của Văn Doanh nên đã truyền một số thuật kỳ lạ cho

5 Đại N am nhất thống c h í ... đã dẫn, tr: 181

83
CHƯƠNG 2: NGHI ÁN Hổ DÂM ĐÀM VÀ NHŨNG ĐIỂU LjCH sù CÒN BỎ NGỎ

Văn Thịnh. Còn các tài liệu khác thì lại viết là Văn Thịnh
khi đánh Đại Lý bắt được một viên tướng. Người này có
nhiều pháp thụât kỳ lạ và trực tiếp dạy cho Văn Thịnh chứ
không phải trả ơn cho Vãn Doanh. Vậy sử cũ nói gì về vấn
đề này?
Sử chép:
Quý Mùi Minh đạo năm thứ 2 (1043) (Tống Khánh
Lịch năm thứ 3).
Tháng 9, ngày mồng một, sai Nguỵ Trưng đến châu
Quảng Nguyên cho Nùng Trí Cao đô ấn phong làm Thái
Bảo. Lê Văn Hưu bàn: năm trước Nùng Tồn Phúc phản
nghịch, tiếm hiộu, mở nước đặt quan thuộc, Thái Tôn đã
bắt tội Tồn Phúc, tha cho con là Trí Cao, lại cho thêm mấy
châu quận nữa, ban cho ấn tín, phong làm thái bảo, như thế
là thưởng phạt không có phép tắc gì. Đến khi Trí Cao làm
loạn Quảng Nguyên, lại đem quân đi đánh mượn cớ là viện
trợ láng giềng, có khác gì thả con cọp, con beo cho nó cắn
người rồi từ từ đến cứu không? Là bởi Thái Tôn say đắm
cái lòng nhân nhỏ nhặt của Phật, mà quên mất cái nghĩa
lớn của người làm vua.6.
Như vậy là Nùng Tồn Phúc là có thật. Ông ta là cha
của Nùng Trí Cao - một thủ lĩnh người thiểu số ở phía bắc
nước ta. Chỉ có điều, như sử chép thì hai sự kiện này chỉ

6 Đại Việt sử ký . . . . đã dẫn, tr: 221

84
NH<0 GIÁO - ĐẠO HỌC TRÊN ĐÁT KINH KỈ (THẢNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)
ìMhmmwbhhìim>mk: Mmi>l.»*l«ru«ct'1 :*>*-anir MumuMHMHMMHNBHMaMnaMM

chẽnh nhau có một năm. Và một năm ấy không thể kéo dài
bằng một đời người nên, sử cũ chép là đúng còn Dâm Đàm
công lục là chuyện chép lại của những người đời sau nên
nãim tháng lịch sử có sự sai lệch. Dẫu sao thì Dâm Đàm
côinẹ lục cũng là một câu chuyện kể rất hay về gia đình
M uịc Thận.
Còn một chi tiết nữa, nếu theo Dâm Đàm công lục thì
sự ra đời của Mục Thận có hơi cổ quái theo cái kiểu
“truyền kỳ” nhưng sau đó là sự phát triển bình thường của
một đời người như bao người trẻ tuổi khác. Còn trong Lĩnh
Nam chích quái lại chép về Mục Thận như một người đã đi
lu — Tu iheo kiểu Đạo giáo, rất am hiổu vổ thần chú. Ngay
bản thân trận chiến giữa một bên là Lê Văn Thịnh hoá hổ
với một bên là Mục Thận đại diện cho bùa chú thần tiên?
Vậy có một câu hỏi được đặt ra là liệu đây có phải là cuộc
chiến chỉ như là một cuộc xung đột giữa các Nho sĩ - Lê
Vãn Thịnh là đại diện với Phật giáo - hệ tư tưởng chỉ đạo
Đại Việt bấy giờ? Hay còn có sự tham gia của một yếu tố
tón giáo khác cũng đang muốn tìm một vị trí trong xã hội
Đại Việt lúc ấy - Đạo giáo tu tiên và Trường sinh bất tử?
Vậy phải chăng đó là cuộc xung đột tay ba giữa Nho giáo -
Đạo giáo - Phật giáo mà kết cục tuy Phật giáo có phần lấn
lướt song chỉ ít lâu sau đó, chúng ta có một cái gọi là Tam
giáo - một yếu tố mà nhiều nhà nghiên cứu cổ kim đều coi
đó như một yếu tố mang tinh thần dân tộc. Trong các câu

85
CHƯƠNG 2: NGHI ÁN Hồ DÂM ĐÀM VÀ NHŨNG ĐIỂU L|CH sủ CÒN BỎ NGỎ

chuyện người xưa chép lại về Mục Thận và cuộc chiến hóa
hổ của Thái sư - nhà Nho Lê Văn Thịnh, chúng tôi nhận
thấy, xã hội Đại Việt lúc ấy xuất hiện khá nhiều các yếu tố'
tôn giáo phức tạp. Bản thân Phật giáo với nhiều trường
phái cũng đang tranh giành ảnh hưởng lẫn nhau. Truyện
hoá hổ của Lê Văn Thịnh có nhiều tình tiết giống với
truyện của nhà sư Từ Đạo Hạnh, được chép lại trong câu
chuyện về 3 thiền sư nổi tiếng thời Lý như: Từ Đạo Hạnh,
Nguyễn Minh Không, Giác Hải thiền sư. Chính Nguyễn
Minh Không là người chữa khỏi căn bệnh hóa hổ của Từ
Đạo Hạnh. Căn bệnh này Đạo Hạnh lại được bắt đầu từ
những ngày Ngài còn trẻ trên đường đi tìm thầy học đạo đã
hoá thành hổ để trêu chọc bạn bè. Sau này các tài liệu đều
cho rằng Đạo Hạnh là một thiền sư - tức người tu theo phái
Thiền. Còn thực tế, qua các truyện về Ngài chúng ta lại
thấy toát lên một việc là Đạo Hạnh tu theo phái mật tông.
Mật tông là một phái của đạo Phật lấy bùa chú, chán ngôn
làm trọng. Chính phái này đã sử dụng nhiều xảo thuật
trong việc chữa bệnh cứu người, giúp đời. Vậy phải chăng
Lê Văn Thịnh đã học được thuật này của Mật tông? Và
như vậy thì chính đạo Phật, có sự tham gia của Đạo giáo đã
tự thanh trừng lẫn nhau. Trong sự thanh lọc này, Lê Vãn
Thịnh chỉ là một con bài trong cuộc chơi quyền lực và
chính trị. Sau khi thất bại, nhà Vua hay đúng hơn là triều
đình tha cho ông mặc dù theo các nhà Nho thì tội này của

86
NHO GIÁO - ĐẠO HỌC TRÊN ĐẤT KINH KÌ (THĂNG LONG - ĐÔNG ĐÔ ■HÀ NỘI)

Ông là rất nặng. Phải chãng đây chỉ là những sử lý mang


tính nội bộ? Nếu đúng như dự đoán thì câu chuyện Nho -
Phật xung đột mà nhiều người nói tới sẽ phải nghiên cứu
theo hướng nào?
2.2. NHO PHẬT XUNG ĐỘT
Thời Trần bắt đầu với Trần Thái Tống nêu cao tinh
thần tâm linh thực hiện để tổng hợp Tam giáo, Nho, Đạo,
Phật, lấy làm tinh thần quốc học Việt Nam, cho nên đồng
thời có các kỳ thi tuyển lựa nhân tài bằng khoa Thái học
sinh lại cũng có thi Tam giáo để thông hiểu cả ba giáo lý
lớn ở Đổng phương. Cả ba giáo lý ấy đều khoác mầu sắc
Việt Nam để thích ứng với điều kiện sinh tồn của dân tộc.
Phật giáo thì có khuynh hướng “Nhập thế vào đời” một
cách rõ rệt như đã thấy ở Thái Tông. Nho giáo thì có
khuynh hướng “Cùng lý chính tâm” thuộc về đức chính
tâm linh thực hiện không vụ từ chương cũng không luân lý
thực tiễn, như đã thấy ở Chu Vãn An. Còn về Đạo giáo thì
xem đề thi văn sách Đạo Lão'thời ấy, trong đó có câu hỏi:
“ Muốn cho đời này, muốn cho dân này đều vào trong Đài
Xuân bước lên Cõi Thọ thì phải dùng thuật gì để dạy?
Đáp án có đoạn kết rằng:
Bậc đại phạm gương mẫu cứu dân vẫn đã có thuật
thiêng, mà bụng yêu dân đều trong một lòng. Nếu trước
hết chính lại lòng mình thì bọn tà mị không thể rục rịch”7.

’ Xem thêm: Đại quan tư tường thời dại nhà Trần (1 2 2 5 -1 4 0 0 ) của Nguyẻn
Đ íng Thục đăng trong cuốn Việt Nam khảo cổ tập san số vn Sài Gòn 1974.

87
CHUONG 2: NGHI ÁN HÓ DÂM ĐÀM VÀ NHŨNG ĐIỂU L|CH sủ CÒN BỎ NGỎ

Trước hết chính lại thân thì khí tà không thể xâm phạm.
Lòng đã chính rồi thì lấy đó ra ân cho dân, sống không
thương tổn, đỡ thì không ngã, hậu đãi thì không khốn khó,
như thế nhân dân ai nấy được toại nguyện giàu thọ yên vui.
Thân đã Chính rồi, lấy để giúp dân chúng, kẻ nguy được
yên, kẻ chìm đắm được cứu, kẻ chết đi sống lại, như thế thì
nhân dân chung vui ơn sáng khí hoà. Như thế thì đời này,
nhân dân hớn hở trèo lên Đài Xuân, được vui mừng bước
vào Cõi Thọ. Ây mới là “dài lâu mệnh mạch của dân sinh
mạnh mẽ nguyên khí của quốc gia”.
Xem như thế có thể thấy đến cả Đạo Lão thiên về
pháp thuật, gọi đến bản nãng tính dục vô chủ ở con người,
lại cũng có tinh thần láy chính tâm làm tôn chi, thì đù hiểu,
trên cùng một căn bản tâm linh thực hiện để phụng sự
chính nghía quốc gia dân tộc mà Phật giáo, Nho giáo, Lão
giáo xây dựng cái lý đồng nhất của Tam giáo vói tinh thần
thông cảm với nhau hết sức cởi mở vậy.
Nhưng rồi chẳng bao lâu, sau triều Nhân Tông, vì ảnh
hưởng của Tống Nho độc tôn bên nhà Tống, mà Việt Nam
đã có kẻ trong làng Nho lên tiếng bài Phật, hay biểu lộ cái
tinh thần thực tiễn không tin quỷ thần.
Đời Minh Tông (1314-1329) có việc sử chép:
Đài quan dâng sớ nói: Chức Tể phụ là điều hòa âm
dương trước hết. Trần Khắc Chung làm tể tướng không làm
cho âm dương điều hoà, đến nỗi có nước lụt và đại hạn.
NHO GIÁO • ĐẠO HỌC TRÊN ĐÁT KINH KÌ (THẢNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

Không làm được công trạng gì, xin bãi chức Khắc Chung.
Khắc Chung nói: “Tôi làm chức quan gần vua, chỉ biết làm
điểu gì đáng làm, còn như đại hạn thì nên hỏi Long vương
(Thủy thần). Tôi có phải Long vương đâu mà quy lỗi cho
tôi thế nào được?”. Sau nước sông lên to, vua thân đi sửa
trị đê, Đài quan nói rằng: “Bệ hạ nên sửa sang chính đức”.
Khắc Chung nói: Dân đang bị nạn lụt, việc cứu chữa cần
cấp lắm, còn có đức chính nào hơn việc ấy nữa? Tất phải
ngồi yên định thần mới gọi là tu đức chăng?8
Xét đoạn đối thoại giữa quan Ngự sử và quan Tể
tướng, đủ thấy không khí học thuật trong giới trí thức
quunh nhà Vua lúc ấy khác xu nhau lắm. Một đùng tin âm
dương pháp thuật, một đằng là thực tiễn; Một đằng chủ
tĩnh, một đằng chủ động, đó là manh nha phong trào bài
bác Phật giáo, Nho sĩ về cuối đời Trần.
Sự thực bài bác này đã có từ cuối thời Lý với Đàm Dĩ
Mông, vì trong dân gian cũng như ở nhà vua phương diện
tín ngưỡng hình thức dần dần phát triển lấn cả tín ngưỡng
tám linh chân chính của đạo Phật cũng như ở Đạo giáo.
Vậy nên khi bước sang thời Trần, vua Trần Nhân tông khi
xuất gia, thăm các chuà trong nước đã có lệnh cấm không
thờ các dâm thần, bỏ các dâm từ. Vậy không lạ gì có sự bài
bác mê tín dị đoan của Nho sĩ đối với tín ngưỡng Phật

* Xin xem thêm: Đại Việt tiêu án, chép nãm Đại Khánh thứ 2 ( 1 3 1 6 . tháng 6).

89
CHƯƠNG 2: NGHI ÁN HỔ DÂM ĐÀM VÀ NHŨNG ĐIẾU L|CH sủ CÒN BỎ NGỎ

giáo, Đạo giáo ở tình trạng suy đồi. v ề điều ấy thì không
có tôn giáo nào không có lúc thịnh lúc suy, kể cả Nho
giáo. Bởi vậy mà phong trào bài bác Phật giáo của Nho sĩ
thời Trần cũng chỉ như thời Lý là bài bác hình thức suy đồi
chứ không đi sâu vào trong giáo lý.
Trước hết trong Sử Bình của Lê Văn Hưu dâng vua
Trần Thánh Tông bộ Sử đầu tiên của người Việt vào năm
1272, tức bộ Đại Viột sử ký, trong ấy tác giả phê bình việc
Lý Thái Tông ban ấn tước (1043) cho Nùng Trí Cao làm
loạn ở đất Quảng Nguyên mà không giết, có so sánh cử chí
đại lượng của nhà vua cho là đắm chìm vào cái đức nhân
nhỏ của Phạt giáo mà quen đi cái nghĩu lớn của quốc giu.
Nhà Nho Lê Văn Hưu đã cố chấp vào tư tưởng luân lý thực
tiễn về quốc gia đóng cửa của Nho giáo cho nên mới bảo
lòng từ bi bác ái đối với tất cả chúng sinh của Phật là “đức
nhân nhỏ”. Phải chăng ông đã chịu ảnh hưởng của cái học
Tống Nho chủ trương “Tịch dị đoan”.
Với việc thiết lập chế độ khoa cử thi Thái học sinh
đến đời Trần Duệ Tống (1374) đổi làm Tiến sĩ, cái học
Trình Chu của đời Tống Nho bắt đầu truyền bá vào Việt
Nam trong giới sĩ phu đương thời. Nhưng bởi vì thuyết
nhân quả báo ứng của nhà Phật đã thâm nhập và ăn vào cốt
tuỷ người Việt; Phật giáo trong dân gian vẫn chiếm địa vị
ưu thế, áp đảo tất cả các khuynh hướng tư tưởng khác, cho
nên Nho sĩ Việt Nam tuy chịu ảnh hưởng của tư tưởng bài

90
NHO GIÁO - ĐẠO HỌC TRÊN ĐÁT KINH KÌ (THẢNG LONG - ĐỔNG ĐỐ - HÀ NỘI)

Phật của Tống Nho đương thờ kết cục cũng vẫn khoanh tay
trước Phật giáo. Bằng chứng hiển nhiên là Nho sĩ cự phách
chủ trương bài Phật thời bấy giờ như Lê Quát, Trương Hán
Siêu cũng để lại những bài vãn bia về Phật giáo. Lê Quát
trong bài bia cho chùa Thiên Phúc, làng Bái, tỉnh Bắc
Giang viết như sau:
“Nhà Phật có thuyết hoạ phúc cảm động lòng người,
sao mà được người ta tin tưởng sâu xa bền bỉ thế? Trên từ
hàng vua chúa, dưới đến nhân dân, phàm có việc gì quan
hệ đến phụng sự Phật thì dù có đem hết tài sản cũng không
chút so kè bủn sỉn. Nếu ngày nay đem cúng gửi vào công
việc dựng chuà xây tháp thì vui vẻ làm ngay như cầm chắc
được sự báo đảm của sự báo ứng ngày mai vậy. Cho nẽn từ
trong kinh đô tới ngoài quận huyện, hang cùng ngõ hẻm
chẳng bảo mà theo, chẳng thề mà tin. Hễ ở đâu có nhà ở
thì có chùa thờ Phật, bỏ đi lại dựng lên, phá đi lại xây lại.
Chuông trống lâu đài so với nhà ở của nhân dân chiếm mất
phần nửa. Sự phồn thịnh thực là dễ dàng, mà lòng tôn sùng
thật là sâu rộng. Tôi ít đọc sách nhớ lại những điều cổ kim
cũng thô sơ biết được cái đạo của Thánh Nho về phép giáo
hóa nhân dân mà kết cục không đủ cho một lòng tin cậy.
Tôi thường đi du ngoạn sông núi, vết chân lê khắp đất
nước, tìm xem có đâu là Văn Miếu, Học cung thì chưa
từng được mục kích. Điều ấy làm tôi lấy làm hổ thẹn với
tín đồ nhà Phật lắm vậy. Xin bộc bạch mấy hàng”9.

1 N gu yẻn Đ ăng T h ục . . . đã dẫn

91
CHUƠNG 2: NGHI ÁN HỐ DẦM ĐÀM VÀ NHỮNG ĐIỂU ỰCH sủ CÒN BỎ NGỎ

Đấy thực là một sự thú nhận công khai của danh Nho
đời Trần rằng Nho giáo tuy thực tiễn mà không đáp ứng
nhu cầu tín ngưỡng tâm linh của nhân dân Việt Nam bằng
Phật giáo. Nhân dân không thể mãn nguyện với chủ trương
“chưa biết sống làm sao biết chết” hay chưa phụng sự được
người làm sao có thể phụng sự được quỷ thần của Nho
giáo. Vấn đề sống chết quỷ thần vốn làm cho con người
xưa nay thắc mắc, không thể nào giải quyết bằng lối gạt đi
như Khổng Tử đã giải quyết. Cho nên nhân dân chỉ tìm
thấy sự thoả mãn ở tín ngưỡng Phật giáo đem lại cho họ
mà thôi. Đấy cũng là lý do thất bại của sự bài Phật ở một
danh Nho thời ấy, ngang hàng Chu Văn An và Trưưng Hán
Siêu vậy. Trương Hán Siêu có bài minh văn cho chùa Khai
Nghiêm, tỉnh Bắc Giang viết:
“Nguyên lai sự bày ra tượng thờ từ họ Phù Đồ dùng
làm phương tiện để độ cho người ta. Bởi vì nhà Phật muốn
kẻ ngu không biết, kẻ mê không giác tới đấy để hồi hướng
vào cõi giải hết nghiệp báo. Rồi thì bọn tín đồ xảo quyệt
bỏ mất bản ý khổ hạnh hư không chỉ cốt chiếm lấy vườn
danh tiếng, cảnh trí đẹp, nơi ở vàng ngọc, quần chúng
đống đúc như tượng như voi. Thời bấy giờ có bọn hào hữu
tin theo hưởng ứng cho nên trong thiên hạ chỗ nào đất tốt
cảnh đẹp thì chùa chiền chiếm mất phần nửa, lũ lượt theo
đi ở chùa, không cầy mà no, không dệt mà có mặc, bọn

92
NHO GIẢO - ĐẠO HỌC TRẼN ĐẤT KINH KÌ (THĂNG LONG - ĐỔNG ĐỔ - HÀ NỘI)

thất phu thường bỏ nhà cửa bỏ làng nước mà theo như cỏ


bị gió lướt.
Than ôi Thánh Nho xa rồi, Đạo Nho không được làm
cho sáng, làm thầy làm quan đã không được như ông Chu,
ông Thiệu để hướng dẫn phong hoá; trong châu huyện làng
xóm thì không có trường học để dạy nghĩa hiếu đễ, làm
sao người ta không tìm vào đạo khác, ấy cũng vì cái thế
khiến nên vậy.
Bên đường cái miền Bắc Giang có hai làng Như Ngột
và Giáp Thứ, có chùa Khai Nghiêm do công chúa Nguyệt
Sinh đời Lý làm ra. Địa thế chùa ấy thì phiá nam có núi
Tiên Chầu, phía bắc có sông Thoái Bộc, hình thắng tụ ở
một chỗ này, quy mô hồi trước chưa đổ nát mấy. Mới đây
có viên quan Hoả đầu trong nội tên là Chu Tuế xướng xuất
người làng hết sức tu bổ. Từ năm Quý Dậu, niên hiệu Khai
Him (1329) thứ năm, đến năm Ất Hợi thứ bảy (1341) thì
làm xong. Phật điện tăng phòng đều theo như kiểu cũ.
Ngày lễ khánh thành già trẻ xứ ấy đều chắp tay khen ngợi,
cho là như Bà Sinh sống lại vậy.
Mùa đông năm Mậu Dần (1342) ông ở Thiên Trường
lai xin tôi một bài văn bia và nói: Chùa xưa nay vẫn có
chuông nay mới dựng bia nếu không chép sự thực thì sợ
mất dấu cũ. Tôi bảo: Chùa đổ nát mà làm lại đã không phải
ý muốn của tôi, dựng bia mà khắc việc, tôi còn biết nói gì?

93
CHƯƠNG 2: NGHI ÁN HỐ DÂM ĐÀM VÀ NHŨNG ĐIỂU LjCH sử CÒN BỎ NGỎ

Vả nay Thánh triều muốn có cơn gió lớn để cứu tục hư, mê
tín dị đoan nên bỏ, chính đạo nên bày. Làm kẻ sĩ phu
không phải đạo của Nghiêu Thuấn thì không bày tỏ, không
phải đạo của Khổng Mạnh thì không trước thuật. Trở lại
bép xép về đạo Phật, tôi biết dối ai? Tuy nhiên ông Tuế
vốn là quan trong Viện Nội mật, tập sự bên Tàu, đến tuổi
già không ưa đường sĩ hoạn, ham bố thí, từ chối bổng lộc
lui về. Điều ấy tôi thực mong muốn bắt chước học đòi mà
chưa có thể được, nên có bài này”.
Lại ở tháp Linh Tế dựng năm 1091 từ nhà Lý đến nhà
Trần có tu bổ lại, trên núi Dục Thúy tỉnh Ninh Bình, xưa
có bài bi ký của Trưưng Hán Siỏu, tuy đối với Nho giáo
không có giọng độc tôn như bài trên và chỉ bài bác Phật
giáo ở chỗ sai lầm mê tín của tín đồ bất chính, ông viết:
“Ta nghĩ ông Thích Ca, ông Lão Tử lấy lẽ tam không
mà rhứng đạo. Sau khi tịch diệt, đến lúc đời cùng có một
sô' người giả danh tôn sùng Phật giáo để huyễn hoặc chúng
sinh. Chuà chiền chiếm 1/5 trong nước, làm cho hư nát đạo
thường, hao phí tiền của, dẫn dắt bao người u tối nhắm mắt
hùa theo, ngây ngây mà đi, ngẩn ngẩn mà đến, bảo rằng
không hoá thành yêu ma, gian trá thực hiếm có vậy. Vả lại
còn làm ác nữa sao nên. Tuy nhiên, nhà sư Trí Nhu đây là
người theo hầu sư Phổ Tuệ, hiểu sâu đến não tuỷ đạo pháp
của Trúc Lâm, gìn mình giữ nết thật là khắc khổ. Sư có 3

94
NHO GIÁO - ĐẠO HỌC TRẼN ĐẤT KINH KÌ (THĂNG LONG - ĐÔNG ĐỔ - HÀ NỘI)

điều: Giới - Định- Tuệ và giơ nắm tay không làm nên công
việc lớn. Nghĩ đến việc đè gốc mây xếp hòn đá, từ tấc mà
thưóc, mà trượng, một bước tiến lên một bước, một tầng
cao thêm một tầng, cho đến lúc vòi vọi đứng sững, thế ngất
trời xanh, thêm vẻ hùng tráng cho non sông, sánh công xây
(lựng cùng tạo hoá, thì há rằng bao kẻ tu hành tầm thường
khác có thể so bì được. Ôi sau đây lại mấy trãm năm, biển
lan trong khoảng cúi ngửa, sẽ có kẻ như ta buông tiếng thở
dài, biết đâu chẳng còn ai như bọn nhà sư Trí Nhu này, thì
hỏi ta ắt chắc gì? Đến như non xanh nước biếc, bóng tháp
in dòng, thuyền nhỏ trời chiều, lênh đênh mặt nước. Đẩy
mũi thuyên ra trông phong cảnh, gõ bơi chco hát khúc
Trương Lương. Tìm gió mát của Tử Lăng trong một sợi
dây câu: hỏi ước cũ Đào Chu trong năm hồ khói sóng.
Cảnh ấy lòng này, duy có ta cùng non sổng ấy cùng biết
mà thôi”10.
Những sự kiện trên đây chứng minh rõ ràng Nho sĩ
Việt Nam thời Trần danh tiếng như Lê Bá Quát, Trương
Hán Siêu có tiếng là cầm đầu chủ trương bài bác Phật giáo,
mà kỳ thực chỉ là bài trừ dị đoan mê tín, bài bác cái thói
buôn thần bán thánh mà ở tôn giáo nào cũng có, nhất là về
buổi suy vi, chứ thực tế mà nói thì các Nho sĩ ấy vẫn khâm

10 Tang Thương ngẫu lục. Bản dịch cùa Đạm Nguyên. Bộ Quốc gia giáo dục
xuất bản năm 1962.

95
CHƯƠNG 2: NGHI ÁN HỐ DÂM ĐÀM VÀ NHỮNG ĐIỂU L|CH sủ CÒN BỎ NGỎ

phục giáo lý Phật giáo chân chính. Nói chung thì tư tưởng
Tam giáo hay hợp nhất hoặc điều hoà vẫn là tư tưởng phổ
thông từ trên triều đình xuống đến tận dân gian. Tuy nhiên
tuỳ theo bình diện ý thức mà có khuynh hướng Nho giáo
mạnh hơn, có khuynh hướng Đạo giáo thần tiên hay Phật
giáo mạnh hơn. Bởi thế mà buổi tráng niên đang hăng hái
với hoạt động nhân sinh thực tiễn thì sĩ phu Việt Nam
thường hay đứng ở bình diện ý thức Nho, đến khi có tuổi,
họ ít ham muốn về nhân sinh thực tiễn nữa, họ lại vươn tới
bình diộn ý thức thiên nhiên và siêu nhiên của Đạo giáo
hay Phật giáo. Bởi vậy mà Tnrơng Hán Siêu hay Trần Thời
Kiến buổi vãn niôn lại rủ nhau mộ Phạt, một phần lớn thư
văn đều ôm tư tưởng nhân bản từ bi, đủ thấy người buổi ấy
không theo đạo, nhưng vẫn tiêm nhiễm tư tưởng Phật học
mạnh lắm11.

2.3. NHÀ NHO VÀ DÂN TỘC

Các hoàng tử ngồi chầu Thượng hoàng mỗi lần luận


bàn đến nhân vật trong triều đình bấy giò, Văn Bích thưa:
“Phàm luận các nhân vật dạy hoàng tử, chỉ nên nói đến
người tốt, không nên nói đến kẻ xấu, e rằng Hoàng tử bắt
chước”. Thượng hoàng nói: “Tốt xấu, thiện ác, tương đối
nhau, nghe biết điều thiộn thì lấy làm thầy mà học theo,

11 Xem thêm Nguyền Đổng Chi: c ổ văn học sử, tr: 188. Nxb Hàn Thuyẻn.

96
NHO GIẢO - ĐẠO HỌC TRẼN ĐẤT KINH KỈ (THĂNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HẢ NỘI)

nghe điều ác thì ắt phải tránh mà lấy làm răn, thiện ác đều
có thể dạy mình được cả, sao lại có thể thiên bỏ?”.
Thượng hoàng xuất gia đi tu, thường ăn chay, Văn
Bích vốn bài bác đạo Phật, nhân dịp nói: Ăn chay có được
lợi ích gì? Thượng hoàng nói: “Tổ tiên ta thường ăn chay
nên bắt chước, còn không biết ích lợi như thế nào?”
Xem những lời trên đây cũng đủ biết vua Minh Tông
cũng noi theo được các vua trước có tư tưởng uyên thâm,
có triết lý vững vàng mạch lạc, không phải hạng người học
thức tầm thường có thể có được những nhận xét chí lý như
thế. Mấy lời vua dạy con sau đây càng tỏ tư tưởng của
Ngài vẫn cô' trung thành với triết lý “tri hành hợp nhất” vào
đức tính:
“Hết sức coi lấy nghiệp nhà. Bủn xỉn mà làm nên
giàu thì chẳng phải con ta. Nếu quả làm như thế thì thà
rằng tản mát tiền cho kẻ nghèo còn hơn. Dẫu rằng không
phải có khi thiếu thốn nhưng không mất cái hành vi của
bậc quý nhân.
Bậc làm vua dùng người, chẳng phải riêng tư gì với
người ấy đâu, mà chỉ biết là người ấy hiền thôi. Vì người
ấy hiểu lòng ta, giữ cái chức ấy cho ta, làm việc cho ta,
nhọc nhằn vì ta, cho nên gọi là hiền mà dùng họ. Ta quả là
hiền chăng? Thì người mà ta dùng cũng hiền. Ta quả là
không hiền chăng? Thì người mà ta trao chức cũng không

97
I

CHƯƠNG 2: NGHI ÁN HỔ DÂM ĐÀM VÀ NHŨNG ĐIỂU L|CH sủ CÒN BỎ NGỎ

hiền. Như vua Kiệt Trụ với Phi Liêm, Ác Lai đó vậy. Đó
chỉ là thanh ứng khí cầu, thứ nào theo loại ấy, chứ Kiệt Trụ
nào có riêng gì với người ấy đâu. Cho nên bảo là hôn ám
mà bảo là riêng tư thì không được.
Nên xem viộc làm của người xưa, lành thì bắt chước,
không lành thì tránh đi, phiền gì đến cha dạy.12”
Lại có người Hiệu Khả khen Thượng hoàng có đức
hiền hơn vua Anh Tông. Thượng hoàng đổi sắc mặt mà nói:
“Khen người ta mà bảo người ta hem cha, có thể biết ngưòi
ấy là bất hiếu”. Hiệu Khả xấu hổ lạy phục xuống đất.
Thượng hoàng đi tuần thú Đà Giang, quân Mán là
Ngu Hống làm phản, Thượng hoàng định tự mình đi chinh
phục, Trần Khắc Chung thưa:
“Sông Đà nhiều khí độc, nước chảy mạnh, không lợi
cho sự hành quân, Chiêm Thành không có chướng khí độc,
các triều trước đã có đánh, bắt được Chúa nó, nay không gì
bằng đưa quân ấy đi đánh nước Chiêm Thành”. Thượng
hoàng nói: Giặc quấy nhiễu biên dân, nên cứu gấp ngay,
sao lại so sánh tình thế khó với dễ đang giận người này lại
giận sang người kia bao giờ!”. Khắc Chung cúi rạp xuống
đất tạ lỏi.13
Với những kiến nghị và lý luận bất chính lẩn quẩn
như thế của Nho sĩ đại thần, nếu không có nhả vua sáng

12 Nguyẽn Đổng C h i.... đã dẫn


15 Viột sử tiêu á n ... đã dẫn.

98
NHO GIÁO ĐẠO HỌC TRÊN ĐẤT KINH KÌ (THẢNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

suốt thì còn gì là nước. Nho học vốn là lý luận thực tiễn,
sau khi tôn họ Khổng là bậc Thánh Khổng, biến thành một
tôn giáo thì cái lý luận thực tiễn ấy biến thành những giáo
điều đi đôi với các hình thức lễ nghi, không còn cho người
ta cái quyền phê phán nữa, trái cả với lời dạy của Khổng
Tử xưa: “Học bất tư tắc võng, tư nhi bất học tắc đãi” có
nghĩa là “Có học không suy tư thì mờ, có suy tư không học
thì nguy hại” (Theo Luận Ngữ). Bởi thế mà cái học “Chính
danh” của Khổng Tử, nghĩa là phải phê phán giá trị, danh
phận, nó sớm sinh ra cái bệnh cố chấp vào danh từ, câu nệ
vào hình thức. Nho thần thời Trần đi vào giai đoạn thoái
trào cũng tỏ ra cá i bônh ấy khá trẩm trọng, như điều m à sử
chép sau:
Khi phụ táng Bảo Tử Thái Hậu ở Thái Lăng, vua sai
bách quan chọn ngày tốt, có người nói năm nay bất lợi, bác
bỏ ngày đã chọn ấy đi. Thượng hoàng hỏi rằng: “Người
biết sang năm ta chết hay sao?”. Thưa rằng, “Không biết”.
Lại hỏi: “Nếu sang năm ta chưa chết thì nên hoãn viộc
táng; nếu sang năm chết mà đã táng được mẫu hậu, chả
hon chết mà không làm được việc hay sao? Trong lễ có sự
chọn ngày là trọng đó mà thôi, sao lại câu nệ việc hoạ phúc
thế được”. Việc táng vẫn thi hành14.
Lại như việc Hưng Hiến vương đi đánh quân Mán
Ngưu Hống, bình được. Khi kéo quân về, viện lộ cũ khi

14 Xin tham thêm: Đại Việt sử ký toàn thư và Viột sử tiêu án.

99
CHUONG 2: NGHI ÁN HÓ DÂM ĐÀM VÀ NHŨNG ĐIỂU L|CH sủ CÒN BỎ NGỎ

Nhân Huệ bình định được Nam Nhung mà xin thưởng cho
kẻ giữ thuyền. Thượng hoàng nói: Khi xưa Khánh Dư đánh
Nam Nhung phải lấy gỗ tự đóng thuyền, đó là thuyền coi
giữ ở đất giặc, không phải thuyền giữ Nghệ An của mình.
Việc ngày nay khác với việc trước? Thưa rằng: Nếu không
có thuyền để giữ thì chiến sĩ giữ lâu thế nào được? Thượng
hoàng nói: Nếu thế trước hết phải thưởng người trong triều
đình: khi Kinh đô không giữ được yên, quân sĩ đi đánh
giặc thế nào được? Hưng Hiến vương không trả lời được15.
Đấy là triệu chứng cố chấp tất nhiên ở một hộ thống
tư tưởng chỉ chú ý đến một mặt thực tiễn, chỉ biết khẳng
định không biốt phủ định để vượt lên, dần dần tự giam
mình vào ao tù nước đọng của hệ thống đóng cửa không
tuân theo quá trình biện chứng tiến hoá. Đó là cách học
“Cách vật tri tri” của Chu Hy đi tìm “Tức vật cùng lý”,
nghĩa là đi tìm cái nguyên lý cùng tột ở ngoại vật, mà bỏ
mất cái gốc của sự học là chính tâm để cùng lý như Chu
Văn An đã sớm chủ trương ở Việt Nam. Bởi vì lý không ở
tại ngoại - vật ngoài tâm không có lý, lý chỉ có ở trong tâm
không bị tư dục che mờ, nên chỉ khi làm cho tâm ngay
thẳng thì mới thấy được lý. Cái chủ trương ấy của đạo học
thực hiện đức tính do Trần Thái Tông học phái Trúc Lâm
Yên Tử, đến Chu văn An đã nêu cao, thì về nửa cuối triều
đại nhà Trần, các Nho sĩ đã bỏ mất, chỉ còn nhà vua cho

15 Như trên.

100
NHO GIÁO - ĐẠO HỌC TRÊN ĐẤT KINH KÌ (THẢNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)
■— > 1 » .I ww I III K «»n ; • ■m > í ' «w im HM I I XIIHHI m m — —

đến Nghệ Tông là cố trung thành với nó. Chúng ta thấy


càng ngày càng có mâu thuẫn về măt tư duy giữa nhà vua
với các cận thần, danh sĩ, trí thức. Hậu quả của xung đột ấy
là nhà vua luôn tỏ ra cái tinh thần độc lập dân tộc, trong
khi đó có nhiều Nho sĩ thời ấy lại a dua, tự ti mặc cảm đối
với Bắc quốc, nhất là với Tống Nho, đến nỗi đời vua Minh
Tông (1314-1329) các quan triều là Lê Bá Quát, Phạm Sư
Mạnh muốn thay đổi chế độ theo Trung Hoa, vua nói:
Nam Bắc khác nhau, quốc gia ta đã tự có hiến
chương rồi16.
Đến triều Nghẹ Tông (1370-1372) Nhật Lễ tiếm ngôi
vua. cổng chúa Thiên Ninh đứng ra chỉ đạo và dẹp được,
vua Nghệ Tông trở về ngôi báu, Ngài nói:
Các triều trước lập nên quốc gia tự có chế độ phép tắc,
không tôn theo chế độ nhà Tống. Bởi vì nước Nam với Bắc
quốc, mỗi nước đểu làm chủ nước mình, không bắt chước
của nhau được. Trong những năm Đại Trị (1358-1369) bọn
bạch diện thư sinh làm việc nước không hiểu thấu thâm ý
khi lập ra pháp độ liền bỏ cả pháp chế cũ của tổ tiên để
khuôn theo về tục lộ phương Bắc, xếp đặt y phục ca nhạc,
còn nhiều việc khác nữa. Vậy bắt đầu chính trị từ nay phải
tuân theo về điển lệ năm Khai Thái (1324-1329).

16 Xem thêm, Nguyễn Trọng Thuật: Nam Phong số 167 - Điều đình ái án
quổc học.

101
CHƯƠNG 2: NGHI ÁN HÓ DẰM ĐÀM VÀ NHỮNG ĐIỂU L)CH sử CÒN BỎ NGỎ

Xem như thế thì nhà vua còn cố giữ được tinh thần
độc lập, còn có được phần nào cái ý thức quốc gia dân tộc,
đến như sĩ phu do cái lò Nho học tạo ra thì đã hoàn toàn
vọng ngoại, bị ảnh hưởng của cái Tống Nho làm cho mất
cả tinh thần độc lập. Thậm chí đến khi nhà Trần sắp mất
thì cái tinh thần Quốc học của triều đại lại chỉ còn phản
chiếu ở Sớ Kê Minh thập sách của một nữ sĩ Nguyễn Thị
Bích Châu là vợ của Duệ Tông dâng vua:
Kê Minh thập sách
“Trộm tưởng:
Bếp sửa củi dời, lo việc trị nước thì chưa loạn, cửa
giằng nhà lợp, ở hồi an phải nhớ lúc nguy.
Vì tình người dễ đắm sự chơi bời mà cuộc thế khỏ
thường cho bình trị.
Cho nên:
Gặp hồi vua việc không biếng chí không hoang, Cao
Dao nọ trước dâng bài giới; nhằm phải buổi gươm không
khua, máu không đổ, Giả Phó kia từng đã thử dài.
7
Ay bởi yêu vua một dạ, tính nước phòng ngừa; có đâu
làm chuyện trái đời, việc kỳ bày đặt.
Thần thiếp Bích Châu nay:
Trẻ nương nhà lá, lớn dựa buồng tiêu.
Vẻ long nhan lắm lúc đoái thương; con yến hạnh
những đội ơn ban tứ.

102
ItHO GIẢO ĐẠO HỌC TRÊN ĐẤT KINH KÌ (THĂNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

Vá áo xiêm bà Thuấn, dám sánh mình là kẻ tu mi; cởi


tiâm lược bà Khương xin đứng trước những hàng quan đái.
Kính dâng mười chước mong được một điều:
Một là bền gốc nước kẻ bạo trừ thì dân chúng được
yẳn.
Hai là giữ nếp xưa, việc phiền bỏ thì triều cương
không rối.
Ba là nén kẻ lạm quyền để trừ một nước.
Bốn là đuổi bọn nhũng lại để bớt chài dân.
Năm là xin mở lối nho phong, để ngoài lửa đóm được
rạng soi cùng nhật nguyệt.
Sáu là xin tìm lời trực gián, để đường ngôn luạn được
nở rộng như cửa thành.
Bảy là kén quân nên lấy hạng kiện hùng hơn là to
'óc dạc.
Tám là chọn tướng nên tìm người thao lược hơn là
>ậc thế gia.
Chín là khí giới tốt sao cho tinh nhuệ, hà tất hoa hòe.
Mười là trận pháp tập phải chỉnh tề, không cần múa
nhảy.
Những sự tỏ bày, toàn là thiết thiệt.
Dám dâng lòng trung cần bộc, mong nạp lời nói sô
nghièu.

103
CHUÔNG 2: NGHI ÂN HÓ DÂM ĐÀM VÀ NHŨNG ĐIỂU ỰCH sử CÒN BÒ NGỎ

Dân được an mà nước được trị, ấy là lòng thiếp sỏ


cầu: Bỏ điều dữ mà làm điều hay, dám trông lượng vua
nghĩ lại”.
Bà Nguyễn Cơ người triều Trần, con gái nhà quan,
tên chữ là Bích Châu, tính cách hiên ngang, dung nhan
kiều diễm, giỏi âm luật, thông văn nghệ từ chương, vua
Duệ Tông nghe tiếng triệu vào làm cung phi. Một hôm đẹp
trời vua tựa lan can, cảm hứng đọc một vế thơ:
Thiên thu hoạ các quải ngân đăng nguyệt trung đan qu ế
Ngâm nga hồi lâu, ngoảnh nhìn Cơ hỏi: Khanh có
hoạ được không? Cơ nhẹ nhàng bước tới, thong thả đọc:
Xuân sác trung dài khai bảo kính thuỳ đ ể phù dung.
Vua khen thưởng hết lời. Từ đấy bà được vua sủng ái.
Gặp lúc viộc nước rối ren, Cơ thảo Kê Minh thập sách
dâng lên vua. v ề sau có tướng quân Tổng trấn Đỗ Tử Bình,
tuyên bô' biên thuỳ biến loạn cáo cấp về triều đình, Cơ lại
có bài biểu dâng lên can vua, đại khái như sau:
“Trộm nghe nói Rợ phía Bắc dựa gò đốt cháy, từ xưa
đến nay vẫn thế. Hung nô kiêu ngạo không thần phục, gần
đây càng tộ. Bởi vì làm giặc thì thái độ của Man Di thường
là như thế. Mà dùng đến binh đao thì không phải bản tâm
của vua muốn. Nước nhỏ Chiêm Thành lánh ở ngoài đảo,
đem quân đến làm náo động sông Nhị Hà, đã biết cái nạn
ấy của nước nhà. Nay chinh chiến náo động biên thuỳ, chỉ

104
NHO GIÁO ĐẠO HỌC TRÊN ĐẤT KINH KỈ (THẢNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

VÌ dân mình mới đến chưa định cư, cho nên chúng còn dám
như đàn nhặng bay nhộn trên cỏ, chẳng tự biết là bọ ngựa
chống xe. Nhưng thánh nhân thường chịu nhơ, giấu bẩn, há
nên cùng chó dê so sánh thế lực? Bởi vì cái đạo trị bình,
quý có gốc trước ngọn sau. Xin vua hãy dẹp chiến binh để
cho dân nghỉ, tỏ cái lý nhu có thể chế cương, khéo lựa lời
thì đức đến xa, múa khí giới ở cung điện nhà Ngu, bảy
tuần chẳng lo Rợ Miêu không đến, giấu đàn cầm đàn sắt ở
cung vua Hạ, một tháng tự nhiên người ta hàng phục. Ưng
cho ấy là thượng sách, nép mình trông ở bể trên quyết
đoán”.
Bài biểu dâng lên, vua không thể dùng được. Nàng
thấy lời nói của mình không được vua nghe mới thiết tha
xin đi theo vua viễn chinh. Vua ưng cho. Đến ngày lên
đường thuận dòng quân chảy, đến biên giới Kỳ Hoa, các
phụ lão kéo ra đường mà tâu lên rằng: Trước mặt có miếu
thần rất linh ứng là khách qua lại ai đến bái yết thì được
thuận gió sống yên, bằng không thì buồm nát cột gãy,
chìm đắm ngay nơi đáy nước. Vua bèn đóng ba quân lại ở
Bạch Tân Châu. Bấy giờ để tránh khí uất kết, mưa to vừa
tạnh, ánh trăng vằng vặc, gió nhẹ hắt hiu. Hôm sau quân
đến cửa biển, chợt có trận gió lốc kéo đến thổi vào thuyền
vua. Nhân thế mới vội đậu thuyền chiến lại, vào cuối canh
ba trời đông, mộng thấy một người râu răng chằng chịt,
mặt mũi dữ tợn, đến trước mặt vua vái ba vái. Vua hỏi:

105
CHƯƠNG 2: NGHI ẤN Hố DÂM ĐÀM VÀ NHŨNG ĐIỂU l|CH sử CÒN BỎ NGỎ

“Người là ai?”. Người ấy thưa: “Tôi là giảo đô đốc bể nam,


giang hồ xa xôi, nội trợ không ai, nghe con gái vua tốt đẹp,
chợt gặp cho nên mới nổi sóng dữ, thực muốn được thấy ân
huệ, dám xin kết cỏ đằng ân. Bãng đam mê tai mắt riêng,
tôi cũng không chịu bỏ”. Vua nghe xong giật mình tỉnh
giấc, vội gọi phi tần đến báo cho biết sự tình trong mộng.
Các phi tần yên lặng tái mặt, chỉ nhìn nhau mà thôi. Trong
đám có một nàng nuốt lệ nghẹn ngào quỳ trước mặt vua
mà thưa: “Việc linh ứng của đền thờ đã được nghe dân
chúng thuật, sóng gió chứng nghiệm đủ ứng với điềm
trước. Thiếp không dám tiếc tấm thân bồ liễu để cho xong
cái nợ trước mắt”. Vua sịu mặt nói: “Lành dữ có mệnh,
hoạ phúc do Trời, trẫm há tin sự mê hoặc để làm luỵ cho
khanh sao?”. Nàng Phi lại khẩn khoản nói: Sự đến nơi rồi,
thế không đừng được. Nếu cứ chần chừ không quyết, chỉ lo
tai biến đến không thường. Vả quân lữ lấy tướng sĩ làm
trọng, ân ái làm nhẹ, xưa giết vợ ném con đều là kế sách
cùng đường. Vua nghe càng thêm buồn thảm. Bấy giờ
tiếng gió kéo lên, sóng cuốn ngất trời, thuyền rồng sắp như
bị lật. Nàng Phi bèn vái khóc nói rằng: “Hầu gối nương
chăn ba sinh có hạnh, bỏ sống lấy nghĩa, một chết sao
từ?”. Đã chẳng hàm oan nơi xa trường, há lại ngậm hờn
nơi đỉnh cao. v ả nay ra quân chưa thành công mà thân
chết trước, càng khiến cho anh hùng rơi lệ thấm áo vậy.
Nói xong nàng nhảy xuống biển, gió lộng sóng cuồn, còn

106
MHO GIÁO ĐẠO HỌC TRÊN ĐẤT KINH KÌ (THĂNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

nghe vẳng vảng có tiếng nói: Đa tạ quân vương, từ nay


vĩnh biệt, không còn được hầu bên cạnh nữa. Vua cùng phi
tần bàng hoàng hoảng hốt, cả thảy đều xúc động kêu khóc.
Một lát thì mây tan, trời quang, bể yên sóng lặng. Vua vội
sai người xuống nước mò tìm, nhưng không còn thấy tung
tích người ngọc nơi đâu.
Sau này khi vua Lê Thánh Tông đi đánh Chiêm
Thành, thuyền quân đến bến Kỳ Hoa, chợt có mưa gió u
ám, sóng bể nổi lên, vua hạ lệnh quan quân dựa nhau mà
tiến, nhìn xa vào bờ thấy có rừng rậm che lấp, khí độc
ngập trời, mới cho thuyền vào gần thì ra một cổ miếu. Đêm
ấy vua m ộng thấy một người con gái trong nước ngoi lên.
vái vua mà khóc: “Thiếp là con gái nhà quan triều Trần,
không gặp cảnh ghen tuông của đố phụ, cũng chẳng phải
phu nhân vua Sở ở Tiệm đài. Chỉ nhận vận mệnh không
may gặp phải lắm điều ngang trái, đến nỗi một thân cô
quạnh rơi vào tay giống Giao long. Một phen dấn thân vào
nơi thuỷ quốc, lẫn dấu hôi tanh. Thẹn lòng làm vợ hồ tinh,
lại gặp cảnh khổ làm tù nước Sở. May sao gặp được Thánh
thượng mạo muội lên trình, chỉ xin rủ lòng nhân ra tay cứu
vớt người đáy giếng, khiến được nhờ ân đức thánh, mãi
mãi thoát khỏi trầm luân, đấy là bệ hạ làm được cái phúc
lớn tái sinh vậy!”. Vua nói: Oan của phu nhân giống cái
oan của họ Liễu, nghĩa của phu nhân sánh với nghĩa của
Tào Nga, nghìn đời nghe nói ai chẳng đau lòng nghiến răng.

107
CHUONG 2: NGHI ÁN HÓ DÂM ĐÀM VÀ NHỮNG ĐIỂU l|CH sử CÒN BỎ NGỎ

Nhưng u minh cách ưở, có biết cách gì giúp được? Người


con gái liền đáp: Điều ấy dễ lắm. Kẻ kia tội ác tràn đầy,
sóng biển cũng không hết được. Nay ở ngoài biển khơi có
vua Quảng Lợi thống nhiếp nó. Bệ hạ thực có thể ném mảnh
thư xuống biển, trách cái lỗi làm ngăn trở, thì vua Quảng
Lợi không thể không xử tội kẻ này. Nói xong không thấy
nữa. Vua tỉnh mộng, sai quan cận thần là Nguyễn Trung Ý,
viết lá thư bắn ra ngoài biển khơi. Một trận giao long nhảy
lên mặt nước, ba quân cố sức đuổi đi. Một lát quẫy đuôi đi
mất. Rồi trong đáy sóng lấp loáng nổi lên thân thể một nàng
hết sức đẹp, dung mạo còn tươi như sống. Vua sai lấy lễ
Hoàng hậu mai táng, lại tạm làm ngôi đền thờ bằng cỏ, tự
thân làm lễ tế, ngự đề vào vách đền bài thơ:
Bản thị Hy lãng cung lý nhân
Lâm nguy vị quốc độc vong thân
Yêu phong nhất trận đào hoa lãng
Xuân mộng tam canh đỗ nhược Tân.
Hàn thuỷ vô đoan mai Sở phụ,
Hương hồn hà xứ điếu Tương quân
Hu ta bách vạn hùng hưu lữ,
Bất cập thư sinh nhất hịch văn,
Nghĩa là
Vốn là cung nữ của vua Duệ Tông,

108
NHO GIẢO ĐẠO HỌC TRÊN ĐẤT KINH KÌ (THẢNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

Gặp nguy vì nước riêng quên thân mình,


Gió ma một trận hoa đào theo sóng,
Mộng xuân canh ba cũng bến này,
Nước lạnh vô tình vùi gái Sở,
Hương hồn đâu đấy điếu Thương quân,
Than ôi! trăm vạn quân hùng hổ,
Không bằng một lời hịch của thư sinh.
Đề xong vua lại kéo quân lên đường, quân đi đến đâu
uy thế mạnh như chẻ tre, bắt vua Chiêm làm tù binh. Vào
buổi chiều tà Vua lại về qua chốn cũ, nghỉ chân ở dưới
đền, sai xây dựng lại nghiôm từ cấp thuế hàng năm, phong
Cơ là “Chế thắng phu nhân” đến nay hương khói vẫn còn
hết sức linh thiêng17.
Qua những lời tâu trên đây, chúng ta thấy được cái
thời bênh chính trị xã hội, văn hoá ở cuối triều Trần. Còn
đâu cái học văn võ kiêm toàn, cái tinh thần gia tộc và thân
thuộcgiữa giới lãnh đạo với giới bị lãnh đạo trong nước,
cho nên một phụ nữ mong vãn hồi quốc gia; phải ra tay
cứu quốc lúc lâm nguy.
Sử thần bàn: Lúc nhà Trần đương thịnh, mỗi lần quân
Nguyên sang bị thua kéo về, đến lúc nhà Trần suy, mỗi lần
quân Chiêm đến cướp bóc no chán rồi về. Quân Nguyên là

17 Xin xem thêm, Nam Phong số 135, mục Phụ nữ tùng đàm.

109

À
CHƯƠNG 2: NGHI ÁN HÓ DÂM ĐÀM VÀ NHỮNG ĐIỂU L|CH sù CÒN BỎ NGỎ

giặc mạnh, quân Chiêm là Mán rợ nhỏ, sao nhà Trần đối
với quân Nguyên thì mạnh thế, đối với quân Chiêm thì yếu
thế, chả qua là con người cả thôi. Vua Nghệ Tông rút rát
không được bằng vua Nhân Tông có hùng tài mà bề tôi lại
kém nữa, không bàn mưu kế với ai được, không giao phó
biên giới cho ai được cửa biển không có quân tuần phòng,
trên sông không có đồn canh giữ, quân giặc đến thì mê
man, quân giặc đi thì lại dựa dẫm. Thậm chí đem cả thần
tượng chạy về An Sinh, đem hết của báu đem dấu ở Thiên
Kiện, không kế gì để tự bảo vệ, thấy giặc đi thì mừng. Nếu
mà Chế Bồng Nga chưa chết không biết nhà Trần lúc ấy
chống đõ bằng cách gì? Tử Bình giỏi về nghề ăn cắp vàng,
không biết trù liệu việc binh, Quý Ly giỏi về ăn cắp nước,
không biết cách làm tướng, đáng than phiền cho thời vận
và nhân tài khi ấy nhiều lắm”18.
Đây là ý kiến của nhà Nho viết sử với giọng độc đoán
của Khổng giáo độc tôn. Tuy nhiên cái điểm than phiền
cho sự suy vi của nhà Trần do nhân tài vắng vẻ, có biết đâu
cái nguyên nhân vắng vẻ ấy chỉ tại cái học Tống Nho độc
tôn, đóng cửa, lấy “Tịch dị đoan” nghĩa là bài trừ các tư
tưởng khác với mình làm mục đích, không chịu phản tỉnh
và suy nghĩ sâu xa, bởi thế mới bảo “Quý Ly giỏi vể ăn cắp
nước.”

11 Theo Ngô Thì Sĩ: Việt sử Tiêu án

110
NHO GIÁO ĐẠO HỌC TRÊN ĐẤT KINH KÌ (TH Ả N G LONG - ĐÔNG ĐÔ ■HÀ NỘI)

2.4. CẢI CÁCH CỦA HỔ QUÝ LY HAY CON ĐƯỜNG


ĐỊNH MỆNH CỦA NHO GIÁO
Sự thực đứng trước tình thế suy đồi, cần phải có một
cuộc cải cách triệt để, Quý Ly đã dám có ý nghĩ và chương
trình cách mạng quốc gia ấy để phục hưng ý thức dân tộc.
Trước hết ông hay đả phá cái tiêu chuẩn giá trị Tống Nho
chỉ biết độc tôn Khổng Tử, cho nên ông mới dâng vua
Nghệ Tông 14 thiên sách “Minh Đạo ”
“Đại lược lấy Chu Công làm tiên thánh, Khổng Tử
làm tien sư, ở Văn Miếu thì để Chu Công ở chỗ thò chính
giữa, ngoảnh mặt phương nam. Khổng Tử ngồi sang bên
cạnh quay mặt vổ hướng tây. Sách Luận Ngữ có 4 điểm
ngờ, như nói: Khổng Tử gặp nàng Nam tử, bị hết lương ở
nước Trần, Công Sơn phật bật mời Khổng Tử muốn đến,
cho Hàn Dũ là nhà Nho ãn trộm (Đạo Nho), gọi bọn Chu
Liêm Khê (Mậu Thúc), Trình Hịêu, Trình Di, Dương Thời,
La Trọng Tố, Lý Diên Bình, Chu Hy là học rộng mà tài sơ,
không chú ý đến sự thực mà chỉ vụ vào hàng cóp nhặt.
Thượng hoàng ban chiếu khen thưởng, khuyến khích,
Quốc tử trợ giáo Đoàn Xuân Lôi dâng thư cho là không
được, bị đổi đi châu khác, cả Đào Sư Tích quan Hành
khiển thường đọc thư ấy cũng bị Quý Ly giáng chức làm
Trung Thư thị lang cùng làm trong Thẩm phán viện”19

lv Toàn Thư - Trần Thuận Tông tờ 2 1 1-212. Trích theo Nguyễn Đăng Thục
dĩ dãn.

111
CHUÔNG 2: NGHI ÁN HỐ DÂM ĐÀM VÀ NHỮNG ĐIỂU LjCH sử CÒN BỎ NGỎ

Đấy chứng tỏ rằng Hồ Quý Ly chủ trương cải cách


văn hoá giáo dục, cách mạng tinh thần để phản đối ảnh
hưởng Tống Nho. Bởi thế mà các Nho sĩ đương thời chia
làm phe Bảo thủ theo Tống Nho với phe chủ trương Cách
tân thực học và tính dân tộc.
Để thi hành cái chương trình giáo dục dân tộc ấy Quý
Ly không những viết sách Minh Đạo để phê phán Tống
Nho, mà ông còn đề cao tiếng mẹ đẻ, dùng văn Quốc âm là
sắc chiếu để hiểu dụ cho dân. Trong úc Trai di tập của
Nguyễn Bá Cung có ghi: Vua Lê Thái Tông muốn xem các
bài thư chiếu của Hồ Quý Ly cùng thơ vãn ý tứ thê nào,
Nguyễn Trãi có thu lượm được 2 0 bài văn quốc ngữ dâng
lên vua xem. Vua khen là người có kỷ cương.
Hồ Quý Ly lúc được Thượng hoàng Nghệ Tông ban
cho gươm và cờ cũng làm thơ nôm tạ ơn (1387). Năm 1394
thì Hồ Quý Ly làm phụ chính thái sư cho dịch thiên Vô
Dật trong Kinh Thư để dạy vua Thuầii Tông. Đến năm
1396 Quý Ly dịch xong bộ Kinh Thi và giảng giải ra Quốc
âm. Ông bỏ bài tựa của Chu Hy đi để làm bài tựa nói rằng
sách ấy giải nghĩa theo ý kiến riêng của mình chứ không
bắt chước tập truyện của Chu Tử. Năm Nhâm Ngọ (1402)
Nguyễn Cảnh Chân được cử làm An Phủ sứ bộ Thanh Hoá,
có dâng thư xin theo việc cũ nhà Hán, nhà Đường, mộ dân
nộp lúa để chứa ở ven cõi rồi ban tước hay tha tội cho họ
tuỳ theo thứ bậc. Quý Ly vốn có óc cách tân ghét bảo thủ

112
NHO GIÁO ĐẠO HỌC TRÊN ĐẤT KINH KỈ (THĂNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

liền phê vào thư rằng: “Biết được bao nhiêu chữ mà hay
nói việc nhà Hán, nhà Đường bên Tàu, thế là người câm
hay nói chỉ để làm trò cười”. Với tư tưởng khác người mới
mẻ, Quý Ly bèn cải cách việc học, thay đổi lề lối thi cử, bỏ
lối thi mà dùng lối tuyển cử, căn cứ vào thực học thực tài,
nên năm Đinh Sửu đã ban chiếu rằng:
Đời xưa nước có nhà Học, ở làng có nhà Tự, ở xóm
có nhà Tường, là để mở mang giáo hoá, mở lối phong tục.
Ý Trẫm rất hâm mộ. Nay thể chế ở kinh đô nước ta đã đầy
đủ mà châu huyện còn thiếu thì lấy gì mà mở rộng đạo cho
dân? Nay ở các lộ Sơn Nam, Kinh Bắc, Hải Đông mỗi phủ
châu đêu dặt mọt vien Học quan để dạy dõ, ban cho ruộng
công tuỳ theo thứ bậc. Phủ châu lớn 15 mẫu, phủ châu vừa
12 mẫu, phủ châu nhỏ 10 mẫu, để cung vào việc học trong
hạt, một phần làm lễ Sóc, một phần vào việc học đèn sách.
Các quan ở Lộ phải đốc thúc Học quan dạy dỗ học trò,
khiến cho thành tài nghệ. Mỗi lần cuối năm, phải kén
những kẻ học giỏi cống vào triều, Trẫm sẽ thân ra coi thi
để cất dùng.
Không những Quý Ly cải cách giáo dục, ông còn bất
Tăng đạo chưa đầy 50 tuổi phải hoàn tục (1396), còn
những người trên 50 tuổi phải thi xem ai thông kinh sách
giáo lý mới được trao các chức Đường đầu thủ, Trì cung,
Trì quán, Trì tự, ngoài ra đều liệt vào hạng tu nhân thị giả.

113
CHƯONG 2: NGHI ÁN HÓ DÂM ĐÀM VÀ NHỮNG ĐIỂU L|CH sủ CÒN BỎ NGÒ

Đấy là nói về chủ trương và khuynh hướng tư tướng


của họ Hồ đem thi hành vào văn hoá giáo dục. Ngoài ra về
xã hội, kinh tế, chính trị, quân sự, Quý Ly cũng có nhiều
sửa đổi mạnh bạo mới mẻ như hạn chế điền sản tới 10
mẫu, phát hành tiền giấy (Hội sao thông bảo), ban hành
các đồ đo lường như thước cân, đấu cho dân dùng (1403),
đắp đê ngăn nước mặn cho dân có thêm ruộng cầy cấy
(1404). Đạc điền chủ điền phải nêu tên họ trên ruộng mình
cho các quan Lộ, Phủ, Châu, Huyện công đồng kiểu đạc và
làm sổ bạ, hạn trong 5 năm phải xong, ruộng nào không
khai kể là ruộng hoang (1398), đặt nhà Thương có chức
Quang Tế thư thừa để làm thày thuốc cho dân và nhà binh
(1403). Chế tạo quân khí, dân và lính ai có nghề gì khéo
đều sung vào việc chế tạo (1405). Khai sinh, lên hai tuổi
phải trước bạ (1401)...
Đại khái đều là cải cách có tinh thần khoa học hợp lý
và thực tiễn. Có những việc hữu ích cho xã hội mà mãi đến
thế kỷ X IX người Việt Nam mới biết học đòi ở văn minh
phương Tây. Óc khoa học vốn phản đối thần quyền, mà
thần quyền buổi ấy đã có thể lung lay. Năm 1405, Hoàng
Hối Khanh vâng lệnh nhà vua đốc suất dân phu đắp thành
Đa Bang. Trong khi đắp, Hối Khanh có phá huỷ một cái
miếu thần và có làm thơ, còn truyền hai câu:
Tự diêm mệnh dã, cung tiều thoán,
Lão mộc thời hồ, ách phủ cân

114
NHO GIÁO ĐẠO HỌC TRÊN ĐẤT KINH KỈ (THĂNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

dịch:
Mái cây mệnh vậy, cung hiến cho củi bếp.
Gỗ già thời ru, tai ách búa rìu.
Con trưởng Hồ Quý Ly là Hồ Nguyên Trừng lúc bị
bắt sang Trung Hoa có viết quyển “Nam Ông mộng lụ c”
trong kỷ lục vượng biên quyển 50 - Hồ Châu phủ hậu học
Ngô Sĩ Đán phúc đính, và có sáng chế ra súng Thần cơ để
danh tiếng phát minh trước nhất thế giới cho người Trung
Hoa. Hai việc trên đủ thấy tinh thần khoa học và máy móc
của người Nam đã mạnh trông thấy20.
Về điểm phát minh súng thần cơ của Hồ Nguyên
Trừng thì Lê Qúy Đôn trong Vân Đài loại ngữ có dẫn
chứng các sách của Trung Hoa như sau:
Sách Minh Sử bình chi có chép vua Thánh tổ (1403-
1414) đánh nước Giao Chỉ mà được phép chế súng thần cơ.
Sách Thông Thuyết cũng chép niên hịêu Vĩnh Lạc
(Thành tổ) sang đánh Nam Việt bắt Hồ Quý Ly được
những phép làm súng và hoả hổ.
Sách Tô Phụ phần đàm chép nhà Minh dùng Lê
Trừng làm quan Bộ Hộ, Trừng thạo nghề chế súng.
Sách Thù Vực Châu Tư Lục chép: Em Hồ Hán
Thương dâng phép thần thương, vua Minh dùng làm quan.

20 Theo, N guyễn Đổng C h i. . . . đã dẵn

115
CHUÔNG 2: NGHI ÁN HÓ DÂM ĐÀM VÀ NHŨNG ĐIỂU L|CH sử CÒN BỎ NGỎ

Sử Minh chép: Vua VTnh Lạc thân chinh đi tuần Bắc


mạc, bị giặc vây thình lình, may nhờ có thần thương là thứ
súng đánh An Nam mói lấy được, liền đem bắn giặc bỏ chạy.
Vậy Hồ Quý Ly là một nhà cải cách dân tộc trái với
nhận định của sử gia hậu Nho thường coi là giặc, loạn thần
tiếm ngôi vua nhà Trần, phản chính nghĩa. Bởi vì nhà Nho
nhìn quốc gia dân tộc như của riêng một họ, cho nên chỉ
biết trung quân mà không biết đến ái quốc, ái quần gì cả.
Quý Ly thi hành chương trình cải cách dân tộc,
không phải không có tinh thần dân tộc thực, ví như khi
sáng lập Hộ tịch bắt khai sinh từ 2 tuổi trở lên, không phải
không có ngụ ý quật cường. Sử chép: Trước đây Quý Ly
thường nói với quần thần rằng làm thế nào có được trâm
vạn binh để đối địch với giặc phương Bắc. Nguyễn Đổng
Chi nhận định về Hồ Quý Ly rằng:
“Tư tưởng và hành vi của nhà độc tài ấy có thể sánh
với Vương An Thạch (1021-1086) đời Tống bên Tầu.
Vương cũng có một độ bài xích những lối học huấn hổ và
chú sớ của Tiên Nho; cùng là chủ trương những vấn đề cải
lương Trung Quốc. Họ Hồ đã chịu mạnh cái tinh thần đó,
nên quyết tâm mở lối thực học đi đôi với nền tảng quốc gia
xã hội mong làm cường thịnh nước nhà”21.
Phải chăng nhận thấy ở họ Hồ có cái khả năng mới,
có óc sáng kiến và dám làm như Trần Thủ Độ trước kia, và

21 Theo, Nguyẻn ĐổngChi: c ổ văn học sử, Hàn Thuyên xuất bản. Hà Nội, tr:
372-373.

116
NHO GIẢO ĐẠO HỌC TRẺN ĐẤT KINH KỈ (THẢNG LONG - ĐỐNG ĐÔ - HÀ NỘI)

nhận thấy dòng dõi mình đã suy nhược không có thể tự


nhiệm được nữa, cho nên đến tháng 2 năm Giáp Tuất thứ 7
(1371), Thượng hoàng sai thợ vẽ Chu Công phò Thành
Vương, Hoắc Quang phò Chiêu Đế, Chu Cát phò Thục
Hậu Chủ, Tô Hiến Thành phò Lý Cao Tông, mỗi người
một bức hoạ để ban cho Quý Ly, bảo phò vua nên như thế.
Mùa hạ tháng 4, sau khi Hội thề (Đền Đồng c ổ ) Thượng
hoàng mời Quý Ly vào cung, thong thả nói: Bình Chương
là thân tộc, quốc gia các việc đều uỷ cho cả. Nay nước suy
yếu, trẫm cũng già lão, sau khi qua đời, nếu nhà vua có
phò được hãy phò, nếu mê muội thì tự nhận lấy22.
Củ đc'n quan Tư Đồ, tôn thất nhà Trần là Nguyên Đán
cũng gửi con là Mộng Dữ cho Quý Ly, sau khi rút khỏi
việc triều chính về ẩn ở động Thanh Hư, tự cảm thấy mình
bất lực, như ngụ ý trong bài thơ đề “Huyền Thiên Quan”
Đề Huyền thiên quan
Bạch nhật thăng thiên dị
Trí quân Nghiêu Thuấn nan
Trần ai lục thập tải
Hồi thủ quý hoành quan.
Giữa ban ngày lên trời thì dễ
Giúp vua thịnh trị như đời Nghiêu Thuấn thì khó lắm,

ĩ2 X e m thêm . Toàn thư, Việt sử Bản kỳ., đã dẵn; .q .8.tờ 2 3 .

117
CHƯƠNG 2: NGHI ÁN HÓ DÂM ĐÀM VÀ NHỮNG ĐIỂU LịCH sủ CÒN BỎ NGỎ

Nghĩ mình lăn lộn sau mười năm trong bụi trần,
Bây giờ ngoảnh đầu lại tự thẹn với cái mũ vàng.
Xem thế đủ tỏ dòng dõi nhà Trần đến đây đã bạc
nhược, và sĩ phu chịu ảnh hưởng của Tống Nho cũng càng
ngày càng bất lực, cho nên trong bài thơ gửi cho bạn đồng
nghiệp trong triều, Nguyên Đán mới có câu:
Nho phong bất chấn hồi vô lực
Quốc thế như huyền khứdiệc phi,
Kim c ổ hưng vong chân khá giám,
Chư công hà nhẫn gián thư hy.
Dịch:
Nho phong không chấn hưng được, không có sức quay lại.
Thế nước như sợi dây mong manh, bỏ đi cũng không nên,
Cuộc thịnh suy xưa nay có thể nhìn thấy sự thật trước mắt,
Sao các ngài làm quan trong triều nỡ nào không can gián.
Hẳn rằng Nguyễn Đán nhớ tiếc cái tác phong của nhà
Nho chân chính mà ông đã xưng tụng trước đây, là Chu
Văn An với bài sớ Thất trảm. Nhưng còn đâu cái tinh thần
chân chính Nho học Việt Nam ấy nữa, một thứ Nho học
biết “kính Lão, sùng Nho chinh hóa tân”, nghĩa là nhà Nho
biết dung hòa cả khuynh hướng xuất thế siêu nhiên lẫn
khuynh hướng nhập thế nhân sinh.

118
NHO GIÁO ĐẠO HỌC TRÊN ĐẤT KINH KÌ (THĂNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

Chẳng phải vì muốn chấn hưng sĩ khí nho phong mà


Quý Ly đã cải cách việc học và tuyển cử nhân sĩ đấy ru?
Và cũng nhờ có sự cải cách ấy mà kỳ thi năm (1397) theo
Ngô Thi Sĩ thì:
“Phương pháp khoa cử của nhà Trần đến đó mới đầy
đủ. Và các nhân tài thu dụng được, trong đó có Nguyễn úc
Trai là giỏi hơn cả, để giúp cho đầu đời Lê, thứ đến Lý Tử
Tấn, Võ Mộng Nguyên, Phan Phù Tiên, Nguyễn Thiên
Túng đều là cự phách trong làng văn.
Thi Kinh Nghĩa thì ở nhà Minh (Trung Hoa) mới bắt
đầu có, “Cùng lý tri dụng” là vấn đề không gì thiết yếu
hơn, cũng có thổ suy ra thực hành được23”
Xem thế có thể đoán biết tinh thần Nho học Việt
Nam thời Trần, bắt đầu với khuynh hướng của Chu Văn
An là “Cùng lý chính tâm” để biến sang khuynh hướng
“Cùng lý tri dụng”, rõ ràng Đạo học tâm linh hiện thực đã
đi sang “Duy lý thực tiễn”.
Phải chăng sự cải cách về nguồn của Hồ Quý Ly lại
chính là con đường định mệnh vạch sẵn cho Nho giáo
trong quá trình phát triển của lịch sử Việt Nam những thế
kỷ sau?

21 X em thêm Ngô Thì S ĩ:.... đã dản, q,2,. tò 83.

119
NHO’ GIÁO - ĐẠO HỌC TRÊN ĐẤT KINH KÌ (THẢNG LONG - ĐÔNG OÔ - HÀ NỘI)

Chương III
Vởn Miếu - Quốc Tử Giám
Một quá trình nhộn biết

3.1. VĂN MIẾU HÔM NAY


Di tích Văn Miếu - Quốc Tử Giám hiện thuộc
phường Văn Miếu, quận Đống Đa, thành phô Hà Nội.
Khuôn viên của di tích chạy quanh theo bốn phố: Nguyễn
Thái Học ở phía bắc; Tôn Đức Thắng ở phía tây; Văn Miếu
ở phía đông và Quốc Tử Giám ở phía nam.
Các sử gia phong kiến như Lê Văn Hưu trong Việt Sử
lược, Ngô Sĩ Liên trong Đại Việt sử ký toàn thư, Phan Huy
Chú với Lịch triều Hiến chương loại chí, đã viết về di tích
này. Đáng chú ý là Đại Nam nhất thống chí viết như sau:
“Văn Miếu ở thôn Minh Giám huyện Thọ Xương về
phía tây nam tỉnh thành, dựng thời Lý Thánh Tông, tô
tượng thánh Khổng Tử cùng Tứ phối, vẽ tượng thập triết và
thất thập nhị hiền để thờ. Đằng sau miếu đặt nhà Quốc Tử
Giám để làm nơi sĩ tử học tập. Đến đời Trần, đời Lê cũng

121
CHUONG 3: VẰN MIẾU - QUỐC TÙ GIÁM MỘT QUÁ TRÌNH NHẬN BIẾT

theo như thế. Hai bên tả hữu dựng bia đề danh tiến sĩ các
triều. Bản triều đầu đời Gia Long đặt làm Văn Miếu Bắc
thành, đổi đặt lại bài vị, lại dựng thêm Khuê Văn Các ở
phía trong nghi môn. Nay là Văn Miếu của tỉnh. Đền Khải
Thánh ở sau Văn Miếu, nguyên là nơi dựng Quốc Tử Giám
ở đời Trần, đời Lê, đầu đời Gia Long đổi làm đền” 1.
Sau khi Hà Nội thuộc Pháp, có nhiều người nghiên
cứu về Văn Miếu. Trước tiên phải kể tới bài viết của
Dumoutier về Văn Miếu đăng trên tạp chí Dân tộc học
(Revue d’ Ethnography) năm 1888. Trong bài viết này Văn
Miếu không chỉ là một ngôi đền thờ Khổng Tử (Le Temple
royal Confucéen) mà còn có một tên nữa là P a g o d e d e s
Corbeau\ có nghĩa là Chùa Quạ. Theo Dumoutier sở dĩ có
tên như vậy vì ở đây có rất nhiều con quạ thường đến đậu ở
những cây muỗn cổ thụ bao bọc và che bóng mát cho ngôi
đền này2.
Tiếp đó là Bemard Aurousseau đã có một bài giới
thiệu về Văn Miếu và so nó với Đền thờ thánh Khổng ở
Khúc Phụ. Bài viết của ông có tiêu đề: Văn Miếu Hà Nội
trên Tạp chí Đông Dương (Revue d’Indochine) vào năm
1919. Trong bài viết nhỏ này, tác giả cho chúng ta biết vào
lúc đó, Văn Miếu ở phiá nam tỉnh thành Hà Nội, gần

1 Đ ại N am nhất thống ch í; tr: 2 0 7 - 2 0 8 .


2 Xem thêm: Dumoutier: Van Mieu, Revue d’ Ethnogaraphy, tr: 4 9 3 .

122
NHO GIÁO - ĐẠO HỌC TRÊN ĐẤT KINH KÌ (THĂNG LONG - ĐÓNG ĐÔ - HÀ NỘI)

đường Sinh Từ, ở phường 6, làng Thịnh Hào, tổng Yên Hạ,
huyện Hoàn Long.
vẫn theo Aurousseau thì Văn Miếu đã được chính
quyền bảo hộ xếp hạng là một di tích lịch sử cần được bảo
vệ. Cho đến khi ông ta viết bài này thì Văn Miếu vẫn đang
nằm trong sự bảo vệ tốt3.
Trước Aurousseau, cũng đã có bài nghiên cứu về Vãn
Miếu - Thăng Long Hà Nội của một số học giả Trung
Quốc và Nhật Bản. Theo sự chỉ dẫn của Aurousseau, vào
nãm 1918, có một học giả Nhật Bản tên là Y Đông Trung
Thái (Itochuta)4 đã đến nghiên cứu Thăng Long Đông Đô
và đũ viết m ột bùi trcn Đ ô n g K i n h K i ế n tr ú c (Tonkin no
Kenchiku) hay (Architecture du Tonkin) trong đó có phần
viết về Văn Miếu với đề mục Kiến trúc Khổng giáo
(Architecture Confucienne).
Như vậy là vào cuối thế kỷ X IX đầu thế kỷ X X đã có
khá nhiều người đến nghiên cứu về Văn Miếu (Hà Nội) -
một danh thắng của Thăng Long.
Trước năm 1945 có những bài viết của cụ Nguyễn
Vãn Tố về di tích Văn Miếu Thăng Long - Hà Nội trên báo
“Tri T ân”. Bài viết này chủ yếu đề cạp téi danh sách các

' Xem thêm: Aurousseau: Van Mieu Ha Noi, Revue d’Indochine. 1919. tr:
7 13
4 Y Đông Trung Thái (Itochuta): Đông Kinh Kiến trúc (Tonkin no
Kenchiku) hay (Architecture du Tonkin), tr: 3 7 0 -4 0 3 .

123
CHƯƠNG 3: VĂN MIẾU - QUỐC TỦ GIÁM MỘT QUẢ TRÌNH NHẬN BIỂT

bia Nghè trường Giám. Mượn những tấm bia này, Cụ


muốn nhắm vào việc nước nhà đang đứng trước sự xâm
lược thống trị của quân đội Nhật.
Cũng vào thời gian này, có khá nhiều công văn, giấy
tờ bàn về di tích Văn Miếu, từ chuyện xin phục hồi tế lễ
vốn có trước đó đến việc di dời trại lính Quảng Yên từ Văn
Miếu đi nơi khác, rồi lại chuyện Văn Miếu từ một nơi thờ
đức thánh Khổng - một biểu tượng của văn hiến hoà bình
trở thành một trường bắn tập của quân đội Pháp. Có cả ý
kiến của Hoàng Trọng Phu, Tổng đốc Hà Đông xin quan
Toàn quyền Pháp ở Hà Nội cho sử dụng những biện pháp
cứng rán đối với các học sinh nghịch ngợm, phá phách di
tích Văn Miếu...Qua những công văn giấy tờ ấy, cho thấy
Văn Miếu dưới thời thuộc Pháp không còn là một nơi linh
thiêng nữa mà trở thành trại lính, trở thành nơi tập bấn và
là đối tượng nghịch phá của trẻ em tiểu học lúc đó.
Qua biên bản các cuộc họp của hội đồng thành phô'
Hà Nội cũ, cho thấy một thực tế là hồ Văn đã bị tách ra
khỏi Vãn Miếu. Việc trả lại hồ Văn cho Văn Miếu là vấn
đề hóc búa bởi chính quy hoạch của người Pháp.
Từ ngày hoà bình lập lại, Văn Miếu - Quốc Tử Giám
luôn là một di tích là nguồn tự hào văn hiến của dân tộc ta.
Đã có nhiều nhà nghiên cứu viết về Vãn Miếu, dưới nhiểu
dạng khác nhau... Văn Miếu là biểu tượng của một nền

124
NHO GIẢO - ĐẠO HỌC TRẼN OẤT KINH KÌ ƠHÀNG LONG - ĐÔNG ĐỒ - HÀ NỘI)

giáo dục - là Trường Đại học đầu tiên của nhà nước phong
kiến tự chủ, thu hút nhiều lượt du khách trong và ngoài
nước tới thăm quan, du. lịch. Tựu chung lại, Văn Miếu là
một di tích lịch sử được nhà nước xếp hạng bảo vệ năm
1962. Trải qua những năm tháng chiến tranh, dưới sự lãnh
đạo của Đảng, Chính phủ và UBND thành phô' Hà Nội,
Văn Miếu - Quốc Tử Giám đang được tu bổ bảo quản tốt.
Hiện nay, Văn Miếu chỉ còn là một bảo tàng hiện
hữu của nển văn chương khoa bảng Việt Nam, và là một
địa điểm du lịch lớn của Hà Nội và Việt Nam. Di tích Văn
Miếu nằm gọn trong một khu vực của 4 phố là: Nguyễn
Thái Học ở phía bắc, Hàng Bột ớ phía tây, Vân Miếu ở
phía đông, và Quốc Tử Giám ở phía nam. Đó là chưa kể
khu hồ Vãn Chương vốn một thời nằm trong khu di tích
này. Cho đến ngày hoà bình lập lại, do sức ép về dân số,
thêm nữa cách quản lý của chúng ta lỏng lẻo nên đã để cho
các gia đình ven hồ và những nơi khác lấn chiếm. Vào năm
1992, UBND thành phố đã có quyết định trả khu vực hồ
Văn Chương cho khu di tích Vãn Miếu đúng với cái vốn có
của nó.
Hiện tại khu di tích Văn Miếu chia thành 2 khu vực là:
3.1.1. Khu vực Hồ Văn Chương
Những bức ảnh chụp từ trên máy bay xuống hồi đầu
thế kỷ XX, cũng như những bản đồ ngày xưa cho chúng ta

125
CHUONG 3: VẰN MIẾU - QUỐC TÚ GIẤM MỘT QUÁ TRÌNH NHẬN BIẾT

thấy hồ Văn Chương không chỉ là một bộ phận hữu cơ


không thể thiếu được của di tích mà nó có một diện tích
rộng lớn tăng thêm vẻ đẹp cho Văn Miếu. Hiện tại hồ đang
bị lấn chiếm bởi các hộ dân quanh đó. Những ngôi nhà mọc
chênh vênh gần giữa hồ đã là hồi chuông cảnh báo về sự
xuống cấp của khu vực hồ Văn Chương một bộ phận cấu
thành quan trọng của di tích Văn Miếu- Quốc Tử Giám.
Được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và thành phô'
Hà Nội, hồ Văn đã bất đầu được tu sửa. Việc cạp lại hồ
Vãn để trả lại vẻ đẹp vốn có của Văn Miếu - Quốc Tử
Giám là công việc cần thiết. Hồ hiện nay đã làm xong. Tuy
nhiên với nhiéu lý do khác nhau nên khó có thể nói hồ Văn
Chương được khôi phục giống như ngày xưa.
3.1.2. Di tích Văn Miếu
3.1.2.1. Văn Miếu - Quốc Tử Giám hiện chúng ta còn
thấy nằm ở khu vực phía tây bắc thành phố Hà Nội. Kiến
trúc Văn Miếu qua các dấu tích vật chất còn để lại cho
thấy chúng mang đậm dấu ấn kiến trúc nghệ thuật thời Lê,
được tu tạo mới thêm dưới thời Nguyễn.
Văn Miếu thời Lý nay không còn tìm thấy dấu vết
cho dù lịch sử vẫn còn ghi về di tích này. Trong Khâm
định Việt sử thông giám cương mục, có nhiều đoạn cho
thấy rằng Vãn Miếu thời Lý cũng được xây dựng ngay trên
khu vực Vãn Miếu hiện thấy.

126
NHO GIÁO - ĐẠO HỌC TRÊN ĐẤT KINH KÌ (THĂNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

Đến thời Trần, vào năm Nguyên Phong thứ 3 đời vua
Trần Thái Tông(1253) Vãn Miếu - Quốc Tử Giám mà lúc
đó gọi là Quốc học viện được tiến hành trùng tu với quy
mô lớn.
Thời Lê, ngay sau khi đánh đuổi quân Minh ra khỏi
b à cõi, khói phục được nền độc lập cho nước nhà, Lê Thái
T ổ đã quan tâm tới việc học hành thi cử, đào tạo nhân tài,
xuống chiếu mở trường học ở khắp các nơi và đích thân
chọn lựa con cái quan lại và thường dân đưa vào làm Giám
sinh ở Quốc Quốc Tử Giám5.
Dưới thời Lê Thánh Tông, cùng với chủ trương để
cao Nho học, việc học hành thi cử, tuyển lựa và trọng dụng
kẻ sĩ được nhà vua và triều đình hết sức quan tâm. Năm
Hồng Đức thứ 14(1483) Văn Miếu - Quốc Tử Giám được
tu sửa lớn. Việt sử Thông giám cương mục chép: “Hồi đầu
triều Lê, nhà Thái học vẫn theo nếp cũ triều Trần quy chế
là phần nhiều còn thiếu thốn, đến nay nhà vua cho sửa
sang rộng thêm. Đằng trước nhà Thái học dựng Văn Miếu,
ỉehu cũ Văn Miếu gồm: Điện Đại Thành để thờ tiên thánh,
Đông vũ, Tây vũ thờ các tiên hiền và tiên nho, điện Canh
Phục ỉà nơi tức yết, một khu dể chúa đồ tế khí và một
phòng nhà bếp. Đằng sau nhà Thái học dựng cửa Thái học,
nhà Minh Luân. Giảng đường phía đông và phía tây là nơi

5 Lê Quý Đôn: Kiến vàn tiểu lục.

127
CHƯONG 3: VẰN MIẾU - QUỐC TỬ GIÁM MỘT QUÁ TRÌNH NHẬN BIẾT

dạy học; lại đặt thêm kho bì thư để chứa ván gỗ đã khầc
thành sách, bên đông bên tây nhà Thái học làm nhà chio
giám sinh trong ba xá, mỗi bên 3 dãy. Mỗi dãy 25 giam
làm chỗ ăn nghỉ cho giám sinh; bên đông bên tây, mỗi bê n
đều có một nhà bia, quy mô có phần rộng lớn, khanig
trang6”
Nhà bia nói đến ở trên là một kiến trúc mới của Văin
Miếu được xây dựng để trưng bày và bảo vệ những tấm búa
tiến sĩ - một chủ trương mới của Lê Thánh Tông trong lĩnih
vực tôn vinh những người đỗ đạt. Năm Hồng Đức thiứ
15(1484) nhà vua sai Lễ bộ thượng thư Quách Đinh Bảio
soát lại danh sách và thứ bậc các vị đỗ tiến sĩ từ những khoia
thi đầu tiên của triều Lê từ khoa Nhâm Tuất (niên hiệu Đạii
Bảo năm thứ 3 đời vua Lê Thái Tông (1442) đến khoa Giá|p
Thìn niên hiệu Hồng Đức thứ 15(1484) để ghi vào bia. Tất
cả có 10 bia tương ứng với 10 khoa thi. Trên bia ghi rõ nànn
tổ chức khoa thi, bài ký vể việc đựng bia, danh sách các vạ
đỗ đại khoa, năm dựng bia hộ tên người soạn bài ký ngườn
khắc chữ ...Trong đợt làm bia đầu tiên này, các bậc đại thầin
nổi danh về văn chương đương thời như Hàn lâm viện thừía
chỉ Đông các đại học sĩ Thân Nhân Trung, Hàn lâm viện thiị
độc kiêm Đông các đại học sĩ Đỗ Nhuận. Hàn lầm viện thụ
độc Đông các hiệu thư Đào Cử... chịu trách nhiệm soạn bàú

6 Xim thêm, Việt sử Thông giám cương mục. Sử học Hà Nội 1962

128
NHO GIẢO - ĐẠO HỌC TRÊN ĐẤT KINH KÌ (THẢNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

ký; Trung thư giám chính tự Nguyễn Tùng, Thái Thúc


Liêm, Điển thư Phan Lý viết chữ; riêng chữ triện do Kim
Quang môn đãi chiếu Tô Ngại viết. Bia được đặt tại vườn
rông ngoài cửa Đại Thành, trong 2 dãy nhà bia (dãy bên
đông và dãy bên tây), được xây dựng vào cuối năm Hồng
Đức thứ 15 cùng với một số nhà làm thêm cho các giám
sinh, cửa lớn ra vào và dãy tường bao bằng gạch vồ. Sau
những biến cô' dưới thời vua Lê Uy Mục, Lê Tương Dực lên
thay có chú trọng tới việc chấn chỉnh học hành. Cuối nãm
Hổng Thuận thứ 3(1511), VănMiếu - Quốc Tử Giám được
tu tạo xây cất thêm khá nhiều.
Thời Mạc các khoa thi được lổ chức đểu dạn Van
Miếu - Quốc Tử Giám được quan tâm tu bổ. Công việc
khởi đầu từ 1536 và hoàn tất vào mùa xuân 1537. Nhân dịp
này Mạc Đăng Doanh đến Văn Miếu dâng hương.
Hàng trăm năm sau đó, khi những rối ren của thòi
cuộc đã tạm lắng dịu, mãi đến năm 1662, Văn Miếu -
Quốc Tử Giám mới được sửa sang tu tạo thêm với quy mô
mức độ đáng kể. Lần trùng tu này được thực hiện dưới sự
điều hành của Tham tụng lễ bộ thượng thư, kiêm Đông các
đại học sĩ Yên quận công Phạm Công Trứ.. Theo ghi chép
của Đại Việt sử ký toàn thư thì: “Điện đường của nhà Quốc
Học, cung đường trong ngoài nhiều chỗ dột nát Công Trứ
sửa sang thêm, chế độ quy mỏ dần dần rạng rỡ lộng lẫy.

129
CHƯONG 3: VẰN MIẾU - QUỐC TỬ GIÁM MỘT QUÁ TRÌNH NHẬN BIẾT

Từ đó Nho phong càng thêm phấn phát, nhân tài nhiều


người thành tựu.”
Cho đến cuối thời Lê, Văn Miếu được triều đình Lê -
Trịnh cho tu sửa nhiều lần. Không riêng gì cảnh quan kiến
trúc, mà ngay cả quy mô tổ chức và hoạt động của cơ quan
học thuật tối cao này cũng được bổ sung chấn chỉnh. Lê
Quý Đôn trong Kiến văn tiểu lục7 có đoạn viết: “Cửa Đại
Thành 3 gian 2 chái, lợp ngói đồng. Đông vũ, Tây vũ mỗi
dãy 7 gian. Đằng sau có cửa nhỏ 1 gian. Điện Canh Phục 1
gian 2 chái; nhà bếp 2 gian, kho tế khí 3 gian, cửa Thái học
3 gian có tường ngăn lợp ngói đồng. Nhà bia phía đông và
phía tây mõi dãy đểu 12 gian. Kho đé ván khác sách 4
gian. Ngoại nghi môn 1 gian, xung quanh đắp tưòng. Cửa
hành mã ở ngoài tường ngang 3 gian. Nhà Minh Luân 3
gian 2 chái. Cửa nhỏ bên tả và bên hữu đều 1 gian có tường
ngang. Nhà giảng đường ở phía đông và tây 2 dãy, mỗi dãy
14 gian. Ở phía đông nhà Minh Luân 3 gian; phòng học
của học sinh tam xá ở phía đông và phía tây 3 dãy, mỗi
dãy 25 gian, mỗi gian cho 2 người ở.”. Đợt trùng tu Văn
Miếu cuối triều Lê vào năm Lê Cảnh Hưng thứ 25 (1785),
có nghĩa là đúng 4 năm sau 1789, Văn Miếu bị bỏ hoang
nát bởi sự thay đổi triều đại mới. Đợt trùng tu này do Tham
tụng Bùi Huy Bích trông coi”.

7 Xin xem thêm Lê Quý Đôn: Kiến văn tiểu lục. N X B KH XH Hà Nọi 1982.

130
NHO GIÁO - ĐẠO HỌC TRÊN ĐẤT KINH KÌ (THẢNG LONG - ĐÔNG ĐỔ - HÀ NỘI)

Việt sử TGCM chép: “Lúc ấy trong nước có nhiều


biến cố, nhà học đổ nát. Bùi Huy Bích muốn xây dựng nền
văn hiến để giữ vững lòng người, bèn sai cố sức sửa sang.
Huy Bích lại hay đến nhà Giám giảng bàn sách vở, luyện
tập văn bài, khen thưởng khuyến khích người nho học hiền
tài, ức chế người cầu may thi đỗ, vì thế đương thời nhiều
người khen ngợi.”
Dưới thời Tây Sơn, có nhiều biến cố lịch sử xẩy ra
dồn dập. Trong cơn binh lửa, Văn Miếu - Quốc Tử Giám
không tránh khỏi bị hư hại một phần. Tương truyền dân sở
tại có dâng sớ xin triều đình sửa lại Văn Miếu và được vua
Quang Trung phê vào đó 2 câu thơ nổm:
Ngày mai thống nhất nước nhà.
Bia nghè lại dựng trên toà muôn gian,
Rất tiếc ước nguyện trên của vua Quang Trung không
trở thành hiện thực .
Gia Long lên ngôi, Thăng Long chỉ còn là một trấn
của Bắc Hà. Thăng Long, Đông Kinh nay trở thành Hà
Nội. Văn Miếu - Quôc Tử Giám một thời là trường Quốc
học nay trở thành nhà học của trấn Bắc Hà và của phủ
Hoài Đức. Tổng trấn Bắc Hà thời đó là Nguyễn Văn
Thành, tuy là một võ tướng song lại rất coi trọng việc học
và giàu lòng mến mộ văn tài. Cùng với việc sửa sang lại
trấn thành, ông đã cho tu sửa Lại Văn Miếu, dựng thêm
Khuê Văn Các, công việc hoàn thành vào năm 1805.

131
CHƯONG 3: VẰN MIỂU - QUỐC TỦ GIÁM MỘT QUÁ TRÌNH NHẬN BIẾT

Sau thất bại của Hoàng Diệu, người Pháp chiếm đóng
Hà Nội, trong quy hoạch mới Hà Nội, chúng ta đã thấy
nhiều đổi thay của Văn Miếu. Lớp tường bao Vàn Miếu
hiện còn là dấu tích của thành Hà Nội bị phá và cho xây
làm tường bao. Những tấm bản đồ quy hoạch khu phố
Nguyễn Thái Học đã phạt khá sâu vào di tích này làm thu
hẹp khu vực trường thi ở cuối Văm Miếu. Các đường phố
khác dần hình thành đã chia Văn Miếu thành nhiều khu
vực cách xa, và hoang tàn như hôm nay...
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp anh dũng của
nhân dân thủ đô thời kỳ (1946-1954) Văn Miếu tất yếu
không thể tránh khỏi bị hoang phế. Di tích Văn Miếu đã
sống lại nhờ những tấm lòng hảo tâm giàu lòng mến mộ di
sản vãn hoá cổ truyền. Văn Miếu được tu sửa lại và quan
trọng nhất là làm lại 2 dãy Tả vu và Hữu vu.
Việc bảo vệ và tôn tạo Vàn Miếu chỉ được thực hiện
một cách có khoa học và ngày càng đạt chất lượng cao kể
từ sau ngày hoà bình lập lại. Ngày 28 tháng 4 năm 1962,
Bộ Văn hoá ra quyết định công nhận Văn Miếu - Quốc Tử
Giám là di tích lịch sử văn hoá cấp nhà nước...
Toàn bộ khu di tích Văn Miếu nằm trên một mặt
bằng hình chữ nhật, có chiều dài 306m, chiều rộng ở hai
đầu có chênh nhau đôi chút8.

8 Đ ầu phía nam nơi cổn g chính là 6 1 m , đầu phía b ắc nơi phô' N gu yên
Thái H ọ c là 75m .

132
NHO GIÁO - ĐẠO HỌC TRẼN ĐÁT KINH KÌ (THẢNG LONG - ĐỔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

Ở Trung Hoa, Văn Miếu thờ Khổng Tử được dựng


trên nền nhà cũ của vị thánh Nho tại Khúc Phụ quê hương
ông9; còn Quốc Tử Giám xưa thì lại nằm tại Bắc Kinh. Ở
Việt Nam ta, các vua Lý cho xây dựng Văn Miếu ở kinh
thành Thăng Long để thờ Khổng Tử, rồi sau đó lại cho lập
Quốc Tử Giám ở ngay phía sau Văn Miếu để dạy Nho học.
Các vua Lý đã tạo ra những nét rất riêng; gắn chặt nơi thờ
tự Thánh Nho với trường dạy Nho học cao cấp của nước ta.
Văn Miếu theo mặt chữ Văn ở đây là lấy chữ đầu của
Văn Tuyên Vương, vì Khổng Tử được tôn phong là Đại
Thành Trí Thánh Vàn Tuyên Vương. Như vậy Văn Miếu
là gọi tắt của V ã n T u y ê n V ư ơ n g M iế u
Quốc Tử Giám có lịch sử lâu dài hơn, sách Mạnh Tử
thiên Đằng Văn Công thượng cho biết đời Hạ, Thương,
Chu (khoảng thế kỷ X X đến đầu thế kỷ X V II tCn) đã lập
trường học với nhiều tên khác nhau như: "Tường", "Tự",
"Hiệu" đều là nơi dưỡng giáo nhân tài. Tất nhiên các nhà
học đó dạy cả văn và võ. Nhưng sách Mạnh Tử cũng
chương ấy kết luận, mục tiêu các nhà trường là: "Việc học
ở ba đời đều để làm sáng rõ nhân luan." Mà nhân luân,
theo Mạnh Tử là Quân thần, Phụ tử, Phu phụ, Huynh đệ,
Bằng hữu. Những quan hộ xã hội huyết thống của con
người ở trình độ thoát khỏi thời kỳ mà các nhà Nho học

9 Nay là huyện K h ú c Phụ, tỉnh Sơn Đ ông - Trung Q uốc.

133
CHƯONG 3: VẢN MIẾU - QUỐC TỦ GIÁM MỘT QUẢ TRÌNH NHẬN BIẾT

gọi là "Huyền hoàng", "Hồng hoang" để chuyển sang thời


"hữu biệt".
Sách Lễ ký cũng nói đến Tự ở thời Hạ có Đông Tự và
Tây Tự. Đến đời Chu, nền giáo dục chia ra Quốc học là
trường tổ chức tại Kinh kỳ của Chu Thiên Tử và Hương
học là trường ở địa phương ở Hương và nhỏ hơn là ở
Toại10.
Thiên học ký sách Lễ Ký lại ghi: "Trường dạy nhà thì
có Thục, đảng thì có Tường, toại thì có Tự, nước thì có
Học.". Đến đây cho thấy rõ sự phân công, phân cấp của
các trường khá rõ ràng. Tính từ trường tư của các nhà thì
có Thục" và cao nhất là Quốc Học. Hàm nghĩa Quốc học
vẫn được các thời sau ở Trung Quốc và Việt Nam nhắc lại
như: Quốc học viện.
Cấp học cũng được tách ra rõ dần, gồm 2 cấp Tiểu
học và Đại học. Đại học có nhiều tên gọi khác nhau: Đại
học của Chu Thiên Tử gọi là Bích Ung, Đại học của chư
hầu gọi là Phán Cung, hai nhà học này thường đặt một cái
giếng lớn phía trước, bởi vậy mà nhà Đại học còn gọi là
nhà Phán Thuỷ. Nhiều sách của chúng ta thường hay nói
về vẻ đẹp của Thiên Quang tỉnh với nước trong in hình trời
xanh mây bạc, rồi gác Khuê Vãn... quả đó là vẻ đẹp của

10 Các đcm vị hành chính lúc đó.


11 Đời sau hợp hai chữ Tư và Thục thành tư thục để chì trường tư.

134
NHO GIẢO - OẠO HỌC TRÊN OẤT KINH KÌ (THẢNG IONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

thiên phú và nhân tạo hợp thành. Thiên Quang tỉnh từ


những ẩn ý sâu xa lại là bóng dáng của Phán Thuỷ. Nên
các triều xây dựng và tu tạo Văn Miếu - Quốc Tử Giám
đều chú ý bảo tồn và tu sửa lại Thiên Quang tỉnh. Vì nhà
Đại học và Văn Miếu là khu thống nhất nên giếng mới đặt
trong khu hiện nay. Hai khu bia tiến sĩ ghi lại thành quả
học tập và khoa cử Nho giáo mới dựng hai bên bờ giếng.
Trong Văn Miếu có quả chuông đồng tên gọi là chuông
Bích Ung đã phần nào nói lên được ý tưởng xây dựng khu
vừa là nơi tưởng niệm Thánh Nho lại vừa là trường đại học
cao cấp.
Các tôn "Học”, "Bích Ung", "Phán Cung"(Phán
Thuỷ) của nhà đại học thời cổ còn qua các tên Quốc tử
học, Quốc tử tự mãi đến đời Tuỳ danh xưng Quốc tủ giám
mới chính thức ra đời.
Trong lịch sử phong kiến Việt Nam nhà đại học cũng
thay đổi tên gọi nhiều lần: Thời Lý gọi là Quốc tử giám,
thời Trần gọi là Quốc tử viện sau đổi là Quốc học viện,
thời Lê gọi là Quốc Tử Giám, còn thời Nguyễn buổi đầu
gọi là Quốc học, sau đổi thành Quốc Tử Giám. Giám có
nghĩa là gương soi thật hợp với tinh thần học thuật Nho
giáo. Dân Hà thành quen gọi là nhà Giám, có khi chỉ là
Giám vừa nôm na thấm thiết mà không làm mất đi phần
long trọng của khu di tích này.

135
CHƯONG 3: VẢN MIẾU • QUỐC TỦ GIÁM MỘT QUÁ TRÌNH NHẬN BIẾT

Từ ngoài đi vào, tnrớc hết du khách trông thấy ngay


tứ trụ và hai nhà bia có chữ H ạ mã, để tỏ lòng kính trọng
với khu trường đại học này. Bốn cột trụ vuông ngang hàng
với hai biển hạ mã xác định phạm vi đường đi với vưòn
ngoài trước cổng Văn Miếu.
Từ hàng tứ trụ qua vườn ngoài đến "Văn Miếu môn"
xây theo kiểu tam quan. Tam quan có nghĩa là 3 cửa. Cửa
chính ở giữa, to rộng hơn 2 cửa bên, tại cửa này có bậc
thềm đá lên xuống ở hai thành bệ có tay vịn hình rồng
mang phong cách nghộ thuật cuối Lê - đầu Nguyễn. Phía
trên tam quan có dòng chữ Văn Miếu Môn ( cổng Văn
Miếu). Hai cửa nhỏ, cửa ben trái là Tả Mổn, cửa ben phải
là Hữu Môn. Trang trí trên Văn Miếu môn khá đa dạng.
Trên nóc cổng là bức đắp nổi măt trời mây. Hai bên cổng
cũng đắp nổi cây, rồng, phượng... đáng chú ý nhất là 2 bức
đắp nổi bên trái và bên phải tam quan: Một bức cá rồng ẩn
hiện trong mây, đó là cảnh "Ngư Long hội tụ", cá sẽ hoá
rồng, cảnh Thanh Vân đắc lộ các thí sinh. Bức kia đắp
cảnh núi sông, mây nước nổi bật trên hình ảnh hổ với dáng
từ trên bước xuống rất ung dung, đó là tích: "Mãnh Hổ hạ
sơn" cái thế tượng trưng cho kẻ sĩ tu rèn tại nhà Thái Học
trở thành bậc sĩ đại phu đầy uy thế để vào đời, trị quốc.
Phía trong cửa Văn Miếu, có 5 pho tượng đắp nổi:
một vị cầm bút, một vị cầm nghiên, một vị cầm quạt, 1 vị

136
NHO GIÁO - ĐẠO HỌC TRÊN ĐẤT KINH KÌ (THẢNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

Cầm CỜ, một vị Cầm nến, mỗi vị kèm theo một tiểu đồng.
Năm vị đó tượng trưng cho cảnh; giám sinh bước vào nhà
giám học để chờ ngày nhập thế, phò vua giúp nước.
Hệ thống câu đối ở khu vực cửa Văn Miếu là những
lời hay ý đẹp, sâu xa, văn khí hào hùng, nói lên sức mạnh,
cao lớn của đạo Nho, ví như:
+ Đồng Tây Nam Bắc giai tự đạo.
Công khanh phu sĩ xuất thử đồ.
Có nghĩa là: Đông Tây Nam Bắc đều là đạo ấy.
Công khanh, sĩ phu ra đời từ con đường này.
+ Đao nhược lộ nhiên, đắc kỳ môn nhi nhập.
Thánh tức thiên dã, bất khả giai nhi thăng.
Có nghĩa là: Đạo (Nho) như đường, gặp cửa thì vào.
Thánh tức trời, không thể cùng lên.
+ Sổ nhận cao kiên, tài đắc hứa đa đạo lý,
Vạn cổ chiêm ngưỡng, y nhất đại cung tường.
Có nghĩa là: Cao chắc bao nhiêu mà chở nhiều đạo lý,
Chiêm ngưỡng muôn đời, vẫn như cung tường (nhà
học) một đời.
+ Niết nhi bất truy, ma nhi bất lận,
Ngưỡng chi di cao, toản chi di kiến.
Cố nghĩa là: Nhuộm mà không đen, mài mà không
mòn,

137
CHUONG 3: VĂN MIẾU - QUÓC TỦ GIÁM MỘT QUÁ TRÌNH NHẬN BIẾT

Trông lên mà thấy cao, dùi càng thấy chắc.


+ Cương thường đống cán tồn thiên địa,
Đạo đức cung tường tự cô' kim.
Có nghĩa là: Rường cột cương thường tồn tại trong
trời đất,
Trường học đạo đức vẫn từ xưa đến nay.
+ Đại quốc bất dịch giáo, bất biến tục, thả tôn sùng
chi diệc tín, tư văn nguyên hữu dụng, Ngô nho yếu thống
kinh, yếu thức thời, vô câu cô' dã thượng, tư thánh huấn
hữu tương đôn.
Có nghĩa là:
Nước lớn không biến đổi giáo dục, không biến đổi
phong tục mà tôn sùng nó, vì thế nên tư văn mói hữu dụng,
Nhà Nho ta, cốt thông hiểu kinh, cốt thức thời, không
câu nệ vào cái cũ, suy nghĩ vể lời dạy của thánh nhân, làm
cho nó mãi mãi được đề cao.
+ Doanh hoàn trung giáo mục, ngộ đạo tối tiên, vạn
vũ chu xã đồng khở kính,
Toàn cảnh hội văn từ, thử địa vị thủ, thiên thu cần tảo
thượng lưu phương.
Có nghĩa là:
Viộc giáo dục trong trời đất, đạo của ta là trước nhất,
mọi nơi đều phải kính phục,

138
NHO GIÁO - ĐẠO HỌC TRÊN ĐẮT KINH KÌ (THẢNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

Trong Vãn Miếu, miếu này là miếu đứng đầu, ngàn


năm hoa quý mãi còn hương.
+ Sĩ phu báo đáp vị hà tai, triều đình tạo tựu chi ân,
quốc gia sùng thượng chi ý.
Thế đại duy trì như thị thử, lễ nhạc y quan sở quý,
thanh danh văn vật sở đô.
Có nghĩa là:
Bậc sĩ phu phải báo đáp thế nào đây với ơn đào tạo,
sử dụng của triều đình, với ý sùng thượng của nhà nước?
Thê đạo duy trì như thế nơi tập trung của lễ nhạc áo
mũ, nơi đỏ hội của thanh danh văn vật?
Nhìn chung, tam quan của Vãn Miếu được tu sửa lại
vào thời Nguyễn sau này, nhưng dựa trẽn cái nền cũ vốn có
của nó. Trang trí kiến trúc tuy đơn giản, cũng như các câu
đối mộc mạc. Song đã toát lên những hàm nghĩa văn
chương sâu xa của chốn Nho học đầu tiên ở Việt Nam.
Bên trong khu Văn Miếu được chia thành 5 khu vực
với những bức tường ngăn để du khách có dịp đến thăm dễ
hình dung và dễ nhớ.
* Khu vực thứ nhất : Bước qua tam quan là khu vườn
"Nhập đạo". Qua khu vườn Nhập đạo là tới cửa Đại Trung
(Đại Trung môn), với 2 cửa nhỏ hai bên là: "Đạt Tài môn"
và "Thành Đức môn". Đức và Tài là những mục tiêu của

139
CHƯONG 3: VẰN MIẾU - QUỐC TỬ GIÁM MỘT QUÁ TRÌNH NHẬN BIẾT

giáo dục cũng là phẩm hạnh của Nho sĩ, là phẩm chất
chung của các trí thức ở mọi thời đại. Tại khu vực thứ 2
người xưa cũng tạo thêm 2 hồ gạch thả hoa sen và súng.
* Khu vực thứ hai: Qua Đại Trung môn, du khách sẽ
đặt chân tới Khuê Vãn Các một kỳ quan nghệ thuật mang
nặng bản sắc của người Hà Nội. Khuê Văn Các có hình
vuông được làm cao 2 tầng, Tầng dưới chỉ có 4 cột trụ
trống làm cổng cho du khách bước vào một khu vực quan
trọng chứa đựng những thành tựu vĩ đại nhất của những
nhà khoa bảng Việt Nam ngày xưa.
Tầng 2 của Khuê Văn Các là gác bình thơ được làm
theo lối kiến trúc cổ với 4 mái ngói và 4 đầu đao uốn cong,
Chính giữa mái là hình rồng chầu mặt nguyệt. Hai bên hồi
bịt gỗ kín, hai mặt trước và sau để rỗng làm nơi bình thơ
cho những người yêu thơ xứ Bắc.
Tại gác Khuê Văn có đôi câu đối:
+ Khuê văn thiên lãng nhân văn xiển,
Bích thuỷ xuân thâm đạo mạch trường.
Có nghĩa là: Sao Khuê ngời sáng văn ngòi mở,
Nước biếc xuân thâm mạch đạo dài.
Cùng với gác Khuê Văn còn có 2 cửa là: "Bí Văn
môn" và "Xúc Văn môn". Bí nghĩa là rực rỡ, xúc là hàm
xúc, hai yêu cầu của văn học.

140
NHC GIẢO - OẠO HỌC TRÊN ĐẤT KINH KÌ (THẲNG LONG - ĐÔNG ĐỔ - HÀ NỘI)

* Khu vực thứ ba. Qua gác Khuê Văn, du khách tới
Thiần Quang tỉnh. Tại đây du khách như bước vào một thế
g iá tâm linh mới lạ với chiếc giếng hình vuông mỗi cạnh
khoảng 30m. Xung quanh hồ có lan can xây bằng gạch.
Then Quang tỉnh hay giếng chứa trong đó những ánh sáng
huvền ảo của trời đất, của vũ trụ mênh mông. Tại hai bờ
đôig và tây, du khách theo các bậc gạch để bụm tay hứng
nhtng giọt nước linh thiêng của giếng này.
Bên cạnh hai bờ giếng ở phía đông và phía tây, du
khích sẽ tìm thấy tên tuổi những vị tiến sĩ đã thi đỗ trong
các kỳ thi ở triều Lê qua 82 tấm bia hiện hữu đại diện cho
nh.cu triổu vua thời Lê, thời Mạc. Nghe nói rằng số bia ở
đâ' không chỉ có 82 mà có thể còn có nhiều hơn như vậy.
Cá; nhà nghiên cứu Việt Nam trong quá trình nghiên cứu
cũig khẳng định rằng ở vào thời Lê, và thời Mạc qua sử
sách còn ghi lại cho thấy chúng có khoảng 120 kỳ thi như
vậ/. Con số này mà đúng và nếu cứ mỗi khoa thi có một
tấn bia thì ở Văn Miếu phải có tới 120 bia mới đúng. Hiện
chia rõ con số nào là chính xác. Trong bài sớ dâng lên vua
Qiang Trung của dân làng Văn Chương thì số bia là 83
nhr vậy hơn hiện nay 1 tấm bia. Thế rồi trong quá trình
nịhiên cứu tu tạo các nhà nghiên cứu đã tìm thấy con rùa
đÉ thứ 83 bị chôn vùi dưới lòng đất Văn Miếu. Công việc
nlững tưởng thế là xong. Mấy năm sau đó trong quá trình
cả tạo những hồ nước tại Văn Miếu chúng ta lại phát hiộn

141
CHƯƠNG 3: VẲN MIẾU - QUỐC TỬ GIÁM MỘT QUÁ TRÌNH NHẬN BIẾT

thêm 1 chú rùa đá đội bia nữa nâng số rùa đá hiện thấy lên
84. Như vậy sô' bia trong Văn Miếu có thể là 85 là 90...Tuy
chưa có những con sô' cụ thể song sô' bia cũ của Văn Miếu
phải nhiều hơn những con sô' chúng ta hiện biết.
Tại 2 khu nhà bia Văn Miếu, người xưa bố trí thành 2
dẫy bia có nhà bia ở chính giữa chia khu vực này thành 4
dãy bia đá. Các bia trước đây có những dãy nhà bia bảo vệ.
Song từ ngày Pháp chiếm Hà Nội di tích xuống cấp và bị
bỏ hoang phế, các bia tại đây cũng bị mài mòn theo thời
gian. Gần đây được sự quan tâm của Đảng, Chính phủ,
cũng như những người yêu thích các di tích lịch sử ở nước
ngoài, các nhà bia được phục hổi và sớm bảo tổn được tấm
bia có nhiều chữ bị bào mòn do mưa nắng.
Tại các bi đình có hai đôi câu đối như sau:
+ Xa thư cộng đạo kim thiên hạ,
Khoa giáp liên đề cổ học cung.
Có nghĩa là: Thiên hạ ngày nay xe cùng khổ, chữ
cùng lối, cùng chung đạo (Nho),
Nhà học xưa vẫn liên tiếp ghi tên các nhà khoa bảng.
+ Khoa giáp trung lai danh bất hủ,
Cung tường vọng ngoại đạo di tôn.
Có nghĩa là: Trong khoa giáp tuổi tên còn mãi,
Từ nhà trường nhìn ra ngoài(đời) đạo càng cao.

142
NHO GIÁO - OẠO HỌC TRÊN ĐẤT KINH KÌ (THẢNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

* Khu Vực thứ tư: Bước qua Đại Thành môn là vào
tới khu thờ Khổng Tử. cổng Đại Thành ở giữa được lợp
bằng ngói vẩy cá to, hai bên có 2 cửa nhỏ là: Kim Thanh
mòn(cửa Kim Thanh) và Ngọc Chấn môn (cửa Ngọc
Chấn).
Qua cửa Đại Thành hay đúng ra là cửa thành đạt lớn,
dt khách bước vào khu thờ Chu Công, Khổng Tử, Tứ phối,
Thất thập nhị hiền cùng một số văn thần Việt Nam được
th'J phối hưởng tại đây.
Khu vực này, có bình đồ kiến trúc hình vuông với
một sân gạch rộng, thoáng đãng để chuẩn bị bước thẳng
vèo nhà tién tế,cùng các kiên trúc như : Tả vu, Hữu vu,
đtn thờ Khổng T ử ... tạo nên một hình vuông linh thiêng.
. Đền thờ Khổng Tử bao gồm:
- Gian tiền tế: đó là căn nhà hình chữ nhật, thuộc
ding kiến trúc cổ với mái ngói đầu đao uốn cong. Trên bờ
noc có trang trí hình rồng chầu mặt nguyệt. Mặt nguyệt
hện thấy là dạng ngọn lửa thiêng song bên trong có cài
niếng kính đỏ chứng tỏ ngôi nhà này đã đuợc tu sửa lại
VIO thời Nguyễn.
Cũng giống như những gian tiền tế của nhiều đền thờ
hện biết, gian tiền tế ở đây xung quanh để trống, hai bên
h5i có bưng ván. Những bộ vì trong nhà tiền tế cho thấy có
mững dạng thức khác nhau như: vì kẻ chuyền, vì chồng

143
CHUONG 3: VẢN MIẾU - QUỐC TỦ GIÁM MỘT QUÁ TRÌNH NHẬN BIẾT

rường - giá chiêng, vì kèo cầu quá giang...Những thay đổi


này cho hay gian nhà này bước qua nhiều lần trùng tu và
mỗi lần lại để dấu ấn của thời đại đó. Song có điều chắc
chắn có nhiều mô típ trang trí kiến trúc có mặt từ thời Lê.
Bên trên nóc có các đại tự: "Vạn thế sư biểu": người
thày tiêu biểu muôn đời; "Đức tham thiên địa": Đức Nho
tham gia cùng trời đất; "Đạo quán cổ kim": đạo Nho ta
quán xuyến suốt cổ kim; "Phúc tư văn": Phúc của nền văn
ấy(đạo Nho)
Chính giữa gian tiển tế có một nhang án thờ sơn son
thếp vàng rất quý. Đứng cạnh nhang án là hai chú hạc cưỡi
trên lưng 2 chú rùa. Có thé coi đây là những tác phẩm nghệ
thuật cổ hiện còn giữ được ở Văn Miếu.
Bên cạnh đó còn có những đôi câu đối:
+Phối nguyên khí ư tứ thời, hậu thiên địa chi sinh,
nhi tri thiên địa chi thuỷ,
Khai học nguyên vi vạn thế, tổ Nghiêu Thuấn chi đại
nhi hiển Nghiêu Thuấn chi công.
Có nghĩa là:
Phối hợp nguyên khí của bốn mùa (Khổng Tử) sinh
ra sau trời đất, nhưng biết được sự khởi thuỷ của trời đất,
Mở nguồn học cho vạn đời, noi theo đạo của Nghiêu
Thuấn nhưng có công làm cho đạo Nghiêu Thuấn tốt hơn.

144
NHO GIÁO - ĐẠO HỌC TRÊN ĐÁT KINH KÌ (THẢNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

+ Thần cỏng trác quán cổ kim thiên địa do vi tiểu,


Thánh đức chiêu hồi vũ trụ nhật nguyệt bất khả thâu.
Có nghĩa là:
Công của bậc thần vượt xưa nay, trời đất thành bé nhỏ,
Đức của bậc thánh toả ngời vũ trụ, nhật nguyệt không
thể hơn.
Qua tiền tế thắp hương trình làng xong, du khách bước
vào gian hậu cung để có dịp thưởng ngoạn và ngắm nhìn
những pho tượng ông tổ các nhà Nho một thời. Trong gian
hậu cung hiện chỉ thấy có tượng Khổng Tử ngồi ở giữa và
quanh đó là tượng Tứ phối cùng nhiều bài vị bằng đá.
Tượng đức thánh Khổng cùng với các vị Tứ phối là
những pho tượng gỗ khá cổ được làm với kích thước to hơn
hoặc như người thật. Các vị thánh của đạo Nho uy nghi
trong bộ mũ áo cân đaí khá lộng lẫy trang trọng. Đầu các
vị đội mũ bình thiên. Nghe nói rằng các pho tượng này
cũng mới được đem từ trong kho ra để bầy thờ. Thực ra thì
vào thời Nguyễn, vua Gia Long đã có lệnh cho các đền thờ
trong cả nước không thờ tượng thần nữa mà chỉ được thờ
bằng bài vị. Những tượng đang thờ sau khi có bài vị thì sẽ
đem chôn hết. Chính từ cái lệnh này mà nhiều đền thờ
nhiều nơi phải đem chôn tượng của mình. Sau này nhiều
nơi trong quá trình sản xuất, sửa sang đền, đình vẫn tìm
thấy tượng thờ như: Đền Mê Linh ở Hạ Lôi (Vĩnh Phúc).

145
CHƯONG 3: VẢN MIẾU - QUỐC TỦ GIÁM MỘT QUÁ TRÌNH NHẬN BIẾT

ĐÓ chính là những pho tượng bị chôn trong dịp này. Có lẽ


ở Văn Miếu cũng vậy? Những bài vị hiện còn trên nhiều
ban thờ tại hậu cung hình như giúp chúng ta khẳng định
thêm vấn đề này. Trong hậu cung còn giữ lại được một số
di vật quý như: “Bích Ung đại chung” (chuông lớn nhà
Bích Ung) trong đó Bích Ung là một địa danh chỉ nơi học
tập của nhà vua và hoàng gia. Chuông làm vào năm 1708.
Tấm hoành phi: “Cổ kim nhật nguyệt” (như mặt trời, mặt
trăng xưa nay), tấm hoành phi này là bút tích của Nguyễn
Nghiễm thân phụ của thi hào Nguyễn Du. Một khánh đá,
một mặt có 2 chữ Thọ Xương, một mặt nói về công dụng
của loại nhạc khí này.
Kiến trúc hậu cung hình chữ nhị liền kề nhau trong
một mặt bằng. Mái hậu cung được ngói vẩy cá nhỏ và
mỏng. Quanh tường và hai bên hồi xây tường gạch quây
kín dường như không muốn cho ai đó vào quấy'rầy các vị
thánh nhân.
Qua hậu cung du khách có dịp thăm quan hai dãy tả
vu và hữu vu. Tương truyền nơi đây thờ 72 vị hiền triết của
đạo Khổng. Tại đây cũng còn thờ một số danh nho người
Việt như: Chu văn An, Trương Hán Siêu....
* Khu vực thứ 5:
Khu vực này có thể gọi là Quốc Tử Giám hay trường
Giám, nơi để Thái tử cũng như con các quan đại thần học
tập. Sau này, trên khu vực trường Giám, người ta cho xây

146
NHO GIÁO - ĐẠO HỌC TRÊN ĐẤT KINH KÌ (THĂNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

dựng khu nhà thờ thờ cha mẹ của đức thánh Khổng nên gọi
là khu Khải Thánh. Khu vực Khải Thánh đã bị hư hại trong
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp những năm 1946 -
1947. Hiện nay Bộ Văn hoá Thông tin, Thành phố Hà Nội
và Trung tâm Văn Miếu đã tôn tạo phục dựng lại những di
tích kiến trúc này và đã đưa vào sử dụng.
Khu Khải Thánh hiện được làm thành một khu liên
hợp kiến trúc gồm: cổng vào, tả vu, hữu vu, điện thờ chính
là dạng hình nhà chữ công. Nhà tiền tế hiện đang dùng làm
nơi biểu diễn cổ nhạc phục vụ du khách; gian ống muống
hiện đang để một lư hương đồng lớn phục vụ nhu cầu thắp
hương của du khách. Gian Hậu cung được làm hai tầng 4
mái trông khá đồ sộ. Tại chính giữa gian dưới có ban thờ
và tượng đức thánh Chu Văn An - một đại diện tiêu biểu
cho các văn thần Việt Nam được thờ trong Văn Miếu đã
lâu. Bên trên tầng lầu thứ hai có ba ban thờ. Ban thờ ở giữa
thờ vua Lý Thánh Tống người đã cho sáng lập Văn Miếu
vào năm 1070, ban bên phải nhìn từ ngoàivào trong là ban
thờ vua Lý Nhân Tông người cho lập Quốc Tử Giám và
ban hành khoa thi đầu tiên tại Văn Miếu 1075; ban thờ bên
phải là vua Lê Thánh Tông, người có công làm sáng danh
Nho học ở Việt Nam.
3.1.2. Các văn thần tiêu biểu cho Đạo học Việt Nam
2.3.ì . Chu Văn An
Bấy giờ học thuyết khuếch trương, các trường đại học
công lập và tư lập rất phát triển. Ngoài trường Tư Thiện

147
CHƯONG 3: VĂN MIẾU - QUỐC TỦ GIÁM MỘT QUÁ TRÌNH NHẬN BIẾT

đường, Toát Trại đường và nhà học ở phủ Thiên Trường


quê hương phát tích của nhà Trần, là những đại học dành
riêng cho hoàng phái và đại thần, còn có một số trường mở
để dành cho con em các nhà bình dân. Trong số các trường
đó nổi tiếng nhất là trường của Trần ích Tắc, em vua Trần
Thánh Tông. Trần ích Tắc là con người thông minh, vãn
tài lỗi lạc thông kinh bác sử, lại có năng khiếu về nghệ
thuật. Ông đã chiêu mộ học trò các miền tới học, cấp cho
cơm áo và dạy cho họ thành tài. Mạc Đĩnh Chi đỗ Trạng
Nguyên là được tôi luyện trong nhà trường này. Trường
của Chu Văn An ở Quang Liột đã đào tạo ra các danh Nho
như: Phạm Sư Mạnh, Lê Q uát...
Chu Văn An là người Quang Liột huyện Thanh
Đàm12, tính tình thẳng thắn chính trực, giữ gìn tiết hạnh,
tâm hồn thanh cao, ham học yêu đạo. Đặt tên chỗ ở của
mình là Vân Thôn, xây thư viện ở gò trên bờ một cái đầm
để dạ}' học. Đầm ấy gọi là Đầm Mực. Học trò nghe tiếng
thấy kéo nhau học rất đông, nhiều người đỗ đạt và trở nên
nổi tiếng như: Phạm Sư Mạnh, Lê Quát làm tới chức hành
khiển. Ông dậy học rất kính cẩn tôn nghiêm, đệ tử đối với
thầy trước sau vẫn giữ lễ học trò, như Phạm Sư Mạnh, Lê
Quát sau khi thành quan lớn rồi vẫn phải quỳ lạy thầy ở
dưới giường, có điểu gì không phải vẫn bị ông trách mắng.

12 Nay là xã Hoàng Liệt huyện Thanh Trì - Hà Nội.

148
NHO GIẢO - ĐẠO HỌC TRÊN ĐẤT KINH KÌ (THĂNG LONG - ĐÔNG Đ ồ - HÀ NỘI)

Như vậy mới thấy được Chu Văn An là một người thầy
mẫu mực tới nhường nào.
Đời vua Minh Tông(1314-1329) triều đình nghe danh
tiếng ông là bậc đạo đức mời ra làm chức Quốc Tử Giám
Tư nghiệp để dạy thái tử. Bấy giờ trong triều ngoài nội ai ai
cùng tôn trọng đức nghiệp của thầy. Khi làm Tư nghiệp,
ông Trần Nguyên Đán có thơ xưng tụng:
Học hải hồi lan tục tái thuần
Thượng trường sơn đẩu đắc tư nhân
Cùng kinh bác sử công phu đại
Kính Lão cùng Nho chính hoá tân
Bố miết mang hài quy Hán nhật
Thương Nhan bạch phát mộc Nghi Xuân
Hoa huân chỉ thị thuỳ y trị
Tranh đắc sào do tác nội thần.
,CÓ nghĩa là:
Bể học vô biên làn cung trở lại làm cho lại được thấy
thuần phong mỹ tục.
Mở trường có sao Bắc Đẩu trên đỉnh núi nên đã được
người ấy đứng đầu.
Hết các kinh sử đều thông vói công phu lớn lao của ông.
Lão học cùng tôn kính như Nho học mà nền chính trị
mới hoá ra mới mẻ canh tân.

149
CHƯONG 3: VẢN MIẾU - QUỐC TỦ GIÁM MỘT QUÁ TRÌNH NHẬN BIẾT

Tất vải giày gai trở về thời buổi nhà Hán phục hưng
lại chế độ truyền thống cho nước Tầu.
Đầu xanh tóc bạc cùng nhau vui học, rủ nhau tắm
ngày xuân và tắm mát trên bờ sông Nghi như Khổng Tử
ngày xưa.
Chính trị thuần hậu chỉ phải rủ tay áo mà cai trị như
thòi Nghiêu Thuấn.
Ông thật có thể tranh tài đức với Sào và Do về cái
chức quan trong cung điện nhà vua.
Ngô Thì Sĩ viết về ông rằng:
"Văn An là người thanh tĩnh, giữ tiết hạnh rất khắc
khổ không cầu lợi lộc cao sang, chỉ ở nhà đọc sách, có
nhiều học trò làm quan to, như các ông Phạm Sư Mạnh, Lê
Quát đã làm tới chức Hành khiển vẫn phải giữ lễ thầy trò,
lạy ở dưới giường ông ngồi, điều gì không phải là trách
mắng ngay. Ông là người nghiêm nghị đáng sợ. Vua Minh
Tông cử làm Tư nghiệp dạy Thái tử. Vua Dụ Tông ham
chơi, quyền thần làm trái phép, ông dâng sớ xin chém 7 tên
nịnh thần. Không thấy vua trả lời ông bèn trả mũ áo rồi trở
về quê. Ông mến cảnh núi Chí Linh, đến làm nhà ở đó.
Vua Dụ Tông muốn uỷ thác chính quyền cho ông, song
ông không nhận. Thái hậu nói: Bậc hiền sĩ thanh cao, vua
cùng bắt người ta làm tôi được, giao chính quyền cho
người ta thế nào được. Thiên hạ ai cùng khen là người có

150
NHO GIÁO - ĐẠO HỌC TRÊN ĐẤT KINH KÌ (THẢNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

khí tiết cao thượng. Khi bình xong nội loạn, ông mừng
lắm, chống gậy lên yết kiến mừng vua, rồi lại về núi."
Sử gia Ngô Sĩ Liên cũng viết về ông như sau:
"Nhà Nho Việt ta được đắc dụng ở đời không phải là
nhiều, như ý chí để vào công danh có ý chí để giầu sang,
có lẫn lộn a dua không phân biệt trắng đen cùng có, giữ địa
vị để bảo vệ lấy thân cùng có, chưa từng có để chí vào đạo
đức, hết lòng với vua, làm ơn cho dân lấy làm tâm niệm
vậy. Như Tô Hiến Thành đời Lý, Chu Văn An đời Trần
mới có thể gọi được như thế. Tuy nhiên Tô Hiến Thành
gặp được vua biết mình cho nên công nghiệp biểu hiện ở
đương thời. Văn An không gặp được vua biết mình cho nên
để lại đời sau cái học chính truyền. Ta lấy Vãn An mà nói
thì vua ắt phải can gián trái ý vua, ra làm việc đời theo điều
nghĩa mà xây dựng, nhân tài thì công khanh đều do cửa
nhà ông ra, phong tiết cao thượng thì thiên tử cũng không
thể dùng làm bầy tôi, dáng mạo vòi vọi mà dạy học
nghiêm trang, thanh khí oai linh mà nịnh thần sợ, ngàn đời
về sau nghe cái phong thái của tiên sinh, người ngoan
ngạnh cùng hoá ra liêm, kẻ ươn hèn cùng tự lập được. Nếu
không tìm hiểu lý do thì ai biết được rằng cái tên Thuỵ
Trinh là xứng đáng với người? Làm tông phái Nho học
Việt ta mà đặt lên bàn thờ Văn Miếu bên cạnh Khổng
Mạnh là rất đáng vậy."
Lê Tung ca tụng thất trảm sớ của Chu Văn An cùng
với bài Vạn Ngôn thư của Lê Cảnh Tuân:

151
CHUÔNG 3: VẪN MIỂU - QUỐC TỬ GIÁM MỘT QUÁ TRÌNH NHẬN BIẾT

Bức thư Vạn Ngôn, bụng trung thấu suốt trời trăng,
há chẳng phải là sức của văn chương sao? Bài sớ thất trảm,
lòng nghía cảm đến quỷ thần, há chẳng phải công của nhà
Nho ta đó ru?
Nay thử hỏi cái tôn chỉ Nho học của họ Chu thế nào
mà được tất cả Nho sĩ Việt Nam về sau đồng thanh công
nhận là tổ tông cho Nho học Việt Nam?
Theo Lê Quý Đôn trong Qué Đường di tập thì khi
dạy học Chu Văn An thưcmg nói học trò là Tú Sĩ rằng:
“Phàm học thành đạt cho mình là để thành đạt cho người,
công đức tói nhân dân, ân huệ để lại đời sau, đấy đểu là
phận sự của Nho sĩ chúng ta”. Và tôn chi giáo huấn của
tiên sinh là:
"Tiên sinh dậy học tôn nghiêm, chủ trương xét
nguyên lý tới cùng của sự vật và làm ngay cái chính tâm
của mình bên trong. Trừ sạch điểu tà bậy, chống cự với các
học thuyết nhảm nguỵ biện."
Cái tôn chỉ cùng lý chính tâm khác với chủ trương
của Tống Nho Chu Hy "Cùng chí vật chi lý". Bỏi vì cùng trí
thuộc về tri,"chính tâm" thuộc về hành, vậy "cùng lý chính
tâm" là "tri hành hợp nhất". Còn "Cùng chí sự vật chi lý"
thì chỉ có một măt"cùng lý" tức là tri mà thôi. Và nếu lấy
cái điều lý khách quan của sự vật ngoại giới thì chủ trương
"cùng lý" sẽ thiên về tri thực danh lý (intellection logique).

152
NHO GIÁO - ĐẠO HỌC TRÊN ĐẤT KINH KÌ (THĂNG LONG - ĐÓNG ĐÔ - HÀ NỘI)

Như thế không phải là cái học thực hiện đức tính của
truyền thống đạo học chân chính vậy. Cho nên bảo họ Chu
ở V iệt Nam cùng với Trần Thái Tông đã chủ trương triết
học tri hành hợp nhất trước Vương Dương Minh bên Tầu
và chống với cái học của Chu Hy đời Tống thiên về lý học
hơn là tâm linh thực nghiệm. Lý học vốn là học thuyết về
"Tri tri cách vật" như thế là tin có một thế giới sự vật bên
ngoài đối lập hay tịnh hành với nội giới tâm linh, mà người
ta phải đem cái ý thức chủ thể đến đối tượng là sự vật. Như
thế là chỉ có lý trí giải quyết vấn đề hiểu biết, mà hiểu biết
của lý trí lại đặt cho chính xác một vật làm đối tượng cho
chủ thể tri giác.
Trái lại cái học "cùng lý chính tâm" thì chủ trương ở
tâm có lý, chỉ phải sống đời sống thực hiện đức tính ngõ
hầu cái tâm mình khai triển vượt quá giới hạn cá nhân, hoà
đồng với tâm xã hội, nhân loại đến vũ trụ. Ở cáị tâm hay ý
thức vũ trụ ấy, tại cái "thiên địa chi tâm" thì Tâm tức là lý
không còn năng tri, sở tri, chủ thể và đối tượng đồng nhất
với nhau trong cảnh thế giới tâm linh thần hoá vậy. Đấy là
đạo học của Chu Văn An.
Lê Quý Đôn cùng như Ngô Sĩ Liên nói rằng: Chu
Văn An trước tác sách: "Tứ thứ thuyết ước" và "Tiều ẩn
tập" lưu hành ở đời. Nhưng sách thuyết ước thì hiện nay
không còn thật đáng tiếc thay. Còn sách Tiều ẩn thì cùng
chỉ thấy Lê Quý Đôn trích mấy bài trong tập "Quế đường

153
CHUONG 3: VẰN MIẾU - QUỐC TỦ GIÁM MỘT QUÁ TRÌNH NHẬN BIẾT

di tập". Qua những bài thơ ấy chúng ta thấy không những


Chu Văn An "kính Lão học, sùng Nho học" như lời Trần
Nguyên Đán xưng tụng trên kia mà còn thấy họ Chu còn
lấy nguồn cảm hứng sáng tác ở tâm thiền nữa.
Thôn sơn Tiểu khế
Nhàn thân nam bắc phiến vân khinh.
Bán chẩm thanh phong thế ngoại tình.
Phật giới thanh u trần giới viễn.
Đình tiền phún huyết nhất oanh minh.
Dịch:
Tạm nghỉ ở một xóm làng trong núi
Thân nhàn tựa đám mây nhẹ nổi từ Nam sang Bắc.
Nửa gối gió mát, tình để ra ngoài cuộc đời,
Cõi Phật thanh u xa vói cõi trần tục,
Trước sân chim oanh kêu hót thổ ra máu.
Đấy chẳng là ca tụng đạo Phật thanh tĩnh đó ư? Đại
khái hồn thơ đều mang nặng tinh thần Trang Phật như thế
cả. Đủ tỏ khi dạy học, vào đời ông thực hiện cái ý thức
Nho luân ý nhân sinh, khi cáo quan về già ông sống cái ý
thức Phật Thiền.
3.1.2. Trương Hán Siêu
Trương Hán Siêu, tự là Thăng Phủ hiệu Độn Tấu,
người làng Phúc Thành huyện Yên Ninh (Nay là xã Phúc

154
NHO GIẢO - ĐẠO HỌC TRÊN ĐẤT KINH KÌ (THẢNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

Anh huyện Gia Khánh tỉnh Ninh Bình). Lúc trẻ ông là môn
khách của Trần Hưng Đạo, có học vấn uyên súc. Năm
1308 được vua Trần Anh Tông bổ chức Hàn lâm viện học
sĩ, sau thăng dần đến chức Hành khiển, cùng với Nguyễn
Trung Ngạn vâng mệnh vua Trần Dụ Tông soạn 2 bộ sách
Hình luật thư và Hoàng triều đại điển13. Năm 1353 ông
vâng mộnh vào trấn thủ Châu Hoá. Trong sô' các tác phẩm
còn lại của ông có bài Bạch Đằng giang phú và 2 bài Dục
Thuý Sơn Linh T ế tháp ký và Khai Nghiêm tự bi ký rất nổi
tiếng. Riêng bài ký chùa Khai Nghiêm một mặt đề cao vai
trò của Nho giáo và Nho sĩ: “ Kẻ đại phu không phải đạo
Nghieu Thuấn khong bày lỏ, không phải đạo Khổng Mạnh
không trước thuật.”. Mặt khác phê phán Phật giáo, cho
Phật là dị đoan. Qua đó có thể thấy ông là một trí thức Nho
sĩ đã hăng hái góp phần khẳng định vị trí của Nho giáo. Có
lẽ vì đó mà vua Trần Nghệ Tông ban cho ông vinh dự được
thờ phụ ở Văn Miếu. Ngô Sĩ Liên viết: Nghệ hoàng cho
Hán Siêu được thờ theo ở Văn Miếu là vì Hán Siêu hay bài
trừ dị đoan chăng? Có vẻ đúng như thế. Cuối năm Thiệu
Phong 14 (1354) đời Trần Dụ Tông, khi đang giữ chức
tham tri chính sự kiêm trấn thủ Hoá Châu, ông vâng mệnh
trờ về kinh và mất trên đường trở về.

13 Hai cuốn sách trên đểu không còn.

155
CHƯONG 3: VẰN MIẾU - QUỐC TÚ GIẤM MỘT QUÁ TRÌNH NHẬN BIỂT

3. ỉ .3.ĐỔ Tử Bình
Chưa rõ ngày tháng năm sinh của ông. Theo ghi chép
trong sử sách thì năm Thiệu Phong thứ 8 (1348) đời Trần
Dụ Tông, Đỗ Tử Bình giữ chức Ngự tiền học sinh được tổ
chức thị giảng, có thể đoán rằng lúc đó ông đang làm Trợ
giảng dạy học cho vua. Các năm sau, ông được thăng Khu
mật viện sự (1359), được sai đi tuyển quân và tu sửa thành
lũy ở Hoá Châu, được thăng làm Đồng tri môn hạ (1352),
sau đó được phong làm Phó thống quân đi đánh Chiêm
Thành ở cửa Thi Nại, quân triều đình bị thất bại, Duệ Tông
tử trận, Đỗ Tử Bình suýt bị tội chết, nhưng Thượng hoàng
Trần Nghộ Tông tha cho bắt sung quân. Sau lại được phục
chức, thăng đến Hành khiển, mất tháng 11 năm Xương Phù
thứ 4 (tháng 1 2 - 1380).
Sau khi mất được tặng chức Thiếu Bảo, cho tòng tự ở
Văn Miếu. Việc Đỗ Tử Bình được thờ ở Văn Miếu không
thấy sử sách ghi chép lý do, nhưng xét tiểu sử thì có lẽ
Trần Nghệ Tông cho rằng Đỗ Tử Bình đã có công dạy cho
vua Dụ Tông và các hoàng đệ.
Như vậy vua Trần Nghệ Tông là người có ý thức lựa
chọn những nhà Nho có danh tiếng cho thờ phụ ở Văn Miếu
để tỏ rõ sự tiếp nối truyền thống Nho giáo ở Việt Nam.
Tuy vậy trong 3 nhân vật k ể trên chỉ có Chu Văn An
được thừa nhận là người có đạo đức, khí tiết cao cả,
còn Trương Hán Siêu và Đỗ Tủ Bình thì không đạt

156
NHO GIẢO - ĐẠO HỌC TRÊN ĐẤT KINH KÌ (THĂNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

được Sự phẩm bình nhất trí như trên. Sau khi nhà
Trần sụp đổ, các sử gia thời Lẽ đ ã phê phán ngay
việc cho Đ ỗ Tử Bình và Trương Hán Siêu được thờ
phụ ở Văn Miếu. Phan Phù Tiên và sau đó là Ngô Sĩ
Liên nêu việc Đỗ Tử Bình giấu bớt vàng do Chê'Bồng
Nga cống nạp, dẫn việc Trương Hán Siêu khép tội
Phạm Ngộ và Lê Duy không đúng phép. Qua đó có
thể thấy đến đầu thời Lê thì chỉ còn bài vị của Chu
Văn An ở trong Văn Miếu.

3.2. CÓ MỘT VÃN MIÊU TRONG LÒNG ĐẤT


Vào tháng 4 năm 1999, Viện khảo cổ học đã phối
hợp với Trung tâm HĐVHKH Văn Miếu - Quốc Tử Giám
đào thăm dò khảo cổ tại khu vực Khải Thánh - Văn Miếu
(Hà Nội). Đợt đào này, nhằm hai mục đích:
1. Đào thăm dò trước khi Trung tâm Văn Miếu -
Quốc Tử Giám cùng các cơ quan chuyên môn tiến hành
phục hồi, tôn tạo lại khu Khải Thánh một bộ phận cấu
thành trong di tích Văn Miếu (Hà Nội).
2. Từ lâu khu Vãn Miếu chưa có một cuộc đào khảo
cổ nào cho dù đôi lúc phát hiện được những di vật quý
như: rùa đá và nhiều di vật quý khác... Hơn nữa, các học
giả nước ngoài dựa vào ghi chép từ các bộ sử cũ của ta để
đưa ra nghi ngờ niên đại xây dựng Văn Miếu năm 1070, và
Quốc Tử Giám 1077. Những nghi ngờ này chưa có các tư
liệu khảo cổ học chứng minh.

157
CHƯƠNG 3: VẢN MIẾU • QUỐC TỦ GIÁM MỘT QUÁ TRÌNH NHẬN BIẾT

Xuất phát từ mục đích trên và chuẩn bị cho ”Chương


trình kỷ niệm 1000 năm Thăng L ong" của thành phố Hà
Nội, v iệc đ à o thăm dò kh ảo c ổ học tại đây là một
điều hết sức quan trọng.
3.2.1. Quá trình đào thăm dò Khảo c ổ khu Khải
Thánh
Chúng tôi đã đào thăm dò ở khu Khải Thánh tất cả 6
hố với diên tích 50m2, diễn biến các hố đào như sau:
+ Hố 1: nằm trên rẻo đất sát tường rào dọc đường
Hàng Bột (nay là đường Tôn Đức Thắng); có diện tích 4m2
(2mx2m). Chia thành các lớp đất vãn hoá như sau:
Lớp 1: từ Ocm - 35cm, lớp mạt còn gọi là lớp đất
canh tác. Trong lớp đất này có rất nhiểu dấu vết kiến trúc
phức tạp chồng chéo lên nhau. Dưới lớp gạch nền ngay
trên bề mặt là một lớp đất mùn đen có lẫn nhiều gạch ngói
vụn. Trong lớp đất nền này có nhiểu mảnh gốm sứ ở vào
các thế kỷ XV II - XV III -XIX.
Lớp 2; dày từ 35cm - 115cm là lớp kiến trúc chỉ toàn
là ngói vụn với gạch vỡ. Lẫn trong đám gạch ngói vụn này,
đã tìm thấy khá nhiều mảnh sành sứ có niên đại thế kỷ
XIV-XV. Tại độ sâu 105cm, đã tìm thấy một nền gạch
đầm khá chặt.
Lớp 3: dày từ 115cm - 230cm, là một tầng vãn hoá có
lớp đất màu đen, khá dày và thuần. Trong tầng văn hoá lại
chia thành hai lớp nhỏ phát triển liên tục.

158
NHO GIÁO - ĐẠO HỌC TRÊN ĐẤT KINH KÌ (THẢNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

+ Lớp 3a: dày từ 115cm - 200cm, có màu đem sẫm,


khá mềm. Trong đó có rất nhiều mảnh sành, mảnh sứ niên
đại vào thời Lý - Trần. Tại một vách phía Bắc của hố tìm
thấy một lọ sành trên đó có một cọc tiền đồng đóng cứng
lại với nhau.
+ Lớp 3b: dày từ 200cm - 230cm, đất mềm, có mầu
đen nhạt, càng xuống sâu đất ngả sang màu vàng sét lẫn
nâu; đã tìm thấy một chậu sành. Trong chậu có một mẩu
xương và rất nhiều than tro. Dưới đáy chậu, đã tìm thấy
một cái bát men trắng bị bong khá nhiểu. Trên mặt bát có
một mảnh lá đề trang trí kiến trúc hình rồng. Lẫn trong lớp
này có Iihiểu hố than tro.
+ Hố 2: chạy thẳng trên một trục tường với hố 1 và
nằm ngay trong vị trí tiếp giáp của ngã tư đường Nguyễn
Thái Học với đường Tôn Đức Thắng, có diện tích 10,5m2
(2,lm X 5m); chạy theo trục Bắc Nam của khu Thái học.
Hố 2 có 3 lớp đất văn hoá cơ bản như sau:
Lớp 1. Lớp mặt hay lớp đất canh tác, có độ dày trung
bình từ Ocm - 43cm. Dưới là đất có gạch vụn lẫn lộn, chạy
hơi chéo về phía Nam, đã thu được khá nhiều mảnh sành
sứ của các thế kỷ X V II-X V n i-X IX .
Lớp 2. Lớp kiến trúc, có độ dày cũng khác nhau dày
ở phía Bắc và mỏng về phía Nam, dày trung bình từ 45cm -
135cm. Lớp kiến trúc này chỉ toàn ngói và gạch vụn, trong

159
CHƯONG 3: VẢN MIẾU - QUỐC TỬ GIẤM MỘT QUẢ TRÌNH NHẬN BIẾT

đó CÓ viên ngói riềm mái. Viên ngói này có màu đen, tạo
thành như một thước thợ góc vuông. Một bên là mái ngói
trơn. Một bên là lớp cánh sen nhọn đầu tựa như răng cưa.
Trên các răng cưa đó là một cánh sen có trang trí các
đường viền nổi.
Dưới độ sâu 145cm, tìm thấy những viên gạch nền
khá to được xếp với nhau. Trên vách phía Đông của hô' 2,
còn để lại một viên gạch màu đỏ, trên cạnh viên gạch có
trang trí hình xương cá. Rất có thể là loại gạch trong các
kiến trúc gạch thời Lý?
Lớp 3: có độ dày từ 145cm xuống tới 230cm. Lớp đất
này lại chia thành 3 lớp:
+Lớp 3a: có độ dày từ 145cm - 180cm, tiếp giáp với
nền gạch cũng chủ yếu vẫn là gạch và ngói. Tìm thấy một
mặt nền xếp với 3 viên gạch bị vỡ xếp lại. Lẫn trong đấy là
nhiều mảnh sành sứ Lý - Trần.
+ Lớp 3b: có độ dày từ 180cm đến 200cm, gần lớp
gạch nền và dưới đó phát hiện thấy 2 cột gỗ, cách nhau
50cm. Cọc gỗ ở đây nhỏ, đường kính 12cm, hiện chỉ còn
cao từ 35 -40cm, được đóng sâu vào trong lớp đất sét vàng.
Trong lớp này có khá nhiều mảnh sành, sứ có niên đại sớm
từ thế kỷ X I - XII.
+ Lớp 3c: chỉ tập trung trong một góc hố Đông Nam,
dày từ 200cm - 235cm. Trong vách hố phía Nam, tìm thấy

160
NHO GIÁO - ĐẠO HỌC TRẼN ĐÁT KINH KÌ (THẢNG LONG - ĐỔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

mờt loạt các hiện vật sành như: lọ sành, trên vai có núm;
chậu sành màu tím sẫm và một nồi sành.
Lớp cuối cùng của hố xuất lộ những hố đất đen nhỏ,
lẫn trong đó là mảnh nồi đất nung thô cứng, xương mỏng
và bên ngoài trang trí hoa văn khắc vạch, nan chiếu...
+ Hố 3: nằm trên nền nhà của khu Khải Thánh, cách
hố 1 khoảng 50m về phía Đông, có diện tích 10,5m2 (2,lm X
5m). Khu vực này rất phức tạp với nhiều loại kiến trúc chồng
chéo lên nhau. Tầng văn hoá chia thành 4 lớp khác nhau:
Lớp 1: dày từ Ocm -20cm, là lớp gạch mới' lát vào
năm 1988 cùng với sân khấu biểu diễn ngoài trời.
Lớp 2; lớp gạch Bát Tràng dày từ 20cm - 30cm. Gạch
Bát Tràng vuông to kích thước khoảng 37cm X 37cm X
5cm, có màu đỏ xám đen.
Lớp 3: lớp kiến trúc với hàng gạch nghiêng, dày từ
30cm - 70cm, cách mặt đất khoảng 50cm, xây nghiêng
trong một lớp đất sét nện có mầu vàng nhạt. Ngang với
hàng gạch nghiêng ở góc Tây Bắc của hố có một cụm hiện
vật bao gồm các đồ sành, sứ còn khá nguyên vẹn, có niên
đại khoảng thế kỷ X III XIV.
Lớp 4: di chỉ cư trú dày từ 70cm -200cm, đất có màu
xám đen và chia thành hai lớp khác nhau:
+ Lớp 4a: có độ dày từ 70cm - 140cm là lớp đất có
màu xám đen, thuần; có nhiều gạch ngói và thu được nhiều

161
CHUÔNG 3: VẪN MIẾU - QUỐC TỦ GIÁM MỘT QUÁ TRÌNH NHẬN BIẾT

tiền đồng. Cũng trong lớp này còn thu được nhiều mảnh
gạch lát nền trang trí hoa văn hình cánh sen.
+ Lớp 4b: có độ dày trung bình từ 140 - 200cm, màu
vàng nhạt đôi chỗ điểm vào đó là những hô' đất đen. Trong
lớp này còn ngói gạch vụn nhưng mật độ đã thưa dần. Các
hiện vật ở đây chủ yếu là đồ sành.
Giữa lòng hố đã tìm thấy dấu của một cột nhà bằng
gỗ lim hình chữ nhật, cao 45cm, dài 20cm, rộng 15cm.
Chân cột còn ăn sâu trong lòng đất tói 20cm. Như vậy nếu
tính từ trên xuống chân cột có độ sâu là 220cm. Dưới chân
cột chỉ thấy đất sét không hề có dấu chân tảng.
Mặt bằng của hố có xu hưóng nghiêng về phía Nam.
Tại vách phía Nam có một hố đất đen có diện tích 2m2; có
nhiều hiện vật như lọ sành, đĩa đèn bằng sành cùng với nó là
loại sứ trắng Bạch Định có niên đại thế kỷ X -XI. Lớp đất
đen ăn sâu từ mặt hô' cuối cùng xuống sâu là 30cm. Cuối
cùng của hố đất đen khi xuất hiện màu sét vàng vẫn còn tìm
thấy 1 lon sành dáng đứng trên vai có 4 núm.
+ Hố 4: dọc theo đường Văn Miếu và gần như đối
diện với hố 3, có diện tích 8m2 (2m X 4m). Các lớp đất ở
đây không phức tạp lắm.
Lớp 1: có độ dày từ Ocm -30cm là lớp đất canh tác
trên bể mặt cỏ cây mọc um tùm. Lớp này có khá nhiểu
mảnh sành sứ của thời hiện đại, đất có màu nâu sẫm.

162
NHO GIÁO - ĐẠO HỌC TRÊN ĐÁT KINH KÌ (THẪNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

Lớp 2: lớp kiến trúc dày từ 30cm -120cm, có khá


nhiều mảnh gạch, ngói cùng với đồ sành, sứ. Trong lớp này
có nhiều mảnh lá đề. Lá đề trang trí hình chim phượng có
mào lửa đúc nổi. Cạnh đó là nửa dưới đầu con rồng trang
trí kiến trúc. Bên cạnh những trang trí kiến trúc này là
những mảnh đồ sứ của thế kỷ XII, XIII, XIV. Đã phát hiện
được đầu ngói ống trang trí hình hoa thị - một dạng hoa
văn đặc trưng cho văn hoá thời Lý - Trần... Cuối cùng, đã
phát hiện được một quả đầm tay bằng đất nung. Mặt đầm
còn dính nhiều tro bếp.
Lớp 3: dày từ 120cm - 160cm, đất thuần, mềm, có màu
xám I iliạ t; lẫn vào đó có nhiểu mảnh sành sứ, gạch ngói.
Cuối cùng là lớp sét sinh thổ có màu vàng.
+ Hô' 5: cách hố 4 khoảng 50m, nằm trong góc của
hai đường Nguyễn Thái Học và Văn Miếu, có diện tích
12m2 (4m X 3m) chạy theo hướng Đông - Tây. Đây là hô'
phức tạp nhất trong các hố đã đào.
Lớp 1: có độ dày từ Ocm - 60cm, chia thành 2 lớp
nhỏ.
+ Lớp la : có độ dày từ Ocm -25cm, là lớp mặt, có lẫn
nhiều đồ hiện đại.
+ Lớp lb : có độ dày từ 25cm -60cm, là lớp pha trộn
nhưng xuất hiện nhiều sành sứ còn nguyên vẹn của các thế
kỷ XV III-XIX.

163
CHUONG 3: VẰN MIẾU - QUỐC TỬ GIÁM MỘT QUẮ TRÌNH NHẬN BIẾT

Lớp 2: Kiến trúc, có độ dày từ 60-130cm, xuất hiện


khá nhiều gạch ngói. Những đồ gốm sứ ở đây cũng lại bị
xáo trộn nên niên đại chưa thật thuần nhất. Tim thấy nhiều
lon sành và thấy một mảnh đĩa có dấu mài mực Tầu.
Lớp 3: nửa kiến trúc nửa hô' lấp dày từ 130cm -
176cm. Tại nửa hô' về phía Tây xuất hiện những dấu tích
kiến trúc còn nửa hố phía Đông nhất là tại vách phía Đông
lớp đất lấp khá rõ. Đã tìm thấy một cái đĩa con còn khá
nguyên vẹn, đấu ve lòng còn hằn 2 dấu mực Tầu đen chạy
vòng quanh; chứng tỏ đây là một đĩa mài mực. Dấu tích
này dường như đã góp phần xác nhận khu Thái Học là
trường học một thời.
Lớp 4: cũng chia thành 2 lớp khác nhau.
+ Lớp 4a: có độ dày từ 176cm - 200cm, là một lớp
nền móng của một kiến trúc ở nửa hố phía Tây và hố đất
đen ở nửa hô' phía Đông.
Lớp kiến trúc này chạy từ vách Tây ra khoảng 155cm
ở phía Đông là chấm dứt. Trong góc hố Tây Bắc đã tìm
thấy một viên gạch lát nền có hình vuông kích thước 40cm
X 40cm X 5cm. Trên bề mật gạch không có trang trí hoa
văn. Phải chăng chúng là dấu tích của một kiến trúc được
xây dựng vào thế kỷ XV?
Từ nửa 2m chạy về phía Đông hố là một hô' đất đen,
có khá nhiều đồ sành sứ và cả đầu viên ngói ống hình tròn,
trang trí hoa chanh màu xám đen.

164
NHO GIÁO - ĐẠO HỌC TRÊN ĐẤT KINH KÌ (THẲNG LONG - ĐÔNG ĐỔ - HÀ NỘI)

+ Lớp 4b: là hố đất đen tại vách Đông của hố, có độ


sâu từ 200cm - 280cm. Đây là một lớp trên mặt còn pha
tạp dính nhiều mảnh sành sứ.
Dưới là lớp đất sét màu xám đen, lẫn khá nhiều mảnh
gạch ngói kiến trúc cũ trong đó đã phát hiện được khá
nhiều bát đĩa, lọ sành và một mảnh gạch trang trí kiến trúc
có niên đại khoảnng thế kỷ XIII.
+ Hố 6: ngay trên sân khu Khải Thánh, cách hố 3 và
4 khoảng lOOm về phía Nam, có diộn tích gần 5m2 (2,3m X
2,3m). Diễn biến của các lớp như sau:
Lớp 1: lớp mặt dày từ Ocm -20cm, là một lớp cát đổ
lên nền đất để lát gạch vuông thời những nãm 1988 - 1990.
Lớp 2: có độ dày từ 20cm - 30cm, màu đen lẫn vào
đó là các mảnh sành và gạch ngói.
Lớp 3. Lớp kiến trúc dày từ 40cm - 150cm, có lẫn
khá nhiều mảnh gạch ngói vỡ vụn. Tại lớp này đã thu được
đầu của con chim thần trang trí trên các mái ngói thời Lý -
Trần. Song bắt đầu từ độ sâu 80cm trở xuống thì trong hố
chia thành 2 phần rõ rệt.
Phần thứ nhất: tại vách hố phía Bắc, lẫn trong gạch
ngói là một lớp đất sét lổn nhổn màu xám trắng, màu vàng.
Phần thứ hai: nửa hố thuộc vách phía Nam là lớp xáo
trộn, màu đất mùn đen với lại gạch ngói vỡ vụn ken đặc.

165
CHƯƠNG 3: VÀN MIẾU - QUỐC TÚ GIÁM MỘT QUÁ TRÌNH NHẬN BIẾT

Lớp 4: hô' đất đen có kích thước hình chữ nhật hơi
xéo dài 230cm, rộng lOOcm, sâu hơn mặt lớp 3 khoảng
50cm. Hô' 6 có độ sâu nhất là 200cm.
Dưới hô' đất đen này chỉ toàn là gạch ngói vỡ vụn, lẫn
trong đó có một lọ sứ trắng nhỏ trong đó còn dấu vôi tôi.
Chứng tỏ đây là một "bình vôi" để ăn trầu.
Qua diễn biến tầng vãn hoá ở sáu hô' đào cho thấy,
đất Khải Thánh có thể chia thành hai khu:
3.2.1.1. Khu phía Tây
Khu Tây gồm 3 hô' (1, 2, 3), có vách hô' đẹp và khá
đồng nhất. Lớp cuối cùng của các hố thường có độ sâu
230cm - 240cm; và có dấu vết cư trú của một lớp người có
niên đại sớm hơn thòi Lý Trần.
Phía trên di chỉ cư trú này xuất hiện những dấu kiến
trúc gạch khá đồ sộ, có niên đại khoảng thế kỷ XII, XIII,
XIV và những thế kỷ muộn về sau.
3.2.1.2. Khu phía Đông
Khu Đông cũng gồm 3 hố (4, 5, 6), cho thấy địa tầng
thường nông và thấp. Sâu trung bình khoảng từ 150cm trở
xuống là có nước.
Tại khu Đông các vật liệu kiến trúc mang đậm nét
kiến trúc Trần. Song các vật liệu này có góp phần xây lên
kiến trúc ở đây không hay chỉ là hố lấp? Căn cứ vào trắc

166
NHO GIÁO - ĐẠO HỌC TRÊN ĐÁT KINH KÌ (THĂNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

diện hố 5 cho thấy, có thể đây là một hô' lấp lẫn vào đó có
thể là một kiến trúc nhưng tính năng tác dụng của nó như
thế nào ta chưa hiểu được. Gần như toàn hô' 5 về phía Đông
là một khu hồ nước, có độ sâu cách mặt đất ngày nay
khoảng 2,8m.
3.2.2. Hiện vật
Trong quá trình khai quật đã thu được 22.583 mảnh
và hiện vật. Căn cứ vào con số thống kê các mảnh và hiện
vật thu được, chúng tôi đã tiến hành lập các bảng thống kê
kèm theo thuyết minh trong chương III của "Báo cáo đào
thăm dò khu Khải Thánh - Văn Miếu (Hà Nội) năm
1999", lưu tại phòng Tư liệu, Viện Kháo cổ học14. Để tiẹn
theo dõi, trong bài viết này, các tác giả chỉ đưa các bảng
thống kê đơn giản, dựa trên sự phân chia hiện vật theo chất
liệu hoặc có thể loại hình hiện vật.
Bảng 1. Tổng số hiện vật ở các hố.
Tên gọi HỐ1 Hố 2 HỐ3 Hố 4 Hố 5 Hố 6 Tổng

VLKT 300 406 234 581 267 275 2063

Đổ Dân dụng 3455 5353 3077 4350 28Ò9 1255 20349

Vật liệu khác 18 1 107 36 3 6 171

Tổng 3773 5760 3418 4967 3129 1536 22.583

“ Nguyễn Mạnh Cường, "Báo cáo đào thăm dò khu Khải Thánh - Văn Miếu
(Hà Nội) năm 1 9 9 9 " , Lưu tại Phòng Tư liệu, Viện Khảo cổ học.

167
CHƯƠNG 3: VẢN MIẾU - QUỐC TỦ GIÁM MỘT QUÁ TRÌNH NHẬN BIỂT

Các hiộn vật được chia ra thành 3 nhóm là vật liệu


kiến trúc (VLKT), đồ dân dụng (ĐDD) và chất liệu khác
(CLK)
Bảng 2. Tổng sô' hiện vật chia thành các nhóm.
Hố đào VLKT Đồ Dân Dụng VLK Tổng số
Hố 1 300 3455 18 3773
Hố 2 406 5353 1 5760
Hố 3 234 3077 107 3418
Hố 4 581 4350 36 4967
Hố 5 267 2859 3 3129
Hố 6 275 1255 6 1536
Tổng 2063 20349 171 22.583

Vật liệu kiến trúc có tất cả 2063 mảnh và hiện vật.


Trong sô' này lại chia thành 3 loại cơ bản: Ngói, gạch và
trang trí kiến trúc. Trong các loại lại chia thành các loại
nhỏ như: gạch đỏ, gạch xám, ngói đỏ, ngói xám, ngói
tráng men...
Bảng 3. Vật liệu kiến trúc.
Ngói Gạch
HỐ đào Trang trí KT
đỏ xám men đỏ xám

Hố 134 163 1 3

Hố 2 102 305 1 5

168
NHO GIÁO - ĐẠO HỌC TRẼN ĐẮT KINH KÌ (THẢNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

HỐ 3 233 63 2 4 11 12

HỐ 4 290 199 43 14 41

Hố 5 138 39 1 23 2 23

Hố 6 75 100 8 102 2

Tổng 972 869 3 80 129 2139

Theo Sự phân loại trên, nhóm hiện vật dân dụng


chiếm một số lượng lớn, trong đó ngoài đồ sành, các đồ sứ
cíng là những di vật đặc biệt. Đồ sứ ở đây thu được 7782
rrảnh và hiện vật và được bảng lập dựa trên sự phân loại
rràu men.
Bảng4. Phân loại đồ sứ theo nhóm men.
Hố hoa men Men Nước Men Men Tổng số
đào lam trắng ngọc dưa nâu đen
Hố 1 60 395 53 35 4 547
Hố 2 466 2302 14 25 15 2822
Hố 3 63 721 50 205 8 1 1048
Hố 4 90 471 127 131 19 2 840
Hố 5 241 1858 9 15 21 2144
Hố 6 87 265 5 7 2 366
Tổng 1007 6012 258 418 84 3 7782

Các vật liệu khác, tuy chỉ chiếm một số lượng nhỏ
rhững không thể không đề cập đến chúng.

169
CHƯƠNG 3: VẰN MIẾU - QUỐC TÚ GIÁM MỘT QUÁ TRÌNH NHẬN BIẾT

Bảng 5. Phân loại và thống kê các vật liệu khác.


Hố đào Xương Tién Sắt Than Gỗ Vỏ ốc Đá Tổng

Hố 1 10 1 5 1 4 21

Hổ 2 4 1 2 1 8

Hó 3 15 70 1 1 1 6 94

Hố 4 7 2 2 14 2 27

Hố 5 2 1 4 7

Hố 6 1 1 1 3

Tổng 39 71 11 4 3 20 12 160

Nhìn chung, số lượng hiện vật thu được trong khu


Khải Thánh là rất lớn. Từ sự phân loại dựa trên chất liệu,
loại hình, màu sắc của men...cho thấy chúng phản ánh
cuộc sống một thời của những cư dân sống trong thành Đại
La, sau là thành Thăng Long, Đông Đô, Hà Nội. Qua các
di vật được nghiên cứu, đã phần nào xác nhận sự có mặt
của một ngôi trường học, mà trong đó nổi lên một vấn đề:
Các thầy trò trường Giám chủ yếu là dùng hàng nội do
chính chúng ta sản xuất. Đây là một vấn đê giáo dục
truyền thống có ý nghĩa xã hội rất lớn.

3.3. Nhận thức mới từ cuộc đào


Qua những trình bày trên, chúng tôi xin đưa ra một
vài nhận thức mới về khu vực Văn Miếu (Hà Nội) như sau:

170
NIHO GIẢO - ĐẠO HỌC TRÊN ĐẤT KINH KÌ (THĂNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

3.3.1. Niên đại khởi dựng - Tốn nghi và Nhận thức


3.3.1.1. Tổn nghi lịch sử ?
Nhiều học giả trong nước và nước ngoài khi nghiên
cứu về Vãn Miếu hiện tại để suy nghĩ về một Văn Miếu -
Quốc Tử Giám thời Lý - Trần đều còn có nhiều băn khoăn
vể lịch sử khởi nguồn của di tích này. Trước tiên chúng tôi
đưa ra tám điển nghi vấn của học giả người Nga Poliakov:
- Tất cả các vua Lý đều sùng bái đạo Phật, về điểm
này Ngô Sĩ Liên đã phê phán trong Đại Việt sử ký toàn thư.
Như vậy là có sự trọng Phật bài Nho. Nhà sử học này cũng
nhắc lại ý kiến của Lê Văn Hưu trong Đại Việt sử ký, 1272
phê phán vấn đề trên của các vua Lý.
- Ngoài những tư liệu của Ngô Sĩ Liên trong Đại Việt
sử ký toàn thư về những thiết chế đầu tiên của Ngo giáo
dưới triều các vua Lý Thánh Tông và Lý Nhân Tông. Điều
này cũng được viết lại trong tác phẩm của Lê Văn Hưu
(thế kỷ XIII).
- Hơn nữa, Nho giáo dưới thời của hai vị vua này
được coi như là giai đoạn mở đầu cho sự ra đời của Đạo
Khổng ở Việt Nam. Phần lớn được nhắc tới qua cái tên Lý
Đạo Thành - một vị đại thần dưới triều vua Lý Thánh
Tông. Song duy nhất một vài nhà nghiên cứu coi đó cũng
là sự chấp nhận Khổng giáo, cũng như nhà sử học Trần
Trọng Kim trong tác phẩm Nho giáo của mình. Khi mà

171
CHUONG 3: VẢN MIẾU - QUỐC TỦ GIÁM MỘT QUÁ TRÌNH NHẬN BIẾT

Ngô Sĩ Liên phê phán Lý Đạo Thành đã đưa hồn của vua
Lý Nhân Tông đến thờ tại ngôi đền theo nghi thức của Phật
giáo. Theo cách thức hành lễ của Nho giáo thì việc thờ âm
hồn của các vị trái ngược với những gì ông đã cho xây
dựng trong ngôi đển này.
- Lại thêm một nghi ngờ nữa về tính chân xác của hai
đợt thi Tiến sĩ dưới các vương triều này qua hai vị đại
quan. Người đầu tiên là Lê Văn Thịnh trong khoa thi tiến
sĩ năm 1075 có phải thực sự là nhà Nho hay không? Ngay
chính sử gia Ngô Sĩ Liên trong tác phẩm của mình ghi
chép lại sự kiộn năm 1096 có ý định dùng ma thuật hoá hổ
để hại vua. Phải chăng các nhà Nho là những người thích
dùng những hình thức ma thuật như vậy? Người thứ hai là
Mạc Hiển Tích đỗ vào năm 1086, cũng như vậy. Trong
cuốn Đại Việt sử lược đã ghi chép về những quan hệ mờ
ám với Hoàng hậu. Chi tiết này cũng được Ngô Sĩ Liên
chép lại.
- Trong cuốn Đại Việt sử ký toàn thư có nói về việc
xây dựng Văn Miếu và là nơi học của Thái tử năm 1070. Sự
kiộn này hình như chưa có sức thuyết phục vì Thái tử mới
có 4 tuổi, còn quá nhỏ để mà theo học được những học
thuyết của Khổng Tử. Theo những ghi chép của cung đình
thì năm 1072 mới cho đắp tượng và vẽ ảnh thờ tại đây.
- Vả lại, những sự kiện lịch sử trong giai đoạn này là
những cuộc chiến tranh củng cố vương quyền cụ thể như:

172
NHO GIÁO - ĐẠO HỌC TRÊN ĐẮT KINH KÌ (THẲNG LONG - ĐỎNG ĐÔ - HÀ NỘI)

Chiến tranh chống Champa nãm 1069, chiến tranh chống


lại các tù trưởng năm 1070. Sau khi vua Lý Thánh Tông
mất, Lý Nhân Tông lên ngôi, củng cô' vương triều của
mình. Đó là những cuộc chiến trong cung giữa Hoàng thái
hậu với Hoàng hậu (1073), rồi tiếp theo là cuộc kháng
chiến chống quân xâm lược Tống (1073-1075). Như vậy
thì còn thời gian đâu mà nghĩ tới vấn đề của Nho giáo nữa?
- Trong Bộ Lịch triều hiển chương loại chí, Phan Huy
Chú (thế kỷ X V ) có nhắc tới Văn Miếu hiện tại chỉ được
làm rất muộn trong khoảng thế kỷ XV - X V II, chứ không
phải được làm từ thế kỷ XI.
- Theo ghi chép vào nam 1156, Việt sử lược có nhắc
lại đó là Khổng Miếu (đền thờ Khổng Tử). Ngô Sĩ Liên sau
đó có nhắc lại sự kiện này. Thuật ngữ này chỉ thực sự xuất
hiện sau cái niên điểm này. Các vị quan xuất thân từ Nho
học như Tô Hiến Thành, mới trực tiếp tham gia vào công
việc triều chính. Thuật ngữ Khổng Miếu là một ngôn từ
được sử dụng rộng rãi ở Trung Quốc.
Căn cứ vào các tài liộu trên tôi (Pcliakov) đưa ra hai
giả thiết nhằm lý giải những ghi chép này của Ngô Sĩ Liên
về Văn Miếu và Quốc Tử Giám cùng hai niên điểm 1070
và 1077 như sau:
Giả thiết thứ nhất là do Ngô Sĩ Liên tự tôn vinh dân
tộc mình là một quốc gia phong kiến tự chủ. Ngay từ sớm

173
CHƯONG 3: VẢN MIẾU - QUỐC TỦ GIÁM MỘT QUÁ TRÌNH NHẬN BIẾT

đã CÓ tiếp XÚ C vói đạo Khổng và tạo nên thiết chế Khổng


giáo thông qua các vị vua thời Lý như: Lý Thánh Tông
1070 và Ly Nhân Tông 1077.

Giả thiết thứ hai có thể là dưới triều đại các vua Lý
Thánh Tông, Lý Nhân Tông đã tuyên bố một hình thức
thiết chế theo Khổng giáo cho xã hội phong kiến Việt Nam
(đó là Khổng Miếu chứ không phải là Vãn Miếu - nơi học
hành thi cử của các quan lại Việt Nam). Sau này đến triều
đại khác đã đập bỏ di tích này thay vào đó một thiết chế
Trung Hoa như chúng ta thấy ngày nay...Người ta vẫn còn
nhiểu nghi ngờ về vấn đề này?
Sau học giả người Nga Poliakov, Nguyễn Khác Kham
đã viết:"...Dưới triều nhà Hậu Lê (1428-1527) nền cổ điển
học Trung Hoa được phát triển tới mức cao. Ngay sau khi
đại phá quân Minh và khôi phục nền độc lập nước nhà, vua
Lê Thái Tổ (1428 - 1433) bắt tay cải tổ thiết chế cũ và làm
lại chế độ giáo dục. Năm 1428 Quốc Tử Giám được mở lại
trên cơ sở mới à kinh đô. Sinh đồ gồm không những chỉ là
con của các quan chức mà còn là con của những người
bình dân..."?
Cho dù cả hai học giả không đưa ra một niên điểm cụ
thể song cả hai đều khá thống nhất rằng, Văn Miếu chỉ
được xây dựng vào thế kỷ XV thậm chí còn muộn hơn vài
thế kỷ vể sau.

174
NHO GIÁO - ĐẠO HỌC TRÊN ĐẮT KINH KÌ (THĂNG LONG - ĐÔNG OỔ - HÀ NỘI)

3.3.2. Kết quả l4C5


Kết quả đào thăm dò lần này ngoài những di vật tìm
thấy trong tầng văn hoá, các nhà Khảo cổ học tìm thấy
trong một cột gỗ lim trên cái nền đất sét ở H3. Đây là lần
đầu tiên các nhà Khảo cổ học dùng phương pháp xác định
niên đại 14c ở Việt Nam qua mẫu gỗ, kết quả như sau:
Mẫu 1: ký hiệu: 99.KT.H3.001:
1145 ± 5 0 theo tiêu chuẩn cũ.
1170 ± 5 0 theo tiêu chuẩn mới.
Mẫu 2: Ký hiệu: 99.KT.H3.002:
1 1 7 0 ± 5 0 theo tiêu chuẩn cũ.

1200 ± 5 0 theo tiêu chuẩn mới.


Niên đại mà các nhà khoa học trong phòng thí
nghiệm qua sử dụng nhiều loại chu kỳ bán huỷ cũ và mới
đã cho niên đại thế kỷ IX AD. Chúng ta coi đó là niên đại
gốc, để từ đó tính dung sai cho phép, chọn ra những niên
đại phù hợp vói khu di chỉ này.
Trong các hố đào như H l, H2, H3, H4, đã tìm được
vật liệu kiến trúc, đôi chỗ tìm thấy dấu vết của nền kiến
trúc. Có cái nền là nền đất nung nện chặt như H l, có cái có
thể là lớp nền lát gạch vuông hoặc chữ nhật như ở H2 và
H5, nhưng có cái lại có thể là nền đất như tại H3... Những
tư liệu này góp phần khẳng định rằng trong khu Khải

175
CHUƠNG 3: VẰN MIẾU - QUỐC TỦ GIÁM MỘT QUÁ TRÌNH NHẬN BIẾT

Thánh, ngoài cái nền của khu đền Khải Thánh được làm
vào thời Nguyễn, còn tìm được thêm được một số dấu tích
kiến trúc khác có niên đại từ Lý - Trần - Lê - Nguyễn cho
đến ngày nay. Song tất cả những kiến trúc này đều được
xây dựng trên một di chỉ cư trú có niên đại khoảng thế kỷ
IX - X sCn.
3.3.3. Nhận thức từ những hô'đào
3.3.3.1. Khu Tây Khải Thánh
Theo những kết quả đào thãm dò tại khu Khải Thánh,
có thể chia khu này ra làm hai là khu Tây và khu Đông.
Phía Tây khu Khải Thánh có một địa tầng khá sâu và
khá hoàn chỉnh. Các hô' ở khu này thường có tầng văn hoá
dày hơn 2,3m và chia thành 3 phần cơ bản:
+ Phần trên là lớp mặt với nhiều loại kiến trúc đè lên
khá phức tạp.
+ Phần giữa thường là lớp gạch ngói kiến trúc có độ
dày trung bình từ 60 - 80cm. Lẫn trong lớp gạch ngói này
là những mảnh sứ, mảnh sành lẫn lộn nhau. Những mảnh
gốm Lý - Trần nằm lẫn vói gốm sứ thế kỷ XV-XVI thậm
chí có nhiều mảnh thuộc XVII-XVIII.
+ Phần dưới nển kiến trúc là một lớp văn hoá có mầu
đen khá dày, các hiện vật thu được tại đây khá ổn định.
Theo dõi các lớp dưới thấy các hiện vật gốm sứ thường có
niên đại trong khoảng thế kỷ X- XII.

176
NHO GIÁO - ĐẠO HỌC TRÊN ĐÁT KINH KÌ (THĂNG LONG - ĐỔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

Như vậy, tại khu Tây Khải Thánh, có một hiện tượng
phổ biến là các kiến trúc gạch được xây trên một di chỉ cư
trú của một tầng lớp thị dân trước đó. Lớp cư dân này đã
tham gia vào quá trình hình thành nên khu phố Hàng Đãy
ở Thăng Long thời Lý Công uẩn hoặc có thể sớm hơn đôi
chút. Sau này do nhu cầu thành lập Vãn Miếu và Quốc Tử
Giám nên khu vực này bắt đầu được xây dựng trên quy mô
to lớn. Dẫu chưa tìm thấy chân tảng hoa sen cùng một vài
loại vật liệu kiến trúc khác...nhưng những kiến trúc ở đây
cũng là một trong những loại hình kiến trúc lớn của kinh
thành thời ấy.
3.33.2. Khu Đông Khải Thánh
Khu Đông của Khải Thánh có nhiều điều ngạc nhiên.
Qua các hô' đào cho chúng ta thấy được một khu hồ ao
rộng lớn bao quanh lấy Văn Miếu. Điều này rất phù hợp
với tấm bản đồ Hà Nội thời Hồng Đức. Văn Miếu trong
bản đồ này tựa như một ốc đảo bị bao gọn bởi các hồ nước
bốn phía. Tư liệu trong cuốn về tục thờ bất tử của TS
Nguyễn Văn Huyên năm 1944 cũng làm cho chúng ta có
một liên tưởng như vậy. Ngay trong bản tấu gửi vua Quang
Trung, các vị bồ lão làng Văn Chương cũng đã nói tới sự
ngập lụt của Văn Miếu...Vậy các hồ nước này bị lấp vào
thời điểm nào?
Các dữ liệu khảo cổ học cho hay chúng bị lấp vào
khoảng thời Lê Trung Hưng khoảng thế kỷ cuối X V II -

177
CHUÔNG 3: VẰN MIẾU - QUỐC TỦ GIÁM MỘT QUÁ TRÌNH NHẬN BIẾT

XVIII trở về sau. Nếu như giả định này mà đúng thì phải từ
thế kỷ cuối XV II trở đi, Văn Miếu bắt đầu phát triển về
hướng Đông - có nghĩa là Hồ Văn vốn là một hồ to nay bị
lấp đi và trở thành một bộ phận cấu thành của Văn Miếu.
Thêm vào đó, Văn Miếu và Quốc Tử Giám không phát
triển theo trục Bắc Nam, bởi lẽ, Hoàng thành phát triển
theo yêu cầu quy hoạch và quản lý theo một quá trình đô
thị hoá. Sự phát triển này có sự tác động không nhỏ của
các thương cảng và nền kinh tế ngoại thương thời đó.
Nhận định này có thể là xác đáng khi có một tấm bản
đồ thòi Nguyễn đầu thế kỷ X IX ghi lại khu Học Xá nằm ở
thôn Cổ Giám chạy song song với Văn Miếu (khu vực Sinh
Từ ngày nay). Theo bản đồ đó, Văn Miếu và Học Xá nằm
trong 4 thôn như Minh Giám, c ổ Giám...và khu Học Xá -
nơi ở và học của các Nho sinh các thế kỷ trước, chí ít được
biết đến vào đầu thời Nguyễn.
Khu Học Xá nay không còn nữa. Chúng đã bị người
thời sau phá huỷ thay vào đó là một quy hoạch đô thị mới.
Vào năm 1902, trong lần quy hoạch này, Văn Miếu còn có
một tên gọi khác trên bản đồ là Chùa Quạ (Pagode de
Corbeau). Cũng chính lúc ấy, hồ Văn bị tách ra khỏi Văn
Miếu bởi con đường Quốc Tử Giám, Văn Miếu bị tách ra
khỏi Học Xá bởi con đường Văn Miếu. Khu Học Xá bị
biến mất thay vào đó là những di tích mới như Đền, Chùa

178
NHO GIẢO - ĐẠO HỌC TRÊN ĐẤT KINH KÌ (THẢNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

Sinh Từ và con đường Nguyễn Khuyến hôm nay. Khu Khải


Thánh cũng bị lấn sâu vào bởi đường Nguyễn Thái Học...
Như vậy, trong quá trình đào khu Khải Thánh, các
nhà Khảo cổ học đã bước đầu hình dung được một quá
trình phát triển của Văn Miếu cho dù còn rất sơ khai.
Đào thăm dò khu Khải Thánh cho ta những nhận thức
mới về Văn Miếu và vị trí của nó trong quá trình phát triển
và đô thị hoá Thăng Long - Hà Nội. Hy vọng, trong tương
lai sẽ còn có nhiều tư liệu mới để có thể nhận diện một
Văn Miếu Lý - Trần - Lê cùng tồn tại và phát triển từ một
địa điểm ban đầu như hiện biết.

3.4. Di tích Văn Miếu trong thê kỷ X X I


Với bề dày lịch sử 995 năm kể từ khi vua Lý Thái Tổ
định đô ở Thăng Long, Thủ đô Hà Nội hiện nay còn bảo
tồn được gần 500 di tích lịch sử văn hoá đã được Nhà nước
xếp hạng, trong đó có Văn Miếu-Quốc Tử Giám-một biểu
tượng của văn hoá Việt Nam, nơi thờ kính các bậc Tiên
thánh, tiên nho và đào tạo nhân tài cho đất nước.
Sau khoa thi chữ Nho cuối cùng năm 1919, việc học
hành thi cử đã thay đổi, lại trải qua hai cuộc chiến tranh
kéo dài và phần nào do thiếu sót về nhận thức trong việc
tiếp thu và kế thưà truyền thống văn hoá dân tộc, nên khu
di tích Văn Miếu-Quốc Tử Giám không được quan tâm và

179
CHUONG 3: VẰN MIẾU - QUỐC TÚ GIÁM MỘT QUÁ TRÌNH NHẬN BIẾT

bị xâm hại nghiêm trọng. Quốc Tử Giám, nhà che bia,


Phương đình trên gò Kim Châu không còn nữa. Hồ Văn bị
lấn chiếm, thu hẹp, những công trình kiến trúc xuống cấp
trầm trọng, kết cấu gỗ bị mối mọt, mái ngói xô lệch đổ nát,
sân Đại Bái ngập úng sau mỗi trận mưa... Nét vàng son
một thời chỉ còn lại dấu tích mờ nhạt. Cả khu di tích rộng
lớn chỉ có vài người trông nom và mở cửa khi có đoàn
khách đến tham quan.
Từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI (1986), đất nước
bước vào công cuộc đổi mới, việc nhìn nhận, đánh giá
đúng giá trị để kế thừa và phát huy truyền thống vãn hoá
dân tộc cũng dược đổi mới.
Tháng 10 năm 1997, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn
Văn Linh đến thăm Văn Miếu-Quốc Tử Giám đã chỉ thị
phải tiến hành tu bổ, tôn tạo và sự dụng khu di tích phù
hợp với giá trị vốn có của nó.
Ngày 9 tháng 3 năm 1998 Thường vụ Thành uỷ Hà
Nội đã thống nhất thành lập Trung tâm hoạt động văn hoá
khoa học để tổ chức cho các nhà khoa học của Trung ương
và Hà Nội gặp gỡ, trao đổi về những vấn đề khoa học (tự
nhiên, xã hội và nhân văn) vào phục vụ đời sống xã hội,
góp phần xây dựng thủ đô và cả nước. Đồng thời, đật
Trung tâm đó ở khu di tích Văn Miếu - Quốc Tử Giám để
phấn đấu kế thừa truyền thống văn hoá dân tộc, kết hợp

180
NHO GIÁO - ĐẠO HỌC TRẼN ĐẮT KINH KÌ (THẢNG LONG - ĐÔNG ĐỔ - HÀ NỘI)

truyền thống với hiện đại, dân tộc với thời đại, góp phần
xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc
văn hoá dân tộc.
Trước tình hình khó khăn về kinh tế và đời sống của
Thủ đô năm 1988, chủ trương thành lập Trung tâm chứng
tỏ Thành uỷ, Ưỷ ban nhân dân Thành phô' Hà Nội thực sự
coi trọng vai trò của vãn hoá-khoa học trong công cuộc đổi
mới và xây dựng Thủ đô.
Ngày 9 tháng 5 năm 1988, Trung tâm hoạt động
vãn hoá khoa học Vãn Miếu-Quốc Tử Giám được chính
thức khai trương, theo Quyết định của Uỷ ban nhân dân
Thành phố Hà Nội, với chức năng nhiệm vụ như sau :
1. Quản lý khu di tích Văn Miếu - Quốc Tử Giám
theo Pháp lệnh Bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử văn hoá và
danh lam thắng cảnh của Nhà nước.
2. Tổ chức các hoạt động khoa học, văn hoá nghệ
thuật phục vụ sự nghiệp xây dựng và phát triển Thủ đô.
3. Tổ chức hướng dẫn khách tham quan du lịch.
4. Lập quy hoạch bảo vệ và tôn tạo khu di tích. Trang
bị những phương tiện cần thiết nhằm phát huy tác dụng và
đáp ứng yêu cầu hoạt động khoa học, văn hoá nghệ thuật.
Trung tâm hoạt động văn hoá khoa học Văn Miếu -
Quốc Tử Giám đã và đang thực hiện tốt những nhiệm vụ
chuyên môn do ngành Văn hóa và UBND thành phố giao
cho. Chỉ mới có 17 năm hoạt động, Trung tâm đã cùng với

181
CHƯONG 3: VẢN MIẾU - QUỐC TỦ GIÁM MỘT QUÁ TRÌNH NHẬN BIẾT

các Cơ quan chuyên môn tu sửa và xây mói lại hai dãy nhà
bia, phát hiện thêm được một số rùa đá đội bia nâng số bia
trong di tích lên quá con sô' 82, đã tu bổ nhiều hạng mục
trong khu di tích. Đặc biệt, việc triển khai kè và nạo vét Hồ
Văn- trả lại Hồ Văn cho tổng thể khu di tích đang được dư
luận quan tâm và hoan nghênh. Ngoài ra trung tâm còn
hướng dẫn cho hàng trăm ngàn khách du lịch quốc tế từ
các nước tới hàng vạn khách tham quan từ các tỉnh trong
nước tới đây.
Sau hơn 17 năm hoạt động, mặc dù thời gian chưa
nhiểu, nhưng những công việc đã làm được và những vấn để
đang được đạt ra có ý nghĩa lón lao đối với khu di tích lịch
sử văn hoá tiêu biểu và quan trọng của Thủ đô và cả nước.
3.4.1.Quản lý, bảo vệ và tôn tạo khu di tích
Di tích lịch sử - văn hoá Văn Miếu - Quốc Tử Giám
là tinh hoa của văn hoá dân tộc, là tài sản của quốc gia đã
được Nhà nước công nhận để lưu giữ, tu bổ, tôn tạo và phát
huy giá trị trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Mặc dù khu di tích ở trung tâm Thủ đô, diện tích lớn,
tường thấp, xung quanh là đường phố ồn ào sôi động, mỗi
ngày có hàng trăm lượt khách trong, ngoài nước đến tham
quan, nhưng Trung tâm đã hoàn thành tốt nhiệm vụ
của mình.
Sau khi được Bộ Văn hoá thông tin phê duyệt Luận
chứng kinh tế kỹ thuật tu bổ, tôn tạo và khai thác khu di

182
NHO GIẢO - ĐẠO HỌC TRỀN ĐẤT KINH KÌ (THĂNG LONG - ĐỔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

tích năm 1991, việc tu bổ, tôn tạo với quy mỏ lớn đã và
đang được thực hiện tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám.
Do có kế hoạch chu đáo, nghiên cứu thận trọng, thi
công đảm bảo chất lượng và mỹ thuật nên các hạng mục
công trình đạt chất lượng cao và phát huy tác dụng tốt.
Toàn bộ khu di tích không còn bị ngập nước sau mỗi trận
mưa, điện Đại Thành được sơn son thếp vàng rực rỡ. Dưới
bóng cây cổ thụ là những thảm cỏ mượt mà. Kế hoạch
dựng lại nhà bảo quản 82 tấm bia Tiến sỹ đã được các nhà
khoa học, các địa phương và các dòng họ có các vị tiến sỹ
được ghi danh ở Văn Miếu và dư luận quan tâm đến việc
bảo vê và phát huy truyén Ihống van hoá dan tộc lất hoan
nghênh, nhiệt tình ủng hộ.
Công trình này được Công ty American express của
Mỹ tài trợ 70.000 USD thông qua quỹ Hoà giải Đông
Dương. Đó cũng là một sự kiện có ý ngiĩĩa trong quan hộ
Việt-Mỹ đang được cải thiện.
Văn Miếu - Quốc Tử Giám là khu di tích lớn, gồm
nhiều hạng mục công trình. Luận chứng kinh tế kỹ thuật
này được chia thành 2 giai đoạn thực hiện:
- Giai đoạn 1 (1991-1996): Tu bổ các hạng mục công
trình cổ.
- Giai đoạn 2 (1997-2000): Tôn tạo Hồ Văn, vườn
hoa Giám và xây dựng công trình mới ở khu Thái học để

183
CHUONG 3: VẢN MIẾU - QUỐC TÚ GIÁM MỘT QUÁ TRÌNH NHẬN BIẾT

tôn vinh vần hoá dân tộc. Các công trình ở giai đoạn này
đang được khẩn trương thực hiện nhằm thiết thực kỷ niệm
990 năm và 1000 năm Thăng Long - Hà Nội.
Được sự quan tâm chỉ đạo của UBND Thành phố Hà
Nội và Bộ Văn hoá thông tin, một khu Thái học đường với
kết cấu hình chữ nhị đã được xây dựng trên nền Khải
Thánh cũ, vói công năng phù hợp của một Thủ đô trong
giai đoạn công nghiệp hoá hiện đại hoá .
3.4.2. Di tích Văn Miếu - Quốc Tử Giám tiềm năng
và hiện thực
Những năm qua, do nhu cầu nội dung của công tác tu
bổ di tích quá bé bôn, những ưu lien irong công lác tu bổ di
tích vẫn là cứu vãn, chống xuống cấp, chống sụp đổ, mất
mát... do đó vấn đề khai thác di tích ít có điều kiện để thực
hiện. Càng ngày, nhu cầu thăm viếng, sử dụng, sinh hoạt tại
các di tích ngày càng tăng mà phần lớn mang tính tự phát.
Do đó vấn đề tổ chức khai thác, phát huy tác dụng di tích
trong đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân là một vấn để
rất cấp bách nhất là trong bối cảnh thực hiện Nghị định
87/CP của Chính phủ và Chương trình quốc gia vể bảo tồn
và chống xuống cấp di tích của Bộ Vàn hoá thông tin.
Mặt khác, nguồn thu từ di tích sẽ dùng để đầu tư trở
lại cho việc bảo dưỡng, tu bổ chúng và từng bước tạo
nguồn thu đáng kể cho ngân sách Nhà nước. Sau khi cứu
vãn, tu bổ các di tích một cách cơ bản, mức đầu tư để duy

184
NHO GIẢO - ĐẠO HỌC TRÊN ĐẮT KINH KÌ (THẰNG LONG - ĐÔNG Đ ổ - HÀ NỘI)

trì di tích sẽ giảm dần theo thời gian, ngược lại nguồn thu
từ di tích sẽ tăng dần lên. Có thể thấy rõ điều này qua thực
tế công tác bảo tồn tu bổ di tích của rất nhiều nước trên thế
giới và trong khu vực.
Như vậy, nếu nửa đầu thập kỷ 90 của thế kỷ X X , đã coi
trọng và làm được nhiều việc trong công tác bảo tồn tu bổ
các di tích, thì những năm tới của nửa sau thập kỷ này, cần
đầu tư một cách đúng đắn cho việc tu bổ và khai thác chúng.
Công tác này sẽ đóng góp một cách tích cực cho việc chuẩn
bị hành trang của chúng ta khi bước vào thế kỷ XXI.
Tiềm năng và tính khả thi của việc khai thác khu di
tích Văn Miêu năm trong bối cánh chung của các di tích và
tình hình kinh tế xã hội đất nước, khu di tích Văn Miếu-
Quốc Tử Giám có tiềm năng và đang đứng trước nhu cầu
rất lớn về khai thác trong đời sống xã hội ngày nay. Nhưng
còn hơn thế, khu di tích Văn Miếu - Quốc Tử Giám có
những giá trị kiệt xuất về lịch sử, văn hoá với những đặc
điểm rất đặc biệt nên tiềm năng khai thác khu di tích này
lại đậm nét và khả thi hơn. Đó là v ì :
- Văn Miếu - Quốc Tứ Giám là một di tích lịch sử
văn hoá có giá trị đặc biệt, tầm cỡ quốc gia, là một trọng
điểm tham quan, du lịch vãn hoá của Việt Nam.
- Văn Miếu-Quốc Tử Giám nằm ở vị trí ngay gần trung
tâm của Hà Nội, rất thuận lợi cho việc đi lại, tiếp cận.

185
CHUƠNG 3: VẰN MIẾU - QUỐC TỦ GIÁM MỘT QUÁ TRÌNH NHẬN BIẾT

- Văn Miếu-Quốc Tử Giám đã được đầu tư những


bước rất cơ bản và thực hiện có hiệu quả trong kế hoạch tu
bổ, tôn tạo từ 1991 đến 2005.
- Văn Miếu-Quốc Tử Giám có điéu kiện rất thuận lợi
về đất đai: Hồ Văn, vườn hoa Giám và đặc biệt là khu Thái
học... là một quỹ đất phong phú cho phép Trung tâm
HĐVHKH Văn Miếu - Quốc Tử Giám khai thác, phục hổi
các nét văn hoá truyền thống vào những ngày đầu xuân
hàng năm.
- Văn Miếu-Quốc Tử Giám là đối tượng của tất cả
các lứa tuổi (từ thiếu nhi đến người cao tuổi); của nhiều
lĩnh vực khác nhau (từ văn hoá, giáo dục, tín ngưỡng đến
khoa học) và của mọi người từ khắp nơi (trong nước và
quốc tế).
- Hoạt động trong Văn Miếu - Quốc Tử Giám là
những hoạt động đậm đà bản sắc dân tôc, lĩnh vực luôn
được xã hội quan tâm, coi trọng và đề cao.
Tất cả các vị lãnh đạo cao cấp nhất của Đảng và
Chính phủ ta đều đã đến thăm và làm việc tại Văn Miếu -
Quốc Tử Giám. Sô' lượt các vị nguyên thủ quốc gia trên thế
giới, các khách cao cấp của nhà nước Việt Nam đến khu di
tích này vào loại nhiều nhất so với các di tích khác trong cả
nước. Riêng khách đến Văn Miếu - Quốc Tử Giám cấp
Quốc hội, Hạ nghị viện của các nước trên thế giới là trên

186
NHO GIÁO - ĐẠO HỌC TRẼN ĐẮT KINH KÌ (THẢNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

vài ngàn người. Khách đến Văn Miếu - Quốc Tử Giám từ


trên 70 nước của tất cả các châu lục khác nhau.
Các hoạt động tổ chức tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám
rất đa dạng trong đó có các lễ hội truyền thống, kỷ niệm
danh nhân văn hoá, hội thảo khoa học, gặp mặt các giới trí
thức, sinh hoạt các câu lạc bộ mang tính dân tộc. Tại đây
còn thường xuyên tổ chức ca nhạc dân tộc phục vụ khách
có nhu cầu.
Nhìn chung, các hoạt động văn hoá khoa học tổ chức
tại Văn Miếu-Quốc Tử Giám rất phong phú, mang đậm
tính văn hoá truyền thống và ngày càng phát triển. Điều đó
càng chứng minh cho tiém năng và tính khá thi của việc
khai thác, phát huy tác dụng tích cực của khu di tích này.

187
NHO GIẢO - ĐẠO HỌC TRÊN ĐẤT KINH KÌ (THĂNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

Chương IV
Chế độ học hành thi cử
của Nho giáo trên đất Kinh kỳ

41. HỌC TẬP CỦA NHO SINH DƯỚI THỜI PHONG KIẾN
Trường Giám hay Quốc Tử Giám nằm phía sau nhà
Văn Miếu hay đền thờ Khổng Tử. Ban đầu trường còn bé
S ÌU này được mở rộng dần ra, và quy mô càng ngày càng
bề thế hơn. Hiện tại khu vực “lều chõng” của các sĩ tử đã
tiở thành khu Khải Thánh dưới triều Nguyễn và nay là
một khu lưu niệm thờ những người có công với Văn Miếu
như: Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông, Chu Văn An và Lê
Thánh Tông....
Qua sử sách chúng ta tạm hình dung vài nét về ngôi
tường nơi đã đào tạo ra rất nhiều nhân tài cho đất nước ta
rhư: Lê Văn Thịnh, Lê Văn Hưu, Chu Vãn An, Mạc Đĩnh
Chi, Trương Hán Siêu, Lê Quát, Ngô Sĩ Liên, Lương Thế
vinh, Lê Quý Đôn, Ngô Thì Nhậm... Đó là những con
Igười có hoàn cảnh xuất thân khác nhau song đều đã học

189
CHƯƠNG 4: CHẾ ĐỘ HỌC HÀNH THI c ủ CỦA NHO GIÁO TRÊN ĐẮT KINH KỲ

hành, đỗ đạt tại đây - Trường Đại học Quốc gia đầu tiên
của Việt Nam.
Trước hết về nhân sự hoạt động điều hành của nhà
trường, tuy có thay đổi theo các triều đại khác nhau, song
đại thể lấy thòi Lê làm chuẩn thì gồm có các quan sau:
- Quốc Tử Giám Tế tửu: chức này như chức vụ Hiệu
trưởng trường đại học ngày nay nhưng lại kiêm cả việc chủ
lễ tại Vãn Miếu.
- Quốc Tử Giám Tư nghiệp: chức này gần giống với
chức Hiộu phó ngày nay.
- Quốc Tử Giám Giáo thụ: phụ trách việc giảng dạy.
Cùng đảm nhiộm việc giảng dạy còn có các Trực giảng,
Trợ giáo. Ngoài ra, có thời kỳ còn đặt ra các chức như:
Ngũ kinh bác sĩ, mỗi vị chuyên nghiên cứu chuyên sâu về
một bộ kinh trong Ngũ kinh của Nho giáo ngày ấy là Kinh
Thi, Kinh Thư, Kinh Dịch, Kinh Lễ, Kinh Xuân Thu để
dạy cho các Nho sinh.
Các Giám sinh hay học trò trường Quốc Tử Giám
được chia thành 3 hạng (tam xá) là:
- Thượng xá sinh: mỗi học sinh dạng này học bổng là
10 quan tiền một tháng.
- Trung xá sinh: mỗi học sinh dạng này học bổng 9
quan tiền một tháng.

190
NHO GIẢO - ĐẠO HỌC TRÊN ĐẤT KINH KÌ (THẢNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

- Hạ xá sinh: mõi học sinh dạng này được lĩnh học


bổng 8 quan tiền một tháng.
Được tuyển vào làm giám sinh Quốc Tử Giám là
những người đã đỗ thi Hương, qua một kỳ kiểm tra ở Bộ
Lễ, nếu thành tích xuất sắc thì được vào học tại Quốc Tử
Giám để chuẩn bị cho kỳ thi Hội.
Thời gian học tập ở Quốc Tử Giám là 3 năm.
Hình thức học tập chủ yếu là nghe giảng sách, làm
văn và bình văn. Ngoài các giám sinh Quốc Tử Giám, sĩ tử
các nơi về kinh đô học tập để chờ thi Hội cũng có thể ghi
tên đến nghe giảng bài và bình văn tại Quốc Tử Giám. Vì
vậy các buổi giảng văn và bình văn ở Quốc Tử Giám là
những buổi sinh hoạt văn hoá học thuật rất sôi nổi lý thú.
Trong một tác phẩm, nhà văn Phạm Đình Hổ có viết:
“Khoảng năm Giáp Thìn (1784-1785) đời Cảnh Hưng, ta
mới ra du học tại đất Kinh kỳ, cứ mỗi tháng trước ngày sóc
vọng một ngày, thì nhà Quốc học (nhà Giám Hà Nội) có
mở cuộc bình văn. Ta có theo các bậc cha anh xuống nghe
hình văn thì thấy trên thềm, khoảng giữa ngoảnh mặt về
phía Nam, có trải 3 cái trúc tịch. Ở trên là quan Tri giám,
ngồi ở giữa là quan Tham tụng và quan Hành tham tụng
ngồi, ở dưới là các quan bồi tụng ngồi. Các quan Thị lang
Tham đô thì ngồi phía Đông, ngoảnh mặt về phía Tây. Còn
các người khác đều ngồi ở phía Tây mà ngảnh mặt về phía

191
CHUONG 4: CHẾ ĐỘ HỌC HÀNH THI c ử CỦA NHO GIẢO TRÊN OẤT KINH KỲ

Đông. Chiếu người bình văn ngồi phía Tây. Lúc bình vãn,
các quan chính phủ ngồi giữa chủ trì, các quan ngồi chiếu
phía Đông thì thỉnh thoảng bàn bạc, cân nhắc. Lệ cũ vẫn
như thế. Lúc bấy giờ quan Thái phó quận công Nguyễn
Hoãn lại mới được triệu ra làm quan Tri giám Quốc Tử
Giám, ngồi chiếu trên, khoảng giữa rồi đến liệt hầu Bùi
Huy Bích lấy chức Hành tham tụng ngồi chiếu giữa. Võ
nghị Uông Sĩ Diễn, Mộ trạch Võ Huy Dĩnh, Thu hoạch
Phan Cốm, An Vĩ Trần Xán đều lấy chức Bồi tụng ngồi
chiếu dưới. Chiếu phía Đông thì Lý Trần Quán, Nguyển
Đình Trạc. Còn từ Lê Huy Tiém trở xuống đều ngồi ở
chiếu phía Tây. Lúc bình vân Ihì tiếng Hoàng Vĩnh Trân
rất trong, rất vang, tiếng Nguyễn Cầu rõ ràng, Thiều Sưởng
thì đọc không nghe ra gì cả. Còn cái quyền đánh lên nhắc
xuống, lấy hay bỏ thì chỉ Bùi Huy Bích quyết định, thứ đến
các quan bồi tụng cũng có bàn bạc, cân nhắc. Duy quan
Tri giám Nguyễn Hoãn thì thuỷ chung nín lặng, không nói
câu nào, thỉnh thoảng chỉ cười hi hí mà thôi. Ta (tức tác
giả) lấy làm ngờ, hỏi các bạn bè thì ai cũng cười, không
bảo rõ. Ta lại càng ngờ, sau hỏi đến các bậc lão thành thì
có người bảo rằng: “Nguyễn Công học vấn không được
học trò phục, cho nên lúc bình văn ở nhà Giám, không tỏ ý
khen chê gì cả”, cũng có người bảo: “Nguyễn Công khi
tuổi trẻ, vì là con nhà tướng, được đỗ Hương nguyên, về

192
NHO GIẢO - ĐẠO HỌC TRÊN ĐẤT KINH KÌ (THẢNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

sau lại đỗ Hội nguyên, văn hai kỳ thi ấy đều không phải tự
Nguyễn Công làm ra”. Đó đều là lời truyền văn như thế,
ghi lại đây để tham khảo.
Ngày bình văn ở nhà Giám, quan Tri giám làm chủ
tọa. Lúc mới đến hội họp, quan Tri giám đứng ở phía Tây,
chiếu giữa, quan Tham tụng, quan Bổi tụng thì đều đứng
xế về phía Đông Nam chiếu mình ngồi, các quan ngồi ở
chiếu phía Đông thì đứng về chiếu phía Đông của mình.
Quan Tri giám lúc bấy giờ mói hướng vào 2 chiếu giữa vái
chào mời ngồi, quan Tham tụng, quan Bồi tụng đều vái
đáp lại. Rồi quan Tri giám lại vái mòi chiếu phía Đông,
các quan thị lang Iham đo đẻu vái đáp lại, xong đều ngồi
lên chiếu theo thứ tự. Chiếu giữa và chiếu phía Đông thì
hộp trầu ống súc, bầy đủ mỗi vị quan viên một bộ, còn
chiếu phía Tây thì mỗi chiếu 2 hộp trầu, 2 ống súc. Mặt
trời đứng trưa, quan Tri giám sai nha dịch bảo lính lệ sửa
soạn cơm trưa, cỗ bàn cũng lịch sự lắm. Cứ lệ thì do nhà
bếp riêng quan Tri giám làm cỗ, mà tiền thì dân tạo lệ
cung ứng và lấy tiền thuế cá hồ Huy Vãn1”.
Nội quy sinh hoạt học tập tại Quốc Tử Giám khá là
chặt chẽ. Là học sinh nội trú, các giám sinh nếu vắng mặt
qua đêm hoặc nghỉ học 1, 2 ngày đểu phải xin phép. Vi
phạm nội quy sẽ bị quở trách, đuổi học hoặc bắt sung

Phạm Đình Hổ; Vũ Trung tuỳ bút.

193
CHƯƠNG 4: CHẾ ĐỘ HỌC HÀNH THI c ủ CỦA NHO GIÁO TRẼN ĐẤT KINH KỲ

quân. Cũng có chế độ ngoại trú cho các giám sinh con em
nhà khá giả, nhưng trong Quốc Tử Giám vẫn dành cho họ
những phòng riêng, hàng ngày phải đến học tập.
Thông thường để có thể dự các kỳ thi Hương rồi vào
Giám để tiếp tục học tập chuẩn bị thi Hội, người đi học
phải làm quen với chữ Hán (nói cho đầy đủ là ngôn ngữ
văn tự Hán và kinh điển Nho gia) từ thuở ấu thơ. Việc học
hành “dùi mài kinh sử để chờ kịp khoa này” có thể kéo dài
10 đến 15 nãm hoặc lâu hơn nữa. Mục đích cuối cùng là
phải thi đỗ đại khoa, để có thể được bổ dụng vào các chức
trọng yếu, do đó mới có thể đem tài năng học vấn ra “phò
vua giúp nưóc”.
Nhìn chung quá trình học tập ấy chia thành 2 bước:
* Bước một: Tập trung nhận thức văn tự Hán (về cả 3
mặt hình thể, âm học, ý nghĩa), tập viết chữ Hán, tập xếp
chữ, đặt câu theo vần và có đối. tất nhiên là ở mức độ đơn
giản.
Trong bước này, trẻ con mới bắt đầu làm quen với
sách vở đã phải học những câu như: “Nhân chi sơ tính bản
thiện”(người ta sinh ra ở đời tính vốn lành) hoặc: “Thiên tử
trọng hiền hào, văn chương giáo nhĩ tào” (nhà vua trọng
người hiển tài, văn chương này dạy dỗ chúng bay)...
* Bước thứ hai: Sau khi đã học được vốn chữ Hán kha
khá. Lúc này tuổi đã lớn, người học sẽ phải nghiên cứu thật

194
NHO GIẢO - ĐẠO HỌC TRÊN ĐẤT KINH KÌ (THẮNG LONG - ĐÔNG ĐỔ - HÀ NỘI)

kỹ các kinh sách của Nho gia và một số sách chuyên để vế


phép làm văn chương song song với việc “dùi mài kinh sử”
là việc tập làm thơ làm văn.
Cuối cùng người học tập trung sức lực vào việc luyện
lối “văn chương cử tử”, làm văn theo những hình thức, quy
cách cố định, chuyên dùng cho việc thi cử.
Đó là vài nét về quá trình học chữ Hán của học sinh
Việt Nam thời phong kiến mà người xưa thường có câu:
“Mười năm đèn sách”
Những sách thường dùng để giảng dạy cho một học
trò từ bé đến lớn là: Tam tự kinh, Sơ học vấn tân, Au học
ngũ ngôn thi, Minh đạo gia huấn...Ngoài ra còn có một sỏ
sách biên soạn theo lối đối chiếu hai thứ tiếng Hán - Việt,
Tam thiên tự, Ngũ thiên tự...
Các sách thường dùng dạy học trong giai đoạn 2 cũng
rất là nhiều, danh mục tuy không được quy định rõ ràng,
nhưng nhất thiết phải có là: Tứ Thư, Ngũ Kinh, các tuyển
tập thơ phú cổ văn và mấy pho Bắc sử.
Trong các sách này, Tứ Thư và Ngũ Kinh là quan
trọng nhất. Tứ Thư gồm: Đại Học, Trung Dung, Luận Ngữ,
Mạnh Tử.
Đại Học và Trung Dung vốn là 2 thiên trong Lễ ký
tức Kinh Lễ. Nội dung chủ yếu của Đại Học là nói về đạo
làm người quân tử có nghĩa là đạo làm người của giai tầng

195
CHƯONG 4: CHẾ ĐỘ HỌC HÀNH THI c ủ CỦA NHO GIÁO TRÊN ĐẤT KINH KỲ

đại SĨ phu phong kiến. Còn Trung Dung thì tuyên truyền
cho thuyết ”Thiên Phú” “Thiên Lương”(tài năng tư cách
đạo đức do trời phú bẩm) phù hợp vói những quan điểm
đạo đức luân lý phong kiến, mang mầu sắc duy tâm.
Luận Ngữ: Bộ sách kinh điển quan trọng của Nho
gia, được biên soạn vào khoảng đầu Chiến Quốc (480-221
tCn) ghi lại lời nói và việc làm của Khổng Tử cùng một sô'
môn đồ khác. Sách gồm 20 thiên, mỗi thiên lại chia thành
nhiều chương, nội dung chủ yếu bao gồm các quan điểm
của Khổng Tử và các môn đồ với vấn đề chính trị, đạo đức,
luân lý, tu dưỡng học tập...bao trùm lên tất cả các quan
điểm ấy là chữ “Nhân”. Tuy Khổng Tử chưa bao giờ giải
thích một cách tập trung, hệ thống về chữ “Nhân”, nhưng
qua các đoạn đề cập tới chữ nhân nằm rải trong bộ Luận
Ngữ, chúng ta có thể tóm thành mấy quan điểm sau: Gốc
của Nhân là Hiếu và Đễ. Hiếu nhằm giữ vững mối quan hệ
dọc trong tông tộc. Từ Hiếu và Đễ sẽ đi tới ái nhân (yêu
thương người) tới gò mình theo lễ, tới không phạm thượng,
không làm loạn. Qua đó chúng ta thấy được rằng chữ Nhân
do Khổng Tử và các môn đồ đề xướng nhằm bảo vệ quyền
lợi của giai cấp thống trị.
Những luận điểm này sau trở thành “khuôn vàng
thước ngọc” trong việc cai quản dân chúng của giai cấp
thống trị phong kiến.

196
NHO) GIÁO - ĐẠO HỌC TRÊN ĐẤT KINH KÌ (THĂNG IONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

Mạnh Tử: cũng là bộ sách kinh điển quan trọng của


Nho gia, được xếp hàng thứ 2 sau Luận Ngữ của chính Mạnh
Tử <372-289 tCn) và một số môn đồ biên soạn. Tư tưởng của
Mạnh Tử là kế thừa Khổng Tử nhưng có cải biên đi đôi chút
cho phù hợp với thực tế xã hội đương thời. Cái cốt lõi của
Mạnh Tử là Vương đạo, Nhân chính và Tính thiện.
Vương đạo là đối lập với Bá đạo. Theo ông “dùng sức
mạnh giả mượn điều nhân là bá...thực tâm dùng đức độ để
thi hành điều nhân là vương”. Vương đạo gắn liền với nhân
chính. Về đại thể, nội dung của nhân chính bao gồm mấy
điểm sau đây: giảm hình phạt, nhẹ sưu thuế, tạo điều kiện
để chơ dan được an cư lạc Iighiôp, yôn tâm sản xuất. Trôn
cơ sở dân có “của ăn của để” mà người thường gọi là hằng
sản. Mạnh Tử chủ trương đẩy mạnh giáo hoá dân chúng
theo các quan điểm luân lý đạo đức Nho gia, để dân có
được cái mà ỏng cho là hằng tâm, nghĩa là vui lòng tự
nguyện cái trung hiếu tín nghĩa.
Trong khi trình bày các quan điểm về vương đạo và
nhân chính, Mạnh Tử nhiều lần phê phán nghiêm khắc một
sô' hành vi tàn bạo của bọn thống trị đương thời. Sự phê
phán này chúng ta thấy biểu hiện khi thì những mẩu
chuyện ngụ ngôn, khi thì những lời lẽ chỉ trích gay gắt.
Mục đích cuối cùng của sự phê phán này chỉ nhằm bảo vệ
quyền lợi chính đáng của giai cấp thống trị.

197
CHUONG 4: CHẾ ĐỘ HỌC HÀNH THI c ủ CỦA NHO GIÁO TRẼN ĐẮT KINH KỲ

Cũng như Luận Ngữ, sách Mạnh Tử chiếm một vị trí


rất quan trọng trong hệ thống sách kinh điển của Khổng
giáo, được các triểu đại phong kiến Trung Hoa rất coi trọng.
Khi giảng dạy tại Việt Nam ngoài những sách trên
chúng ta còn thấy một số bản tóm lược hoặc chú giải thêm
về Tứ Thư của Chu An (hiện đã mất), “Tứ Thư ước giải”
của Lê Quý Đôn, “Tứ Thư bị giảng” của Nguyễn Văn Siêu,
“Tứ Thư văn tuyển" của Đặng Huy Trứ hoặc một loạt sách
Tứ Thư gọi là sách “Quan Hành” của Bùi Huy
Bích...những tác phẩm này giản lược hoá những quan điểm
của Nho gia làm cho học trò Việt Nam dễ học và dễ thuộc
Ngũ Kinh bao gồm: Kinh Thi, Kinh Thư. Kinh Lễ,
Kinh Dịch và Kinh Xuân Thu.
* Kinh Thư (còn gọi là Thư: thượng thư) là một tập
tài liệu lịch sử của Trung Hoa cổ đại, trong đó có nhiều
văn kiện lịch sử, chính trị quân sự hành chính...được coi là
của các vua chúa trước thòi Xuân Thu - Chiến Quốc.
Nhiều tài liệu có thể người đời sau làm thêm.
* Kinh Dịch (còn gọi là Dịch, Chu Dịch), một tập
sách đời sau dùng vào việc bói toán, chia làm 2 phần: phần
Kinh xuất hiện trước, tương truyền trong đó Văn Vương
nhà Chu soạn ra, gồm 64 quẻ (quái). Mỗi quẻ trước hết ghi
hình quẻ (quái hình), tên quẻ (quái danh), sau đó đến lời
quẻ (quái từ), mỗi quẻ lại có 6 hào; mỗi hào trước hết có
hào để, sau đó là hào từ.

198
NHO GIẢO - ĐẠO HỌC TRÊN ĐÁT KINH KÌ ƠHĂNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

Phần truyện xuất hiện muộn hơn, chắc là do nhiều


người soạn thảo, trong đó có một bộ phận có lẽ ra đời vào
khoảng Chiến Quốc, chia thành 7 loại: Thoán, Tượng, Vãn
Ngôn, Hệ từ, Thuyết quái, Tự quái, Tạp quái, đều là những
lời giải thích phần kinh, tương truyền phần lớn là do
Khổng Tử làm ra, được coi là một tác phẩm triết học xuất
sắc của Trung Hoa cổ đại với những học thuyết về âm
dương và lẽ biến dịch. Những quan điểm triết học của
những tác giả phần Dịch truyện chủ yếu được trình bầy
dưới hình thức thần bí, siêu hình, trong đó có nhiều luận
điểm lộ rõ ý đồ củng cố vai trò của giai cấp thống trị
phong kiến.
* Kinh L ễ (còn gọi là Lễ, Lễ ký) là một bộ sách khá
phức tạp về nội dung cũng như về hình thức bố cục. Trong
Lễ ký, người ta thấy có những phần ghi chép phép tắc chế
độ lễ nghi, cũng có những phần ghi chép ngôn luận hành
động của Khổng Tử về một số nhân vật đương thời. Nói
chung sách chứa đựng nhiều giáo điều phong kiến nhưng
bên cạnh đó cũng hé lộ cho người đời sau thấy được nhiều
tư liệu quan trọng về tư tưởng xã hội chính trị, luân lý đạo
đức, chế độ tông pháp, quan hệ giai cấp, tình trạng xã
hội...của Trung Hoa cổ đại.
* Kinh Xuân Thu vốn là bộ sử biên niên của nước
Lỗ-quê hương của Khổng Tử, chép các sự kiện xẩy ra ở
nước Lỗ và một số nước chư hầu khác từ đời Lỗ Ân Công

199
CHUƠNG 4: CH Í ĐỘ HỌC HÀNH THI c ủ CỦA NHO GIÁO TRẼN ĐẮT ICINH KỲ

nẳm đầu đến đời Lỗ Ai Công năm thứ 14 (từ 722 đến 453
tCn). Sách này tương truyền do đích thân Khổng Tử chỉnh
lý, nhằm mục đích chính danh định phận và bao biếm
(khen và chê). Sự chính định danh phận và khen chê đó
biểu lộ ra sách dùng chữ, ở cách ghi việc. Cho nên đòi sau,
đã có người nói: được Xuân Thu khen một chữ thì vinh
hạnh hơn được ban áo gấm; bị Xuân Thu chê một chữ thì
khổ nhục hơn phải chịu búa rìu. Tuy vậy văn trong Xuân
Thu quá ngắn gọn, súc tích nhiều khi không rõ ràng nên
khó hiểu, vì thế kèm với sách Xuân Thu còn có sách Tả
truyện, tương truyền do Tả Khâu Minh dựa vào Xuân Thu
do Khổng Tử đã chỉnh lý mà soạn ra.
Tả truyẹn khỡng rieng gì một bộ sử có nội dung
phong phú mà đồng thời còn là một tác phẩm tản văn nổi
tiếng. Noi theo các tiêu chuẩn về chính danh, định phận và
bao biếm của Xuân Thu, tác giả Tả Truyện đã dùng ngòi
bút vừa nghiêm khắc chặt chẽ vừa uyển chuyển linh hoạt
để tái hiện bộ mặt lịch sử của cuộc đấu tranh rộng lớn,
phức tạp ác liệt nhằm tranh đoạt bá quyền và kiêm tính lẫn
nhau của bọn thống trị các nước chư hầu...
Tư tưởng của các tác giả Tả truyện là tư tưởng Nho
gia vì vậy khi trình bày các sự kiện lịch sử, khi khen chê
các nhân vật, các đặc trưng của các tư tưởng Nho gia đã
bộc lộ tập trung và rõ nét. Xuân Thu tả thị truyện đã trở
thành khuôm mẫu cho các bộ lịch sử theo trường phái Nho
gia này ở các thời sau.

200
NHO GIẢO - OẠO HỌC TRÊN ĐẤT KINH KÌ (THĂNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

* Kinh Thi (còn gọi là Thi) một tuyển tập thơ ca ra


đời sớm nhất của Trung Hoa cổ đại, bao gồm những tác
phẩm xuất hiện từ đầu đời Chu cho thấy Xuân Thu được
chỉnh lý sắp xếp thành tập cũng vào thời đại này, và tương
truyền cũng qua tay Khổng Tử chỉnh lý.
Toàn bộ Kinh Thi gồm 305 bài thơ chia làm 3 phần:
Phong, Nhã và Tụng.
Tụng: nói chung đều là tế ca diễn tấu trong tông miếu
của nhà vua, bao gồm Chu tụng 31 bài, Lỗ tụng 4 bài,
Thương tụng 5 bài. Nội dung chủ yếu là “ca tụng công
đức”, “đem thành công báo với tiên tổ, thần minh”......khô
khan nghco nàn, ít giá trị nhất trong toàn bộ Kinh Thi.
Nhã: có lẽ là tên loại nhạc khúc được diễn tấu để góp
vui trong các cuộc yến tiệc, chia làm Đại Nhã và Tiểu Nhã.
Phần Nhã gồm 105 bài có bài là thơ tự sự, có bài là
thơ trữ tình, bài thì ca ngơi các sự tích anh hùng, bài thì
châm biếm nền thống trị đương thời, có nhiều bài có tính
hiện thực khá cao.
Phong: gồm các bài dân ca của 15 địa phương, gọi là
thập ngũ quốc phong (dân ca ca dao của 15 nước): Chu
nam, Thiệu nam, Bôi phong, Long phong, Vệ phong,
Vương phong, Trịnh phong, Tề phong, Nguỵ phong,
Đường phong, Tần phong, Trần phong, Cối phong, Tào
phong, Mân phong, tất cả gồm 116 bài, chiếm địa vị chủ

201
CHƯONG 4: CHẾ ĐỘ HỌC HÀNH THI c ủ CỦA NHO GIÁO TRÊN ĐẮT KINH KỲ

yếu trong Kinh Thi, vượt xa 2 phần Nhã Tụng về tính hiện
thực trong nội dung cũng như về giá trị nghệ thuật.
Kinh Thi phản ánh cuộc sống xã hội, sản xuất, đấu
tranh của nhân dân Trung Hoa cổ đại trong khoảng thời
gian gần 600 năm. Qua Kinh Thi chúng ta thấy được sự
cần lao của nhân dân Trung Hoa thời xa xưa, sự phản
kháng mạnh mẽ của họ chống lại nền thống trị đen tối
đương thời, những mơ ước hy vọng cùng lý tưởng của họ.
Những niềm vui, tình yêu thương, sự căm giận của họ thể
hiện một cách sinh động qua những dòng thơ điêu luyện,
giầu hình tượng, trong sáng giản dị.
Vẻ ngôn ngữ vân tự, nếu dùng tự để tính toán thì toàn
bộ 305 bài thơ trong Kinh Thi chỉ sử dụng khoảng 3000 tự.
Song hơn 3000 tự đó đã phối hợp với nhau, tạo thành một
vốn từ vô cùng phong phú, có khả năng diễn đạt tình cảm
tế nhị, khắc hoa nên những bức tranh sinh hoat xã hôi rộng
lớn sinh động.
Khổng Tử đã từng nói: “Không học Thi biết lấy gì
mà nói” đó là một thực tiễn lúc đó và trong xã hội phong
kiến ở vào các thời sau.
Ở Việt Nam, ngoài những bản Thi, Thư, Lễ, Dịch,
Xuân Thu nhập của Trung Hoa, triều đình và các nhà in
sách tư nhân cũng khắc in riêng một số tác phẩm khác
nhau. Ngoài ra còn một số bản dịch, tóm tắt hoặc nghiên

202
NHO GIÁO - OẠO HỌC TRÊN ĐẤT KINH KÌ (THĂNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

cứu, chú giải như: Thư kinh diễn nghĩa, Dịch kinh phu
thuyết, Thi thuyết, Lễ thuyết, Xuân Thu lược luận của Lê
Quý Đôn, Xuân Thu quản kiếm của Ngô Thì Nhậm, Chư
kinh khảo ước của Nguyễn Văn Siêu.
Những tác phẩm hay đúng ra là những cuốn sách
giáo khoa này của các Nho gia nổi tiếng ở Trung Hoa sau
được giảng tại Quốc Tử Giám Việt Nam có những bước
tiến lớn so với hệ tư tưởng Phật giáo trước đó. Những cuốn
sách này đã dạy cho con người ta nhiều vấn đề của Trung
Hoa ngày xưa và rồi tuỳ hoàn cảnh của từng nước, từng
khu vực mà các Nho sinh khi ra đời làm quan ứng dụng
vào hoàn cảnh cụ thổ của mình. Những kinh điển giáo lý
Nho gia so với chữ Phạn và các giáo lý của nhà Phật đã
thực sự dạy con người ta biết cách ứng xử, biết cách làm
quan, biết cai trị dân, dạy nhiều cái cho những ai muốn
vươn lên trở thành quý tộc. Giáo lý Nho gia qua các cuốn
giáo khoa đã vạch ra cho các học sinh của mình một con
đường phát triển duy nhất đó là học và phải học cho dù
10,15 hoặc 20 năm nếu người đó muốn làm quan. Như vậy
thì ngay từ ban đầu, giáo lý của đạo Khổng đã dạy cho
người ta một con đường quan liêu, xa với thực tiễn cuộc
sống lao động do vậy những vị quan của Việt Nam hay của
bất kỳ trường học nào trong vòng quay của các giáo lý này
đều vô tình tạo ra một giai cấp “vô công rồi nghề” chỉ biết
hưởng lạc. Họ nói với nhau những giáo lý huyền ảo chỉ vì

203
CHƯONG 4: CHẾ ĐỘ HOC HÀNH THI cử CỦA NHO GIÁO TRÊN ĐẮT KINH KỲ

những giáo lý này là của người nước ngoài, trên nền văn tự
nước ngoài.
Nếu cho rằng hệ tư tưởng Nho giáo với những luật
định phong kiến hà khắc thì việc nó thay thế hệ tư tưởng
Phật giáo chẳng qua là thay từ một thứ tiếng nước ngoài này
bằng thứ tiếng nước ngoài kia. Và đã là tiếng nước ngoài thì
chúng cũng đều xa lạ với những người dân lao động suốt
năm bán mặt cho đất, bán lưng cho trời. Song cái tệ hơn nếu
Phật giáo bắt đầu từ dân gian đi lên thì Nho giáo lại chỉ bắt
đầu từ quan lại và chỉ có tác dụng với một số người nhất
định trong xã hội. Do vậy khi hệ tư tưởng này sụp đổ, người
dân không biết và không luyến tiếc lễ tục một thời đã qua
như đạo Phật ăn sâu vào trong dân chúng.
Khi nghiên cứu đình làng, có một học giả nước ngoài
cho các đối tượng như chùa và đình là của hai lớp người
khác nhau trong xã hội phong kiến Việt Nam trước đó.
Ngôi chùa ông ta cho rằng chúng là ngôi nhà của những
người phụ nữ (La maison des femmes) còn đình làng ông
cho đó là ngôi nhà của những người đàn ông(La maison
des L' hommes).
Học thuyết của Khổng Tử và Nho giáo chỉ làm cho
xã hội chúng ta phân hoá mạnh hơn. Người đàn ông được
coi trọng trong mọi hoạt động xã hội cũng như trong gia
đình. Người đàn bà trở thành vai trò thứ yếu, họ chỉ biết
công, dung, ngôn, hạnh, họ chỉ biết vâng lời cha mẹ...

204
NHO GIÁO - ĐẠO HỌC TRẼN ĐẤT KINH KÌ (THĂNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

Những thứ như vậy, chẳng qua chỉ củng cố vai trò của giai
cấp thống trị phong kiến.
Ngay trong bộ sách giáo khoa mà chúng ta kể ra có
cuốn Kinh Thi được coi là những lời ca tiếng hát ai oán
căm hờn cùng tình yêu thương của những người dân cần
lao thời xưa của Trung Hoa cũng chi là những tiền đé mà
Khổng Tử và các đồ đệ của Nho gia mượn làm đề tài cho
cách tân của mình mà thực ra họ chưa lúc nào và bao giờ
nghĩ đến quyền lợi của những người dân lao động này.
Như vậy những giáo dục mà chúng ta còn thấy qua
nghiên cứu Quốc Tử Giám chỉ đê biết chứ không có tác
(lụng giáo dục vì thực chất nó ngược lại với những gì mà
chúng ta đang giáo dục thế hệ trẻ ngày nay.

4.2. THI CỬ VÀ CÁC KHOA THI DƯỚI THỜI LÝ -


TRẦN - LÊ
4.2.1. Vấn đề khoa củ thời Lý - Trần
Nhà Trần sau khi tu bổ lại nền quốc học, tổ chức các
kỳ thi để tuyển lựa kẻ sĩ ra làm quan, thiên trọng về Nho
giáo hơn, như liệt kê sau đây:
Trần Thái Tông, hiệu Kiến Trung năm thứ 3 (1228),
mớ kỳ thi Tam giáo tử (Nho, Đạo, Thích ngành nào noi
theo nghiệp ấy).
Nám thứ 8 mở khoa thi Thái học sinh tức là thi lấy
Tiến sĩ (1232).

205
CHUONG 4: CHẾ ĐỘ HỌC HÀNH THI c ử CỦA NHO GIÁO TRẼN ĐẤT KINH KỲ

Hiệu Thiên úng chính bình năm thứ 5, tuyển Nho


sinh, Trung khoa được vào cung vua giảng học (1243).
Năm thứ 8 mở khoa thi Thái học sinh (1248).
Năm thứ 15, mở thi Đại Tỉ để lấy nhân sĩ, cứ 7 năm
một lần (1253).
Năm thứ 16, mở thi Đại tỉ đặc biệt lấy Trạng nguyên,
Bảng nhãn, Thám hoa, cùng 48 người đỗ Thái học sinh, bắt
đầu có Tam Khôi từ đấy (1254). Cũng trong năm ấy vào
mùa thu tháng 8 thi thông Tam giáo các khoa.
Hiệu Nguyên Phong(1251-1258), năm 1257 thi Đại
Tỉ lấy nhân sĩ, cho 2 loại Trạng nguyên, Trại thuộc miền
Thanh Hoa và Kinh thuộc Kinh Đô.
Thánh Tông, Thiệu Long (1258-1272) năm thứ 9
(1267) mở thi Đại Tỉ, lấy đỗ Kinh trạng, Trại Trạng, Thái học
sinh, có 47 người đỗ, được bổ làm quan trên dưới khác nhau.
Anh Tông, Hưng Long (1293-1314), năm thứ 12
(1305) thi Thiên hạ sĩ, ỉấy Tam khôi, Hoàng giáp, cùng
Thái học sinh cộng 44 người đỗ.
Minh Tông (1314-1323) hiệu Đại Khánh năm đầu,
thi Thái học sinh, dùng làm "Bộ thư lệnh".
Năm thứ 3 (1322), thi nhà Tăng dùng kinh Kim
Cương.
Dục Tông (1341-1357), hiệu Thiệu Phong năm thứ 5
(1346) thi Thái học sinh, phép thi dùng ám tả, cổ văn kinh
nghĩa Thi, Thư.

206
NHO GIÁO - ĐẠO HỌC TRÊN ĐẤT KINH KÌ (THĂNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

Hiệu Đại Trị nãm thứ 6(1364), thi Nhân sĩ lấy văn
nghệ bổ vào quan các.
Duệ Tông( 1347-1377), hiệu Long Khánh năm thứ 2
(1376) thi Tiến sĩ, lấy Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa,
Hoàng giáp, gồm 44 người. Kỳ thi này chính vua Nghệ Tông
ngồi làm chủ khảo thi Đình ở phủ Thiên Trường.
Phế Đế (1378-1388) hiệu Xương Phù năm thứ 5
(1382) thi Thái học sinh. Ba năm sau (1385), thượng hoàng
đến Tiên Du, chùa Vạn Phúc mở khoa thi Thái học sinh.
Thuận Tông (1388-1398), hiệu Quang Thái năm thứ
6 (1394) thi Thái học sinh. Ba năm sau (1397) có chiếu
định thi cử nhân. Năm đáu thi Hương, nãm sau thi Hội, ai
trúng tuyển được dự ngự thi. Đến đây là phỏng theo chế độ
nhà Nguyên bên Tầu.
Sử gia Ngô Sĩ Liên kết luận về chế độ thi cử nhà Trần
như sau:
"Phép khoa cử nhà Trần, đến đây (tức Thuận Tông)
mới hoàn bi. Phép thi 4 trường thi, văn tự đến nay (tức thời
Lê) vẫn còn tôn dụng, khó có thể thay đổi đi được. Căn cứ
vào văn tự để chọn lấy nhân tài thì không còn phép nào
hơn thế nữa. Xét khoa thi cuối thời Trần đã được lấy đỗ
như Nguyễn Trãi là cao hơn hết. v ề mưu toan suy nghĩ
cùng văn chương đã đem ứng dụng vào buổi đầu thời Lê
lập quốc. Đến bậc thứ như Lý Tử Tấn, Vũ Mộng Nguyên,

207
CHƯƠNG 4: CHẾ ĐỘ HỌC HẢNH THI cử CỦA NHO GIÁO TRÊN ĐẤT KINH KỲ

Phan Phù Tiên, Nguyễn Thiên Túng cùng đều là những bậc
văn chương cự phách một thời vậy. Kể thừ thời Tam Đại
bên Tầu (Hạ, Thương, Chu) về sau, việc tìm người sĩ bằng
khoa mục văn nghệ có thể thiếu được sao?"
Chính nhờ chế độ khoa cử ấy mà tư tưởng Tống Nho
có ảnh hưởng vào giới trí thức Việt Nam bấy giờ, nhất là
về chủ trương độc tôn Nho giáo, đề cao tôn chỉ "Tịch dị
đoan" của Nho sĩ đời Tống như Chu Hy đã nêu lên. Hơn
nữa, ảnh hưởng của cái học Tống Nho là câu chấp vào hình
thức mà không chuyên tâm vào công việc thực đức. Lấy
ngay Trương Hán Siêu làm thí dụ thì đủ thấy cái chủ
trương "Tịch dị đoan" của Tống Nho ảnh hưởng quá sâu
nặng. Sử chép:"Trương Hán Siêu làm quan đến chức Hành
khiển, hạch Phạm Lộ làm hình quan ăn hối lộ. Vua Minh
Tông sai khám xét ra sự thật. Hán Siêu nói riêng với người
rằng:"Tôi ở trong chính phủ được vua tin nên phải nói biết
đâu còn có khám xét nữa." Vua nghe thấy bèn nói:"Hành
khiển là quan tỉnh (Hành chính) Thẩm hình là quan ở Viện
(Tư pháp) đều do ta uỷ nhiệm, có đâu lại tin người này mà
nghi người kia.". Đến khi khám xét thì Hán Siêu bị khuất
lý (tức vu khống cho đồng nghiệp) bị phạt 300 quan tiền,
thăng Ngộ lên chức tham tri ngang hàng với Hán Siêu."
Đấy là nhân cách của một vị đại thần, văn chương nổi
tiếng mà còn có cử chỉ tiểu nhân Nho như thế, đủ biết cái
hoạ: "bát cổ vãn chương tuý mộng trung"của Phan Chu

208
NHO GIÁO - ĐẠO HỌC TRÊN ĐẤT KINH KÌ (THẢNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

Trĩnh, ở thời nào cũng có người hại nước, cũng vì Nho sĩ


vụ cái học từ chương bỏ cái tinh thần đạo học thực hiện
của đức tính, cho nên mới thấy phản chiếu ở ngay thái độ
giữa những lời vấn đáp can gián hay góp ý của quần thần
với nhà vua sau đây:
"Các hoàng tử ngồi chầu vua (sau khi vua nhường
ngôi cho thái tử vương) thượng hoàng mỗi lần luận bàn đến
các nhân vật trong triều đình bấy giờ, Văn Bích
thưa:"Phàm luận các nhân vật dạy hoàng tử, chỉ nên nói
đến người tốt, không nên nói đến kẻ xấu, e rằng hoàng tử
hắt chước". Thượng hoàng nói: "Tốt xấu thiện ác tương đối
nhau, nghe biết điều thiện hãy lấy làm thầy mà học theo,
nghe điều ác thì phải tránh mà lấy làm răn. Thiện ác đều
có thể dạy mình được cả, sao lại có thể thiên bỏ?".
4.2.2. Những cuộc thi Tam giáo
Nhà Lv không chỉ để lại cái tinh thần dân tộc bằng
những chiến công chống giặc ngoại xâm mà còn để lại một
truyền thống tư tưởng là Phật giáo Thiền Việt Nam làm
nguồn sinh iực cho các ngành vãn hoá dân tộc. Bởi thế mà
Trần Thái Tông vị vua đầu triều Trần tuy có chịu ảnh
hưởng tư tưởng của Trần Thủ Độ mà còn chịu nhiều ảnh
hưởng văn hoá của thời trước. Phản ứng lại với những tư
tưởng thực dụng của ông chú Trần Thái Tông đã rời bỏ
cung điện để vào núi tìm chân lý Phật giáo, thoả mãn
những khát vọng siêu nhiên để bổ túc cho ý thức quốc gia

209
CHƯƠNG 4: CHẾ ĐỘ HỌC HÀNH THI c ủ CỦA NHO GIÁO TRẼN ĐẤT KINH KỲ

dân tộc. Cũng chính vì vậy mà Trần Thái Tông đã thấy một
ý thức Thiền học mới để có thể ứng dụng vào cuộc sống
của quốc gia dân tộc. Làm như thế, Thái Tông đã tỏ ra
trung thành với hệ tư tưởng Phật giáo cuối nhà Lý đã có là
Tam giáo. Thái Tông đã ý thức rõ ràng với thực nghiệm
bản thân cái triết học Thiền tông là một biện chứng trực
giác, tức là một tâm linh học thực nghiệm để dung hoà các
hệ thống tư tưởng mâu thuẫn bằng cách vượt lên trên hình
tướng danh lý. Ở Việt Nam bấy giờ, các khuynh hướng tư
tưởng có thể giao tranh với nhau là tư tưởng Bà la môn
giáo, tư tưởng Nho, tư tưởng Đạo thần tiên, tư tưởng Dịch
thuật số, tư tưởng Phật Đại thừa Quan Âm bồ tát, tư tưởng
Thién của Tỳ ni đa lưu chi, Vô Ngôn Thông và Thảo
Đường, tư tưởng Vật linh (Animisme) bản địa. Tất cả các
khuynh hướng ấy, nhà Lý đã tìm quy về hệ thống Tam
giáo mà Vạn Hạnh đã xướng lên tiêu chuẩn đầu tiên như
Lv Nhân Tông đã ý thức:
"Vạn Hạnh dung tam tế,
Ung phù cổ sâm thi,
Hương quan danh c ổ Pháp,
Trụ tích chấn ương kỳ."
Có nghĩa là:
Vạn Hạnh hợp nhất cả 3 cõi nhân sinh, thiên nhiên,
siêu nhiên, do 3 giáo lý đại diện Nho, Lão, Phật vào một

210
NHO GIÁO - ĐẠO HỌC TRÊN ĐẤT KINH KÌ (THẢNG LONG - OÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

nguồn tâm linh dung thông cả quá khứ, hiện tại, vị lai
không biên giới. Thích hợp với lời thơ tiên tri của cổ xưa ở
phương Đông.
Quê hương của nhà sư có tiếng là Phật giáo Việt Nam
thời cổ, tức Đình Bảng, Thuận Thành (Luy Lâu) tỉnh Bắc
Ninh bây giờ.
Chống gậy tầm xích nhà Phật để bảo vệ lãnh thổ
quốc gia.
Nghĩa là chủ trương của Vạn Hạnh lấy phương pháp
Thiền học để dung hoà 3 cõi Trời (siêu nhiên) Đất ( thiên
nhiên) Người (nhân sinh).
Vì thế mà đến cuối thời Lý nãm 1180, "Vua xuống
chiếu thi Tam giáo sửa văn bia Đại Nội2". Đến Trần Thái
Tông thì cái triết lý Tam giáo lập cơ sở trên tâm linh thực
nghiệm của Thiền học mới được chính vua thực nghiệm
một cách chính xác và đem ứng dụng với một hệ thống khá
rõ ràng nhằm làm nền tảng tư tưởng cho quốc gia dân tộc.
Muốn hiểu rõ tư tưởng Thiền học của Thái Tông lấy
làm cơ sở cho quốc học thế nào, thiết nghĩ cùng nên ngược
dòng thời gian để xét qua phép tuyển người tài trong nước
bắt đầu có từ thời Lý.
Triều Lý Nhân Tông 1075, tháng 2 bắt đầu nhà vua
cho ban chiếu tuyển nhân sĩ trong nước vào thi Minh Kinh

2Xin xe m thêm, L ê V ãn Hưu: Viột sử lư ợc.... đã dẫn

211
CHƯƠNG 4: CHẾ ĐỘ HỌC HÀNH THI c ủ CỦA NHO GIÁO TRÊN ĐĂT KINH KỲ

bác học và thi Tam trường Nho học. Năm 1086 tháng tám,
thi các nhà văn học trong nước để bổ vào Hàn lâm viện.
Triều Lý Anh Tông (1138-1175) năm thứ 12 (1150) tháng
10 có điện thí. Bấy giờ phép thi còn chưa định rõ ràng.
Năm 1165 tháng tám thi Thái học sinh. Nãm 1179 vua Lý
Cao Tông (1176-1210) tháng giêng thi nhân sĩ trong nước,
từ 15 tuổi, có thể thông thi thư, được vào cung vua thị học
nghe giảng. Vua cùng Hoàng hậu xem con em tăng quan
thi đọc kinh Bát Nhã, lại ngự ra điện Phượng Minh xem
bọn hoàng nam thi chép các thơ cổ nhân và làm toán.
Năm 1180 Vua chiếu thi Tam giáo.
Sử thần Ngổ Sĩ Lien có bàn vẻ thi Tam giáo như sau:
"Thi Tam giáo là có thể thông hiểu cả 3 giáo lý Nho, Đạo,
Thích để ra làm quan. Các vị chân Nho thời xưa cùng xem
rộng các sách của bách gia chư tử, ra vào đạo Lão và đạo
Phật mung lung huyền bí không căn cứ vào đâu được cả.
Trở lại tìm vào 6 kinh (Thi, Thư, Dịch, Xuãn Thu, Lễ,
Nhạc). Sáu kinh truyền cái đạo của Khổng Tử. Có quan hệ
vua tôi, cha con, có giáo huấn về định luật của sự vật, về
luân thường của nhân dân, mà tôn chỉ cơ bản thì ở tại
nguyên lý duy tinh duy nhất khiến chó người ta một khi đã
theo đạo Nho, mà lại thông hiểu sang đạo Phật và đạo Lão.
Đạo Lão chủ thuyết thiên biến, vạn hoá có đức lại không
cho là đức, tuỳ cảm mà ứng vật không biết đâu là vết tích
thường còn. Đạo Phật thì thuyết: Không có sống, không có

212
NHO GIẢO - ĐẠO HỌC TRÊN ĐẤT KINH KÌ (THẢNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

chết, không từ đâu đến và không đi về đâu, cùng không có


cả sức mạnh gân thịt, cùng không có tướng mạo. Đấy là
những cái học rộng mà không thuần nhất, tam tạp loạn,
thiếu nhất trí tuy có được kinh sách của các vua như Hiên
Viên, Đế Cốc để lại, hay là giác ngộ được bí truyền huyền
diệu của Át Nan hay Ca Diếp, thì có giúp gì cho đường
đời, có ích gì cho quốc dân, cho ra làm quan để làm chi
vậy thay3.
Ý kiến trên đây của Ngô Sĩ Liên một nhà Nho đòi Lê,
tỏ ra không đạt tinh thần Tam giáo lắm, vì đã bị chấp vào tư
tưởng Nho giáo độc tôn, mất truyền thống tâm linh thực
nghiệm của Thiền học hợp nhất tri hành, cho nên chỉ biết
cái luân lý thực tiễn hẹp hòi để phê bình thiên lệch bề ngoài
cái học Tam giáo vậy. So với bình luận của Phan Huy Chú,
cùng như một nhà Nho thời Lê mạt Nguyễn sơ thì họ Phan
còn đạt tinh thần đạo học thực nghiệm hơn nhiều.
Phan Huy Chú viết về Tam giáo tiOng Lịch triều hiến
chương như sau: "Triều đại Lý - Trần, cả hai thời đều tôn
sùng Phật, Lão cho nên tuyển chọn nhân sĩ ắt lấy người
kiêm thống cả hai giáo lý ấy. Tuy chính đạo dị đoan đều
được tôn sùng không phân biệt cho nên kẻ sĩ ứng thi vào
những khoa ấy nếu không học rộng, biết nhiều thì không
được lựa chọn. Hãy xét xem giáo lý Phật, Lão thật không

’ Xin xem thèm Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, Khoa mục
chí, q 26.

213
CHUONG 4: CHẾ ĐỘ HỌC HÀNH THI c ử CỦA NHO GIÁO TRỄN ĐẤT KINH KỲ

phải kẻ đi học nên học tập, mà cái đạo lớn của thánh
Khổng há dung cho sự tịnh hành. Nhìn vào cái học thế tục,
đểu bỏ thực học sùng hoa mỹ, bỏ gốc tìm ngọn, đối với cái
học tu tỉnh cho mình của thánh hiền Nho đã trở nên trái
nghịch, phản bội. Nhìn sự trì thủ của các dòng tu sĩ còn lo
không kịp tới được, huống chi còn mong phát triển những
nghĩa sâu của thánh nhân, mà làm sáng truyền thống chính
học được sao? Tuy nhiên, khoa mục lấy người phải đâu
đều hạng chân Nho. Có hạng Nho câu chấp vào chương cú
e rằng chưa có thể mong cậy trách vụ trị bình. Trộm nghĩ
theo phép lấy kẻ sĩ nên căn cứ vào đức hạnh làm gốc.
Người mà thực có bản lĩnh thì dù có kiêm thông Tam giáo
(Phạt, Lão, Nho) Cửu Lưu (Nho lưu, Pháp lưu, Danh lưu,
Dương chu, Mặc địch, Âm dương, Tung hoành, Nông lưu,
Tạp lưu) có hại gì? Bằng không được như thế, mà chỉ cắt
nát miệng tai, trộm cắp ở sáo cũ, xét kỹ cái chỗ có được ấy
e rằng cùng chỉ là việc đẽo bánh lái thuyền trong nước, hay
giữ gốc cây chờ thỏ, đâu phải việc làm của Nho sĩ. Nguy
này trước luận bàn về điều chính mà có cảm tưởng nên mới
bàn thêm vậy4”.
Chính vấn đề muốn tránh cái bệnh từ chương trong sự
học, mà cốt sao xây dựng bản lĩnh đạo hạnh cho nên mới
phải có cái học Tam giáo của Lý - Trần lấy tâm linh thực
nghiệm làm cơ sở cho sự học đức hạnh. Bởi thế mà sau

4 Phan Huy Chú: ... đã dản

214
NHO GIẢO - ĐẠO HỌC TRẼN ĐẤT KINH KÌ (THẢNG LONG - ĐÔNG OÔ - HÀ NỘI)

2000 năm Nho học bên Trung Hoa phải chờ tới Vương
Dương Minh thế kỷ X V mới đem được Phật học vào bổ túc
cho Nho học thành cái học tâm linh tri thành hợp nhất vậy.
Trên đây là lược qua lịch trình học vấn với quan niệm
đào tạo nhân tài của thời nhà Lý đang tìm đường đem ứng
dụng giáo lý nhà Phật vào cuộc đời nhân sinh thực tế của
dân tộc muốn trở nên một nước độc lập hùng cường, cho
nên đã đi dần đến thể thức quốc học lấy Tam giáo làm cơ
bản. Bước sang nhà Trần, Trần Thái Tông bất đầu củng cố
nền quốc học vẫn duy trì phép thi Tam giáo đi đôi với các
khoa thi Nho giáo.
4.2.3. Những kh oa thi thỏi Lé
1. Khoa thi thứ nhất. Khoa thi Minh kinh, mở vào
tháng 5 năm Kỷ Dậu (1429), niên hiệu Thuận Thiên thứ 2.
Số người đỗ chưa rõ.
Khoa này thi tại giảng đường Đông Kinh (Hà Nội).
Đối tượng thi bao gồm bá quan văn võ từ hàng tứ phẩm trở
xuống, dán quân các lộ mà những người ẩn dật, tăng đạo
thông kinh sử đều dự thi. Cũng vì sự mở rộng này mà sử
sách gọi là khoa quan viên và vạn dân.
2. Khoa thi thứ 2, mở năm Tân Hợi, năm 1431, niên
hiệu Thuận Thiên thứ 3, đời vua Lê Thái Tổ.
Số người đỗ chưa rõ.

215
CHƯƠNG 4: CHỂ ĐỘ HỌC HÀNH THI c ử CỦA NHO GIÁO TRÊN ĐÁT KINH KỲ

Người đỗ đầu là Nguyễn Thiên Tích. Thi tại hành


cung Bồ Đề. Theo Lê Quý Đôn thì khoa này vẫn chưa lấy
tiến sĩ mà chỉ thi "chân Nho chính thực". Phép thi của khoa
trước (1429) và khoa thi này"hoặc dùng minh kinh hoặc
dùng thi phú, hoặc sách vấn". Người đỗ "dùng tài năng cất
nhắc hoặc bổ dụng vượt bậc".
3. Khoa thi thứ 3. Mở vào năm Quý Sửu (1433) niên
hiệu Thuận Thiên thứ 5 đời vua Lê Thái Tổ. Khoa này "vua
lại thân thi vãn sách".
4. Khoa thi thứ 4. Mở vào năm Ất Mão (1435), niên
hiệu Thuận Bình thứ 2. Khoa này vua Lê Thái Tông ngự ở
điện Hội Anh ra bài thi, chưa rõ số lượng người đỗ. Ông
Nguyẽn Thời Trung dự thi được trúng cách giữ chức thị thư
ban, sau thăng chức Quốc Tử Giám giáo thụ.
5. Khoa thi thứ 5. Thi tiến sĩ. Mở vào tháng 3 năm
Nhâm Tuất (1442). Niên hiệu Đại Bảo thứ 3 đời vua Lê
Thái Tông.
Số tiến sĩ đỗ 37 vị.
Đình nguyên Trạng nguyên là Nguyễn Trực.
Kỳ thi này có tới 450 người dự thi, trong đó 33 vị
tiến sĩ gồm:
- Đệ nhất giáp tiến sĩ: 7 người.
- Đệ nhị giáp tiến sĩ: 7 người.
- Đệ tam giáp tiến sĩ: 23 người (Nhà sử học Ngô Sĩ
Liên đỗ đầu bảng này.)

216
NHO GIÁO - ĐẠO HỌC TRÊN ĐẤT KINH KÌ {THẢNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

Cùng theo ghi chép của Lê Quý Đôn, văn bia Văn
Miếu còn ghi chép đủ những quan trường của kỳ thi Đình.
- Đề Điệu: chánh chủ khảo (do Thượng thư tả bộc
dịch Lê Văn Binh làm).
- Giám thi: Phó chủ khảo (do Ngự sử Triệu Thái làm)
- Tuần xước; Viên quan đứng đầu các quan giám thị
(coi thi) có quân đội kèm theo.
- Thu quyển: thu bài thi.
- Di Phong: dọc phách bài thi.
- Đằng lục: sao lục từng bài thi để chấm ở bản sao.
- Đối dôc: Đọc lại từng bản chính đối chicu với bản
sao để đảm bảo sao đúng bản chính.
- Độc quyển: Chấm bài do các quan văn đảm nhậm là
Hàn lâm thừa chỉ, học sĩ kiêm Trung thư quốc sử sự
Nguyễn Trãi, Trung thư sảnh Trung thư thị lang Nguyễn
Mộng Tuân, Nội mật viện tri sự Trần Thuấn Du. Trong đó
Quốc Tử Giám bác sĩ Nguyễn Tử Tấn trực tiếp đệ trình
quyển độc lên vua Thái Tôn dê xếp thứ bậc.
Ngày 2/2 thi đình ở điện Hội Anh.
Ngày 3/3 làm lễ xướng danh treo bảng để sĩ phu
trông thấy mà làm vẻ vang, lại ban tước trật để biểu dương.
Cấp mũ áo cân đai xiêm áo để thêm rạng vẻ thiết yếu ở
viện Quỳnh Lâm để tỏ lòng ân huệ, cho ngựa tốt về quê

217
CHƯƠNG 4: CHẾ ĐỘ HỌC HÀNH THI cử CỦA NHO GIÁO TRÊN ĐẤT KINH KỲ

quán để thấy ý ân cần, dân chúng đất Trường An lũ lượt đi


xem, ai nấy đều ca ngợi thánh triều chuộng Nho, xưa nay
ít thấy.".
Bia đề tên Tiến sĩ khoa này cùng với bia của 6 khoa
tiếp được tổ chức lập bảng vào năm 1484, năm Hồng Đức
thứ 15, đời vua Lê Thánh Tông. Bài văn bia khoa này do
quan Phụng trực đại phu, Hàn lâm viện thừa chỉ, Đông các
đại học sĩ Thân Nhân Trung soạn.
6/ Khoa thi thứ sáu. Thi tiến sĩ. Mở vào tháng 8 nãm
Mậu Thìn, 1448, niên hiệu Thái Hoà thứ 6, đời vua Lê
Nhân Tông.
Sổ' dỗ tiến sĩ: 27 vị.
Đình nguyên Trạng nguyên: Nguyễn Nghiêm Tư.
Khoa này số học sinh thi hương đỗ vào thi Hội 750
người, chọn đỗ 27 vị.
- Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ: Nguyễn Nghiêm Tư,
Trịnh Thiết Trường, Chu Uy.
- Đệ nhị giáp tiến sĩ Đồng xuất thân 12 Người đầu
giáp là Nguyễn Mậu.
Các quan trường của kỳ thi Đình:
- Đề Điệu: Đặc tiến nhập nội tư khấu, đồng bình
chương sự Trịnh Khắc Phục.
- Giám thí: Ngự sử Đài, Ngự sử Trung thừa Hà lật.

218
NHO GIÁO - ĐẠO HỌC TRÊN ĐẤT KINH KÌ (THĂNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

- Các quan Độc quyển là Môn hạ sảnh tả tư nạp ngôn


tri bác đạo quân dân 3 tỉnh Nguyễn Mộng Tuân, Hàn lâm
thừa chỉ học sĩ Trình Thuấn Du, Quốc Tử Giám tế tửu
Nguyễn Tử Tấn. Hàn lâm viện thị độc, kiêm Đông các đại
học sĩ Đỗ Nhuận soạn.
7/ Khoa thi thứ bẩy. Thi tiến sĩ. Mở vào tháng 2 năm
Quý Dậu, đời vua Lê Nhân Tông.
Số đỗ tiến sĩ: 25 vị.
Hội nguyên Nguyễn Chỉ.
8. Khoa thi thứ tám: Thi tiến sĩ. Mở vào năm Mậu
Dẩn- 1458, niên hiệu Diên Ninh.
Sô' đỏ tiến sĩ: 4 vị.
Đỗ đầu: Nguyễn Văn Xứng.
9. Khoa thi thứ chín. Thi tiến sĩ. Mở vào tháng 2 năm
Quý Mùi (1463), niên hiệu Quang Thuận thứ 4, đời vua Lê
Thánh Tông.
Số đỗ tiến sĩ: 4 4 vị.
Hội nguyên: Quách Đình Bảo.
Đình nguyên Trạng nguyên: Lương Thế Vinh.
Kỳ thi hương của khoa này được định lại phép thi
(Hương cống và Sinh đồ). Hai từ Hương cống và Sinh đồ
bắt đầu có từ đây. Kỳ này số sĩ tử dự thi có 1400 người, lấy
đỗ 44 vị.
Kỳ thi này ghi rõ các quan trường:

219
CHƯƠNG 4: CHẾ ĐỘ HỌC HÀNH THI củ CÙA NHO GIÁO TRÊN ĐẮT KINH KỲ

- Đề Điệu (Chánh chủ khảo) là Kiêm hiệu tư đồ bình


chương sự Nguyễn Lỗi. Nhập nội đô đốc bình chương sự
tri Đông đạo chủ vệ quân Lê Niệm.
- Giám thị (coi thi) chính sự viện tham nghị: Nguyễn
Phục.
- Độc quyển: (chấm thi) Môn hạ sảnh tả tư tả gián
nghị đại phu bắc đẩu quân dân “ba tỉnh, Hàn lâm viện thừa
chỉ học sĩ Nguyễn Như Đổ, Hàn lâm viện thừa chỉ học sĩ
Nguyễn Thiên Tích, Quốc Tử Giám tế tửu Nguyễn Bá Ký.
Văn sách bình đối hỏi vể đạo trị dân của bậc đế
vương. Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ:
- Trạng nguy en: Lưưng thế Vinh.
- Bảng nhãn Nguyễn Đức Trinh.
- Thám hoa Quách Đình Bảo.
- Đệ nhất giáp tiến sĩ xuất thân 15 vị xếp đầu là
Phạm LỖ.
- Đệ tam giáp tiến sĩ xuất thân 26 vị.
Định lệ thi Hội theo quy chế cũ cứ 5-6 năm thi Hội
một lần, chưa rõ niên hạn cụ thể đến nay quy định mới là 3
năm thi một lần.
Một tháng sau kỳ thi này, triều đình đã đạt chức
Minh Kinh bác sĩ. Chức học quan dành cho những người
chuyên về Ngũ Kinh. Chức này lo việc nghiên cứu bình
giảng Ngũ kinh tại Quốc Tử Giám.

220
NHO GIẢO - ĐẠO HỌC TRẼN ĐẤT KINH KÌ (THĂNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

Khoa này cùng được lập bia vào năm 1484 văn bia do
hiển cung đại phu Hàn lâm viện thi giảng, Đông các hiệu
thư Đào Cử viết.
Vua Lê Thánh Tông tổ chức lễ truyền lô tại điện Kính
Thiên, yết bảng vàng tại cửa Đông Hoa. Lễ vinh quy của 3
vị Tam khôi được vua Lê Thánh Tông đề ngự bút bài thơ:
Trạng nguyên Lương thế Vinh.
Bảng nhãn Nguyễn Đức Trinh.
Thám hoa Quách Đình Bảo.
Thiên hạ cộng tri danh.
10. Khoa thi thứ mười. Thị tiến sĩ. mở vào tháng 3
năm Bính Tuất, niên hiệu Quang Thuận thứ 7 (1466), đời
vua Lê Thánh Tông.
Số đỗ tiến sĩ 27 vị.
Đình nguyên Hoàng giáp: Dương Như Châu5.
- Lệ 2 năm một khoa thi bắt đầu từ năm Bính Tuất
này. Cũng từ năm này các khoa thi Hội vào các năm Thìn,
Tuất, Sửu, Mùi. Trước năm đó là các nãm Tý, Ngọ, Mão,
Dậu thì thi Hương.
Quan trường thi gồm:
- Đề điệu: Sùng tiến nhập nội Hữu đô đốc thái tử
thiếu bảo Lê Cảnh Huy.

5 Theo L ẽ Quý Đôn và Phan Huy Chú.

221
CHUƠNG 4: CHẾ ĐỘ HỌC HÀNH THI c ủ CỦA NHO GIÁO TRẼN ĐẤT KINH KỲ

- Giám thí: Quyền chính sự viện Thượng thư kiêm


Cẩn đức điện đại học sĩ thái tử tân khách Nguyễn Như Đổ.
- Độc quyển: Hàn lâm viện thừa chỉ Nguyễn Trực,
Hàn lâm viện thừa chỉ quyên Hộ bộ hữu thị lang cẩn đức
điện đại học sĩ nhập thị kinh điển Nguyễn Cao Cự.
Khoa thi này cùng như ghi chép của hai ông có thêm
nhiều điểm:
Sau thi Hội, ngày 12 tháng 3 (âm lịch) vua ngự ra
điện Kính Thiên ra văn sách hỏi về phép trị thiên hạ của
đạo đế vương.
- 27 tiến sĩ gồm 8 vị đệ nhị giáp tiến sĩ xíiất thân và
19 vị đẽ tam giáp đổng tiến sĩ, xếp theo thứ bậc khác nhau.
- Bảng vàng yết ngoài cửa Đông Hoa.
- Lễ xướng danh vào ngày 26 tháng 2, sau khi nhận
ân lệnh ngày 3/3 cho các tiến sĩ về vinh quy.
Bia để danh tiến sĩ khoa này cùng như Lê Quý Đôn
và Phan Huy Chú đều khen ngợi:" Những người dự đỗ đều
là những người đáng tài cả." Bia được dựng năm 1484. Văn
bia do Mậu lâm lang đông các hiệu thư Đàm Văn Lễ soạn.
11. Khoa thi thứ mười một. Thi tiến sĩ, mở vào tháng
2 nãm Kỷ Sửu (1469) niên hiệu Quang Thuận thứ 10, đời
vua Lê Thánh Tông.
Sô' đỗ tiến sĩ: 27 vị.
Hội nguyên: Thân Nhân Trung.

222
NHO GIÁO - ĐẠO HỌC TRÊN ĐẤT KINH KÌ (THĂNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

Đình nguyên Hoàng giáp: Phạm Bá.


Khoa này không lấy được tam khôi. Văn bia khoa
này hiện không còn.
12. Khoa thi thứ mười hai. Thi tiến sĩ, mở tháng 3
năm Nhâm Thìn (1472), niên hiệu Hồng Đức thứ 3, đời
vua Lê Thánh Tông.
Số đỗ tiến sĩ 27 vị.
Hội nguyên: Lê Tuấn Ngạn.
Đình nguyên hoàng giáp: Vũ Kiệt.
Khoa này6 thì triều đình định rõ phép thi.
Trường nhất: Kinh Nghĩa trong Tứ Thư, Luận Ngữ (4
đề), Mạnh tử (4 đề), cử tử chọn lấy 4 đề mà làm.
Ngũ kinh mỗi kinh 3 đề mà làm, cử tử chọn lấy 1 đề,
duy 2 đề kinh Xuân Thu thì kể là 1.
Trường nhì: thi chiếu chế mỗi thể một bài (hay 3 bài).
Trường ba: thơ phú 2 bài, phú dùng thể Lý Bạch.
Trường tư: Văn sách mộí bài hỏi về ý chỉ kinh truyện
giống khác nhau, chính sự các đời hay dở thế nào.
Tháng 4 âm lịch vua ra văn sách thi đình hỏi về: Phép
thiên hạ của các bậc đế vương xếp bậc các tiến sĩ.
- Đệ nhất giáp đệ nhất danh: Hàm chánh lục phẩm, 8 tư.

6 Th eo Lịc h triểu hiến chương.

223
CHƯONG 4: CHẾ ĐỘ HỌC HÀNH THI c ủ CÙA NHO ©IẢO TRÊN ĐẤT KINH KỲ

- Đệ nhất giáp đệ nhị danh: Hàm tòng lục phẩm, 7 tur.


- Đệ nhất giáp đệ tam danh: Hàm chánh thất phẩm, 6 tir.
- Đệ nhị giáp: Hàm tòng thất phẩm, 5 tư.
- Độ tam giáp: Hàm chánh bát phẩm, 4 tư.
Vào Hàn lâm viện được hơn một cấp.
Vản bia khoa này hiện không còn.
13. Khoa thi thứ mười ba. Thi tiến sĩ, mở vào tháng 3
năm Ất Mùi (1475), niên hiệu Hồng Đức thứ 6, đời vua Lê
Thánh Tông.
Số đỗ tiến sĩ: 43 vị.
Đình nguyên Trạng nguyên: Vũ Tuấn Chiêu.
Khoa này có 3200 người dự thi Hội.
Phép thi kỳ thi Kinh Nghĩa so với khoa trước thì Luậm
Ngữ bớt đi 1 bài, đưa thêm 1 đề Trung dung.
Văn sách khi hỏi về ý chỉ kinh truyện giống khác nhaui,
hỏi thêm những thao lược dùng binh của các tướng sĩ.
Các quan trường thi Đình: Các quan đề điệu và giárm
thị như Sùng tiến quốc Thượng tướng quân Tả đô đố(C
Đoan Vũ Bá. Trụ quốc Trịnh công lộ, phụng trực Đại phui
Lại bộ thị lang Hoàng Nhân Thiềm.
- Các quan Độc quyển: Triều liệt đại phu Hàn lârm
viện thị độc, Đông các đại học sĩ Thân Nhân Trung. Hiếm
cung đại phu, Đông các hiệu thư Đỗ Nhuận. Mậu lâm lang
Đông các hiệu thư Quách Đình Bảo.

224
NHO GIẢO - ĐẠO HỌC TRÊN ĐẤT KINH KĨ (THÁNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

Các tiến SI dự thi Đình được xếp thứ tự:


- Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ: Vũ Tuấn Chiêu, Nghĩa
Đạt, Cao Quýnh.
- Đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân 13 vị. Người xếp đầu là
Phạm Xán, (trong đó có Kiều Phú).
- Đệ tam giáp tiến sĩ đồng xuất thân 27 vị, xếp đầu là
Đỗ Vinh, trong đó có ông Thái Thuận. Bia Đề danh được
dựng 1484 vãn bia do Đông các hiệu thư, Mẫn thị lang Lê
Tuấn Ngạn soạn.
14. Khoa thi thứ 14. Thi tiến sĩ, mở vào tháng 9 năm
Mậu Tuất (1478) niên hiệu Hồng Đức thứ 9 đời vua Lê
Thánh Tong.
Số đỗ tiến sĩ: 40 vị.
Đình nguyên Thám hoa Lê Quảng Chí.
Khoa này sau khi thi đình xếp theo tam giáp các tiến
sĩ như sau:
- Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ: Lê Quảng Chí, Trần
Bích, Hoàng Lê Ninh (hay Minh).
- Đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân 9 vị: Đầu giáp là tiến sĩ
Nguyễn Địch Tâm và các vị Vũ Quỳnh và Hoàng Đức
Lương...
- Đệ tam giáp tiến sĩ đồng xuất thân 50 vị: Đầu giáp
là Nguyễn Hiền, có các ông Bùi Xương Trạch, Đề Cận, Vũ
Kiệt...

225
CHƯƠNG 4: CHỄ ĐỘ HỌC HÀNH THI cử CỦA NHO GIÁO TRÊN ĐÁT KINH KỲ

Bia đề danh tiến sĩ khoa này dựng năm 1484 do Hàn


lâm viện thị thư, tri lâm cục tư huấn Nguyễn Đôn Phục
soạn.
15. Khoa thi thứ 15. Thi tiến sĩ, mở vào tháng 4 năm
Tân Sửu (1481), niên hiệu Hồng Đức thứ 12, đời vua Lê
Thánh Tông.
Số đỗ tiến sĩ: 40 vị.
Hội nguyên, Đình nguyên, Trạng nguyên: Phạm
Đôn Lễ.
Văn bia khoa này cho biết:" số cử nhân ghi tên xin
thi ở bộ Lễ có hơn 2000 người.". Xếp theo giáp đệ.
- Độ nhất giáp tiến sĩ cập đệ Phạm Đôn Lễ, Lưu
Hưng Hiếu, Nguyễn Doãn Địch.
- Đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân: 8 vị. Xếp đầu giáp là
Ngô Văn Cảnh.
- Đệ taiĩi giáp tiến sĩ đồng xuất thân: Đầu giáp là
Nguyên Minh Thông.
Sau khi truyển lô xướng danh yết bảng Lại bộ ban ấn
mệnh. Lễ bộ mang bảng vàng nổi âm nhạc rước ra ngoài
cửa Đông Hoa treo lên Mã cửu ty (Ty nuôi ngựa) kén ngựa
tốt để Trạng Nguyên về vinh quy.
Bia tiến sĩ đề danh dựng năm 1484. Văn bia do Hiển
cung đại phu Hàn lâm viện thị kiêm Tư lâm cựu tư huấn
Nguyễn Xung Xác soạn.

226
NHO GIÁO - ĐẠO HỌC TRÊN ĐẤT KINH KÌ (THẢNG IONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

16. Khoa thi thứ 16. Thi tiến sĩ, mở vào tháng 3 năm
Giáp Thìn (1484) niên hiệu Hồng Đức thứ 15 đời vua Lê
Thánh Tông.
Số đỗ tiến sĩ: 44 người.
Hội nguyên: Phạm Tử Khiêm.
Đình nguyên Trạng nguyên: Nguyễn Quang Bảo.
Khoa này Lê Quý Đôn cũng không chép.
Thi đình vua ra văn sách hỏi về nhà Triệu, Tống dùng
Nho.
Tháng 8 năm này, lập bia để danh các tiến sĩ các khoa
trước, vì từ khoa Đại Bảo thứ 3 (1442) đời Thái '1'ông tới đây
các khoa thi đều chưa có bia. Thượng thư bộ Lễ Quách Đình
Bảo tìm đủ tên tiến sĩ các khoa theo thứ tự khắc vào bia. Các
quan văn phụ trách từ hàn chia nhau soạn các bài ký.
17. Khoa thi thứ 17. Thi tiến sĩ, mở vào tháng 3 -nãm
Đinh Mùi (1487) niên hiệu Hồng Đức thứ 18, đời vua Lê
Thánh Tông.
Sô' đỗ tiến sĩ: 60 vị.
Đình nguyên Trạng nguyên: Trần Sùng Đĩnh.
Phan Huy Chú ghi tóm tắt về khoa này:"tháng 3 hội
thi các cử nhân, ngày 7 tháng 4 vua thân ra đề văn sách hỏi
về đại trị nước. Xem quyển xong lại gọi các tiến sĩ hạng ưu

227
CHƯONG 4: CHẾ ĐỘ HỌC HÀNH THI cử CỦA NHO GIÁO TRÊN ĐẮT KINH KỲ

vào cửa điện Nhật Quang. Vua tự cân nhắc để cho đỗ cập
đệ và xuất thân theo thứ bậc khác nhau7"
Bia tiến sĩ đề danh khoa này cho biết cụ thể hơn.
- Độ nhất giáp tiến sĩ cập đệ: Trần Sùng Dĩnh,
Nguyễn Đức Huấn, Thân Cảnh Vân.
- Đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân 30 vị. Người xếp đầu là
Phạm Bảo, Đăng Minh Khiêm...
- Đệ tam giáp tiến sĩ đồng xuất thân 27 vị, xếp đầu là
Phạm Trân.
Văn bia do Phụng Trực đại phu Hàn lâm viện thừa
chỉ Đông các đại học sĩ Thân Nhân Trung soạn.
18. Khoa thi thứ 18. Thi tiến sĩ, mở vào tháng 3 năm
Canh Tuất (1490), hiệu Hồng Đức thứ 21, đời vua Lê
Thánh Tông.
Số đỗ tiến sĩ: 54 vị.
Hội nguyên: Nguyễn Khao.
Đình nguyên Trạng nguyên: Vũ Duệ.
Tháng 3 thi hội các cử nhân. Tháng 4 thi Đình, nhà
vua thân ra văn sách.
Đề điệu (Chánh phó chủ khảo) là Binh bộ Thượng thư
Trịnh Công Đán và Hình bộ thượng thư Lê Năng Nhượng.

7 Phan Huy Chú: đã d ả n ...

228
NHO GIÁO - ĐẠO HỌC TRÊN ĐẤT KINH KÌ (THẢNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

Giám thí: Ngự sử đài Đô Ngự sử Quách Hữu


Nghiêm.
Độc quyển: Các học sĩ Thân Nhân Trung, Nguyễn
Bá Kỳ.
Vua xem xong định bậc cao thấp. Tháng 8 nãm này
dựng bia tiến sĩ đề danh các tiến sĩ: Ngô Hoán, Lưu Thúc
Ngạn, Lưu Dịch, Phạm Đạo Phủ, Đàm Thân Huy, Đường
Trực Nguyên của khoa này tham gia hội Tao Đàn.
19. Khoa thi thứ 19. Thi tiến sĩ, mở vào tháng 3 năm
Quý Sửu (1493) niên hiệu Hồng Đức thứ 24, đời vua Lê
Thánh Tông.
Sô đô tiến sĩ: 48 VỊ.
Giải nguyên Đình nguyên, Trạng nguyên: Vũ Dương.
Kỳ thi Hương của khoa này vào tháng 10 năm trước
(1492) đặc biệt: " lúc quan Hàn lâm viện đi làm khảo quan
ở 4 ty thừa tuyên: Hải Dương, Sơn Nam, Tam Giang, Kinh
Bắc mỗi ty 4 viên. Quan Hàn lâm đi chấm thi Hương bắt
đầu từ đây."
Tháng 3 thi Hội, tháng 4 vua thân đến thi vãn sách.
Đôn các học sĩ Thân Nhân Trung và Lại bộ Thượng thư
Nguyễn Bá Kỳ làm quan đọc quyển như khoá trước. Vua
thân xem quyển định bậc cao thấp.
Ngày 8 tháng 5 vua ngự ra chính điện truyền loa
xướng danh tiến sĩ, quan Lễ bộ mang Bảng vàng ra treo

229
CHUONG 4: CHẾ ĐỘ HỌC HÀNH THI c ủ CỦA NHO GIÁO TRẼN ĐẤT KINH KỲ

ngoài cửa Đông Hoa. Ngày 27 ban mũ và áo cho các tiến


sĩ, ngày 28 ban yến. Đến tháng 8 thì dựng bia tiến sĩ tại
Văn Miếu - Quốc Tử Giám.
20. Khoa thi thứ 20. Thi tiến sĩ, mở vào tháng 3 năm
Bính Thìn (1496) niên hiệu Hồng Đức thứ 27, vua Lê
Thánh Tông.
Số đỗ tiến sĩ: 30 vị.
Vua thân Ngự coi thi ở điện Kính Thiên ra văn sách
về đạo trị nước.
- Đề điệu: Binh bộ thượng thư Trịnh Công Đán và Đô
ngự sử Quách Hữu Nghiêm.
- Giám thí Hộ bộ hữu thị lang Nguyễn Hoằng Thạc,
Ngự sử đài, Đô ngự sử Đàm Văn Lễ.
- Đọc quyển: Đông các đại học sĩ Thân Nhân Trung,
Hàn lâm viện học sĩ Đào Cử, Đông các hiệu thư Ngô Luân.
Các cử nhân được vào điện Kim Loan vua xem dung
mạo định lấy đỗ 30 người, ngày sau vua ngự chính điện
xướng danh gồm:
- Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ: Nghiêm Viện, Nguyễn
Huân và Đinh Lưu.
- Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân gồm 7 vị, người xếp
đầu là Định Cường
- Đệ tam giáp Tiến sĩ xuất thân gồm 15 vị, xếp đầu là
Nguyễn Độc Diễn.

230
NHO GIẢO - ĐẠO HỌC TRẼN ĐẤT KINH KÌ (THÁNG LONG - OÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

Văn bia đề danh tiến sĩ dựng ngày 5 tháng 12 năm Bính


Thìn (1496). Văn bia do Hiển cung đại phu Hàn lâm viện thị
giảng, Trưởng Hàn lâm thị viện Lưu Hưng Hiếu soạn.
21. Khoa thi thứ 21. Thi tiến sĩ, mở vào tháng 4 năm
Kỷ Mùi (1499) niên hiệu Cảnh Thống thứ 2 đời vua Lê
Hiển Tông.
Sô' đỗ tiến sĩ: 55 vị.
Hội nguyên: Lương Đắc Bằng.
Đình nguyên Trạng nguyên: Đỗ Lý Khiêm.
Năm này định rõ các lệ về thi Hội. sắc dụ của vua
cho Lễ bộ Thượng thư Vũ Hữu:
"Nhân tài là nguyên khí của nhà nước, nguyên khí
mạnh thì trị đạo mới thịnh, khoa mục là đường thẳng của
quan trường. Đường thẳng mở thì chân Nho mới có. Cho
nên đời xưa mở khoa thi chọn người giỏi tất phải nghiêm
nhặt về quy tắc trường thi, cẩn thận về việc dán tên giữ kín,
có lệnh cấm không được bảo nhau nghĩa sách, không được
viết thir trao đổi với nhau, đó là cốt ngăn giữ kẻ gian, lấy
được nhiều người thực học để giúp việc nhà nước. Nước ta
đặt phép thi cử theo người xưa, tới nay quy chế tất kỹ và
đầy đủ, nhưng vì phép đặt lâu ngày, mối tệ dần sinh đến
nỗi kẻ thường tài được lạm tuyển, người thực học bị bỏ rơi,
lời nghị luận xôn xao, sĩ phu chưa được hả dạ. Nay ta nối
nghiệp lớn, nêu rõ đạo công chuộng thực trở lại thuần hậu,

231
CHƯƠNG 4: CHẾ ĐỘ HỌC HÀNH THI cử CỦA NHO GIẢO TRÊN OÁT KINH KỲ

bỏ phù hoa để đổi thói khinh bạc. Muốn lựa chọn người
thuần triết, cần để ý đến việc phòng gian..."
Sắc dụ ban hành 20 điều. Khoa thi này có tới 5000 cử
nhân thi Hội. Việc ra đầu bài rất cẩn thận, cận thần ra đề
vua thân sửa lại. Các viên tuần xứơc các khu thì mỗi ngày
thay một lần. Các khảo quan được thân tỵ (nghỉ tránh làm
quan trường nếu có người thân thi.)
22. Khoa thi thứ 22. Thi tín sĩ, mở vào tháng 2 năm
Nhâm Tuất (1502), niên hiệu Cảnh Thống thứ 5, vua Lê
Hiển Tông.
Số đỗ tiến sĩ: 61 vị.
Đình nguyên Trạng nguyên: Lê ích Mộc.
Khoa này thi Hương (1502) định lại phép thi Hương
5 điều:
" Thi Hội các cử nhân, số người thi 5000 người lấy đỗ
61 người. Lại bộ tâu danh sách lên, nhà vua thân ra văn
sách hỏi công việc đế vương trị nước."
- Đề điệu: Nam quận đô đốc Lê Đạt Chiêu., Hộ bộ
Thượng thư: Vũ Hữu.
- Giám thị: Binh bộ Tả thị lang Lê Tuấn Ngạn, Đông
các đại học sĩ Nguyễn Bảo, Quốc Tử Giám tế tửu Hoàng
Bôi...
Các tiến sĩ qua thi được xếp theo giáp đệ.

232
NHO GIÁO - ĐẠO HỌC TRẼN ĐẮT KINH KÌ (THẢNG LONG - ĐỔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

- Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ: Lê ích Mộc, Lê Sạn,


Nguyễn Văn Thái.
- Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân 29 vị, đầu giáp là
Nguyễn Cảnh Diên và các vụ Vũ Cán...
- Đệ tam giáp tiến sĩ xuất thân 34 vị, đầu là Phạm
Khiêm Bính...
Khoa này mãi tới 1513 mới dựng bia đá tại Văn Miếu
- Quốc Tử Giám. Văn bia do Phạm Đông Quang đại phu
Trung thư giám soạn.
23. Khoa thi thứ 23. Thi tiến sĩ, mở vào tháng 2 năm
Ất Sửu (1503) niên hiệu Đoan Khánh thứ nhất đời vua Lê
Uy Mục.
Số đỗ tiến sĩ: 55 vị.
Hội nguyên Đình nguyên: Lê Nại.
Trong 55 vị tiến sĩ này gồm:
- Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ 3 vị.
- Đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân: 16 vị
- Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân: 36 vị.
Khoa này có Nguyên Bạt Tụy đỗ đồng tiến sĩ đến
khoa Hồng Thuận sau lại đỗ đồng tiến sĩ lần thứ 2. Làm
quan tới chức Thượng thư bộ Lại. Hai lần đi sứ Trung
Quốc.

233
CHƯONG 4: CHỂ ĐỘ HỌC HÀNH THI cử CỦA NHO GIÁO TRẼN ĐẤT KINH KỲ

24. Khoa thi thứ 24. Thi tiến sĩ, mở vào tháng 2 Mậu
Thìn (1578) niên hiệu Đoan Khánh thứ 4 đời vua Lê Uy
Mục.
Sô' đỗ tiến sĩ: 54 vị.
Hội nguyên: Đỗ Vinh.
Đình nguyên Trạng nguyên: Nguyễn Giản Thanh.
Trong 54 vị tiến sĩ này gồm:
- Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ: 3 vị.
- Đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân: 15 vị.
- Đệ tam giáp tiến sĩ đồng xuất thân: 36 vị.
25. Khoa thi thứ 25. Thi tiến sĩ, mở vào tháng 3 năm
Tân Mùi (1571) niên hiệu Hồng Thuận thứ 3 vua Lê Tương
Dực.
Sô' đỗ tiến sĩ: 47 vị
Hội nguyên: Nguyễn Thái Hoa.
Đình nguyên Trạng nguyên: Hoằng Nghĩa Thu.
Các quan trường thi Đình gồm:
- Đề điệu: Quan Đặc tiến khai phủ kim tử vinh lộc
đại phu Binh thượng quân quốc trọng sự lê thái tể thái sư
Quảng Đô. Phụng trực đại phu Lễ bộ Thượng thư Nguyễn
Bá Nhận, Phụng trực đại phu, Đô ngự sử Nguyễn Thì
Ung... Công bộ Thượng thư Trịnh Chí Sâm.

234
NHO GIÁO - ĐẠO HỌC TRÊN ĐẤT KINH KÌ (THẢNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

- Độc quyển: Giám thị Gia hạnh đại phu Hộ bộ tả thị


lang Phạm Hạo và Lại bộ tả thị lang Đặng Minh Khiêm.
Ngày 17 tháng 4 năm này vua ra đề thi hỏi sách văn về
đạo trị dân xưa nay. Các tiến sĩ trúng cách xếp theo giáp đệ:
- Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ: Hoằng Nghĩa Thu.
- Độ nhị giáp tiến sĩ xuất thân 9 người. Đỗ đầu Bùi
Doãn Hiệp.
- Đệ tam giáp tiến sĩ đồng xuất thân 35 vị. Xếp đầu là
Trần Doãn Minh.
Bia đề danh tiến sĩ dựng tại Văn Miếu - Quốc Tử
G iám vào nãm Hồng Thuận thứ 5 (1 5 7 3 ). Văn hia do Lộc
tiến kim tử đại phu thiếu bảo Lễ bộ Thượng thư Đông các
đại học sĩ - Quốc Tử Giám Lê Sửu soạn.
26. Khoa thi thứ 26. Thi tiến sĩ, mở vào tháng 3 năm
Giáp Tuất (1574) niên hiệu Hồng Thuận thứ 6, vua Lê
Tương Dực.
Số đỗ tiến sĩ: 43 vị
Đình nguyên Trạng nguyên Nguyễn Đức Lượng.
Khoa thi Hội này có tới 5700 người dự thi lấy đỗ 43
người. Tháng 4 nãm ấy, vua thân ngự thi đình, ra văn sách
hỏi về nhân tài. Các quan trường khoa thi đình gồm có:
Nhập nội kiểu hiệu, Thượng tướng thái uý... Lê
phụng trực đại học sĩ Lại bộ Thượng thư từ chiêu văn quán

235
CHUONG 4: CHẾ ĐỘ HỌC HÀNH THI cử CỦA NHO GIẢO TRÊN ĐẤT KINH KỲ

tú lâm cục tư chính Đàm Thận Huy; Gia hạnh đại phu
Công bộ Hữu thị lang Lê Tán Tương; Lễ bộ Thượng thư
Đông các đại học sĩ Quốc Tử Giám tế tửu Lê Trung. Đặc
tiến kim tử vinh lộc đại phu, Hộ bộ Thượng thư tử chiêu
vãn quán tư lâm cục Đoàn Mậu; Đông các đại học sĩ nhập
thư kinh điển Đỗ Nhạc.
Các tiến sĩ dự kỳ thi đình đã được xếp giáp:
- Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ Nguyễn Đức Lượng,
Nguyễn Chiêu Huấn, Hoàng Minh Tá.
- Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân 20 vị, đầu giáp là
Nguyễn Vũ.
- Đẹ tam giáp Tiến sĩ xuất thân 20 vị, đáu giáp là
Nguyễn Bỉnh Di.
Tháng 5 chiếu cho các tiến sĩ là bọn Nguyễn Đức
Lượng vào điện Thiên Quang ứng chế, sai làm bài "Thiên
Ouang điện ký".
Khoa này mãi 7 năm sau (1581) mới lập bia tại Vãn
Miếu - Quốc Tử Giám" tháng 4 lập bia tiến sĩ khoa Giáp
Tuất năm Hồng Thuận thứ 6 sai Lại bộ thượng thư Vũ Duệ
soạn bài ký."
Khi nhận xét về sĩ tử khoa này văn bia có đoạn:"... Các
tiến sĩ khoa ấy đều đã được tuỳ tài bổ dụng trong hàng quan
liêu. Có người theo ngựa vua trong khi hoạn nạn, có người
giúp kế hoạch trong lúc trị bình, có người làm viộc chính trị,

236
NHO GIÁO - ĐẠO HỌC TRỀN ĐÁT KINH KÌ (THẢNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

CÓ người biên thảo văn từ, tiết tháo tài năng cùng đã thấy rõ.
Nay lại được nhà vua tô điểm thêm (việc dựng bia đề danh
tiến sĩ) thì lòng cảm kích biết đến nhường nào!".
27. Khoa thi thứ 27. Thi tiến sĩ, mở vào mùa xuân
năm Mậu Dần (1518) niên hiệu Quang Thiệu thứ 3 vua Lê
Chiêu Tông.
Sô' đỗ tiến sĩ 17 vị,
Đình nguyên Trạng nguyên: Ngô Miễn Thiệu.
Đình đối hỏi về việc biết dùng người và trị nước yên
dân. Theo lệ "từ khoá Quý Mùi Quang Thuận về sau mới
định lịch 3 năm 1 khoa theo như hội điển nhà Minh cứ
nám Tý, Ngọ, Mão, Dậu thì thi Hương. Các nam Thìn,
Tuất, Sửu, Mùi thì thi Hội. Duy năm Mậu Dần, Quang
Thuận thứ 3 mở khoa thi Hội, là vì nhà nước có việc biến
loạn nên khoa thi hoãn đến năm nay."
Trong 17 vị tiến sĩ được xếp theo thứ tự sau:
- Độ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ: Ngô Miễn Thiệu,
Nguyễn Mãn Đốc, Lưu Khải Chuyên.
- Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân 6 vị đầu giáp là lại
Kim Bảng, trong đó có Đặng At là Hội nguyên.
- Đệ tam giáp Tiến sĩ đồng xuất thân đầu giáp là
Nguyễn Độ.
20 năm sau khoa thi năm Đại Chính thứ 7 (1538) mới
dựng bia tại Vãn Miếu. Bài văn bia do Nguyễn Toản là

237
CHƯONG 4: CHẾ ĐỘ HỌC HÀNH THI c ủ CỦA NHO GIÁO TRẼN ĐẤT KINH KỲ

Đồng chương đại phu kim Quang môn đãi chiếu soạn. Vãn
bia có đoạn nói về các tiến sĩ khoa này:
"Những người này hiện nay (20 năm sau viết bài văn
bia) vẫn làm các chức, nhiều người đã dần được dùng vào
việc lớn, người thì tham gia lễ nhạc binh hình trong nước,
người thì giữ chức kỷ cương tai mắt nhà vua, có người
kiêm chức quan các, có người ở ngôi công khanh giữ chức
bộ viện...
Các tiến sĩ ở khoa này, sau khi được đề tên vào bảng
vàng đến nay gần 20 năm mới được khắc tên vào bia đá nhờ
ơn vua tô điểm khích lệ được vẻ vang long trọng như thế.
Vậy báo đáp ra sao? Tất cả phải cô' gắng hết lòng trung
trinh, cạo cho hết nhơ, mài cho thực sáng, danh tiết cho bền,
hạnh kiểm cho tốt, khí khái lõi lạc, tiếng tãm vang lừng làm
viên ngọc quý, làm nén vàng mười, làm thuốc đan sa, làm
của quý giá: làm cho đức vua thêm tôn quý, nhà vua thêm
vững vàng, thiên hạ được yên như núi thái sơn, như tảng đá
lớn. Như vậy thì bia ấy tên ấy khắc vào tất nặng vạn cân,
càng lâu càng không mòn được. Nếu không thì ngoài là
ngọc mà trong là đá, danh với thực không xứng nhau, người
đời sau sẽ chỉ tận tên mà chê trách.”
28. Khoa thi thứ 28. Thi tiến sĩ, mở năm Canh Thìn
(1520) niên hiệu Quang Thiệu thứ 3 đời vua Lê Chiêu
Tông.

238
NHO GIÁO - ĐẠO HỌC TRẼN ĐẤT KINH KÌ (THẴNG LONG - ĐÔNG ĐỔ - HÀ NỘI)

SỐ đỗ tiến SĨ 17 vị.
Hội nguyên: Nguyễn Bật.
Đình nguyên hoàng giáp: Nguyễn Thái Bạt.
Thi đình vua thân chinh ra văn sách hỏi về nhân tà i.
29. Khoa thi thứ 29. Thi tiến sĩ, mở năm Quý Mùi
(1523) niên hiệu Thống Nguyên thứ 2 đời vua Lê Cung Đế.
Sô' đỗ tiến sĩ 36 vị.
Hội nguyên: Đào Nghiễm.
Đình nguyên Trạng nguyên: Hoàng Văn Tán.
30. Khoa thi thứ 30. Thi tiến sĩ, mở vào tháng 3 năm
Bính Tuất (1 5 2 6 ) niôn hiệu Thống Nguyên thứ 5 đời vua
Lê Cung Đế.
Sô' tiến sĩ: 20 vị.
Hội nguyên Phạm Đình Quang.
Đình nguyên Trạng nguyên: Trần Tất Văn.
Văn sách đình đối về đạo làm vua và làm thầy.
Như vậy là trong triều Lê có tất cả 30 kỳ thi tiến sĩ
với hàng vạn thí sinh qua những con số còn thống kê được
thì có 982 người đỗ tiến sĩ. Con số này mới chỉ tính từ
khoa thi thứ 5 tới khoa thi thứ 30 còn 4 khoá trước đó
chúng ta chưa biết. Ước tính ở vào thời Lê chúng ta có hơn
1200 người đỗ tiến sĩ. Đây là những con số đáng khích lệ
trong nền giáo dục cổ nước ta.

239
CHUONG 4: CHẾ Đ ộ HỌC HÀNH THI c ủ CỦA NHO GIÁO TRẼN ĐẮT KINH KỲ

4.3. HỌC HÀNH - THI c ử DƯỚI TRIỂU NGUYÊN


Ngay sau khi thống nhất đất nước, Phú Xuân (Huế)
trở thành kinh đô của nước Đại Nam - Việt Nam. Thăng
Long - Đông Đô nay được đổi tên là Hà Nội (tỉnh Hà Nội)
và trở thành một trung tâm văn hoá giáo dục của khu vực
Bắc Hà. Văn Miếu ở Hà Nội lúc này được gọi là Trường
Giám.
4.3.1. Những quy định cho học sinh trường Giám
Giám sinh ngoài những người đã đỗ Cử nhân đến học
để chuẩn bị thi Hội còn bao gồm Tôn sinh, Âm sinh và
Cống sinh ở các địa phương.
Các học sinh trường Giám rất được triều đình quan
tâm ưu đãi, được miễn quân dịch, miễn thuế thân và miễn
sưu dịch. Hàng tháng đều được cấp gạo, lương và dầu đèn.
Mức lương cao nhất là Cử nhân cống sinh hạng ưu, hàng
tháng được: tiền 4 quan, gạo 3 phương, dầu 5 cân; thấp nhất
là ấm sinh hạng 3: tiền 1 quan, gạo 1 phương, dầu 2 cân8.
Ngoài ra, triều đình còn dành cho các Giám sinh sự
quan tâm ưu đãi đặc biệt. Đối với những người có cha mẹ
già, có hoàn cảnh khó khăn thì được cấp tiền về thăm. Như
việc anh em Bùi Văn Đỗ được cấp mỗi người 10 quan tiền
để về thăm cha mẹ già trong 3 tháng, hay như Giám sinh
Tạ Đăng Đoài mắc bệnh chết được vua Minh Mệnh xuống

8 Khâm địnlt Dại Nam...Sdd, T 15, tr.498

240
NHO GIÁO - ĐẠO HỌC TRÊN ĐẤT KINH KÌ (THĂNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

chỉ “cấp cho 50 quan tiền, 5 tấm vải, đ ể tỏ lòng thương


xốt”. Năm Minh Mệnh 7 (1826), nhà vua xuống dụ: ‘V ào
tiết mùa đông, khí trời lạnh rét, trẫm nghĩ đến bọn giám
sinh phán nhiều quê hương xa cách, sách đèn vất vả lấy gì
chôhg rét, chuẩn gia ơìì thưởng mỗi người 10 quan tiền đ ể
làm khoản chỉ chăn chiếu"9.
Ở trường Giám, ngày khai giảng diễn ra vào đầu
xuân, sau ngày khai ấn một ngày. Cuối năm, sau ngày xếp
ấn một ngày thì nghỉ giảng. Chương trình học được chia
theo ngày chẩn, ngày lẻ: ‘Trước giảng kinh truyện, sau
giảng đến các sách sử, tính, lý. Tháng nào cũng đến các
n g à y m ồ n g 3 , m ồ n g Q, 17, 2 5 c h iể u t h e o p h é p th i r a đ ẩ u
bài cho học trò tập làm văn. Kỳ nào cũng đem quyển ra
bình duyệt .
Ngoài chương trình học tập như trên, các học sinh
trường Giám còn phải qua nhiều kỳ khảo hạch để phân loại
ra 3 hạng: hạng ưu được tăng lương, hạng bình lương vẫn
như cũ, hạng thứ bị giảm lương hay phạt lương tuỳ theo
mức độ nặng nhẹ.
Người nào cả 3 kỳ khảo hạch đều ở hạng thứ thì sẽ bị
đuổi học. Hàng năm, đến kỳ thi Hội các học sinh trường
Giám phải qua kỳ khảo hạch, chia hạng rồi đợi vua sai
quan khảo hạch lại, ai trúng mới được vào thi Hội.

9 Khâm dịnli Đại Nam...Sdd, 7 7 , tr. 195


Kliâm định Dại Nam...Sdd. T 15, tr.498

241
CHƯƠNG 4: CHẾ ĐỘ HỌC HÀNH THI c ủ CỦA NHO GIÁO TRÊN ĐẮT KINH KỲ

Tính từ năm Minh Mộnh 5 (1824) đến năm Thiệu Trị


4 (1844), triều đình đã 14 lần xuống dụ, chỉ về việc học
của học sinh trường Giám.
4.3. 2. Học tập dưới triều Nguyễn
Các vua nhà Nguyễn đã tiến hành chỉnh đốn và phát
triển học hành, thi cử, trong đó có việc tổ chức biên soạn,
in ấn các tài liệu học. Dưới triều Nguyên, Nho giáo giữ vị
trí chính thống và chi phối hệ tư tưởng nên lẽ đĩ nhiên học
tập cũng gắn chặt với tư tưởng Nho gia. Các sách vở đùng
để học tập nói chung vẫn là các cuốn sách như: Tam tự
kinh, Sơ học vấn tân, Au học ngũ ngôn thi, Hiếu kinh,
Minh đ ạ o g i a h u ấ n , M in h tâ m bử u g iá m , T ứ thư, N g ũ
kinh... là những sách gốc của Nho giáo.
Năm 1803, vua Gia Long quy định sau sơ học đến 8
tuổi trở lên vào bậc tiểu học phải học Hiếu kinh, Trung
kinh, 12 tuổi trở lên thì trước hết học sách Luận ngữ, Mạnh
Tử, thứ đến đọc sách Trung Dung, 15 tuổi trở lên, trước hết
học Kinh Thi, Kinh Thư, thứ đến Kinh Dịch, Kinh Xuân
Thu và sách Chư Tử cùng sách S ử u.
Để phục vụ cho việc học tập và khoa cử, triều đình
cũng chú ý đến biên soạn các loại vãn mẫu. Năm Giáp Tý
(1804), quan Bắc thành tâu: “Hiện nay Thánh thượng lưu ý
việc đào tạo nhân tài... vậy xin chuẩn định học quy khiến

11 Khâm định Đại Nam... Sdd, T .7 , tr.123

242
NHO GIÁO - ĐẠO HỌC TRÊN ĐẤT KINH KÌ (THẢNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

cho người dạy lấy đó mà dạy học trò, học trò lấy đó mà
chuyên nghiệm. Vua chuẩn y lời tâu, sai tham tri bộ binh
là Nguyễn T hể Trực và quan Quốc Tử Giám là Nguyễn
Viết ứng soạn dịch những bài mẩu mới về kinh nghĩa và
văn sách đ ể ban bố, thi hành"12.
Việc thu thập các sách sử cũ cũng được tiến hành. Từ
năm Minh Mệnh thứ 8 (1827) đến năm Tự Đức thứ 2
(1849), triều đình đã ra 6 chỉ và đạo dụ về vấn đề tìm mua
sách vở. Năm Minh Mệnh 20 (1839) xuống dụ: “Nước Đại
Nam vốn được gọi là văn hiến, danh thẩn, chắc cũng có
nhiều sách trước thuật. Nhưng vì từ trước đến nay không
biên tập lại, đến nỗi mất mát, nay ra lệnh truyền dụ thượng
quan trên các địa phương dò hói rộng kháp: phàm quan
lại, s ĩ thứ, nêu có nhà nào tàng trữ các bản trước tác như
thơ ca, truyện, ký, tuỳ, phú, không cứ là tâu đời hay gần
đây, hiện được bao nhiêu đ ề mục, pho, quyển, mà tình
nguyện dâng lên, tất gia ân khen thưởng. Nếu không muốn
đem nộp quan thì chuẩn cho quan địa phương mượn
nguyên bản sao chép ra...”lĩ.
Tự Đức năm thứ 2 (1849) xuống dụ: “Năm nay nhà
nước yên ổn, vãn tự rất thịnh; về việc giảng cầu, tu b ổ ván
hoá, tin là h(fp thời... Chuẩn cho truyền dụ các địa phương
từ hữu kỳ trở ra Bắc, phàm các nhà sĩ thứ, như có dã sử,

12 Nguyền Đình Thảng, Trán Bá Chí..., Khoa cử Việt Nam thế kỷ XI - đầu thế
kỳ XX., Để tài cấp bộ, trường Đại học KHXH và NV, 1994, tr. 187
13 Kltâm định Đại Nam... Sdd, T.7, tr. 183

243
CHƯƠNG 4: CHẾ ĐỘ HỌC HÀNH THI c ử CỦA NHO GIÁO TRẼN ĐÁT KINH KỲ

tạp biên cùng sự tích đời Lê trung hưng trỏ về sau, mà nhà
nào tàng trữ riêng được đều chuẩn cho đem nộp quan,
quan địa phương sở tại liệu cấp trả tiền bạc hậu cho họ đ ể
tỏ sự khuyển khích"'4.
Mặc dù triều đình đã có sự chú ý đến viộc biên soạn
và tìm mua sách vở nhưng vẫn chỉ có thể đáp ứng được
một phần nhỏ nhu cầu của người học: “Người ta chỉ tìm
được trọn bộ các sách vở Trung Hoa ở Hà Nội kinh đô cũ,
và ở Huế. Các sách căn bản được truyền bá đến xã thôn
qua trung gian của các Đốc học và Giáo thụ, nhưng cũng
thiếu cả vẻ phẩm cả vê lượng. Ở đây chúng ta ghi nhận sự
th iếu x á c h h ọ c l à d o th iế u c ơ s ở ấ n l o á t " 15

Vua Minh Mệnh tiếc rằng sách vở còn thiếu nhiều:


“làm cho học trò buộc phải chép tay rất nhiều và phải học
thuộc lòng thay vì đọc một cách thông minh hơn"16.
Bên cạnh việc biên soạn sách vở, nhà Nguyễn cũng
đầu tư khá nhiều công vắo việc tóm lược Bắc sử vốn rất
nhiều bộ, nhiều tập thành một bộ 150 quyển từ Ngũ đế đến
Nguyên-Minh. Ngoài các sách Trung Quốc, nhà Nguyễn
đã chú ý đến việc biên soạn các bộ sử nước nhà nhưng vẫn
chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ so với sách sử Trung Quốc. Vua Minh
Mệnh cũng lưu ý đến việc biên soạn Nam sử khi lập ra

MKhâm định Dại Nam... Sdd, T.7, tr. 183


15 Yoshiharu Tsuboi, Sdd tr.235
16 Emmanuel Poisson, Tạp chí Nghiền cihi lịch sử, Số 4 , tr.64

244
NHO GIÁO - ĐẠO HỌC TRÊN ĐẮT KINH KÌ (THẰNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HẢ NỘI)

Quốc sử quán: “Nếu không có sử s á c h thì lấy gì mà dạy


bảo lâu dài về sau. Trẫm muốn lập sử quán, sai Nho thần
biên soạn quốc sử thực lục đ ể nêu công đức cho đời vê sau
cũng chẳng phải sao?”17. Chính vua Tự Đức cũng nhận
thấy sự hạn chế trong việc sử dụng quá nhiều sách sử của
Trung Quốc: “Gầ/I đây việc học quốc sử chưa ra lệnh bắt
phải gia công, cho nên học trò làm văn, đọc sách chỉ biết
sử Trung Quốc, ít người đoái hoài đến sử nước nhà. Việc
đời c ổ lỗ mà lấy gì làm kinh nghiệm cho đời nay"is.
Điều này chứng tỏ rằng việc học hành và thi cử thời
Nguyễn, tư tưởng sùng Bắc sử và các sách Nho giáo Trung
Quô'c văn còn rất nặng né. Cóc Nho sinh thì học theo lối từ
chương khoa cử, giáo điều và lạc hậu. Triều đình cũng
nhận thức được mối tệ ấy nhưng vì đã trở thành thói quen
lâu đời nên khó có thể sửa chữa được.
Ngoài những bộ sách chính thức của triều đình biên
soạn, in ấn để phục vụ cho việc học tập và khoa cử, nhiều
nhà Nho đã biên soạn thêm những sách dùng cho việc
giảng dạy, nghiên cứu và phổ biến kiến thức với các loại
sách như: loại diễn giải kinh truyện, sách luân lý, thường
thức sơ học, tập làm văn, bộ môri cơ bản, truyện ký...
Những sách này không hẳn là sách giáo khoa của quốc gia

17 Dại Nam thực lục chính biên, Sdd, T .15, tr.204


Nguyễn Đình Thảng, Trán Bá Chí...Sdd, tr. 187

245
CHƯONG 4: CHẾ o ộ HỌC HÀNH THI c ủ CỦA NHO GIÁO TRÊN ĐẤT KINH KỲ

mà thường được lưu hành trong dòng họ, trong một vùng
hoặc được giảng dạy trong các lớp học tư để tham khảo.
Về loại sách diễn giải kinh truyện19: có sách Ngũ
kinh tính lý toát yếu của Phan Bá Đạt (Tiến sĩ năm 1822),
Luận ngữ diễn ca của vua Tự Đức.
Loại sách luân lý20 có các sách: Nữ huấn tân thư của
Ngô Thế Vinh (Tiến sĩ năm 1829), Phụ chân tiện lãm của
Lý Văn Phức (Cử nhân năm 1820), Việt sử thánh huấn
diễn nôm của Đặng Huy Trứ (thủ khoa năm 1847), Gia
Huấn ca hay còn gọi là Thơ Tam khôi của Trần Bích San
(Đình nguyên nảm 1885), Huấn tử quốc âm ca của Đặng
Xuân Bảng (Tiến sĩ năm 1856), Khuyến thiện quốc ngữ ca
của Nguyễn Trinh Hoằng (Cử nhân năm 1848). Đến đầu
thế kỷ X X xuất hiện các sách như: Tân nữ huấn ca của Lê
Đại, và của một số Nho sĩ khuyết danh như Nhật tỉnh
ngâm, Bài ca tứ dân... Nội dung luân lý của các sách này
tuy không vượt ra ngoài lễ giáo phong kiến nhưng được
truyền thụ bằng văn vần quốc âm nên dễ nhớ, dễ hiểu nên
được nhân dân ưa chuông.
Loại thường thức sơ học21 có các sách như: Sách học
vấn tân của Đặng Huy Chú, Tự học Hán tự tân thư của

19 Loại sách diẽn giải kinh truyện: Ghi chép lại lời danh ngôn trong kinh
truyện, có thêm lời bàn và chú dẫn. Loại sách này đến thế kỷ XV III mới xuất
hiện.
20 Loại sách luân lý: Mang nội dung về luân lý, xuất hiện từ đời Trần.
21 Loại thường thức sơ học: là loại sách sơ đảng nhất cho học sinh khi mới
bắt đầu đi học.

246
NHO GIÁO - ĐẠO HỌC TRẼN ĐẮT KINH KÌ (THĂNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

Đoàn Triển và Dương Lâm, Tự học phổ thông của Phạm


Quang Sản...
Loại tập làm vãn22 có các cuốn: Thi pháp tắc ìệ của
Nguyễn Hữu Lập (Đỗ Hoàng giáp năm 1852), Tăn thức
luận thể của Phan Như Khuê (Cử nhân nhăm 1886).
Loại bộ môn cơ bản” có các cuốn như: Bút toán chỉ
nam của Nguyễn cẩm (Cử nhân năm 1879), Việt sử tân ước
toàn biên của Hoàng Đạo Thành (Cử nhân năm 1884), Trung
học Việt sử toát yếu và Trung học Việt sử tân biên toát yểu
của Ngô Giáp Đậu (Cử nhân năm 1891), An Nam sơ học sử
lược dịch của Phạm Văn Thụ (Phó bảng năm 1893).
Có cả sách sử Trung Quốc như Tiểu học Bắc sử lược
biên của Nguyễn Tái Tích (Phó bảng năm 1895) và Bắc sử
tân ban toàn biên của Phạm Quang Sán (Cử nhân năm 1900)
Các nhà Nho đi làm quan ở các địa phương cũng
thường có ý thức biên soạn sách về lịch sử của địa phương
đó. Các loại địa chí, huyện chí, tỉnh chí xuất hiện khá
nhiều. Các sách địa lý tổng hợp thì có các cuốn: Địa lý tiết
yếu của Lê Bá Đôn (Cử nhân năm 1867), Nam quốc địa dư
giáo khoa thư của Lương Trúc Đàm (Cử nhân 1903).

22 Loại tập làm văn: là loại sách chuyên trình bày cách thức làm văn thơ ở
nhà trường cũng như khi đi thi.
Loại bộ môn cơ bản: loại sách này để học sinh tự học, bổ sung thêm kiến
thức về một bộ môn cụ thể.

247
CHƯONG 4: CHẾ ĐỘ HỌC HÀNH THI c ủ CỦA NHO GIÁO TRÊN ĐẮT KINH KỲ

Về ngôn ngữ có các sách dạy chữ Hán cho học sinh có:
Tự học cầu tinh của Đỗ Huy Tuyển (Phó bảng năm 1841),
Ngũ thiên tự của Nguyễn Vân Giao (Thám hoa năm 1853)...
Loại truyện ký24 có các cuốn: Tứ thập bát hiếu của
Đặng Huy Trứ, Khoa bảng tiêu kỳ của Phan Huy Ôn...
Những cuốn sách trên với nội dung khá phong phú đã
góp một phần quan trọng trong những tài liệu học tập và
thi cử. Nếu khảo cứu kỹ lưỡng kho tư liệu này chắc chắn
chúng ta sẽ hiểu thêm về quan điểm giáo dục, phương pháp
sư phạm của giai đoạn lịch sử này.
4.3.3. Các loại hình thi và điều kiện tham dự các
kỳ thi
4.3.3.1. Điều kiện dự thi Hương
Sang đến triều Nguyễn, cũng như các triều đại phong
kiến trước đó, khi tham dự thi Hương các Nho sinh phải
vượt qua kỳ khảo hạch ở địa phương. Năm Minh Mệnh 6
(1825), nhà vua định lệ hàng năm vào các ngày 15 tháng 4
và tháng 10 tổ chức khải hạch. Nội dung khảo đủ đề mục
của 4 kỳ (trường) thi. Học quan địa phương tiến hành sơ
khảo sau đó chuyển đến quan Tế tửu, Tư nghiệp chấm lại.
Thí sinh phải trải qua 4 năm, 8 kỳ khảo hạch, làm đủ văn
thể 4 trường thì mói đủ điểu kiện dự thi. Người đỗ đuợe

24 Loại truyện ký: Là sách viết về những tấm gương sáng về đức hạnh hoặc
trong học tập, thi cử cần noi theo.

248
NHO GIÁO - ĐẠO HỌC TRẼN ĐÁT KINH KÌ (THĂNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

xếp hạng, cho miễn binh đao một năm hoặc nửa năm để
đợi khoa thi25.
Những sĩ tử vượt qua được kỳ khảo hạch sẽ được Lý
trướng lập danh sách chuyển lên quan trấn. Trong danh
sách phải ghi rõ học ở đâu hoặc Đốc học, Giáo thụ, Huấn
đạo là người nào; học ở nhà tư, học của quan địa phương
khác, hoặc những người đã đỗ Tú tài kỳ thi trước... Nếu đỗ
Tú tài mà không tiếp tục dự thi vì có sự cố thì phải có
chứng thực của quan lo việc học ở địa phương.
Mục đích của thi cử dưới thời phong kiến là để tuyển
chon người ra làm quan cai trị, vì vậy ngoài điều kiện phải
vưại qua các kỳ khảo hạch ở địa phương thì việc xcm xct
lý lịch, tư cách đạo đức của thí sinh rất được chú ý. Trong
các quyển thi, thí sinh phải khai rõ lý lịch ba đời, nếu thí
sinh nào man trá sẽ bị trị tội. Những người con nhà xướng
ca có tội: bất hiếu, bất mục, loạn luân, điêu toa26; hoặc
đaig có đại tang đều không được dự thi. Nếu có người đã
đẻ kỳ thi Hương khi đang có tang, bị phát hiện dấu tang sẽ
bị truất. Như khoa thi Hương nãm 1864, ở trường thi Nghệ
An, thí sinh Mai Thế Quý đỗ Giải nguyên (xếp thứ nhất)
nhưng triều đình phát hiện ra đã dấu tang đi thi, nên xoá
têa không cho đỗ khoa này.

25 Xem PL. 1, B.2 : Sô' học trò lấy đỗ hạch ở các địa phương
26 _ẽ Thị Thanh Hoà, Việc đào tạo và sử dụng quan lại cùa triều Nguyền,
N>bKHXH 1998. tr.78

249
C H Ư Ơ N G 4 : C H Ế o ộ H Ọ C HÀNH THI c ử C Ủ A NHO G IÁ O TRÊN Đ Ấ T KINH KỲ

4.3.32. Điều kiện dự thi Hội


Các thí sinh muốn tham dự kỳ thi Hội phải là những
người thuộc các diện sau:
Các thí sinh phải đỗ Cử nhân trong những kỳ thi
Hương trước đó. Những thí sinh ở quê thì do quan địa
phương lập danh sách trình lên bộ Lễ, còn đang có chức vụ
thì quan tại nơi làm việc lập danh sách trình lên. Vào
những khoa thi đầu tiên còn chuẩn cho những người đỗ
Hương cống đời Lê dự thi.
Những Cống sinh, Ấn sinh, Tôn sinh tại Quốc Tử
Giám qua kỳ khảo hạch dự vào hạng ưu, bình chuẩn cho
thi nhưng phải lập danh sách trình lên vua xét.
Những Cống sinh do các trấn đề cử, giao cho các
quan ở Quốc Tử Giám kiểm tra trình độ, nếu tinh thông
văn thể, cấp cho lương ăn để học tập, đợi đến gần kỳ thi sẽ
sát hạch lại, nếu đỗ hạng cao sẽ lập danh sách cho dự thi.
Những Huấn đạo, Giáo thụ giảng dạy xuất thân Tú
tài; những Tôn sinh, Âm sinh đỗ Tú tài thì giao cho những
Giáo quan ở Quốc Tử Giám sát hạch, nếu xếp hạng ưu,
bình thì cho vào dự thi.
Những hạng trên sẽ không được dự thi nếu: Đang
chịu tang cha mẹ hoặc ông bà nội hoặc đỗ Cử nhân giữ
chức vụ nhưng phạm lỗi bị cách chức. Những người đỗ Cử
nhân nãm trước, nếu không dự thi phải làm giấy báo quan
nêu rõ lý do không dự thi.

250
NHO G IÁ O - Đ Ạ O H Ọ C TRÊN Đ Ấ T KINH KÌ (TH Ă N G LO N G - Đ Ổ N G Đ Ô - HÀ N Ộ I)

4.3.3.3. Điều kiện dự thi Đình


Những thí sinh đỗ kỳ thi Hội (gọi là Trúng cách hoặc
Chánh trúng cách) sẽ được vào thi Đình. Các quan Chủ
khảo và Tri cống sử sẽ cãn cứ vào điểm của thí sinh mà lập
ra bảng Giáp và bảng Âl (Chính bảng và Phó bảng). Những
người có tên trong bảng Giáp sẽ được vào thi Đình. Đến
thời Tự Đức vì số người đỗ Chính bảng quá ít nên những
người đỗ Phó bảng cũng được vào thi Đình.
4.3.4. Trường qui tại trường thi
Trường qui của các khoa thi Hương cũng như thi Hội,
thi Đình thông thường bao gồm những qui định sau:
Thí sinh khỏng được mang tài liệu vào trường thi.
Nếu bị phát giác sẽ qui vào tội “Hoài hiệp văn tự”. Theo
qui định này, ai vi phạm sẽ bị đóng gông một tháng, đánh
100 trượng và tước bỏ học vị Cử nhân hoặc Tú tài đã có.
Người phát giác sẽ được thưởng ba lạng bạc. Dưới triều
Nguyễn, nãm 1826 Đặng Tế Mỹ là người đầu tiên vi phạm
qui định này. Phan San (Phan Bội Châu) năm 1897 trong
kỳ thi Hương, lính khám phát hiện có sách. Ông bị tội
“Hoài hiệp văn tự” và bị kết án “chung thàn bất dắc ứng
thí” (suốt đời không được đi thi). Sau đó, do được nhiều
quan lại vận động nên vua Thành Thái đã ra đạo dụ xoá án
cho ông27.

27 v ề sự kiện này, Tôn Quang Phiệt cho rằng một người bạn là ơ i nhân Trần
Văn Lương sợ ông đi thi không nhớ kinh điển nên đã bỏ sách vào tráp của
ông khi ông dang say rượu. Viộc này ông không được biết.

251
C H U Ô N G 4 : C H Ế Đ Ộ H Ọ C HÀNH THI c ử C Ủ A NHO G IÁ O TRÊN Đ Ấ T KINH KỲ

Thí sinh cũng không được nói chuyện ồn ào, đi lại


lộn xộn trong vi28, không trao đổi ý kiến, chép bài hoậc
làm hộ bài cho nhau. Ờ một sô' trường thi có cắm thẻ ghi
tên thí sinh đổ họ cắm lều tại đấy, tránh lộn xộn và tránh
việc thí sinh cô' ý cắm lều gần những người giỏi để hỏi bài.,
hoặc gà bài cho người khác. Tội này phát giác sẽ bị đóng
gông giam trước trường, phạt đánh 100 trượng. Người vá
phạm không những bị tội mà còn truy đến Đốc học, Giáơ
thụ, Huấn đạo tại địa phương cư trú. Trong khoa thi Hộii
năm 1856, Phan Khắc Kiệm đã trao đổi ý kiến với Trầru
Gia Huệ, bắt chước Trần Gia Huộ để làm một số câu trong
bài vãn của mình. Việc bị phát giác, bộ Lễ tâu lên, vua Tụr
Đức lệnh phạt mỗi người 50 trượng.
Ngoài ra, triều đình cũng có quy định phạt nặng đốii
với những người làm bài thi mói thay thế bài thi cũ đã nộp.
Ở khoa thi Hương năm 1834, Nguyễn Văn Giao vàt
Nguyẻn Thái Đễ ở trưừng thi Nghệ An được quan trường
cho viết lại bài thi nộp thế vào bài thi cũ bị đánh hỏng.
Việc vỡ lở, hai ông bị tước bỏ cả học vị Cử nhân.

Lê Thưóc thì cho rằng trước khi đi thi, ông đánh nhau với lính Thể sát nên bị
họ thù ghét, nhét giấy có chữ vào lều rổi vu oan cho.
Xem thêm Nguyễn Thị Chân Quỳnh, Lối xưa xe ngựa, Nxb Văn Nghệ
Tp.HCM và Trung tâm Nghiên cứu quốc học 2000, tr.66.
28 Vi: Nghĩa đen là vây quanh. Đây là tẽn gọi những khu trong 4 khu do
đường thập đạo vạch ra trong trường thi Hương, đánh sô' thứ tự là: Tả, Hữu,
Giáp, Ẳt. Mỗi vi đểu có hàng rào vây quanh và có 2 hoặc 4 cửa ra vào.

252
NH O G IÁ O - Đ Ạ O H Ọ C TRÊN ĐẤT KINH K Ì (TH Ả N G LO N G - Đ Ô N G Đ Ô - HÀ N Ộ I)

Để tránh gian lận, trong quyển thi quan trường thi sẽ


đóng dấu nơi tổ chức thi, kỳ thi (kỳ nhất, nhì, ba hay tư).
Trong quyển đóng dấu giáp phùng, tức là dấu giữa hai tờ
kế tiếp nhau để tránh xé hoặc đóng thêm vào. Ngoài ra,
vào khoảng giữa trưa quan trường còn đóng dấu vào trang
trong quyển thi để chứng tỏ bài văn được làm trong trường
thi gọi là dấu nhật trung. Thí sinh phải mang quyển thi của
mình lên nhà Thập đạo để đóng dấu. Nếu thí sinh quên
đóng dấu nhật trung có nghĩa là đã vi phạm trường qui.
Nếu lầm lẫn tên tuổi bởi Lý trưởng địa phương, thí
sinh có thể cải chính ngay tại trường thi. Nếu cố ý che dấu,
hoặc dùng tên cúa người khác di thi, phái giác đưực sẽ trị
tội, nếu đã đỗ đạt ở các khoa trước cũng bị cách bỏ.
Quyển thi nộp trong thời gian hạn định sẽ được bỏ
vào hòm, niêm phong cẩn thận. Những quyển nộp không
đúng thời hạn qui định cũng nhận, nhưng bỏ ra ngoài hòm
gọi là Ngoại hàm. Quyển thi nộp trong thời hạn qui định,
khi nộp viên Lại điển sẽ lấy dấu Nhật trung đóng ngay ở
cuối bài làm, còn những quyển Ngoại hàm không đóng
dấu. Theo qui định thì vào giờ Thân (3 giờ chiều trở đi) sẽ
bắt đầu thu bài ở nhà Thập đạo. Ai làm bài quá trễ cũng
không được quá canh một (không quá 19 giờ). Ở kinh đô
có súng nổ báo hiệu, ở các trường thi ngoài Kinh thì dùng
tiếng trống.

253
C H Ư O N G 4 : C H Ế Đ Ộ H Ọ C HÀNH THI c ử C Ủ A NHO G IẢ O TRÊN Đ Ấ T KINH KỲ

Nhìn chung, tình hình học tập cũng như thi cử ở thời
Nguyễn mỗi ngày một quy chuẩn hơn. Có nhiều hình thức
thi phù hợp với các cấp học. Có rấi nhiều loại hình trường
học với nhiều cấp học đã làm cho tình hình học tập và thi
cử dưới triều Nguyễn đa dạng và phong phú. Có rất nhiều
khoa thi từ thi Hương, thi Đình đến thi Hội và cũng đã có
khá nhiều những người con của đất kinh kỳ đã thi đỗ trong
các kỳ thi này. Song dẫu sao Thăng Long dưới triều
Nguyễn không còn là kinh đô nữa nên việc thi cử cùa các
đối tượng mà chúng tôi đang khảo sát đã vượt ra khỏi giới
hạn nghiên cứu.

254
N H O G IÁ O - Đ Ạ O H Ọ C TRÊN Đ Ấ T KINH K Ì (TH Ă N G LO N G - Đ Ô N G Đ Ô - HÀ N Ộ I)

Chương V

C ác tiến sĩ Nho học


còn lưu danh trên đất Kinh kỳ

5.1. BIA ĐẠI BẢO TAM NIÊN - TẤM BIA ĐẦU TIÊN
CỦA VĂN MIẾU ĐỂ DANH TIẾN sĩ
Trước tiên chúng ta đều phải nói tới lý do tại sao lại
dựng bia đề danh các tiến sĩ tại Văn Miếu? Lý do này theo
chúng tôi không có gì xác đáng hơn là giới thiệu toàn bộ
bài văn bia của tấm bia có nhan đề: “Đại Bảo tam niên
Nhâm Tuất khoa tiến sĩ đề danh kỷ" dịch ra là: Bài ký đề
bia tiến sĩ khoa Nhâm Tuất niên hiệu Đại Bảo thứ 3 (1442)
với nội dung như sau:
Lớn thay thánh triều!
Đức Thái tổ cao hoàng đế trí dũng trời ban, kinh luân
việc lớn, diệt bạo trừ tàn, cứu dân khỏi lầm than đau khổ,
kíp khí vũ công đại định, văn đức sửa sang; nghĩ muốn
chiêu tập anh tài, canh tân chính trị. Bèn xuống chiếu cho
các nơi trong nước dựng nhà học để bồi dưỡng nhân tài.

255
C H Ư Ơ N G 5 : C Á C TIẾN S Ỹ NHO H Ọ C C Ò N Lưu DANH TRẼN ĐẤT KINH KỲ

Tại kinh đô thì có Quốc Tử Giám, ngoài các phủ có Học


đường. Cao hoàng đế đích thân chọn con cháu các quan và
thường dân tuấn tú vào làm học sinh ở các cục nhị thập,
Còn thi ngự tiến cùng là giám sinh ở Quốc Tử Giám. Lại
sai quan chuyên trách lựa chọn con em các nhà dân lương
thiện vào các nhà phủ học làm sinh đồ, đặt thầy nho dạy
bảo, in kinh sách ban cho, đất trồng tài năng thực đã rộng
mở. Việc khảo thí tuyển kẻ sĩ, hoặc hỏi nghĩa lý kinh điển,
hoặc làm phú luận các đề, hoặc đích thân hoàng đế hỏi vãn
sách, tuỳ tài học từng người mà trọng dụng. Lúc bấy giờ
tên gọi khoa thi tiến sĩ tuy chưa đề ra nhưng thực chất đã
đề cao Nho học và phép chọn người đại khái đã đủ cả. Nền
thái bình muôn thuở thực đã bắt đầu từ đây.
Đẹp thay đức Thái Tông vãn hoàng đế nối giữ nghiệp
lớn, làm rạng rỡ ông cha, xem xét nhân vãn, giáo hoá thiên
hạ. Lấy trọng đạo sùng Nho làm việc cấp. Coi đãi hiển tôn
vua làm mưu tốt. Nghĩ rằng đặt khoa thi kén kẻ sĩ là một
việc chính trị nên làm trước nhất. Tô điểm cơ đồ, khôi
phục mở mang trị hoá thữ do ở đó. Mà sửa sang chính trị
sắp đặt công việc, gây phong tục tốt, cũng là do ở đó. Các
bậc đế vương đời xưa làm nên thị bình ai cũng theo thế.
Thánh tổ cao hoàng đế đã định quy mô, nhưng chưa
kịp thi hành. Làm rạng rỡ đời trước, khuyến khích đời sau,
nay chính là lúc để làm việc ấy. Bèn vào năm Nhâm Tuất
Đại Bảo thứ 3 (1442) mở rộng xuân vi họp thi kẻ sl Bấy

256
N H O G IÁ O - Đ Ạ O H Ọ C TRẼN Đ Ấ T KINH KÌ (TH Ả N G LO N G - Đ Ô N G Đ Ô - H À N Ộ I)

giờ ứng thí bốn trăm nãm mươi người, thi qua 4 trường có
33 người trúng cách. Quan chuyên trách kê tên dâng lên,
Hoàng đế sai chọn ngày vào trong sân rồng ứng đối.
Lúc ấy bề tôi là Thượng thư tả bộc xạ Lê Văn Linh
làm quan Để điệu, Ngự sử đài Thị ngự sử Triệu Thái làm
giám thí quan. Cùng các viên Tuần xước, Thu quyển, Di
phong đằng lạc, Đối độc mỗi người một việc.
Ngày 2 tháng hai, Hoàng đế ngự điện Hội Anh, đích
thân ra đề thi vãn sách. Ngày hôm sau các quan độc quyển
là Hàn lâm viện thừa chỉ học sĩ kiêm Trung thư quốc sử sự
Nguyễn Trãi, Trung thư sảnh Trung thư thị lang Nguyễn
Mộng Tuân, Nội mật viẹn Tri Viẹn sự Trình Thuấn Du.
Quốc tử giám bác sĩ Nguyễn Tử Tấn bưng quyển phụng
đọc, rồi dâng lên vua xét định thứ bậc cao thấp. Ban cho
Nguyên Trực đỗ Trạng nguyên, Nguyễn Như Đổ đỗ Bảng
nhãn, Lương Như Hộc đỗ Thám hoa lang. Bọn Trần Văn
Huy 7 người đỗ tiến sĩ, bọn Ngô Sĩ Liên 23 người đỗ phụ
bảng- đó là theo danh hiệu các đời trước đã có.
Ngày 3 tháng 3 xướng danh treo bảng để tỏ cho kẻ sĩ
thấy sự vẻ vang, ân ban tước trật để đặc cách biểu dương,
cấp áo mũ cân đai để phục sức cho đẹp. Điện Quỳnh Lâm
ban yến để tỏ ý ơn huệ, cấp ngựa đưa về quê để tỏ lòng
mến yêu. Sĩ thứ Trường An đâu đâu cũng tụ tập đứng xem,
đều ca ngợi thánh hoàng chuộng Nho xưa nay ít thấy.

257
CHUONG 5: CÁC TIẾN SỸ NHO HỌC CÒN Lưu DANH TRẼN ĐÁT KINH KỲ

Ngày 4 bọn TYạng nguyên Nguyễn Trực lạy dâng


biểu tạ ơn. Ngày mồng 9 lại bệ kiến cáo từ, xin vinh quy
bái tổ.
Đó là khoa thi đầu tiên trong đời bản triều được ơn
vinh long trọng, đến nay còn được ngợi ca. Từ đó về sau
thánh nối thần truyền, vẫn theo lệ cũ.
Kính nghĩ Hoàng thượng trung hưng nghiệp lớn, rộng
mở nhân văn, đổi mới chế độ, lừng lẫy tiếng tăm. Riêng về
phép lựa chọn kẻ sĩ lại càng lưu ý. Phàm những lề luật
triều trước chưa đủ thì mở rộng thêm. Sau khi truyền lô yết
bảng, lại cho dựng bia đá ghi tên để biểu thị sự khuyến
khích rất mực đến lâu dài. Phép hay ý tốt thật rất mực chu
đáo. Tốt thay đẹp thay!
Nay xét từ năm Đại Bảo thứ 3 đến nay các khoa thi
tiến sĩ còn thiếu chưa được dựng bia đá. Bọn thượng thư bộ
Lễ Quách Đình bảo kính vâng mệnh hoàng thượng khắc họ
tên thứ bậc những người thi đỗ lên đổi danh hiệu Trạng
nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa lang làm tiến sĩ cập đệ cho
hợp với quy chế ngày nay. Hoàng thượng chuẩn tấu, sai
bày tôi là bọn Thân Nhân Trung chia nhau soạn các bài ký.
Thần kính nghe lời truyền ân đức của hoàng thượng, vui
mừng khôn xiết. Kính nghĩ: Việc dựng bia đá là cốt để làm
cho thịnh ý mưu trị cầu hiền của các bậc thánh đế thần
tông được lưu truyền mãi mãi. Đó chính là phép lớn để rèn

258
N H O G IÁ O - Đ Ạ O H Ọ C TRÊN Đ Ấ T KINH KÌ (TH Ă N G LO N G - Đ Ô N G Đ Ô - HÀ N Ộ I)

dũa người đời và là điều rất may cho Nho học. Thần tuy
vụng về nông cạn, đâu dám chối từ. Kính cẩn cúi đầu giập
đầu vái lạy viết bài ký rằng:
Hiền tài là nguyên khí của quốc gia. Nguyên khí
thịnh thì thế nước mạnh và hưng thịnh. Nguyên khí suy thì
thế nước yếu mà thấp hèn. Vì thế các bậc đế vương và
thánh minh chẳng ai không coi việc kén chọn kẻ sĩ bồi
dưỡng nhân tài, vun trồng nguyên khí làm công việc cần
kíp. Bởi vì kẻ sĩ có quan hệ trọng đại với quốc gia như thế,
cho nên được quý chuông không dường nào. Đã được đề
cao bởi khoa danh, lại thêm long trọng bởi tước trật, ơn
ban đã nhiéu mà vân COI là chưa đủ. Lại neu ten ở Tháp
Nhạn, ban danh hiệu long hổ để ngợi khen. Báo tin mở
tiệc, triều đình mừng được người tài, không việc gì không
làm hết mức.
Ngày nay hoàng đế thánh minh lại cho rằng việc lớn
tốt đẹp tuy đã vẻ vang một thời, nhưng lời khen tiếng
thơm chưa đủ để lưu truyền dài lâu cho hậu thế. Vì vậy lại
cho dựng bia đá đề tên đặt ở cửa Hiền Quan để cho kẻ sĩ 4
phương chiêm ngưỡng hâm mộ phấn chấn, rèn luyện danh
tiết, mạnh mẽ tiến lên giúp rập hoàng gia, há chỉ là chuộng
hư danh sính hư văn mà thôi đâu.
Ôi kẻ sĩ ở chốn trường ốc lều tranh, danh phận thật là
nhỏ mọn mà được triều đình đề cao rất mực như thế, thì

259
C H Ư O N G 5 : C Á C TIẾN S Ỹ NHO H Ọ C C Ò N LUU DANH TRÊN ĐẮT KINH K Ỳ

người mang danh kẻ sĩ phải ưọng thân mình mà lo báo


đáp, đáng phải như thế nào?
Hãy đem họ tên những người đỗ khoa này mà điểm
lại, thì thấy: Có người đã đem tài năng văn học, chính trị tô
điểm cho nền trị bình, mấy chục nảm qua quốc gia trọng
dụng. Cũng không phải là không có những kẻ vì tham
nhũng hối lộ mà hư hỏng hoặc rơi xuống hạng gian ác, có
lẽ vì lúc sống bọn họ chưa nhìn thấy tấm bia này. Ví thử
đương thời chính mắt trông thấy thì lòng thiện được
khuyến khích mà ý xấu được ngăn ngừa, mầm nghiệt đâu
dám nẩy sinh ra nữa? Thế là việc dựng tấm bia đá này có
lợi ích rất nhiều; kẻ ác lấy đó làm răn, người thiộn lấy đó
làm gắng, biết rõ đĩ vãng, rộng nhìn tương lai, vừa là để
rèn dũa danh tiết của kẻ sĩ, vừa là để củng cô' mệnh mạng
của nước nhà. Viộc lớn của các bậc Thánh tổ thần tông đặt
ra đâu phải vô ích. Vậy thì ai xem tấm bia này cũng nên
hiểu cái ý sâu ấy. Bề tôi kính ghi.
Phụng trực đại phu Hàn lâm viộn thừa chỉ Đông các
đại học sĩ, bề tôi là Thân Nhân Trang vâng sắc soạn.
Cẩn sự lang Trung thư giám chính tự, bề tôi Nguyễn
Tỗng vâng sắc viết chữ.
Mậu lâm lang Kim Quang môn đã chiếu, bề tôi Tô
Ngại vâng sắc khắc chữ triện.
Hoàng Việt niên hiộu Hồng Đức thứ 15 (1488) ngày
rằm tháng tám dựng bia.

260
NHO G IÁ O - Đ Ạ O H Ọ C TRÊN Đ ẮT KINH KÌ (TH Ả N G LO N G - Đ Ổ N G Đ Ô - HÀ N Ộ I)

Độ nhất giáp 3 người được ban tiến sĩ cập đệ.


1.Nguyễn Trực: Huyện Thanh Oai phủ úng Thiên.
2. Nguyễn Như Đổ: Huyện Thanh Đàm phủ Thường Tín.
3. Lương Như Hộc: Huyện Trường Tân, phủ Hạ Hồng.
Đệ nhị giáp 7 người được ban tiến sĩ xuất thân.
1. Trần Văn Huy: Huyộn Bất Bạt, phủ Thao Quang.
2.Hoàng Sẩn Phu: Huyện Vĩnh Ninh phủ Thiệu Thiên.
3. Nguyễn Hộc: Huyện Thạch Hà phủ Hà Hoa.
4. Vũ Lâm: Huyện Kim Động phủ Khoái Châu.
5. Nguyễn Hữu Phu: huyện Đan Phượng phủ Quốc Oai.
6. Phạm Cư: Huyôn Thượng Phúc phủ Thường Tín.
7. Trần Bá Linh: Huyện Võ Giàng phủ Từ Sơn.
Đệ tam giáp, 23 người, được ban đồng tiến sĩ xuất
thân.
1.Ngô Sĩ Liên: Huyện Chương Đức, phủ úng Thiên.
2.Nguyễn Duy Tắc: Huyện Tiên Lữ phủ Khoái Châu.
3. Nguyễn Cư Đạo: Huyện Gia Định phủ Thuận An.
4. Phan Viên: Huyện Thạch Hà phủ Hà Hoa.
5. Nguyễn Đạt: Huyện Thanh Đàm phủ Thường Tín.
6. Bùi Hưu: Huyện Chương Đức phủ úng Thiên.
7 Phạm Như Trung: Huyện Nam Thanh phủ Nam Sách.
8. Trần Dương: Huyện Đông Yên phủ Khoái Châu.

261
C H Ư O N G 5 : C Á C TIẾN SỸ NHO H Ọ C C Ò N LUU DANH TRÊN ĐẤT KINH KỲ

10. Khắc Hữu Thành: Huyện Thiên Tài phủ Thuận An.
11. Lê Lâm: Huyện Bất Bạt, phủ Thao Giang.
12. Nguyễn Thiện Tích: Huyện Bình Hà phủ Nam Sách.
13. Nguyễn Nghị: Huyện Thanh Lâm phủ Nam Sách.
14. Trịnh Thiết Trường: Huyện Yên Định phủ Thiệu Thiên.
15. Trần Bàn: Huyện Quế Dương phủ Từ Sơn.
16. Nguyễn Quốc Kiệt: Huyện Đông Ngạn, phủ Từ Sơn.
17. Nguyễn Mỹ: Huyện Vĩnh Lai phủ Hạ Hồng.
18. Trịnh Khắc Tuy: Huyện Vĩnh Ninh phủ Thiệu Thiên.
19. Nguyễn Dịch: Huyện Đại An phủ Kiến Hưng.
20. Bùi Lôi Phủ: Huyện Phú Xuyên phủ Thường Tín.
21. Lê Cảu: Huyện Phúc Thọ, phủ Quốc Oai.
22. Lê Hiền: Huyện Thanh Lâm phủ Nam Sách.
23. Nguyễn Nguyên Chấn: Huyện Thanh Lâm phủ Nam
Sách.
Trong quá trình nghiên cứu 82 tấm bia tiến sĩ hiện
còn trong Văn Miếu chúng tôi đã nhận thấy thay vì công
bố bản dịch các văn bia này bằng một loạt các thông kê
như: số lượng những quan tế tửu tại Vãn Miếu. Hay danh
sách các Trạng nguyên từ 1442 đến 1779... Những tư liệu
này chắc chắn sẽ có ích cho những người quan tâm nghiên
cứu về khoa bảng Việt Nam thời Lê.

262
NHO G IÁ O - Đ Ạ O H Ọ C TRÊN ĐẮT KINH KÌ (TH ĂN G LO N G - Đ Ô N G Đ Ô - HÀ N Ộ I)

5.2. DANH SÁCH CÁC VỊ QUAN TÊ TỦXJ VÀ Tư


NGHIỆP TẠI QUỐC TỬ GIÁM - HÀ NỘI
1. Chu Văn An. Tế tửu (1328) . (1292-1370). Xã Quang
Liệt, huyện Thanh Đàm. Thái học sinh.
2. Nguyền Phi Khanh. Tư nghiệp(1400). (1355-1448). Xã
Nhị Khê, huyện Thượng Phúc. Bảng Nhãn.
3. Lý Tử Tấn. Tế tửu ... (1378- 1457). Xã Triệu Liệt,
huyện Thượng Phúc. Thái học sinh.
4. Vũ Mộng Nguyên. Tế tửu ... (1380- ?). Xã Viên Khê
huyện Đông Sơn. Thái học sinh năm 1400.
5. Nguyễn Thành. Tế tửu ... . Huyện Thần Khê. Thái học
sinh 1400
6. Nguyễn Thiên Túng. Tư nghiệp 1499. Huyện Đông
Ngàn. Đỗ khoa Minh Kinh 1429.
7 Nguyễn Bá Ký: Tế tửu 1463. Xã Văn Nội huyện Chương
Đức. Hoàng giáp 1448.
8. Thân Nhân Trung: Tế tửu . (1418-1490). XãYên Ninh
huyện Yên Dũng. Tiến sĩ 1469.
9. Nguyễn Như Đổ: Tế tứu 1496.(1424-1525). Xã Đại
Lan, huyện Thanh Đàm. Bảng nhãn 1442.
10. Lê Nhuân: Tế tửu. ?
11. Bùi Xương Trạch: Tế tửu .(1438-?). Xã Định Công,
Thanh Đàm. Tiến sĩ 1478.

263
C H Ơ Ơ N G 5: C Á C TIẾN SỸ NHO H Ọ C C Ò N LUU DANH TRÊN ĐÁT KINH KỲ

12. Phan úng Toán: Tế tửu . Xã Đông Bàn Thạch, Thạch


Hà. Tiến sĩ 1481.
13. Lê Tung: Tế tửu 1512 . (1451-?). Xã Yên Cừ huyện
Thanh Liêm. Hoàng giáp 1484. (Trước có tên là Dương
Bang Bản).
14. Đinh Doãn Minh: Tư nghiệp. Xã Hương Gian, huyện
Đường An. Tiến sĩ 1490.
15. Lê Hiếu Trung: Tư nghiệp. Xã Chi Nê, huyện Chương
Đức. Tiến sĩ 1502.
16. Nguyễn Hiếu Từ: Tư nghiệp (1459-?). Xã Bình
Sơn,huyện Đông Ngàn. Tiến sĩ năm 1505.
17. Hứa Tam Tính: Tư nghiệp. (1476-?). Xã Vọng Nguyệt,
huyện Yên Phong. Bảng nhãn 1508.
18. Nguyễn Trọng Hiệu: Tế tửu. (1486-?). Xã Đại Đồng
huyện Siêu Loại. Tiến sĩ 1514.
19. Nguyễn Doãn Địch: Tế tửu. (1490-?). Xã Hoàng Phi,
huyện Lương Tài. Hoàng giáp 1529.
20. Hoàng Sĩ Khải: Tế tửu. (1527-1613). Xã Lai Xá, huyện
Lương Tài. Tiến sĩ 1544.
21. Phùng Khắc Khoan: Tế tửu. (1527-1613). Xã Phùng
Xá, huyện Lương Tài. Hoàng giáp 1580.
22. Lương Chí: Tế tửu. (1542-?). Xã Tào Sơn, huyện Ngọc
Sơn. Hoàng giáp 1589.

264
N HO G IÁ O - Đ Ạ O H Ọ C TRÊN ĐẤT KINH KÌ (TH Ă N G LO N G - Đ Ô N G Đ Ô - HÀ N Ộ I)

23. Ngô Trí Hoà: Tế tửu. (1565-?). Xã Lý Trai, huyện


Đông Thành. Hoàng giáp 1592.
24. Nguyễn Thực: Tư nghiệp 1632. (1555-?). Xã Vân
Điềm, huyện Đông Ngàn. Hoàng giáp 1595.
25. Nguyễn Duy Thì: Tế tửu 1651. (1572-1651). Xã Yên
Lãng huyện Yên Lãng. Tiến sĩ 1598.
26. Nguyễn Lễ: Tế tửu. (1564-?). Xã Yên Lãng, huyện
Yên Lãng. Tiến sĩ 1598.
27. Nguyễn Nghi: Tế tửu. (1589-?). Xã Vân Điềm, huyện
Đông Ngàn. Tiến sĩ 1620.
28. Dương Cao: Tế tửu . Xã Hà Lỗ, huyện Đông Ngàn.
Hoàng giáp 1628.
29. Nguyễn Quang Nhạc: Tư nghiệp. (1626-1706). Xã
Hoài Bão, huyện Tiên Du. Tiến sĩ 1608. Trước có tên:
Nguyễn Kiều Nhạc.
30. Nguyễn Vãn Quảng. Tế tửu. (1613-?). Xã Sơn Đồng
huyện Đan Phượng. Tiến sĩ 1640.
31. Nguyễn Chiêm; Tư nghiệp . Đỗ khoa Đông các 1657.
32. Nguyễn Long Bảng: Tư nghiệp. (1652-?). Xã Chán Hộ
huyện Yên Phong. Tiến sĩ 1683.
33. Trương Công Giai: Tế tửu 1721. (1665-?). Xã Thiên
Kiện, huyện Thanh Liêm.
34. Tạ Đăng Huân: Tế tửu 1728. Xã Đại Phùng huyện Đan
Phượng. Tiến sĩ 1700.

265
C H U Ô N G 5 : C Á C TIẾN SỸ fJH O H Ọ C C Ò N iưu DANH TRÊN ĐÁT KINH KỲ

35. Nguyễn Trù: Tư nghiệp 1728. (1668-?). Phường Đông


Tác, huyện Thọ Xương. Hoàng giáp 1697.
36. Trịnh Huệ: Tế tửu 1741. (1704-?). Sóc Biện thượng,
Vĩnh Phúc. Trạng nguyên 1733.
37. Từ Bá Cơ: Tư nghiệp. (1683-?). Xã Phương Quế, huyện
Thượng Phúc. Tiến sĩ 1712.
38. Trần Xuân Yến: Tế tửu. (1639-?). Xã Yên Lạc, huyện
Thanh Lâm. Tiến sĩ 1721.
39. Hà Tông Huân: Tế tửu 1763. (1679- ?). Xã Kim Vực
huyện Yên Định. Bảng nhãn 1724.
40. Nguyễn Công Thái: Tế tửu . Đỗ Khoa Đông các 1728.
41. Nhữ Đình Toán: Tế tửu 1756. (1703-?). Xã Hoàng
Trạch, huyện Đường An. Tiến sĩ 1736.
42. Nguyễn Bá Lân: Tư nghiệp 1756. (1701-?). Xã c ổ Đô,
huyện Tiên Phong. Tiến sĩ 1748.
43. Vũ Miên: Tế tửu. (1726-1784). Xã Xuân Lan, huyện
Lương Tài. Tiến sĩ 1748.
44. Lê Quý Đôn: Tế tửu 1766. (1726-1784). Xã Diên Hà,
huyện Diên Hà. Bảng Nhãn 1752.
45. Nguyễn VT: Tế tửu . ?
46. Lý Trần Quán. Tư nghiệp. (7-1786). Xã Vân Canh,
huyện Từ Liêm. Tiến sĩ 1776.

266
NHO G IẢ O - Đ Ạ O H Ọ C TRẼN Đ Ắ T KINH K Ì (TH Ả N G LO N G - Đ Ô N G Đ Ô - HÀ N Ộ I)

5.3. CÁC TIẾN Sĩ NHO HỌC TRÊN ĐẤT KINH KỲ


1. Hoàng Nhật Ái, người xã Thượng Yên Quyết
(làng Giấy), huyện Từ Liêm (nay thuộc phường Yên Hoà,
quận Cầu Giấy). Năm 26 tuổi đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ
xuất thân khoa Bính Tuất, niên hiệu Thống Nguyên, đời
vua Lê Cung Hoàng (năm 1526).
2. Chu Văn An (1292-1370), người xã Quang Liệt,
huyện Thanh Đàm (nay là thôn Quang Liệt, xã Thanh Liệt,
Thanh Trì - Hà Nội) đỗ Thái học sinh đời Trần.
3. Vũ T á An, người xã Thổ Khối, huyện Gia Lâm
(nay là thôn Thổ Khối, phường Cự Khối, quận Long Biên).
Cử nhân khoa Canh Tý (năm 1840), Phó bảng khoa Tan
Sửu, niên hiệu Thiệu Trị (năm 1841).
4. Ngô Anh, người làng Đặng Xá (nay là thôn Đặng
Xá, xã Đặng Xá, Gia Làm). Đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ
xuất thân khoa Nhâm Thìn, niên hiệu Hồng Đức, đời vua
Lê Thánh Tông (nãm 1472)
5. Nguyễn Am. người xã Tây Mỗ, nay là Kẻ Mỗ, xã
Tây Mỗ, huyện Từ Liêm. Năm 18 tuổi đỗ đệ tam giáp
đổng tiến sĩ xuất thân khoa Quý Dậu, niên hiệu Thái Hoà,
đời vua Lê Nhân Tông (năm 1453).
6. Nguyễn Quý Ân (1673-1722), người xã Thiên Mỗ
(nay là thôn Đại Mỗ, xã Đại Mỗ, huyện Từ Liêm). Trước
ông đỗ khoa Sĩ Vọng. Sau đỗ đệ nhị tiến sĩ xuất thân

267
CHUONG 5: CÁC TIẾN SỸ NHO HỌC CÒN Lưu DANH TRẼN ĐẤT KINH rỲ

(Hoàng Giáp) khoa Ất Mùi, niên hiệu Vĩnh Thịnh, đời vua
Lê Dụ Tông (năm 1715).
7. Nguyễn Đình Bách, người xã Nguyệt Áng (Làng
Nguyệt) (nay là thôn Nguyệt Áng, xã Đại Áng, huyện
Thanh Trì). Năm 24 tuổi đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất
thân khoa Quý Hợi, niên hiộu Chính Hoà, đời vua Lê Hy
Tông (năm 1683).
8. Nguyễn Quý Ban, người xã Nhân Mục Cựu,
huyện Thanh Trì (nay thuộc phường Hạ Đình, quận Thanh
Xuân). Năm 41 tuổi đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân
khoa Đinh Mùi, niên hiệu Chiêu Thống, đời vua Lê Mẫn
Đ ế (năm 1787).
9. Lê Kim Bảng, người phường Thái Cực, huyện
Vĩnh Xương (nay là phường Hàng Đào, quận Hoàn Kiếm).
Năm 40 tuổi đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa
Nhâm Thìn, niên hiệu Hồng Ninh, đời vua Mạc Mậu Hợp
(năm 1592).
10. Nguyễn Đương Bao (1647-1727), người xã Tây
Mỗ, huyện Từ Liêm, (nay là thôn Tây Mỗ, xã Tây Mổ,
huyện Từ Liêm). Năm 26 tuổi đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ
xuất thân khoa Quý Sửu, niên hiệu Dương Đức, đời vua Lê
Gia Tông (năm 1673).
11. Chu Đình Báo, người xã Quang Liệt, huyện
Thanh Đàm (nay là thôn Quang Liệt, xã Quang Liệt,

268
N H O G IÁ O - Đ Ạ O H Ọ C TRẼN Đ Ấ T KINH KÌ (TH Ă N G LO N G - Đ Ô N G Đ Ô - HÀ N Ộ I)

huyện Thanh Trì). Nãm 32 tuổi đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ


xuất thân khoa Giáp Thìn, niên hiệu Hồng Đức, đời vua Lê
Thánh Tông (năm 1484)
12. Nguyễn Đình Bật, người xã Cán Khê, huyện
Kim Hoa (nay là thôn Cán Khê, xã Nguyên Khê, huyện
Đông Anh). Đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa
Mậu Tuất, niên hiệu Hồng Đức, đời vua Lê Thánh Tông
(năm 1478).
13. Đỏ Công Bật, người xã Thượng Tốn (nay là thôn
Thượng Tốn, xã Đa Tốn, huyện Gia Lâm). Thi đỗ khoa Sĩ
Vọng. Đến năm 33 tuổi đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất
thân khoa Ất Siru, niên hiẹu Chính Hơà, đời vua Le Ily
Tông (năm 1685).
14. Nguyễn Quang BỊ, người xã Minh Cảo (nay là
thôn Xuân Tảo, xã Xuân Đỉnh, huyện Từ Liêm). Đỗ đệ
tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Mậu Tuất, niên hiệu
Đại Chính, đời vua Mạc Đăng Doanh (năm 1538).
15. Bùi Huy Bích (1744-1818), người làng Giáp Nhị,
xã Thịnh Liệt, huyện Thanh Trì (nay thuộc phường Thịnh
Liệt, quận Hoàng Mai). Nãm 25 tuổi đỗ Đình nguyên, đệ
nhị giáp tiến sĩ xuất thân (Hoàng Giáp) khoa Kỷ Sửu, niên
hiệu Cảnh Hưng, đời vua Lê Hiển Tông (năm 1769).
16. Dương Bính, người xã Hà Lỗ, huyện Đông Ngàn
(nav là thôn Hà Phong, xã Liên Hà, huyện Đông Anh). Đỗ

269
CHƯƠNG 5: CÁC TIẾN SỸ NHO HỌC CÒN Lưu DANH TRÊN ĐẤT KINH KỲ

đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Bính Tuất, niên
hiệu Hồng Đức, đời vua Lê Thánh Tông (năm 1478).
17. Hoàng Bồi, người xã Thượng Yên Quyết (Làng
Giấy), huyện Từ Liêm (nay thuộc phường Yên Hòa, quận
Cầu Giấy). Đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoia
Mậu Thìn, niên hiệu Sùng Khang, đời vua Mạc Mậu Hợịp
(nãm 1568).
18. Lê Cán, người xã Tương Mai, huyện Thanh Trì
(nay thuộc phường Tương Mai, quận Hoàng Mai). Đỗ đệ
tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Canh Tuất, niên hiệiu
Cảnh Lịch, đòi vua Mạc Phúc Nguyên (năm 1550).
19. Đô Cảnh, người xã Quang Liệt, huyộn Thanh
Đàm (nay là thôn Quang, xã Thanh Liệt, huyện Thanh
Trì). Đỗ đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân (Hoàng Giáp) khoa
Âí Sửu, niên hiệu Chính Trị, đời vua Lê Anh Tông (năm
1565).
20. Nguyễn Cảnh, người xã Thượng Cát (nay là thôni
Thượng Cát (làng Kẻ), xã Thượng Cát, huyện Từ Liêm)..
Năm 31 tuổi đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoai
Tân Sửu, niên hiệu Quảng Hoà, đời vua Mạc Phúc Hảii
(năm 1541).
21. Nguyễn Huy Cận (1729-1790), người xã Phú
Thị (nay là thôn Phú Thị, xã Phú Thị, huyện Gia Lâm).
Năm Đinh Sửu, niên hiệu Cảnh Hưng, đời vua Lê Hiển

270
N H O G L Á O - Đ Ạ O H Ọ C TRẼN Đ Ấ T KINH K Ì (TH Ằ N G LO N G - Đ Ô N G Đ Ô - H À N Ộ I)

Tông, Ông đỗ khoa Hoành Từ. Ba năm sau, tại khoa Canh
Thìn ông đỗ Hội nguyên, đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất
thân khoa Canh Thìn, niên hiệu Cảnh Hưng, đời vua Lê
Hiển Tông (năm 1760).
22. Nguyễn Đảng cẩ m , người xã Bát Tràng (nay là
thôn Bát Tràng, xã Bát Tràng, huyện Gia Lâm). Trước đỗ
khoa Sĩ Vọng. Năm 40 tuổi đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ
xuất thân khoa Mậu Tuất, niên hiệu Vĩnh Thịnh, đời vua Lê
Dụ Tông (1718).
23. Dương Cảo, người xã Hà Lỗ, huyện Đông Ngàn,
(nay là thôn Hà Phong, xã Liên Hà, huyện Đông Anh).
Năm 42 tuổi đỗ đệ nhị giáp liến sĩ xuất thân (Iloàng Giáp)
khoa Mậu Thìn, niên hiệu Vĩnh Tộ, đời vua Lê Thần Tông
(năm 1628).
24. Bùi Cầu, người xã Hoằng Liệt, huyện Thanh Trì
(nay chưa rõ là thôn Tứ Kỳ hay Pháp Vân thuộc phường
Hoằng Liệt, quận Hoàng Mai). Năm 51 tuổi đỗ đệ tam
giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Kỷ Mùi, niên hiệu Hoằng
Định, đời vua Lê Kính Tông (năm 1619).
25. Nguyễn Cầu, người xã Yên Khê, huyện Đống
Ngàn (nay là thôn Yên Khê, xã Yên Thường, huyện Gia
Lâm). Nãm 34 tuổi đỗ Hội nguyên, đệ tam giáp đồng tiến
sĩ xuất thân khoa Tân Sửu, niên hiệu Cảnh Hưng, đời vua
Lê Hiển Tông (năm 1781).

271
C H U O N G 5: C Á C TIẾN S Ỹ NHO H Ọ C C Ò N Lưu DANH TRẼN Đ Ắ T KINH KỲ

26. Đặng Công Chất, người xã Phù Đổng, huyộn


Tiên Du, trấn Kinh Bắc (nay là thôn Phù Đổng (Làng
Dóng), xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm). Năm 39 tuổi đỗ đệ
nhất giáp tiến sĩ cập đệ, đệ nhất danh (Trạng Nguyên) khoa
Tân Sửu, niên hiệuVĩnh Thọ, đời vua Lê Thần Tông (năm
1661).
27. Ngô Đình Chất, còn gọi là Ngô Đình Oánh,
người xã Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai (nay là thôn Tả
Thanh Oai, xã Tả Thanh Oai, huyện Thanh Trì). Nãm 35
tuổi đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Tân Sửu,
niên hiệu Bảo Thái, đời vua Lê Dụ Tông (năm 1721).
28. Hoàng Quán Chi, người làng Cót, huyện Từ
Liêm (nay là phường Yên Hoà - Cầu Giấy). Đỗ Thái học
sinh khoa Quý Dậu, niên hiệu Quang Thái đời vua Trần
Thuận Tông (năm 1393).
29. Phạm Công Chí, người xã Khương Đình, huyện
Thanh Trì (nay thuộc phường Khương Đình, quận Thanh
Xuân). Năm 35 tuổi đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân
khoa Kỷ Sửu, niên hiệu Cảnh Hưng, đời vua Lê Hiển Tông
(năm 1769).
30. Phạm Thọ Chỉ (1539 -1581), người xã Đông
Ngạc (nay là thôn Đông Ngạc (Làng Vẽ), xã Đông Ngạc,
huyện Từ Liêm). Năm 26 tuổi đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ
xuất thân khoa Canh Thìn, niên hiệu Diên Thành, đời vua
Mạc Mậu Hợp (năm 1580).

272
NHO G IÁ O - O Ạ O H Ọ C TRÊN ĐẤT KINH K Ì (TH Ả N G LO N G - Đ Ô N G Đ Ô - H À N Ộ I)

31. Nguyễn Chỉ, người xã Tả Thanh Oai, huyện Thanh


Oai, nay là làng Tó Tả, xã Tả Thanh Oai, huyện Thanh Trì.
Đỗ đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Quý Dậu niên
hiệu Thái Hoà, đời vua Lê Nhân Tông (năm 1453).
32. Nguyễn Nhân Chính, người xã Kim Lũ, huyện
Thanh Trì, (nay là thôn Kim Giang (Làng Lủ Cầu), phường
Đại Kim, quận Hoàng Mai). Năm 30 tuổi đỗ độ tam giáp
đồng tiến sĩ xuất thân khoa Giáp Tuất, niên hiệu Đức
Long, đời vua Lê Thần Tông (năm 1634).
33. Nguyễn Chính, người xã Linh Đường, huyện
Thanh Trì (nay là thôn Đại Từ, phường Đại Kim, quận
Hoàng Mai). Năm 40 tuối đỗ đệ tam giáp đóng tiên sĩ xuât
thân khoa Nhâm Dần, niên hiệu Hoằng Định, đời vua Lê
Kính Tông (năm 1602).
34. Đoàn Chú, người xã Phù Lỗ, huyện Kim Anh
(nay thuộc thôn Phù Lỗ Đoài, xã Phù Lỗ, huyện Sóc Sơn).
Năm 31 tuổi đỗ Đình Nguyên, đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân
(Hoàng Giáp) khoa Bính Dần, niên hiệu Cảnh Hưng đời
vua Lê Hiển Tông (năm 1746).
35. Vũ Tuấn Chiêu, người phường Nhật Chiêu,
huyện Quảng Đức (nay thuộc phường Nhật Tân, quận Tây
Hồ). Năm 49 tuổi đỗ đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ, đệ nhất
danh (Trạng nguyên) khoa Ât Mùi, niên hiệu Hồng Đức,
đời vua Lê Thánh Tông (nãm 1475).

273
C H U O N G 5 : C Á C TIẾN SỸ NHO H Ọ C C Ò N LUU DANH TRẼN ĐÁT KINH KỲ

36. Phạm Gia Chuyên (1791-1862), người xã Đông


Ngạc (nay là thôn Đông Ngạc, xã Đông Ngạc, huyện Từ
Liêm). Cử nhân khoa Tân Mão (năm 1831). Nãm 41 tuổi
đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Nhâm Thìn,
niên hiệu Minh Mạng (năm 1832).
37. Hoàng Đình Chuyên, người xã Linh Đường,
huyện Thanh Trì (nay là thôn Linh Đàm, phường Hoàng
Liệt, quận Hoàng Mai). Cử nhân khoa Mậu Thân (năm
1848). Năm 37 tuổi đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân
khoa Kỷ Dậu niên hiệu Tự Đức (nămn 1849).
38. Nguyễn Chưởng, người xã Thanh Thuỷ, huyện
Tân Phúc (nay là thôn Thanh Thuỷ Đông, xã Đức Hoà,
huyện Sóc Sơn). Năm 26 tuổi đỗ đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất
thân (Hoàng Giáp) khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Cảnh
Thống, đời vua Lê Hiến Tông (năm 1502).
39. Đàm Công, người phường Vĩnh Thái, huvện Vĩnh
Xương (nay thuộc phường Hàng Đào, quận Hoàn Kiếm). Đỗ
đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Bính Tuất, niên hiệu
Đoan Thái, đời vua Mạc Mậu Hợp (năm 1586).
40. Lưu Danh Công (1644-1675), người xã Phương
Liệt, huyện Thanh Trì (nay thuộc phường Phương Liệt,
quận Thanh Xuân). Năm 26 tuổi đỗ đệ nhất giáp tiến sĩ cập
đệ, đệ nhất danh (Trạng nguyên) khoa Canh Tuất, niên
hiệu Cảnh Trị, đời vua Lê Huyền Tông (năm 1670).

274
NHO G IÁ O - Đ Ạ O H Ọ C TRẼN Đ Ấ T KINH K Ì (TH Ả N G LO N G - Đ Ó N G Đ Ô - H À N Ộ I)

41. Nguyễn Đăng Cơ, người xã Võng La, huyện Yên


Lãng, (nay là thôn Võng La, xã Võng La, huyện Đông
Anh). Năm 40 tuổi đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân
khoa Canh Dần, niên hiệu Vĩnh Thịnh, đời vua Lê Dụ
Tông (năm 1710).
42. Nguyễn Cơ, người xã Thuỵ Hà, huyện Kim Hoa
(nay là thôn Thuỵ Hà, xã Bắc Hồng, huyện Đông Anh).
Năm 34 tuổi đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa
Nhâm Thìn, niên hiệu Vĩnh Thịnh, đời vua Lê Dụ Tông
(năm 1712).
43. Nguyễn Công Cơ, hiệu là Nghĩa Trai, người làng
Minh Quả (nay là thôn Xuân Tảo (Làng Cáo), xã Xuan
Đỉnh, huyện Từ Liêm). Năm 21 tuổi đỗ đệ tam giáp đồng
tiên sĩ xuất thân khoa Đinh Sửu, niên hiệu Chính Hoà, đời
vua Lê Hy Tông (năm 1697).
44. Nguyễn Sĩ Cốc (1888-1974), còn gọi là Nguyễn
Sĩ Giác. Ông người xã Kim Lủ, huyện Thanh Trì (nay là
thôn Kim Lủ, phường Đại Kim, quận Hoàng Mai). Vốn là
ấm sinh tú tài. Năm 22 tuổi đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ
xuất thân khoa Canh Tuất, niên hiệu Duy Tân (nãm 1910).
45. Ngô Tông c ủ , người xã Hà Vĩ, huyện Đông
Ngàn (nay là thôn Đại VT, xã Liên Hà, huyện Đông Anh).
Đỗ đệ nhị tiến sĩ xuất thân (Hoàng Giáp) khoa Giáp Tuất,
niên hiệu Hồng Thuận, đời vua Lê Tương Dực (năm 1514).

275
C H Ư O N G 5 : C Á C TIẾN S Ỷ NHO H Ọ C C Ò N LUU DANH TRÊN ĐÁT KINH KỲ

46. Nguyễn Như Cương, người xã Cự Linh, huyộn


Gia Lâm (nay là thôn Cự Linh, phường Thạch Bàn, quận
Long Biên). Năm 22 tuổi, đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất
thân khoa Ât Mùi, niên hiệu Đại Chính, đời vua Mạc Đăng
Doanh (năm 1535).
47. Lê Vô Cương(1481-1526), người xã Thiên Biểu,
huyện Yên Lãng (nay là thôn Bầu, xã Kim Chung, huyện
Đông Anh). Năm 30 tuổi đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất
thân khoa Tân Mùi, niên hiệu Hồng Thuận, đời vua Lê
Tương Dực (năm 1511).
48. Phan Tự Cường, người xã Võng La, huyện Yên
Lãng (nay là thôn Võng La, xã Võng La, huyện Đông
Anh). Năm 34 tuổi đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân
khoa Canh Tuất, niên hiệu Cảnh Trị, đời vua Lê Huyền
Tông (năm 1670).
49. Đỗ Lệnh Danh (1677-1747), người xã Nhân
Mục Cựu (Làng Thượng Đình hay Mọc Thượng), huyện
Thanh Trì, (nay thuộc phường Hạ Đình, quận Thanh
Xuân). Năm 43 tuổi đỗ đệ tam giáp đổng tiến sĩ xuất thân
khoa Canh Dần, niên hiệu Vĩnh Thịnh, đời vua Lê Dụ
Tông (năm 1710).
50. Phạm Hiển Danh (1616-1649), người xã Đông
Ngạc (nay là thôn Đông Ngạc (Làng Vẽ), xã Đông Ngạc,
huyện Từ Liêm). Năm 30 tuổi đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ

276
NHO G IÁ O - Đ Ạ O H Ọ C TRẼN ĐẤT KINH KÌ (TH Ă N G LO N G - Đ Ô N G Đ Ô - H À NỘ I)

xuất thân khoa Bính Tuất, niên hiệu Phúc Thái, đời vua Lê
Chân Tông (năm 1646).
51. Lê Dao, người xã Phù Ninh, huyện Đông Ngàn
(nay là thôn Phù Ninh (Làng Nành), xã Ninh Hiệp, huyện
Gia Lâm). Đỗ đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân (Hoàng Giáp)
khoa Kỷ Mùi, niên hiệu Quang Bảo, đời vua Mạc Phúc
Nguyên (năm 1559).
52. Nguyễn Huy Dận (1708-1780), người xã Phú
Thị (nay là thôn Phú Thị, xã Phú Thị, huyện Gia Lâm).
Ông đỗ Giải nguyên khoa Kỷ Dậu (1729). Sau ông đỗ đệ
tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Mậu Thìn, niên hiệu
Cảnh Hưng, đời vua Lê Hiến Tông (năm 1748).
53. Ngô Tuân Dị, người xã Tả Thanh Oai, huyện
Thanh Oai (nay là thôn Tả Thanh Oai (làng Tó Tả), xã Tả
Thanh Oai, huyện Thanh Trì). Năm 33 tuổi đỗ đệ tam giáp
đồng tiến sĩ xuãt thân khoa Mậu Thìn, niên hiệu Chính
Hòa, đời vua Lê Hy Tông (năm 1688).
54. Lê Đình Diên (1824-1883), người làng Hạ Đình,
xã Nhân Mục Cựu, huyện Thanh Trì, (nay thuộc phường
Hạ Đình, quận Thanh Xuân). Cử nhân khoa Mậu Thân
(năm 1848). Năm 25 tuổi đỗ Hội nguyên, đệ nhị giáp tiến
sĩ xuất thân (Hoàng Giáp) khoa Kỷ Dậu, niên hiệu Tự Đức
(năm 1849).

277
C H U Ô N G 6 : C Á C TIẾN SỸ NH O H Ọ C C Ò N LUU D AN H TRẼN Đ ÁT KINH KỲ

55. Đăng Công Diễn, người xã Phù Đổng, huyện


Tiên Du (nay là thôn Phù Đổng, xã Phù Đổng, huyện Gia
Lâm). Thi Hương đỗ Giải nguyên. Năm 29 tuổi đỗ Hội
nguyên, Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Đinh
Mùi, niên hiệu Bảo Thái, đời vua Lê Dụ Tông (1727).
56. Nguyễn Gia Du, người xã Triều Khúc, huyện
Thanh Oai (nay là thôn Triều Khúc, xã Tân Triều, huyện
Thanh Trì). Đỗ độ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Âi
Sửu, niên hiệu Đoan Khánh, đời vua Lê Uy Mục (năm
1505).
57. Ngô Thế Dụ, người xã Khê Nữ, huyện Kim Hoa
(nay là thổn Khô Nữ, xã Nguyên Khê, huyẻn Đông Anh).
Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Nhâm Tuất, niên
hiệu Đại Bảo, đời vua Lê Thái tông (năm 1442).
58. Đoàn Quang Dung, hay còn gọi là Đoàn Bá
Dung (1681-1741); người xã Phú Thị (nay là thôn Phú Thị
(Làng Sủi), xã Phú Thị, huyện Gia Lâm). Năm 29 tuổi đỗ
đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Canh Dần, niên
hiệu Vĩnh Thịnh, đời vua Lê Dụ Tông (năm 1710).
59. Nguyễn Khánh Dung, người xã Tả Thanh Oai,
huyện Thanh Oai (nay là thôn Tả Thanh Oai, xã Tả Thanh
Oai, huyện Thanh Trì). Đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất
thân khoa Mậu Tuất, niên hiệu Hồng Đức, đời vua Lê
Thánh Tông (năm 1478).

278
N H O G IÁ O - Đ Ạ O H Ọ C TRẼN Đ Ấ T KINH KÌ (TH Ă N G LO N G - Đ Ô N G Đ Ô - H À N Ộ I)

60. Phạm Quang Dung, hay còn gọi là Công Dung


(1675-1739), người xã Đông Ngạc (nay là thôn Đông
Ngạc, xã Đông Ngạc, huyện Từ Liêm). Năm 31 tuổi đỗ
Đình nguyên, đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Bính
Tuất, niên hịêu Vĩnh Thịnh, đời vua Lê Dụ Tông (năm
1706).
61. Vũ Đình Dung, người phường Thịnh Quang,
huyện Quảng Đức (nay là phường Thịnh Quang, quận
Đống Đa). Trước đỗ khoa Sĩ Vọng. Năm 34 tuổi đỗ đệ tam
giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Quý Sửu, niên hiệu Long
Đức, đời vua Lê Thuần Tống (năm 1733).
62. Nguyên Dụng, người phường Cổ Vũ, huyẹn Thọ
Xương (nay thuộc phường Hàng Gai, quận Hoàn Kiếm).
Năm 37 tuổi đỗ đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân (Hoàng Giáp)
khoa Nhâm Thìn, niên hiệu Hồng Ninh, đời vua Mạc Mậu
Hợp (năm 1592).
63. Nguyễn T rạc Dụng, người phường Yên Thái,
huyện Quảng Đức (nay là làng Yên Thái, thuộc phường
Bưởi, quận Tây Hồ). Thi Hương đỗ Giải nguyên. Năm 44
tuổi thi đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Canh
Tuất, niên hiệu Cảnh Trị, đời vua Lê Huyền Tông (năm
1670).
64. Nguyễn Dự (1844-1884), người xã Đông Ngạc,
huyện Từ Liêm (nay là thôn Đông Ngạc, xã Đông Ngạc,

279
CH Ư Ơ N G 5 : C Á C HẾN SỸ NHO H Ọ C C Ò N LUU DANH TRÊN ĐẤT KINH KỲ

huyện Từ Liêm). Cử nhân khoa Mậu Dần (năm 1878).


Năm 35 tuổi đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa
Kỷ Mão, niên hiệu Tự Đức (năm 1879).
65. Lê Đình Dự, người làng Hạ Đình hay Mọc Cựu,
xã Nhân Mục Cựu, huyện Thanh Trì (nay thuộc phường Hạ
Đình, quận Thanh Xuân). Năm 43 tuổi đỗ đệ tam giáp
đồng tiến sĩ xuất thân khoa Quý Mùi, niên hiệu Phúc Thái,
đòi vua Lê Chân Tông (năm 1643).
66. Nguyễn Mậu Dỵ, người xã Kim Sơn (nay là thôn
Kim Sơn (làng Then), xã Kim Sơn, huyện Gia Lâm). Năm
27 tuổi đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Kỷ Hợi,
niên hiệu Vĩnh Thọ, đời vua Lô Thần Tồng (nam 1659).
67. Nguyễn Xuàn Đài, còn gọi là Nguyễn Công
Kiên, người xã Nguyệt Áng, huyện Thanh Đàm, (nay là
thôn Nguyệt Áng, xã Đại Áng, huyện Th^nh Trì). Thi
Hương đỗ Giải nguyên. Nãm 27 tuổi đỗ đệ tam giáp đồng
tiến sĩ xuất thân khoa Đinh Sửu, niên hiệu Chính Hoà, đời
vua Lê Hy Tông (năm 1697).
68. Dương Văn Đán, người xã Hà Lỗ, huyện Đông
Ngàn (nay là thôn Hà Lỗ, xã Liên Hà, huyện Đông Anh).
Đỗ đệ nhị giáp tiến sĩ (Hoàng Giáp) khoa Quý Mùi niên
hiệu Quang Thuận, đời vua Lê Thánh Tông (năm 1463).
69. Nghiêm Hoàng Đạt, người xã Tây Mỗ (nay là
thôn Tây Mỗ, xã Tây Mỗ, huyện Từ Liêm). Năm 38 tuổi

280
NHO G IÁ O - Đ Ạ O H Ọ C TRÊN Đ Ấ T KINH KÌ (TH Ă N G LO N G - Đ Ô N G Đ Ô - HÀ N Ộ I)

đỗ đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân (Hoàng Giáp) khoa Quý


Mùi, niên hiệu Diên Thành, đời vua Mạc Mậu Hợp (năm
1583).
70. Ông Nghĩa Đạt, người xã Phú Gia, huyện Từ
Liêm (nay là thôn Phú Gia, phường Phú Thượng, quận Tây
Hồ). Đỗ đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ, đệ nhị danh (Bảng
nhãn), khoa Âi Mùi, niên hiệu Hồng Đức, đời vua Lê
Thánh Tông (nãm 1475).
71. Nguyễn Hữu Đăng, người phường Đông Các,
huyện Vĩnh Xương (nay thuộc phường Hàng Bạc, quận
Hoàn Kiếm). Năm 36 tuổi đỗ Hội nguyên, đệ tam giáp
đồng tiến sĩ xuất thân khoa Đinh Mùi. niên hiệu Cảnh Trị,
đời vua Lê Huyền Tông (năm 1667).
72. Lê Trọng Điền, người xã Nhân Mục Môn, huyện
Thanh Trì (nay thuộc phường Nhân Chính, quận Thanh
Xuân). Thi Hương đỗ Giải nguyên. Nãm 40 tuổi đỗ đệ tam
giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Ât Mùi, niên hiệu Cảnh
Hưng, đời vua Lê Hiển Tông (nãm 1775).
73. Ngô Điền, người xã Tả Thanh Oai, huyện Thanh
Oai (nay là thôn Tả Thanh Oai, xã Tả Thanh Oai, huyện
Thanh Trì). Cử nhân khoa Canh Tý (năm 1840). Nãm 27
tuổi đỗ Hội nguyên, đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân (Hoàng
Giáp) khoa Tân Sửu niên hiệu Thiệu Trị (năm 1841).
74. Nguyễn Minh Điền, người xã Tây Đam (nay là
làng Đăm - thôn Tây Tựu, xã Tây Tựu, huyện Từ Liêm).

281
C H U O N G 5: C Á C TIẾN SỸ NHO H Ọ C C Ò N Lưu DANH TRÊN p Ấ T KINH KỲ

Năm 32 tuổi đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa


Canh Tuất, niên hiệu Hồng Đức, đời vua Lê Thánh Tông
(năm 1490).
75. Đỗ Huy Điển, người xã Tây Mỗ, huyện Từ Liêm
(nay là thôn Tây Mỗ, xã Tây Mỗ, huyện Từ Liêm), cử
nhân khoa Canh Ngọ (năm 1870). Năm 39 tuổi đỗ Phó
bảng khoa Ất Hợi, niên hiệu Tự Đức (nảm 1875).
76. Trương Nguyễn Điều, người xã Xuân Canh,
huyện Đông Ngàn (nay là thôn Xuân Canh, xã Xuân Canh,
huyện Đông Anh). Trước đỗ khoa Sĩ Vọng. Nãm 48 tuổi
đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Quý Sửu, niên
hiệu Long Đức, đời vua Lê Thuần Tông (năm 1733).
77. Lê Vô Địch, người xã Thiên Biểu, huyện Yên
Lãng, (nay là thôn Bầu, xã Kim Chung, huyện Đông Anh).
Đỗ đệ nhị tiến sĩ xuất thân (Hoàng Giáp) khoa Mậu Dần,
niên hiệu Quang Thiệu, đời vua Lê Chiêu Tông (năm
1518).
78. Phạm Lân Đính (1484-1524), người xã Đông
Ngạc (nay là thôn Đông Ngạc, xã Đông Ngạc, huyện Từ
Liêm). Năm 30 tuổi đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân
khoa Giáp Tuất, niên hiệu Hồng Thuận, đời vua Lê Tương
Dực (năm 1514).
79. Lưu Định, ngưòi xã Nguyệt Áng (nay là thôn
Nguyệt Áng, xã Đại Áng, huyện Thanh Trì). Năm 29 tuổi

282
N H O & IÁ O - Đ Ạ O H Ọ C TRÊN Đ Á T KINH KÌ (TH Ả N G LO N G - O Ô N G Đ Ô - H À N Ộ I)

đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Ất Mùi, niên


hiệu Cảnh Hưng đời vua Lê Hiển Tông (năm 1775).
80. Nghiêm Bá Đĩnh (1683-1755), người xã Tây Mỗ
(nay là thôn Tây Mỗ, xã Tây Mỗ, huyộn Từ Liêm). Ông đỗ
Giải nguyên khoa Kỷ Mão, niên hiệu Chính Hoà (năm
1699). Khi 50 tuổi ông thi đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất
thân khoa Quý Sửu, niên hiệu Long Đức, đời vua Lê Thuần
Tông (năm 1733).
81. Nguyễn Đĩnh, người xã Hoàng Xá (nay là thôn
Hoàng Xá, xã Liên Mạc, huyện Từ Liêm). Đỗ đệ tam giáp
đồng tiến sĩ xuất thân khoa Tân Sửu, niên hiệu Quảng Hoà,
dời vua Mạc Phúc Hải (nam 1541).
82. Đỗ Công Đĩnh, người xã Thượng Tốn (nay là
thôn Thuận Tốn, xã Đa Tốn, huyện Gia Lâm). Năm 25 tuổi
đỗ Hội nguyên, độ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa
Bính Tuất, niên hiệu Vĩnh Thịnh, đời vua Lê Dụ Tông
(nãm 1706).
83. Nguyễn Đoan, người phường Thuỵ Chương,
huyện Quảng Đức (nay là phường Thuỵ Khuê, quận Tây
Hồ). Nãm 29 tuổi đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân
khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Cảnh Thống, đời vua Lê Hiến
Tông (năm 1502).
84. Nguyễn Như Đổ, người xã Đại Lan, huyện
Thanh Đàm (nay ỉà thôn Đại Lan, xã Duyên Hà, huyện

283
C H U O N G 5 : C Á C TIẾN S Ỹ NHO H Ọ C C Ò N LUU DANH TRÊN Đ Ấ T KINH KỲ

Thanh Trì). Năm 18 tuổi đỗ Hội nguyên, đệ nhất giáp tiến


sĩ cập đệ, đệ nhị danh (Bảng nhãn) khoa Nhâm Tuất, niên
hiệu Đại Bảo, đời vua Lê Thái Tông (năm 1442).
85. Nguyễn Chí Đốc, người xã Khúc Phổ, huyện
Vĩnh Xương, (nay thuộc quận Ba Đình). Đỗ đệ tam giáp
đồng tiến sĩ xuất thân khoa Kỷ Mùi, niên hiệu Quang Bảo,
đời vua Mạc Phúc Nguyên (năm 1559).
86. Trần Danh Đống, người thôn Du Bi, xã Du Lâm,
huyện Đông Ngàn1. Năm 35 tuổi đỗ đệ tam giáp đồng tiến
sĩ xuất thân khoa Tân Mùi, niên hiệu Chính Hoà, đời vua
Lê Hy Tông (năm 1691).
87. Chử Sư Đỏng, người xã Hội Phụ, huyên Đông
Ngàn (nay là thôn Hội Phụ, xã Đông Hội, huyện Đông
Anh). Đỗ đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân (Hoàng Giáp) khoa
Giáp Tuất, niên hiệu Hồng Thuận, đời vua Lê Tương Dực
(măm 1514).
88. Nguyễn Bỉnh Đức, người phường Thịnh Quang,
huyện Quảng Đức (nay là phường Thịnh Quang, quận
Đống Đa). Năm 21 tuổi đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất
thân khoa Giáp Tuất, niên hiệu Hồng Thuận, đời vua Lê
Tương Dực (năm 1514).

' Thôn này nay không còn do sông Đuống chuyển dòng. Cư dân thôn này đã
chuyển lên thôn Du Nội và Du Ngoại xã Mai Lâm. huyện Đông Anh.

284
NHO G IÁ O - Đ Ạ O H Ọ C TRẼN Đ Ấ T KINH KÌ (TH Ả N G LO N G - Đ Ô N G Đ Ô - HÀ N Ộ I)

89. Nguyễn Thạc Đức, người xã Ninh Giang, huyện


Đông Ngàn (nay là thôn Ninh Giang, xã Ninh Hiệp, huyên
Gia Lâm). Năm 40 tuổi đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất
thân khoa Kỷ Sửu, niên hiệu Hưng Trị, đời vua Mạc Mậu
Hợp (năm 1589).
90. Nguyễn Quý Đức (1648-1720), người xã Đại Mỗ
(nay là thôn Đại Mỗ, xã Đại Mỗ, huyện Từ Liêm). Năm
ông mới 15 tuổi đã đỗ Hương Cống vào năm Quý Mão.
Năm 28 tuổi đỗ Đình Nguyên, đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ,
đệ tam danh (Thám hoa) khoa Bính Thìn, niên hiệu Vĩnh
Trị, đời vua Lê Hy Tông (năm 1676).
91. Nguyén Hanh Giá, người phường Đông Các,
huyện Vĩnh Xương, (nay thuộc phường Hàng Bạc, quận
Hoàn Kiếm). Đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa
Giáp Tuất, niên hiệu Hồng Thuận, đời vua Lê Tương Dực
(năm 1514).
92. Nguyễn Hào, người xã Giao Tất (nay là thôn
Giao Tất (làng Keo), xã Kim Sơn, huyện Gia Lâm). Đỗ đệ
tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Canh Tuất, niên hiệu
Cảnh Lịch, đời vua Mạc Phúc Nguyên (năm 1550).
93. Hồng Hạo (1677-1748), người xã Kim Lũ, huyện
Thanh Trì (nay là thôn Kim Lũ (Làng Lủ Trung), phường
Đại Kim, quận Hoàng Mai). Thi Hương đỗ Giải nguyên.
Nãm 33 tuổi đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa

285
C H U Ơ N G S: C Á C TIẾN SỸ NHO H Ọ C C Ò N Lưu DANH TRẼN Đ ẤT KINH KỲ

Canh Dần, niên hiệu VTnh Thịnh, đời vua Lê Dụ Tông


(năm 1710).
94. Lê Hoàn Hạo, người xã Bát Tràng (nay là thôn
Bát Tràng, xã Bát Tràng huyện Gia Lâm). Thi Hương đỗ
Giải nguyên. Năm 28 tuổi đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất
thân khoa Đinh Mùi, niên hiệu Bảo Thái, đời vua Lê Dụ
Tông (năm 1727).
95. Nguyễn Hàn hay còn gọi là Nguyễn Xuân Hàn,
người xã Phú Thị (nay là thôn Phú Thị, xã Phú Thị, huyện
Gia Lâm). Năm 24 tuổi đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất
thân Thịnh khoa Kỷ Hợi, niên hiệu Cảnh Hưng, đòi vua Lê
Hiển Tông (năm 1779).
96. Đinh Nguyên Hanh, người xã Kim Lan (nay là
xã Kim Lan, huyện Gia Lâm). Năm 32 tuổi đỗ đệ tam giáp
đồng tiến sĩ xuất thân khoa Ất Mùi, niên hiệu Vĩnh Thịnh,
đời vua Lê Dụ Tông (năm 1715).
97. Đỗ Văn Hãng, người xã Mễ Trì (nay thuộc xã
Mễ Trì, huyện Từ Liêm). Năm 28 tuổi đỗ đệ tam giáp đồng
tiến sĩ xuất thân khoa Giáp Tuất, niên hiệu Hồng Thuận,
đời vua Lê Tương Dực (nãm 1514).
98. Nghiêm Văn Hậu, người xã Hà Lỗ, huyện Đông
Ngàn, (nay là thôn Hà Phong, xã Hà Liên, huyện Đông
Anh). Đỗ đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân (Hoàng Giáp) khoa
Mậu Dần, niên hiệu Quang Thiệu, đời vua Lê Chiêu Tông
(năm 1518).

286
N H O G I Á O - Đ Ạ O H Ọ C TRÊN Đ Ấ T KINH KÌ (TH Ă N G LO N G - Đ Ô N G Đ Ô - HÀ N Ộ I)

99. Lưu Hịch, người xã Nhân Mỹ (nay là thôn Nhân


Mỹ, xã Mỹ Đình, huyện Từ Liêm). Đỗ đệ nhị giáp tiến sĩ
xuất thân (Hoàng giáp) khoa Bính Tuất, niên hiệu Thống
Nguyên, đời vua Lê Cung Hoàng (năm 1526).
100. Đỗ Hiền, người xã Xuân Tảo, huyện Tiên Phúc
(nay là thôn Xuân Tảo, xã Xuân Giang, huyện Sóc Sơn).
Năm 33 tuổi đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa
Giáp Tuất, niên hiệu Sùng Khang, đời vua Mạc Mậu Hợp
(năm 1574).
101. Nguyễn Danh Hiền, người xã Thượng Yên
Quyết, huyện Từ Liêm (nay thuộc phường Yên Hoà, quận
Cầu Giấy). Năm 24 tuổi đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất
thân khoa Mậu Tuất, niên hiệu Vĩnh Thịnh, đời vua Lê Dụ
Tông (năm 1718).
102. Nguyễn Dương Hiền, người xã Phù Lỗ, huyện
Kim Hoa (nay là thôn Phù Lỗ Đoài, xã Phù Lỗ, huyện Sóc
Sơn. Đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa At Mùi,
niên hiệu Hồng Đức, đời vua Lê Thánh Tông (năm 1475).
103. Đào Quốc Hiển, người xã Phù Ninh, huyện
Đông Ngàn (nay là thôn Phù Ninh, xã Ninh Hiệp, huyện
Gia Lâm). Năm 34 tuổi đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất
thân khoa Tân Mùi, niên hiệu Chính Hoà, đời vua Lê Hy
Tông (năm 1691).
104. Lê Danh Hiển, người xã Bát Tràng (nay là thôn
Bát Tràng, xã Bát Tràng, huyện Gia Lâm). Thi Hương đỗ

287
C H Ư O N G 5: C Á C TIẾN SỸ NHO H Ọ C C Ò N LUU D A N H TRẼN Đ Ấ T KINH KỲ

Giải nguyên. Năm 28 tuổi đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất


thân khoa Ất Tỵ, niên hiệu Cảnh Hưng, đời vua Lê Hiển
Tông (nãm 1785).
105. Hoàng Tướng Hiệp (1836-1885), người xã
Đông Ngạc, huyện Từ Liêm (nay là thôn Đông Ngạc, xã
Đông Ngạc, huyện Từ Liêm). Cử nhân khoa Mậu Ngọ
(năm 1858). Năm 29 tuổi đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất
thân khoa Ất Sửu, niên hiệu Tự Đức (năm 1865).
106. Hoàng Xuân Hiệp, người xã Dũng Thọ, huyện
Thọ Xương (nay thuộc phường Hàng Bạc, quận Hoàn
Kiếm). Cử nhân khoa Canh Tuất (năm 1850). Nãm 22 tuổi
đỗ khoa Bác học hoành tài, đô tam giáp đồng tiến sĩ xuất
thân, Chế khoa cát sĩ năm Tân Hợi, niên hiệu Tự Đức (năm
1851).
107. Nguyễn Hồ Hiệp, người phường Thịnh Quang,
huyện Quảng Đức (nay là phường Thịnh Quang, quận
Đống Đa). Thi Hương đỗ Giải nguyên, đệ nhị giáp tiến sĩ
xuất thân (Hoàng giáp) khoa Quý Sửu, niên hiệu Long
Đức, đời vua Lê Thuần Tông (năm 1733).
108. Nguyễn Công Hoàn, người xã Du Lâm, huyện
Đông Ngàn (nay là thôn Du Nội, xã Mai Lâm, huyện Đông
Anh). Năm 31 tuổi đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân
khoa Tân Sửu, niên hiệu Bảo Thái, đời vua Lê Dụ Tông
(năm 1721).

288
N H O G IÁ O - Đ Ạ O H Ọ C TRÊN Đ Ấ T KINH K Ì (TH Ả N G LO N G - Đ Ô N G Đ Ô - H À N Ộ I)

109. Nguyễn Đình Hoàn, người làng Bái Ân,


phường Bái Ân, huyện Quảng Đức, (nay là phường Nghĩa
Đô, quận Cầu Giấy). Nãm 15 tuổi đỗ Hương cử. Năm 27
tuổi đỗ đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) khoa
Mậu Thìn, niên hịêu Chính Hoà, đời vua Lê Hy Tông (năm
1688).
110. Nguyễn Hữu Hoàn, người xã Xuân Áng, huyện
Tân Phúc (nay thuộc địa phân hai xã Phù Linh và Tân
Minh, huyện Sóc Sơn). Đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất
thân khoa Kỷ Sửu, niên hiệu Minh Đức, đời vua Mạc Đăng
Dung (năm 1529).
1 1 1 . P liạ m Q u a n g H oàn, còn gọi là Công Hoàn
(1662-1718), người làng Đông Ngạc (Làng Vẽ), xã Đông
Ngạc huyện Từ Liêm, (nay là Đông Ngạc huyện Từ Liêm).
Theo gia phả, ông có tên khai sinh là Phạm Bính. Năm 11
tuổi, ông được người chú ruột là Bảng nhãn Phạm Quang
Trạch nhận làm con nuôi và dạy dỗ ở Quốc Tử Giám. Thi
về văn sách, tám, chín kỳ ông đều đỗ đầu. Sau ông đỗ đệ
tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Giáp Tuất, niên hiệu
Chính Hoà, đời vua Lê Hy Tông (năm 1694).
112. Vương Hoành, người xã Ngô Đạo, huyện Tân
Phong, (nay là thôn Ngô Đạo, xã Tân Hưng, huyện Sóc
Sơn). Đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Mậu
Dần, niên hiệu Quang Thiệu, đời vua Lê Chiêu Tông (nãm
1518).

289
CH Ư Ơ N G 5 : C Á C TIẾN SỶ N H O H Ọ C C Ò N LUU DANH TRÊN Đ Ấ T KINH KỲ

113. Phạm Văn Hợp, người xã Minh Cảo (nay là


thôn Xuân Tảo, xã Xuân Đỉnh, huyện Từ Liêm). Cử nhân
khoa Mậu Tý (1828). Năm 34 tuổi đỗ Phó bảng khoa Kỷ
Sửu, niên hịêu Minh Mạng (năm 1829).
114. Lương Hối, người xã Hà Lỗ, huyện Đông Ngàn
(nay là thôn Hà Phong, Liên Hà, Đông Anh). Đỗ đệ nhị
giáp tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) khoa Bính Tuất, niên
hiệu Quang Thuận, đời vua Lê Thánh Tông (năm 1466).
115. Nguyễn Vân Hội, người xã Đông Ngạc, huyện
Từ Liêm (nay là thôn Đông Ngạc, xã Đông Ngạc, huyện
Từ Liêm). Cử nhân khoa Mậu Thân (nãm 1848). Năm 37
tuổi đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Kỷ Dậu
niên hiệu Tự Đức (năm 1849).
116. Nguyễn Quang Huệ, người làng Thượng Yên
Quyết (làng Giấy), huyện Từ Liêm (nay thuộc phường Yên
Hoà, quận Cầu Giấy). Năm 51 tuổi đỗ đệ tam giáp đồng
tiến sĩ xuất thân khoa Ât Mùi, niên hiệu Đại Chính, đời vua
Mạc Đăng Doanh (năm 1535).
117. Nguyễn Huy, người xã Hạ Yên Quyết (làng
Cót), huyện Từ Liêm (nay là phường Yên Hoà, quận Cầu
Giấy). Năm 41 tuổi đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân
khoa Quý Sửu, niên hiệu Cảnh Lịch, đời vua Mạc Phúc
Nguyên (năm 1553).
118. Nguyễn Hữu Huy, người xã c ổ Điển, huyện
Thanh Đàm (nay là thôn c ổ Điển A, xã Tứ Hiệp, huyện

290
NH O G IÁ O - Đ Ạ O H Ọ C TRẼN Đ ẤT KIN H K Ì (T H Ă N G LO N G - Đ Ó N G Đ Ô - H À N Ộ I)

Thanh Trì). Nãm 38 tuổi đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất


thàn khoa Giáp Thìn, niên hiệu Hồng Đức, đời vua Lê
Thánh Tông (năm 1484).
119. Nguyễn Như Huân, người châu Đại Lan, huyện
Thanh Đàm (nay là Đại Lan, xã Duyên Hà, huyện Thanh
Trì). Năm 36 tuổi thi đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân
khoa Mậu Dần, niên hiệu Diên Ninh, đời vua Lê Nhân
Tông (năm 1458).
120. Diệp Xuân Huyên, người xã Phúc Tô, huyện
Thọ Xương (nay thuộc phường Hàng Trống, quận Hoàn
Kiếm). Cử nhân khoa Mậu Tý (năm 1828), Phó bảng khoa
Mậu Tuất, niên hiệu Minh Mạng (nãm 1838).
121. Đinh Phụ ích, người xã Bình Trù, huyện Siêu
Loại (nay là thôn Bình Trù, xã Dương Quang, huyện Gia
Lâm). Trước ông đỗ khoa Sĩ Vọng. Năm 39 tuổi đõ đệ tam
giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Nhâm Thìn, niên hiệu
Vĩnh Thịnh, đời vua Lê Dụ Tống (nãm 1712).
122. Phạm Khiêm ích (1679-1741), người xã Kim
Sơn (nay là thôn Kim Sơn, xã Kim Sơn, huyện Gia Lâm).
Thi Hương đỗ Giải nguyên. Năm 31 tuổi đỗ Đình nguyên,
đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ, đệ tam danh (Thám hoa) khoa
Canh Dần, niên hiệu Vĩnh Thịnh, đời vua Lê Dụ Tông
(nãm 1710).
123. Nguyễn Tử K hai, người xã Thiên Biểu, huyện
Yên Lãng (nay là thôn Bầu, xã Kim Chung, huyện Đông

291
C H Ư Ơ N G 5 : C Á C TIẾN S Ỹ NHO H Ọ C C Ò N LUU DANH TRÊN ĐẤT KINH KỲ

Anh). Năm 26 tuổi đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân


khoa Tân Sửu, niên hiệu Quảng Hoà, đời vua Mạc Phúc
Hải (năm 1541).
124. Bùi Quốc Khái, người xã Bằng Liệt, huyện
Thanh Đàm (nay là thôn Bằng Liệt, phường Hoàng Liệt,
quận Hoàng Mai), đỗ đầu khoa thi chọn người giỏi thi thư
năm Ât Tỵ, niên hiệu Trinh Phù, đời vua Lý Cao Tông
(1185)
125. Chử Thiên Khải, người xã Cối Giang, huyện
Đông Ngàn (nay là thôn Hội Phụ, xã Đông Hội, huyện
Đông Anh). Đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa
Nhâm Tuất, niôn hiỏu Cảnh Thống, đời vua Lô Hiến Tông
(năm 1502).
126. Nguyễn Kham (1844-1886), người xã Du Lâm,
huyện Đông Ngàn (nay là thôn Du Nội, xã Mai Lâm,
huyện Đông Anh). Giải nguyên khoa Canh Thân (năm
1860). Năm 27 tuổi đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân
khoa Tân Mùi, niên hiệu Tự Đức (năm 1871).
127. Hoa Quý Khâm, người xã c ổ Nhuế (nay là
thôn Cổ Nhuế, xã c ổ Nhuế, huyện Từ Liêm). Năm 36 tuổi
đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Quý Mùi, niên
hiệu Cảnh Hưng, đời vua Lê Hiển Tông (năm 1763).
128. Đào Tiến Khang, người xã Xuân Đỗ, huyện
Gia Lâm (nay là thôn Xuân Đỗ, phường Cự Khối, quận

292
NHO G IÁ O - Đ Ạ O H Ọ C TRÊN Đ ẤT KINH KÌ (TH Ả N G LO N G - Đ Ổ N G Đ Ô - HÀ N Ộ I)

Long Biên). Đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa


Mậu Tuất, niên hiệu Hồng Đức, đời vua Lê Thánh Tông
(năm 1478).
129. Đỗ Túc Khang, người xã Hà Vĩ, huyện Đông
Ngàn (nay là thôn Giao Tác, xã Liên Hà, huyện Đông Anh).
Đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Bính Thìn, niên
hiệu Hồng Đức, đời vua Lê Thánh Tông (năm 1496).
130. Nguyễn Khuê (1638-1689), người xã Vân
Điềm, huyện Đông Ngàn (nay là thôn Vân Điềm (Làng
Đóm), xã Vân Hà, huyện Đông Anh). Đỗ Hương cống
khoa Giáp Ngọ (năm 1654) khi mới 16 tuổi; đỗ đệ tam
giáp đổng tién sĩ xuấl Ihan khoa Canh Tuất, niôn hiệu
Cảnh Trị, đời vua Lê Huyền Tông (năm 1670).
131. Nguyễn Khuê, người làng Hạ Đình, xã Nhân
Mục, huyện Thanh Trì, (nay là phường Hạ Đình, quận
Thanh Xuân). Cử nhân khoa Bính Tuất đời Đồng Khánh
(năm 1886). Nãm 32 tuổi đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất
thân khoa Kỷ Sửu, niên hiệu Thành Thái (năm 1889).
132. Nguyễn Quốc Khuê, người xã Hoằng Liệt,
huyện Thanh Trì (chưa rõ là thôn nào của hai thôn Tứ Kỳ
và Pháp Vân, thuộc phường Pháp Vân, quận Hoàng Mai).
Năm 35 tuổi đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa
Mậu Thìn, niên hiệu Cảnh Hưng, đời vua Lê Hiển Tông
(năm 1748).

293
C H U O N G 5 : C Á C TIẾN SỸ NHO H Ọ C C Ò N LUU DANH TRẼN Đ ẤT KINH KỲ

133. Đàm Khuyến, người phường Vĩnh Thái, huyện


Vĩnh Xương (nay thuộc phường Hàng Đào, quận Hoàn
Kiếm). Đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Giáp
Thìn, niên hiệu Quảng Hoà, đời vua Mạc Phúc Hải (năm
1544).
134. Lê Kiết, người xã Hoàng Mai, huyện Thanh Trì
(nay là làng Hoàng Mai, phường Hoàng Văn Thụ, quận
Hoàng Mai). Năm 26 tuổi đỗ độ tam giáp đồng tiến sĩ xuất
thân khoa Giáp Thìn, niên hiệu Quảng Hoà, đời vua Mạc
Phúc Hải (năm 1544).
135. Nguyễn Kiều (1695-1752), người xã Phú Xá,
huyện Từ Liêm, (nay là thôn Phú Xá (làng Sù), phường
Phú Thượng, quận Tây Hồ). Năm 20 tuổi đỗ đệ tam giáp
đồng tiến sĩ xuất thân khoa Ât Mùi, niên hiệu Vĩnh Thịnh,
đời vua Lê Dụ Tông (năm 1715).
136. Nguyễn Kiêm, sau đổi tên thành Nguyễn Huy
Đăng. Ông người xã Tây Đam (nay là thôn Tây Tựu, xã
Tây Tựu, huyện Từ Liêm). Năm 28 tuổi đỗ đệ tam giáp
đồng tiến sĩ xuất thân Thịnh khoa năm Kỷ Hợi, niên hiệu
Cảnh Hưng, đời vua Lê Hiển Tông (nãm 1779).
137. Nguyễn Khắc Kiệm, người xã Bình Lâm,
huyện Yên Phong (nay là thôn Thư Lâm, xã Thuỵ Lâm,
Đông Anh). Năm 39 tuổi đỗ đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ, đệ
tam danh (Thám hoa) khoa Kỷ Mùi, niên hiệu Cảnh
Thống, đời vua Lê Hiến Tông (năm 1499).

294
NHO G IẢ O - Đ Ạ O H Ọ C TRẼN Đ Ấ T KINH K Ì (TH Ă N G LO N G - Đ Ô N G Đ Ô - HÀ N Ộ I)

138. Ngô Sĩ Kiện, người xã c ổ Điển, huyện Thanh


Đàm (nay là thôn c ổ Điển A, xã Tứ Hiệp, huyện Thanh
Trì). Đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Tân Mùi,
niên hiệu Hồng Thuận, đời vua Lê Tương Dực (năm 1511).
139. Phạm Kính, người xã Hoằng Liệt, huyện Thanh
Trì, (nay chưa rõ là ở thôn Tứ Kỳ hay Pháp Vân thuộc
phường Hoàng Liệt, quận Hoàng Mai). Đỗ đệ tam giáp
đồng tiến sĩ xuất thân khoa Đinh Mùi, niên hiệuVĩnh
Định, đời vua Mac Phúc Nguyên (năm 1547).
140. Lê Đình Lại, người xã Nhân Mục Cựu (làng Hạ
Đình hay Mọc Cựu), huyện Thanh Trì (nay thuộc phường
Hạ Đlilh, quận Thanh Xuủn). Năm 20 tuổi đỗ đệ tam giáp
đồng tiến sĩ xuất thân khoa Bính Tuất, niên hiệu Phúc
Thái, đời vua Lê Chân Tông (năm 1646).
141. Nguyễn Bá Lan, người xã c ổ Linh, huyện Gia
Lâm (nay thuộc phường Long Biên, quận Long Biên). Năm
28 tuổi đỗ Hội nguyên, đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân
khoa At Tỵ, niên hiệu Cảnh Hưng, đời vua Lê Hiển Tông
(năm 1785).
142. Nguyễn Lan, người xã Nghĩa Đố, huyện Từ
Liêm (nay thuộc phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy). Năm
32 tuổi đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Nhâm
Thìn, niên hiệu Hồng Đức, đời vua Lê Thánh Tông (nãm
1472)

295
C H U O N G 5 : C Á C TIẾN SỸ NHO H Ọ C C Ò N Lưu DANH TRÊN ĐẤT KINH KỲ

143. Phí Lân, người xã Diên Đại, huyện Quảng Đức,


(nay là phường Hàng Ngang, quận Hoàn Kiếm). Năm 35
tuổi đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa thi Bính
Tuất, niên hiệu Đoan Thái, đời vua Mạc Mậu Hợp (năm
1586).
144. Nguyễn Lân, người xã Vân Điểm, huyện Đông
Ngàn, (nay là thôn Vân Điềm, xã Vân Hà, huyện Đống
Anh). Thi Hương đỗ Tĩnh nguyên. Năm 31 tuổi đỗ đệ tam
giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Nhâm Thìn, niên hiệu
Vĩnh Thịnh, đời vua Lê Dụ Tông (năm 1712).
145. Vũ Lảm, người xã Kim Lan, huyện Gia Lâm
(nay là Kim Lan, huyện Gia Lâm). Đỗ độ nhị giáp tiến sĩ
xuất thân (Hoàng giáp) khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại
Bảo, đời vua Lê Thái Tông (1442).
146. Nguyễn Thận Lễ, người xã Phù Lỗ, huyện Kim
Hoa (nay là thôn Phù Lỗ Đoài, xã Phù Lỗ, huyện Sóc Sơn).
ĐỖ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Đinh Mùi, niên
hiệu Hồng Đức, đời vua Lê Thánh Tông (năm 1487).
147. Nguyễn Đâng Liên, người xã Bát Tràng (nay là
thôn Bát Tràng, xã Bát Tràng, huyện Gia Lâm). Năm 30
tuổi đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Bính Tuất,
niên hiệu Vĩnh Thịnh, đời vua Lê Dụ Tông (năm 1706).
148. Trần Huy Liễn (1735-1787), người xã Phú Thị
(nay là thôn Phú Thi, xã Phú Thị, huyện Gia Lâm). Nãm

296
NHO G I Á O - Đ Ạ O H Ọ C TRẼN Đ Ấ T KINH KÌ (TH Ả N G LO N G - Đ Ô N G Đ Ô - HÀ N Ộ I)

44 luổi đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân Thịnh khoa


năm Kỷ Hợi niên hiệu Cảnh Hưng, đời vua Lê Hiển Tông
(nãm 1779).
149. Nguyễn Đình Liêu, người xã Cối Giang, huyện
Đông Ngàn (nay là thôn Hội Phụ, xã Đông Hội, huyện
Đông Anh). Năm 20 tuổi đỗ Đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân
(Hoàng giáp) khoa Bính Tuất, niên hiệu Quang Thuận, đời
vua Lê Thánh Tông (năm 1463).
150. Viêm Nghĩa Lộ, người xã Hà Lỗ, huyện Đông
Ngàn (nay là thôn Hà Lỗ, xã Liên Hà, huyện Đông Anh).
Năm 25 tuổi đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa
Tân ÍSìru, nien hiẹu Quảng Hoà, đòi vua Mạc Phúc Hải
(năm 1541).
151. Lê T hế Lộc, người xã Dịch Vọng huyện Từ
Lièm (nay là phường Dịch Vọng quận Cầu Giấy). Năm 29
tuổi đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Bính Tuất,
niên hiệu Đoan Thái, đời vua Mạc Mậu Hợp (năm 1586).
152. Nguyễn Quang Lộc, người phường Đông Các,
huyện Vĩnh Xương (nay thuộc quận Hoàn Kiếm). Năm 48
tuổi đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Bính Tuất,
niên hiệu Quang Thuận, đời vua Lê Thánh Tông (năm
1466).
153. T rần Lỗi, người xã Thanh Thuỷ, huyện Tân
Phúc (nay là thôn Thanh Thuỷ Đông, xã Đức Hoà, huyện

297
C H U O N G 5 : C Ấ C TIẾN S Ỹ NHO H Ọ C C Ò N LUU DANH TRÊN Đ Á T KINH KỲ

SÓC Sơn). Đỗ đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp),


khoa Ất Sửu, niên hiệu Đoan Khánh đời vua Lê Uy Mục
(năm 1505).
154. Nguyễn Luân, người phường Báo Thiẽn, huyện
Vĩnh Xương (nay thuộc phường Hàng Trống, quận Hoàn
Kiếm). Năm 39 tuổi đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân
khoa Kỷ Mùi, niên hiệu Vĩnh Hựu, đời vua Lê Ý Tông
(năm 1739).
155. Đỗ Văn Luản (1634-1660), người xã Thượng
Yên Quyết (Làng Giấy), huyện Từ Liêm (nay thuộc
phường Yên Hoà, quận Cầu Giấy). Thi Hương đỗ Giải
nguyên, nâm 25 tuổi đỗ độ tam giáp đổng tiến sĩ xuất thân
khoa Kỷ Hợi, niên hiộu Vĩnh Thọ, đời vua Lê Thần Tông
(năm 1659).
157. Nguyễn Đoan Lương, người xã Hoằng Liệt,
huyện Thanh Đàm (nay thuộc phường Hoằng Liệt, quận
Hoàng Mai). Đỗ độ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa
Nhâm Thìn, niên hiệu Hồng Đức, đời vua Lê Thánh Tông
(1472).
158. Vũ Dần Lượng hay còn gọi là Di Lượng, ông
người phường Yên Thái, huyện Quảng Đức, nay là làng Yên
Thái, thuộc phường Bưởi, quận Tây Hồ). Năm 33 tuổi đỗ đệ
tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân Thịnh khoa năm Kỷ Hợi,
niên hiộu Cảnh Hưng, đời vua Lê Hiển Tông (năm 1779).

298
N H O G I Á O - Đ Ạ O H Ọ C TRẼN Đ Ấ T KINH K Ì (TH Ả N G LO N G - Đ Ô N G Đ Ô - H Ả N Ộ I)

159. Phạm Hy Lượng (1834-1886), người xã Nam


Ngư, huyện Thọ Xương (nay thuộc khu vực phố Nam Ngư,
phường Cửa Nam, quận Hoàn Kiếm). Cử nhân khoa Nhâm
Tý (năm 1852). Đỗ Phó bảng khoa Nhâm Tuất, niên hiệu
Tự Đức (năm 1862).
160. Lê Xuân Lượng, người xã Nguyệt Áng (nay là
thôn Nguyệt Áng, xã Đại Áng, huyện Thanh Trì). Năm 29
tuổi đỗ đệ tam giáp đồng tiên sĩ xuất thân khoa Đinh Mùi,
niên hiệu Chiêu Thống, đời vua Lê Mẫn Đế (năm 1787).
161. Nguyễn Vân Lý, người phường Đông Tác,
huyện Thọ Xương (nay thuộc phường Trung Tự, quận
Đống Đ a), c ử nhan klioa Ất Dạu (1 8 2 6 ). Năm 37 tuổi đỗ
đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Nhâm Thìn, niên
hiệu Minh Mạng (1832).
162. Chu Nguyên Mại, người xã Dục Tú, huyện
Đông Ngàn (nay là thôn Dục Tú, xã Dục Tú, huyện Đông
Anh). Năm 38 tuổi đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân
khoa Mậu Tuất, niên hiệu Cảnh Hưng, đời vua Lê Hiển
Tông (năm 1778).
163. Lê Đức Mao (1462-1529), người làng Đông
Ngạc, huyện Từ Liêm (nay là thôn Đông Ngạc, xã Đông
Ngạc, huyện Từ Liêm). Nãm 43 tuổi đỗ đệ tam giáp đồng
tiến sĩ xuất thân khoa At Sửu, niên hiộu Đoan Khánh, đời
vua Lê Uy Mục (năm 1505).

299
C H U O N G 5 : C Á C TIẾN SỸ NHO H Ọ C C Ò N Lưu DANH TRÊN Đ Ấ T KINH KỲ

164. Phạm Quang Măn (1817-1858), người xã


Đông Ngạc, huyện Từ Liêm (nay là thôn Đông Ngạc, xã
Đông Ngạc, huyện Từ Liêm). Cử nhân khoa Quý Mão
(năm 1843). Năm 32 tuổi đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất
thân khoa Kỷ Dậu, niên hiệu Tự Đức (năm 1849).
165. Nguyễn Huy Mãn (1688-1739), người xã Phú
Thị (nay là thôn Phú Thị, xã Phú Thị, huyện Gia Lâm). Thi
Hương đỗ Tĩnh nguyên. Năm 33 tuổi đỗ đệ tam giáp đồng
tiến sĩ xuất thân khoa Tân Sửu, niên hiệu Bảo Thái, đời vua
Lê Dụ Tông (năm 1721).
166. Phạm Mật, người phường Thịnh Quang, huyện
Quảng Đức (nay là phường Thịnh Quang, quận Đống Đa).
Năm 37 tuổi đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa
Quý Sửu, niên hiệu Hồng Đức, đời vua Lê Thánh Tông
(năm 1493).
167. Lẻ Tuấn Mậu, người xã Xuân Lôi, huyện Yên
Phong (nay là thôn Thuỵ Lôi, xã Thuỵ Lâm, huyện Đông
Anh). Đỗ đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) khoa
Canh Tuất, niên hiệu Hồng Đức, đời vua Lê Thánh Tông
(năm 1490).
168. Nguyễn Quang Mậu, người xã Thiết úng,
huyện Đông Ngàn (nay là làng Ông, xã Vân Hà, huyện
Đông Anh). Năm 23 tuổi đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất
thân khoa Quý Sửu, niên hiệu Hồng Đức, đời vua Lê
Thánh Tông (năm 1493).

300
NHO G IÁ O - Đ Ạ O H Ọ C TRẼN Đ Ấ T KINH KÌ (TH Ă N G LO N G - Đ Ô N G Đ Ô - H À N Ộ I)

169. Nguyễn Đôn Mục, người xã Phù Lỗ huyện Kim


Hoa (nay là thôn Phù Lỗ Đoài (còn gọi là Làng Sọ), thuộc
xã Phù lỗ, huyện Sóc Sơn). Đỗ đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân
(Hoàng giáp) khoa Đinh Mùi, niên hiệu Vĩnh Định, đời
vua Mạc Phúc Nguyên (năm 1547).
170. Phan Đình Mục, ngưòi phường Tây Hồ, huyện
Quáng Đức (nay thuộc phường Trúc Bạch, quận Ba Đình).
Năm 26 tuổi đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa
Nhâm Tuất, niên hiệu Cảnh Thống, đời vua Lê Hiến Tông
(năm 1502).
171. Hoàng T ế Mỹ (1795-1849), người xã Đông
Ngạc (nay là thôn Đông Ngạc, xa Đông Ngạc, huyện Từ
Liêm). Đỗ Giải nguyên khoa At Dậu (năm 1825). Năm 31
tuổi đỗ Đình nguyên, đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân (Hoàng
giáp) khoa Bính Tuất, niên hiệu Minh Mạng (năm 1826).
172. Nguyễn Quốc Ngạn, người phường Bái Ân,
huyện Quảng Đức (nay thuộc phường Nghĩa Đô, quận Cầu
Giấy). Năm 25 tuổi đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân
khoa At Mùi, niên hiệu Cảnh Hưng? đời vua Lê Hiển Tông
(năm 1775).
173. Nguyễn ích Ngân, người huyện Vĩnh Xương
(nay thuộc quận Ba Đình). Đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ
xuất thân khoa Đinh Mùi, niên hiệu Hồng Đức, đời vua Lê
Thánh Tông (nãm 1487).

301
C H U O N G 5: C Á C TIẾN SỸ NHO H Ọ C C Ò N Lưu DANH TRÊN ĐÁT KINH KỲ

174. Nguyễn Sùng Nghệ, người huyện Vĩnh Xương


(nay thuộc quận Hoàn Kiếm). Năm 47 tuổi đỗ đệ tam giáp
đồng tiến sĩ xuất thân khoa Âl Mùi, niên hiệu Hồng Đức,
đời vua Lê Thánh Tông (1475).
175. Nguyễn Dung Nghệ, người xã Thượng Yên
Quyết (làng Giấy), huyện Từ Liêm (nay là phường Yên
Hoà, quận Cầu Giấy). Năm 43 tuổi đỗ đệ tam giáp đồng
tiến sĩ xuất thân khoa Giáp Tuất, niên hiệu Sùng Khang,
đời vua Mạc Mậu Hợp (năm 1574).
176. Nguyễn Nghi (1588-1657), người xã Vân Điềm,
huyện Đông Ngàn (nay là thôn Vân Điềm (Làng Đóm), xã
Vân Hà, huyẹn Đổng Anh). Nâm 31 tuổi đố đệ tam giáp
đồng tiến sĩ xuất thân khoa Kỷ Mùi, niên hiệu Hoằng
Định, đời vua Lê Kính Tông (năm 1619).
177. Phạm Thừa Nghiệp, người xã Lâm Hạ, huyện
Gia Lâm (nay là Ái Mộ, phường Bồ Đề, quận Long Biên).
ĐỖ đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) khoa Bính
Tuất, niên hiệu Quang Thuận đời vua Lê Thánh Tông (năm
1466)
178. Nguyễn Huy Ngọc, người xã Nhân Mục Cựu,
huyện Thanh Trì (nay thuộc phường Hạ Đình, quận Thanh
Xuân). Năm 32 tuổi đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân
khoa Mậu Thìn, niên hiệu Cảnh Hưng, đời vua Lê Hiển
Tông (năm 1748).

302
NHO G IÁ O - Đ Ạ O H Ọ C TRÊN Đ Ấ T KINH K Ì (TH Ằ N G LO N G - Đ Ô N G đ 0 - HÀ N Ộ I)

179. Bùi Nguyên, người xã Thiên Mỗ (nay là thôn Đại


Mỗ, xã Đại Mỗ, huyện Từ Liêm). Năm 31 tuổi đỗ đệ nhất
giáp tiến sĩ cập đệ, đệ nhị danh (Bảng nhãn) khoa Ât Sửu,
niên hiệu Đoan Khánh, đời vua Lê Uy Mục (năm 1505).
180. Lưu Văn Nguyên, người xã Nhân Mỹ (nay là
thôn Nhân Mỹ, xã Mỹ Đình, huyện Từ Liêm). Năm 32 tuổi
đỗ đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) khoa Âỉ Sửu,
niôn hiệu Đoan Khánh, đời vua Lê Uy Mục (năm 1505).
181. Nguyễn Nha (1750-1816), người xã Tả Thanh
Oai, huyện Thanh Oai (nay là thôn Tả Thanh Oai, xã Tả
Thanh Oai, huyện Thanh Trì). Năm 25 tuổi đỗ đệ tam giáp
đổng tiên sĩ xuất thân khoa Ất Mùi, nien hiẹu Cảnh Hưng,
đời vua Lê Hiển Tông (năm 1775).
182. Nguyễn Nhã, người phường c ổ Vũ, huyện Thọ
Xương (nay thuộc phường Hàng Gai, quận Hoàn Kiếm).
Năm 26 tuổi đỗ độ nhị giáp tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp)
khoa Bính Tuất, niên hiệu Đoan Thái, đời vua Mạc Mậu
Hợp (nãm 1586).
183. Ngô Vi Nho, người xã Tả Thanh Oai, huyện
Thanh Trì (nay là thôn Tả Thanh Oai (Làng Tó Tả), xã Tả
Thanh Oai, huyện Thanh Trì). Trước đỗ khoa Sĩ Vọng.
Năm 35 tuổi ông đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân
khoa Giáp Tuất, niên hiệu Chính Hoà, đời vua Lê Hy Tông
(năm 1694).

303
CH Ư O N G 5 : C Á C TIẾN SỸ NHO H Ọ C C Ò N Lưu DANH TRÊN Đ Ấ T KINH KỲ

184. Nguyễn Xuản Nham, người xã Hạ Yên Quyết,


huyện Từ Liêm (nay thuộc phường Yên Hoà, quận Cầu
Giấy). Đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Kỷ Mùi,
niên hiệu Cảnh Thống, đời vua Lê Hiến Tông (năm 1499).
185. Ngô Thì Nhậm (1746-1803), người xã Tả
Thanh Oai, huyện Thanh Oai (nay là thôn Tả Thanh Oai,
xã Tả Thanh Oai, huyện Thanh Trì). Thi Hương đỗ Giải
nguyên. Năm 29 tuổi đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân
khoa Ất Mùi niên hiệu Cảnh Hưng (năm 1775).
186. Dương Duy Nhất, người xã Vĩnh Thái, huyện
Vĩnh Xương (nay thuộc phường Hàng Đào, quận Hoàn
Kiếm). Năm 37 tuổi đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân
khoa Mậu Tuất, niên hiệu Đại Chính đòi vua Mạc Đăng
Doanh (năm 1538).
187. Nguyễn Đức Nhuận, người xã Khúc Phổ huyện
Vĩnh Xương (nay thuộc quận Ba Đình). Năm 43 tuổi đỗ đệ
nhị giáp tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) khoa Ât Sửu, niên
hiệu Thuần Phúc, đời vua Mạc Mậu Hợp (nãm 1565).
188. Trịnh Đức Nhuận (1653-1713), người xã Hoa
Lâm, huyện Đỏng Ngàn, (nay là thôn Thái Bình, xã Mai
Lâm, huyện Đông Anh). Năm 1673, ông đỗ khoa Sĩ Vọng.
Sau đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Bính Thìn,
niên hiệu VTnh Trị, đời vua Lê Hy Tông (năm 1676).
189. Vũ Nhự (1840-1886), người phường Kim cổ,
huyện Thọ Xương (nay thuộc phường Hàng Bông, quận

304
NHO G IẢ O - Đ Ạ O H Ọ C TRÊN Đ Ấ T KINH KÌ (TH Ă N G LO N G - Đ Ố N G Đ Ô - H À N Ộ I)

Hoàn Kiếm). Cử nhân khoa Tân Dậu (năm 1861). Năm 28


tuổi đỗ Đình nguyên, đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân (Hoàng
giáp) khoa Mậu Thìn, niên hiệu Tự Đức (nãm 1868).
190. Phạm Nguyên Ninh (1700-1744), người xã
Đông Ngạc (nay là thôn Đông Ngạc, xã Đông Ngạc, huyện
Từ Liêm). Thi Hương đỗ Giải nguyên. Năm 31 tuổi đỗ đệ
tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Tân Hợi, niên hiệu
Vĩnh Khánh, đời vua Lê Duy Đế Phường (năm 1731).
191. Nguyễn Thê Ninh, người phường c ổ Vũ, huyện
Tho Xương, (nay thuộc phường Hàng Gai, quận Hoàn
Kiém). Đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Quý Sửu,
niên hiệu Cánh Lịch, dời vua Mạc Phúc Nguyen (nam 1553).
192. Đỗ Kim Oánh, người phường Công Bộ, huyện
Quảng Đức (nay thuộc phường Thành Công, quận Ba
Đình). Năm 30 tuổi đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân
khoa Kỷ Sửu, niên hiệu Quang Thuận, đời vua Lê Thánh
Tông (năm 1469)
193. Đồng Nhân Phái, người xã Thiết úng (làng
Ông), huyện Đông Ngàn (nay là thôn Thiết úng, xã Vân
Hà, huyện Đông Anh). Năm 47 tuổi đỗ đệ nhị giáp tiến sĩ
xuất thân (Hoàng giáp) khoa Mậu Thìn, niên hiệu Vĩnh Tộ,
đà vua Lê Thần Tồng (năm 1628).
194. Vũ Tông Phan gọi tắt là Vũ Phan. Ông là người
thón Tự Tháp, huyện Thọ Xương (nay thuộc phường Hàng

305
C H Ư O N G 5 : C Á C TIẾN SỸ NHO H Ọ C C Ò N LUU DANH TRẼN Đ Á T KINH K Ỳ

Trống, quận Hoàn Kiếm). Đỗ Cử nhân khoa Ất Dậu (năm


1825). Năm 26 tuổi đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân
khoa Bính Tuất, niên hiệu Minh Mạng (năm 1826).
195. Phan Lê Phiên còn gọi là Phan Trọng Phiên,
người xã Đông Ngạc (nay là thôn Đông Ngạc, xã Đông
Ngạc, huyện Từ Liêm). Năm 22 tuổi đỗ đệ tam giáp đồng
tiến sĩ xuất thân khoa Đinh Sửu, niên hiệu Cảnh Hưng, đời
vua Lê Hiển Tông (năm 1757).
196. Chử Phong, người xã Cối Giang, huyện Đông
Ngàn (nay là Hội Phụ, xã Đông Hội, huyện Đông Anh).
Đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Nhâm Thìn,
niôn hiêu Hổng Đức, đời vua Lô Thánh Tổng, (nam 1472).
197. Nguyễn Đức Phong, người xã Vĩnh Trung,
huyện Thanh Đàm (nay thuộc xã Ngọc Hổi, huyện Thanh
Trì). Đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Mậu Thìn,
niên hiệu Đoan Khánh đời vua Lê Uy Mục (năm 1505).
198. Nguyễn Văn Phú (1822-1890), người xã Du
Lâm, huyện Đông Ngàn (nay là thôn Du Nội, xã Mai Lâm,
huyện Đông Anh). Cử nhân khoa Quý Mão (năm 1843).
Năm 22 tuổi đỗ đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp)
khoa Giáp Thìn, niên hiệu Thiệu Trị (năm 1844).
199. Bùi Công Phụ, người xã Đồng Lạc, huyện Kim
Hoa (nay là thôn Đông Lạc, xã Tiên Dược, huyện Sóc
Sơn). Đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Giáp

306
NHO G IẢ O - Đ Ạ O H Ọ C TRÊN Đ Á T KINH KÌ (TH Á N G LO N G - Đ Ô N G Đ Ô - H À N Ộ I)

Tuất, niên hiệu Hồng Thuận, đời vua Lê Tương Dực (năm
1514)
200. Phan Vinh Phúc (sau đổi là Công Phúc), người
xã Đông Ngạc (nay là thôn Đông Ngạc, xã Đông Ngạc,
huyện Từ Liêm). Năm 33 tuổi đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ
xuất thân khoa Ât Sửu, niên hiệu Chính Hoà, đời vua Lê
Hy Tông (năm 1685).
201. Nguyễn Khiêm Quang, người xã Hạ Yên
Quyết (làng Cót), huyện Từ Liêm, (nay thuộc phường Yên
Hoà, quận Cầu Giấy). Đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất
thân khoa Quý Mùi, niên hiệu Thống Nguyên, đời vua Lê
Cung Hoàng (năm 1526).
202. Nghiêm Xuân Quảng (1869-1941), người xã
Tây Mỗ, huyện Từ Liêm (nay là thôn Tây Mỗ, xã Tây Mỗ,
huyện Từ Liêm). Cử nhân khoa Giáp Ngọ (năm 1894).
Năm 26 tuổi đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Ât
Mùi, niên hiệu Thành Thái (nãm 1895).
203. Bùi Bình Quân, người thôn Giáp Nhị (làng
Sét), xã Thịnh Liệt, huyện Thanh Đàm (nay thuộc phường
Thịnh Liệt, quận Hoàng Mai). Năm 39 tuổi đỗ đệ tam giáp
đồng tiến sĩ xuất thân khoa Kỷ Mùi, niên hiệu Hoằng
Định, đời vua Lê Kính Tông (năm 1619).
204. Lê Kim Quế, người phường Thái Cực, huyện
Vĩnh Xương (nay là phường Hàng Đào, quận Hoàn Kiếm).

307
C H Ư Ơ N G 5 : C Á C TIẾN SỸ NHO H Ọ C C Ò N LUU DANH TRÊN ĐẤT KINH KỲ

Năm 30 tuổi đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa


Canh Thìn, niên hiệu Diên Thành, đời vua Mạc Mậu Hợp
(năm 1580).
205. Lưu Quỹ, người xã Nguyệt Áng (nay là thôn
Nguyệt Áng, xã Đại Áng, huyện Thanh Trì). Cử nhân khoa
Tân Mão (1831). Năm 24 tuổi đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ
xuất thân khoa Ât Mùi, niên hiệu Minh Mạng (năm 1835).
206. Nguyễn Đình Quỹ, người xã Nguyệt Áng,
huyện Thanh Trì (nay là thôn Nguyệt Áng, xã Đại Áng,
huyện Thanh Trì). Trước ông đỗ khoa Sĩ Vọng. Năm
3 1tuổi đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa At Mùi,
niôn hiêu Vĩnh Thịnh, đời vua Lê Dụ Tông (năm 1715).
207. Nguyễn Quyền, người xã cổ Linh, huyện Gia
Lâm (nay thuộc phường Long Biên, quận Long Biên). Năm
32 tuổi đỗ Hội nguyên, Đình nguyên, đệ nhị giáp tiến sĩ
xuất thân (Hoàng giáp) khoa Đinh Sửu, niên hiệu Chính
Hoà, đời vua Lê Hy Tông (năm 1697).
208. Vũ Đình Quyền, người phường Yên Thái,
huyện Quảng Đức (nay là làng Yên Thái, phường Bưởi,
quận Tây Hồ). Nãm 26 tuổi đỗ độ tam giáp đồng tiến sĩ
xuất thân khoa Bính Thìn, niên hiệu Vĩnh Hựu, đòi vua Lè
Ý Tông (năm 1736).
209. Đỗ Công Quỳnh, người xã Hoa Lâm, huyện
Đông Ngàn (nay là thôn Thái Bình, xã Mai Lâm, huyện

308
N H O G IẢ O - Đ Ạ O H Ọ C TRẼN ĐẤT KINH KÌ (TH Ă N G LO N G - Đ Ô N G Đ Ô - H À N Ộ I)

Đông Anh ). Thi Hương đỗ Giải nguyên. Năm 40 tuổi đỗ


đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Ât Sửu, niên hiệu
Chính Hoà, đời vua Lê Hy Tông (năm 1685).
210. Lê Sạn, người xã Vạn Phúc, huyện Thanh Đàm
(nay là thôn Vạn Phúc, xã Vạn Phúc, huyện Thanh Trì).
Năm 26 tuổi đỗ đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ, đệ nhị danh
(Bảng nhãn) khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Cảnh Thống, đời
vua Lê Hiến Tông (năm 1499).
211. Trần Lương Sáng (còn gọi là Lương Năng),
người xã Thượng Cát (Làng Kẻ), nay thuộc thôn Thượng
Cát, xã Thượng Cát, huyện Từ Liêm. Năm 32 tuổi đỗ đệ
tam giáp dòng tiến sĩ xuấl Ihan khoa Dính Thìn, nicn hiệu
Vĩnh Trị, đời vua Lê Hy Tông (năm 1676).
212. Trình Chí Sâm, người phường Khúc Phổ,
huyện Vĩnh Xương (nay thuộc quận Ba Đình). Đỗ đệ tam
giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Đinh Mùi, niên hiệu Hồng
Đức, đời vua Lê Thánh Tông (năm 1487).
. 213. Nguyễn Sần (Nguyễn Tiên), người xã Thượng
Yên Quyết (Làng Giấy), huyện Từ Liêm (nay thuộc
phường Yên Hoà, quận Cầu Giấy). Đỗ đệ nhị giáp tiến sĩ
xuất thân (Hoàng giáp) khoa Giáp Dần, niên hiệu Thuận
Bình, đời vua Lê Trang Tông (năm 1554).
214. Ngò Thì Sĩ (1725-1780), người xã Tả Thanh
Oai, huyện Thanh Oai (nay là thôn Tả Thanh Oai, xã Tả

309
C H U O N G 5 : C Á C TIẾN SỸ NHO H Ọ C C Ò N Lưu DANH TRÊN Đ Á T KINH KỸ

Thanh Oai, huyện Thanh Trì). Năm 41 tuổi thi đỗ Đình


nguyên, đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) khoa
Bính Tuất, niên hiệu Cảnh Hưng, đời vua Lê Hiển Tông
(năm 1766).
215. Nguyễn Sĩ (1645-1674), người xã Vân Điềm
(làng Đóm), huyện Đông Ngàn (nay là thôn Vân Điềm, xã
Vân Hà, huyện Đông Anh). Năm 25 tuổi đỗ đệ tam giáp
đồng tiến sĩ xuất thân khoa Canh Tuất, niên hiệu Cảnh Trị,
đời vua Lê Huyền Tông (năm 1670).
216. Nguyễn Siêu hay còn gọi là Nguyễn Văn Siêu
(1799-1872). Ông là người làng Kim Lũ, xã Đại Kim,
huyộn Thanh Trì (nay thuộc phường Đại Kim, quận Hoàng
Mai). Cử nhân khoa Ất Dậu (năm 1825). Năm 39 tuổi đỗ
Phó bảng khoa Mậu Tuất, niên hiệu Minh Mạng (năm
1838).
217. Nguyễn Súc, người phường Báo Thiên, huyện
Vĩnh Xương, (nay thuộc phường Hàng Trống, quận Hoàn
Kiếm). Đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Quý Mùi,
niên hiệu Cảnh Thống, đời vua Lê Cung Hoàng (năm 1523).
218. Hoàng Đình Tá, người xã Linh Đường, huyện
Thanh Trì (nay là thôn Linh Đàm, phường Hoàng Liệt,
quận Hoàng Mai). Cử nhân khoa Canh Tý (năm 1840). -
Năm 26 tuổi đỗ đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp)
khoa Nhâm Dần, niên hiệu Thiệu Trị (năm 1842).

310
IHO G IÁ O - Đ Ạ O H Ọ C TRÊN ĐẤT KINH KÌ (THĂN G IO N G - Đ Ô N G Đ Ô - HÀ NỘI)

219. Nguyễn Mậu Tài, người xã Kim Sơn (nay là


hôn Kim Sơn (Làng Then), xã Kim Sơn, huyện Gia Lâm),
'lãm 30 tuổi đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân, niên
niệu Phúc Thái, đời vua Lê Chân Tông (năm 1646).
220. Lê Táo, người xã Phúc Khê (nay là thôn Phú
Diễn, xã Phú Diễn, huyện Từ Liêm). Năm 28 tuổi đỗ đệ
tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Kỷ Sửu, niên hiệu
Minh Đức, đời vua Mạc Đăng Dung (năm 1529).
221. Nguyễn Hữu Tạo, người xã Đông Ngạc, huyện
Từ Liêm (nay là thôn Đông Ngạc, xã Đông Ngạc, huyện
Từ Liêm). Cử nhân khoa Tân Sửu (năm 1841). Năm 35
tuổi đô đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Giáp Thìn,
niên hiệu Thiệu Trị (năm 1844).
222. Hoàng Hiệp Tâm, người xã Phú Diễn (nay là
thôn Phú Diễn, xã Phú Diễn, huyện Từ Liêm). Năm 23 tuổi
đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Tân Sửu, niên
hiệu Vĩnh Thọ, đời vua Lê Thần Tông (nãm 1661).
223. Vũ Công Tể (1687-1745), người xã Hải Bi,
huyện Yên U ng, phủ Tam Đái, trấn Sơn Tây (nay là thôn
Hải Bối, xã Hải Bối, huyện Đông Anh). Nãm 31 tuổi đỗ
Hội nguyên, Đình nguyên, đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ, đệ
tam danh (Thám hoa) khoa Mậu Tuất, niên hiệu Vĩnh
rhịnh, đời vua Lê Dụ Tông (năm 1718).
224. Trần Huy Tích, người phường Dũng Thọ,
huyện Thọ Xương (nay là khu vực phô' Mã Mây, phường

311
CHUƠNG 5: C Á C TIỂN SỸ NHO HỌC CÒ N LUU DANH TRÊN ĐẤT KINH KỲ

Hàng Bạc, quận Hoàn Kiếm). Cử nhân khoa Canh Tuất


(năm 1850). Năm 22 tuổi thi đỗ Đình nguyên, đệ nhất giáp
tiến sĩ cập đệ, đệ tam danh (Thám hoa) khoa Tân Hợi, niên
hiệu Tự Đức (năm 1851).
225. Phan Phù Tiên (1370-1562), người làng Vẽ,
Đông Ngạc, Từ Liêm, quê gốc ở Thạch Châu (nay là
Thạch Hà, Hà Tĩnh). Ông tự là Tín Thần, hiệu Mặc Hiên,
đỗ Thái học sinh khoa Bính Tý (năm 1396), niên hiệu
Quang Thái đời vua Trần Thuận Tông. Lại đỗ khoa Minh
Kinh năm Kỷ Dậu, niên hiệu Thuận Thiên, đời vua Lê
Thái Tổ (năm 1429).
226. Lưu Tiệp, người xã Nguyệt Áng (nay là thôn
Nguyệt Áng, xã Đại Áng, huyện Thanh Trì). Năm 30 tuổi
đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Nhâm Thìn,
niên hiệu Cảnh Hưng, đời vua Lê Hiển Tông (nãm 1772)
227. Chu Tam Tỉnh, người huyện Thanh Đàm (nay
là thôn Quang Liệt, xã Thanh Liệt, huyện Thanh Trì). Đỗ
khoa Hoành Từ năm Tân Hợi, niên hiệu Thuận Thiên, đời
vua Lê Thái Tổ (1431).
228. Nguyễn Tịnh, người xã Phù Lỗ, huyện Kim
Hoa (nay là thôn Phù Lỗ Đoài, xã Phù Lỗ, huyện Sóc Sơn.
Đỗ độ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Ât Mùi, niên
hiệu Hồng Đức, đời vua Lê Thánh Tông (năm 1475).
229. Nguyễn Thái, người huyện Vĩnh Xương (nay
thuộc quận Hoàn Kiếm). Nãm 45 tuổi đỗ đệ tam giáp đồng

312
N H O G IÁ O - Đ Ạ O H Ọ C TRẼN Đ Ấ T KINH KÌ (TH Ả N G LO N G - Đ Ổ N G Đ Ô - HÀ N Ộ I)

tiến sĩ xuất thân khoa Tân Sửu, niên hiệu Hồng Đức, đời
vua Lê Thánh Tổng (năm 1481).
230. Nguyễn Đình Thạc, người xã Đông Ngạc (nay
là thôn Đông Ngạc, xã Đông Ngạc, huyện Từ Liêm). Thi
Hương đỗ Giải nguyên. Năm 26 tuổi đỗ đệ tam giáp đồng
tiến sĩ xuất thân Thịnh khoa Kỷ Hợi, niên hiệu Cảnh Hưng,
đời vua Lê Hiển Tông (năm 1779).
231. Trịnh Đình Thái, người xã Định Công, huyện
Thanh Trì (nay là thôn Định Công, phường Định Công,
quận Hoàng Mai). Cử nhân khoa Bính Ngọ (nãm 1846).
Năm 24 tuổi đỗ đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp)
khoa Đinh Mùi, nien hiẹu Thiẹu Trị (nam 1847).
232. Ngô Thảo, người Xã Đàn, huyện Vĩnh Xương
<nay là ngõ Xã Đàn thuộc phường Nam Đồng, quận Đống
Đa). Năm 39 tuổi đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân
khoa Tân Mùi, niên hiệu Sùng Khang, đời vua Mạc Mậu
Hợp (năm 1571).
233. Nguyễn Vân Tháng (1803-1861), người
phường Yên Thái, huyện Vĩnh Thuận (nay thuộc phường
Bưởi, quận Tây Hồ). Cử nhân khoa Ất Dậu (năm 1825).
Năm 23 tuổi đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa
Bính Tuất, niên hiệu Minh Mạng (năm 1826).
234. Nguyễn Thẩm (1663-1725), người xã Vân
Điềm, huyện Đông Ngàn (nay là thôn Vân Điềm, xã Vân

313
C H U O N G 5: C Á C TIẾN SỶ NHO H Ọ C C Ò N Lưu DANH TRÊN Đ Ấ T KINH KỲ

Hà, huyện Đông Anh). Năm Giáp tuất - 1694 thi đỗ Tam
trường, lại đỗ khoa Sĩ Vọng. Năm 43 tuổi, ông đỗ đệ tam
giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Bính Tuất, niên hiệu VTnh
Thịnh, đời vua Lê Dụ Tông (năm 1706).
235. Nguyễn Công Thể, còn gọi là Công Thái
(1684-1758), người xã Kim Lủ, huyện Thanh Trì (nay là
thôn Kim Lủ (làng Lủ Trung), phường Đại Kim, quận
Hoàng Mai). Đỗ Giải nguyên khoa Nhâm Ngọ, niên hiệu
Chính Hoà, đời vua Lê Hy Tông (năm 1702). Sau lại đỗ đệ
tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Ât Mùi, niên hiệu
Vĩnh Thịnh, đời vua Lê Dụ Tông (năm 1715).
236. T rương Thì, người xã Nhân Mục Cựu (làng Ilạ
Đình hay làng Mọc Cựu), huyện Thanh Trì (nay thuộc
phường Hạ Đình, quận Thanh Xuân). Năm 20 tuổi đỗ đệ
nhị giáp tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) khoa Tân Sửu, niên
hiệu Bảo Thái, đời vua Lê Dụ Tông (năm 1721).
237. Đỗ Lệnh Thiện, người xã Nhân Mục Cựu,
huyện Thanh Trì (nay thuộc phường Hạ Đình, quận Thanh
Xuân). Năm 27 tuổi đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân
khoa Đinh Mùi, niên hiệu Chiêu Thống, đời vua Lê Mẫn
Đế (năm 1787).
238. Nguyễn Mậu Thịnh, hay còn gọi là Nguyễn
Mậu Áng, người xã Kim Sơn (nay là thôn Kim Sơn (làng
Then), xã Kim Sơn, huyện Gia Lâm). Nãm 23 tuổi đỗ đệ

314
N H O G IÁ O - Đ Ạ O H Ọ C TRÊN Đ Ấ T KINH KÌ (TH Ă N G LO N G - Đ Ô N G Đ Ô - HÀ N Ộ I)

tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Tân Mùi, niên hiệu
Chính Hoà, đời vua Lê Hy Tông (nãm 1691).
239. Nguyễn Vĩnh Thịnh, người xã Hạ Yên Quyết
(làng Cót), huyện Từ Liêm (nay thuộc phường Yên Hoà,
quận Cầu Giấy). Năm 33 tuổi đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ
xuất thân khoa Kỷ Hợi, niên hiệu Vĩnh Thọ, đời vua Lê
Thần Tông (năm 1659).
240. Hoàng Thiệu, người làng Tây Mỗ (nay là thôn
Tây Mỗ, xã Tây Mỗ huyện Từ Liêm). Nãm 32 tuổi đỗ đệ
tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Ât Mùi, niên hiệu
Hồng Đức, đời vua Lê Thánh Tông (năm 1475).
241. N guyẽn K h ác Thiệu (1 6 1 1 -1 6 6 8 ), người
phường Hà Khẩu, huyện Thọ Xương (nay thuộc phường
Hàng Buồm, quận Hoàn Kiếm). Năm 32 tuổi đỗ Đình
nguyên, đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) khoa
Quý Mùi, niên hiệu Phúc Thái, đời vua Lê Chân Tông
(năm 1643).
242. Nguyễn Danh Thọ, người xã Nguyệt Áng,
huyện Thanh Trì (nay là thôn Nguyệt Áng (làng Nguyệt),
xã Đại Áng, huyện Thanh Trì. Năm 28 tuổi đỗ đệ tam giáp
đổng tiến sĩ xuất thân khoa Tân Mùi, niên hiệu Đức Long,
đòi vua Lê Thần Tông (năm 1631).
243. Nguyễn Minh Thòng, người xã Xuân Canh,
huyện Đóng Ngàn (nay là thôn Xuân Canh, xã Xuân Canh,
huyện Đỏng Anh). Đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân

315
C H Ư Ơ N G 5 : C Á C TIẾN SỸ NHO H Ọ C C Ò N LUU DANH TRÊN Đ Ấ T KIN H KỲ

khoa Tân Sửu, niên hiệu Hồng Đức, đời vua Lê Thánh
Tông (nãm 1481).
244. Đoàn Văn Thông, người huyện Quảng Đức
(nay thuộc quận Hoàn Kiếm). Đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ
xuất thân khoa Tân Mùi, niên hiệu Hồng Thuận, đời vua
Lê Tương Dực (nãm 1511).
245. Lê Nhữ Thông, người huyện Tân Phúc (nay
thuộc huyện Sóc Sơn2). Đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất
thân khoa Giáp Thìn, niên hiệu Hồng Đức, đời vua Lê
Thánh Tông (năm 1484).
246. Nguyễn Bá Thủ còn gọi là Bá Trữ, người
phường Đổng Lạc, huyên Thọ Xương (nay thuộc phường
Hàng Trống, quận Hoàn Kiếm). Năm 41 tuổi đỗ đệ tam
giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Giáp Tuất, niên hiệu Cảnh
Hưng, đời vua Lê Hiển Tông (năm 1754).
247. Trịnh Xuân Thụ, người xã Hoa Lâm, huyện
Đông Ngàn (nay là thốn Thái Bình, xã Mai Lâm, huyện
Đông Anh). Năm 44 tuổi đỗ đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân
(Hoàng giáp) khoa Mậu Thìn, niên hiệu Cảnh Hưng, đời
vua Lê Hiển Tông (năm 1748).
248. T rần Đình Thụ, người phường Báo Thiên,
huyện Thọ Xương (nay thuộc phường Hàng Trống, quận
Hoàn Kiếm). Thi Hương đỗ Giải nguyên. Năm 29 tuổi đỗ

2 Nay chưa rõ thuộc làng nào của huyện Sóc Sơn.

316
N H O G IÁ O - Đ Ạ O H Ọ C TRÊN Đ Ấ T KINH K Ì (TH Ả N G LO N G - Đ Ô N G Đ Ô - HÀ N Ộ I)

đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Tân Sửu, niên hiệu
Bảo Thái, đời vua Lê Dụ Tông (nãm 1721).
249. T rần Thiện Thuật, người xã Bát Tràng (nay là
thôn Bát Tràng, xã Bát Tràng, huyện Gia Lâm). Năm 24
tuổi đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Quý Hợi,
niên hiệu Chính Hoà, đời vua Lê Hy Tông (năm 1683).
250. Vương K hắc Thuật, người xã Cối Giang,
huyện Đông Ngàn (nay là thôn Lại Đà, xã Đông Hội,
Đông Anh). Đỗ đệ nhất giáp Tiến sĩ cập độ, đệ tam danh
(Thám hoa) khoa Nhâm Thìn, niên hiệu Hồng Đức, đời Lê
Thánh Tông (năm 1472).
251. Nguyễn Huy Thuật (1690-1772), người xã Phú
Thị (nay là thôn Phú Thị, xã Phú Thị, huyện Gia Lâm). Đỗ
khoa thi Hương vào năm Bảo Thái thứ 4 (1723). Đỗ đệ tam
giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Quý Sửu, niên hiệu Long
Đức, đời vua Lê Thuần Tông (năm 1733).
252. Đoàn Nhân Thục, người làng Nghè xã Nghĩa
Đô, huyện Từ Liêm (nay là phường Nghĩa Đô, quận Cầu
Giấy). Đỗ đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) khoa
Nhâm Tuất, niên hiệu Cảnh Thống, đời vua Lê Hiến Tông
(iầãm 1502).
253. Ngô Vi Thực, người xã Tả Thanh Oai, huyện
Thanh Oai (nay là thôn Tả Thanh Oai, xã Tả Thanh Oai,
huyện Thanh Trì). Năm 28 tuổi đỗ độ nhị giáp tiến sĩ xuất

317
C H Ư Ơ N G 5: C Á C TIẾN SỸ NHO H Ọ C C Ò N LUU DANH TRẼN ĐẮT KINH KỲ

thân (Hoàng giáp) khoa Tân Mùi, niên hiệu Chính Hoà,
đời vua Lê Hy Tông (nãm 1691).
254. Nguyễn Thực, người xã Vân Điềm, huyện
Đông Ngàn (nay là thôn Vân Điềm (làng Đóm), xã Vân
Hà, huyện Đỏng Anh). Đỗ đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân
(Hoàng giáp) khoa At Mùi, niên hiệu Quang Hưng, đời vua
Lê Thế Tông (năm 1595).
255. Trịnh Xuân Thưởng (1816-1871), người xã
Danh Lâm, huyện Đông Ngàn (nay là thôn Thái Bình, xã
Mai Lâm, huyện Đông Anh). Cử nhân khoa Quý Mão
(nãm 1843). Năm 31 tuổi đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất
thân khoa Đinh Mùi, niên hiôu Thiệu Trị (nam 1847).
256. Nguyễn Thưởng (1717-1781), người xã Vân
Điềm, huyện Đông Ngàn (nay là thôn Vân Điềm, xã Vân
Hà, huyện Đông Anh). Đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất
thân khoa Giáp Tuất, niên hiệu Cảnh Hưng, đời vua Lê
Hiển Tông (năm 1754).
257. Đăng Công Toản, người xã Thượng Yên Quyết
(làng Giấy) huyện Từ Liêm, (nay thuộc phường Quan Hoa,
quận Cầu Giấy). Năm 36 tuổi đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ
xuất thân khoa Canh Thìn, niên hiệu Quang Thiệu, đời vua
Lê Chiêu Tông (nãm 1520).
258. Đỗ Công Toản, người xã Thượng Yên Quyết
(làng Giấy), (nay thuộc phường Yên Hoà, quận Cầu Giấy).

318
N H O G I Á O - Đ Ạ O H Ọ C TRẼN OẤT KINH KÌ (TH Ă N G LO N G - Đ Ô N G Đ Ô - HÀ N Ộ I)

Thi Hương đỗ Giải nguyên. Nãm 42 tuổi đỗ đệ tam giáp


đồng tiến sĩ xuất thân khoa Quý Hợi, niên hiệu Chính Hoà,
đời vua Lê Hy Tông (năm 1683).
259. Lê Khả Tỏng, người xã Trân Tảo (nay là thôn
Trân Tảo (làng Táo), xã Phú Thị, huyện Gia Lâm). Năm 32
tuổi đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Tân Mùi,
niên hiệu Chính Hoà, đời vua Lê Hy Tông (năm 1691).
260. Nguyễn Bá Tông, hay còn gọi là Bá Tôn, người
xã Phù Ninh (làng Nành) huyện Đông Ngàn, (nay là thôn
Phù Ninh, xã Ninh Hiệp, huyện Gia Lâm). Năm 25 tuổi đỗ
đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Bính Tuất, niên
hiệu Vinh Thịnh, dời vua Le Dụ Tông (năm 1706).
261. Đỗ Vãn Tổng, người xã Thượng Yên Quyết
(làng Giấy), huyện Từ Liêm (nay thuộc phường Yên Hoà,
quận Cầu Giấy). Năm 33 tuổi đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ
xuất thân khoa Canh Thìn, niên hiệu Dương Hoà, đời vua
Lê Thần Tông (nãm 1640).
262. Nguyễn Trác, người xã Hà Vĩ, huyện Đông
Ngàn (nay là thôn Đại Vĩ (còn gọi là làng Quậy Cả), xã
Liên Hà, huyện Đông Anh). Năm 21 tuổi đỗ đệ tam giáp
đồng tiến sĩ xuất thân khoa Mậu Tuất, niên hiệu Đại
Chính, đời vua Mạc Đăng Doanh (năm 1538).
263. Nguyễn Văn Trạc (1598-1672), người xã Mai
Dịch, huyện Từ Liêm (nay thuộc phường Mai Dịch, quận

319
C H U O N G 5: C Á C TIẾN SỸ NHO H Ọ C C Ò N iưu DANH TRÊN Đ Ấ T KINH KỲ

Cầu Giấy). Năm 33 tuổi đỗ đệ tam giáp đổng tiến sĩ xuất


thân khoa Tân Mùi, niên hiệu Đức Long, đời vua Lê Thần
Tông (năm 1631).
264. Cao Dương Trạc, còn gọi là Cao Huy Trạc,
người xã Phú Thị (nay là thôn Phú Thị, xã Phú Thị, huyện
Gia Lâm). Trước ông đỗ khoa Sĩ Vọng. Năm 34 tuổi đỗ đệ
tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa At Mùi, niên hiệu
Vĩnh Thịnh, đời vua Lê Dụ Tông (năm 1715).
265. Bùi Xương Trạch (1451-1516), người thôn
Giáp Nhị, xã Thịnh Liệt huyện Thanh Đàm (nay thuộc
phường Thịnh Liệt, quận Hoàng Mai). Ông hiệu là Định
Trai, tự là Văn Lượng, đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất
thân khoa Mậu Tuất, niên hiệu Hồng Đức, đời vua Lê
Thánh Tông (năm 1478). Trong một bài ký ở đình Quảng
Văn năm Hồng Đức thứ 4 (1493) ông đã nêu rõ chủ trương
của vua Thánh Tông nhà Lê là "đổi mới việc chính trị cho
dân mở rộng đường giáo hoá Ông là một học giả được
nhiều người ưa chuộng.
266. Nguyễn Nhật Tráng, người xã Hạ Yên Quyết,
huyện Từ Liêm (nay thuộc phường Yên Hoà, quận Cầu
Giấy). Nãm 37 tuổi đỗ Hội nguyên, đệ nhị giáp tiến sĩ xuất
thân (Hoàng giáp) khoa Ât Mùi, niên hiệu Quang Hưng đời
vua Lê Thế Tông (năm 1595).
267. Phạm Trân, người xã Đông Phù Liệt, huyện
Thanh Đàm (nay là thôn Đông Phù, xã Đông Mỹ, huyện

320
N H O G IÁ O - Đ Ạ O H Ọ C TRẼN Đ Ấ T KINH KÌ (TH Ả N G LO N G - Đ Ô N G Đ Ô - HÀ N Ộ I)

Thanh Trì). Đỗ Hội nguyên, đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất


thân khoa Đinh Mùi, niên hiệu Hồng Đức, đời vua Lê
Thánh Tông (năm 1487).
268. Ngô Thế T rị còn gọi là Ngô Thế Dụng, người
làng Cự Trinh, xã Hội Phụ, huyện Đông Ngàn (nay là thôn
Hội Phụ, xã Đông Hội, huyện Đông Anh). Năm 42 tuổi đỗ
Đình nguyên, đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Ât
Mùi, niên hiệu Cảnh Hưng, đời vua Lê Hiển Tông (nãm
1775).
269. Nguyễn Dụng Triêm, người xã Hạ Yên Quyết
(làng Cót), huyện Từ Liêm (nay thuộc phường Yên Hoà,
quận Cầu Giấy). Năm 41 tuổi đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ
xuất thân khoa Nhâm Dần, niên hiệu Hoằng Định, đời vua
Lê Kính Tông (năm 1602).
270. Bùi Văn Trinh, đổi làm Đinh Trinh (1615-
1683), người xã Hương Canh (nay là thôn Thị Cấm, xã
Xuân Phương, huyện Từ Liêm). Năm 44 tuổi đỗ đệ tam
giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Kỷ Hợi, niên hiệu Vĩnh
Thọ, đời vua Lê Thần Tông (năm 1659).
271. Nguyễn Duy Trinh, người xã Thượng Cát (nay
là thôn Thượng Cát, xã Thượng Cát, huyện Từ Liêm). Năm
38 tuổi đỗ đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) khoa
Tân Sửu, niên hiệu Hồng Đức, đời vua Lê Thánh Tông
(năm 1481).

321
C H U O N G 5: C Á C TIẾN SỸ NHO H Ọ C C Ò N LUU DANH TRÊN Đ ẤT KINH KỲ

272. Nguyễn Quốc Trinh còn có tên là Đắc Lộc,


Quốc Cơ, Quốc Khôi (1625-1674), người xã Nguyệt Áng
(nay là thôn Nguyệt Áng (làng Nguyệt), xã Đại Áng,
huyện Thanh Trì). Năm 21 tuổi đỗ Hương cống. Sau ông
đỗ Hội nguyên, đệ nhất giáp tiến sĩ cập độ (Trạng nguyên)
khoa Kỷ Hợi, niên hiệu Vĩnh Thọ, đời vua Lê Thần Tông
(năm 1659).
273. Phạm Quốc Trinh, người xã Tiểu Lan, huyện
Thanh Đàm (nay là Đại Lan, xã Duyên Hà, huyện Thanh
Trì). Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Mậu Thìn,
niên hiệu Thái Hoà, đời vua Lê Nhân Tông (1448).
274. Nguyễn Tông Trình (1723-1787), người xã Tả
Thanh Oai, huyện Thanh Oai (nay là thôn Tả Thanh Oai,
xã Tả Thanh Oai, huyện Thanh Trì). Năm 31 tuổi đỗ Đình
nguyên, đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Giáp Tuất,
niên hiệu Cảnh Hưng, đòi vua Lê Hiển Tông (năm 1754).
275. Đăng Tích Trù hay còn gọi là Hữu Trù, người
xã Đa Tốn, huyện Gia Lâm (nay là thôn Đa Tốn, xã Đa
Tốn, huyện Gia Lâm). Cử nhân khoa Giáp Thân (năm
1884). Khoa Ất Dậu ông thi Hội trúng cách vào thi đình
chưa kịp yết bảng thì kinh thành Huế thất thủ. Đến khoa
Kỷ Sửu (1889) lại dự phúc thi và đỗ Phó bảng.
276. Nguyễn Trù, người phường Đông Tác, huyện
Thọ Xương (nay thuộc phường Trung Tự, quận Đống Đa).

322
NH O G IÁ O - Đ Ạ O H Ọ C TRÊN Đ Ấ T KINH KÌ (TH Ă N G LO N G - Đ Ổ N G Đ Ô - HÀ N Ộ I)

Năm 29 tuổi đỗ đệ nhị giáp đồng tiến sĩ xuất thân (Hoàng


giáp) khoa Đinh Sửu, niên hiệu Chính Hoà, đời vua Lê Hy
Tông (nãm 1697).
277. Nguyễn Đình Trụ, người xã Nguyệt Áng, huyện
Thanh Đàm (nay là thôn Nguyệt Áng (làng Nguyệt), xã Đại
Áng, huyện Thanh Trì). Năm 29 tuổi đỗ Hội nguyên, đệ tam
giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Bính Thân, niên hiệu Thịnh
Đức, đời vua Lê Thần Tông (năm 1656).
278. Nguyễn Khắc Trung, người xã Phù Ninh,
huyện Đông Ngàn, (nay là thôn Phù Ninh (làng Nành), xã
Ninh Hiệp, huyện Gia Lâm). Đỗ đệ nhị giáp tiến sĩ xuất
ihân (Hoàng giáp) khoa Quý Mùi, niên hiệu Thống
Nguyên, đời vua Lê Cung Hoàng (năm 1523).
279. Đỗ Văn Trung, người xã Vĩnh Trung, huyện
Thanh Đàm (nay thuộc xã Ngọc Hồi, huyện Thanh Trì).
Đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Ât Sửu, niên
hiệu Đoan Khánh, đời vua Lê Uy Mục (năm 1505).
280. Ngô Chấp Trung, người làng Đại Vĩ (Quậy
Cả), xã Đại VI được nhà ngoại ở xã Hà Lỗ, huyện Đông
Ngàn nuôi ăn học thành tài (nay là thôn Hà Lỗ, xã Liên
Hà, huyện Đông Anh). Đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất
thân khoa Quý Sửu, niên hiệu Cảnh Lịch, đời vua Mạc
Phúc Nguyên (năm 1553).
281. Vương Thì Trung, người xã Bát Tràng (nay là
thôn Bát Tràng, huyện Gia Lâm). Năm 52 tuổi đỗ đệ tam

323
CH Ư Ơ N G 5 : C Á C TIẾN SỸ NHO H Ọ C C Ò N LUU DANH TRẼN ĐẤT KINH KỲ

giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Kỷ Sửu, niên hiệu Hưng
Trị, đời vua Mạc Mậu Hợp (năm 1589).
282. Nguyễn Trừng, người xã c ổ Điển, huyện
Thanh Đàm, (nay là thôn c ổ Điển A, xã Tứ Hiệp, huyện
Thanh Trì). Đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa
Quý Sửu, niên hiệu Cảnh Lịch, đời vua Mạc Phúc Nguyên
(năm 1553).
283. Tạ Tuân, người xã Ngô Khê, huyện Đông Ngàn
(nay là thôn Ngô Khê, xã Vân Hà, huyện Đông Anh). Đỗ
đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Ât Mùi niên hiệu
Đại Chính đời vua Mạc Đăng Doanh (năm 1535).
284. Nguyễn Tuấn, người xã Nhan Mục Môn, huyện
Thanh Trì (nay là thôn Giáp Nhất, phường Nhân Chính,
quận Thanh Xuân). Năm 51 tuổi đỗ Đình nguyên, đệ tam
giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Quý Sửu, niên hiệu Hoằng
Định, đời vua Lê Kính Tông (năm 1613).
285. Vũ Văn Tuấn (1803-1860), người xã Bát Tràng
(nay là thôn Bát Tràng, xã Bát Tràng, huyện Gia Lâm). Cử
nhân khoa Đinh Dậu (năm 1837). Năm 40 tuổi đỗ đệ tam
giáp tiến sĩ xuất thân khoa Quý Mão, niên hiệu Thiệu Trị
(năm 1843).
286. Nguyễn Văn Tùng (1810-1840), người xã
Đông Ngạc (nay là thôn Đông Ngạc, xã Đông Ngạc, huyện
Từ Liêm). Giải nguyên khoa Đinh Dậu (năm 1837). Năm

324
N H O G IÁ O - Đ Ạ O H Ọ C TRÊN Đ Ấ T KINH KÌ (TH Ằ N G LO N G - Đ Ô N G Đ Ổ - H À N Ộ I)

28 tuổi đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Mậu


Tuất, niên hịêu Minh Mạng (năm 1838).
287. Đỗ Tùng, người thôn Xã Đàn, huyện Vĩnh
Xương (nay là ngõ Xã Đàn, phường Nam Đồng, quận
Đống Đa). Năm 21 tuổi đỏ nhị giáp tiến sĩ xuất thân
(Hoàng giáp), khoa Âl Sửu, niên hiộu Đoan Khánh, đời vua
Lê Uy Mục (năm 1505).
288. Lê Hoàng Tuyên (1692-1778), người làng Hạ
Đình, xã Nhân Mục Cựu, huyện Thanh Trì (nay thuộc
phường Hạ Đình, quận Thanh Xuân). Năm 32 tuổi đỗ đệ
tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Giáp Thìn, niên hiệu
Bảo Thái, dời vua Le Dụ Tồng (nam 1724).
289. Trương Đình Tuyên, người phường Công Bộ,
huyện Quảng Đức (nay thuộc phường Thành Công, quận
Ba Đình). Năm 26 tuổi đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất
thân khoa Kỷ Mùi, niên hiệu Vĩnh Hựu, đời vua Lê ý Tông
(năm 1739).
290. Nguyễn Tuyên còn gọi là Nguyễn Trọng Hợp,
người xã Kim Lủ, huyện Thanh Trì (nay là thòn Kim Lủ
(làng Lủ Trung), phường Đại Kim, quận Hoàng Mai. Ông
đỗ cử nhân năm Mậu Ngọ (1858). Sau đó đỗ đệ tam giáp
đồng tiến sĩ xuất thân khoa Ât Sửu, đời vua Tự Đức (năm
1865).

325
C H U O N G 5: C Á C TIẾN SỸ NHO H Ọ C C Ò N LUU DANH TRÊN ĐẮT KINH KỲ

291. Phạm Tuyến, người xã Đông Dư (nay ià thôn


Đông Dư, xã Đông Dư, huyện Gia Lâm). Cử nhân khoa
Bính Ngọ (năm 1846). Đỗ Phó bảng khoa Kỷ Dậu, niên
hiệu Tự Đức (năm 1849).
292. Vũ Trần Tự còn gọi là Vũ Trần Thiệu, người
phường Thái Cực, huyện Vĩnh Xương (nay là phường
Hàng Đào, quận Hoàn Kiếm). Năm 23 tuổi đỗ đệ tam giáp
đồng tiến sĩ xuất thân khoa Kỷ Mùi, niên hiệu Vĩnh Hưu,
đời vua Lê Ý Tông (năm 1739).
293. Vũ Trọng Từ, người phường Yên Thái, huyện
Quảng Đức (nay thuộc phường Bưởi, quận Tây Hồ). Đỗ đệ
tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Đinh Mùi, niên hiệu
Chiôu Thống (năm 1787).
294. Trịnh Bá Tướng (1691-1740), người xã Phú
Thị (nay là thôn Phú Thị (làng Sủi), xã Phú Thị, huyện Gia
Lâm). Năm 30 tuổi đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân
khoa Tân Sửu, niên hiệu Bảo Thái, đời vua Lê Dụ Tông
(năm 1721).
295. Thành Ngọc uẩn (1835-1893), người phường
Bạch Mai, huyện Thọ Xương (nay thuộc phường Bạch
Mai, quận Hai Bà Trưng). Cử nhân khoa Ât Mão (năm
1855). Năm 30 tuổi đỗ Phó bảng khoa Ất Sửu, niên hiệu Tự
Đức (năm 1865).
296. Nguyễn Đình úc, người xã Nguyệt Áng, huyện
Thanh Trì, (nay là thôn Nguyệt Áng, xã Đại Áng, huyện

326
NHO S I Ấ O - Đ Ạ O H Ọ C TRỀN Đ Ấ T KINH KÌ (TH Ả N G LO N G - Đ Ô N G Đ Ô - HÀ N Ộ I)

Thanh Trì). Theo gia phả thì ông là người khẳng khái, sớm
bộc lộ ý chí theo đuổi nghiệp học. Năm 25 tuổi, thi đỗ đệ
tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Quý Mùi, niên hịêu
Chính Hoà, đời vua Lê Hy Tông (năm 1703).
297. Nguyễn Như Uyên, người làng Cót, huyện Từ
Liêm (nay thuộc phường Yên Hoà, quận Cầu Giấy - Hà
Nội). Năm 32 tuổi đỗ đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân (Hoàng
giáp) khoa Kỷ Sửu, niên hiệu Quang Thuận, đời vua Lê
Thánh Tông (năm 1469).
298. Nguyễn Lý Uyên, người xã c ổ Điển, huyện
Thanh Đàm (nay là thôn c ổ Điển A, xã Tứ Hiệp, huyện
Thanh Trì). Năm 2 4 tuổi đỗ đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân
(Hoàng giáp) khoa Đinh Mùi, niên hiệu Hồng Đức, đời vua
Lê Thánh Tông (năm 1487).
299. Phạm Dương Ưng, người phường Phục cổ,
huyện Thọ Xương (nay thuộc phường Hàng Đào, quận
Hoàn Kiếm). Thi Hương đỗ Giải nguyên. Năm 26 tuổi đỗ
đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Quý Mùi, niên
hiệu Cảnh Hưng, đời vua Lè Hiển Tông (năm 1763).
300. Nguyễn Khắc Vân, người phường Hà Khẩu,
huyện Thọ Xương (nay thuộc phường Hàng Buồm, quận
Hoàn Kiếm). Năm 61 tuổi đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất
thân khoa Mậu Thìn, niên hiệu Vĩnh Tộ, đời vua Lê Thần
Tông (năm 1628).

327
CHƯONG 5: CÁC TIẾN SỸ NHO HỌC CÒN Lưu DANH TRẼN Đ Ấ T KINH KỲ

301. Chử Sư Vân, người xã Hội Phụ, huyện Đông


Ngàn (nay là thôn Hội Phụ, xã Đông Hội. Huyện Đông
Anh). ĐỖ độ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Giáp
Thìn niên hiệu Quảng Hoà, đời vua Mạc Phúc Hải (nãm
1544).
302. Trần Vĩ, người phường Kim Hoa, huyện Thọ
Xương (nay thuộc phường Kim Liên, quận Đống Đa). Năm
40 tuổi đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Giáp
Thìn, niên hiệu Hoằng Định, đời vua Lê Kính Tông (năm
1604).
303. Trần Vĩ, người xã Thượng Cát (nay là thôn
Thượng Cát, xã Thượng Cát, huyện Từ Liêm). Cử nhân
khoa Canh Tý (năm 1840). Năm 37 tuổi đỗ đệ tam giáp
đồng tiến sĩ xuất thân khoa Tân Sửu, niên hiệu Thiệu Trị
(năm 1841).
304. Nguyễn Duy Viên, người xã Kim Sơn (nay là
thôn Kim Sơn, xã Kim Sơn, huyện Gia Lâm). Năm 32 tuổi
đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Giáp Tuất, niên
hiệu Chính Hoà, đời vua Lê Hy Tông (năm 1694).
305. Lê Hoàn Viện, người xã Bát Tràng (nay là thôn
Bát Tràng, xã Bát Tràng, huyện Gia Lâm). Năm 26 tuổi đỗ
đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Ât Mùi, niên hiệu
Vĩnh Thịnh, đời vua Lê Dụ Tông (năm 1715).
306. Lương Vinh, người xã cổ Bi, huyện Gia Lâm
(nay là thôn Xuân Đỗ, xã c ổ Bi, huyện Gia Lâm). Đỗ đệ

328
NHO G IẢ O - Đ Ạ O H Ọ C TRÊN Đ Ấ T KINH KÌ (TH ĂN G LO N G - Đ Ô N G Đ Ô - HẢ N Ộ I)

tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Mậu Tuất, niên hiệu
Hồng Đức, đời vua Lê Thánh Tông (nãm 1478).
307. Nguyễn Đác Vinh, người phường Công Bộ,
huyện Quảng Đức, (nay thuộc phường Thành Công, quận
Ba Đình). Năm 29 tuổi đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất
thân khoa Bính Tuất, niên hiệu Phúc Thái, đời vua Lê Chân
Tông (năm 1646).
308. Bùi Vịnh, người xã Thịnh Liệt, huyện Thanh
Đàm (nay là làng Giáp Nhị, phường Thịnh Liệt, quân
Hoàng Mai). Năm 34 tuổi đỗ đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ, đệ
nhị danh (Bảng nhãn) khoa Nhâm Thìn, niên hiệu Đại
Chính, đời vua M ạc Đăng Doanh (năm 1532).
309. Nguyễn Huy Vượng, người xã Minh Cảo (nay
là thôn Xuân Tảo, xã Xuân Đỉnh, huyện Từ Liêm). Năm
44 tuổi đỗ đệ tam giáp tiến sĩ xuất thân khoa At Mùi, niên
hiệu Cảnh Hưng, đời vua Lê Hiển Tông (năm 1775).
310. Nguyễn Vũ, người xã Thiên Mỗ (nay là thôn
Đại Mỗ, xã Đại Mỗ, huyện Từ Liêm). Năm 57 tuổi đỗ đệ
nhị giáp tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) khoa Giáp Tuất,
niên hiệu Hồng Thuận, đời vua Lê Tương Dực (năm 1514).
311. Lê Đình Xán, người xã Hạ Đình, huyện Thanh
Trì (nay thuộc phường Hạ Đình, quận Thanh Xuân). Cử
nhân khoa Canh Tý (năm 1900). Năm 35 tuổi đỗ Phó bảng
khoa Tân Sửu, niên hiệu Thành Thái (năm 1901).

329
CH Ư Ơ N G 5: C Á C TIẾN SỸ NHO HỌ C C Ò N LUU DANH TRÊN ĐẤT KINH KỲ

312. Nguyễn Xán, người xã Thịnh Liệt, huyện Thanh


Đàm (nay chưa rõ là làng nào trong 3 làng Giáp Nhất,
Giáp Nhị hay Giáp Tứ thuộc phường Thịnh Liệt, quận
Hoàng Mai). Nãm 46 tuổi đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất
thân khoa Nhâm Thìn, niên hiệu Đại Chính, đời vua Mạc
Đăng Doanh (năm 1532).
313. Trương Ý, người phường Thịnh Hào, huyện
Vĩnh Thuận (nay thuộc phường Ô Chợ Dừa, quận Đống
Đa). Cử nhân khoa Nhâm Dần (năm 1842). Năm 28 tuổi
đỗ Phó bảng khoa Đinh Mùi, niên hiệu Thiộu Trị (năm
1847).
Con số 313 tiến sĩ Nho học trên đất Kinh kỳ chưa
phải là con số cuối cùng. Và nếu đem con số này để so với
số tiến sĩ được đào tạo trong cả nước dưới thời phong kiến
thì có lẽ không thấm gì, song nếu đem so sánh giữa chúng
với con số gần 1200 tiến sĩ được đề danh tại Văn Miếu thì
phải nói đó là một con số khá lớn chiếm khoảng 1/4 (tức
khoảng 25%). Con sô' này chứng tỏ Thăng Long - Đông
Đô một thòi là một trung tâm học hành thi cử của cả nước.
Đây là mảnh đất thu hút nuôi dưỡng được khá nhiều nhân
tài cho đất nước. Những con số này rất đáng để người Hà
Nội ngày nay tự hào về một trung tâm học hành thi cử của
cha ông mình.

330
NH O G I Á O - Đ Ạ O H Ọ C TRÊN Đ Ấ T KINH KỈ (TH Ả N G LO N G - Đ Ô N G Đ Ô - HÀ N Ộ I)

Chương VI
Đạo
■ học
■ Việt
• Nam trước
những cú huých của lịch sử

6.1. NGƯỜI VIỆT CỔ TRONG LỘ TRÌNH ĐI TÌM MỘT


LOẠI CHỮ VIẾT RIÊNG CHO MÌNH
Theo truyền thuyết và dã sử thì từ xa xưa, người Viẹt
đã có chữ viết. Thứ chữ này đã được nhiều nhà nghiên cứu
để cập tới. Trong một chuyên luận được GS Hà Văn Tấn
nghiên cứu và báo cáo tại Viện Khảo cổ học cũng như ở
Trường đại học Tổng hợp Hà Nội, ông đã đề cập tới một
tài liệu khá thú vị mà nhiều người biết là chuyện còn được
ghi lại trong Thánh Tông di thảo. Truyện kể rằng: Vua Lê
Thánh Tông đi chơi gặp mưa, nghỉ đêm ở cạnh hồ Trúc
Bạch, mộng thấy hai người con gái thời Lý Cao Tông hiện
lên dâng tấu thư bày tỏ nỗi oan ức, bằng hai bài tấu: một
bài thơ ngũ ngôn tuyệt cú bằng chữ Hán và một tờ tấu
bằng chữ bản địa có bảy mươi mốt chữ ngoằn ngèo. Vua
không đọc được. Trải ba năm cả triều đình cũng không ai

331
CH Ư Ơ N G 6: Đ Ạ O H Ọ C VIỆT NAM TRUÒ C NHỮNG c ũ HUÝCH C Ủ A L|CH sử

đọc được tờ tấu đó. Thế rồi nhà vua lại nằm mộng thấy có
người hiện lên giảng giải cho vua hiểu rõ thêm bài thơ chữ
Hán. Vua hỏi âm và nghĩa của 71 chữ kèm theo thì người
đó nói: “Lối chữ này là kiểu chữ cổ của nước Nam. Nay
Mường Mán ở rừng núi có người đọc được, nhà vua vời họ
đến thì tự khắc biết”. Điểu ghi chép và loại hình chữ viết
trong thiên truyện này trùng hợp với những điều ghi chép
trong cổ sử Trung Quốc. Sách Tiền Hán Thư viết: “Đời đào
Đường có họ Việt Thường ở phương Nam cử sứ bộ qua
nhiều lớp thông dịch vào triều, biếu con rùa thẩn, có lẽ đã
sống tới ngàn nãm, trên lưng có khắc như con nòng nọc,
ghi việc trời đất mở mang, vua Nghiêu sai chép lấy gọi là
Quy dịch”. Như vậy là thứ chữ cổ xưa của người Việt xưa
đã được các tài liệu trong và ngoài nước ghi chép.
Vào thế kỷ XIX, trong Thanh Hoá quan phong,
Vương Duy Trinh cũng luận bàn về chữ cổ của người Việt
xưa như sau: “Tỉnh Thanh Hoá một châu quan có chữ là
lối chữ Thập châu đó. Người ta thường nói rằng: Nước ta
không có chữ - Tôi nghĩ không phải. Thập châu vốn là đất
nước ta, trên châu còn có chữ, lẽ nào dưới chợ lại không.
Lối chữ châu là lối chữ nước ta đó.1”
Gần đây, qua chiếc trống đồng tìm thấy ở Lũng Cú
(Đồng Văn - Hà Giang), có một số hoa văn được nhiều

1 Xem thêm: Vương Duy Trinh: Thanh Hoá quan phong.

332
N H O G I Á O - Đ Ạ O H Ọ C TRÊN Đ Ấ T KINH KÌ (T H Ả N G LO N G - Đ Ô N G Đ Ô - HÀ N Ộ I)

nhà nghiên cứu cho đó có thể là dấu tích của một dạng chữ
cổ. Bên cạnh hình ngôi sao 12 cánh, hoa văn vòng tròn
đồng tâm, đường thẳng song song hướng tâm, đường gấp
khúc răng cưa, hình người hoá trang cách điệu, người ta
còn thấy những đường nét uốn lượn tạo thành các dạng hoa
vãn ngoằn ngoèo, hoặc những vạch thảng phối hợp với
nhau tạo thành những góc, những hình, những hoa văn
dạng kỷ hà. Phải chăng đó là dấu vết của một lối chữ cổ
ngoằn ngoèo như con nòng nọc được khắc tạc trên đồ
đồng?
Trong quá trình nghiên cứu của mình Gs Hà Văn Tấn
đã tìm thấy những hoa văn dạng chữ cổ trên hai hiện vật
lưỡi cày và qua đồng tại một ngôi mộ ở Lạch Trường và
một nữa trong ngôi mộ thuộc nền văn minh Đông Sơn
(Thanh Hoá). Với những phát hiện này của Gs Hà Văn Tấn
tuy chưa nhiều nhưng đã mở hướng cho nhiều nghiên cứu
về chữ viết cổ về sau.
Việc đi tìm một lối chữ cổ ở người Việt chưa chịu
ánh hưởng của chữ Hán vốn là líớc mơ của nhiều nhà
nghiên cứu Khảo cổ học, Sử học, Dân tộc học, Ngôn ngữ
học, Vãn học... Với sự phát triển mạnh mẽ của nền Khảo
cổ học Việt Nam, rồi đây chúng ta sẽ có nhiều hơn các
chứng cứ vật chất để minh chứng cho những công trình
nghiên cứu của Gs Hà Vãn Tấn và cũng là ước mơ của các
nhà nghiên cứu Lịch sử, Văn hoá, Nghệ thuật Việt Nam.

333
C H U O N G 6: Đ Ạ O H Ọ C VIỆT NAM TRUÒ C NHŨNG c ú HU ÝCH C Ủ A L|CH sử

6.2. CHỮ NÔM - MỘT ĐẶC TRƯNG DÂN TỘC


Từ thế kỷ thứ VII sau Công Nguyên và cho đến
khoảng thế kỷ thứ X, chữ Hán thâm nhập vào hoạt động
văn hóa, tinh thần của người Việt nhờ vào một hoàn cảnh
đặc biệt đó là sự truyền bá đạo Phật. Có thể nói, vì do việc
hấp thụ giáo lý đạo Phật nên việc học tập chữ Hán trong
giai đoạn này là điều cần thiết. Đến thế kỷ thứ X về sau,
khi Nho giáo truyền vào Việt Nam, nếu như trong giai
đoạn trước việc học tập chữ Hán chủ yếu dùng để hiểu biết
giáo lý của đạo Phật thì sau này việc học tập chữ Hán trở
thành một nhu cầu chính thống và rộng rãi, không những
chỉ dùng để ghi chép các công việc quản lý hành chính mà
nó còn có vai trò quan trọng trong hệ thống thi cử Nho học
xưa kia. Sự kiện quan trọng trong quá trình du nhập của
Nho giáo đó là việc được ghi trong Đại Việt sử ký toàn thư
''Năm Canh Tuất, niên hiệu Thuần Vũ thứ hai năm 1070
đời Lý Thánh Tông, mùa thu tháng tám cho xây Văn Miếu,
dựng tượng Khổng Tử, Chu Công và Tứ phối, vẽ tượng 72
người hiền, bốn mùa cúng tế. Hoàng thái tử đến học ở
đây". Việc cho xây dựng Văn Miếu đã tạo điéu kiện thuận
lợi cho việc học tập và sử dụng chữ Hán. Từ đó, chữ Hán
đã trở thành chữ viết chính thức trong gần 1000 năm, kể từ
năm 1075 sau khi vua Lý Nhân Tông cho mở khoa thi
Nho học đầu tiên, cho đến năm 1919 là năm mở khoa thi
cuối cùng ở Huế.

334
N H O G IÁ O - Đ Ạ O H Ọ C TRẼN Đ Ấ T KINH KÌ (TH Ằ N G LO N G - Đ Ô N G Đ Ô - HÀ NỘ I)

Việc dùng chữ Hán chính thức trong tầng lớp cai trị
đất nước là điều dễ hiểu, nhưng chữ Hán là 1 loại chữ
ngoại lai, không thích hợp với đại đa sô' dân chúng dùng để
biểu đạt ý tưởng trong cuộc sống thường ngày. Ngay cả
trong cung đình, nơi tập trung các quan lại văn hay chữ tốt,
chữ Hán là công cụ chính thức để truyền đạt tư tuởng,
nhưng cũng không phải là không gặp trở ngại. Sự việc vua
Trần Nhân Tông dùng quan Hành khiển để dịch những lời
truyền dụ của vua quan cho dân chúng thì rõ. Sau khi đại
thắr.g quân Nguyên, vua Trần Nhân Tông tuyên cáo cho
dàn chúng biết, Đại Việt sử ký toàn thư ghi rằng ... Lệ cũ,
mỗi khi tuyên đọc lời vua, thì viện Hàn lâm lĩnh đưa bản
thảo tờ chiếu cho quan Hành khiển đ ể giảng tập trước.
Đến khi tuyên đọc, thì giảng cả âm nghĩa cho dân thường
d ễ hiểu...
Sau này, Nguyễn Trường Tộ (1828-1871) trong “Tế
cấp bát điều có nêu rõ sự bất tiện của chữ Hán và đề
nghị dùng chữ Nôm như chữ chính thức. Gần hơn nữa, Tuy
Lý Vương, một nhà Hán học, văn hay chữ tốt, nhưng cũng
ý thức được sự tiện lợi trong việc truyền đạt tư tưởng bằng
chữ Nôm cho quần chúng nên đã viết “Nữ Phạm Diễn
Nghĩa Từ” bằng chữ Nôm. Cũng như Hường Nhung, con
của Tuy Lý Vương đã viết “Việt Sử Tứ Tự Ca”, tóm tắt sử
Việt bằng chữ Nôm với lời văn đơn giản để cho con cháu
hiểu biết được một cách dễ dàng và nhanh chóng.

335
CH Ư Ơ N G 6 : Đ Ạ O H Ọ C VIỆT NAM TRUỚC NHỮNG c ú HUÝCH C Ù A L|CH sù

Chính vì chữ Hán là thứ chữ ngoại lai, nên sự hình


thành, phát triển và sử dụng một loại chữ viết thích hợp
hơn cho dân tộc là một điều không thể thiếu và bức thiết.
Do vậy chữ Nôm xuất hiện song song vội sự phát triển việc
dùng chữ Hán.
6.2.1. Tinh thần dàn tộc thúc đẩy chữ Nôm ra đời
Chữ Nôm là một sáng tạo rất có ý nghĩa của tổ tiên
cha ông ta. Sự xuất hiện của chữ Nôm là một sự kiện lớn
đánh dấu sự tiến triển của nền văn hóa của dân tộc trong
gần 2000 năm qua. Sự hình thành của chữ Nôm có thể do sự
bức bách cần thiết trong việc giáo hóa dân chúng ở vào thời
đại xa xưa, Căn Đa cư sĩ cho rằng Nhâm Diôn đã dùng chữ
Nôm trong công việc giáo hóa quần chúng. Càng về sau,
mỗi lần đất nước bị kẻ thù phương Bắc xâm lược thì trong
những thời kỳ đó, chữ Nôm lại đóng vai trò tích cực hơn
trong việc chống trả ngoại xâm và xây dựng đất nước. Có
người căn cứ trên hai chữ Bố Cái cho rằng chữ Nôm có từ
thời Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng. Có người căn cứ trên
ba chữ Đại Cồ Việt để cho rằng chữ Nôm có từ thời Đinh
Tiên Hoàng. Đào Duy Anh cho rằng chữ Nôm có thể hình
thành ngay vào lúc họ Khúc dấy nghiệp (8), rồi dần dà phát
triển mạnh ở các thời đại về sau. Cho đến hôm nay, nguồn
gốc và diễn biến của chữ Nôm vẫn là chuyên tồn nghi.
Từ đời Tần cho tới thời trước khi loạn 12 sứ quân thì
xã hội Việt Nam thời đó nằm trong khuôn khổ chính trị,

336
N H O G IẢ O - Đ Ạ O H Ọ C TRÊN ĐẤT KIN H K Ì (TH Ả N G LO N G - Đ Ô N G Đ Ô - HÀ N Ộ I)

tập quán, văn hóa của Trung Quốc. Những khởi nghĩa
chống lại Trung Quốc cũng chỉ lẻ tẻ. Các phần tử trung
kiên của xã hội vẫn một lòng chấp nhận vãn hóa, tập quán,
phong tục của Trung Quốc, nhưng đến thời Ngũ Đại với
loạn 12 sứ quân thì sự việc đã bắt đầu đổi khác. Sự khống
chế từ phương Bắc yếu dần thì các thế lực địa phương bắt
đầu lớn mạnh. Tuy nhiên, sự phân ly giữa các thế lực này
đối với phương Bắc cũng chỉ nằm trong vòng tranh giành
quyền thế ở địa phương chứ chưa chính thức có ý thức tinh
thần dân tộc và ý thức quốc gia rõ rệt. Đợi khi tới đời
Đinh, Lý thì mới thực sự hình thành khái niệm ý thức quốc
gia. Việc định đặt quan chế, xây dựng kinh đô vào thời nhà
Lý đã tăng mạnh thêm ý thức quốc gia. Đạo Phật lớn mạnh
vào thời Lý làm cho ý thức này lan rộng vào cả toàn dân.
Cuối cùng đời Trần thừa hưởng di sản đó, ý thức quốc gia
bắt đầu vững mạnh thêm. Đây chính là lúc đất nước xây
dựng tất cả mọi mặt. Song song với sự tiến triển của xã hội
Việt Nam do sự tiếp thu và sử dụng chữ Hán trong tầng lớp
quan lại thì chữ Nôm đóng vai trò truyền đạt vãn hóa trong
dân gian một cách hữu hiệu và xác thực hơn. Chữ Nôm chỉ
có thê dược hình thành vào khoảng thời gian khi đất nước
thoát khỏi ách thống trị của phương Bắc. Đào Duy Anh
năm 1975 phát hiện ra chứng cứ xưa nhất về chữ Nôm
được sử dụng đó là việc tìm thấy vết tích của tấm bia của
vua Lý Cao Tông2. Đây là một chứng cứ xác đáng nhất

2 Xem thêm: Đào Duy Anh: "Chữ Nôm: Nguồn góc, cắn lạo và diễn biến ",
NXB Khoa Học Xã Hội. Hà Nội, 1975.

337
CH U O N G 6: Đ Ạ O H Ọ C VIỆT NAM TRƯỐC NHỮNG c ú HUÝCH C Ủ A L|CH sủ

chứng minh việc chữ Nôm ảnh hưởng rõ rệt vào đời sống
trong dân gian. Rồi sau đó phát triển khá vững vàng vào
thế kỷ XIII, điển hình là có các bài phú chữ Nôm của Trần
Nhân Tông còn đê’ lại như là "Đắc thú lâm tuyền thành đạo
ca", "Cư Trần lạc đạo phú", và "Vịnh Vân Yên tự phú"
trong bản in "Thiền tông bản hạnh". Văn Hựu năm 1932,
nhà nghiên cứu chữ Nôm nổi tiếng ở Trung Quốc cho rằng
chữ Nôm chỉ có thể phát triển một cách hoàn hảo sau khi
hệ thống loại chữ Khải của chữ Hán ra đời, chính là vào
khoảng thời gian trong triều đại Lý, Trần của Việt Nam.
Nguyễn Tài cẩn1 dưới mắt ngữ âm học lịch sử nhìn sự liên
quan giữa vần và thanh điộu của âm Hán Việt với âm Nôm
kết luận rằng “Loại chữ Nôm hiện có là một loại chữ
không thể nào hình thành đồng thời hay sớm hơn thời Sĩ
Nhiếp. Chỉ từ thế kỷ VIII, IX trỏ đi, nghĩa là sau khi hệ
thống phát ảm Đường, Tống ghi trong Thiết vận, Quảng
vận đã các lập được ở Việt Nam (hệ thống này vê sau sẽ
diễn biến dần và chuyên thành cách đọc Hán Việt hiện
nay) thì loại Nôm mà chúng ta hiện thấy mới thực sự có
đầy đủ tiên đề cẩn thiết đ ể xuất hiện”. Bửu Cầm 19604 cho
rằng chữ Nôm có thể hình thành trong khoảng thê' kỷ thứ
VIII đến thứ X, thời kỳ mà xã hội Việt Nam đang manh
nha tư tưởng và hành động đấu tranh giành độc lập. Bửu
Cầm nhấn mạnh rằng “chữ Nôm xuất hiện sau thời Sĩ

5 Nguyễn Tài cẩn : "Một sô'vấn đê chữ Nôm ", NXB Đại học, Hà Nội, 1985.
4 Bửu Cầm: "Ưu điểm và Kluivết điểm của chữ Nôm ”, , Khảo c ổ Tập San
1, Sài Gòn, 1960.

338
NHO G IẢ O - Đ Ạ O H Ọ C TRÊN Đ Ấ T KINH K Ì (TH Ả N G LO N G - Đ Ô N G Đ Ô - HÀ N Ộ I)

Nhiếp và phát triển mạnh m ẽ vào thời Trần". Dù vấn đề


chữ Nôm hình thành từ lúc nào còn đang là đề tài nghiên
cứu, nhưng không ai phủ nhận được rằng chữ Nôm đã đơm
hoa kết trái bắt đầu từ thời đại nhà Trần ở thế kỷ thứ XIII.
6.2.2. Tinh thần dân tộc nhìn từ phía cấu trúc của
chữ Nôm
Từ khi vấn đề chữ Nôm được Cheon đưa ra nghiên
cứu vào năm 1905 cho đến đầu thập niên 70, những nhà
nghiên cứu nổi tiếng như Dương Quảng Hàm, Hoàng
Xuân Hãn, Vương Lực, Chen Ching Ho, Văn Hựu, Trần
Văn Giáp, Đào Duy Anh, Bửu Cầm, Vũ Văn Kính v.v...
dổu cho ràng chữ Nôm đã sử dụng 3 phirơng pháp tạo chữ
trong 6 phương pháp (Lục Thư) tạo chữ của chữ Hán, đó là
ba phép Giả tá, Hình thanh và Hội ý. Chen Chin Ho năm
1949 cũng đã phân loại cấu trúc chữ Nôm theo ba loại là
Giả tá, Hình thanh và Hội ý. Trong đó Chen cho rằng có ba
loại Giả tá, hai loại Hình thanh và đưa ra năm chữ Hội ý.
Trước đó, Dương Quảng Hàm5 năm 1942 cho rằng có năm
loại Giả tá, hai loại Hình thanh và đưa ra một chữ Hội ý.
Sau này, Đào Duy Anh6 năm 1975 giải thích chi tiết hơn
nãm loại Giả tá, hai loại Hình thanh và chỉ đưa ra sáu chữ

5 Dương Quàng Hàm, Lê Văn Đặng : “Chữ Nôm và công việc khảo cứii co
văn Việt Nam", dịch từ “ Le Chu Nom ou ecriture demotique, son
importance dans 1’etude de 1’ancienne Annamite”, Bulletin generale de
1’Introduction publique, No. 7.
s Đào Duy Anh: dã dản...

339
CHƯƠNG 6: ĐẠO HỌC VIỆT NAM TRUÓC NHỮNG c ú HUÝCH CỦA l|CH s ử

Hội ý. Các cách phân chia trên có thể nói là đã bao gồm
hầu hết các loại chữ Nôm. Tuy nhiên trên thực tế, còn có
nhiều loại chữ Nôm có cách cấu trúc đặc biệt thì cả ba
phép tạo chữ này đòi hỏi linh động hơn khi giải thích sự
cấu tạo của chữ. Ví dụ như loại chữ Nôm mà các thành tô'
của chữ đều mang tính cách biểu âm như Sãi, Ba ... Ngoài
ra, còn có rất nhiều loại chữ Nôm đặc biệt như loại mang
âm Việt cổ, hoặc chữ bị viết giản nét hoặc dùng một chữ
Nôm khác làm thành tố biểu âm thì ba phương pháp này
hơi gặp lúng túng trong sự giải thích sự cấu tạo chữ. Chữ
Nôm trong thời kỳ mới phôi thai, phép giả tá được sử dụng
rất nhiều, phép hình thanh thì càng về sau này càng được
sử dụng rộng rãi. Theo Chen Ching Ho thì tỷ lệ chữ Hội ý
chỉ chiếm khoảng 2% mà thôi.
Sau thập niên 70, các nhà nghiên cứu Nôm nhận thấy
những mô hình cấu tạo chữ Nôm thời trước đã nêu vẫn chưa
được hoàn hảo để giải thích nhiều trường hợp đặc biệt, nên
đã đi sâu hơn như là tìm hiểu sự liên quan giữa âm Nôm của
toàn chữ với âm Hán Việt của thành tố biểu thị âm đọc, hay
là dựa trên những phương pháp ngữ âm học lịch sử, hoặc là
chia chữ Nôm ra thành loại “có âm đọc” và “không có âm
đọc”. Trước hết, Nguyễn Tài cẩn7 năm 1976, đưa ra mô

7 Nguyễn Tài cẩn : “Nguổn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt",
NXB KHXH - Hà Nội, 1979.

340
N H O G IẢ O - Đ Ạ O H Ọ C TRÊN Đ Ấ T KINH KÌ (TH Ả N G LO N G - Đ Ô N G Đ Ô - HÀ N Ộ I)

hình Cấu trúc chia chữ Nôm ra bảy loại dựa trên căn bản chữ
“mượn Hán” (A, B,C) gồm chữ Hán Việt, gốc Hán Việt,
viết tắt, giả tá và loại chữ “Sáng tạo” (D, E, F, G) trong đó
gồm chữ hình thanh, hội ý, viết tắt, dấu nháy và âm Việt cổ.
Công trình nghiên cứu và mô hình của Nguyễn Tài cẩn dẫn
đến các công trình nghiên cứu khác sau này với những lối
nhìn khác hơn và chi tiết hơn. Lê Vãn Quán năm 1981 đưa
ra mỏ hình giải thích mới trong đó chữ Nôm được chia ra
thành 14 loại, 6 loại đầu (A, B, c , D, E, F) thuộc nhóm chữ
dựa trên chữ Hán hiện có, còn 8 loại sau (G, H, I, K, L, M,
N) thuộc nhóm chữ “Sáng tạo” gồm chữ hình thanh, hội ý,
viết tắt. dấu nháy và âm Việt cổ. Sau này Nguyễn Ngọc San
năm 1988 dựa vào âm đọc chia chữ Nôm ra 14 loại trong đó
chỉ có 4 loại là trực tiếp mượn âm Hán Việt. Với ba mô hình
giải thích cấu tạo chữ Nôm của ba học giả nói trên cho thấy
sự đa dạng của cấu trúc chữ Nôm không những chỉ đơn
thuần gồm ba loại Giả tá, Hình thanh và Hội ý căn bản
thường thấy mà còn nhiều loại chữ có cấu trúc đặc biệt, nói
lên sư đa dạng và phong phú của âm Nôm hơn âm tiếng
Hán. Để nói lên tính cách đặc biệt khác hẳn với phương
cách tạo chữ của chữ Hán, chúng ta thử xem những loại chữ
đặc biệt sau đây.
1. Chữ Nôm có dấu nháy
Là loại chữ Nôm sử dụng những ký hiệu đặc biệt như
là nháv cá, dấu < v.v. Những ký hiệu này lưu ý người đọc

341
C H Ư Ơ N G 6 : Đ Ạ O H Ọ C V IỆT N A M TRƠ Ố C NH ŨNG cú HUÝCH C Ủ A LịCH sử

phải đọc âm Nôm hơi khác với âm của chữ Hán. Ví dụ:
Chữ Cá.
2. Chữ Nôm âm Việt cổ
Là loại chữ Nôm sử dụng những chữ Hán để ghi âm
tiếng Việt cổ. Ví dụ: Chữ Trăng, chữ Trước, chữ L ờ i.....
3. Chữ giả tá Nôm
Là loại chữ Nôm được cấu tạo bởi một chữ Nôm khác
cùng âm hay tương tự, song ý nghĩa của nó khác hẳn với ý
nghĩa với chữ Nôm mượn làm chữ biểu âm. Loại này tương
tự loại chữ giả tá Dương Quảng Hàm hay Trần Văn Giáp
nêu ra, chỉ khác là loại đó dùng chữ Hán để biểu thị âm
đọc, còn loại này thì sử dụng chữ Nôm làm chữ biểu thị âm
đọc. Ví dụ chữ Non thường dùng để chỉ Núi non, song ở
đây lại được dùng để chỉ Non nớt. Cùng một loại như Non,
còn có khá nhiều ví dụ khác như “Đền, Chữ Sang, non....
4. Chữ Nôm từ chữ Hán viết giản nét
Thí dụ điển hình nhất là chữ Làm mà phần nhiều các
nhà Nôm học cho rằng nó là cách viết giản nét chữ Vi, chữ
Phút là giản nét chữ Phân.
5. Chữ Nôm dạng hình thanh với phần chỉ nghĩa là
một bộ thủ chữ Hán
Chữ hình thanh là một phát minh độc đáo của dân
Việt để cấu tạo ra chữ Nôm. Loại chữ này thông thường
gồm hai chữ Hán kết hợp với nhau để biểu thị một chữ

342
NHO G IẢ O - Đ Ạ O H Ọ C TRÊN Đ Ấ T KINH KÌ (T H Ă N G L O N G - Đ Ô N G Đ Ô - HÀ N Ộ I)

Nôm, VÍ dụ: Chữ Ngồi được viết bằng dùng biểu thị ý
nghĩa và dùng để chỉ âm đọc. Một trong những cách nới
rộng phạm vi tạo chữ của phép hình thanh là tạo chữ bằng
cách kết hợp một chữ Hán, với một phần chữ Hán hoặc là
với một bộ thủ chữ Hán. ví dụ: Chữ Nhớ.
6. Chữ Nôm do chữ hình thanh viết giản nét
Có thê vì phép hình thanh dạng chính thức làm chữ
viết có quá nhiều nét nên khó nhớ, khó viết nên trong quá
trình hình thành chữ viết một phần của chữ đã bị cố ý giản
lược đi. Ví dụ: Đi, là chữ hình thanh, chữ Theo là tập hợp
của bộ Túc với chữ Thiêu giản nét bộ Hỏa, chữ Nổi là tập
hợp bộ Thủy với chữ giản nét bộ Thưc.
7. Chữ Nôm do ảnh hưởng của chữ cùng đi đôi
Loại này thông thường mang bộ thủ giống bộ thủ của
chữ thường hay đi đôi với chữ. Ví dụ: Chữ Gần thường hay
đi đôi với Xa, như Xa Gần nên Gần có bộ thủ là Bối, giống
như bộ thủ của Xa, trong khi bộ thủ Bối trong chữ Gần
không giúp thêm ý nghĩa gì cho Gần cả. Có thể lượt kê một
số chữ có cấu trúc tưong tự như Gần trong Xa Gần (bộ
Bối), ví dụ:
Vội (bộ Kim) vàng, Lăn Lóc (bộ Nhân), Gây (bộ
Lập) Dựng ...
Những loại chữ đặc biệt nêu trên, mặc dầu không đi ra
ngoài nguyên tắc giả tá, hình thanh và hội ý, song chúng
đều mang một tính chất sáng tạo mới mẻ, nói lên sự cố gắng

343
C H U O N G 6 : Đ Ạ O H Ọ C VIỆT NAM TRƯ Ớ C NHỮNG c ú HUÝCH C Ủ A l|C H s ử

cải tiến chữ Nôm cho thích hợp với hoàn cảnh hơn, góp
phần tạo dựng chữ Nôm là 1 loại chữ riêng cho dân tộc.
Một đặc điểm khác của chữ Nôm chúng ta cần để ý
tới là vị trí của bộ thủ hay là phần biểu nghĩa đối với phần
biểu âm của chữ. Dù chữ Nôm hoặc là mượn chữ Hán hoặc
là chữ Nôm sáng tạo cùng một dạng với chữ Hán thì vị trí
của các thành phần nói trên không nhất thiết phải đúng y
như là chữ Hán mà hoàn toàn tự do tùy theo ý của người
viết, cho thấy sự cấu tạo chữ Nôm tự do hơn chữ Hán. Xem
một vài trường hợp dưới đây chứng minh điều đó, ví dụ:
Chữ Chém có phần biểu nghĩa nằm bên phải thành phần
biểu âm. Chữ Chém có phần biểu nghĩa nằm bên trái thành
phần biểu âm.
Tóm lại, những phép cấu tạo chữ của chữ Nôm đã
vượt qua khỏi Lục thư của chữ Hán đã nói lên sự cô' gắng
tạo chữ đặc thù khác với phương pháp dùng cho chữ Hán,
mang một tinh thần dân tộc riêng chứ không nhất nhất đều
phải rập theo khuôn khổ chữ Hán.
6.2.3. Tinh thần dân tộc nhìn từ phía phát triển và
sử dụng chữ Nôm
Trần Văn Giáp8 sau khi phân tích nhiều khía cạnh
của chữ Nôm đã đi đến kết luận rằng “chữ Nôm dã lưu
hành rộng rãi trên đất nước ta cả ngàn năm nay, từ biên

8 Trần Văn Giáp, Lê Văn Đặng: “Lược Khảo Về Nguồn Gốc


Chữ Nôm", Ngày Nay Publishing, USA, 2003 .

344
N H O G IẢ O - Đ Ạ O H Ọ C TRÊN Đ Ấ T KINH KÌ (TH ẢN G LO N G - Đ Ô N G Đ Ô - HÀ NỘ I)

ỳới Trung Hoa cho đến Hà Tiên đã nêu rỗ quá trình lịch
sử của chữ Nôm. Nó đ ã phản ánh được sự phát triển thống
nhất của ngôn ngữ và văn hoá của dãn tộc, chứng minh rõ
ràng Việt Nam từ Nam chí Bắc, dân tộc Việt Nam là một
khối thống nhất. Chữ Nôm đã đóng vai trò quan trọng
trong công việc truyền đạt tư tưởng và văn hóa”. Thử xem
vua Quang Trung làm thế nào để kích động lòng yêu nước
và vai trò của chữ Nôm trong công việc tác động tình cảm
của quân dân khi đối đầu với hàng vạn quân Thanh xâm
lược. Năm 1788 sau khi được tin quân Thanh tiến sang
chiếm cứ thành Thăng Long, Nguyễn Huệ liền lên ngôi
hoàng đế. lấy niên hiệu là Ọuang Trung, rồi tức tốc kéo
quân ra Bắc. Trước thế mạnh của quân địch vua Quang
Trung đã dùng chữ Nôm làm bài hịch kích động lòng yêu
nước của tướng sĩ. Lời văn hùng hồn, truyền cảm gợi lên
lòng chiến đấu bất khuất, dấy lên lòng căm thù, chí yêu
nước, bảo vệ tổ quốc. Lời hịch như một tuyên ngôn độc lập
của đất nước, ngài dụ tướng sĩ và dân chúng rằng: “Đánh,
cho đ ể dài tốc! Đánh, cho đ ể đen răng! Đánh, cho nó
chiếc luân bất phản! Đánh, cho nó phiến giáp bất hoàn!
Đánh, cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ”. Lời
văn ngắn gọn, dễ hiểu, nhưng hùng hồn hàm chứa biết bao
ý nghĩa, tác động lên tinh thần dân tộc rộng rãi vào lòng
quân dân.

345
C H Ư O N G 6 : Đ Ạ O H Ọ C V IỆT NAM TRƯ Ó C N H Ữ N G cú HUÝCH C Ủ A l|C H sủ

Riêng về văn học, có thể chia ra các thời kỳ phát triển


chữ Nôm và nêu lên một vài tác phẩm tiêu biểu như sau:
1.Thời trước đời Ngô, Đinh là lúc manh nha, rất ít
chứng cứ chữ Nôm còn để lại.
2. Thời Lý, Trần là ỉúc chữ Nôm bắt đầu trưởng
thành, đã được sử dụng trong văn học và đời sống. Chứng
cứ xác đáng nhất chứng minh việc chữ Nôm ảnh hưởng rõ
rệt vào đời sống là vết tích của tấm bia của vua Lý Cao
Tông và ba bài phú chữ Nôm của vua Trần Nhân Tông
“Đắc thú lâm tuyền thành đao ca", "Cư trần lạc đạo phú"
va "Vịnh Vân Yên Tự phú".
3. Thời Hổ, Lê sơ. Việc sử dụng chữ Nôm trong thời
đại này được chú trọng nhiều hơn, đáng tiếc đời Hồ quá
ngắn ngủi. Qua đời Lê sơ, chữ Nôm đã thừa hưởng những
nỗ lực của người đi trước, nên đã bắt đầu phát triển mạnh,
điển hình là Nguyễn Trãi với Quốc Âm thi Tập. Sau đó vua
Lê Thánh Tông với hội Tao Đàn, cũng đóng góp nhiều vào
nền văn học Nôm. Sau đó, còn có Nguyễn Bỉnh Khiêm với
“Bạch Vân thi tập” v.v
4. Thời Lê Trung Hưng. Đây là thời kỳ đen tối trong
lịch sử Việt Nam, kéo dài sau khi đất nước bị chia đôi
ngang sông Gianh vào năm 1672. Đàng Ngoài do chúa
Trịnh cai trị, đàng Trong thì của chúa Nguyễn. Mặc dù đất
nước bị chia đôi dưới hai thể chế chính trị khác nhau,

346
N H O G IÁ O - Đ Ạ O H Ọ C TRÊN Đ Ắ T KINH K Ì (TH Ă N G LO N G - Đ Ô N G Đ Ô - H À N Ộ I)

nhưng chữ Nôm vẫn cứ phát triển và lưu hành trong dân
gian của cả hai miền. Dù nhà Trịnh có khuynh hướng đè ép
khống cho chữ Nôm phát triển, nhưng trái lại tác phẩm vãn
học Nôm lại nhiều hơn trong miền đàng Trong với chúa
Nguyễn. Đàng Trong chỉ có một vài tác phẩm tiêu biểu
như Sãi Vãi của Nguyễn Cư Trinh, Tư Dung Vãn của Đào
Duy Từ, Song Tinh Bất Dạ của Nguyễn Hữu Hào v.v...
Trong khi dưới thời các chúa Trịnh, dù chữ Nôm bị phần
nào bị cấm đoán, song tiêu biểu có nhiều tác phẩm nổi
tiếng như Chinh Phụ Ngâm do Đoàn Thị Điểm dịch, Cung
Oán Ngâm Khúc của Nguyễn Gia Thiều, Hoa Tiên Ký của
Nguyỗn Huy Tự.
5. Thời Tây Sơn và nhà Nguyễn. Sau khi Tây Sơn phá
tan quàn Thanh, vua Quang Trung bắt đầu xây dựng đất
nước thì cho dùng ngay chữ Nôm làm thứ chữ chính thức
thay cho chữ Hán, nhưng đáng tiếc thay thời đại này quá
ngắn ngủi, v ề vãn học, một số tác phẩm thường thấy như
Hoài Nam Ký của Hoàng Quang, Dụ Am văn tập của Phan
Huy ích v.v... Ngoài ra còn thấy, chữ Nỏm trong thời kỳ
còn được dùng để viết gia phả, hương ước, địa bạ làng xã
v.v... Những loại này vẫn còn được lưu giữ cẩn mật ở các
vùng vua Quang Trung trú quân ở Huế, gần chùa Linh Mụ
trước khi ra Bắc đánh quân Thanh. Tới thời Nguyễn sau
đời Tự Đức văn học Nôm được các nhà nghiên cứu xem
như là thời đại hoàng kim của các tác phẩm văn học Nôm

347
C H U O N G 6 : Đ Ạ O H Ọ C VIỆT NAM TRUÓ C NHỮNG c ú HUÝCH C Ù A LịC H s ử

Việt Nam. Rất nhiều tác phẩm Nôm nổi tiếng thường thấy
đều xuất hiện trong thời gian này như Kiểu, Xuân Hương
Thi Tập, Mai Đình Mộng Ký, Lục Vân Tiên, Dương Từ Hà
Mậu, Thánh chế Tự học Giải Nghĩa Ca, Chuyện đời Xưa,
Thanh Hóa Quan Phong, Nam Phong Giải Trào, Tây Hồ
Cảnh Tụng Phú, Việt Sử Tứ Tự Ca, Thiên Nam Ngữ Lục,
Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca, Nữ Phạm Diễn Nghĩa Từ,
Quan Âm Thị Kính, Thoại Khanh Châu Tuấn, Cai Vàng,
Phan Trần, Lưu Bình Phú, Thạch Sanh Lý Thông ....
Chữ Nôm và sự phát triển các tác phẩm Nôm biểu
hiện rõ rệt sự lớn mạnh vể ý thức tinh thần quốc gia dân
tộc. Ý thức này không tùy thuộc vào sự biến đổi của vương
triéu vua chúa. Dù triều đại đổi thay nhưng nền văn học
chữ Nôm vẫn lớn mạnh theo sự lớn mạnh của ý thức tinh
thần quốc gia dân tộc của dân chúng. Từ Lê Trung Hưng
cho đến thời Nguyễn, xã hội lâm vào tình trạng loạn ly
triền miên, dân chúng sinh sống khổ cực, nhưng cũng
chính trong thời gian này, hoàn cảnh loạn ly chính là môi
trường thúc đẩy chữ Nôm phát triển mạnh mẽ. Chữ Nôm
bước vào thời đại Tây Sơn và Nguyễn đã chính thức trở
thành phương tiện chuyển đạt ý tưởng và tình cảm của dân
chúng. Tuy nhiên, hoặc là vì áp lực ngoại xâm từ phương
Bắc, hoặc là do tầng lớp vua chúa thống trị với tinh thần
Nho giáo hẹp hòi thúc đẩy mà chữ Nôm từ khi phôi thai,
hình thành và phát triển,.cho dù qua một thời gian rất dài

348
NHO G IẢ O - Đ Ạ O H Ọ C TRÊN Đ Ấ T KINH KÌ Ơ H Ă N G LO N G - Đ Ô N G Đ Ô - H À N Ộ I)

trong lịch sử, dù đã bắt đầu phát triển mạnh mẽ từ thời đại
nhà Trần, trải qua nhiều thăng trầm và bước vào thời đại
hoàng kim ở thế kỷ X IX , trong khoảng thời gian này chữ
Nôm chính là phương tiện cần thiết của các tầng lớp nhân
dân trong xã hội ta, nhưng chữ Nôm vẫn chỉ là một thứ
chữ lưu hành rộng rãi trong dân gian, chứ vẫn không được
điển chế, chưa được trở thành chữ viết chính thức của quốc
gia, ngoại trừ nỗ lực của vua Quang Trung, Hồ Quý Ly và
vua Tự Đức. Chỉ tiếc rằng hai thời đại Hồ Quý Ly và Tây
Sơn đều quá ngắn ngủi. Còn triều Nguyễn, từ sau đời Tự
Đức thì phải đương đầu với ngoại xâm Pháp, nên việc xây
dựng để sử dụng chữ Nôm trong các thời đại này không
được thành công. Nhưng rõ ràng mỗi lần đương đầu với
ngoại xâm thì sau đó chữ Nôm lại phát triển mạnh. Sau khi
đánh đuổi được quân Minh thì nền văn học Nôm cũng lớn
mạnh thêm lên, điển hình là Nguyễn Trãi với Quốc Âm
Thi Tập. Sau khi nhà Thanh bị đánh bại, thì chữ Nôm lại
được trọng dụng vào thời Tây Sơn. Trong thời gian dài
không có ngoại xâm thì chữ Nôm là phương tiện truyền đạt
tình cảm, và sinh hoạt làng xã. Với ý thức hệ “phép vua
thua lệ làng” thì dù tầng lớp vua chúa có ép buộc chăng
nữa, như chúa Trịnh đã có lần cấm đoán, thì chữ Nôm vẫn
có môi trường bành trướng mạnh mẽ. Điều này cho thấy
các cố đạo phương Tây dùng chữ Nôm lúc khởi thủy để
truyền đạo cũng là điều dễ hiểu, do vậy việc GS Hoàng

349
C H Ư Ơ N G 6: Đ Ạ O H Ọ C VIỆT NAM TRƯÒC NHŨNG c ủ HUÝCH C Ủ A L|CH s ử

Xuân Hãn phát hiện nhiều thư tịch chữ Nôm của cha đạo J.
Maiorica trong thư viện quốc gia Pháp cũng không lấy gì
làm lạ cả.
Ý thức quốc gia cũng thấy rõ rệt trong việc cải tiến
chữ Nôm qua suốt thời kỳ từ Trần cho đến thời Nguyễn.
Vào thời Trần và các thời đại vể sau như Lê sơ, Mạc thì
chữ Nôm vẫn còn dùng rất nhiều chữ giả tá, nghĩa là chữ
Nôm mượn hình dáng chữ Hán có sẵn để ghi âm Nôm,
nhưng đến thời sau này thì số lượng chữ giả tá giảm nhiều
trong lúc loại chữ hình thanh, là loại chữ có một không hai
của Việt Nam thì cứ tăng dần rõ rệt. Nguyễn Tá Nhí9 đưa
ra những thí dụ thống kô, Đào Duy Anh10 cũng có những
thống kê tương tự, chứng minh chữ Nôm phát triển theo
chiều hướng đó.
6.2.4. Tinh thần dán tộc với việc chữ Nôm bị tàn lụi
Từ đầu thế kỷ thứ X X cho đến 1945 là khoảng thời
gian có tất cả 4 loại chữ được sử dụng ở Việt nam: chữ
Hán, chữ Nôm, chữ Pháp và chữ Việt Latinh11.

9 Nguyễn Tá Nhi: "Các phương thức biểu âm trong cấu trúc Chữ Nôm Việt",
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1998.
10 Đào Duy Ánh:... đa dản
11 Nguyễn Quang Hồng: “C h ữ Nồm trên đường hội nhập với khu v ự c
và thế giới", Viện Nghiên Cứu Hán Nôm, Hà Nội, 2002.

350
N H O G IẢ O - O Ạ O H Ọ C TRẼN Đ Ấ T KINH KỈ (TH Ả N G LO N G - Đ Ô N G Đ Ô - HÀ N Ộ I)

Thời kỳ Địa Vị Tiếng Nói Chữ Viết

111BC- Bắc Tiếng Việt Chữ Hán


939AD thuộc

939-1651 Lệ thuộc Tiếng Việt Chữ Hán,


chữ Nôm

1651-1861 Lệ thuộc Tiếng Việt Chữ Hán, chữ


Tàu Nôm, chữ Việt
Latinh của cố đạo

1861-1945 Lệ thuộc Tiếng Việt, tiếng Chữ Hán, chữ


Pháp Pháp Nom, chữ Viẹi
Latinh của cố đạo,
chữ Pháp

1945- Độc lập Tiếng Việt Quốc Ngữ


(Việt Latinh)

Sau khi Pháp đặt nền cai trị lên toàn lãnh thổ Việt
Nam, họ đã diệt bỏ việc dùng chữ Hán và thay vào đó sử
dụng chữ Pháp trong guồng máy chính quyền, bắt đầu tại
Nam Kỳ. Dầu vậy, trong khoảng thời gian chữ Pháp đang
còn phôi thai, trong dân gian có rất nhiều tác phẩm chữ
Nôm được in ấn và phát hành, nhất là nhóm Duy Minh
Thị, nhiều nhà xuất bản cũng xuất hiện như Liễu Văn

351
C H Ư O N G 6 : Đ Ạ O H Ọ C VIỆT NAM TRUỚC NHŨNG c ú HUÝCH C Ủ A LịCH s ử

Đường, Quảng Văn Đường, Bửu Hoa Các, Thiên Bảo Lâu,
Tự Lâm Cục, Kim Ngọc Lâu... Tuy nhiên, sau 1945, khi
chữ Quốc ngữ trở thành chữ chính thức của nước Việt Nam
thì chữ Nôm tàn lụi hẳn.

6.3. CHỮ QUỐC NGỮ - QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ


PHÁT TRIỂN
Chữ Quốc ngữ - một khái niệm được nhiều nhà
nghiên cứu sử dụng nhằm để chỉ lối chữ Việt Nam thời
cận hiện đại, được ghi âm bằng các con chữ La tinh. Người
viết sử dụng khái niệm này bởi trước đây, chữ Nôm cũng
được gọi là chữ Quốc ngữ (Quốc âm) bởi đó cũng là những
con chữ của người Việt Nam.
6.3.1. Chữ Quốc ngữ - quá trình hình thành
Khi nghiên cứu về chữ Quốc ngữ, chúng ta không thể
không bàn tới tác phẩm Lục Vân Tiên của cụ Đồ Chiểu,
được khá nhiều người Việt Nam biết tiếng. Đây là tác
phẩm văn học đầu tiên ấn hành bằng chữ Quốc ngữ vào
năm 1867. Vào năm 1967, nhân kỷ niệm 100 năm tác
phẩm Lục Vân Tiên được ấn hành bằng thứ chữ này, nhà
Sử học Nguyễn Văn Xuân đã có bài viết: Một trăm năm
văn học ch ữ Quốc ngữ in trên Tạp chí vân học tháng
11/1967, chúng tôi xin giới thiệu một số ý của bài viết này.
Theo tác giả, vào năm 1867, tác phẩm Lục Vân Tiên
được ấn hành đầu tiên bằng chữ Quốc ngữ. Như vậy đến

352
N H O G IẢ O - Đ Ạ O H Ọ C TRÊN Đ Á T KINH K Ì (TH ĂN G LO N G - Đ Ô N G Đ Ô - HÀ N Ộ I)

năm 1967, chúng ta đã có một trăm năm văn học chữ Quốc
ngữ, để nhìn nhận vấn đề này như thế nào? Tác giả bài viết
đã có những hồi cô về chữ Nôm và nền văn học chữ Nôm
Việt Nam khá dài tưởng như không thể dứt được. Tiếp đó
khi để cập tới chữ Quốc ngữ, tác giả viết:
“Thế rồi lạ lùng thay! Do một đổ vỡ lớn lao của lịch
sử, thứ chữ ít được chú ý nhất đó lại nhảy lên vũ đài chính
trị (hành chánh) rồi đài văn học. Nó nhảy lên địa vị ấy rõ
ràng chỉ là một sự cưỡng ép của lịch sử. Vì nếu thật người
Pháp có chút “từ tâm” nào, có chút “thiện ý giáo hoá” nào,
chắc hẳn họ đã cho dùng chữ Nôm theo cái lẽ tự nhiên
Không cán phải bùn của lương tri và tiến hộ. Và với cái tài
học vững vàng của các nhà ngôn ngữ học mà họ không
thiếu, với sự cố vấn của các cô' đạo mà họ rất thông thạo
chữ Nôm, thông thạo như những người Việt giỏi nhất thì
họ thừa dư sức đưa chữ ấy lên hàng đầu với mấy sự cải tiến
giản dị:
1. Quy định chính tả. Điển chế vãn tự. Học thẳng từ
các bộ chữ Hán để ghép chữ Nôm làm chuyển Rgữ, bên
cạnh là Hán tự (như sinh ngữ bây giờ).
2. Giản dị hoá lối viết. Có thể dùng bút chì, bút sắt
thay bút lông.
3. Chỉ dẫn cách chấm câu.
4. Phát triển mạnh văn xuôi.

353
CH Ư O N G 6 : Đ Ạ O H Ọ C VIỆT NAM TRUỚC NHỮNG c ú HUÝCH C Ủ A L|CH sủ

Chắc chắn là không có gì thuận lợi cho bằng và đưa


chữ Việt tới một tương lai rất xa rộng theo hướng tiến của
văn xuôi Việt Nam bên cạnh hướng tiến của Đại Hàn, Nhật
Bản trong khối chịu ảnh hưởng rất nặng văn học Trung Hoa.
Nhưng lịch sử đã là lịch sử.
Người Pháp buộc dùng Quốc ngữ có lẽ họ nhận thấy
các điểm lợi:
- Học dễ, viết dễ, tiến sang ấn loát cũng dễ. Đối với một
dân tộc mà họ cho là còn thấp kém thì đó là điều cần hơn hết,
cũng như đói thì hãy cho ăn bằng thứ gì rẻ, mình sẵn có rồi
hãy hay. Đấy là thuộc phạm vi khoa học và văn học.
- Học chữ Quốc ngữ tức là chặt đứt quá khứ liên hệ
với Trung Quốc, mà Trung Quốc lúc bấy giờ vừa có ảnh
hưởng tinh thần đối với Việt Nam lại vừa có nhiều khả
năng, tiềm lực quân sự rất đáng sợ, nhất là khi họ nhìn Việt
Nam là môi mà họ là răng, “Môi hở răng lạnh” trước lực
lượng xâm lăng của quân đội Pháp hùng mạnh. Đó là
phạm vi địa lý chính trị.
- Học chữ Quốc ngữ với mẫu tự Âu Tây còn là cách
ràng buộc nền văn học Việt Nam vào nền văn học phương
Tây, cụ thể là nền vãn học Pháp. Dù muốn dù khồng thì
với mẫu tự đó, người ta sẽ du nhập những từ ngữ phương
Tây dễ hơn cũng như trước kia, học chữ Nôm thì du nhập

354
NHO G IÁ O - Đ Ạ O H Ọ C TRÊN Đ Á T KINH KÌ (TH ÃN G LO N G - Đ Ô N G Đ Ô - H À N Ộ I)

chữ Hán dễ hơn, và từ chữ Quốc ngữ tiến sang chữ Pháp,
xem ra không có sự phân biệt nào mà chúng chỉ là những
kẻ đồng hành, là anh em cùng cha khác mẹ.
Vậy thì sự xuất hiện Gia Định công báo là để chứng
tỏ lòng “khai hoá của Đại Pháp”, trong việc hiện đại hoá
nền báo chí Việt Nam, nhưng sự thực chỉ để chứng tỏ sự
đắc thắng của chữ Quốc ngữ đối với chữ Hán và chữ Nôm
trên phương diện văn xuôi. Sự xuất hiện Lục Vân Tiên
chứng tỏ sự “thành thực khai hoá” đó, vì không chỉ nặng
về nghị luận, thông tin thuộc lý trí, người Pháp còn muốn
nặng về tâm hồn, tình cảm và phát huy những quốc hồn,
quốc tuý Viột Nam__
Cụ Đồ Chiểu con người ái quốc mãnh liệt và sâu sắc
ấy chắc không bao giờ ngờ rằng mình giúp cho kẻ thù -
người Pháp - để mau ổn cô' tình trạng bị rối trong buổi thí
nghiệm đầu tiên bằng thiên tuyệt tác đầy nhiệt huyết của
mình. Thực không còn gì đau đớn cho người ghét chữ
Quốc ngữ đến độ cấm con cháu đi học, lại chính là người
có tác phẩm in bằng chữ Quốc ngữ đầu tiên (Rồi cũng
chính con người thù hận người Pháp hơn ai hết đó sẽ lại là
kẻ mà văn chương mình được dịch ra tiếng Pháp trước hết).
Thật chẳng còn cái đau nào bằng khi người mù ấy còn bám
chặt vào dân chúng, nghĩa binh để góp phần chống giặc
Pháp bằng chính ngọn bút của mình.

355
C H U O N G 6 : Đ Ạ O H Ọ C VIỆT NAM TR U Ớ C NH ŨNG c ú HUÝCH C Ù A L|C H sử

Nhưng Lục Ván Tiên cứ được in, cứ được phát hành.


Và sự đắc thắng dựa trên gươm súng lâu ngày cũng trở
thành sự đắc thắng thật trong lòng người. Tiếng Việt dưới
hình thức chữ Quốc ngữ được dùng một cách trang trọng,
được giao phó cho những người có học thức sâu rộng, lối
viết luôn luôn cải tiến, từ ngữ cú pháp, cách bố cục phát
triển bài văn lần lần thuần thục hoá dưới ảnh hưởng sâu
đậm chữ Pháp đã trở nên thứ chữ viết chính thức của người
Việt. Gần như không còn mấy ai nghĩ là tiếng Nôm có khả
năng thay chữ Quốc ngữ, còn chữ Quốc ngữ thay cho chữ
Nôm thật là đúng quá! Bây giờ vấn đề đặt ra không phải là
chữ Nôm nữa mà chính là tự bản thân chính Quốc ngữ..
Các lãnh tụ Phong trào Duy Tân, cũng như sau này
Nguyễn Văn Vĩnh rồi Phạm Quỳnh đều xem chữ Quốc
ngữ có liên quan đến vận mệnh và tương lai của Việt Nam.
Nếu ông Vĩnh có nghĩ tới sự cải tiến chữ ấy thì chỉ là vấn
để hoàn toàn hình thức, thuộc phạm vi ấn loát chứ không vì
bản chất, vì yếu tính của văn tự, ngôn ngữ. Các sự sửa đổi
khác sau này cũng đều chỉ vì những khuyết điểm, nhược
điểm nhỏ (theo ý các nhà biên khảo ấy) chứ hoàn toàn
không ai đặt vấn đề cách mạng, căn cứ trên lối diễn đạt của
dân tộc, trong cái thế tiếng Việt chịu ảnh hưởng của chữ
Hán và ngày càng cởi bỏ thứ tiếng ấy để thuần hoá và
mượn khá nhiều thuật ngữ phương Tây, nhưng cũng chỉ
nặng những từ kỹ thuật cụ thể” ................ ........................

356
NH O G IÁ O - Đ Ạ O H Ọ C TRẼN Đ Ấ T KINH KÌ (TH Ă N G LO N G - Đ Ô N G Đ Ô - H À N Ộ I)

“Sẽ CÓ người bảo rằng dù sao thì chữ Quốc ngữ cũng đã
tiến thẳng một bước khá xa rồi, còn mong chi nữa. Dùng
sai một số chữ, còn hơn là không có văn tự đó. Nói thế
không đúng, văn tự một nước có mặt đối nội và đối ngoại.
Đối nội nó không chỉ dùng cho một ngành mà cho tất cả
các ngành, không chỉ cho một đời mà cho muôn đời và
phải thăng tiến mãi. Đối ngoại nó là văn tự chính thức của
một quốc gia mà mọi giao thiệp, ký kết quan hệ nhất nhất
đều bắt bụôc diễn tả bằng chính nó. Tục ngữ: “sai một ly
đi một dặm” chưa bao giờ xác đáng như thế......12”
Chúng ta cũng chưa đủ lý do để hiểu tác giả Nguyễn
Vãn Xuân nghĩ về chữ Quốc ngữ thật tình hay chỉ là một
định đề đặt ra để nghiên cứu văn học bằng chữ Quốc ngữ.
Phần kết của bài, tác giả viết: “Một thế kỷ huy hoàng từ
ngày ấn hành Lục Vân Tiên và “chàng” Quốc Ngữ “một
mình lướt trận xông vô” đã đánh tan chữ Nôm, đánh bại
chữ Hán, đánh tiêu chữ Pháp.
Quốc ngữ lên đài văn học, Quốc ngữ toàn thắng!
Nhưng tương lai của nó sẽ ra sao?”13
Một câu hỏi bỏ lửng có lẽ làm chúng ta phải suy
nghĩ. Vậy thực chất chữ Quốc ngữ là gì? Chữ Quốc ngữ có
tự bao giờ?

12 Xin xem thêm: Nguyễn Văn Xuân: Một trăm năm chữ Quốc ngữ. Tạp chí
Văn học tháng 11/1967.
13 Nguyên Văn Xuân, đã d ẫn....

357
CH U O N G 6: Đ Ạ O H Ọ C VIỆT NAM TRUÓC NHỮNG c ú HUÝCH C Ù A L|CH sủ

Hiện nay chưa có đủ cứ liệu để trả lời thật chính xác,


nhưng có thể tin rằng, vào khoảng nửa cuối thế kỷ XVII,
hoặc có thể sớm hơn nữa, một lối chữ mới, đùng con chữ
Latinh để ghi tiếng Việt, về cơ bản đã hình thành.
Ngay từ giữa thế kỷ XVI các đoàn truyền giáo
phương Tây tói truyền giáo tại Việt Nam từ đàng Trong ra
tới đàng Ngoài. Các giáo sĩ Dòng Tên, chủ yếu là người
Âu, thuộc các nước khác nhau đã đến đây truyền giáo,
đông nhất là vào thế kỷ XVII.
Theo một sô' tài liệu còn biết, chỉ tính từ 1645 đến
1788 đã có 145 giáo sĩ Dòng Tên (Compagnie de Jesus)
gồm 17 quốc tịch khác nhau đa đến Viêt Nam. Các giáo sĩ
gồm:
- 74 người Bồ Đào Nha.
- 30 người Italia.
- 10 người Đức
- 8 người Nhật Bản.
- 5 người Pháp.
- 4 người Tây Ban Nha.
- 2 người Trung Hoa.
- 2 ngưồi Áo Môn.
- 2 người Ba Lan.
-1 người ở xứ Gêne

358
NHO G IÁ O - Đ Ạ O H Ọ C TRÊN ĐẤT KINH K Ì (TH Ẳ N G LO N G - Đ Ô N G Đ Ô - H À N Ộ I)

-1 người Hungari.
-1 người Ilyrien
- 1 người Sorde.
- 1 người xứ Savoyard
- 1 người Thuỵ Sĩ.
- 1 người Tiệp Khắc.
- 1 người thuộc Toà Thánh.14
Những nhà truyền giáo này tiếp xúc với người Việt,
muốn giảng đạo và Iruyền bá đạo Cơ Đốc, buộc phải học
tiếng Việt, hoặc dùng hộ thống chữ cái của nước họ để ghi
âm tiếng Việt, tạo thành thứ chữ riêng. Các đoàn truyền
giáo nối tiếp nhau sang Viễn Đông và Việt Nam thấy cần
phải hệ thống cách ghi âm tiếng Việt để có một thứ chữ
viết làm cơ sở chung cho các thầy giảng vốn nắm vững
tiếng Latinh, có thể dùng nó giao tiếp dễ dàng với người
Việt. Mặt khác để có thể sử dụng được các thầy giảng
người Việt nắm vững được bài giảng để có thể làm công
tác giảng đạo thay cho các giáo sĩ Âu ở nhiều nơi mà họ
không thể tới được. Chính từ nhu cầu đó một số cha cố Âu
đã thống nhất cách ghi âm tiếng Việt dùng bộ chữ cái
Latinh, dựa vào chữ Bồ Đào Nha và Italia cùng một sô' dấu
của Hy Lạp để tạo ra thứ chữ Quốc ngữ ban đầu.

14 xin xem: Đỏ Quang Chính: Lịch sừ chữ quốc ngữ (1620-1659). Ra khơi,
Sài Gòn, 1972. Tr: 22.

359
C H U Ơ N G 6 : Đ Ạ O H Ọ C VIỆT NAM TRƯỚC NHỮNG c ú HUÝCH C Ủ A L|C H s ử

ĐÓ là thời kỳ của các chúa Nguyễn ở đàng Trong và


các chúa Trịnh ờ đàng Ngoài nên việc đi lại giữa hai vùng
rất khó khăn. Điều này cũng có ảnh hưởng nhất định tới
việc ghi âm chữ Quốc ngữ. Chữ quốc ngữ buổi đầu ấy
mang nặng những ghi âm thổ ngữ địa phương, về sau các
cha phải làm công tác chỉnh lý về mặt ghi âm tiếng Việt
thống nhất trên cả hai miền. Có được sự thành công về thứ
chữ Quốc ngữ này, chúng ta phải ghi công những cố gắng
của các cha cô' người Âu và các cha người Việt. Thực tế
lúc đó chữ Quốc ngữ mới chỉ được sử dụng trong các bài
giảng và trong các vùng đồng bào theo đạo Cơ đốc. Tuy
mới hạn hẹp như vậy song có nhiều tác giả cũng như tác
phẩm văn học khá hay viết bằng chữ Quốc ngữ như tập
Lịch sử Annam của Bento Thiện viết tay từ năm 1659, gửi
cho linh mục G.F. De Marini ở Roma, hiện được lưu trữ tại
Văn khố Dòng Tên ở Roma. Tập sách này dày 12 trang,
viết chữ nhỏ trên khổ giấy 20cm X 29cm .
Một loạt những văn bản chữ Quốc ngữ buổi đầu, còn
được lưu trữ tại các trung tâm truyền giáo châu Âu sẽ giúp
chúng ta nhìn lại dáng hình cơ cấu chữ ấy.
Thí dụ để ghi từ sách, người ta viết sayc, để ghi từ
nước mặn (tên vùng đất) người ta viết nuocman, để ghi từ
ông nghè, người ta viết ungue, Ungué, Ungné, oun ghe,
oun gueh...

360
NHO G IẢ O - Đ Ạ O H Ọ C TRÊN Đ Ấ T KINH KÌ (TH ẢN G LO N G - Đ Ô N G Đ Ô - HÀ N Ộ I)

Người ta viết Ũ để ghi ung, thí dụ cù = cung, viết õu


để ghi vần ông, thí dụ: sõu = sông......
Trước hết các giáo sĩ phương Tây đã tìm cách ghi lại
tiếng Việt trong quá trình học tập để tiến hành truyền giáo.
Qua các tập bút ký mà họ để lại, chúng ta thấy họ thường
than thở rằng tiếng Việt là tiếng khó học vì nó giản dị
nhưng phong phú tinh tế. Sự khác biệt giữa từ này với từ
kia nhiều khi chỉ biểu hiện bằng thanh điệu. Họ đã kể lại
nhiều giai thoại ở mặt này. Thí dụ một cố đạo muốn mua
cá, nhưng lại nhận được cà, vì nói sai cá thành cà. Một bầy
trẻ nhỏ chạy tán loạn khi nghe mấy ông linh mục nói
chuyện chém tre, nhưng lại phát âm thành chém trẻ__ Ai
đã hiệu chỉnh những sai lệch âm điệu đó cho các cha cô'
người Âu và giúp họ ghi lại tiếng Việt một cách trung thực
hơn? Cũng như hoàn thiện từng bước chữ sau này ta gọi là
chữ Quốc ngữ? Đó chính là những người dân lao động
bình thường, đó chính là những đứa trẻ bình dị vì nhiều lý
do mà có điều kiện tiếp xúc với họ. Có thể vì những lý do
chính trị, tín ngưỡng và cả học thuật, những người Việt
Nam có học, thông thạo chữ nghĩa đã cùng với cha người
Âu tham gia công việc này. A. De Rhodes kể lại việc học
tiếng Việt qua một câu chuyện khá lý thú: Ông đã học
tiếng Việt từ một em nhỏ. Nhờ em nhỏ này, sau ba tuần lễ,
ông đã phân biệt được các thanh điệu của tiếng Việt và

361
C H U O N G 6: Đ Ạ O H Ọ C VIỆT NAM TRUÓC NHỮNG c ú HUÝCH C Ù A L|CH sử

cách phát âm của mỗi từ... Trong ba tuần đó, em nhỏ


người Việt này cũng đã học được thứ tiếng nói mà ông
thường dùng hàng ngày và cũng đã biết giúp ông hướng
dẫn mọi người đọc thánh lễ bằng tiếng Latinh. Điểu này đã
khiến cho A. De Rhodes kinh ngạc và khâm phục vô cùng.
Vào khoảng những năm 50 của thế kỷ XVII. A. De
Rhodes đã cho in cuốn từ điển Việt - Bồ - La
(Dictionarium Anamiticum - Lusitanum et Latinum) và
cuốn tóm tắt giáo lý, được gọi là phép giảng 8 ngày
(Cathechimus). Cả hai cuốn này đều được đúc chữ và ấn
hành tại Roma vào năm 1651. Có thể coi đây là 2 cuốn
sách đầu tiên được in bằng chữ tựa Quốc ngữ. Qua lời tự
thuật cho cuốn từ điển Việt - Bồ - La, một lần A. De
Rhodes lại nhấn mạnh cái điều mà ông đã trình bày trong
bút ký như: Để khởi thảo cuốn từ điển n à y . t ô i đã nhờ sự
giúp đỡ của chính những người bản xứ đã giúp tôi học
tiếng gần 12 năm trong suốt thời kỳ tôi ở đàng Trong và
đàng Ngoài..”
Cho đến cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, cuốn từ
điển của A. De Rhodes vẫn được coi là tài liệu cơ bản để
học tập nghiên cứu tiếng Việt qua chữ Quốc ngữ.
Năm 1838, một cuốn từ điển mới hai thứ tiếng Việt —
Latinh và Latinh - Viột, có ghi thêm chữ Nôm bên cạnh
chữ Quốc ngữ, được coi là “Nam Việt dương hiệp tự vị”

362
NHO G IÁ O - Đ Ạ O H Ọ C TRÊN Đ ẮT KINH KÌ (TH ĂN G LO N G - Đ Ô N G Đ Ô - HÀ NỘI)

(Dictionarium Anamitico - Latinum), do giám mục Taberd


biên soạn được xuất bản ở Serampur - Ân Độ). Trừ một sô'
trường hợp rất cá biệt, chữ Quốc ngữ trong từ điển của
Taberd về cơ bản đã là dạng thức như ngày nay. Đó là một
trong những tài liệu cơ bản được dùng để nghiên cứu tiếng
Việt ttíế kỷ XIX. Những tài liệu này thường được dùng để
kiểm chứng giữa tiếng Việt và chữ Nôm đương thời.
Kể từ lúc phôi thai cho tới thế kỷ X IX , trải qua hơn
hai thế kỷ, chữ Quốc ngữ đã được hoàn thiện dần từng
bước nhằm phục vụ cho công việc truyền giáo. Đó là thứ
chữ rất giản tiện nhưng trước hết chỉ dùng để in các kinh
Ihánh, giáo lý. Phạm vi sử dụng của chữ Quốc ngữ lúc ấy
chỉ hạn chế trong khuôn khổ nhà thờ và các giáo dân.
Cùng với việc xâm chiếm Nam Kỳ, thực dân Pháp
chủ trương mở rộng việc phổ biến chữ Quốc ngữ trong
phạm vi nhất định nhằm đào tạo đội ngũ tay sai. Điều này
đã làm tãng sự ác cảm của các sĩ phu đối với chữ Quốc
ngữ. Không học a,b,c cũng có nghĩa là bất hợp tác với
Tây15. Còn với các sĩ phu trong phong trào Cần Vương
dùng chữ Hán, chữ Nôm coi như một thứ vũ khí tinh thần
lợi hại trên mặt trận chống lại thực dân Pháp.
Tuy vậy, vì nhiều lý do, chữ Quốc ngữ vẫn được tiếp
tục phổ biến sâu rộng. Vào khoảng cuối thế kỷ XIX đã

15 Cụ ĐỒ Chiểu đã cương quyết không cho con đi học cái thứ chữ này.

363
CH Ư Ơ N G 6 : Đ Ạ O H Ọ C VIỆT NAM TRƯỚC NHỮNG c ú HUÝCH C Ủ A L|CH s ủ

thấy xuất hiện những văn bản chữ Quốc ngữ ghi lại các
truyện nôm như: Kiều, Lục Vân Tiên, Phan Trần, Quốc sử
diễn ca và một sô' bản dịch tiếng Việt các sách kinh điển
nho học như: Trung Dung, Đại học, in bằng chữ Quốc ngữ.
Cũng trong thời gian này, một vài tác phẩm viết bằng chữ
Quốc ngữ đã được lưu hành như: Chuyện đời xưa, Chuyện
khôi hài, Chuyện đi thăm Bắc Kỳ năm Ất Hợi (1876)...
Tinh hình trên kéo dài mãi tới những năm đầu thế kỷ
XX. Thời kỳ này cùng với sự kết thúc một cách bi tráng
phong trào chống Pháp do các sĩ phu phong kiến lãnh đạo,
thực dân Pháp bắt đầu tính đến chuyện củng cô' nền thống
trị của chúng. Bên cạnh vai trò chủ chốt của vũ khí, súng
đạn chdng đẩy nhanh giáo dục bằng song ngữ (Pháp ngữ -
Quốc ngữ). Chữ Hán mất đi vai trò chủ đạo cùng với chế
độ phong kiến. Người Pháp bắt đầu đưa chữ Quốc ngữ vào
các hoạt động chính trị, xã hội Việt Nam nhằm phục vụ
cho mục đích cai trị của chính quyền thực dân. “Trong bản
tường trình của mình, viên thống sứ Pháp viết: Việc truyền
bá chữ Quốc ngữ chỉ có thể coi là rất có lợi cho sự mở rộng
ảnh hưởng của chúng ta trong xứ này và làm cho quan hệ
của chúng ta với người bản xứ được dễ dàng... Tuy vậy
chính ông ta cũng chủ trương không nên bỏ chữ Nho vì
chữ Nho sẽ góp phần tích cực trong việc duy trì tình trạng
lạc hậu về mọi mặt của xã hội Việt Nam.”16

16 Hổ Công Khanh: Chữ quổc ngữ và những vấn đề liên quan tới thư pháp.
Nxb Văn Nghẹ Thành phô' Hồ Chí Minh. Năm 2004. tr: 48.

364
NHO G IÁ O - Đ Ạ O H Ọ C TRÊN Đ Ấ T KINH KÌ (TH Ả N G LO N G - Đ Ô N G Đ Ô - HÀ N Ộ I)

Tuy nhiên trên bình diện khác, vào những năm đầu
thế kỷ X X , chữ Quốc ngữ đã được nhìn nhận với một quan
điểm đúng đắn hơn. Các nhà Duy Tân đã sử dụng chữ
Quốc ngữ để mở mang dân trí. Ngay từ những năm đầu thế
kỷ, người ta được đọc trên một tờ báo những vần thơ cổ
động cho chữ Quốc ngữ như:
‘Trước hết phải học ngay quốc ngữ
Khỏi đôi đường tiếng chữ khác nhau
Chữ ta, ta đã thuộc làu
Nói ra nên tiếng, nên câu, nên lời... ”
Đông Kinh nghĩa thục với tư cách là một tổ chức vận
động cách mạng đã ra sức cổ động cho việc học tập và phổ
biến chữ Quốc ngữ. Trong tập Văn minh tân học sách do
Hội xuất bản năm 1907, khi nêu 6 việc cần phải xúc tiến
để mở mang dân trí, việc sử dụng rộng rãi chữ Quốc ngữ
được đặt lên hàng đầu.
Trầm ngâm suy nghĩ cho cùng, để tìm kế mở mang
dân trí nghìn muôn khó khăn, thì thấy chỉ có sáu đường:
Một là dùng văn tự nước nhà... Văn tự đặt ra là để
cốt ghi tiếng nói.... Các nước trên địa cầu nước nào chả
vậy... Còn nước ta vẫn chưa có. Ây là điều rất kỳ. Thiết
nghĩ nước ta hồi xưa hẳn có văn tự, chẳng qua lâu nay thất
truyền đi đó thôi. Gần đây mục sư người Bổ Đào Nha chế
ra chữ Quốc ngữ, lấy 26 chữ cái châu Âu phối hợp với 6

365
C H U Ơ N G 6 : Đ Ạ O H Ọ C VIỆT NAM TRƯ Ớ C NHŨNG c ú HUÝCH C Ù A L|CH sủ

âm, 11 vận, đánh vần theo lối hài thanh mà đọc ra tiếng ta,
rất là giản dị, nhanh chóng. Tưởng nên một loại học theo.
Phàm người trong nước đi học nên lấy chữ Quốc ngữ làm
phương tiộn đầu tiên, để cho trong thời gian vài tháng, đàn
bà, trẻ con đều biết chữ.. -”17
Đông Kinh nghĩa thục đã in sách dạy Quốc ngữ, in
các bài ca tuyên truyển cổ động duy tân, cứu nước như:
Bài ca địa dư và lịch sử nước nhà, Hải ngoại huyết thư...
bằng chữ Quốc ngữ để phổ biến trong quốc dân đồng bào.
Tuy hoạt động chỉ có 9 tháng, rồi bị giải tán, nhiều
nhà lãnh đạo của phong trào bị cầm tù nhưng Đông Kinh
nghĩa thục đã góp phần lón vào việc thức tỉnh đổng bào
tinh thần tự tôn dân tộc và đưa chữ Quốc ngữ thực sự đi
vào cuộc sống.
Trong những năm tháng sau đó chữ Quốc ngữ vẫn
được phổ biến rộng rãi trên báo chí, sách vở, văn học nghệ
thuật, trở thành một phương tiện giao tiếp văn hoá xã hội
không thể thiếu.
Cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Đông Dương (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam)
đã giành được những thắng lợi vẻ vang. Trong giai đoạn
này, chữ Quốc ngữ đã có dịp bày tỏ sức mạnh của mình.

17 Đăng Thai Mai: Vân thơ cách mạng Việt Nam đẩu thế kỷ X X . Nxb Văn
học 1960, tr: 167.

366
NHO G IÁ O - Đ Ạ O H Ọ C TRẼN Đ Á T KINH KÌ (TH Ả N G LO N G - Đ Ô N G Đ Ô - HÀ N Ộ I)

Truyền đơn báo chí cách mạng in bằng chữ Quốc ngữ được
chuyển đến tận tay quần chúng lao động. Đảng ta rất chú ý
đến việc phổ cập chữ Quốc ngữ cho quần chúng cách
mạng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng phong trào truyền bá
chữ Quốc ngữ được triển khai sâu rộng với nòng cốt là Hội
truyền bá chữ quốc ngữ ra đời và phát triển mạnh mẽ.
6.3.2. Đặc điểm của chữ Quốc ngữ
Chữ Quốc ngữ cấu tạo theo nguyên tắc ngữ âm học, đọc
thế nào dùng con chữ ghi lại đúng hoặc sát đúng như vậy.
Nguyên tắc ngữ âm học là nguyên tắc thích hợp với
sự phát triển của ngôn ngữ, dễ dàng cho người học sử dụng
nhanh và tiõn lợi. CQng cần Ihấy ràng các chữ viết các
nước xây dựng theo những nguyên tắc khác nhau, do đó
mối liên quan giữa chữ viết với phát âm cũng khác nhau.
Có thể theo nguyên tắc từ nguyên học, có thể theo nguyên
tắc truyền thống như tiếng Pháp, tiếng Anh, có thể theo
nguyên tắc hình thái học như tiếng Nga... Lối chữ ghi ầm
cần một số con chữ làm ký hiệu ghi. Mỗi chữ cái dùng để
ghi một âm vị. Giữa âm vị và chữ hình thành một quan hệ
theo dạng một đối một. Đó là điều kiệíi lý tưởng của nhà
ngữ âm học. Sự kết hợp của các âm vị trong một trật tự có
quy định phản ánh trung thành một âm thanh. Song tiếng
Việt chưa đạt tới mức như vậy. Dù sao chữ Quốc ngữ cũng
là lối chữ viết hợp lý, giản tiện và có khả năng lớn trong sự
phát triển nội tại của nó.

367
C H U Ô N G 6 : Đ Ạ O H Ọ C VIỆT NAM TR Ư Ỏ C NHỮNG c ú HU ÝCH C Ủ A l|C H sử

Chữ Quốc ngữ viết tách rời từng âm tiết giống như lối
viết tách rời của chữ Nôm. Tuy nhiên tiếng Việt không
phải là tiếng đơn âm. Theo thống kê chưa đầy đủ, sô' lượng
từ trên hai âm tiết trở lên chiếm tỷ lệ trên 80% như: xe đạp,
quân đoàn, cần trục, xã hội chủ nghĩa.... Trong giai đoạn
mới, tiếng Việt phát triển rất nhanh, từ đa âm tiết càng
nhiều. Vì thế đặc điểm viết tách rời từng âm tiết không tiện
lợi cho sự phát triển của tiếng Việt và cũng không thuận
lợi cho việc chuyển các thuật ngữ, tên riêng của các ngôn
ngữ khác vào tiếng Việt - một công việc không thể thiếu
trong quá trình hội nhập.
Trong chữ Quốc ngữ nhiều quy tắc giữa âm vị và phát
âm không phù hợp, quan hệ một đối một giữa chữ cái và
âm vị, ở một sô' trường hợp không nhất quán. Sự bất hợp lý
không chỉ dừng lại ở mặt chữ cái - âm vị mà còn ở chỗ
ghép vần. Điều bất hợp lý này là do các nhà truyền giáo
người Âu dùng con chữ Latinh kết hợp với phần nào chữ
Bồ Đào Nha, Ý và các dấu Hy Lạp để ghi tiếng Việt. Tiếng
Việt không giống các ngôn ngữ Ân - Âu, nhiều thanh điệu
trầm bổng, cùng một tiếng phát âm theo nhiều dấu thanh
khác nhau sẽ tạo nên những từ có nghĩa khác hẳn nhau.
Điểu này đã làm cho các nhà sáng tạo chữ Quốc ngữ châu
Âu rất lúng túng, hơn nữa ngữ âm học của 3 thế kỷ trước
chưa hình thành để giúp cho việc ghi âm bằng con chữ mới
thật đúng đắn.

368
NHO G I Á O - Đ Ạ O H Ọ C TRÊN ĐẤT KINH KÌ (TH Ả N G LO N G - Đ Ô N G Đ Ô - HÀ NỘ I)

Chỉ một âm vị [k] ở chữ Quốc ngữ đã được ghi bằng


3 con chữ khác nhau c, k, q; trong khi đó lại có trường hợp
một chữ cái dùng để biểu thị những hai âm vị khác nhau
như chữ g khi âm vị g trong từ ga, go và âm vị [z] trong từ
gì. Cũng không có quan hệ một đối một giữa âm vị - chữ
cái ở các trường hợp sau và nhiều trường hợp khác, chẳng
hạn âm vị [g] lúc ghi bằng con chữ g, lúc lại ghi bằng gh
trong từ ghe, ghế..., có lúc dùng 2,3 con chữ để ghi chỉ một
âm vị như: ch, như, ngh..., vì thế, có sự thừa con chữ ở một
sô' trường hợp. Trong tiếng Việt vẫn có bán nguyên âm (y)
ở một sô' cuối một âm tiết sau một nguyên âm, ở vị trí khác
le ra phải là nguyôn âm i. Chữ quốc ngữ hiện nay vẫn còn
khá nhiều trường hợp dùng i thay y hoặc ngược lại. Cách
ghi đó đã dần xa với nguyên tắc của lối ghi âm hiện đại.
Tiếng Việt thời kỳ đầu viết (i) là thay nguyên âm phân biệt
rõ với bán nguyên âm (i). Trong Lịch sử Annam viết tay
của Bento Thiện, thấy viết:

Thiên hạ đi lại Bua, đoạn Thiên hạ đi lạy vua, đoạn lạy


lại chúa.... chúa...

Quan quièn thì lại Bua Quan quyền thì lạy Vua,
Chúa, Thứ dân thì lại bụt Chúa, thứ dân thì lạy Bụt
clước.... trước....

369
CH U O N G 6: Đ Ạ O H Ọ C VIỆT NAM TRUỚC NHỮNG c ú HUÝCH C Ủ A L|CH s ử

Đúng như nhà nghiên cứu ngôn ngữ học. H.Maspero


đã viết: “Những nguyên tắc của lối viết truyền thống của
tiếng Việt khác rất xa những nguyên tắc của lối chữ ghi âm
hiện đại... Những người sáng chế ra lối chữ này đã không
hề lưu tâm đến những ký hiệu đứng tách riêng, mà chỉ lưu
tâm đến những ký hiệu hợp lại, cho nên giá trị của mỗi chữ
gần như luôn luôn do con chữ đứng sau hoặc đứng trước
quyết định”18.
Cho đến nay, sau hơn 3 thế kỷ, chữ Quốc ngữ không
có gì thay đổi đáng kể so với những biến đổi của ngữ âm
tiếng Việt. Riêng những sai lầm của thời kỳ đầu chữ Quốc
ngữ mà các nhà truyền giáo nước ngoài mắc phải, hiện nay
hầu như vãn nguyôn trạng trong chữ viết. Sự phát triển của
tiếng Việt, đặc biệt là từ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945,
đã tạo ra nhiều từ ngữ mới. Những biến đổi về mặt phát
âm, khiến đôi cách viết cũ không còn phù hợp nữa. Một
cách phát âm văn học và có tính chất chuẩn trong cả nước
đang hình thành, cách phát âm mang tính phương ngữ mất
dần. Đây cũng là quy luật tất yếu của sự phát triển, đòi hỏi
chuẩn chính tả về mặt chữ viết có sự thay đổi cho phù hợp.
Phụ âm p trong cách đọc của các từ: pin, apatit, pôpốp....
đã mặc nhiên được thừa nhận, mà cách đây không lâu phụ
âm p không thể đứng đầu âm tiết. Các nguyên âm ghép

18 Xem thêm: H.Maspero: Etude sur la phonetique historique de la langue


ânmite. Les initiales (Bulletin de L Ecol Frangcais d’èxtrêm orientt, tome
XII, 1912, No 1, tr: 12.

370
N H O G IÁ O - Đ Ạ O H Ọ C TRẼN Đ Á T KINH KÌ (TH Ă N G LO N G - Đ Ô N G Đ Ô - HÀ N Ộ I)

oong, oóc đang được dùng như các khuôn vần để khu biệt
với ong và óc vốn trước kia phát âm như nhau. Hiện nay do
sự phát triển của ngữ âm tiếng Việt, do sự tiếp xúc ngày
càng nhiều với ngôn ngữ quốc tế nên đã xuất hiện một số
phụ âm ghép đầu. Những phụ âm đó trước kia chưa có như:
xt, br, cl, xk, dr... Sự thừa nhận chúng hay không còn là
vấn đề thời gian, nhưng để tiếng Việt phát triển và hội
nhập, chắc rằng một thời gian không xa nữa người Việt với
chữ Quốc ngữ hệ Latinh sẽ chấp nhận chúng như một
thành phần cấu trúc nên tiếng Việt hiện đại. Cách viết phân
biệt d/gi ở các phụ âm đầu cũng vậy. Cách phát âm phổ
biến hầu như đã không có sự phân biệt d/gi như ở những
Ihẽ kỳ trước, nhưng vẻ chữ viết hiộn nay chúng ta vẫn giữ
sự phân biệt này. Các nguyên âm đôi ia/iê, ua/uô, ưa/ươ và
các vần tạo âm tiết về mặt ngữ âm học như nhau, nhưng
chữ viết lại khác nhau: iêu/ươu... là cách ghi âm của các
nhà truyền giáo xưa mắc phải, hiện nay vẫn đang được
dùng mặc dù không nhiều. Đấy cũng là điều bất hợp lý về
chuẩn chính tả.
Những đặc điểm của chữ Quốc ngữ và những sư lộn
xộn trong cách viết không phù hợp với phát âm, vừa phản
ánh sự phát triển của tiếng Việt, vừa đòi hỏi quy tắc chuẩn
hoá tiếng Việt một cách khoa học trong giai đọan Đổi Mới
của nước ta khi bước vào thế kỷ X X I.19

19 Xin xem thêm: Nguyễn Kim Thản - Nguyễn Trọng Báu - Nguyễn Văn Tư:
Tiếng Việt trên đường phát triển. Nxb KHXH - Hà Nội 2002.tr: 257- 260.

371
CH U O N G 6 : Đ Ạ O H Ọ C VIỆT NAM TRUỐC NHỮNG c ú HUÝCH C Ủ A L|CH sử

Tiếng Việt ngày nay là một ngôn ngữ văn hoá với ý
nghĩa chân chính của cụm từ này, tức là một ngôn ngữ có
thể biểu đạt giá trị tinh thần của một dân tộc đã đạt tới
trình độ vãn hoá tương đối cao, có ảnh hưởng nhất định tới
vãn hóa của một sô' dân tộc khác. Tiếng Việt là một trong
những ngôn ngữ vãn hoá quan trọng ở vùng Đông Nam Á,
ngôn ngữ văn hoá của một dân tộc lần đầu tiên trong vùng
chiến lược luôn luôn nóng bỏng này của thế giới đã tự
mình vùng lên lập chính quyển cách mạng, xây dựng và
phát triển kinh tế.
Tiếng Việt ngày nay còn là ngôn ngữ mang tính hiện
đại có đủ khả năng diễn đạt mọi tư tưởng cao sâu của khoa
học, kỹ thuật, mọi tình cảm dồi dào, tế nhị của xã hội hiện
thời, mọi vấn đề phức tạp của đời sống chính trị - xã hội
trong thế giới sôi động mà chúng ta đang sống.
6.3.3. Sự phát triển của tiếng Việt và chữ Quốc ngữ
từ sau Cách mạng tháng Tám
Trước cách mạng, tiếng Việt chỉ được dùng vào công
việc giáo dục ở ba lớp đầu của tiểu học, hoặc nói cho đúng
hơn, chỉ được dùng làm công cụ chủ yếu ở lớp đồng ấu
(lớp một ngày nay), còn từ lớp dự bị đến lớp sơ đẳng
(tương đương với lớp 2, lớp 3 ngày nay) học sinh phải học
theo chế độ song ngữ Việt - Pháp; từ năm thứ 4 đến năm
thứ 6, tiếng Pháp đã chiếm địa vị áp đảo; từ cấp trung học

372
NHO G IÁ O - Đ Ạ O H Ọ C TRÊN ĐẤT KINH KÌ (TH Ả N G LO N G - O Ô N G Đ Ô - H À N Ộ I)

trở lên, tiếng Pháp chiếm địa vị độc tôn, còn tiếng Việt trở
thành một ngoại ngữ. Chính sách ngôn ngữ ấy, cùng với
những chính sách ngu dân khác như hạn chế việc mở
trường học, hạn chế việc đào tạo giáo viên, chế độ thi cử
khắt khe., đã làm cho 95% người dân Việt Nam sống
trong vòng mù chữ.
Với bản Tuyên ngôn độc lập do Chủ tịch Hồ Chí
Minh đọc tại quảng trường Ba Đình vào ngày 2 tháng 9
năm 1945, lần đầu tiên chữ Quốc ngữ trở thành thứ chữ
chính thức trong dịp khai sinh nhà nước Việt Nam dân chủ
cộng hoà. Ngay sau khi Cách mạng thành công, Bác Hồ đã
chí thị phải tập trung lực lượng đánh Iháng giặc ngoại xâm,
giặc đói và giặc dốt. Người đã cho phát động phong trào
xoá nạn mù chữ cho mọi tầng lớp nhân dân lao động.
Nha bình dân học vụ đã được thành lập để thực hiện
kế hoạch làm cho toàn dân biết đọc, biết viết trong thời
gian ngắn nhất. Trên cơ sở đó sẽ tiến hành việc tiếp tục
nâng cao trình độ văn hoá cho nhân dân. Nhờ vậy trong
cuộc bầu cử Quốc hội đầu tiên, nhiều người dân Việt Nam
đã có thể tự tay mình ghi chép đầy đủ mọi thủ tục trên lá
phiếu bầu nhằm thực hiện tốt quyền công dân của mình.
Bác Hồ đã kêu gọi toàn dân quét sạch nạn mù chữ,
tiến hành sự nghiệp giáo dục ở mọi cấp bằng tiếng Việt,
dùng tiếng Việt thay thế ngay lập tức tiếng Pháp trong các

373
CHUONG 6: ĐẠO HỌC VIỆT NAM TRUỚC NHŨNG c ú HUÝCH CỦA l|CH sử

trường học. Nhò những chính sách ấy, sự nghiệp giáo dục
Việt Nam đã tiến lên bằng đôi hài vạn dặm, không những
nạn mù chữ được thanh toán tương đối nhanh, mà sô' học
sinh, giáo viên, sô' trường học ngày một tăng.
Về cán bộ khoa học, kỹ thuật có trình độ đại học và
trên đại học càng ngày càng phát triển.
Sự phát triển đào tạo đại học và trên đại học của
Việt Nam. (Nguồn: tư liệu lấy từ báo Nhận Dân ngày 19
tháng 8 năm 1980)

Tổng sô' Bình quân trên


Năm
(nghìn người) 10.000 dân (người)
1975 137 29

1979 225 43

Về thành công của việc dùng tiếng Việt trong giáo


dục, Thủ tướng Phạm Vãn Đồng đã từng nói: “Vì chúng ta
có ý thức sâu sắc đối với tiếng nói dân tộc, cho nên từ khi
thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, chúng ta đã
làm những việc rất có ý nghĩa và đem lại những kết quả
to lớn.
Một là, chúng ta đã dùng rộng rãi tiếng Việt, văn
Việt trong mọi lĩnh vực cụôc sống, chính trị, kinh tế, văn
hoá, nghệ thuật, khoa học, kỹ thuật.

374
NH O G IÁ O - Đ Ạ O H Ọ C TRÊN Đ Ấ T KINH KỈ (TH Ă N G LO N G - Đ Ô N G Đ Ô - H À N Ộ I)

Hai là, sau khi lập nước chúng ta đã thanh toán nạn
mù chữ trong một thời gian ngắn, chúng ta đã dùng tiếng
Việt để giảng dạy ở các trường, đặc biệt đáng nêu là ở các
trường đại học những môn về khoa học kỹ thuật, so với
tình hình ở nhiều nước giống như nước ta, đây là một kỳ
công của tiếng nước ta, và kỳ công của ý thức chúng ta”20
Kháng chiến bùng nổ, công cuộc xoá nạn mù chữ vẫn
được tiến hành. Dưới bom đạn, trong muôn vàn khó khăn
gian khổ mọi tầng lớp người Việt Nam vẫn hăng say học
chữ Quốc ngữ.
Vào năm 1955, ở nhiều khu vực trên đất nước ta vể
cơ bản dã xoá xong nạn mù chữ. Miổn Bắc xã hội chủ
nghĩa bưóc vào giai đoạn bổ túc văn hoá để nâng cao trình
độ hiểu biết của toàn dân. Đây là một thành công không
chỉ là niềm tự hào của toàn dân ta mà còn làm cho nhiểu
nước đang phát triển ở châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ La
tinh phải ngạc nhiên thán phục. Trong những nguyên nhân
đưa đến thành công này, tất nhiên chúng ta phải nói tới vai
trò của tính giản tiện của chữ Quốc ngữ. Bác Hồ kính yêu
của chúng ta đã dạy: “Tiếng nói là thứ vô cùng lâu đời và
vô cùng quý báu của dân tộc. Chúng ta phải giữ gìn nó,
phải quý trọng nó.”

20 Phạm Văn Đổng: Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Tạp chí Vản học, s
3, tr: 4-5.

375
C H Ư Ơ N G 6 : Đ Ạ O H Ọ C VIỆT NAM TRUỚC NHŨNG c ú HUÝCH C Ủ A L|CH s ử

Vài chục năm trở lại đây, hàng loạt luận án phó tiến
sĩ, tiến sĩ đã được viết bằng tiếng Việt hoặc dịch ra tiếng
Viột mà không gặp khó khãn. Nếu ai đó muốn viết luận án
tiến sĩ khoa học bằng tiếng Việt chắc chắn sẽ làm được.
Các nhà khoa học có tầm cỡ thế giới đến nước ta giảng dạy
đã thấy tiếng Viột có thể truyền đạt được mọi tư tưởng cao
sâu, hiện đại trong các ngành khoa học hịên đại nhất thế
giói hiện nay. Đó là điều chưa từng có trong lịch sử phát
triển của nước ta.
Chức năng giao tiếp tiếng Việt không chỉ dừng lại
trong biên giới nước nhà mà còn lan toả ra nước ngoài
không phải bây giờ mới có mà ngay từ thế kỷ thứ XVII. A.
De Rhodes - nhà truyền giáo châu Âu thâm sâu về tiếng
Việt đã phải thừa nhận: “Tiếng Việt là thứ tiếng không
những chung cho hai xứ khá rộng lớn là đàng Trong và
đàng Ngoài... mà còn chung cho nhiều xứ lân cận như
Chàm, Cao Miên, Ai Lao và Xiêm L a .. .”21
Sau Cáph mạng tháng Tám thành công, nước Việt
Nam có uy tín lớn trên thế giới, tiếng Việt được đưa vào sử
dụng trong mọi lĩnh vực đời sống, trong đó có chức năng
phục vụ công tác hành chính, pháp luật, ngày càng mở
rộng. Từ các cơ quan Quốc hội, Chính phủ tới Uỷ ban nhân

21 A. De Rhodes: Dictionarium ânnmmiticum, Lusitanum et Latinum. Roma,


1651, tr: 4.

376
N H O G IÁ O - Đ Ạ O H Ọ C TRÊN Đ Ấ T KINH KÌ (TH Ả N G LO N G - Đ Ô N G Đ Ô - HÀ N Ộ I)

dân các cấp, mọi vãn bản, pháp lệnh, nghị định, công văn
chỉ thị, báo cáo... đều sử dụng tiếng Việt. Điều đáng nói
hơn nữa là ngôn ngữ hành chính, tư pháp tuy là một loại
thụât ngữ chuyên ngành riêng biệt nhưng lại vẫn rất gần
gũi với đời sống thường nhật của người dân, khác hẳn với
cách ứng xử trước đây của các cơ quan chính quyền dưới
chế độ thực dân phong kiến.
Tiếng Việt trước đây đã được nhiều dân tộc thiểu số
biết đến nhưng vẫn chỉ ở phạm vi giao tiếp hạn hẹp. Từ sau
Cách mạng tháng Tám tới nay Việt Nam là một đại gia
đình hoà thuận của 54 dân tộc anh em cùng chung vận
mẹnh, chung mục tieu phấn đấu và sự tiếp xúc giữa người
Kinh với các dân tộc thiểu số anh em ngày càng khăng khít
hơn, nên tiếng Việt càng phổ biến trên mọi lĩnh vực của
cuộc sống, nhất là giáo dục.
Trong các văn bản pháp luật cũng như hiến pháp,
chưa có điều khoản pháp luật nào, chưa có từ nào quy
định rằng tiếng Việt là thứ ngôn ngữ chính thống, ngôn ngữ
nhà nước., song căn cứ vào khả năng to lớn của tiếng Việt,
các dân tộc thiểu số anh em đều tự nguyện dùng tiếng Việt
làm công cụ giao tiếp và tự nguyện dùng chữ quốc ngữ
trong cộng việc giảng dạy cũng như để giao tiếp với các
dân tộc anh em trong đất nước Việt Nam. Cũng do sự tiếp
xúc hàng ngày với tiếng Việt, do sự phát triển đổi mới và

377
C H Ư Ơ N G 6 : Đ Ạ O H Ọ C VIỆT NAM TRƯ Ớ C NHỮNG c ú HUÝCH C Ủ A L|CH sủ

hội nhập với quốc tế, ngôn ngữ của các dân tộc thiểu sô'
cũng phát triển nhanh chóng, vay mượn nhiều từ ngữ và
biểu đạt ngôn ngữ của tiếng Việt. Như vậy chức năng xã
hội, chức năng hành chính tư pháp, văn hoá, văn học nghệ
thuật của tiếng Việt đã được mở rộng và được toàn thể xã
hội Việt Nam chấp nhận như một công cụ giao tiếp không
thể thiếu. Bên cạnh đó, chữ Quốc ngữ cũng ngày một
chuẩn hoá trở thành một loại hình chữ thông dụng để thực
thi mọi chính sách của Đảng, Chính phủ, Quốc hội và
Chính quyền cơ sở trên cả nước22.
6.3.4. Vấn để cải tiến chữ Quốc ngữ
Chữ viết là cồng cụ hỏ trợ cho hoạt động ngôn ngữ, vì
vậy chữ viết càng hoàn thiộn thì tác dụng hỗ trợ của nó
ngày càng lớn. Chính vì vậy cải tiến chữ Quốc ngữ đã được
đặt ra từ lâu. Có nhiều phương án cải tiến chữ viết được
đưa ra. Vào những thập niên 20 của thế kỷ X X có nhiều
bài báo đã tham gia thảo luận xung quanh vấn đề cải tiến
chữ Quốc ngữ khá sôi nổi trên báo chí lúc đó.
Có những người chủ trương cải tiến chữ Quốc ngữ để
trục lợi. Thí dụ vì là chủ nhà in, muốn mua chữ sẵn có của
Pháp cho rẻ, Nguyễn Văn Vĩnh đề nghị cải tiến chữ Quốc
ngữ theo hướng bỏ tất cả các dấu phụ và dấu ghi thanh điệu.

22 Nguyễn Kim Thản ... đã dẫn, tr: 1 2 - 1 5 .

378
NH O G IÁ O - Đ Ạ O H Ọ C TRẼN Đ Ấ T KINH KÌ (TH Ả N G LO N G - Đ Ô N G Đ Ô - HÀ N Ộ I)

Cũng CÓ người muốn cải tiến chữ Quốc ngữ cho khó
viết, khó đọc hơn, theo quan niệm có khó mới hay của
Trần Trọng Kim. Ông này phàn nàn rằng, chữ Quốc ngữ
ngày nay dễ quá. Ai muốn học lối chữ ấy thì mua quyển
học vần về rồi tập đánh vần độ một vài tháng và tập viết
một độ cho quen, thế là được rồi”. Ông ta ước ao: “Giá chữ
Quốc ngữ lại khó như chữ Hán hay chữ Pháp thì hay biết
mấy, bởi vì sự học sự viết càng khó bao nhiêu càng có lợi
cho người học bấy nhiêu”.
Cũng có người đề nghị cải tiến chữ Quốc ngữ theo lối
nô lệ hoá, viết sao cho đúng chữ Tây như uy viết thành
o u i... Cũng có người muốn đại ra kiổu chữ mới cho chữ
Quốc ngữ, viết theo hàng dọc, từ trên xuống dưới với
những nét ngoằn ngoèo như chữ Nho viết tháu. Người chủ
trương dạng phục cổ này là học giả Vi Huyền Đắc.
Trong các tài liệu viết tay của Bác Hồ, chúng ta thấy
Người dùng chữ k thay cho c, d thay cho đ, z thay cho d,gi;
f thay cho ph; bỏ h trong chữ gh và ngh. Trong tác phẩm
Đường cách mệnh (1925), Người viết: Kách mệnh, kần
kiệm, zũng cảm, ngiên cứu, zữ chủ ngiã cho vững, fục
tùng, đoàn thể...
Trong Điều lệ tóm tắt của Đảng in năm 1930, chúng
ta thấy Người viết: Chủ ngiã Kộng sản; zai cấp, Đảng viên
zự bị...

379
CHƯƠNG 6: ĐẠO HỌC VIỆT NAM TRƯỚC NHỮNG cú HUÝCH CÙA l|CH sủ

Vấn đề cải tiến chữ Quốc ngữ được đề ra một cách rõ


ràng trong Đê cương văn hoá Việt Nam của Đảng Cộng
sản Đông Dương (năm 1943) ghi rõ: Cải cách chữ Quốc
ngữ là công việc phải làm, là nhiệm vụ cần kíp của những
nhà văn hoá mác xít Đông Dương và nhất là văn hoá mác
xít Việt Nam.
Vấn đề cải tiến chữ Quốc ngữ sau khi nhà nước Việt
Nam dân chủ cộng hoà ra đời là một nhu cầu cấp thiết. Để
đáp ứng nhu cầu ấy, Đảng và Nhà nước ta đã thành lập một
cơ quan chuyên trách của Chính phủ lo việc này. Đã có
nhiều đề án cụ thể được đưa ra bàn luận sôi nổi. Sau ngày
miền Nam giải phóng (tháng 4 năm 1975), cả nước thống
nhất, ngành Giáo dục lại đứng trước vấn đề cải tiến chữ
viết. Đã có những đề án được thực thi. Nhiều con chữ
Quốc ngữ được viết theo lối giản đơn cho phù hợp với các
lứa tuổi của trẻ em. Song kết quả của những cải tiến này
chưa cao. Nhiều cháu sau khi tập viết lối chữ mới, khi viết
chính tả chữ đã trở nên xấu hơn so với lối viết chính tả cũ.
Đây cũng là điều cần xem lại kỹ thêm.
*

* *

Đạo học Việt Nam trước những cú huých của lịch sử


đã ngày càng phát triển mạnh hơn. Cứ mỗi lần người Việt
Nam mày mò đi tìm lối chữ viết riêng cho mình, thì chính

380
NH O G IÁ O - Đ Ạ O H Ọ C TRÊN ĐẤT KINH KÌ (TH ĂN G LO N G - Đ Ô N G Đ Ô - HÀ N Ộ I)

là lúc họ đã tạo ra những cú huých mang tính lịch sử tạo đà


cho Đạo học phát triển. Ngược lại Đạo học ở người Việt
Nam có phát triển, ngôn ngữ có ngày càng hiện đại thì
những thôi thúc về một quá trình đi tìm lối chữ viết riêng
của dân tộc mình càng trở nên thúc bách hơn. Các yếu tô'
ấy gặp nhau, tạo đà cho nhau. Cuối cùng người Việt Nam
cũng đạt được mục đích của mình tạo ra con chữ riêng của
mình, làm nên một nền Đạo học mang đặc trưng dân tộc
vừa hiện đại vừa truyền thống.
Có người bàn: “Nếu như thế thì ta cố gắng đặt thật
nhiều tiếng Việt đi. Xem ra tiếng Việt đâu đến nỗi nghèo
nùn đến nỗi không chuyển ngữ đirợc, mà đến nỗi chữ nào
cũng Hán, Tầu ngậu sị cả lên. Điều ấy rất có lý. Hiện nay
nhiều nhà văn, nhà chính trị hai miền đều có nghĩ đến và
áp dụng.... Chữ Quốc ngữ hiện tại đủ dùng, nhưng tương
lai của chữ Việt thật hết sức lớn lao! Nó càng ngày càng
phải vứt bỏ nhiều từ Việt Hán rườm rà ít cần thiết để thay
bằng tiếng Việt, song công việc này không phải là một
sớm một chiều có thể iàm xong. Trong xu thế phát triển và
hội nhập quốc tế hịên nay, có nhiều lĩnh vực chúng ta vẫn
phải vay mượn các từ nước ngoài để biểu đạt tiếng Việt.
Điều này thì chữ Quốc ngữ thực hiện có vẻ dễ hơn so với
chữ Nôm, chữ Hán và một số chữ khác”23.

23 Nguyễn Vản Xuân: đã d ẫn ....

381
CHUONG ó: ĐẠO HỌC VIỆT NAM TRưÓC NHỮNG c ú HUÝCH CỦA L|CH sử

Chúng tôi không có ý mượn lời bàn này để tạm kết


thúc việc bàn luận vể chữ Quốc ngữ, nhưng quả thật, sự ra
đời cuả chữ Quốc ngữ đã làm cho Đạo học của người Việt
Nam bước sang trang sử mới. Cuộc sống càng hiện đại thì
ngôn ngữ cũng hiện đại và thay đổi không ngừng, chữ
Quốc ngữ sẽ giúp chúng ta thể hiện được mọi sự biến ứng
đó của xã hội. Cải cách và hiện đại hoá nền giáo dục Việt
Nam, đó là thế mạnh mà chữ Quốc ngữ mang lại.

382
N H O G IÁ O - Đ Ạ O H Ọ C TRẼN Đ Ấ T KINH KÌ (TH Ă N G LO N G - Đ Ô N G Đ Ô - HÀ NỘ I)

Chương VII
Đạo
• học
• Việt• Nam trước
những thãch thức của
nền kinh tế thị trưòng

Sau hai mươi năm đổi mới. và nhân kỷ niệm ba mươi


năm đào tạo sau đại học trong nước, lúc này, chúng ta mới có
dịp nhìn nhận lại những gì đã làm được và những gì chưa đạt.
Muốn có cái nhìn toàn cảnh về sự đổi mới này, trước tiên
chúng ta nhìn nhận sự đổi mới trong lĩnh vực kinh tế. Đã lâu
rồi nền kinh tế của nước ta là nền kinh tế quan liêu bao cấp
dưới sự chỉ đạo của một hệ thống lãnh đạo được gọi là quyền
Jàm chủ tập thể. Cái quyền làm chủ tập thể ấy thực chất là
chẳng có ai chịu trách nhiệm, vì vậy nên nền kinh tế này có
dấu hiệu đi xuống, tụt hậu so với nền kinh tế của các nước
trong khu vực. Nhận thức được sự sa sút này, Đảng và Nhà
nước ta chủ trương Đổi mới và Mở cửa tức là chuyển đổi nền
kinh tế từ quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường theo
định hướng xã hội chủ nghĩa.

383
C H Ư Ơ N G 7: Đ Ạ O H Ọ C VIỆT N AM TRO Ò C NHỮNG THÁCH TH Ú C..

Nền kinh tế thị trường thực chất là nền kinh tế sản


xuất hàng hoá có thặng dư và đa thành phần, trong đó nền
kinh tế tư nhân đóng một vai trò đáng kể. Chính vì vậy chỉ
sau vài năm từ một nền kinh tế “thiếu đói hàng hoá” ngày
nay hàng hoá sản phẩm đã tràn ngập thị trường trong nước.
Có nhiều mặt hàng hiện đang được xuất khẩu ra nước
ngoài. Do vậy mà đời sống của người dân ngày nay được
nâng cao. Các dịch vụ xã hội đã ngày càng phát triển.
Đi cùng với sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá,
giáo dục đại học và sau đại học của nước ta cũng ngày
càng phát triển đòi hỏi một sự “xã hội hoá giáo dục”. Có
nhiều người cho rằng “xã hội hoá giáo dục” mà thực chấl
là “tư nhân hoá giáo dục” làm cho nền giáo dục rước nhà
ngày càng đa dạng hoá về loại hình và ngày càng cần có
nhu cầu chuẩn hoá về chất lượng.
Giáo dục trong nền kinh tế thị trường cũng giống như
khái niệm kinh tế đa thành phần trong nền kinh tế thị trường
có mặt tốt và có mặt trái của nó. Mặt tích cực là thúc đẩy
kinh tế, giáo dục phát triển, nhưng đồng thời các Tiặt trái
cũng bộc lộ và khó có thể kiềm chế. Để có cái nhìn iúng về
nền giáo dục, nhất là giáo dục đại học và sau đại 1ỌC của
Việt Nam trước những thách thức của nền kinh tế thị trường,
chúng ta cùng nhau điểm qua một sô' lĩnh vực.

384
NHO G IÁ O - Đ Ạ O H Ọ C TRẼN ĐẤT KINH KÌ (THẢN G IO N G - Đ Ô N G Đ Ô - HÀ NỘ I)

7.1. BỨC TRANH GIÁO DỤC VIỆT NAM THỜI MỞ CỬA


7.1.1. Phác hoạ một bức tranh toàn cảnh
Trước hết xin được phác thảo một cận cảnh về bức
tranh giáo dục trong những năm gần đây. Một bức tranh
thoạt nhìn thì lạc quan. Bởi có thể nói là người người học,
nhà nhà học, ngày học đêm học, quanh năm suốt tháng
học...
Đứa trẻ đến tuổi lớn đã phải lo ngay chuyện đi mẫu
giáo. Cả nhà: bố mẹ, ông bà xúm vào lo toan cho bé.
Không thể để nó ở nhà vì ai trông, và vì nó phải được tiếp
xúc với xã hội. Thời buổi văn minh và kỷ nguyên thông tin
khổng thổ đé trẻ quanh quẩn trong nhà. Nhưng ở nông
thôn, sau khi chấm hết kinh tế hợp tác xã, cũng mòn mỏi
luôn vườn trẻ, mẫu giáo. Còn ở thành phố, phải qua bao
cửa mới xoay xở được một chỗ an tâm cho sự phát triển
của trẻ.
Ở bậc trung học, thấy học sinh không còn giờ giấc
nào rỗi. Hết lớp này đến lớp nọ. Hết ca nọ đến ca kia. Lúc
nào cũng thấy thiếu thời gian cho sự học. Mà vẫn không
hết lo âu vì chung quanh chúng, bạn bè không ai không
học. Mới chỉ ở bậc tiểu học và trung học cơ sở mà cặp sách
cứ cãng phồng bài vở y như cặp bản thảo của nhà văn
Nguyên Hồng. Không hiểu kiến thức ở đâu mà ùn ùn ra
nhiều thế. Học kèm với chi phí. Thời buổi kinh tế thị

385
C H U O N G 7: Đ Ạ O H Ọ C VIỆT NAM TRUÒC NHŨNG THÁCH T H Ú C ..

trường mà! Việc chi cho một trẻ học bậc Tiểu học đã ngốn
hơn một suất lương tối thiểu.
Còn sinh viên đại học, khỏi phải nói. Học chính khóa
rồi ngoại khóa. Học ngày rồi học đêm. Rồi còn Anh văn và
Tin học... Chi phí cho một sinh viên ở tỉnh, thành đã vượt
một suất lương bậc trung. Thế mới hiểu vì sao càng ngày
con em nông dân ở nông thôn, và các vùng sâu, vùng xa
càng vắng ở bậc Đại học. Nếu lấy chi phí trung bình cho
một sinh viên khoảng trên dưới năm trăm nghìn
đồng/tháng, tức khoảng giá ngót ba tạ thóc thì thu nhập
của người nông dân trung bình làm thế nào kiếm nổi bốn
tấn thóc hàng năm để chỉ dành riêng cho một đứa con ãn
học ở tỉnh?
Rồi còn là trên Đại học và sau Đại học (không hiểu
trên và sau khác nhau thế nào?). Rồi còn là bổ túc, là tại
chức, là ban đêm, là từ xa... Rồi là chính quy và không
chính quy, là chính quy không tập trung.... Rồi là mở. Là
bán công bán tư. Là tư thục và dân lập (không hiểu tư thục
và dân lập khác nhau thế nào?). Tóm lại, đó là cả một bức
tranh đa diện, đa sắc, xưa nay chưa từng có.
Học, ngày xưa là để tham gia vào giới kẻ Sỹ. Nhất
Sỹ, nhì Nông. Kẻ Sỹ: tiến lên là làm quan, lùi về là làm
thầy. Làm đủ các loại thầy: Nho, Y, Lý, Số. Làm thầy tại
chỗ hoặc hành hương tha phương cầu thực như các ông đồ:
Đồ Nghệ hoặc Đồ Quảng...

386
NHO G IÁ O - Đ Ạ O H Ọ C TRỀN Đ Á T KINH KÌ Ơ H Ă N G LO N G - Đ Ô N G Đ Ô - H À NỘ I)

Người thầy, ấn tượng chung là đẹp. Người thầy được


tôn vinh qua các tấm gương Chu Văn An, Nguyễn Bỉnh
Khiêm, Nguyễn Thiếp... ấy là các bậc thầy dạy cả vua, và
dạy chung thiên hạ... Nhưng còn số đông, thì việc làm thầy
cũng là do dở dang đèn sách và không chịu được cảnh
chân lấm tay bùn. Để làm thầy phải có chữ. Nhưng cái bồ
chữ cũng đầy vơi khác nhau.
Còn học bây giờ? Dưới mất người đi học mà nhìn thì
học là để làm công nhân viên - cán bộ thì phải có cái bằng
Đại học. Do ở ta loại trường dạy nghề ít được coi trọng nên
không mấy ai nghĩ học để làm công nhân, dẫu là công
nhân lành nghề. Học là phải vào cho được Đại học. Phải có
mảnh bằng cử nhân đế làm công chức, cán bô. Cán bô như
là một khái niệm tổng hợp chung cho mọi nghề. Mục đích
của việc học, dưới mắt người tổ chức sự học là Nhà nước,
thông qua Bộ Giáo dục và đào tạo, thì là để nâng cao dân.
trí, tạo nguồn nhân lực và đào tạo, bồi dưỡng nhân tài. Thế
nhưng sự thật thì việc thực hiện cho được các mục tiêu đó
lại không dễ. Nói cho đơn giản và cụ thể: học là để có tri
thức và có nghề. Nhưng là nghề gì thì lại là câu hỏi khó trả
lời cho người nhận tấm bằng Cử nhân chẳng hạn. Câu
chuyện có cái bằng Cử nhân liệu đã có thể hành nghề được
chưa là câu chuyện dài, cần bàn sâu vào từng ngành; nhất
là trong mấy năm trước đây, khi nẩy ra sáng kiến tổ chức
Đại học Đại cương, khiến cho thời lượng học sâu vào các
chuyên ngành chỉ còn co lại khoảng vài ba năm.

387
C H Ư Ơ N G 7: Đ Ạ O H Ọ C VIỆT NAM TRUỎ C NHỮNG THÁCH TH Ứ C..

Vài ba năm cho một người muốn lập nghiệp ở một


ngành chuyên môn, đó là câu chuyện rất khôi hài. Chưa kể
khi có bằng rồi còn phải đôn đáo đi chầu chực ở các cửa,
kèm với những chuyộn tế nhị, kín đáo ở phía trong các
phong bì. Mỗi nầm vào dịp thi tuyển hoặc tốt nghiệp là cả
một sự bận rộn chung cho toàn xã hội. Chọn nghề gì để thi
vào cho hợp với nhu cầu thị trường? Là Quản trị kinh
doanh ? Là Tài chính Ngân hàng ? Là Luật ? ... Hãy nhìn
vào con sô' Cử nhân Luật quá dư thừa được đào tạo hàng
năm! Nước ta đâu đã đến trình độ mỗi ông to bà lớn nào
cũng cần đến luật sư riêng!
Sau mục tiêu nghể nghiệp cho số đông, phải nói đến
danh và phận cho một số người. Cái bằng như là sự xác
nhận danh-phận của người ta. Cái danh-phận này cũng rất
là một sự quan tâm của nhiều người, từ người có nghề cho
đến người có chức có quyển. Thời buổi trọng kiến thức này
buộc người ta phải có bằng. Có bằng mới có thể ở yên
cương vị hoặc được tăng lương và đề bạt. Xưa nay việc có
được một mảnh bằng chân chính, như là thước đo đích thực
của tri thức, tuyệt không dễ. Ở tuổi 37, trước khi mất, Tú
Xương chưa qua nổi cái Tú Tài. Muốn có tấm bằng Cử
nhân thời nay ít nhất phải có mười lăm năm đèn sách.
Muốn có Tiến sĩ phải có trên năm năm sau Đại học, nếu
biết chọn hướng đúng và là người có chí có tài. Thế nhưng
cái sự ham bằng cấp và khả năng xoay xở bằng cấp thường

388
NH O G IẢ O - Đ Ạ O H Ọ C TRÊN Đ Ấ T KINH K Ì (TH Ả N G LO N ữ - Đ Ô N G Đ Ô - H À N Ộ I)

lại hay diễn ra ở những người chưa học, hoặc không đủ sức
học, ở những người rất ít thực học. BỞI, vào thời buổi kinh
tế thị trường, khi đồng tiền lên ngôi thì dường như mọi thứ
đều có thể mua được. Sự đồn đại về các luận án được thuê
viết là có thực; thậm chí có cả một dịch vụ, một đường dây
viết thuê. Thì đã vậy. Biết bao thứ của qúy khác còn qúy
hơn, còn thiêng liêng biết mấy, vẫn cứ mua được, huống
chi là cái bằng!
Sự học, nếu có, hoặc để gọi là có, ở các trường hợp
này, chỉ là để mua danh. Có danh tất có phận. Và khi đã có
phận rồi lại muốn thêm danh cho nó sang. Đã có nhiều tấm
carte visite thấy dầy đặc các chức danh, có khi chẳng ăn
nhập gì với nhau.
Dân ta vốn hiếu học. Thể hiện ở đạo lý trọng thầy:
Nhất tự vi sư ... Sự học từng là mối quan tâm hàng đầu của
Chủ tịch Hồ Chí Minh ngay sau Cách mạng tháng Tám
1945, trong khẩu hiệu: Chống giặc đói, giặc dốt, giặc
ngoại xâm. Giặc dốt ở vị trí thứ hai. Kết quả xóa nạn mù
chữ và phong trào Bình dân học vụ là những trang rực rỡ
trong cuốn sử mở đầu nền Dân chủ Cộng hòa.
Thành tựu của sự nghiệp giáo dục trong hơn nửa thế
kỷ cách mạng là rất lớn trên mọi phương diện của cơ cấu
và quy mô.
Nhưng trong bối cảnh phát triển của thực tiễn hôm
nay, sự nghiệp giáo dục và đào tạo lại đang đứng trước biết

389
CHƯƠNG 7: ĐẠO HỌC VIỆT NAM TRUÓC NHỮNG THÁCH THỨC..

bao vấn đề bức xúc phải giải quyết. Sau ba lần cải cách
giáo dục vào các năm 1950, 1956, 1979, hiện nay trong
công cuộc Đổi mới đất nước và trong các mối giao lưu với
quốc tế được mở rộng, chúng ta lại đang đứng trước thử
thách phải tự tìm lấy con đường đi cho mình. Trước đây,
trong nhiều chục năm, ta yên tâm dựa theo mô hình Trung
Quốc, Liên Xô, và một số nước xã hội chủ nghĩa. Còn bây
giờ, theo mô hình nào trong các nước tiên tiến về khoa học
và công nghệ như Mỹ, Pháp, Nhạt...? Hoặc các nước quanh
ta như Trung Quốc, Ân Độ, Thái Lan, Xanhgapo? Việc đi
tìm một mô hình mới để thay đổi mô hình cũ phải dụng
công; nhưng việc xem xét mô hình đó có sát hợp với thực
tiễn và đáp ứng nhu cầu giáo dục của ta không, càng phải
dụng công hơn. Việc áp dụng một mô hình nào đó rất nên
cân nhắc, ngay cả trước khi thử nghiệm. Thử nghiệm, đó
quả là việc con người trong bất cứ nghề nghiệp nào cũng
cần phải làm. Có cái thử nghiệm trong không gian hẹp của
phòng thí nghiệm. Có thử nghiệm phải tiến hành ở chỗ
không người hoặc dưới đáy biển. Còn thử nghiệm về giáo
dục là thử nghiệm trên hàng triệu, hàng chục triệu học
sinh, sinh viên; và nếu tính đến cả những người “ăn theo”
thì còn là con số lớn gấp hai, gấp ba, gồm cả các bậc bố
mẹ, ông bà. Thành ra nó gây nên chấn động lớn. Nếu sai,
nó thành nỗi âu lo, mất ăn mất ngủ toàn xã hội. Và sự thật
là thế trong các sự kiện diễn ra gần đây mà báo chí đã nêu.
Thử nghiệm, nếu đúng là thử nghiệm thì phải cân nhắc kỹ

390
NHO GIÁO - ĐẠO HỌC TRÊN ĐÁT KINH KÌ (THẢNG LONG - ĐỔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

trên sự tập hợp trí tuệ của các đội ngũ chuyên gia và của
toàn xã hội. Và chớ vội biến thành đại trà.
Kết quả thi tuyển Đại học trong những năm gần đây,
xã hội ta mới có dịp thấy rõ kết cục bi đát của nó: một kết
quả cực thấp, khiến cho không một ai biết đến mà không
sửng sốt; bởi từ năm này qua năm khác, ta vẫn quen với
cách tổng kết là năm sau thắng lợi hơn năm trước. Đó là hệ
quả tất yếu của một tình hình có quá nhiều biểu hiện
không bình thường, lại kéo quá dài, mà ta quen gọi là tiêu
cực, từ lối học tủ đến đủ các loại học thêm, rồi chuyên
luyện thi, bộ để thi, đường dây thi hộ, thủ thuật mua điểm
và các cách thức chạy chọt.... Chúng ta sẽ không sa vào
việc bổ sung và minh họa cho các tệ lậu này-nó đã được
phơi bày vừa chi tiết, vừa bao quát trên nhiều mặt báo, mà
một thời rất dài trước đây chưa hề có. Các hiện tượng tiêu
cực diễn ra và kéo dài được như thế, bởi ta không có biện
pháp phát hiện và ngăn chặn từ đầu; tức là không có một
đầu óc cực tỉnh táo và sáng suốt; một bộ máy điều hành có
hiệu quả; và một sự nhất trí đồng thuận của toàn xã hội.
Một đầu óc sáng suốt nằm ở người lãnh đạo cao nhất. Một
bộ máy hiệu quả nằm ở lương tâm, trách nhiệm và trình độ
chuyên môn, quản lý của những người ở trong ngành. Và
một sự nhất trí, đồng thuận... Ôi chao! nếu một Hiệu
t rưởng, hoặc một Giám đốc Sở có lương tâm và biết rõ tình
hình, dám thực thi một cải cách để nắm được thực chất

391
CHƯƠNG 7: ĐẠO HỌC VIỆT NAM TRƯỚC NHỮNG THÁCH THÚC..

chất lượng giảng dạy và trình độ của học sinh, thì chạm
ngay vào thành tích của trường, của sở, của tỉnh; và tất
nhiên là tránh sao khỏi Hội đồng nhân dân, ủy ban, phải
giật mình, tìm cách tránh né và giấu biến nó đi.
Vậy, đó có phải là một trong các nguyên nhân chính,
khiến chúng ta, từ trên xuống dưới phải lừa dối nhau. Và khi
đã nhất trí trên định hướng đó thì thiếu gì cách để thực thi
sự giấu diếm! Một vòng xoáy liên hoàn, liên kết nhau để
giấu diếm khiến cho mọi ý tưởng muôn tìm sự thật, mọi cải
cách dẫu nhỏ để thay đổi tình hình cũng đành xuôi tay, thúc
thủ. Và sau cái bề ngoài trống kèn rôm rả ấy là một thực
chất tụt hậu của nển giáo dục; và sự phát triển của nển kinh
tế, xã hội của đất nước vấp phải một lực cản lớn nhất, ghê
gớm nhất cho sự đuổi kịp tình hình khu vực và thế giới.
Do tình hình đó nên việc đổ riệt nguyên nhân thất bại
cho riêng một ai cũng là khó. Nó là một mớ bùng nhùng,
gồm rất nhiều khâu móc nối với nhau; và muốn gỡ là phải
gỡ trong toàn bộ.
Nói kết quả thi tuyển rất thấp hôm nay của bậc Đại
học không thể không có nguyên cớ trong chất lượng sa sút
của bậc học phổ thông; và nói bậc phổ thông không thể
dừng lại ở một cấp nào, mà phải là từ cấp cơ sở. Và như
vậy, để tạo được một chuyển động cho toàn thể phải biết
bắt đầu từ cấp cơ sở ngay từ bây giờ mới mong có được thu

392
NHO GIẢO - ĐẠO HỌC TRÊN ĐẤT KINH KÌ (THẢNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

hoạch cho mùa gặt 10 năm sau. Nói đến bậc học phổ
thông, lâu nay luôn có sự bàn cãi làm động đến toàn xã
hội, gây lo âu cho toàn xã hội - kể từ chuyện cải cách chữ
viết, thay sách vỡ lòng đến cuộc tranh luận về sách giáo
khoa nhiều môn ở bậc phổ thông. Sách giáo khoa cho bậc
học phổ thông là có tính chất Nhà nước. Sách giáo khoa
đưa các bậc thầy của Tiến sĩ và Phó Giáo sư để viết cho
học sinh phổ thông, mới chỉ là những cậu Tú tương lai thì
còn gì phải lo? Thế mà vẫn có chuyện để lo. Vậy thì, nhìn
xa hơn một chút, ở bậc Đại học, giáo trình cho các Cử
nhân, và sau Cử nhân, ai lo? Một số bộ giáo trình các môn
ở Đại học Hà Nội, Thái Nguyên, Vinh, Huế, Quy Nhom,
Tp. Hồ Chí Minh, Cần Thơ..., không kể của các trường Cao
đẳng thì thấy sách được soạn bởi một ít tên tuổi quen thuộc
còn sô' đông là rất mới-đó là những Tiến sĩ vừa mới được
bảo vệ, một ít Phó Giáo sư mới được phong hoặc đang chờ
phong. Họ thường là những sinh viên giỏi, được giữ lại
trường, rồi tiếp tục vừa làm vừa học lên, để có vị, rồi có
hàm. Và khi đã có Ví thì chính cái luận án đã qua bao lần
sửa chữa nhờ vào thầy hướng dẫn, các phản biện và Hội
đồng, sẽ được dùng giảng cho sinh viên, và cả cho Cao
học. Vậy thì, hãy thử xét sâu vào chất lượng các sản phẩm
được gọi là giáo trình, hoặc bài giảng đó để hiểu chất
lượng đầu ra của các sinh viên tốt nghiệp, khâu cuối cùng
của quy trình đào tạo trong nhà trường.

393
CHƯƠNG 7: ĐẠO HỌC VIỆT NAM TRƯỚC NHŨNG THÁCH THÚC..

Nhận diện chân dung người thầy ở bậc Đại học hôm
nay, cũng là một sự cần thiết. Lớp sinh viên cũ trước khi
vào trường đã được nghe danh, được đọc, được ngưỡng mộ
và bây giờ là được học với các bậc thầy như Đặng Thai
Mai, Cao Xuân Huy, Hoài Thanh, Nguyễn Mạnh Tường,
Trương Tửu, Nguyễn Lương Ngọc, Trần Đại Nghĩa, Lương
Định Của, Phạm Huy Thông, Trần Huy Liộu ... Yêu cầu
của người thầy bậc Đại học dứt khoát phải là sự khẩn
trương và tập trung sức nghĩ, sức viết để sớm trở thành
chuyên gia trên các lĩnh vực chuyên môn từ hẹp đến rộng.
Chưa có tư chất đó không thể nói đến hiệu quả của việc
truyển thụ tri thức; càng khó nói đến sự khơi gợi, sự kích
thích những tiềm năng và trí sáng tạo cho lớp người sáp
bước vào đời.
Viết và nói. Trước thư và lập ngôn - đó là công việc
của giới trí thức, mà những người được gọi là Thầy ở bậc
Đại học phải thông và thạo. Không thể hình dung một
người thầy ở bậc Đại học mà không có các chuyên khảo và
giáo trình đạt được mặt bằng nói chung của trình độ khoa
học chuyên ngành, không chỉ là để dạy cho sinh viên, mà
còn là sách đọc cho cả xã hội. Nói và giảng, nhất thiết phải
là kết quả của những suy ngẫm sâu và rộng, trong đó viết
là hành vi cuối cùng để định hình và kết tinh tri thức của
người trí thức. Nói như học giả Nguyễn Hiến Lê - muốn
nắm thật vững, thật kỹ lưỡng một vấn đề nào đó thì hãy
viết vê nó.

394
NHO GIẢO - ĐẠO HỌC TRÊN ĐẤT KINH KÌ (THĂNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

Thế hệ thầy Đại học hôm nay viết ít quá, hoặc không
ham viết lắm. Ngoài nguyên nhân viết rất khó, chắc có
nhiều mục tiêu khác lôi cuốn họ hơn.
Trong các lý thuyết và động thái nhằm cải cách giáo
dục lâu nay, có nghe nói đến sự xác lập vai trò chủ động
của trò, tư thế làm chủ của trò. Nhà trường mới phải là nhà
trường trong đó trò đóng vai trò làm chủ. Ở bậc Trung học
đã thế, thì ở bậc Đại học càng phải thế. Ý kiến đó rất đáng
được chấp nhận để làm thay đổi tư thế khép nép, bị động, ỷ
lại ở trò. Nhưng mặt khác, nếu vẫn dùng chữ Thầy-Trò, và
nếu hiểu quan hệ đó vốn đã bền vững từ hàng ngàn năm
nay, thì theo thiển nghi, dâu ở bất cứ khồng gian nào, thời
gian nào, người thầy vẫn cứ phải là người ở trên trò một
hoặc vài cái đầu. Thầy, dẫu được hiểu bằng cách nào, vẫn
cứ là người mà lớp lớp các thế hệ trò đều phải lấy đạo tôn
kính mà ứng xử.
Vấn đề có tính dây chuyền trong chất lượng giáo dục
và đào tạo, cái khó hiện nay là cái khó của toàn bộ và tổng
thể. Từ đột phá khẩu là kết quả của một cuộc thi tuyển mà
nhìn ngược về trước, qua chất lượng các bậc học từ tiểu
học trở lên; và nhìn ra phía sau, để thấy trình độ của các
Cử nhân hiện tại và tương lai, thì thấy nơi nào, công đoạn
nào, cũng có những tồn tại khó lý giải. Việc gỡ là phải gỡ
dần cho tổng thể; nhưng lại phải có một đột phá khẩu-nó là

395
CHƯONG 7: ĐẠO HỌC VIỆT NAM TRƯỚC NHŨNG THÁCH THỨC..

một cuộc giải phẫu lớn mà toàn xã hội phải cùng chịu đau,
chịu một nỗi đau chung, cho một lần, không trừ ai!
Đó là dũng cảm đối mặt với sự thật, một nhận thức
thực chất sự vật, một cách gọi sự thật đúng tên của nó. Một
sự thật được nhận thức sau bao biện hộ, che dấu, và lúc này
là lúc cả xã hội đang nhìn vào nó1.
7.1.2. Chuẩn mực và chất lượng của giáo dục đại
học
Nền giáo dục của chúng ta trải qua trên nửa thế kỷ
phát triển đã dành được những thành tựu lớn lao ở tất cả
các trường học từ cấp học cơ sở, trung học đến đại học.
Rieng vẻ đại học thì từ sau năm 1954 khi đất nước bước
vào thời kỳ xây dựng hoà bình đã có một nhịp điệu và bước
phát triển mới vượt bậc. Các trường đại học Sư phạm, Y,
Dược phát triển với quy mô mói. Các trường Đại học Bách
khoa, Nông nghiệp, Kinh tế đã được thành lập. Hàng vạn
sinh viên được học hành tương đối thuận lợi. Chúng ta
chưa có những trường đại học có niên đại hàng mấy trăm
năm như Lomonosov của Nga, Cambridze và OxFord của
Anh, Berkeley của Mỹ... Lâu đời nói lên sự tích tụ tri thức,
kinh nghiệm và khả năng bồi đắp, phát triển tài nãng.
Riêng một trường Đại học Berkeley đã có hàng chục giáo

1 Xin xem thêm: GS Phong Lô: Giáo dục và đào tạo - một bức ưanh chung
và những vuớng mắc có tính dây chuyén. Tham luận Hội thảo khoa học Hà
Nội 200 3 .Hà Nội 2003

396
NHO GIÁO - ĐẠO HỌC TRẼN ĐẤT KINH KÌ (THẢNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

sư nối tiếp nhau được tặng giải Nobel, niềm vinh dự cho
nền đại học và cũng là giới khoa học Mỹ. Nhiều trường đại
học của chúng ta đã có nửa thế kỷ phát triển, có bề thế
nhưng thời gian không phải là tất cả và có trửờng hợp lại
chỉ ra sự ngưng trệ. Hàng năm lại có thêm trường đại học
mới, đại học chính quy, đại học dân lập, bán công, đại học
địa phương. Khuôn mặt chung của nển đại học vừa quy
mô, nghiêm chỉnh vừa bất cập, thậm chí hỗn độn.
Mấy thập kỷ qua trong nhiệm vụ phát triển đại học
chúng la đã có áp dụng kinh nghiệm của nhiều nền đại học
Pháp, Nga, Mỹ...Họ đều là những quốc gia có nền giáo dục
ổn định và phát triển. Tuy nhiên hình như chúng ta cũng
vẫn chưa tiếp nhận và đồng hoá, biến kinh nghiệm nước
ngoài thành của mình. Khi học tập kinh nghiệm của Liên
Xô được xem là nền giáo dục của một nước XHCN tiên
tiến chúng ta bỏ qua kinh nghiệm giáo dục của Pháp. Và
khi Liên Xô tan rã chúng ta lại tìm đến kinh nghiệm của
Mỹ và các nước phương Tây. Nhạy cảm tiếp nhận và học
tập nước ngoài nhưng vấn đề quan trọng là nội lực, nội
sinh của nền giáo dục dân tộc gắn với nhu cầu phát triển
đất nước.
Có một điều thực tế là nền giáo dục của nước ta có
những mặt hạn chế; thiếu trường lớp, thiếu phương tiện kỹ
thuật, thiếu thày giỏi... và từng bước đang được khắc phục.
Đừng quên rằng điểm xuất phát của chúng ta chưa cao. Sự

397
CHUONG 7: ĐẠO HỌC VIỆT NAM TRUỚC NHŨNG THÁCH THỨC...

phát triển của giáo dục thường đồng hành với cuộc sống
hoà bình, với ổn định và giàu có. Nghèo khổ và chiến tranh
không phải là bạn đường của giáo dục. Từ một nước nghèo
lại trải qua trên ba mươi năm chiến tranh nên cho dù có
bước đi trên đôi hài vạn dặm thì cũng không thể nhanh
chóng đuổi kịp và vượt lên các nước bạn; cũng không thể
quá nôn nóng, tự ti, mặc cảm. Chúng ta tự tin, chủ động
tiến vững chắc từng bước. Giáo dục là một khu vực hoạt
động xã hội đặc thù có ý nghĩa cao đẹp và thiêng liêng. Ở
đây không chấp nhận sự đổi thay tuỳ tiện. Mỗi thành tựu
xác lập được phải bằng sức nghĩ, sức sáng tạo của kinh
nghiệm bản thân không vay mượn vội vàng, tuỳ tiện. Giáo
dục cũng không phải là vườn thí nghiệm, đem đối tượng
giảng dạy ra để thử thách, thể nghiệm. Ở đây chỉ chấp
nhận cái đúng đã được chọn lọc, được thời gian chấp nhận
kiểm nghiệm đánh giá để phục vụ thế hệ trẻ.
Chúng ta sống trong những năm tháng có những
chuyển động lớn với những kỳ tích của đất nước trong
chiến tranh đánh bại những kẻ thù có sức mạnh to lớn nên
trong các hoạt động kinh tế, văn hoá thường có những ước
mong và dự phóng lớn, những kế hoạch đồ sộ. Giáo dục
cũng chịu ảnh hưởng của những suy nghĩ đó. Mơ ước có
những trường đại học lớn ngang tầm quốc tế là điều có thể
làm được nhưng phải có thời gian, phải có kế hoạch phát
triển từng bước. Sáng kiến về hai quả đâm lớn là hai trường

398

s
NHO GIÁO - ĐẠO HỌC TRẼN ĐẤT KINH KÌ (THĂN G LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

Đại học quốc gia Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh và


Irong tương lai có những trường khác là những dẫn chứng
cụ thể. Phương pháp tiến hành thiên về lắp ghép, mời các
trường tham gia và kết quả là có trường quốc gia có số
thành viên quá lớn, chuyên môn khác biệt, đặc điểm quá
khác nhau nên không dễ điều hành. Chuyện này cũng đã
xảy ra ở nông thôn một thời khi chúng ta dồn ép các hợp
tác nhỏ thành hợp tác xã cao cấp và khả năng điều hành trở
nên bất cập và phải điều chỉnh. Không phải cái gì to đều
tốt. To lớn là tiêu chí và ước mong của nhiều người trong
cuộc sống, một ngôi nhà to lớn, một con đường rộng rãi.
Nhưng không nên cố gắng tạo nên những bất thường do ý
muốn chủ quan của con người tạo nên. Chúng ta đang ở
thời kỳ tìm tòi những mô hình có hiệu quả nhất. Phải xuất
phát từ thực tế của đất nước, hoàn cảnh cụ thể của từng giai
đoạn để chọn lựa mô hình thích hợp nhất. Không dễ tạo
được quả đấm nếu không có nội lực. Chúng ta đã có những
quả đấm lực sĩ trong chiến tranh để bảo vệ tổ quốc, đánh
bại kẻ thù. Quả đấm giáo dục lại mang đặc điểm khác
không dễ thực hiện. Chúng ta có kinh nghiệm về xoá nạn
mù chữ, về giáo dục cộng đồng nhưng chưa có nhiều kinh
nghiệm về phát triển đại học. Hãy khoan nghĩ đến những
quả đấm, mà khiêm tốn hơn nên nghĩ đến bàn tay cần cù
lao động từng bước xây dựng nền đại học còn mới của
chúng ta. Cứ nghĩ đến chỉ số giáo dục từ Viện chiến lược

399

í
CHƯƠNG 7: ĐẠO HỌC VIỆT NAM TRUỚC NHŨNG THÁCH THỨC..

và chương trình giáo dục cho biết chỉ số tổng hợp giáo dục
của nước ta chỉ đạt 3.79 điểm, xếp hạng gần cuối cùng sau
Hàn Quốc (6.91)! Xinh ga po (6.81), Nhật Bản (6.5), Đài
Loan (6.04), Ấn Độ (5.76), Trung Quốc (5.73), Malaixia
(5.59), Hồng Kông (5.20), Philippin (4.53), Thái Lan
(4.04). Riêng về tiếng Anh và kĩ năng công nghệ cao của
người lao động Viột Nam xếp cuối cùng. Trong tình hình
đó nghĩ đến quả đấm thật là không hiểu người không hiểu
mình.
Trong một cuộc họp của Hội đồng quốc gia giáo dục,
Thủ tướng Phan Văn Khải nhấn mạnh đến tầm quan trọng
của thày cô giáo bằng một câu “Thày cô giáo cũng phải
ngon thì trường học mới phát triển được”. VỊ trí của người
thày đã được xác định và để cao trên lý thuyết từ trong quá
khứ đến hiện tại. Nhưng trong khoảng một vài thập kỷ gần
đây, nhất là trong cơ chế thị trường, vị trí người thày không
được như trước, do nhiều nguyên nhân:
- Khi các trường tư mọc lên như nấm, giáo dục nhiễm
màu kinh doanh, học trò trở thành yếu tô' số một ở một số
trường. Trước người ta n ó i: “không thày đô' mầy làm nên”,
và ngày nay:”Không mầy đô' thày làm nên”.
- Việc đào tạo giáo viên thiếu chuẩn mực và thiếu
chất lượng làm cho nghề dạy học không hơn một nghề và
hình như ai làm cũng được. Vì chất lượng thấy không được

400
NHO GIÁO - ĐẠO HỌC TRẼN ĐẤT KINH KÌ (THẢNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

nâng cao mà trình độ thầy trò có lúc như không có khoảng


cách rõ rệt.
- Các cơ quan chỉ đạo giáo dục chưa quan tâm đầy đủ
đến người thày trong trường học. Các thày giáo bị xem là
những viên chức ít tiền và không có quyền hành. Còn với
người dân thì mỗi người kính thày, yêu thày, nghĩ về thày
theo một cách. Một anh xe ôm khi biết khách của mình là
thày giáo nói :”Nghề các thày là sướng nhất, trong xã hội
ta hiện nay trừ một sô' bề trên và các thày giáo ra ai cũng bị
gọi là thằng”. Các cô giáo lại được quý trọng theo một
cách khác, nhất là về sự nghiêm túc đức hạnh. Bộ đội, công
an, cán bộ tổ chức thường đặc biẹt ca ngợi các cô giáo dảin
đang, chung thuỷ và có tính chuẩn mực.
Nhiều cán bộ quan chức không đến với nghề thày do
nhiều hoàn cảnh nhưng lại rất quí một số chức danh của
nghề thày như các chức phó giáo sư, giáo sư. Trên đường
phát triển chức quyền và danh vọng nếu có thêm được một
chức danh giáo sư hay phó giáo sư dễ thấy sang trọng mà
gần gũi. Ở các trường đại học các thày giáo càng có vị trí
quyết định. Thày giáo là hạt nhân, là năng lượng trung tâm
của nhà trường. Có thày giáo giỏi là có điều kiện tiên quyết
để có sinh viên giỏi.
Hiện nay các giảng viên trẻ nãng động, thông minh
ham học và sớm có bằng cấp cao. Tuy nhiên những công

401
CHUONG 7: ĐẠO HỌC VIỆT NAM TRUỚC NHỮNG THÁCH THỨC..

việc xã hội, đoàn thể và rồi những thứ hấp dẫn: du lịch, thể
thao, giải trí cũng chi phối nhiều đến thời gian nghiên cứu
học hành. Chúng ta có nhiều tiến sĩ ở độ tuổi ngày càng
trẻ. Các chức danh phó giáo sư sẽ có thể đạt được ở độ tuổi
ngoài 30 và giáo sư ở độ tuổi trên dưới 40. Đấy là những
dấu hiệu tốt nhưng chất lượng chưa cao. Đa số chưa có dấu
hiệu của chuyên gia. Chúng ta chưa khổ công thực học,
chưa rõ đích xa.
Lớp cao tuổi sau nhiều năm tự bồi dưỡng, tự nghiên
cứu đã có bề dày kinh nghiệm và nhiều công trình nghiên
cứu. Song chưa diễn ra quá trình “cá hoá rồng”. Có nhiều
giáo sư có trình độ cao nhưng không có điẻu kiên phát
triển tài năng. Nếu có được phương tiện vật chất đầy đủ,
được thực tập trao đổi, làm việc ở nước ngoài theo chương
trình nghiên cứu thì nhiều giáo sư có thể trở thành chuyên
gia có tầm cỡ thế giới! Trong đời của nhiều nhà khoa học
tài năng đã đánh mất cơ hội, tuổi già sớm ập đến và trở
thành dang dở. Nhiều giáo sư về hưu còn ở độ sung sức
nhưng chỉ nhanh chóng trong vài năm đã mất sức làm việc.
Đội ngũ giáo sư ngành đại học đang ở buổi giao thời,
thiếu kế cận, tiếp nối. Những chùm quả xanh tươi chưa vào
mùa chín, những quả già đã có dấu hiệu quá mọng chín
sắp Ha cành: cũng phải từ 5 đến 10 năm nữa mới khấc phục
được phần nào tình trạng này.

402
NHO GIÁO - ĐẠO HỌC TRẼN ĐẤT KINH KÌ (THẢNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

Đáng lo ngại nhất hiện nay ở Đại học cũng như toàn
ngành giáo dục là vấn đề chất lượng. Chất lượng giảm sút
đến mức phải báo động. Biểu hiện ở các dạng:
- Đầu vào tương đối tốt nhưng đầu ra thì dang dở,
sinh viên ra trường hành trang còn thiếu thốn, chưa phải là
sản phẩm hoàn thiện nên thường phải đào tạo thêm mới có
thể làm việc được.
- Chạy theo thành tích là căn bệnh chung của các
trường đại học, do đó kết quả của việc học tập và các kỳ thi
chưa thật chính xác đáng nghi ngờ.
- Bộ máy thanh tra giám sát việc học hành còn rất
kém tạo nhiều kẽ hở cho học hành, thi cử.
- Các chuẩn mực đại học, trên đại học, cao đẳng lại
khống rõ ràng nên rất dễ lẫn lộn về trình độ, giữa cao đẳng
và đại học, giữa đại học và cao học, giữa cao học và trên
đại học.
- Học sinh giỏi ở các khoá rất ít nên việc chọn lựa các
lớp cử nhân tài năng, kỹ sư tài năng rất khó khăn. Ở một số
trường chữ tài năng không nói lên điều gì, nhiều khi lại tạo
sự phân cách trong tâm lý, sinh hoạt. Yêu cầu giáo dục của
nhà trường là phải nâng cao đều vể chất lượng, kích thích
động viên các em học giỏi bằng giải thưởng, bằng khen đi
học nước ngoài. Tách thành một lớp gây áp lực tâm lý
nạng nề. Trong nhiều ngành hoạt động xã hội vì chưa có

403
1


CHƯƠNG 7: ĐẠO HỌC VIỆT NAM TRƯỚC NHỮNG THÁCH THỨC...

điều kiện nâng cao trình độ chung cho mọi người và chiều
theo thị hiếu túi tiền người mua khác nhau nên mới sinh ra
các loại hình phục vụ: xe ca chất lượng cao trong giao
thông, giường nằm chất lượng cao trong bệnh viện, toa tàu
chất lượng cao trong đường sắt. Giáo dục có nên theo định
hướng thế? Trường Trung học bỏ lớp chuyên có thể vì
chọn quá sớm? Mọi người thi đậu vào đại học có quyền
được học và chăm sóc như nhau. Em nào giỏi sẽ được tặng
thưởng hàng năm vào cuối khoá. Việc học thường diễn ra
hiện tượng có em học giỏi từ năm đầu đến năm cuối. Có
em chỉ học giỏi một hai năm rồi hẫng hụt và ngược lại có
em non kém năm đầu sau trở thành xuất sắc. Sẽ khó khãn
khi hàng năm loại bỏ một số em kém và chấp nhận các em
mói khá lên.
Chất lượng kém còn có nguyên nhân ở người dạy và
ngưởi học.
- Thầy giáo có tâm lý nể học sinh, ngại cho học sinh
điểm thấp, không muốn bắt thi lại, bảy bỏ làm mười cho
xong, cho vui vẻ cả thày lẫn trò. Tinh trạng khoá luận đạt
9, 10 điểm là phổ biến. Cho điểm 8.5, 8 bị xem là yếu kém
rồi than vãn và khóc lóc. Tốt nghiệp Thạc sĩ, Tiến sĩ đa
phần là xuất sắc, vui vẻ cả.
Vê' người học, thường thiếu ý thức phấn đấu, đầu vào
tốt nhưng đầu ra lại còn yếu. Học theo điểm, cho qua kỳ

404
NHO G IÁ O - ĐẠ O HỌC TRÊN ĐẤT KINH KÌ (THẢNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

thi rất ít khi nghĩ về đường đi lâu dài. Ý thức tự trọng, xấu
hổ giảm sút, tâm lý thực dụng phát triển nên rất hay quay
cóp sao chép.
Nền giáo dục đại học của chúng ta có nhiều thành
tích nhưng vẫn tồn tại nhiều căn bệnh không dễ khắc phục.
Giáo dục đại học là bậc học cao thể hiện trí tuệ, sự thông
minh, sáng tạo của trí thức của đất nước. Quốc gia nào có
nền đại học lớn, tiêu biểu, thường là một quốc gia hùng
mạnh. Hay nói một cách khác là một nền giáo dục đại học
vững vàng phát triển, hiện đại sẽ có đóng góp quan trọng
vào.sự phát triển của đất nước2.
7 .1 .3 . Đ ỏ i m ớ i v à c h u ẩ n ỉt ó a g i á o d ụ c

Đổi mới giáo dục là đòi hỏi cấp bách của thực tế
nước ta hiện nay. Tuy nhiên, sự đổi mới phải thỏa mãn 2
vêu cầu: tiến bộ và bảo đảm tính ổn định tương đối. Do đó,
các thay đổi trong giáo dục phải được cân nhắc, phân tích
toàn diện và sâu sắc trước khi trở thành chủ trương hay
pháp lệnh.
Lực lượng trí thức của nước ta là hùng hậu và được
đào tạo từ các nguồn khác nhau. Đó là vốn quí, là yếu tố
quan trọng để có thể giải quyết được các vấn đề khoa học,
kỹ thuật, văn hóa xã hội và giáo dục đào tạo trong thời kỳ

2 Xin xem thêm: GS. Hà Minh Đức: Nghĩ về chuẩn mực và chất luợng của
giáo dục đại học. Tham luận Hội thảo khoa học Hà Nội 200 3 .Hà Nội 2003.

405


CHƯƠNG 7: ĐẠO HỌC VIỆT NAM TRUỎC NHŨNG THÁCH THÚC..

đổi mới. Trong thời gian qua, Nhà nước đã có những chủ
trương, chính sách tận dụng nguồn nhân lực quan trọng đó
như đã thống kê, in ấn các ấn phẩm giới thiệu về các nhà
khoa học, các nhà giáo. Mặt khác, phần lớn trí thức đều
nhiệt tình, tích cực tham gia vào sự nghiệp chung của đất
nước. Nhưng có một điều cũng nhận thấy rằng, tại sao
nhiều vấn đề có tính chiến lược về xã hội, kinh tế, khoa
học- kỹ thuật và giáo dục đào tạo của đất nước vẫn chưa
được giải quyết, vai trò của trí thức trong vấn đề này còn
mờ nhạt.
Các trường đại học công lập có uy tín phải giữ vai trò
chủ đạo trong việc đào tạo nguồn nhân lực kỹ thuật cao
cho đất nước. Trong hệ thống các trường đại học này phải
thực hiện bài bản từ khâu tuyển chọn cán bộ giảng dạy,
công tác tuyển sinh chất lượng cao, chương trình học phải
nặng hơn, sâu sắc hơn và sinh viên ra trường được ưu tiên
tuyển dụng làm việc trong các trường đại học, các viện
nghiên cứu và các cơ quan khoa học-phát triển. Thời gian
học được chuẩn hóa là 4 năm cho cử nhân và 5 năm cho kỹ
sư, 6 năm cho bác sĩ. Các trường đại học này bước đầu
chưa nên học theo chế độ tín chỉ để có thể quản lý chặt chẽ
về chất lượng đào tạo và trình độ của sinh viên.
Trường đại học đào tạo kỹ sư thực hành, chú trọng
đến tận dụng các trường đại học ngoài công lập. Cần quan
niệm rằng các trường đại học này cũng cần đáp ứng tiêu

406
NHO G IÁ O - ĐẠ O H ỌC TRÊN ĐẮT KINH KÌ (THĂNG LONG - ĐÔN G ĐÔ - HÀ NỘI)

chuẩn về trình độ giáo dục, đào tạo. Nhưng với mục tiêu là
cung cấp đội ngũ kỹ sư đông đảo, giỏi thực hành cho các
cơ quan sản suất. Đối với các trường này có thể thực hiện
học theo chế độ tín chỉ. Trong chương trình đào tạo, bên
cạnh phần lý thuyết bắt buộc của bậc đào tạo, cần tăng
cường phần thực hành, thực tập và hướng sinh viên đến khả
nãng đáp ứng nhu cầu đa dạng, kịp thòi của thực tế sản
xuất.
Vì tính chất, mục đích giáo dục của hai loại trường
dại học này khác nhau nên phân bố chương trình cũng phải
khác nhau: trong loại trường thứ nhất thời lượng cho phần
lý thuyết và phần chuyên ngành phải nhiều hơn. sâu hơn.
Trong loại trường đại học thứ hai thời lượng cho chuyên
ngành ít hơn, nhưng cần trang bị cho sinh viên kiến thức đa
ngành hơn.
Phân chuyên ngành ở các trường đại học còn chậm,
ihường chỉ ở năm cuối và thời lượng cho chuyên ngành sâu
còn ít, số môn chuyên nghành chưa đủ. Trong khi ở nước
ngoài việc đi vào học chuyên ngành bắt đầu từ năm thứ ba
, nghĩa là về thời lượng số môn học phục vụ cho chuyên
ngành sâu chiếm 60%. Phần lớn sinh viên được đào tạo
trong nước khi ra trường còn thụ động trong công việc,
điều này là do phương pháp dạy và học ở bậc đại học chưa
phù hợp. Bên cạnh đó, thiếu hụt vể kinh nghiệm thực hành,
do số phòng thí nghiệm chưa đủ, trang bị phòng thí

407


CHUÔNG 7: ĐẠO HỌC VIỆT NAM TRUỞC NHỮNG THÁCH THỨC..

nghiệm còn thiếu thốn và chưa đổng bộ. Thực tập thực tế
còn ít và phần lớn đều mang tính tham quan mà không
thực sự bắt tay vào thực tập với công việc cụ thể như một
kỹ sư thử việc.
Một vấn đề hết sức quan trọng quyết định đến
phương pháp học tập và phong cách làm viộc của sinh viên
là thư viện, sách giáo khoa, tài liệu tham khảo ờ Việt
Nam còn hết sức thiếu thốn. Ngân sách đầu tư cho đào tạo
hiện nay trước tiên phải giải quyết có tính cách mạng khâu
thư viện, sách và tài liệu dưới mọi hình thức: in, mạng
thông tin, tóm tắt thông báo nhanh... Đảm bảo có đủ sách
giáo khoa quan trọng, tạp chí đầu tay cho các chuyên
ngành. Trên cơ sở đó cách giảng dạy của giảng viên phải
định hướng vào việc sinh viên tự đọc tài liệu, tổng hợp
thành nội dung của từng bài học một cách sáng tạo và chủ
động. Tăng cường các tiết seminar môn học.
Trong thực tế có nhiều sinh viên sau khi ra trường
không biết tra cứu trong thư viện, điều này hạn chế rất
nhiều khả năng dạy của giảng viên và khả năng học một
cách sáng tạo, chủ động của sinh viên. Bên cạnh trang bị
cho sinh viên về kiến thức thì việc tạo một nếp tư duy giải
quyết công việc và phong cách làm việc cũng là nhiệm vụ
trọng tâm của các trường đại học. Muốn làm được điều đó
chương trình học phải bao hàm được mục tiêu và từng
bước dẫn dắt, xây dựng logic trong giải quyết công việc

408
NHO GIÁO - ĐẠO HỌC TRÊN ĐẤT KINH KÌ (THẲNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

của người học, đồng thời phải trang bị công cụ cho sinh
viên là tài liệu, kiến thức và thực tế. Không phải vô cớ mà
có người nói rằng học đại học là học cách đọc sách.
Để nâng cao chất lượng và kỷ cương trong lĩnh vực
đào tạo bậc đại học và sau đại học mà trong thời gian qua
dư luận quần chúng rất quan tâm, bước đầu tiên là cần
chuẩn hóa với tính chất quốc gia vể chương trình học của
từng ngành, từng chuyên ngành. Sau khi đã có chương
trình tiêu chuẩn đào tạo quốc gia sẽ đi vào chuẩn hóa
chương trình học từng môn và giáo trình học. Nội dung
của giáo trình từng môn học phải được cụ thể, thống nhất
trong cả nước và được một hội đồng khoa học- đào tạo
Quốc gia phê duyệt. Thí dụ trong hóa đại cương có hóa
cho ngành hóa học, hóa cho vật lý, hóa cho địa chất... phải
có thời lượng khác nhau, độ chuyên sâu khác nhau, nhưng
nội dung của từng môn cho từng chuyên ngành phải được
thống nhất trong tất cả các trường đại học trong cả nước.
Tiếp theo là Nhà nước, mà người đại diện là Bộ Giáo dục
và đào tạo sẽ ký hợp đồng với các nhà khoa học, các
chuyên gia viết giáo trình. Bước thứ ba là chuẩn hóa giáo
viên giảng dạy, trong đó Nhà nước cần qui định cụ thể về
học vị, thành tích khoa học, thâm niên công tác đối với cán
bộ giảng dạy.
Để nâng cao trình độ của giảng viên đại học, ở một
số nước, ngoài giảng dạy, số công trình công bố trong các

409
CHUONG 7: ĐẠO HỌC VIỆT NAM TRUỚC NHỮNG THÁCH THÚC..

tạp chí chuyên ngành uy tín trong nước và trên thế giới là
tiêu chuẩn để đánh giá trình độ chuyên môn của từng
giảng viên. Ở Nhật trong các trường đại học một trong
những tiêu chuẩn để giảng viên đại học được tiếp tục ký
hợp hàng năm vói trường là trong năm đó phải có 3 bài
báo đăng ở tạp chí chuyên ngành nước ngoài. Từ yêu cầu
đó mà mối quan hộ mật thiết giữa Trường - Viện nghiên
cứu - Nhà sản xuất là một đòi hỏi khách quan. Hiện nay
mối quan hệ này còn chưa dựa trên một qui định bắt buộc
từ phía Nhà nước, mà chỉ dựa trên quan hệ cá nhân là
chính. Do đó trong thực tế với qui mô của một quốc gia có
thể nói là chưa có liên kết này. Phải có qui định bắt buộc
để các trường đại học phải mời các chuyôn gia từ các Viện
nghiên cứu tham gia giảng dạy, đặc biệt là những môn
chuyên ngành, đồng thời các Viện cũng tạo điều kiện để
các giảng viên đại học tham gia nghiên cứu. Ngoài ra, có
thể thực hiện chế độ một môn học có vài ứng viên giảng
dạy, sau đó dựa vào sô' sinh viên đăng ký với từng giảng
viên mà đánh giá năng lực của các giảng viên. Chính yếu
tố này thúc đẩy giảng viên không ngừng học tập, nâng cao
trình độ chuyên môn và uy tín khoa học của mình.
Thực tế là sinh viên của ta khi ra trường phải đào tạo
lại, nghĩa là chương trình học trong trường đại học chưa đủ
hoặc chưa phù hợp với yêu cầu thực tế.
Khi nhận sinh viên thực tập ở trong Viện nghiên cứu,
ta dễ nhận thấy kỹ năng thí nghiệm yếu, nhiều thao tác cơ

410
NHO GIÁO - ĐẠ O H Ọ C TRÊN ĐÁT KINH KÌ (THẢNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

bản phải uốn nắn lại. Do đó cần chuẩn hóa lại những nội
dung hết sức cơ bản và hết sức đơn giản cho sinh viên
trong năm đầu đại học. Ở một sô' nước trong năm cuối của
trung học người ta đã hướng nghiệp cho học sinh theo một
sô' chuyên ngành cơ bản và trong năm học đó học sinh
được trang bị những kiến thức sơ đẳng, cơ bản theo hướng
chuyên ngành đó, nên khi vào đại học những thao tác thí
nghiệm, thực hành rất thành thạo.
Chế độ lương đối với cán bộ giảng dạy và nghiên cứu
cần được sửa đổi. Trong thời đại tri thức tất yếu khách
quan là trình độ chuyên môn của các chuyên gia sẽ được
xã hội đánh giá cao. Trong những năm vừa qua thu nhập
của các nhà giáo đã được cải thiện, nhưng vẫn do từng
trường, từng đơn vị tự giải quyết, chưa xuất phát từ chính
sách lương bổng của Nhà nước. Chính quyền cần coi các
nhà trí thức là những người được sử dụng, còn chính quyển
là người sử dụng lao động. Do đó từ phía Nhà nước và
chính quyền phải có cơ chế sử dụng đối với trí thức. Trong
cơ chế đó cần quan tâm đến một đặc điểm của lực lượng
lao động này là tính cá nhân, nghĩa là vai trò, tầm quan
trọng của sự đóng góp của từng cá nhân và tính cá nhân
trong giải quyết công việc. Cần có cơ chế về chế độ làm
việc, quản lý điều hành, chế độ lương bổng cao gắn liền
với trách nhiệm cá nhân phải tương xứng. Mỗi người được
hưởng chế độ lương bổng và đãi ngộ nhưng đi đôi với đó là

411
CHƯƠNG 7: ĐẠO HỌC VIỆT NAM TRUỎC NHŨNG THÁCH THỨC..

tính hiệu quả của công việc và tinh thần trách nhiệm của
người được hưởng thụ.
Cần có qui chế về tuyển, chế độ làm việc, chế độ xét
lương bổng và tuổi làm việc đối với trí thức nhất là các
chuyên gia đầu ngành khác với công chức. Một thực tê' cho
thấy, để có đủ kiến thức lý luận và thực tế trình độ cao thì
nhà khoa học phải học tập, nghiên cứu trong 15-20 năm,
nghĩa là khi thực sự chín mồi thì đã ở tuổi 40-45, nhưng xã
hội chỉ sử dụng họ trong 10-15 năm. Đối với nhà khoa học
ở tuổi 55-60 vẫn là tuổi làm việc sung sức thì lại được cho
nghỉ hưu. Đây là một sự lãng phí chất xám lớn trong khi
chúng ta vẫn thiếu các chuyên gia đầu ngành, đang hụt
hẫng cán bộ đầu đàn. Thôi quản lý chính quyền ở tuổi 60
cũng được nhưng điểu đó không nên áp đặt cho vị trí
trưởng phòng thí nghiệm. Bởi vì để có thể khai thác tiếp
người lao động trí thức thì Nhà nước phải tạo điều kiện về
pháp lý và vật chất. Pháp lý đó là họ vẫn là người lãnh đạo
trong một phòng chuyên môn, một hứơng nghiên cứu và
điểu kiện vật chất là phòng thí nghiệm. Chúng ta tin rằng ở
vị trí đó chỉ những nhà khoa học, nhà giáo thực sự có tâm
huyết, say mê khoa học và vì lợi ích chung mới chấp
nhận3.

3 Xin xem thêm: PGS.TSKH. Lưu cẩm Lộc: Chuẩn hóa giáo đục. Tham luận
Hội thảo khoa học Hà Nội 2003.

412
NHO G IẢ O - Đ Ạ O H ỌC TRÊN ĐẤT KINH KÌ (THẢNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

7.1.4. Liên kết đào tạo và nghiên cứu khoa học —Một
hướng đi của th ế kỷ XXI
Cần phải có sự liên kết giữa nghiên cứu khoa học và
giảng dạy ở bậc đại học và sau đại học trong các trường đại
học, các học viện cũng như với các viộn nghiên cứu khoa
học cơ bản là một chủ trương đúng đắn của ngành giáo dục
nước ta. Để thiết lập có hiệu quả của các mối quan hệ này
lại phụ thuộc rất mạnh vào yếu tô' xã hội, phương thức tổ
chức các đơn vị nghiên cứu khoa học và giáo dục đại học
của mỗi nước. Thông thường với các nước trên thế giới, có
hai hình thức tổ chức cơ bản theo hai mô hình sau đây:
- Nghiên cứu khoa học và đào tạo chủ yếu đuực thực
hiện trong một hệ thống duy nhất: đó là hệ thống các
trường đại học.
- Nghiên cứu khoa học và đào tạo được thực hiện ở cả
hai hệ thống có tính độc lập tương đối: hộ thống các trường
đại học và hệ thống các viện nghiên cứu khoa học. Ví dụ
như bên cạnh hệ thống các trường đại học ở Pháp có Trung
tâm nghiên cứu Khoa học; tại Đức có Viện Mark-Plank; tại
Nga, Trung Quốc, Đài Loan có các viện nghiên cứu ở Viện
Hàn lâm khoa học; Ở Hàn Quốc có Viện KIST... Ở Việt
Nam hiện có hai Trung tâm nghiên cứu khoa học là Trung
tâm KHTN&CNQG và Trung tâm KHXH&NVQG, và các
viện nghiên cứu ở các Bộ, Ngành trong cả nước.

413
CHƯONG 7: ĐẠO HỌC VIỆT NAM TRUỎC NHỮNG THÁCH THỨC..

Trong những năm gần đây, ở một sô' nước đã thiết lập
một hình thức mói: Viện nghiên cứu khoa học và công
nghệ kết hợp với đào tạo sau đại học (đào tạo thạc sĩ và
tiến sĩ) như là Viện KIST (Viện Khoa học và Công nghệ
tiên tiến Hàn quốc), Viện JAIST (Viện Khoa học và Công
nghệ tiên tiến của Nhật). Thực chất hình thức này gần
giống với các viện nghiên cứu thuộc Viện hàn lâm khoa
học, các Trung tâm nghiên cứu khoa học Quốc gia ở một
sô' nước. Sự khác biệt cơ bản ở đây là trong các viện loại
này chỉ có thầy dạy đồng thời là người tổ chức thực hiện
các đề tài nghiên cứu trọng điểm được chọn lựa cẩn thận.
Các đề tài thường gắn liền với yêu cầu của thực tiễn sản
xuất và các sinh viên cao học, các nghiên cứu sinh vừa là
người học vừa là người thực hiộn các đề tài nghiên cứu
khoa học và công nghộ. Gần như không có người chỉ
chuyên làm công tác nghiên cứu trong các viện này. Tuy
vậy, do các giáo sư phải hướng dẫn nhiều đề tài và nhiều
luận án cùng một lúc, nên các viện nghiên cứu loại này đã
có chủ trương nhận thêm các cán bộ nghiên cứu khoa học
trẻ, có năng lực, chủ yếu lựa chọn từ các nước khác đến
làm việc trợ giúp dưới danh nghĩa thực tập sau tiến sĩ, hoặc
là trợ lý giảng dạy. Ở Viột Nam loại hình này cũng đã và
đang được thử nghiệm ở một vài cơ sở.
Một trong những yếu tố quan trọng góp phần vào
việc nâng cao chất lượng giáo dục Đại học Viột Nam là

414
NHO GIÁO - ĐẠO HỌC TRÊN ĐẤT KINH KÌ (THẢNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

phải thiết lập tốt hơn nữa mối liên kết giữa nghiên cứu
khoa học và đào tạo. Mối liên kết này cần phải được tổ
chức tốt và hữu hiệu không chỉ trong mỗi trường đại học
mà còn ở mỗi viện nghiên cứu khoa học chuyên ngành.
Gần đây, nhờ được sự đầu tư của nhà nước ngày một tãng,
đồng thời đã nhận thức được tầm quan trọng của việc nâng
cao chất lượng đào tạo đại học, nên mối liên kết này đã có
và đang phát triển tốt hơn. Tuy nhiên, vì một sô' lý do
khách quan cũng như chủ quan nên vẫn còn không ít các
trường đại học chỉ có đào tạo, và một số viện nghiên cứu
chỉ có nghiên cứu một cách thuần tuý.
Thực hiện chủ trưctng của Đảng và Nhà nưórc, xuất
phát từ yêu cầu của thực tiễn, một số trường đại học và
viện nghiên cứu khoa học đã thiết lập được một sô' liên kết
trong công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học. Các mối
liên kết giữa các trường và các viện khá đa dạng, nhưng
chủ yếu tập trung vào các hình thức sau đây:
- Các cán bộ nghiên cứu khoa học ở các Viện được
mời giảng dạy ở các trường đại học.
- Các trường đại học gửi sinh viên, học viên cao học,
nghiên cứu sinh đến thực tập, làm khoá luận, luận văn ở
các Viện nghiên cứu.
Một số viện nghiên cứu đã thực hiện chương trình
đào tạo bậc tiến sĩ theo quy định của Nhà nước và Bộ Giáo

415
CHUONG 7: ĐẠO HỌC VIỆT NAM TRUỚC NHỮNG THÁCH THÚC...

dục và đào tạo, nghiên cứu sinh do Viện tuyển chọn,


nghiên cứu sinh của trường đại học phối hợp với viện,
nghiên cứu sinh phối hợp của Viộn và nước ngoài. Đối với
đào tạo thạc sĩ, do Luật Giáo dục quy định, một số viện
nghiên cứu khoa học chưa được phép đào tạo cao học nên
một số viện thường phải chọn cho mình một trưòng liên
kết để tổ chức đào tạo thạc sĩ.
Thực tiễn đã cho thấy liên kết giữa các trường đại
học và các viện nghiên cứu trong công tác nghiên cứu khoa
học và đào tạo, đặc biệt là đào tạo sau đại học, dù ở bất kỳ
hình thức nào đã nêu trên cũng đều đã đem lại những kết
quả tích cực, góp phần đáng kể trong việc đào tạo cán bộ
khoa học ở trình độ thạc sĩ và tiến sĩ ở nước ta trong những
năm qua. Cần nhìn nhận đúng đắn và khách quan những cố
gắng nói trên trong công tác đào tạo nguồn nhân lực về
khoa học và công nghệ cho nước ta của các viện nghiên
cứu và các trường đại học.
Nhìn nhận thực trạng về hệ thống nghiên cứu khoa
học và hệ thống giáo dục bậc đại học và sau đại học của
nước ta hiện nay một cách khách quan là hết sức cần thiết,
làm cơ sở cho việc đưa ra những quyết định mang tính
chiến lược lâu dài. Trong một sô' cuộc thảo luận và cả trên
các phương tiện thông tin đại chúng không ít lần chúng ta
được nghe ý kiến đề xuất về các giải pháp đổi mới giáo

416
NHO GIÁO - ĐẠO HỌC TRÊN ĐẤT KINH KÌ (THẢNG IONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

dục và nghiên cứu khoa học nhằm nâng cao hiệu quả đào
tạo và nghiên cứu khoa học đáp ứng yêu cầu mới của sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiên đại hoá đất nước. Nhà nước
cũng đã có quyết sách cấp kinh phí không ít để gửi sinh
viên, nghiên cứu sinh đi đào tạo ở nước ngoài. Trong hoàn
cảnh kinh tế còn khó khăn như hiện nay, có thể nói đây là
sự cố gắng lớn của Đảng và Nhà nước ta nói chung và của
Bộ Giáo dục và Đào tạo nói riêng trong công việc chuẩn bị
lực lượng cán bộ khoa học cho sự nghiệp xây dựng và phát
triển đất nước.
Không ít lần chúng ta cũng đã nghe dự kiến chuyển
các đơn vị nghiên cứu khoa học cơ bản ở các Trung tâm
nghiên cứu quốc gia về các trường đại học. Tuy nhiên,
những giải pháp này cần có cơ sở khoa học rõ ràng, khách
quan và biện chứng, nếu không sẽ gây ra những sự xáo
trộn không cần thiết, đôi khi phản tác dụng. Vậy làm gì để
nâng cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu khoa học trong
giai đoạn hiện nay? Cần có các biộn pháp về tổ chức và sử
dụng tối đa và hợp lý nguồn nhân lực và tài lực mà chúng
ta đã tạo ra trong thời gian qua. Đó là:
- Để tăng cường công tác nghiên cứu khoa học ở các
trường đại học, cần đưa ra một sô' quy định thời gian giảng
dạy tối đa cho các cán bộ giảng dạy ờ các trường đại học.
Cần có thời gian cho các cán bộ giảng dạy tham gia nghiên
cứu khoa học.

417
CHƯƠNG 7: ĐẠO HỌC VIỆT NAM TRƯỎC NHỮNG THÁCH THÚC..

* Ở các trường không có hoặc chưa có điều kiệi tổ


chức nghiên cứu khoa học tại trường, cần tạo điều kiện
thuận lợi và có các quy định cụ thể khuyến khích hoặc bắt
buộc các cán bộ giảng dạy của mình tham gia thực hiện các
đề tài nghiên cứu khoa học ở các viện nghiên cứu hoặc ở
các trường có điều kiện và để tài nghiên cứu tốt hơn. Để giải
quyết việc thiếu cán bộ giảng dạy ở trường, cần tăng cường
hình thức mời các giáo sư, cán bộ nghiên cứu ở các viộn
tham gia thỉnh giảng, hướng dẫn làm khoá luận, luận án....
* Đối với các viện nghiên cứu, cần đưa ra các điều
kiện bắt buộc hoặc khuyến khích các cán bộ nghiên cứu
tham gia đào tạo đại học và sau đại học.
- Tãng cưcmg kinh phí cho công tác đào tạo thạc sĩ,
tiến sĩ ở trong nước. Cần xem xét cân đối trong việc cấp
kinh phí cho học viên cao học, nghiên cứu sinh ở nước
ngoài với kinh phí cấp cho học viên cao học, nghiên cứu
sinh trong nước một cách hợp lý. Với kinh phí rất ít cấp
cho một nghiên cứu sinh trong nước như hiện nay không
thể nói đến chất lượng cao, đến hội nhập quốc tế được.
Mặc dù nước ta còn nghèo, ngân sách còn hạn chế, vì vậy
nếu nhà nước đã phê duyệt cho phép cấp ngân sách cho đi
học nước ngoài, thì chỉ nên sử dụng một phần, ví dụ 60%,
còn lại 40% ngân sách đó bổ sung cho kinh phí đào tạo
bậc tiến sĩ ở trong nước.

418
NHO GIÁO - ĐẠO HỌC TRẼN ĐẤT KINH KÌ (THĂNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

Nhiều nước có nền khoa học tiên tiến sẵn sàng cấp
học bổng nhận đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ với một điều kiện
duy nhất đó là các thí sinh phải vượt qua điểm chuẩn nào
đó, đặc biệt là ngoại ngữ. ... Ngoài ra, nên đa dạng hoá
nguồn kinh phí đào tạo: nhà nước, công ty hoặc xí nghiệp,
cá nhân ... để đảm bảo kinh phí cho việc đào tạo thạc sĩ,
tiến sĩ có chất lượng.
Không nên coi nhiệm vụ đào tạo ở các viộn nghiên
cứu của hai Trung tâm Khoa học Quốc gia: TTKHTN&
CNQG, TTKHXH&NVQG, như là nhiệm vụ phụ mà là
một trong những nhiệm vụ của các viện: đào tạo cán bộ
khoa học sau đại học.
Đã đến lúc phải xây dựng một sô' phòng thí nghiệm
phối thuộc giữa viện và trường, tranh thủ tối đa tiềm lực
nghiên cứu và đội ngũ cán bộ của các Viện nghiên cứu
trong công tác đào tạo. Có biện pháp cụ thể để duy trì, phát
triển và sử dụng tốt các phòng thí nghiệm phối thuộc này
để các cán bộ giảng dạy, sinh viên được tham gia nghiên
cứu khoa học và các cán bộ nghiên cứu được trực tiếp tham
gia giảng dạy đào tạo đại học và sau đại học.
Nhanh chóng xây dựng các tiêu chuẩn đánh giá hàng
năm chất lượng và phân loại chất lượng các trường và các
viện nghiên cứu bao gồm: số lượng và chất lượng các bài
báo khoa học, các bằng sáng chế phát minh, số lượng và
chất lượng các sinh viên tốt nghiệp (đối với các trường đại

419
CHƯƠNG 7: ĐẠO HỌC VIỆT NAM TRUỚC NHỮNGTHẢCH m ứ c..

học), Số lượng và chất lượng đào tạo các thạc sĩ, tiến sĩ (đối
với cả trường đại học và viện nghiên cứu), kết quả và uy tín
trong quan hệ hợp tác quốc tế...
Đổi mới giáo dục Đại học Việt Nam là một chủ
trương đúng của Nhà nước, Chính phủ và Bộ Giáo dục và
Đào tạo. Để thực sự đổi mới giáo dục đại học và hội nhập
quốc tế, thì việc nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học
ở trong các trường đại học và tận dụng phát huy hết năng
lực nghiên cứu khoa học và đào tạo của các viện nghiên
cứu là một trong những yếu tô' quan trọng4.

7.2. MẤY CẢNH BÁO VỀ ĐÀO TẠO TIẾN s ĩ VIỆT NAM


THỜI MỞ CỬA
Hiện nay Công nghệ thông tin hiện đại với các trang
web ra đời đã giúp cho mọi người có những điều kiện tiếp
cận với thông tin nhanh nhạy. Chính Bộ Giáo dục và Đào
tạo đầu năm 2006 cũng mở một cổng thông tin có địa chỉ:
w.w.w Ts.edu.net.vn nhằm giúp cho công tác tuyển sinh
vào các trường đại học và cao đẳng nhanh nhạy và thuận
tiộn hơn. Các cơ sở đào tạo đại học và trên đại học ở nước
ta cũng đã xây dựng những trang vveb riêng của mình để
quảng bá, giới thiệu về trường, viện mình, bên cạnh đó còn

4 Xin xem thêm: GS TS Phan Hổng Khôi.Tăng cường mối liên kết đào tạo và
nghiên cứu khoa học giữa các trường đại học và các viện nghiên cứu. Tham
luận Hội thảo khoa học Hà Nội 2003.

420
NHO GIÁO - ĐẠO HỌC TRÊN ĐẤT KINH KÌ (THĂNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

đãng tải các thông tin liên quan đến tuyển sinh, đến kết
quả các luận án sau đại học. Đó là những thuận lợi do công
nghệ kỹ thuật số đem lại.
Có nhiều báo điện tử như VietNamNet, VNExpress,
Dan tri, Nhan dan, Ha Noi moi, Thoi dai.... đăng tải trên
mạng đã tham góp nhiều ý kiến về vấn đề đào tạo. Tất
nhiên mỗi trang web mang chức năng riêng của mình song
quy tụ lại vẫn là cung cấp cho bạn đọc những thông tin
nhanh nhất, mới nhất về cuộc sống quanh mình. Một trong
những iuồng thông tin được đăng tải cũng như được mọi
người quan tâm là giáo dục. Giáo dục thì từ mẫu giáo tới
sau đại học. Môi một cấp độ giáo dục lại có những nhu cầu
riêng; vả lại nảy sinh những vấn đề riêng của mình. Trong
phần này chúng tôi chỉ nói về những thông tin đăng tải về
giáo dục đào tạo sau đại học. v ề đào tạo sau đại học được
các trang web trên mạng đăng tải khá nhiều, mặt phải có,
mặt trái cũng nhiều. Các bài báo tập trung phản ánh các
hịên tượng tiêu cực trong đào tạo sau đại học như hiện
tượng một chị chưa có bằng phổ thông mà đã đỗ cao học,
hay chất lượng đào tạo của các lớp tại chức ban đêm, hoặc
có bài lại tập trung nói về tiểu luận trong các trường một
tấn bi hài kịch, rồi các luận án tốt nghiệp bị sao chép và
công nghệ làm thuê luận án như thế nào? Gần đây, có bài
phản ánh về một thạc sĩ chạy điểm bị kết án 3 năm tù....
Tất cả như một lời cảnh tỉnh về đào tạo đại học và sau đại

421
CHƯONG 7: ĐẠO HỌC VIỆT NAM TRƯỐC NHỮNG THẢCH THỨC..

học trong thời mở cửa hay đúng hơn là đào tạo trong nền
kinh tế thị trường.
Sau đây chúng tôi xin trích đăng một vài báo qua
mạng để chúng ta có dịp nhìn lại đào tạo sau đại học của
Việt Nam vào cuối năm 2005 đầu 2006.
Đầu tiên là bài viết trên VietNamNet, có tựa đề Vài
cảnh báo khi làm tiến sĩ ngày 03/12/2005 của TS
TrầnVănTuấn (Australia). Bài báo viết: “Ngày nay ở nước
ta, nhiều sinh viên có ý định theo học chương trình tiến sĩ
(Doctor of Philosophy, thường viết tắt là Ph.D). Đó là một
phát triển đáng mừng. Thế nhưng có vài dấu hiệu cho thấy
động cơ của việc này hình như không phải để đi tìm sự thật
khoa học hay mở mang trí tuệ mà chỉ để có cái danh “tiến
s ĩ ’ trước tên mình. Một số khác thì vì lý do thăng quan tiến
chức nên tìm mọi cách theo học và “lấy cho được” học vị
tiến sĩ.
Thiết tưởng đây là một ngộ nhận nguy hiểm về học vị
tiến sĩ cần được giải thông. Nếu thí sinh muốn dấn thân
vào quản trị thương trường, kĩ nghệ và khoa học (như
muốn làm giám đốc doanh nghiệp, giám đốc các cơ sở
khoa học) hay các chức vụ hành chính, hay các chức vụ
mang tính quản lý trong hệ thống chính phủ thì không nên
theo học chương trình tiến sĩ (mà nên theo học chương
trình thạc sĩ quản trị kinh doanh hay quản trị hành chính)
bởi vì cốt lõi của học vị tiến sĩ (và cũng là khía cạnh dùng

422
NHO GIÁO - ĐẠO HỌC TRẼN ĐẤT KINH KÌ (THẰNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

để phân biệt học vị tiến sĩ với các học vị đại học khác) là
nghiên cứu khoa học, không phải quản trị.
Tự đánh giá mình
Thật là khó đánh giá khả năng của mình, nhưng những
đề mục sau đây có thể giúp cho thí sinh tự hỏi và trả lời.
Khả năng học vấn. Trong khi theo học chương trình
cử nhân, tiến sĩ thường hay đạt điểm cao hay thường đứng
đầu lớp hay đứng sau cùng lớp? Khi thi trung học đạt bao
nhiêu điểm? ở các đại học ú c, thí sinh theo học tiến sĩ
thường có bằng cử nhân hạng danh dự (honours) hay có
bằng thạc sĩ.
Thời gian. Thí sinh có sán sàng giải quyết mọt dự án
nghiên cứu hay một vấn đề khó khăn mà mình chưa bao
giờ làm trước đây hay không? Chương trình học tiến sĩ
thường kéo dài nhiều năm với lao động cật lực, thí sinh có
sẵn sàng hy sinh và bỏ qua các hoạt động và sinh hoạt
thường ngày khác để theo đuổi nghiên cứu khoa học.
Sáng tạo. Khám phá trong nghiên cứu khoa học
thường xảy ra khi nhà nghiên cứu nghĩ ra một vấn đề mới;
hay nhà nghiên cứu thẩm định một vấn đề cũ bằng một
phương pháp mới. Vì thế trước khi theo học tiến sĩ, thí sinh
nên tự mình có cảm hứng giải quyết vấn đề, đã chuẩn bị,
những kì “nặn óc”, động não và những suy nghĩ trừu
tượng, có thích học toán cao cấp không?

423
CHUONG 7: ĐẠO HỌC VIỆT NAM TRƯỚC NHŨNG THÁCH THỨC..

Tính tò mò cao độ. Nghiên cứu đòi hỏi tính tò mò,


nghi ngờ và chắt vá. Có khi nào thí sinh cảm thấy như sị
cưỡng bách để tìm hiểu cho được thế giới chung quanh và
tìm hiểu sự hoạt động hay xảy ra như thế nào?
Thích ứng. Kinh nghiệm người viết bài này cho thấ/,
rất ít thí sinh chuẩn bị cho chương trình học tiến sĩ. Phán
lớn thí sinh cảm thấy bước vào một thế giới mới, một thế
giới mà cái gì cũng có vẻ bất định, và hình như chẳng ũ
biết câu trả lời. Vì thế cần phải tự trả lời mình có khả năng
thích ứng với một môi trường như thế, có chịu đựng nổi
tình huống mà hành trình đi tìm lời giải đáp cho vấn để dù
không ai biết chắc câu hỏi chính xác là gì hay không?
Năng động. Trong chương trình huấn luyện tiến sĩ, thí
sinh không có thi cử như thời cử nhân, việc nghiên cứu cũng
ít khi được phân chia một cách rành rọt. Gs hướng dẫn
không phải lúc nào cũng bên cạnh để chỉ bảo từng việc.
Cạnh tranh. Thí sinh phải chấp nhận cạnh tranh cùng
với các thí sinh khác, không những tại trường mình đnag
nghiên cứu, mà còn cạnh tranh với các thí sinh khác trên
thế giới. Cạnh tranh để hoàn tất nghiên cứu trước, để được
giải thưởng, để được công bố nghiên cứu trước... Một luận
án mà không có một giải thưởng nào hay không có một bài
báo nào trên tập san khoa học thế giới là một luận án tầm
thường.

424
NHO GIÁO - ĐẠO HỌC TRẼN ĐẤT KINH KÌ (THẰNG LONG - OÔNG ĐỔ - HÀ NỘI)

Tính chắn chắn. So với chương trình cử nhân và thạc


sĩ, chương trình tiến sĩ không có cấu trúc chặt chẽ. Thí sinh
có tự do để theo đuổi mục tiêu nghiên cứu của mình đề ra,
tự do hoạch định việc làm hàng ngày cho chính mình, và tự
đo theo đuổi các ý tưởng khác (nhưng không thể bỏ qua
mục tiêu của mình).
Một vài cảnh báo
Một sô' thí sinh theo học tiến sĩ vì những lý do động
cơ sai lầm. Điều này dẫn đến hiện tượng cảm thấy thất
vọng sau một thời gian học, vì yêu cầu lớn quá. Do đó,
trước khi dấn thân vào chương trình học tiến sĩ, thí sinh
phải nhộn thức rõ ràng rằng:
Học vị tiến sĩ không có nghĩa là sẽ tự động đem lại
thanh thế hay uy danh cho cá nhân. Hầu hết thí sinh đã đạt
được văn bằng tiến sĩ đều cảm thấy tự hào vể nỗ lực và kết
quả của việc phấn đấu trong học hành nghiên cứu. Tuy
nhiên phải hiểu rằng khi tốt nghiệp tiến sĩ, mình có thể làm
việc với nhiều nhà khoa học khác cũng có bằng tiến sĩ.
Học vị tiến sĩ mới chỉ là bước đầu vào nghiên cứu khoa
học, nó chẳng đem lại uy danh cho người có học vị nếu
người đó không có công trình nghiên cứu nào có giá trị.
Học vị tiến sĩ không tự động nâng giá trị ý kiến của
thí sinh. Nhiều người cho rằng một khi họ có văn bằng tiến
sĩ trong tay, công chúng tự nhiên sẽ coi trọng ý kiến của
họ. Niềm tin này hoàn toàn sai. Nhiểu người có học vị tiến

425
CHƯƠNG 7: ĐẠO HỌC VIỆT NAM TRUỎC NHŨNG THÁCH THỨC..

S Ĩ CÓ t h ể am h iể u , u y ê n b á c v ề m ộ t l ĩ n h v ự c chuyên môn

hẹp nào đó, nhưng không phải là chuyên gia về mọi vấn đề
khác. Sự kính trọng phải được chứng minh qua hành động
và bản lĩnh của người phát biểu chứ không tự động mà có
được qua danh xưng tiến sĩ.
Học vị tiến sĩ không phải là mục tiêu sau cùng trong
học hành nghiên cứu. Nếu chỉ muốn có mảnh giấy để treo
trên tường thì không nên theo đuổi học vị tiến sĩ. Sau khi
tốt nghiệp tiến sĩ, thí sinh có cơ hội để so sánh thành quả
của mình với các nhà khoa học khác. Thí sinh sẽ nhận thức
rằng cái được tính sổ không phải là danh xưng hay học vị
tiến sĩ, mà là nghiên cứu khoa học do chính mình tiến hành
và hoàn tất.
Học vị tiến sĩ không đảm bảo có công ăn việc làm
ngay. Có khi ngược lại. Tốt nghiệp tiến sĩ khó tìm việc hơn
cử nhân hay thạc sĩ. Một sô' công ty không muốn và không
thích những người với văn bằng tiến sĩ cho nhữngviệc
không dính dáng tới nghiên cứu. Thêm vào đó là một khi
nền kinh tế bị suy yếu, tất cả thành viên trong xã hội đều
chịu chung một sô' phận. Một số công ty giảm thiểu nghiên
cứu trước khi giảm thiểu sản xuất và tình trạng này có thể
là một mối nguy cơ cho những người có văn bằng tiến sĩ.
Học vị tiến sĩ không phải là để gây ấn tượng trong gia
đình hay bạn bè. Văn bằng tiến sĩ chỉ là giấy thông hành
cho nghiên cứu, chứ không phải lấy le vói người thân, bạn

426
NHO GIÁO - ĐẠO HỌC TRÊN ĐẤT KINH KÌ (THẢNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

bè hay xã hội. Không phải lúc nào cũng đòi người khác gọi
mình là ông/bà tiến sĩ.
Học vị tiến sĩ không phải là cái cớ để thí sinh xem
mình thông minh đến cỡ nào. Ngoại trừ dành trọn thì giờ
và dấn thân vào học hành để đõ đạt. Thí sinh sẽ không thể
nào có văn bằng tiến sĩ chỉ vì mình thông minh. Thí sinh
phải làm việc nhiều giờ trong ngày, có khi phải thức đêm
trong phòng thí nghiệm hay thư viện, phải chuẩn bị đương
đầu với những thất bại, phải chuẩn bị động não để học cái
mới và suy nghĩ cái mới.
Học vị tiến sĩ không phải là để kiếm nhiều tiển. Xin
nhác lại; học vị tiến sĩ là đổ trở thành nhà nghiân cứu, nhà
khoa học, và cái quan tâm đầu tiên của nhà khoa học là
thật sự và khám phá cũng đem lại một nguồn tài chính lớn
cho nhà nghiên cứu. Nhưng nói chung, đó không phải là
mục tiêu để theo học tiến sĩ.
Học vị tiến sĩ không có nghĩa là một sự lựa chọn tốt
nhất trong đời. Cống hiến cho xã hội có nhiều cách và
cuộc đời có nhiều lựa chọn. Học vị tiến sĩ chỉ là một trong
hàng trăm lựa chọn đó. Có lẽ thí sinh sẽ ngạc nhiên nhưng
đó là một thực tế. Thật vậy đối với nhiều thí sinh, học vị
tiến sĩ sẽ là một sự nguyền rủa! Thí sinh phải tự hỏi mình
muốn làm một người lãnh đạo trong những người có văn
bằng thạc sĩ, hay là một nhà nghiên cứu tầm thường? Thí
sinh phải biết và tự quyết định mình muốn gì, và nghề

427
CHƯƠNG 7: ĐẠO HỌC VIỆT NAM TRUỐC NHỮNG THÁCH THỨC...

nghịêp nào kích thích mình nhiều nhất hay đem lại hạnh
phúc cho mình nhất”.
Chúng ta hoàn toàn chia sẻ với những gì mà tiến sĩ
Trần VănTuấn đã viết và đưa ra những chỉ dẫn cần thiết
cho các thí sinh, nhưng thực tế cuộc sống là rất đa dạng và
muôn màu sắc. Nếu ai cũng có suy nghĩ như tiến sĩ Trần
Văn Tuấn thì cuộc đời này làm gì còn có những trái ngang,
những điẻu cần phê phán. Sẽ có nhiều người nghĩ như tiến
sĩ nhưng lúc làm thì có lẽ phải ngược lại; vì đó mới là cuộc
sống thời mở cửa, cuộc sống của nền kinh tế thị trường.
Trong buổi tổng kết về công tác đào tạo sau đại học
vừa qua tại Hà Nội, chính Bộ trưởng Bô Giáo dục và Đào
tạo đã nói rằng với hơn 8383 tiến sĩ được đào tạo trong
nước thì có gần 30% số tiến sĩ đó có trình độ yếu kém.
Nhân bàn về chuyện này, trên báo VNExpress đã có một
bài viết vào ngày 6 tháng 1 năm 2006 của Viột Anh với tựa
để: Gần 2500 tiến sĩ có trình độ yếu. Bài báo viết: “Con số
trên được Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Minh
Hiển đưa ra sáng 5/1, tại Hội nghị tuyển sinh sau đại học.
Theo người đứng đầu ngành giáo dục, phần đông những
tiến sĩ này không trực tiếp tham gia giảng dạy, nghiên cứu.
Bằng cấp với họ chỉ để làm đẹp hồ sơ, chỉ để thăng tiến.
Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo thừa nhận những
tiêu cực trong đào tạo sau đại học như sao chép luận án,
chạy điểm, nạn bội thực điểm xuất sắc.... Ngành Giáo dục

428
NHO GIÁO - ĐẠO HỌC TRẼN ĐẤT KINH KÌ (THẲNG LONG - ĐỔNG ĐỔ - HÀ NỘI)

biết thực trạng này và cũng muốn giải quyết ngay số tiến sĩ
không thực chất nhưng rất khó.
Sô' 30% tiến sĩ này có tiếng nói rất trọng lượng, thậm
chí hơn'cả số đông tiến sĩ thực chất. Rồi nhiều thứ quan hệ
khác nữa. Một sô' đồng chí khi nói thì phê phán gay gắt
nhưng khi tham gia hội đồng đánh giá luận án thì lại khá
dễ dãi. Giá các đồng chí ấy làm cũng như nói thì tốt. Ông
Hiển nhận định.
Theo ông để nâng chất lượng đào tạo sau đại học phải
tập trung vào người thầy. Hiện nay chính sách đãi ngộ giáo
sư, tiến sĩ đầu ngành còn chưa thỏa đáng. Đây là nguyên
nhân dẫn đc'n tình trạng thầy thích đi dạy hơn là nghiên
cứu khoa học. Năm 2006, Chính phủ quyết định dành 1%
ngân sách giáo dục cho nghiên cứu khoa học.
“Tại Quốc hội cũng có đại biểu chất vấn tôi là tại sao
trước đây nói khâu đột phá là thứ khác, bây giờ lại nói là
người thầy. Tôi nghĩ trước đây mình chưa nhận thức ra,
bây giờ nhận thức được thì phải sửa ngay. Vừa qua đề cập
tói chính sách cho nhà giáo chúng ta hay đề cập tới giáo
viên mầm non, phổ thông. Hơn 40.000 cán bộ giảng dạy
đại học ít được nhắc đến”, ông Hiển nói.
Để tạo đòn bẩy cho công tác đào tạo sau đại học,
năm 2006, Bộ Giáo dục và Đào tạo đề xuất giao quyền tự
chủ cho các trường,viện, chấm dứt tình trạng hễ có việc,
lãnh đạo các trường lại phải lên Bộ xin ý kiến. Cơ quan

429
CHƯƠNG 7: ĐẠO HỌC VIỆT NAM TRƯỚC NHỮNG THÂCH THÚC..

quản lý nhà nước về giáo dục sẽ tập trung vào công tíc
thanh tra, kiểm tra chất lượng đào tạo, cấp phát văn bằng.
Theo Bộ Giáo dục từ năm 1877 đến nay các cơ sở đio
tạo sau đại học đã đào tạo hơn 8300 tiến sĩ. Trong đó tiến sĩ
thuộc khối khoa học xã hội chiếm 43%, khối khoa học tự
nhiên chiếm 18%, khối khoa học kỹ thuật chỉ có 11%”.
Trên trang Dan tri.com vào ngày 13 tháng 01 năn
2006 có một bài viết của Nguyễn Thế Long, với tựa đé:
Mảnh bằng tiến sĩ là giấy tiến thán. Theo tác giả hiện
nay, “Việt Nam có 1,4 vạn tiến sĩ và 1,6 vạn thạc sĩ, cao
gấp 5 lần Thái Lan và 6 lần với Malaysia. Nhưng trình đô
công nghiệp nói riêng và kinh tế nói chung, chúng ta còn
thua họ tới vài chục năm.
Như vậy thì cái bằng tiến sĩ (TS) và thạc sĩ (ThS) của
nước ta có phản ánh đúng chất lượng người học, có bao
nhiêu phần trăm là người “học giả”?
Chính Bộ trưởng Bộ Giáo dục đưa ra con số rất khiêm
tốn là 30% tiến sĩ có trình độ yếu. Con số này chắc còn rât
xa sự thật nếu có một Hội đồng rà soát lại các luân án tiến
sĩ, nhất là các luận án khoa học xã hội.
Về số liệu những bài viết đăng tải trên các tạp chí
chuyên ngành thế giới và bằng phát minh sáng chế của tiếc
sĩ Việt Nam thì các bài báo nói là thua kém Thái Lar
khoảng 20 lần.

430
NHO GIÁO - ĐẠO HỌC TRÊN ĐẤT KINH KÌ (THẢNG LONG - ĐỔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

Theo sô' liệu mới nhất của UBKH - CN &MT của


Quốc hội Việt Nam có đội ngũ 5 vạn người đang làm trực
tiếp trong 1.102 cơ sở nghiên cứu nhưng nền công nghiệp của
chúng ta “chưa tự làm nổi chiếc đinh vít cho ra đinh vít”.
Đây là chuỵện thật 100%, Cty Canion Việt Nam
không thể tìm một xí nghiệp nào ở Việt Nam để đặt đinh
vít đạt chuẩn ISO.
Sở dĩ có tình trạng nhiều tiến sĩ như vậy mà đất nước
thì vẫn lạc hậu như thế là do người ta coi cái bằng TS như
một cái giấy thông hành để dễ “thăng quan tiến chức”. Và
chức đẻ ra quyển, quyền đẻ ra tiền, đó là cái đích cuối
cùng của khá nhiều luận án tiến sĩ của những “học giả”,
những “TS giấy”. Một số ít qua ở các thành phố đã tốt
nghiệp đại học rồi thì cần cái bằng thạc sĩ và tiến sĩ để tỏ
ra “trí thức”, dễ thăng tiến.
Trong báo cáo thẩm tra của ủy ban Văn hoá, Giáo
dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội, bà
Trần Thị Tâm Đan - Chủ nhiệm UB đã xác nhận:
“Khi có chủ trương tiêu chuẩn hoá cán bộ, công
chức, đã dấy lên một phong trào học tập... Nhưng rất đáng
tiếc, có một bộ phận người lớn đi học với động cơ không
đúng đắn, không học tập nghiêm túc, chỉ cần có tấm bằng
mà không quan tâm tới kiến thức. Vì vậy tình hình học giả
bằng thật, hiện tượng sao chép luận văn thạc sĩ, tiến sĩ xảy
ra không ít.”

431
CHUONG 7: ĐẠO HỌC VIỆT NAM TRUỚC NHỮNG THÁCH THỨC..

“Trong lịch sử nước nhà, chưa bao giờ các dịch vụ


làm luận vãn, luận án lại được quảng cáo xung quanh các
trường đại học như hiện nay...”
Bộ Giáo dục và Đào tạo công bố con số 220 thí sinh
bị đình chỉ trong các kỳ thi cao học vừa qua chỉ là bề nổi
của một sự gian dối đã thấm sâu trong người lớn mấy chục
năm nay. Đầu vào của thạc sĩ thì như vậy mà đầu ra thì
theo Bộ GD-ĐT, luận văn thạc sĩ của một số cơ sở đạt xuất
sắc tới hơn 90%!
Thí sinh chỉ cần “năng đến nhà thầy” thì nhận được
điểm như ý muốn. Chủ đề quá đơn giản, chung chung, chất
lượng “ảo”, bảo vệ xong chỉ xếp xó. Các hội đồng chấm
luận vãn phổ biến cho điểm cao để cùng vui vẻ.
Theo con sô' của Bộ GD-ĐT thì mỗi năm có hàng
ngàn thạc sĩ được cấp bằng; Năm 1998 có 5.388 người;
năm 2001 là 6.500 người, năm 2003 là 11.500 người (lấy
số chẩn), năm 2002, trường Đại hoc Bách Khoa HN cấp
bằng cho khoảng 600 thạc sĩ, trường ĐH Sư phạm HN cấp
450 bằng.
Một TS trưcmg Đại học Nông nghiệp Hà Nội “rất đỗi
tự hào” trong 7 năm đã đào tạo được 306 thạc sĩ, trong đó
91% loại giỏi và xuất sắc (báo KH&ĐS 11/2004). Chính vì
vậy nên các dịch vụ làm luận văn luận án được quảng cáo
rầm rộ xung quanh các trường ĐH như hiện nay, và giá trị
khoa học của những luận vãn, luận án chỉ là con sô' không.

432
NHO GIÁO - ĐẠO HỌC TRÊN ĐẤT KINH KÌ (THẢNG LONG - ĐỔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

Còn về cái bằng tiến sĩ, cũng không phải không có


tình trạng gian dối trong thi nghiên cứu sinh; báo chí gần
đây đã nêu lên ở Viện Khoa học Kỹ thuật nông nghiệp là
một thí dụ.
Sự gian dối phổ biến trong chất lượng các luận án.
Rất nhiều luận án TS không có giá trị thực tiễn, nhiều luận
án khoa học xã hội như Lịch sử hay Triết học sao chép,
xào nấu các luận án, sách vở khác, minh hoạ cho một chủ
trương vô bổ.
Thậm chí không ít trường hợp “ăn cắp đề tài nên chất
lượng rất thấp”(Theo PGS TS Vũ Như Khôi, Viện Nghiên
cứu quân sự Bọ Quốc phòng). Chính vì vậy nôn rất nhiều
luận án đã trùm chăn đắp chiếu trong kho lưu trữ ở thư
viện, khả năng ứng dụng trên đầu ngón tay”... Theo
Nguyễn Thế Long (Viện Nghiên cứu và Phổ biến tri thức
Bách khoa Việt Nam)
Có thể còn có nhiều bài khác viết tương tự như vậy.
Nếu chỉ phê phán thì có phê phán cả ngày. Vấn để là làm
thế nào để đào tạo sau đại học ở Việt Nam có chất lượng
cao?

7.3. ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC 30 NĂM - MỘT CHẶNG


ĐƯỜNG KHÔNG NGẮN
Có một GS, trong cuộc hội nghị tổng kết công tác
đào tạo sau đại học tổ chức tại Trường Đại học Bách Khoa

433
CHUONG 7: ĐẠO HỌC VIỆT NAM TRUỐC NHỮNG THÁCH THỨC...

(Hà Nội) vào đầu năm 2006, đã thẳng thắn nhìn lại công
việc của Bộ Giáo dục và Đào tạo cùng các cơ sở đào tạo
sau đại học trong cả nước gần 30 năm qua, cho rằng, trong
lịch sử nước nhà nếu tính từ 1070 là năm ra đời Văn Miếu
- Quốc Tử Giám và từ 1075 với khoa thi tiến sĩ lần đầu tiên
ở Việt Nam cho đến nay là gần 1000 năm có lẻ, cha ông
chúng ta đã đào tạo được khoảng 9000 tiến sĩ các loại. Còn
chúng ta với gần 30 năm đào tạo chúng ta cũng đã làm
được công việc của gần 1000 năm lịch sử đó là điều đáng
khích lệ. Chúng ta hãy cùng Bộ Giáo dục và Đào tạo nhìn
lại chặng đường này. Từ năm 1976 đến nay các cơ sở đào
tạo sau đại học đã đào tạo được 8383 tiến sĩ và 39.000 thạc
sĩ thuộc tất cả các lĩnh vực khoa học công nghệ, ở hầu hết
các chuyên ngành quan trọng thiết yếu phục vụ cho phát
triển kinh tế - xã hội. Riêng năm 2005 đã cấp 541 bằng
tiến sĩ và 7714 bằng thạc sĩ (trong đó hai Đại học Quốc gia
cấp 56 bằng tiến sĩ và 1387 bằng thạc sĩ).
Chỉ tính riêng đào tạo tiến sĩ trong nước chúng ta đã có
8383 tiến sĩ, được chia thành các giai đoạn đào tạo như sau:
* Giai đoạn 1 - đào tạo Phó tiến sĩ: từ 1977 đến
1998, đào tạo sau đại học trong nước đã tốt nghiệp và cấp
bằng Phó tiến sĩ cho 4278 người. Trong đó Khoa học tự
nhiên 962 người chiếm 22%, Khoa học xã hội (cả kinh tế)
có 1697 người chiếm 40%; Khoa học kỹ thuật có 470
người chiếm 11%; Y, Dược có 675 người chiếm 16%;

434
NHO GIÁO - ĐẠO HỌC TRẼN OẤT KINH KÌ (THĂNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

Nông lâm ngư có 359 người chiếm 8%; Khoa học quân sự
có 115 người chiếm 3%.
* Giai đoạn 2 - đào tạo Tiến sĩ: từ 1999 đến 2005 số
lượng người tốt nghiệp và được cấp bằng tiến sĩ là 4105
người. Trong đó Khoa học tự nhiên có 580 người chiếm
14%; Khoa học xã hội (cả kinh tế) có 1895 người chiếm
46%; Khoa học kỹ thuật có 454 người chiếm 11%; Y, Dược
có 650 người chiếm 16%, Nông lâm ngư có 361 người chiếm
9%; Khoa học quân sự có 165 người chiếm 4%.
Tổng hợp cả 2 giai đoạn đào tạo sau đại học từ 1977
đến 2005 trong cả nước chúng ta đã đào tạo và cấp bằng
Phó tiến sĩ, Tiến sĩ là 8383 người. Trong đó Khoa học tự
nhiên có 1542 người chiếm 18%; Khoa học xã hội (cả kinh
tế) có 3592 người chiếm 43%; Khoa học kỹ thụât có 924
người chiếm 11%; Y, Dược có 1325 người chiếm 16%;
Nông lâm ngư có 720 người chiếm 9%; Khoa học quân sự
có 280 người chiếm 3%.
Đây là thành tích rất đáng khích lệ song cũng để lại
không ít điều tiếng và những dư âm vừa hay vừa chưa hay
trong xã hội.
Điểm lại tình hình công tác đào tạo sau đại học, Bộ
Giáo dục và Đào tạo tự nhận thấy: Công tác tuyển sinh
năm 2005 về cơ bản thực hiện đúng quy chế tuyển sinh sau
đại học, đã tuyển được 15.670 học viên cao học và 1385

435
CHƯONG 7: ĐẠO HỌC VIỆT NAM TRƯỚC NHỮNG THÁCH THỨC..

nghiên cứu sinh. Theo chỉ đạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo,
nhiều trường đại học đã hỗ trợ và thực hiện chương trình
đào tạo nguồn nhân lực có trình độ sau đại học cho các
khu vực khó khăn như Tây Bắc, Tây Nguyên, Đồng bằng
sông Cửu Long và đào tạo giáo viên cho các trường đại
học, cao đẳng mới thành lập.
Đối với đào tạo tiến sĩ, thời gian qua đã bổ sung lực
lượng lớn cho đội ngũ giáo viên các trường đại học, cao
đẳng, các viện nghiên cứu. Rất nhiều cán bộ có trình độ
tiến sĩ được đào tạo trong nước hiện đang giữ các vị trí
quan trọng trong công tác đào tạo, nghiên cứu khoa học,
quản lý kinh tế và xã hội. Nhiều công trình nghiôn cứu của
các đề tài luận án tiến sĩ các ngành Nông nghiệp, Y , Dược
có khả năng ứng dụng cao, góp phần tích cực vào sự phát
triển kinh tế của đất nước.
Số lượng các cơ sở đào tạo sau đại học cũng như quy
mô đào tạo được phát triển và mở rộng, đáp ứng nhu cầu
học tập, đào tạo cán bộ cho các ngành nghề và các địa
phương. Năm 2005 mở thêm 2 cơ sở đào tạo thạc sĩ và 4 cơ
sở đào tạo tiến sĩ. Tổng số cơ sở đào tạo sau đại học trong
cả nước hiện nay là 155 bao gồm 85 trường đại học và học
viện, 70 viện nghiên cứu (trong sô' 127 cơ sở đào tạo tiến
sĩ). Nhiều cơ sở đào tạo có những đề tài nghiên cứu tốt,
chất lượng cao, chú trọng việc đãng tải các bài báo khoa
học trên các tạp chí khoa học chuyên ngành có uy tín trên

436
NHO GIẢO - ĐẠO HỌC TRÊN DÁT KINH KÌ (THẢNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

thế giới và trong nước, hoặc ngay sau khi bảo vệ, kết quả
nghiên cứu của các luận án tiến sĩ được triển khai ứng
dụng rộng rãi trong thực tiễn hoặc được tài trợ in thành
sách.
Các cơ sở đào tạo sau đại học đều rất chú trọng công
tác hợp tác quốc tế và xem đây như một giải pháp hữu hiệu
để nâng cao chất lượng đào tạo. Nãm 2005, hợp tác quốc tế
trong đào tạo sau đại học đã có những bước phát triển
m ới.... Bên cạnh đó, một số cơ sở đào tạo có những
chương trình đào tạo sau đại học liên kết với nước ngoài
trong khuôn khổ một số dự án như: Dự án phát triển giáo
viôn trung học cơ sở, Đề án đào tạo cán bộ kỹ thuật bằng
ngân sách nhà nước... Thông qua những hợp tác này, năng
lực đào tạo và chương trình đào tạo của các cơ sở đã được
cải thiện và nâng cao.
Công tác kết hợp giữa đào tạo và nghiên cứu khoa
học cũng được chú trọng phát triển, nhiều nghiên cứu sinh
tham gia đề tài nghiên cứu các cấp tại cơ sở đào tạo, nhờ
đó chất lượng luận án cũng như tính thực tiễn của đề tài
được nâng cao...
Năm 2005, Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ đạo các cơ sở
đào tạo tiến sĩ chấn chỉnh công tác quản lý nghiên cứu sinh,
công tác tổ chức đánh giá luận án tiến sĩ, tránh phô trương
hình thức; nâng cao yêu cầu về chất lượng của luận án tiến
sĩ thông qua việc công khai trên mạng kết luận mới của luận

437
CHƯƠNG 7: ĐẠO HỌC VIỆT NAM TRUỎC NHŨNG THÁCH THỨC..

án. Phần lớn các cơ sở đào tạo, nhất là các cơ sở đào tạo tiến
sĩ khối ngành kỹ thuật, y, dược đã nghiêm túc thực hiện các
yêu cầu và quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo nhằm chấn
chỉnh và nâng cao hơn nữa chất lượng đào tạo.
Các yếu kém và bất cập tập trung ở các vấn đề chủ
yếu sau:
a. Vê chương trình đào tạo:
Chương trình đào tạo thạc sĩ quy định trong quy chế
đào tạo sau đại học có thời lượng quá lớn (80-100 đơn vị
học trình), xa rời thực tế, không phù hợp vói xu hướng
chung của các nước trong khu vực và của quốc tế. Vì vậy
việc xây dựng chương trình đào tạo thạc sĩ của hầu hết các
cơ sở còn nặng nề, đơn điệu, nặng tính hàn lâm, thiếu năng
động và thực tiễn. Nội dung chương trình còn trùng lặp,
nhắc lại các kiến thức của bậc đại học. Việc bổ sung, chỉnh
sửa, cập nhật kiến thức mới sau từng năm học hay từng kỳ
học hầu như không được thực hiện.
- Chương trình bổ túc ngành nghề chưa thực sự hữu
ích và hiệu quả, còn nặng tính hình thức.
- Nội dung các chuyên đề tiến sĩ còn chưa đáp ứng
được mục tiêu đề ra, chưa đạt được hịêu quả trong việc
nâng cao kiến thức chuyên ngành hẹp, cập nhật cho nghiên
cứu sinh cũng như giúp cho nghiên cứu sinhgiải quyết các
vấn đề của đề tài nghiên cứu.

438
NHO GIÁO - ĐẠO HỌC TRÊN ĐẤT KINH KÌ (THẢNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

b. Về tuyển sinh và tổ chức đào tạo


- Một số cơ sở đào tạo khi tuyển sinh còn chạy theo
số lượng, chưa chú trọng tới chất lượng tuyển chọn. Tổ
chức thi tuyển sinh chưa nghiêm, chưa ngăn chặn được các
hiện tượng vi phạm trong thi cử. Các điều kiện dự tuyển
còn mang tính chất đối phó với quy chế để tuyển đủ chỉ
tiêu mà chưa hướng tói chất lượng thực sự, đặc biệt trong
việc đánh giá công trình đã công bố và đề cương nghiên
cứu của thí sinh.
Việc xác định đề tài nghiên cứu của nghiên cứu sinh
còn bất cập, chưa xuất phát từ yêu cầu phát triển của ngành
khoa học. Chưa có những nhóm của các nhò khoa học đủ
mạnh để có thể xác lập những nhiệm vụ nghiên cứu khoa
học, công nghệ cần thiết cho nghiên cứu và đào tạo nghiên
cứu sinh ở các chuyên ngành. Rất nhiều đề tài của Nghiên
cứu sinh quá rộng, quá chung chung hoặc còn nhỏ hẹp cả
về không gian, thời gian, mức độ khái quát của vấn đề đến
nhịêm vụ đặt ra của đề tài. Nhiều đề tài không hợp lý,
không cụ thể làm chc kết quả nghiên cứu cần đạt được
không rõ ràng.
- Yêu cầu của việc đánh giá một đề cương nghiên cứu
thể hiện trên các mặt giá trị và ý nghĩa khoa học mà đề tài
đặt ra, kiến thức chuyên môn và tổng quan về vấn đề
nghiên cứu của nghiên cứu sinh, sự chuẩn bị đã có của
nghiên cứu sinh, tính khả thi của đề tài và khả nãng thực

439
CHƯƠNG 7: ĐẠO HỌC VIỆT NAM TRUỚC NHỮNG THÁCH THỨC..

hiện của nghiên cứu sinh... Nhưng trên thực tế ở nhiều cơ


sở đào tạo, việc đánh giá thông qua đề cương nghiên cứu
sinh của thí sinh còn hình thức, chưa trở thành một sinh
hoạt nghiêm túc, chưa đáp ứng đúng mục tiêu và yêu cầu.
- Phương pháp dạy - học lạc hậu và chậm đổi mới,
thiếu năng động, sáng tạo. Tinh trạng thầy đọc trò ghi,
thiếu đối thoại, chưa đặt ra các tình huống để thảo luận và
giải quyết... trong giảng dạy thạc sĩ vẫn còn phổ biến, làm
cho môi trường và không khí chung của đào tạo thạc sĩ
thiếu một sức sống mạnh mẽ về khoa học và công nghệ, về
hoạt động nghiên cứu, học tập, đặc biệt đối với lớp đào tạo
buổi tối, đào tạo ngoài trường đại học, đào tạo ở các tỉnh,
các địa phương. Một sô' trường triển khai kế hoạch đào tạo
không khoa học, dạy theo kiểu “cuốn chiếu”, không chú
trọng tới việc tự học, tự nghiên cứu của học viên. Viộc
kiểm tra đánh giá môn học chưa bảo đảm khách quan,
khoa học và chính xác. Chưa chú ý tách riêng quá trình
dạy với quá trình kiểm tra đánh giá.
- Việc phân công người hướng dẫn nghiên cứu sinh còn
chưa bảo đảm về chuyên môn sâu, về sự am hiểu đề tài
nghiên cứu cũng như khả năng định hướng, dẫn dắt nghiên
cứu sinh. Còn có biểu hiện chỉ tập trung vào một số ít các
thầy có vị trí, chức vụ về quản lý, dẫn đến hiện tượng một sô'
thầy hướng dẫn nhiều nghiên cứu sinh, một sô' thầy lại không
có nghiên cứu sinh để hướng dẫn, mặc dù chuyên môn, năng
lực và các tiêu chuẩn khác hoàn toàn có thể đáp ứng.

440
NHO GIÁO - ĐẠO HỌC TRÊN ĐẤT KINH KÌ (THẢNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

- Hoạt động chuyên môn trong đào tạo nghiên cứu


sinh là vấn đề bức xúc nhất trong đào tạo tiến sĩ hiện nay
của nhiều ngành đào tạo, đặc biệt là ngành kinh tế, khoa
học xã hội nhân văn. Khá nhiều nghiên cứu sinh hầu như
không có mặt tại cơ sở đào tạo, không tham gia các hoạt
động giảng dạy, nghiên cứu, sinh hoạt chuyên môn, học
thuật của bộ môn. Không có sự kiểm soát, đánh giá thường
xuyên về tiến độ thực hiện đề tài, khả năng thực thi luận
án, kế hoạch nghiên cứu và triển vọng của đề tài để có cơ
sở phân loại hay sàng lọc nghiên cứu sinh trong quá trình
đào tạo. Do đó việc hoàn thành luận án, bảo vệ luận án
mang nặng tính hành chính, mất đi tính học thuật cần thiết.
Đây là khâu quan trọng nhất quyết định chất lượng của
một luận án tiến sĩ nhưng hầu như bị thả nổi.
- Việc công bố kết quả nghiên cứu của nghiên cứu
sinh chưa được chú trọng đúng mức. Hầu hết các cơ sở đào
tạo chưa quy định tạp chí mà nghiên cứu sinh phải công bố
kết quả nghiên cứu của mình nên nghiên cứu sinh thường
gửi bài đăng ở những tạp chí dễ dãi, không phải là tạp chí
khoa học chuyên ngành, không được phản biện đúng với
yêu cầu đối với một bài báo khoa học, nội dung sơ sài,
thậm chí hình thức trình bày cũng không đảm bảo các yêu
cầu tối thiểu của một bài báo khoa học như không có tài
liệu tham khảo, không có tóm tắt. Đa số luận án thuộc lĩnh
vực kinh tế, quản lý, chính trị, tâm lý - giáo dục có những

441
CHUONG 7: ĐẠO HỌC VIỆT NAM TRUÒC NHỮNG THÁCH THỨC..

kết luận, giải pháp chung chung, không bao giờ sai nhưng
cũng không có gì mới.
- Việc thành lập hội đồng đánh giá luận văn, luận án
chưa thật chú trọng tới chất lượng chuyên môn của thành
viên hội đồng như chuyên môn sâu, sự am hiểu sâu sắc vấn
đề nghiên cứu, tính thời sự và khả năng hoạt động nghiên
cứu hiện tại. Một số hội đồng thường tập trung vào một sô'
người quen thuộc, ôn hoà, mềm mỏng, tránh các thầy có
“góc cạnh” hay “nhiều ý kiến”, khiến cho buổi bảo vệ luận
văn, luận án trở nên hình thức, không đánh giá đúng thực
chất của luận văn, luận án.
c. Về đội ngũ giảng viên
Yếu kém lớn nhất của đội ngũ giảng viên chúng ta là
một số giảng viên thiếu khả năng và thực tiễn hoạt động
nghiên cứu khoa học, chưa thường xuyên tiếp cận với
những kiến thức chuyên môn mới, hiện đại. Điểu này đã
ảnh hưởng rõ rệt đến chất lượng chuyên môn trong giảng
dạy, đặc biệt trong hướng dẫn học viên và nghiên cứu sinh
thực hiện đề tài luận án.
Còn nhiều giảng viên có học vị nhưng chưa đáp ứng
được yêu cầu của giảng dạy sau đại học do chưa thường
xuyên trau dồi nâng cao trình độ chuyên môn, thiếu ngoại
ngữ để nâng cao và cập nhật kiến thức, không sử dụng
được công nghệ hiện đại để đổi mói phương pháp dạy và
học, chưa áp dụng kỹ thuật kiểm tra đánh giá tiên tiến.

442
NHO GIÁO - ĐẠO HỌC TRÊN ĐẤT KINH KÌ (THẢNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

Nhiều nơi nhiều lúc còn có những biểu hiện chưa làm tròn
trách nhiệm chuyên môn trong giảng dạy, đánh giá, cho
điểm...
Bên cạnh đó, còn có những cơ sở đào tạo sau đại học
có đội ngũ giảng viên vừa thiếu vể số lượng vừa yếu về
chuyên môn nhưng lại chưa có quy hoạch kế hoạch đào tạo
bồi dưỡng nâng cao trình độ và năng lực chuyên môn cho
giảng viên hoặc chưa có chính sách sử dụng phù hợp khiến
cho nhiều giảng viên sau khi được đào tạo lại chuyển đi
nơi khác...
d. Công tác quản lý sau đại học ở các cấp còn rất
nhiều bất cập
- Ở cấp quản lý nhà nước thiếu những chính sách cần
thiết để tạo sự chủ động cho cơ sở, nhiều khâu của quá
trình đào tạo còn tập trung ở cấp Bộ tạo nên sự trì trệ, kém
năng động và hiệu quả. Chính sách tài chính cho đào tạo
sau đại học quá lạc hậu, không kịp thời điều chỉnh. Kinh
phí quá ít và hạn chế, không đủ để trang trải những chi phí
đào tạo thường xuyên, để đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất,
trang thiết bị phục vụ đào tạo. Điều đó ảnh hưởng lớn đến
chất lượng và môi trường đào tạo sau đại học.. Công tác
kiểm tra, thanh tra hoạt động đào tạo sau đại học chưa
thường xuyên; các sai phạm không được xử lý dứt điểm và
kiên quyết.

443
CHƯƠNG 7: ĐẠO HỌC VIỆT NAM TRƯỎC NHỮNG THÁCH THỨC..

- Ở Cấp C ơ SỞ: thiếu chủ động, năng động, sáng tạo và


tự quyết, đặc biệt trong việc thực hiện các quyền đã được
giao. Công tác quản lý còn mang nặng tính hình thức, hành
chính sự vụ. Các cơ sở nói chung thiếu một đội ngũ cán bộ
quản lý chuyên trách tinh thông quy chế và nghiệp vụ, chủ
động và tận tâm với nghề quản lý, đặc biệt nhiều viện
nghiên cứu không có phòng chuyên trách và cán bộ quản
lý sau đại học thường thay đổi.
- Hoạt động dạy và học trong đào tạo thạc sĩ, hoạt
động nghiên cứu, công bố kết quả nghiên cứu trong đào tạo
tiến sĩ còn mang nặng tính hành chính, đối phó với quy chế,
chưa coi quy chế là một định hướng, khung hành lang pháp
lý để hoạt động chuyên môn, học thuật. Công tác báo cáo
tuyển sinh, báo cáo đào tạo, báo cáo đề nghị chỉ tiêu tuyển
mới hàng năm của các cơ sở chưa đầy đủ và đúng hạn.
Vai trò quản lý của Khoa/ Bộ môn chuyên ngành còn
mờ nhạt, chưa thể hiện vai trò chủ đạo và quyết định trong
việc thực hiện các nhiệm vụ chuyên môn như quy định nội
dung đào tạo, đổi mới và cập nhật chương trình, yêu cầu và
quy định để nâng cao chất lượng đào tạo, thực hiện kiểm
tra đánh giá trong quá trình đào tạo, tổ chức và duy trì các
sinh hoạt khoa học mạnh, thực hiện quản lý và đánh giá
định kỳ nghiên cứu sinh.
Nguyên nhân cơ bản của những yếu kém, bất cập là
do công tác quản lý mang tính quản lý tập trung và xơ

444
NHO GIÁO - ĐẠO HỌC TRÊN ĐẤT KINH KÌ (THẢNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

cứng, các Cơ SỞ đào tạo không được chủ động, không đủ


nguồn lực và động cơ để cải tiến đào tạo; chế độ thù lao
cho giảng viên chưa thoả đáng làm giảm động cơ và khả
năng đầu tư thời gian cho các hoạt động nghiên cứu khoa
học và phát triển chuyên môn”5.
Để kỷ niệm 30 năm đào tạo sau đại học trong nước
(1976-2006), cũng như Luật Giáo dục năm 2005 có hịêu
lực và Nghị quyết của Chính phủ về đổi mới cơ bản và toàn
diện giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006-2020, đã
đặt ra những yêu cầu mới trước những thách thức của nền
kinh tế thị trường, quá trình phải hội nhập khu vực và quốc
tế trong đào tạo; vì vậy công tác đào tạo sau đại học thòi
gian tới phải có những đổi mới mạnh mẽ nhằm nâng cao
chất lượng đào tạo để có thể đáp ứng những yêu cầu trên.
1. Quan điểm chỉ đạo.
- Giáo dục sau đại học phải thực hiện sứ mệnh đào
tạo nguồn nhân lực có kiến thức, kỹ năng, trình độ và chất
lượng cao cho các ngành nghề, các thành phần kinh tế
thuộc tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội.
- Giáo dục sau đại học phải gắn kết chặt chẽ và trực
tiếp góp phần vào việc phát triển kinh tế xã hội, đẩy mạnh
tiến bỏ khoa học kỹ thuật, củng cố quốc phòng, an ninh,
đáp ứng nhu cầu học tập của nhân dân.

5 Bộ Giáo dục và Đào tạo: Báo cáo tổng kết công tác đào tạo sau đại học năm
2005 - Hà Nội tháng L 2006.

445
CHUONG 7: ĐẠO HỌC VIỆT NAM TRUỎC NHŨNG THÁCH THỨC..

- Giáo.dục sau đại học phải thực hiện quá trình hiện
đại hoá hệ thống, đổi mới tư duy, làm cho từng cơ sở đào
tạo sau đại học và toàn hệ thống giáo dục sau đại học được
nâng cao, phù hợp và tiếp cận nhanh với xu thế phát triển
giáo dục đại học của các nước phát triển.
- Đổi mới quản lý theo hướng nâng cao tính tự chủ và
trách nhiệm xã hội, nâng cao năng lực cạnh tranh của từng
cơ sở đào tạo sau đại học và toàn hệ thống giáo dục đại
học; phân định rõ chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước
trong giáo dục sau đại học.
- Giáo dục sau đại học phải thực hiện đổi mới từ mục
tiêu, quy trình nội dung đến phương pháp. Giải quyết tốt
mối quan hệ giữa nâng cao chất lượng và mở rộng quy mô,
giữa giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Phát huy vai trò
chủ thể, vai trò nòng cốt của đội ngũ giáo viên, cán bộ
quản lý, các nhà khoa học.
2. Những vấn đề cụ thể trong giáo dục sau đại học
thời gian tới.
- Xây dựng kế hoạch tổng thể mang tính chiến lược
về phát triển giáo dục sau đại học Việt Nam từ 2006-2020
theo tinh thần của Nghị quyết 14 của Chính phủ vể Đổi
mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học Việt Nam giai
đoạn 2006 - 2020.
- Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật sau khi
Luật Giáo dục 2005 có hiệu lực. Hướng dẫn tập huấn để

446
NHO GIÁO - ĐẠO HỌC TRẼN ĐẤT KINH KÌ (THẢNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

cá c Cơ SỞ đào tiến sĩ được giao nhiệm vụ cấp bằng tiến sĩ


thực hiện được nhiệm vụ này.
- Tăng cường công tác nghiên cứu khoa học trong
đào tạo sau đại học. Xây dựng kế hoạch chi tiết để thực
hiện nhiệm vụ nghiên cứu khoa học trong các chương trình
đào tạo sau đại học khi được nhà nước dành 1% ngân sách
hàng năm cho nghiên cứu khoa học của các trường đại học.
- Xây dựng các tiêu chuẩn cụ thể đối vói giảng viên
sau đại học và đảm bảo đội ngũ giảng viên sau đại học đủ
về số lượng và đúng vể tiêu chuẩn.
3. Một s ố giải pháp
- Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành quy chế đào tạo
thạc sĩ và quy chế đào tạo tiến sĩ sau khi Luật Giáo dục
2005 có hiệu lực. Đây là những quy chế khung, quy định
các điều kiện tối thiểu và tạo hành lang pháp lý cho hoạt
động đào tạo sau đại học. Các cơ sở đào tạo căn cứ vào đó
để xây dựng quy định cụ thể, phù hợp với điều kiện riêng
của cơ sở mình và từng chuyên ngành đào tạo, với mục
đích đảm bảo chất lượng đào tạo ở mức cao nhất và chịu
trách nhiệm xã hội đối với kết quả đào tạo của mình. Đây
cũng là căn cứ để kiểm tra và thanh tra hoạt động của các
cơ sở đào tạo.
- Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra xử lý kiên
quyết các vi phạm. Xiết chặt hơn nữa công tác quản lý đào

447
CHƯONG 7: ĐẠO HỌC VIỆT NAM TRUỚC NHỮNG THÁCH THỨC..

tạo trình độ tiến sĩ theo tiến độ thực hiện để tài, theo định
kỳ tham vấn giữa NCS với giáo viên hướng dẫn và báo cáo
kết quả nghiên cứu với bộ môn chuyên môn.
- Các cơ sở đào tạo phải đổi mới cách quản lý chương
trình, nội dung, kiểm tra đánh giá của cơ sở mình. Cần xây
dựng quy định chi tiết về đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ trên cơ sở
quy chế của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Trong đó nêu rõ yêu
cầu về chất lượng đào tạo của chuyên ngành và của cơ sở
mình. Cần chuẩn bị các điều kiện về đội ngũ quản lý, về cơ
sở phục vụ đào tạo để có thể nhanh chóng chuyển từ đào
tạo theo học phần sang đào tạo theo tín chỉ.
- Bộ Giáo đục và Đào tạo cần xây dựng các tiôu
chuẩn của giảng viên sau đại học. Chỉ đạo các cơ sở đào
tạo sau đại học tăng cường công tác hợp tác quốc tế trong
nghiên cứu khoa học và đào tạo sau đại học với các trường
tiên tiến nước ngoài. Sử dụng để án 322 để đào tạo đội ngũ
cán bộ đầu ngành cho các trường, viện và tạo điều kiện để
giảng viên dạy sau đại học có cơ hội đi íhực tập, khảo sát
và nghiên cứu ở nước ngoài.
- Các cơ sở cần lựa chọn các giảng viên giỏi, có đủ
năng lực về chuyên môn, về phương pháp sư phạm và
nghiên cứu để tham gia giảng dạy sau đại học. Xây dựng
định mức thù lao cho giờ giảng, giờ hướng dẫn cho phù
hợp. Khuyến khích sử dụng các giảng viên trẻ, được đào
tạo ở nước ngoài, có trình độ chuyên môn và ngọai ngữ tốt

448
NHO GIÁO - ĐẠO HỌC TRẼN ĐẮT KINH KÌ (THĂNG LONG - ĐỔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

tham gia giảng dạy (hoặc trợ giảng nếu họ chưa có học vị
tiến sĩ). Đảm bảo đủ số lượng giảng viên có chất lượng cho
đào tạo sau đại học.
- Trong quy chế đào tạo, Bộ Giáo dục và Đào tạo quy
định khối lượng tối thiểu về sô' môn học, thời lượng
chương trình và yêu cầu xây dựng chương trình đào tạo
thạc sĩ, tiến sĩ theo hướng tiên tiến, phù hợp với phần lớn
các chương trình đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ của các nước.
- Các cơ sở đào tạo phải chịu trách nhiệm xây dựng
chương trình đào tạo, đảm bảo thường xuyên cập nhật, bổ
sung, hiện đại hoá chương trình và nội dung đào tạo. Thời
lượng lên lớp phải giảm bớt và tăng cường thời gian tự học,
tự nghiên cứu.
- Việc xây dựng các môn học phải được tham khảo từ
các chương trình của các trường tiên tiến, các nguồn tư liệu
giáo dục mở trên mạng Internet. Công việc này cần được
quy định cụ thể trong nhiệm vụ của các bộ môn và trong
văn bản quy định về đào tạo sau đại học của cơ sở đào tạo.
- Về tuyển sinh: * Đối với đào tạo thạc sĩ vẫn giữ
nguyên các quy định như cách thức thi tuyển hiện nay.
Nhưng cần nâng cao chất lượng tuyển chọn, thể hiện qua
việc tổ chức thi cử, thanh tra thi...
* Đối với đào tạo tiến
tuyển chọn các đối tượng cần đào tạo nhằm phục vụ cho sự
nghiệp phát triển khoa học - công nghệ, phát triển giáo

449
CHUONG 7: ĐẠO HỌC VIỆT NAM TRUỚC NHỮNG THÁCH THỨC..

dục đại học như nghiên cứu viên, cán bộ nghiên cứu, quy
hoạch chính sách, giảng viên các trường đại học cao đẳng.
Vì vậy trong tuyển chọn nghiên cứu sinh, Bộ Giáo dục và
Đào tạo chỉ quy định các điều kiện tối thiểu, các cơ sở đào
tạo phải quy định cụ thể các yêu cầu, điều kiện, cách thức
tuyển chọn, trong đó tập trung vào việc xem xét đề cương
nghiên cứu của thí sinh, đánh giá năng lực và chuẩn bị của
thí sinh, khả năng tiếp cận vấn đề và giải quyết đề tài, ý
nghiã và triển vọng của đề tài nghiên cứu6.
Ngày 02 tháng 11 năm 2005, Thủ tướng Phan Vãn
Khải đã ký Nghị quyết số 14/2005/NQ-CP “Về đổi mới cơ
bản và toàn diện giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn
2006-2020”. Quan điểm chỉ đạo của Chính phủ là gắn kết
chặt chẽ đổi mới giáo dục đại học vói chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, nhu cầu
nhân lực trình độ cao của đất nước và xu thế phát triển của
khoa học và công nghệ.............. Đổi mới giáo dục đại học
là sự nghiệp của toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng và sư
quản lý của nhà nước. Nhà nước tăng cường đầu tư cho
giáo dục đại học, đồng thời đẩy mạnh xã hội hoá, tạo điều
kiện thuận lợi về cơ chế chính sách để các tổ chức; cá nhân
và toàn xã hội tham gia phát triển giáo dục đại học”7.

6 Bộ Giáo dục và Đào tạo: tài liệu dã dẫn, tr: 10


7 Bộ Giáo dục và Đào tạo: Đề án Đổi mới giáo dục dại học Viột Nam giai
đoạn 2006-2020 - Hà Nội 2005, Phần toàn văn Nghị quýết Chính phủ.

450
NHO GIÁO - ĐẠO HỌC TRẼN ĐẤT KINH KÌ (THẢNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

Trong phần mục tiêu của Nghị quyết đã nêu rõ: “Mở
rộng quy mô đào tạo, đạt tỷ lệ 200 sinh viên/ 1 vạn dân vào
năm 2010 và 450 sinh viên/ 1 vạn dân vào năm 2020, trong
đó 70-80% tổng số sinh viên theo học các chương trình
nghề nghiệp - ứng dụng và khoảng 40% tổng sô' sinh viên
thuộc các cơ sở giáo dục đại học ngoài công lập”.
Trong phần các nhiệm vụ và giải pháp đổi mới, Nghị
quyết đã đưa ra một loạt vấn đề như: Đổi mới cơ cấu đào
tạo và hoàn thịên mạng lưới cơ sở giáo dục đại học; Đổi
mới nội dung, phương pháp và quy trình đào tạo; Đổi mới
công tác quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng giảng
viên và cán hộ quản lý; Đổi mới tổ chức triển khai các hoạt
động khoa học và công nghệ; Đổi mới việc huy động
nguồn lực và cơ chế tài chính; Đổi mới cơ chế quản lý và
Về hội nhập quốc tế ...
Trong mục b. Đổi mới nội dung, phương pháp và quy
trình đào tạo, có một phần liên quan tới đào tạo sau đại học
như sau: “Chấn chỉnh công tác tổ chức đào tạo, đổi mới nội
dung, phương pháp đào tạo để nâng cao chất lượng đào tạo
thạc sĩ, tiến sĩ”8.
Trong mục e. Đổi mới cơ chế quản lý, Nghị quyết
viết: “Xoá bỏ cơ chế Bộ chủ quản, xây dựng cơ chế đại
diện sở hữu nhà nước đối với các cơ sở giáo dục đại học

* Bộ Giáo dục và Đào tạo: Đề án ... đã dản.

451
CHƯƠNG 7: ĐẠO HỌC VIỆT NAM TRUỎC NHỮNG THÁCH THÚC..

công lập. Bảo đảm vai trò kiểm tra, giám sát của cộng
đồng; phát huy vai trò của các đoàn thể, tổ chức quần
chúng, đặc biột là các hội nghề nghiệp trong việc giám sát
chất lượng giáo dục đại học”. Hoặc: “Xây dựng Luật giáo
dục đại học”....
Về Hội nhập quốc tế, Nghị quyết nhấn mạnh:
Xây dựng chiến lược hội nhập quốc tế, nâng cao
năng lực hợp tác và sức cạnh tranh của giáo dục đại học
Việt Nam thực hiện các hiệp định và cam kết quốc tế.
- Triển khai việc dạy và học bằng tiếng nước ngoài,
trước mắt là bằng tiếng Anh; nâng cao chất lượng các
chương trình đào tạo và nghiên cứu có khả nàng thu hút
người nước ngoài; tiếp thu có chọn lọc các chương trình đào
tạo tiên tiến của thế giới; đạt được thoả thuận về tương
đương văn bằng, chương trình đào tạo với các cơ sở giáo
dục đại học trên thế giói; khuyến khích các hình thức liên
kết đào tạo chất lượng cao, trao đổi giảng viên, chuyên gia
vói nước ngoài; khuyến khích giảng viên là người Viột Nam
ở nước ngoài tham gia giảng dạy tại Việt Nam; tăng số
lượng lưu học sinh nước ngoài tại Viột Nam. Khuyến khích
du học tại chỗ; có cơ chế tư vấn và quản lý thích hợp để
giúp sinh viên Việt Nam du học định hướng ngành nghề,
lựa chọn trường và học tập có chất lượng, đạt hiệu quả cao.
- Tạo cơ chế và điểu kiện thuận lợi để các nhà đầu tư,
các cơ sở giáo dục đại học có uy tín trên thế giới mở cơ sở

452
NHO GIÁO - ĐẠO HỌC TRÊN ĐẤT KINH KÌ (THẰNG LONG - ĐỎNG ĐÔ - HÀ NỘI)

giáo dục đại học quốc tê tại Việt Nam hoặc liên kết đào tạo
vói các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam”9.
*

* *

Như vậy là dưới sự lãnh đạo của Nhà nước, Chính


phủ và Bộ Giáo dục và Đào tạo, các cơ quan chức năng
liên Bộ cùng các cơ sở đào tạo đại học và sau đại học ở
Việt Nam đã có những chính sách chỉ đạo như Nghị quyết
trên thực thi nhiệm vụ của mình. Chúng tôi tin rằng, sau 30
năm đào tạo sau đại học trong nước, sau 20 năm đổi mới
của đất nước, ngành giáo dục nói chung, giáo dục đại học
và sau đại học nói rieng sẽ có những bưóc tiến mới quan
trọng nhằm hoàn thành nhiệm vụ mà Nhà nước và Chính
phủ đã nêu trên.

9 Bộ Giáodục và Đào tạo: Để án ... đã dẫn.

453
NHO GIẢO - ĐẠO HỌC TRẼN ĐÁT KINH KÌ (THẢNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

Chương ỵ m
Đạo học Việt Nam -
Truyền thống, quê hương,dòng họ
"Một đi có trở lại?"

8.1. NHẠT NHOÀ DÂU ẤN TRUYỂN t h ố n g 226


Trong thời gian gần đây, giáo dục nhất là giáo dục
đại học và trên đại học đã có những bước tiến mới. Sô'
người tham gia thi mỗi ngày một đông chứng tỏ nền kinh
tế của mỗi nhà, của cả nước ngày càng tăng trưởng lớn
mạnh. Đi liền với tăng trưởng kinh tế vấn đề tâm linh cũng
được mọi người quan tâm sâu sắc. Gần đây, thành phố Hà
Nội cũng như ở một vài địa phương khác trong cả nước bắt
đầu có những hình thức tôn vinh sự học hành. Các buổi lễ
trao thưởng cho các thủ khoa được tổ chức tại Văn Miếu
thu hút sự quan tâm của mọi người. Gần đây có nhiều buổi
lễ trao giải thưởng, trao bằng học vị cao cũng như danh
hiôu Giáo sư, Phó giáo sư cho nhiều nhà giáo, nhà khoa
học được tổ chức tại Văn Miếu đã làm cho di tích này sôi
động hẳn lên.

455
CHUƠNG 8: ĐẠO HỌC VIỆT NAM TRUYỂN THỐNG. QUÊ HƯONG. DÒNG HỌ...

Thế rồi không rõ tự lúc nào, cứ đến mùa thi đại học
hoặc thậm chí dưới đại học, các học sinh cùng phụ huynh
nô nức kéo nhau tới Văn Miếu Hà Nội - Một di tích lịch sử
văn hoá và du lịch của thủ đô thành nơi tưởng niệm những
người học hành thi đỗ. Mọi người đưa con em mình đến
đây để thắp hương cầu mong đức Khổng Tử cùng các đệ tử
của Ngài và các văn thần Việt Nam như Chu Văn An,
Trương Hán Siêu, Lê Quát... phù hộ chở che cho họ thi đỗ
vào đại học, thi đỗ vào các trường phổ th ô n g .... Con số
người tới Văn Miếu mỗi người một nhiểu hơn. Chúng tôi
được biết rằng, vào mùa thi đại học, cao đẳng năm 2005,
những ngày trước khi thi có tới hàng ngàn người tới Vân
Miếu thắp hương, thậm chí chỉ một ngày cao điểm đầu
tháng 7 năm 2005 có tới hơn 10.000 người vào Văn Miếu.
Nhu cầu tâm linh và tưởng niệm những người học hành thi
đỗ là ý nguyện tốt của mọi người, cũng là nhu cầu tinh
thần tất yếu của con người. Chúng tôi còn biết thêm rằng,
ở những nơi không có điểu kiện ra Văn Miếu - Hà Nội thì
mọi người trước khi con đi thi họ ra đình, đền, chùa để
thắp hương cầu mong Phật và các Thần linh, linh thiêng
phù hộ cho con cháu họ vượt qua kỳ thi tuyển này. Vì sao
chúng ta chưa có những điểm quy định hay đúng hơn là vì
sao chúng ta chưa có những khu vực riêng dành cho sự tôn
vinh những người học hành thi đõ?

456
NHO GIÁO - ĐẠO HỌC TRÊN ĐẤT KINH KÌ (THẢNG LONG - ĐỔNG ĐỔ - HÀ NỘI)

Trong lịch sử nước nhà, cha ông chúng ta đã có nhiều


hình thức tôn vinh người đi học, song lâu rồi chúng ta đã
bỏ qua những hình thức như vậy. Hiện nay, có nhiều khu
vực tôn vinh người học chỉ còn lại trên văn bia giấy tò,
hoặc nếu còn cũng chỉ mang tính truyền thống mà chưa
thật sự phát huy giá trị của nó.
8.1.1. Văn Miếu và Văn chỉ ở một số đia phương
8.1.1.1. Văn Miếu hàng tỉnh
Vào thời Lê và nhất là vào thời Nguyễn sau này, nhà
nước phong kiến có những chủ trương khuyến khích mọi
người học hành thi cử để làm quan, do vậy mà việc học
hànli giáo dục của nước ta có những bước phát triển. Ngoài
Văn Miếu hay đúng hơn là Khổng Miếu đặt tại Hà Nội, tại
nhiều tỉnh chúng ta cũng thấy có những Văn Miếu hàng
tỉnh, trước là thờ Khổng Tử, sau nữa là ghi tên và tuyên
dương công lao học hành làm quan của những con người
thành đạt cho mọi người trong tỉnh được biết. Có thể nói
chắc chắn rằng mỗi tỉnh có một Miếu thờ Khổng Tử hàng
tỉnh hay chúng ta gọi là Văn Miếu hàng tỉnh.
Hiện tại có nhiều tỉnh vùng đồng bằng Bắc bộ còn
lưu giữ được loại hình di tích này như Văn Miếu tỉnh Sơn
Tây, Văn Miếu tỉnh Hải Dương, Văn Miếu tỉnh Bắc Ninh...
Trong những Văn Miếu này ngoài thờ Khổng Tử, chúng ta
còn thấy nhiều tấm bia nói về sự học của các nhà Nho và
tên những người đỗ đạt trong tỉnh.

457
CHUƠNG 8: ĐẠO HỌC VIỆT NAM TRUYỂN th ố n g , q u ẽ HƯONG, d ò n g h ọ ...

Về kiến trúc chúng ta phải thấy rằng Văn Miếu Sơn


Tây là có quy mô khá giống với Vãn Miếu Hà Nội, song
nếu bia đá mà phong phú chúng ta phải nói đến Văn Miếu
Bắc Ninh. Theo công bô' của các nhà nghiên cứu thì tại
Văn Miếu tỉnh Bắc Ninh có tới hơn 100 tấm bia. Phải nói
đó cũng là một rừng bia không hề kém Văn Miếu Hà Nội.
Những tấm bia này đã cho thấy sự phong phú cũng như sự
thịnh đạt văn hiến của xứ Kinh Bắc xưa kia.
Khi giới thiệu về một Văn Miếu hàng tỉnh cụ thể,
chúng tôi xin trích giới thiệu Văn Miếu tỉnh Hưng Yên.
Văn Miếu Hưng Yên còn gọi là Văn Miếu Xích Đằng
mang tên địa phương đặt đển thờ Khổng Tử và các nhà
Nho. Sở đĩ chúng tôi chọn giới thiệu Văn Miếu này vì đây
cũng là đất kinh kỳ vốn nổi tiếng với Phố Hiến trong lịch
sử Việt Nam. Ca dao cổ có câu:
“Thứ nhất kinh kỳ thứ nhì phố Hiến”
Và quả thật đất Hưng Yên cũng vốn là đất làng văn
hiến không hề thua kém tỉnh Bấc Ninh.
Văn Miếu Hưng Yên được dựng trên đất làng Xích
Đằng thuộc thị xã Hưng Yên nằm trong khu vực Phố Hiến
hay Hiến Nam ngày xưa. Văn Miếu Xích Đằng có quy mô
kiến trúc gần với Văn Miếu Hà Nội, sau này khi phố Hiến
hoang phế đi thì Văn Miếu hay đền thờ Khổng Miếu tỉnh
Hưng Yên cũng lụi tàn tuy rằng chúng đã được tu sửa
nhiều lần.

458
NHO G IÁ O - Đ Ạ O H Ọ C TRÊN Đ Ấ T KINH KÌ (TH ĂN G LO N G - Đ Ô N G Đ Ô - H À N Ộ I)

Đầu tiên là tam quan. Tam quan Vãn Miếu Xích


Đằng được làm 3 tầng có hình hài giống với tam quan Vãn
Miếu Hà Nội. Đúng ra thì 3 cửa chính như vậy là đủ song
chưa rõ vì sao mà tam quan này chỉ mang chức năng như
một cổng chính. Ngoài ra các cụ xưa cho xây thêm 2 cổng
Tả và Hữu ở 2 bên.
Qua tam quan là sân gạch. Qua sân gạch là đền thờ
Khổng Tử
Kết cấu đền thờ bên trong theo kiểu chữ nhị. Trước
tiên là nhà Tiền tế. Sau là Hậu cung - nơi thờ Thánh Khổng
cùng Tứ phối. Những toà nhà này xây theo lối cổ với mái
công và những đấu đao nâng cao mái càng cao hơn. Bôn
trong chúng tôi thấy có nhiều ban thờ nhưng trang trọng
nhất là ban giữa nơi đặt bài vị thánh sư. Hai bên thờ các vị
tiên hiền.
Hiện tại Vãn miếu Hưng Yên đang được tu sửa lại,
nhưng những tấm bia vẫn đang nằm bẹp dưới nền nhà. Có
những tấm bia đã vỡ làm nhiều mảnh. E rằng nếu không có
những biện pháp hữu hiệu thì những tấm bia này sẽ mai
một đi nhiều.
8.1.2. Ván Miếu miền Trung
Hội An là một đô thị cổ thu hút hàng năm có tới hàng
trăm ngàn khách du lịch tới tham quan. Chúng tôi cũng có
mặt trong những dòng người đó.

459
C H U O N G 8 : Đ Ạ O H Ọ C VIỆT NAM TRUYỀN t h ố n g , q u ê H U O N G. d ò n g h ọ ...

Một lần tình cờ tôi đọc được dòng chữ "Văn Thánh
Miếu" - Miếu thờ thánh Vãn hay gọi tắt là Vãn Miếu; đích
thị đây là một di tích thờ Khổng Tử. Anh Chung cán bộ
phòng Văn hoá Thông tin Hội An, nói với tôi đó là di tích
thờ Khổng Tử. Song thật bất ngờ, có một người ông già
Hội An đã đứng tuổi, đang đi xe dừng lại và nói với tôi
rằng trong đó không phải thờ Khổng Tử mà là thờ các Tiên
Hiền. Thờ các tiên hiền ở đây lại chính là thành hoàng
giống như các ngôi đình làng ngoài Bắc. Còn một số người
khác gọi đó là chùa. Thật không hiểu ra làm sao nữa?
Dần dà tôi chợt hiểu ra rằng không rõ tự bao giờ,
người Hội An hễ trông thấy các kiến trúc tín ngưỡng thì
đều gọi là chùa do vậy mới có một lô các địa danh như:
chợ chùa, chùa cầu, chùa này, chùa kia... mà thực ra chức
năng của nó chưa hẳn là như vậy. Chùa Cầu, tên gọi quen
thuộc của chiếc cầu Nhật Bản bắc qua một dòng kênh nối
Trần Phú với các phô' phía trước mà tên chữ của nó là "Lai
Viễn Kiều". Sử cũ còn chép rằng: “Cầu Lai Viễn ở xã cẩm
Phố về phía tây phố Hội An huyện Diên Phước, nước khe
chảy về phía nam đổ vào sông Cái, cầu bắc ở trên. Tương
truyền cầu này do người khách buôn Nhật Bản bắc, dưới
cầu xây đá, trên lát ván, gác mái gồm bảy gian lợp ngói,
hai bên cầu bày hàng mua bán, nên gọi là cầu ngói. Năm
Kỉ Hợi thứ 28 Hiển Tông Hiếu Minh hoàng đế( chúa
Nguyễn Phúc Chu) đi tuần du phương Nam, xa giá đến phô'

460
NH O G IÁ O - Đ Ạ O H Ọ C TRÊN Đ ẮT KINH KÌ (TH Ả N G LO N G - Đ Ổ N G Đ Ô - HÀ NỘ I)

Hội An, thấy phía tây phố có cầu, thuyền buôn tụ họp, bèn
cho tên là cầu Lai Viên và viết chữ khắc bảng vàng ban
cho, nay vẫn còn...”(6). Trên cầu hiện nay có một đến thờ
thờ Huyền Thiên Trấn Vũ mà người Hà Nội quen gọi là
đền Trấn Vũ. Ây vậy mà người dân ở đây vẫn cứ gọi nó là
chùa. Do vậy mà có tên là chùa cầu.
Như vậy, ngay ngôi chùa được ghi chép cụ thể như
vậy mà còn bị chệch đi thì những di tích kiến trúc tôn giáo
bị hiểu theo nhiều cách khác nhau cũng chẳng lấy gì làm lạ.
Song cái phức tạp trong việc nghiên cứu Văn Miếu,
Văn chỉ tại Hội An lại chính là thị xã có tới 3 ngôi đền
Thánh Khổng Tử.
1. Đền Văn Thánh miếu, ở đường Phan Đình Phùng
hiện nay là Văn Miếu hàng tỉnh. Đền được xây chính xác
là năm 1963, khi Mỹ Diệm chuyển Hội An thành thị xã
Hội An của tỉnh Quảng Nghĩa.
Văn Thánh Miếu là một ngôi nhà có kiến trúc hình
chữ nhất dạng ba gian hai chái. Mái nhà được lợp ngói
ống. Phần mái trước thấp. Các cửa thấp và rộng có lẽ cho
phù hợp với khí hậu miền Trung. Phía trước Văn Miếu
hàng tỉnh có hồ bán nguyệt làm cho phong cảnh ở đây nên
thơ hơn.
Nhìn chung đây là một ngôi nhà đẹp có kiến trúc
phỏng theo lối cổ. Trong miếu thờ Khổng Tử, Tứ Phối.
Thập hiền triết, Thất thập nhị hiền.

461
C H U O N G 8: Đ Ạ O H Ọ C V IỆT NAM TRUYỂN t h ố n g , q u ê H U Ơ N G , d ò n g h ọ ...

2. Văn Thánh miếu ở đường Phan Chu Trinh là một


di tích kiến trúc còn rất cổ được làm từ nhiều thế kỷ trước.
Tại Văn Thánh này có hai dãy nhà ngang. Bên trong thờ
Thánh Khổng Tử cùng các hậu hiền. Trong những lần tiếp
xúc với ông Sùng và một sô' trí thức người Hoa khác,
chúng tôi được biết đây là Vãn Từ Minh Hương' được làm
vào cuối thế kỷ XVIII hoặc trước đó đôi chút.
3. Văn Thánh miếu ở đường Trần Nhật Duật cũng là
một di tích kiến trúc còn rất cổ có niên đại tương đương
với Văn Thánh Miếu ở phường Minh Hương. Theo các nhà
nghiên cứu và quản lý di tích tại Hội An cho hay thì đây là
Văn chỉ, thờ thánh Khổng và các hiẻn sĩ của phường cẩ m
Phô hay Cốm Phố ngày xưa.
Điều này không chỉ cho thấy vài thế kỷ trước Hội An
đã là mảnh đất giàu truyền thống học hành mà còn phản
ánh một đời sống tinh thần, những sinh hoạt học thuật bình
thơ văn của những nhà trí thức Việt và Hoa sống tại đây.
Sử cũ chép rằng ở đất Quảng có các trường học như
sau:
Trường học tỉnh Quảng Nam. Ở địa phận xã Thanh
Chiêm huyện Diên Phúc về phía nam tỉnh thành, đầu niên
hiệu Gia Long dựng ở xã Câu Nhi, năm Minh Mệnh thứ
16, dựng ở chỗ như hiện nay, năm Thiệu Trị thứ 4, đổi
dựng nhà ngói.

462
N H O G IÁ O - Đ Ạ O H Ọ C TRÊN Đ Ấ T KINH KÌ (TH ĂN G IO N G - Đ Ô N G Đ Ô - HÀ NỘ I)

Trường học phủ Điện Bàn: ở địa phận xã La Quả về


phía Tây Bắc lị sở, dựng năm Minh Mệnh thứ 15.
Trường học phủ Thăng Bình: ở địa phận giáp đông xã
Mĩ Xuyên nơi lị sở của phủ, trước kia ở xã Trà Kiộu, dựng
năm Minh Mệnh thứ 5, đến năm Tự Đức thứ nhất dời đến
chỗ hiện nay.
Trên đường từ Hội An về Trà Kiệu, thuộc huyện Duy
Xuyên chúng tôi có dừng chân lại ở bảo tàng Điện Bàn -
dấu tích của một địa danh lừng lẫy trong các cuộc kháng
chiến giành độc lập đàn tộc. Và thật là bất ngờ khi chúng
tôi thấy được ba tấm bia Văn Miếu dinh trấn Quảng Nam
d ự ng ỎI sân nh à h ảo tàn g .

Theo các cán bộ bảo tàng cho hay những tấm bia này
là của Văn Miếu Quảng Nam hiện ở La Ngà, huyện Điện
Bàn. Đó là một địa điểm nằm giữa dinh trấn mới ở Vĩnh
Điện và dinh trấn cũ ở Thanh Chiêm.
Vãn Miếu Quảng Nam được ghi lại như sau: “Văn
Miếu ở xã Thanh Chiêm huyện Diên Phước, kính thờ tiên
sư Khổng Tử. Qui chế: nhà chính 3 gian 2 chái và nhà
trước 5 gian. Hồi đầu bản triều, miếu ở phía tây xã Câu
Nhi (xã có trường học tỉnh Qủang Nam) trong địa hạt
huyện, khoảng đời Gia Long bị nước sông xói lở, dời đến
phía đông xã ấy; lại bị nước sông xói lở, năm Minh Mệnh
thứ 16 dời đến chỗ hiện naỵ. Đền Khải Thánh ở phía tây
Vãn Miếu”.

463
C H Ư O N G 8 : Đ Ạ O H Ọ C VIỆT NAM TRUYỂN TH Ố N G , QUỄ HƯON G, D Ò N G H Ọ ...

Nhưng Văn Miếu hiện nay cũng không còn nữa, ba


tấm bia được chuyển vể bảo tàng Điộn Bàn. Sau đây chúng
tôi xin trích giới thiệu bản dịch các tấm bia này
Hai bia có dòng chữ lớn: "Khuynh cái hạ mã" - có
nghĩa là nghiêng lọng xuống ngựa. Điều này chúng ta
thường gặp trong cái di tích để nhắc nhở mọi người có thái
độ tôn trọng di tích.
Một tấm bia viết về việc xây dựng Văn Miếu ở đây.
Bia đã bị hư hỏng một sô' nơi chúng tôi đã tiến hành dập và
dịch tấm bia trên. Nội dung của tấm bia như sau:
BÀI KÝ NÓI VÉ VIỆC LẬP MIẾU
Lập ra đ ể thờ kính công cuộc giáo dục.
Mùa đông năm Tự Đức thứ 4, cố Thái thú Nguyễn
Vãn Hiền (sau nhậm chức Phú Yên Tuyên Vũ sứ) là tiến sĩ
gốc Quảng tự báo: "Đây là một thịnh sự của huyện ta, quý
vị quân tử phải đi đầu, chịu hao tổn lương bổng mà làm
cho nên việc". Thế rồi giới kỳ mục, tổng lý nghe thế hăng
hái quyên góp tiển của, công sức một cách vui vẻ. Bèn
chọn đất Đôn Bàn, tập trung vật liêu, thuê mướn nhân công
rồi xây dựng.
Bên trong lập dựng thần tẩm, bên ngoài có bái đường,
đông tây có hiên rộng, chu vi làm tường ngói, phía trước
có cửa tam quan, bên trái xây miếu thờ thần, bên phải...
Tháng 3 xuân Quý Sửu, năm Tự Đức thứ 6 thì khởi sự
và đến tháng 9 năm ấy thì xong. Từ lúc khởi công tới lúc

464
N H O G I Á O - Đ Ạ O H Ọ C TRÊN Đ Ấ T KINH KÌ (TH ÀN G LO N G - Đ Ô N G Đ Ô - H À N Ộ I)

hoàn thành vừa vặn 7 tháng. Người chọn đất là cố tiến sĩ


Đỗ Thúc Tĩnh ở Hoà Vang và cử nhân Nguyễn Thành
Châu(sau là tri huyện Hoà Đa). Ông Châu còn là hội chủ
điều hành việc thi công. Tú tài Phạm Phú Hanh...Phạm
Chánh giải quyết tiền nong. Vật tư thì có cử nhân Nguyễn
Hiền Doãn(sau là thừa biện Bộ Lễ), các học trò Thân Đức
Uy(Oai?), Hồ Diêu...điểm xuyết kỷ cương cho nên việc là
công của quan Thái thú vậy.
Phía trước đền là sông lớn, phía xa là núi Trà
Kiệu...tuy không đồ sộ nhưng vẫn có vẻ tú lệ. Ôi! đã ăn
của đất, tất phải báo đền mãi mãi không dám quên
nguổn...việc kiến trúc này là bày trên một mảnh đất tôn
kính vậy!
Vả, ta nay đã 200 năm gội nhuần giáo sâu dày, việc
thành tựu ngày càng đông đảo, từ nay về sau hương hoả
ngàn thu, ngưỡng vọng núi cao thực làm cho người đời sau
được phát đạt vô cùng vậy.
Vậy nên ghi họ tên những nhân viên, khoa tước trong
hội đã cúng ruộng tiền như sau:
Ngày 20 tháng giêng năm Tự Đức thứ 26 (1866)
Phạm Hữu Nghi
Cỏ'kinh diên nhật giảng quan, Hữu
tri tham bộ Lễ sung toán tu sử quán.

465
C H U O N G 8: Đ Ạ O H Ọ C VIỆT NAM TRUYỂN THỐNG, Q U Ê H Ư O N G , D Ò N G H Ọ ...

Đã lâu rồi chúng ta mới lại thấy một tấm bia nói về
sự sùng kính Khổng Nho của giới trí thức quan lại Việt
Nam(8). Song cái hay trong tấm bia này lại ở chỗ tuy là
Văn Miếu xứ Quảng nhưng lại do các sĩ phu có học, có
tiền cùng nhau bỏ tiền của mình ra xây dựng, chứ hoàn
toàn không hề có chút quỹ công nào.
8.1.3. Văn Miếu ở Nam Kỳ
Khi đặt chân vào Thuận Hoá, các chúa Nguyễn cũng
đã mở mang nền giáo hoá, mở nhiều trường dạy chữ Nho
để đào tạo các quan lại địa phương. Lúc đầu chế độ thi cử
chưa thật cụ thể và chưa đều song càng về sau nền giáo
dục ở phía Nam có phần tăng tiến hơn. Theo quan niệm
của các nhà Nho thủ cựu thì đất Nam Kỳ vốn không phải
đất văn chương và vì vậy mà các sĩ phu ở đây thường
không nổi tiếng như các sĩ phu Bắc Hà. Dẫu sao thì nhà
Nguyễn cũng đã tạo ra cho mảnh đất phía Nam một nền
giáo dục Nho giáo và chính vì vậy trong các miền đất này
vẫn có những miếu thờ Khổng Tử mà chúng ta gọi là Vãn
Miếu.
Theo các tài liệu của cụ Phạm Quỳnh ngày xưa có
vào chơi 6 tỉnh miền Tây Nam bộ, có ghi chép rằng:
“Tỉnh Vĩnh Long có một cái Văn Miếu, quy mô cũng
phỏng theo Văn Miếu ngoài Bắc song cách sắp đặt lại sơ
sài lắm. Ở gian giữa không có bài vị đức thánh sư, chỉ treo
một cái tranh hình ông Khổng Tử râu sồm, tóc rối của các

466
N HO G I Ả O - Đ Ạ O H Ọ C TRÊN Đ Ấ T KINH KÌ (TH Ă N G LO N G - Đ Ô N G Đ Ô - HÀ N Ộ I)

hiệu Khách thường bán”. Tiếp theo ông “Than ôi Phu tử


lạc loài đến đây làm gì? Ai còn là người cúng tế ngài cho
phải lễ, hợp với những lễ phép mà ngài đã đặt ra, vì sách
ngài còn mấy người đọc nó nữa?
Trong miếu còn đôi liễn gỗ khắc của cụ học bổ Cao
Xuân Dục làm vào mùa thu năm Quý Mão... Cả trong miếu
chỉ còn lại chút văn chương thừa!” Đó là lời than vãn của
cụ Phạm Quỳnh với triết giáo của một nhà Nho thủ cựu.
Dẫu sao thì vẫn còn có những dấu tích Văn Miếu như ở
Vĩnh Long.
Trong tỉnh Biên Hoà cũng còn một Văn Miếu ở làng
Hiệp Hưng quận TAn Uyên ngày xưa (bây giờ thuộc ấp
Uyên Hưng),cách chợ Tân Uyên mấy trăm mét và cách Sài
Gòn 50 km có một ngôi đình thờ thần. Trong đình có treo
một bảng gỗ viết:
Thư bộ tham trì kiêm đô sát viện Hữu phó đô ngự sử
tuần phủ Biên Hoà đẳng xứ địa phương kiêm b ố chính sứ
ấn triện Ngô Văn Địch cung thư.
Nội dung bảng cũng không bề nói tới chuyện thờ
thần mà nói rõ là thờ Khổng Tử. Khi hỏi ra mới biết, trong
cuộc binh hoả dinh lũy và Văn Miếu của Biên Hoà đã bị
triệt phá. Một ông Lãnh binh bèn đem đôi biển gỗ giấu ở
đình Hiệp Hưng.
Ngày 16 tháng 12 nãm 1861, khi đánh chiếm thành
Biên Hoà xong đô đốc hải quân Bonnard phúc bẩm về Binh

467
C H Ư Ơ N G 8 : Đ Ạ O H Ọ C VIỆT NAM TRUYÉN TH Ố N G , Q UÊ H Ư O N G , D Ò N G H Ọ ...

bộ CÓ đoạn viết: “Hoàn toàn phá huỷ và giải toả đồn Mỹ


Hoà, cách Sài Gòn 3 dặm, chiếm đoạt 3 cái bão, và một cái
bán nề banh, toàn thể binh lực Đức rời khỏi Biên
Hoà...”(Xem Monographie de la provine de Bien Hoa, Sai
Gon, 1902).
Thế là 12 năm sau khi cụ Ngô Văn Địch dâng đôi
biển gỗ vào Văn Miếu Biên Hoà, Văn Miếu không còn và
đôi biển gỗ lại lưu lạc về xứ Tân Uyên. Như vậy là trước
đây ở Biên Hoà có một Văn Miếu để thờ thánh Khổng
song rất tiếc di tích này đã bị quân Pháp san bằng.
Tạm biệt Vịnh Thái Lan, chúng ta đạt chân lên đất
mũi Hà Tiên, mảnh đất cuối cùng phân cách hai nước Viôt
Nam và Cãmpuchia. Hà Tiên vùng đất giàu tiềm năng du
lịch với những bãi biển đẹp như Mũi Nai, với những hòn
đảo lớn như hòn Phụ Tử, hòn Ngọc, cùng quần đảo Hải
Tặc, nói lên sự hãi hùng cho những ai qua lại trên vùng
vịnh Thái Lan này. Tại đây là cả một khu công nghiệp lớn,
với các nhà máy lớn cao cùng sông núi như nhà máy xi
măng Hà Tiên, nhà máy xi măng Sao Mai.
Mỗi lần tới thăm lại đền thờ Mạc Cửu cùng gia quyến
ông, chúng ta như lại tìm bóng dáng của tao đàn Chiêu
Anh Các cùng các nho sĩ văn chương sáng láng như Mạc
Thiên Tích, Trịnh Hoài Đức v.v. Theo ghi chép thì Mạc
Thiên Tích là người sáng lập ra Chiêu Anh Các giống như
hội Tao Đàn dưới thời Lê Thánh Tông. Chiêu Anh Các đã

468
N H O G I Á O - Đ Ạ O H Ọ C TRẼN Đ Ấ T KINH KÌ (TH Ẳ N G LO N G - Đ Ô N G Đ Ô - HÀ N Ộ I)

hội tụ đủ tinh hoa học thức của những trí thức Nam Bộ
dưới thời các chúa Nguyễn.
Sử, sách còn ghi: Núi Bình San ở phía tây thị xã Hà
Tiên. Trên núi có lăng mộ của Mạc Cửu. Dưới chân núi là
đền thờ ông cùng gia quyến.
Trong khi đó, sử lại ghi Mạc Thiên Tích lập ra Tao
Đàn Chiêu Anh Các tại đỉnh núi Bình San. Nơi đây là nơi
để cho các Nho sĩ tới ngâm thi xướng hoạ. Nơi đây lại là
trường dạy học Thục nghĩa và đồng thời là nơi thò Khổng
Tử cùng Thất thập nhị hiền của Hà Tiên.
Đó là những dấu ấn để cho chúng ta tìm về một Văn
Miếu Ilà Tiôn. Hiộn tại trôn đỉnh núi Rình San có lăng M ạc
Cửu và có nhiều Ban thờ lộ thiên xây bằng đá. Ban thờ đá
lộ thiên ở nơi cao nhất và trang trọng nhất dành thờ Khổng
Tử. Có thể nơi đây đã có những kiến trúc xây dựng song đã
bị bỏ hoang phế cùng thời gian. Cũng có thể nơi thờ thánh
Khổng vốn ban đầu đã để lộ thiên như những Từ Chỉ mà
chúng ta đã biết. Nghe nói ở đây có nhiều tấm bia vỡ nằm
lẫn lộn nên khó phân biệt đâu là bia của Mạc Cửu đâu là
bia của Tao Đàn Chiêu Anh Các.
8.1.4. Văn Chỉ hàng huyện
Trước đây Văn chỉ hàng huyện ở huyện nào cũng có.
Hiện nay,Văn chỉ hàng huyện còn sót lại ở một sô' nơi.
Trong những di tích còn sót lại này, chúng tôi muốn nói tới
Văn chỉ huyện Thọ Xương.

469
CH Ư Ơ N G 6: Đ Ạ O H Ọ C VIỆT NAM TRUYỂN THỐ N G. Q UÊ H U Ơ N G , DỎ N G H Ọ ...

Văn chỉ Thọ Xương hiện ở khu vực Trại Găng phố
Bạch Mai, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Văn chỉ nay trở
thành trụ sở của Trường trung cấp nấu ăn thành phố. Trước
đây chúng tôi đã có dịp khảo sát Văn chỉ này.
Văn chỉ là một ngôi nhà cổ, mới được tu sửa lại vào
đầu thế kỷ 20 nên mang dáng dấp kiểu nhà “đầu hồi bít
đốc”. Bên trong là những bệ gạch xây làm ban thờ. Tuy
nhiên lúc ấy di tích cũng chẳng còn được bao nhiêu. Chỉ
còn lại tấm bia đá làm năm Minh Mệnh thứ 13 (1832) và
tu sửa vào năm Bính Thân (1836).
Sau đây là nội dung tấm bia:
BÀI KỸ BIA ĐẾN THỜ TIÊN HIẾN HUYỆN THỌ XƯƠNG
(Thọ Xương tiên hiên từ vũ bi ký)
Mong trở thành người hiền là chuẩn đích của sự học;
thờ phụng tiên hiền là phép tắc cua lễ.
Huyện ta xưa gọi là Vĩnh Xương, từ Lý đến Lê là nơi
văn vật nổi tiếng hơn ngàn năm chốn đô thành. Các vị tiên
hiền được hun đúc bởi khí thiêng liêng, tắm gội trong nền
phong tục giáo hoá tốt đẹp. Từ năm Quang Thuận về sau,
khoa hoạn đời nào cũng có. Văn chương đức nghiệp há
phải chỉ riêng một huyện tôn sùng thôi đâu.
Xưa kia đã có đền thờ, nhưng trải qua cơn biến loạn...
đền cũ không còn.
Quốc triều dấy nghiệp hơn 300 năm nay, chính trị
vãn giáo ngày một đổi mới. Nhờ phúc lành của tư văn, mà

470
N H O G IẢ O - Đ Ạ O H Ọ C TRÊN Đ Ấ T KINH K Ì (TH Ă N G LO N G - Đ Ô N G Đ Ô - H À NỘ I)

bọn ta nối tiếp nhau đỗ đạt, không phải là ít. Nhưng việc
thờ phụng tiên hiền còn thiếu sót.
Năm Nhâm Thìn (1832) bọn thân sĩ chúng ta cảm
kích nhớ tới đạo đức phẩm chất các vị tiên hiền, nên bàn
cách khiến cho được lưu truyền mãi, tham khảo quy chế
phụng thờ, ghi thành ước lệ.
Qua năm Bính Thân (1836) các thân sĩ đem ý định đó
bàn với vị tiến sĩ khoa Bính Tuất (1826), người thôn Tự
Tháp là Vũ Hoán Phủ, rồi chọn noi làm đền thờ ở phường
Hồng Mai, phía nam huyện. Đền chính xây toàn gạch, mặt
hướng về phía Đông. Năm gian bái đường, nhà bên tả và
bcn hữu đều lợp ngói, cột phía ngoài và tưrmg xung quanh
đều xây gạch. Khoảng giữa trồng hoa. Lại đặt thêm ruộng tế
và ao tất cả là 8 mẫu, 7 sào 10 thước. Chỉ cắt 1 mẫu làm khu
đền thờ, còn bao nhiêu giao cho người trong phường để
hàng năm thu hoa lợi dùng vào tế lễ mùa xuân và mùa thu.
Qui chế trăm ngàn năm, chỉ có vài năm mà hoàn
thành. Ôi! Việc tốt đẹp của danh giáo được mở ra rồi
chăng? Nếu không sao lại được hưng thịnh đến như vây?
Ngay từ ban đầu, khi thân sĩ ta đề xướng ra thì ông
Bùi Huy Tùng người Hà Khẩu thuộc bản huyện đã vui lòng
xuất của nhà hàng ngàn đưa cúng vào đó, lại tự mình trông
nom mọi việc từ đầu đến cuối, đâu có phải như việc công
Khác, cần có người đến trước mặt mà đốc thúc. Ai khiến
ông làm được như vậy?

471
C H Ư Ơ N G 8: Đ Ạ O H Ọ C VIỆT NAM TRUYỀN THỐ N G, Q U Ễ H Ư Ơ N G, D Ò N G H Ọ ...

Thế mói biết rằng những việc rất lớn, rất tốt trong vũ
trụ, chỉ sợ không chịu làm thôi. Nếu làm thì không có gì
khó. Bởi vì đã hợp với lẽ trời thì thần minh không hề ngãn
cản viộc hoàn thành. Tốt đẹp thay lễ nhạc của một châu,
xuân thu tế tự muôn đời. Đúng ngày nghi tiết, sửa lễ vật
cúng theo thường lệ. Trên thì noi theo phong độ và ý chí
của tiên hiền, dưới thì khuyến khích thế hệ mai sau trau
dồi tiến tới. Trong phạm vi hẹp, thì trở thành các vị quân tử
trong làng, các vị thầy dạy trong xã. Mở rộng ra sẽ là tôn
chúa giúp dân. Và đây chính là biểu hiện cụ thể của ý
nghĩa đó
H o à n g triều n iên h iệ u M in h M ện h n ă m th ứ 1 9 , M ậu
Tuất ị1838) tháng 5. ngày tốt.
Hậu học, đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa
Nhâm Thìn ị1832),
Trung thuận đại phu, Lang trung bộ Lại, người
phường Đông Tác,
Nguyễn Văn Lý, tắm gội xông hương bái soạn.
8.1.5. Ván chỉ hàng xã, phường
Có nhiều làng xã có những người học hành đỗ đạt
đều cho xây dựng văn chỉ để nêu tấm gương học tốt cho
mọi người địa phương noi theo, ở phường Hà Khẩu (phố
Hàng Buồm ngày nay) có một Văn chỉ như vậy chỉ tiếc
rằng vị trí cụ thể của văn chỉ này nằm ở đâu? chúng ta

472
NHO G I Á O - Đ Ạ O H Ọ C TRÊN Đ Ấ T KINH KÌ (TH Ằ N G LO N G - Đ Ô N G Đ Ô - H À N Ộ I)

chưa tìm ra. Trong quá trình nghiên cứu văn chỉ này,
chúng tôi còn thấy một tấm bia đá nói về nó. Nội dung
như sau:
VĂN CHỈ PHƯỜNG HÀ KHẨU
(Ván chỉ bi ký)
Thôn xã thờ cúng các vị tiên hiền trong làng là theo
lễ xưa. Người đời sau tôn trọng lễ ấy, nhằm làm cho phong
tục tốt đẹp.
Ba giáp ta thờ phụng đền thiêng, được khen là đất văn
hiến. Đời nào cũng có người khoa bảng và có đức nghiệp.
Lễ tế xã tuy hàng năm cử hành, nhưng nhà và đàn tế chưa
có chỗ nhất định. Có lẽ còn chờ đợi người đời sau xay dựng.
Nay có ông Nhữ Công Chân, người trong giáp đỗ nhị
giáp tiến sĩ khoa Nhâm Thìn (1772) ( chính quán xã Hoàng
Trạch - Hải Dương) sẵn có một khoảnh đất tư, ở bên trái
đền thờ thần, rộng 16 thước dài 108 thước, tự nguyện cúng
để xây dựng nơi thờ tiên hiền.
Nhân thế ( ba giáp) họp bàn xuất tiền chọn mua gỗ,
và trên khu đất ấy dựng thành một toà chính đường, một
toà tiền tế. Tháng 5 nãm nay khởi công, đến tháng 8 thì
hoàn thành. Nhà và nền đất đã dựng xong, mùa xuân, mùa
thu thường xuyên cúng tế.
Việc này quan hệ đến nền nếp văn hoá đời sau, đáng
được kính cẩn báo đền, đê tỏ rõ cho những thê hệ tương

473
C H Ư O N G 8: Đ Ạ O H Ọ C VIỆT NAM TRUYỂN TH Ố N G , QUÊ H U O N G , D Ò N G HỌ...

lai. Và lòng thành của một người vui theo đạo lý cũng nên
biểu dương rõ ràng, để mọi người đều có những ý nghĩ tốt
lành. Bèn khắc vào bia đá để lưu truyền được lâu.
Toàn thể kẻ trên người dưới trong 3 giáp, Mật Thái,
Bắc Hạ và Bấc Thượng thuộc phưòng Hà Khẩu đều ký tên.
Ngày 9 tháng 9 năm Cảnh Hưng thứ 35 (1774).
Sau những năm dài chinh chiến, ngày nay đất nước
đã thanh bình, Đạo học Việt Nam đang trên đường phát
triển, các hình thức tồn vinh, tưởng niệm người học hành
thi đỗ là nhu cầu chính đáng của mọi người dân. Để tránh
những tốn kém cho mọi người, cũng như không làm quá
tải một di tích vân hoá du lịch như Vân Miếu Quốc Tứ
Giám (Hà Nội), theo thiển nghĩ nên hình thành một hình
thức nào để vừa đáp ứng được nhu cầu tâm linh của mọi
người lại vừa không làm quá tải Văn Miếu? Có chãng ta
nên xây dựng các câu lạc bộ trí thức dành cho những
người ham học, thi đỗ mà trong đó phải có sự hịên diện
của các vị thánh học như Khổng Tử, Chu Văn An... lấy từ
nguyên mẫu ở Văn Miếu - Hà Nội đặt tại các địa phương
chăng?

8.2. LIỆU CÓ TRỞ LẠI “MÔ HÌNH VINH QUY BÁI T ổ ”


CHO CÁC TIẾN Sĩ THỜI NAY ?
Ngày xưa người đi học, đi thi không phải chỉ là thi đỗ
để làm quan, để tìm việc làm mà học còn gánh trên vai

474
N HO G IÁ O - Đ Ạ O H Ọ C TRÊN Đ Ấ T KINH KÌ (TH Ả N G LO N G - Đ Ô N G Đ Ô - H À NỘ I)

mình một trọng trách - làm hiển vinh cho làng xóm quê
hương và dòng họ của mình. Dòng họ là một yếu tố quan
trọng thúc đẩy người đi thi và mỗi khi thi đỗ, nhà nước tổ
chức một cái lễ gọi là vinh quy bái tổ. Lễ này đã được
khắc họa trong các bức tranh dân gian truyền thống như
nhắc nhở mọi người hãy vì dòng họ mà học tập và sau một
quá trình học tập - người đỗ đạt sẽ được dòng họ tôn vinh,
thờ phụng. Xưa cha ông ta thường có câu: Một người làm
quan củ họ dược nhờ. Vậy ngày nay thì sao?
Để khắc hoạ lại vấn đề dòng họ, quê hương của những
người đỗ đạt là người kinh thành, chúng tôi đã thống kê
theo dòng họ nhằm bổ khuyết vào danh sách các tiến sĩ ở
Thăng Long - Hà Nội, để thử tìm tới những dấu ấn những
dòng họ quan trường lớn ngày xưa. Kết quả như sau:
1. Bùi Bình Quân 2. Bùi Cầu
3. Bùi Công Phụ 4. Bùi Huy Bích
5. Bùi Nguyên 6. Bùi Quốc Khái
7. Bùi Văn Trinh 8. Bùi Vĩnh
9. BÙI Xương Trạch

Dòng họ có Số
stt Tỷ lệ % Ghi chú
người thi đỗ lượng

1 Bùi 9ng

Tổng cộng 9/313 2,87

475
CHƯONG 8: ĐẠO HỌC VIỆT NAM TRUYỂN THỐNG, QUẼ HƯƠNG, DÒNG HỌ._

1. Cao Dương Trạc 2.

3. Chu Nguyên Mại 4.

5. Chu Văn An 6.

7. Chử Sư Đổng 8.

9. Chử Thiên Khả

Dòng họ có người
stt Số lượng Tỷ lệ % Ghi chú
thi dỗ
2 Cao 1 ng 0,31
3 Chu 4ng 1,27
4 Chử 4ng 1,27
Tổng cộng 9/313 2,87

1. Diệp Xuân Huyên 2. Dương Bính


3. Dương Cảo 4. Dương Duy Nhất
5. Dương Văn Đán

Dòng họ có người
stt Số lượng Tỷ lệ % Ghi chú
thi đỗ
5 Diệp 1 ng 0,31
6 Dương 4ng 1,27
Tổng cộng 5/313 1,59

476
NHO G IÁ O - Đ Ạ O H Ọ C TRÊN ĐẤT KINH KÌ (THẦNG LONG - ĐÔN G ĐÔ - HÀ NỘI)

I. Đào Quốc Hiển 2. Đào Tiến Khang

3. Đàm Công 4. Đàm Khuyến

5. Đặng Công Chất 6. Đặng Công Diễn

7. Đặng Công Toàn 8. Đặng Tích Trù

9. Đinh Nguyên Hanh 10. Đinh Phụ ích

I I . Đoàn Chú 12. Đoàn Nhân Thục

13. Đoàn Quang Dung 14. Đoàn Văn Thông

15. Đồng Nhân Phái 16. Đỗ Cảnh

17. Đỗ Công Bật 18. Đỗ Công Dĩnh


19. Đỗ Công Quỳnh 20. Đỗ Công Toản

21. Đỗ Hiền 22. Đỗ Huy Điển

23. ĐỖ Kim Oánh 24. Đỗ Lệnh Danh

25. Đỗ Lệnh Thiộn 26. Đỗ Túc Khang

27. Đỗ Tùng 28. Đỗ Văn Hãng

29. Đổ Văn Luân 30. Đỗ Văn Tổng

31. Đỗ Văn Trung

477
CHUONG 8: ĐẠO HỌC VIỆT NAM TRUYỂN t h ố n g , q u ẽ HUONG, d ò n g h ọ ...

Dòng họ có
STT SỐ lượng Tỷ lệ % Ghi chú
người thi đỗ
7 Đào 2 ng 0,63
8 Đàm 2 ng 0,63
9 Đặng 4ng 1,27
10 Đinh 2 ng 0,63
11 Đoàn 4ng 1,27
12 Đồng 1 ng 0,31
13 Đỗ 16 ng 5,2
Tổng cộng 31/313 9,90

1. Hoa Quý Khám 2. Hoàng Bồi


3. Hoàng Đình Chuyên 4. Hoàng Đình Tá
5. Hoàng Hiệp Tâm 6. Hoàng Nhật Ái
7. Hoàng Quán Chi 8. Hoàng Tế Mỹ
9. Hoàng Tướng Hiệp 10.Hồng Hạo

Dòng họ có người
stt Số lượng Tỷ lệ % Ghi chú
thi đỗ

14 Hoa 1 ng 0,31
15 Hoàng 8 ng 2,55

16 Hổng 1 ng 0,31
Tổng cộng 10/313 3,19

478
NHO G IÁ O - ĐẠ O HỌC TRÊN ĐẤT KINH KÌ (THẢNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

I. Lại Duy Chi 2. Lê Cán

3.Lê Dao 4. Lê Danh Hiển

5.Lê Đình Diên 6. Lê Đình Dự

7. Lê Đình Lại 8. Lê Đình Xán

9. Lê Đức Mao 10. Lê Hoàn Hạo

I I. Lê Hoàn Viện 12. Lê Hoàng Tuyên

13. Lê Kiết 14. Lê Kim Bảng

15. Lê Kim Quế 16. Lê Khả Tông

17. Lê Nhữ Thông 18. Lê Sạn


19. Lê Táo 20. Lê Tuấn Mậu

21. Lê Thế Lộc 22. Lê Trọng Điển

23. Lê Vô Cương 24. Lê Vô Địch

25. Lê Xuân Lượng 26. Lương Hối

27. Lương Vinh 28. Lưu Danh Công

29. Lưu Định 30. Lưu Hịch

31. Lưu Quỹ 32. Lưu Tiệp

33. Lưu Văn Nguyên

479
CHƯƠNG 8: ĐẠO HỌC VIỆT NAM TRUYỂN THỐNG. QUẼ HƯONG, DÒNG HỌ...

Stt Dòng họ có Số lượng Tỷ Iệ% Ghi chú


người thi đỗ
17 Lại 1 ng 0,31
'18 Lê 24 ng 7,66
19 Lương 2ng 0,62
20 Lưu óng 1.91
Tổng cộng 33/313 10,54

I. Ngô Anh 2. Ngô Chấp Trung


3. Ngô Điền 4. Ngô Đình Chất
5. Ngô Đình Thạc 6. Ngô Sĩ Kiện
7. Ngỡ Tông Củ 8. Ngô Tuấn Dị
9. Ngô Thảo 10. Ngô Thế Dụ
I I . Ngô Thế Trí 12. Ngô Thì Nhậm
13. Ngô Thì Sĩ 14. Ngô Vi Nho'
15. Ngô Vi Thực 16. Nghiêm Bá Đĩnh
17. Nghiêm Hoàng Đạt 18. Nghiêm Xuân Hậu
19. Nghiêm Xuân Quảng 20. Nguyễn Am
21. Nguyễn Bá Lan 22. Nguyển Bá Tông
23. Nguyễn Bá Thủ 24. Nguyễn Bỉnh Đức
25. Nguyễn Cảnh 26. Nguyễn Cầu
27. Nguyễn Cơ 28. Nguyễn Công Cơ -
29. Nguyễn Công Hoàn 30. Nguyễn Chí Đốc
31. Nguyễn Chính 32. Nguyên Chỉ
33. Nguyễn Chưởng 34. Nguyễn Danh Hiển
35. Nguyễn Danh Thọ 36. Nguyễn Duy Trinh
37. Nguyễn Dung Nghệ 38. Nguyễn Dụng

480
NHO GIÁO - ĐẠO HỌC TRÊN ĐẤT KINH KÌ (THẰNG LONG - ĐỎNG ĐÔ - HÀ NỘI)

39. Nguyễn Dụng Triêm 40. Nguyễn Dương Hiển


41. Nguyễn Duy Viên 42. Nguyễn Dự
43. Nguyễn Đăng cẩm 44. Nguyễn Đăng Cơ
45. Nguyễn Đăng Liên 46. Nguyễn Đắc Vinh
47. Nguyễn Đình Bách 48. Nguyễn Đình Bật
49. Nguyễn Đình Hoàn 50. Nguyễn Đình Liễu
51. Nguyễn Đình Quý 52. Nguyễn Đình Thạc
53. Nguyễn Đình Trụ 54. Nguyên Đình úc
55. Nguyễn Đĩnh 56. Nguyễn Đoan
57. Nguyễn Đoan Lương 58. Nguyễn Đôn Mục
59. Nguyễn Đương Bao 60. Nguyễn Đức Nhuận
61. Nguyễn Đức Phong 62. Nguyễn Gia Du
63. Nguyễn Hanh Giá 64. Nguyễn Hào
65. Nguyễn Hàn 66. Nguyễn Hồ Hiệp
67. Nguyên Huy Ố8. Nguyên Huy Cộn
69. Nguyễn Huy Dận 70. Nguyễn Huy Mẫn
71. Nguyễn Huy Ngọc 72. Nguyên Huy Thuật
73. Nguyễn Huy Vượng 74. Nguyễn Hữu Đăng
75. Nguyễn Hữu Hoàn 76. Nguyên Hữu Huy
77. Nguyễn Hữu Tạo 78. Nguyễn ích Ngân
79. Nguyễn Kiều 80. Nguyễn Kiêm
81. Nguyễn Kham 82. Nguyễn Khánh Dung
83. Nguyễn Khắc Kiệm 84. Nguyễn Khắc Thiệu
85. Nguyễn Khắc Trung 86. Nguyễn Khắc Vân
87. Nguyễn Khiêm Quang 88. Nguyễn Khuê (Vân Điềm)
89. Nguyễn Khuê (Hạ Đình) 90. Nguyễn Lan
91. Nguyễn Lân 92. Nguyễn Luân
93. Nguyễn Lý Uyên 94. Nguyễn Mậu Dỵ
95. Nguyễn Mậu Tài 96. Nguyễn Mậu Thịnh
97. Nguyễn Minh Điền 98. Nguyễn Minh Thông

481
CHƯƠNG 8: ĐẠO HỌC VIỆT NAM TRUYỂN THỐNG, QUẼ HUƠNG, DÒNG HỌ...

99. Nguyễn Nghi 100. Nguyễn Nha


01. Nguyễn Nhã 102. Nguyễn Nhân Chính
03. Nguyễn Nhật Tráng 104. Nguyễn Như Cương
05. Nguyễn Nhữ Đổ 106. Nguyễn Như Huân
07. Nguyễn Như Uyên 108. Nguyễn Quang Bị
09. Nguyễn Quang Huệ 110. Nguyễn Quang Lộc
11. Nguyễn Quang Mậu 112. Nguyễn Quốc Khuê
13. Nguyễn Quốc Ngạn 114. Nguyễn Quốc Trinh
15. Nguyễn Quyền 116. Nguyễn Quý Ân
17. Nguyễn Quý Ban 118. Nguyễn Quý Đức
19. Nguyễn Sán 120. Nguyễn Siêu
21. Nguyễn Sĩ 122. Nguyễn Sĩ Cốc
23. Nguyễn Sùng Nghệ 124. Nguyễn Súc
25. Nguyễn Tịnh 126. Nguyễn Tử Khai
27. Nguyỗn Tông Trình 128. Nguyẽn Tuấn
29. Nguyễn Tuyên 130. Nguyễn Thái
31. Nguyễn Thạc Đức 132. Nguyễn Thẩm
33. Nguyễn Thận Lễ 134. Nguyễn Thế Ninh
35. Nguyễn Thưởng 136. Nguyễn Thực
37. Nguyễn Trác 138. Nguyễn Trạc Dụng
39. Nguyễn Trù 140. Nguyễn Trừng
41. Nguyễn Văn Hội 142. Nguyễn Văn Lý
43. Nguyễn Vãn Phú 144.Nguyễn Văn Tùng
Tư Giản)
45. Nguyễn Văn Thắng 146. Nguyên Văn Trạc
47. Nguyễn Vĩnh Thịnh 148. Nguyễn Vũ
49. Nguyễn Xán 150. Nguyễn Xuân Đài
51. Nguyễn Xuân Nham

482
NHO GIẢO - ĐẠO HỌC TRÊN ĐẤT KINH KÌ (THẢNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

Stt Dòng họ có Số lượng Tỷ lệ % Ghi chú


người thi đỗ
21 Ngô 15 4,79
22 Nghiêm 4ng 1,27
23 Nguyễn 132 ng 42,17
Tổng cộng 151/313 48,24

1. Ông Nghĩa Đạt

Stt Dòng họ có Số lượng Tỷ lệ % Ghi chú


người ilii đõ
24 Ông 1 ng 0,31
Tổng cộng 1/313 0,31

I. Phan Đình Mục 2.Phan Lê Phiên


3. Phan Phù Tiên 4.Phan Tự Cường
5. Phan Vinh Phúc 6. Phạm Công Chí
7. Phạm Dương Ưng 8. Phạm Gia Chuyên
9. Phạm Hiển Danh 10. Phạm Hy Lượng
I I . Phạm Kính 12. Phạm Khiêm ích
13. Phạm Lân Đính 14. Phạm Mật
15. Phạm Nguyên Ninh 16. Phạm Quang Dung
17. Phạm Quang Hoàn 18. Phạm Quang Mãn
19. Phạm Quốc Trinh 20. Phạm Thừa Nghiệp

483
CHUONG 8: ĐẠO HỌC VIỆT NAM TRUYỂN t h ố n g , q u ẽ h ư ơ n g , d ò n g h ọ ...

21. Phạm Tuyến 22. Phạm Thọ Chỉ


23. Phạm Trân 24. Phạm Vãn Hợp
25. Phỉ Lân

Su Dòng họ có Sô' lượng Tỷ lệ % Ghi chú


người thi đỗ
25 Phan 5 ng 1,59
26 Phạm 19 ng 6,07
27 Phí 1 ng 0,31
Tổng cộng 25/313 7,98

I. Tạ Tuân 2. Thành Ngọc uẩn


3. Trần Danh Đống 4. Trần Đình Thụ
5. Trần Huy Liễn 6. Trần Huy Tích
7. Trần Lỗi 8. Trần Lương Sáng
9. Trần Thiện Thuật 10. Trần Vĩ (Kim Liên - Đống Đa)
I I . Trần Vĩ’ 12. Trinh Bá Tướng
( Thượng Cát - Từ Liêm)
13. Trịnh Chí Sâm 14. Trịnh Đình Thái
15. Trịnh Đức Nhuận 16. Trịnh Xuân Thụ
17. Trịnh Xuân Thưởng 18. Trương Đình Tuyên
19. Trương Nguyễn Điều 20. Trương Thì
21. Trương Ý

484
NHO GIÁO - ĐẠO HỌC TRÊN ĐẤT KINH KÌ (THẢNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

Dòng họ có
SU Số lượng Tỷ lệ % Ghi chú
người thi đỗ
28 Tạ 1 ng 0,31
29 Thành 1 ng 0,31
30 Trần 9 ng 2,87
31 Trịnh óng 1,91
32 Trương 4ng 1,27
Tổng cộng 21/313 6,70

I. Viêm Nghĩa Lộ 2. Vũ Công Tể


3. Vũ Dần Lượng 4. Vũ Đình Dung
5. VQ Đình Quyén 6. Vũ Lam
7. Vũ Văn Tuấn 8. Vũ Nhự
9. Vũ Tá An 10. Vũ Tổng Phan (Vũ Phan)
I I . Vũ Tuấn Chiêu 12. Vũ Trần Tự
13. Vũ Trọng Từ 14. Vương Hoẳnh
15. Vương Khắc Thuật 16. Vương Thì Trung

Stt Dòng họ có Số lượng Tỷ lệ % Ghi chú


người thi đỗ
33 Viêm 1 ng 0,31
34 Vũ 13 ng 4,15
35 Vương 3 ng 0,95
Tổng cộng 16/313 5,11

485
CHƯƠNG 8: ĐẠO HỌC VIỆT NAM TRUYỂN t h ố n g , q u ê HUONG, d ò n g h ọ ...

Theo những con số thống kê ở trên thì các tiến sĩ Nho


học ở Hà Nội có tất cả 35 dòng họ có người đỗ đạt với tổng
số 313 người được thống kê. Dòng họ có sô' người đỗ đạt
cao nhất là họ Nguyễn vói 132/313 chiếm khoảng 42,17%
toàn Thăng Long - Hà Nội, tiếp là họ Lê có 32/313 chiếm
khoảng 10,31%— có một số dòng họ như Ông, Tạ, Thành,
Viêm... chỉ có 1 người đỗ chiếm khoảng 0,32%.
Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta cũng đang có chủ
trương ghi danh các tiến sĩ Việt Nam thời hiện đại. Có khá
nhiều tập sách ghi danh như vậy ra đời tuy rằng chưa thật
đầy đủ. Việc ghi danh như vậy vẫn chỉ là một hình thức vì
số người đọc và học theo gương các tiến sĩ này còn ít, đấy
là chưa nói tới những tiêu cực của nền kinh tô' thị trường đã
làm cho cái chân giá trị học hành của các tiến sĩ học thật,
thi thật bị giảm sút. Và tất nhiên trong đó có một việc là có
nhiều tiến sĩ hiện nay người ngoài có khi biết khá rõ nhưng
những người trong họ lại không ai biết gì, vì từ khi đỗ đạt
đến giờ ông tiến sĩ ấy có về quê bao giờ đâu? Nên họ hàng
không biết cũng là phải. Cái cố kết dòng họ, làng xóm, quê
hương đang bị cái xã hội hiện đại với cơ chế thị trường làm
cho phai nhạt dần đi. Cái thưở “một người học hành đỗ đạt
làm quan để cả họ được nhờ” nay không còn nữa. Cái
“dòng họ” với tư cách vào ba gia đình ruột thịt bao bọc lẫn
nhau, rất nhỏ lẻ hiện đang chi phối xã hội hiện đại làm cho
dòng họ lớn bị hạn chế. Người ta ít quan tâm tói gia phả
dòng họ mình, chính vì vậy trong họ có bao nhiêu người

486
NHO GIÁO - ĐẠO HỌC TRÊN ĐẮT KINH KÌ (THẲNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HẢ NỘI)

Hớn lên đi học, đi làm, ai đỗ đạt làm quan, ai không, họ


(Cũng không biết thì làm sao có sự tự hào nào trong dòng họ
icủa mình? Nếu con người ta bị bứt ra khỏi dòng họ, làng
xóm, trôi nổi trong cái xã hội mà nền kinh tế hàng hoá và
đồng tiền chi phối như hiện nay thì việc học để làm quan,
để thăng quan tiến chức là chuyện đương nhiên. Học để có
chức có quyền và hễ có quyền là có tiền thế thì cái nền
Đạo học của những người đó làm sao có thể coi là chân
chính? Chỉ khi nào các thí sinh đi thi, họ thi bởi niềm tự
hào của quê hương, của dòng họ thì động cơ đi thi của họ
mới trong sáng, đến lúc đó thì nền Đạo học mói thật sự đạt
đến chuẩn mực. Những con người thi hết mình vì quê
liưưng, vì dòng họ sẽ được cả làng, cả dòng họ đón rước
trọng thể và lấy đó làm tấm gương cho con cháu mình
“qua hình thức vinh quy bái tổ”. Song bao giờ mới quay lại
cái thời đó? Cha ông chúng ta đã làm được liệu chúng ta
có làm được như cha ông mình chăng?

487
CHƯONG 8: ĐẠO HỌC VIỆT NAM TRUYỂN t h ố n g , q u ẽ HƯONG, dòng họ.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Alexandre De Rhodes. Lịch sử vương quốc đàng Ngoài -
Histoừe du Royaum de Tunquin. Bản Việt ngữ của Hồng
Nhuệ. Tủ sách Đại Kết. UB đoàn kết công giáo Tp
HCM.1994, tr: 38-41.
2. A. De Rhodes: Dictionarium Annammiticum, Lusitanum et
Latinum. Roma, 1651, tr: 4.
3. Đào Duy Anh: "Chữ Nôm: Nguồn gốc, cấu tạo và diễn
biến ”, Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1975.
4. Bemard Aurousseau. Văn Miếu Hà. Tạp chí Đông Dương,
năm 1919,tr: 7-13.
5. Nguyễn Ngọc Bích: "Những địa tầng Ngôn ngữ trong lịch
sử tiếng Việt"
6. Bộ Giáo dục và Đào tạo: Báo cáo công tác đào tạo Sau đại
học năm 2005. HN tháng 1 năm 2006.
7. Bộ Giáo dục và Đào tạo: Đề án Đổi mới giáo dục đại học
Việt Nam giai đoạn 2006-2020 - Hà Nội 2005, Phần toàn
văn Nghị quyết Chính phủ.
8. Thu Giang Nguyễn Duy Cần: Lão tử Đạo đức kinh, NXB
Văn Học, Hà Nội 1991.
9. Nguyễn Tài cẩn: “Một số vấn đề chữ Nôm ", Nhà Xuất
Ban Đại Học, Hà Nội,' 1985.
10. Nguyễn Tài cẩn: “Nguồn gốc và quá trình hình thành
cách học Hán Việt ”, NXB KHXH - Hà Nội, 1979.

488
I NHO GIÁO - ĐẠO HỌC TRÊN ĐẤT KINH KÌ (THẢNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

]11. Bửu Cầm: "ưu điểm và Khuyết điểm của chữ Nôm”, ,
Khảo CỔ Tập San 1, Sài Gòn, 1960.
12. Nguyễn Đổng Chi: c ổ văn học sử. Nxb Hàn Thuyên.
13. Đỗ Quang Chính: Lịch sử chữ Quốc ngữ (1620-1659). Ra
khơi, Sài Gòn, 1972.’
14. Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, NXB Sử
học , Hà Nội năm 1961.
15. Quỳnh Cư: Các triều đại Việt Nam, NXB Thanh Niên,
Hà Nội 1993.
16. Giáp Văn Cường và Trần Kết Hùng: Lão tủ Đạo đức
huyền bí, NXB Đồng Nai, 1995.
17. Nguyễn Mạnh Cường, cùng nhóm khai quật. 1999. Báo
cáo đào thăm dò khu Khải Thánh Văn Miếu (Hà Nội). Tư
liệu Viện Khảo cổ học.
18. Nguyễn Mạnh Cường, Bùi Minh Trí , Hà Văn cẩn: Đào
khảo cổ Văn Miếu (Hà Nội). Tạp chí Khảo cổ học số
3/2000
19. Nguyễn Mạnh Cường - Nguyễn Ngọc Miên: Niên đại
C14 của hai cọc gỗ trong h ố khai quật ở Văn Miếu -
Quốc TửGiám (Hà Nội). Tạp chí Khảo cổ học số 4/2000.
20. Lê Anh Dũng: Con đường tam giáo Việt Nam, NXB Tp
HCM, 1990.
21. Lê Quý Đôn: Đại Việt thông sử, NXB KHXH, Hà Nội
1982.
22. Lê Quý Đôn: Phủ Biên tạp lục, NXBKHXH, Hà Nội
1982.

489
CHUONG 8: ĐẠO HỌC VIỆT NAM TRUYỂN THỐNG, QUỄ HƯONG, DÒNG HỌ...

23. Phạm Vãn Đồng: Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.
Tạp chí Văn học, số 3.
24. Bùi Xuân Đính: Tiến sĩ Nho học ở Hà Nội. Nxb Thanh
Niên năm 2005.
25. DeFrancis, J: “Colonialism and Language Policy in Viet
Nam”, 1977.
26. Dumoutier. ỈS9S.Văn Miếu, Tạp chí Dân tộc học. Tr:
493.
27. Trần Vãn Giáp, Lê Vãn Đặng: “Lược khảo về nguồn gốc
chữ Nôm ”, Ngày Nay Publishing, USA, 2003 .
28. Nguyễn Thi Hồng Hà: Văn Miếu và ch ế độ học hành thi
cử. Luận văn cao học năm 2000, Lưu tại Phòng tư liệu
Khoa Lịch sử trường Đại hoc Khoa học xã hôi và nhân
vãn quốc gia
29. Lê Thi Thanh Hoà, Việc đào tạo và sử dụng quan lại của
triều Nguyễn, Nxb KHXH 1998, tr.78
30. Dương Quảng Hàm, Lê Văn Đặng: “Chữ Nôm và công
việc khảo cứu cổ văn Việt Nam ”, dịch từ “ Le Chu Nom
ou ecriture demotique, son importance dans Petude de
1’ancienne Annamite”, Bulletin generale de 1’Introduction
publique, No. 7.
31. Nguyên Đình Hòa: "Graphemic borrowings from Chinese-
The case o f chu Nom-Vietnam 's demotic script”, Bulletin of
the Institute of History and Philosophy, Volume 61, Part 2
(june 1990), Ddate Published: March, 1992.
32. Lê Trọng Hoàn: La Sơn phu tử, NXB Văn Hoá, Hà Nội
1993. ’

490
NHO GIÁO - ĐẠO HỌC TRẼN ĐẤT KINH KÌ (THẢNG LONG - ĐỔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

33. Nguyễn Quang Hồng: "Chữ Nôm trên đường hội nhập
với khu vực và thế giới", Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Hà
Nội, 2002.
34. Trần Đình Hượu: Nho giáo và văn học Việt Nam trong
cận đại, NXB VHTT, Hà Nội năm 1995.
35. Trần Trọng Kim: Nho Giáo, NXB Lê Thăng, Hà Nội
1944.
36. Nguyễn Khắc Kham. 1974. CỔ điển học Trung Hoa, Tạp
chí Khảo cổ học. Sài Gòn 1974. Tr: 297.
37. Nguyễn Khắc Kham: "Chữ Nôm or the former
Vietnamese script and its past contributions to
Vietnamese literature”, Area and Culture Series, volumn
2 4 , Tokyo university, Japan.
38. HỒ Công Khanh: Chữ Quốc ngữ và những vấn đề liên
quan đến thư pháp. Nxb Tp HCM, năm 2002.
39. Đinh Gia Khánh và Cù Huy Cận: Các vùng văn hóa Việt
Nam, NXB Văn Học, Hà Nội năm 1995.
40. Vũ Khiêu: Nho giáo xưa và nay. NXB KHXH, Hà Nội
1990.
41. Phan Huy Lê: Lịch sử ch ế độ phong kiến Việt Nam tập
III, NXB Giáo Dục, Hà Nội 1962.
42. Ngô Sĩ Liên: Đại Việt sử ký toàn thư, NXB KHXh, Hà
Nội 1995.
43. Ngô Cao Lãng: Lịch triều tạp kỷ, NXB KHXH Hà Nội
năm 1980.

491
CHUƠNG 8: ĐẠO HỌC VIỆT NAM TRUYỂN THỐNG, QUÊ HUONG. DÒNG HỌ...

44. Trần Huy Liệu: Lịch sử thủ đô Hà Nội, NXB Sừ học , Hà


Nội 1960.
45. Lĩnh Nam chích quái. Truyện Mục Thận; Nxb Vãn Học
Hà Nội 1990.,tr: 150-151.
46. Lược khảo về khoa cử Việt Nam, Hà Nội năm 1941.
47. Đặng Thai Mai: Văn thơ cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ
XX. Nxb Văn Học 1960, tr: 167.
48. H.Maspero: Etude sur la phonetique historique de la
langue Anamite. Les initiales (Bulletin de L Ecol
Frangcais d’ẻxtrêm orientt, tome XII, 1912, No 1, tr: 12.
49. Nguyễn Tá Nhí: "Các phương thức biểu ám trong cấu
trúc chữ Nôm Việt”, Nhà xuất bản khoa học xã hội, Hà
Nội, 1998.
50. Tăng Kim Ngân: CỔ tích thần kỳ người Việt, đặc điểm,
cấu tạo cốt truyện, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội 1994.
51. Những ông nghè ông cống triều Nguyễn, NXB Tp HCM,
năm 1995.
52. Poliakov. 1988. v ề niên đại khởi dựng Văn Miếu Quốc
Tử Giám. Etude Vietnammien. Số 3. 1988. Tr: 28-37.
53. Quốc sử quán triều Nguyễn. Đại Nam nhất thống chí,
tiu, phần tỉnh Hà Nội, tr: 207- 208
54. Nguyễn Thị Chân Quỳnh, Lối xưa xe ngựa, Nxb Văn
Nghệ Tp.HCM và Trung tâm Nghiên cứu quốc học 2000,
tr.66.
55. Đặng Đức Siêu: Chữ viết trong nền ván hóa, NXB Vãn
Hoá, Hà Nội 1982.

492
NHO GIẢO - ĐẠO HỌC TRÊN ĐẤT KINH KÌ (THẢNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

56. Đặng Đức Siêu, Nguyễn Quang Lộc: Văn Miếu-Quốc Tử


Giám một biểu tượìĩg của nền văn hóa Việt Nam,
TTHĐVHKH-VMQTG, Hà Nội, 1993.
57. Sờ Văn hoá thông tin Hà Nội: Văn Miếu - Quốc Tử Giám
và ch ế độ học hành thi củ Việt Nam. Hà Nội 1992.
58. Hà Văn Tấn: Có một hệ thống chữ viết trước Hán, KCH
số 3.1983.
59. Nguyễn Kim Thản, Nguyễn Trọng Báu, Nguyễn Văn Tu:
Tiếng Việt trên con đường phát triển. Nxb KHXH, Hà
Nội năm 2002.
60. Phan Đăng Thanh: Cải cách của Hồ Quý Ly, NXB Chính
trị quốc gia, Hà Nội 1996.
61. Ngô Đức Thọ: Các nhà Khoa báng Việt Nam 1075-
1919, NXB Văn Học, Hà Nội 1993.
62. Ngô Đức Thọ dịch và chú thích: "Đại Việt Sử ký toàn
thi?', Bản khắc năm Chính Hòa thứ 18 (1697), NXB Khoa
học xã hội, Hà Nội, 1998.
63. Dương Hưng Thuận: Lão tử và Đạo đức kinh. NXB Sự
thật, Hà nội 1963.
64. Y Đông Trung Thái (Itochuta).1918. Kiến trúc Khổng
giáo trong Đông Kinh Kiến Trúc. Tr: 370-403.
65. Nguyễn Đăng Thục: Đại quan tư tưởng thời đại nhà Trần
(1225-1400)-, Việt Nam Khảo cổ tập san số VII Sài Gòn
1974.
66. Nguyễn Đăng Thục: Lịch sử tư tưởng Việt Nam, NXB
Thành phố HCM năm 1990.

493
CHUÔNG 8: ĐẠO HỌC VIỆT NAM TRUYỀN THỐNG, QUÊ HƯONG, DÒNG HỌ...

67. Nguyễn Minh Tường: c ả i cách hành chính dưới triều


Minh Mệnh, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội 1996.
68. Văn bia Văn Miếu, NXB Thế Giới, Hà Nội 1993.
69. Chu Viễn: Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, NXB Bộ
Vãn hóa Giáo dục, Sài Gòn 1966.
70. Tang Thương ngẫu lục. Bản dịch của Đạm Nguyên. Bộ
Quốc gia giáo dục xuất bản năm 1962.
71. Trần Quốc Vượng và Hà Văn Tấn: Lịch sử chế độ phong
kiến Việt Nam tập II, NXB Giáo dục 1960.
72. Nguyễn Văn Xuân: Một trăm năm chữ Quốc ngữ. Tạp chí
Văn học tháng 11/1967.

494
NHO GIÁO - ĐẠO HỌC TRÊN ĐẤT KINH KÌ (THĂNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

MỤC LỤC

Tự Bạch 5
CHƯƠNG I: NHO GIÁO c ó PHẢI LA m ộ t tô n g iá o ?
VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG CỦA NÓ VÀO “ĐẠO HỌC’ ở VIỆT NAM 11
1.1. Nho giáo có phải là một tôn giáo? 11
1.2. Ảnh hưởng của nho giáo vào “Đạo học” Việt Nam 47
CHƯƠNG II: VỤ NGHI ÁN TRÊN Hổ TẢY
VÀ NHỮNG VẤN ĐẾ LỊCH s ử CÒN Bỏ NGỎ TRÊN ĐẤT “RỐNG BAY’ 71
2.1. Nghi án hồ Dâm Đàm 71
2.2. Nho Phật xung đột 87
2.3. Nhà Nho và dân tộc 96
2.4.Cái cách cùa Hố Quý Ly hay con đường định mệnh
icủa Nho giáo 111
CHƯƠNG III:
VĂN MIẾU - QUỐC TỬ GIẢM - MỘT QUÁ TRlNH nhận b iế t 121
3.1. Văn Miếu hôm nay 121
3.2. Có một Vãn Miếu trong lòng đất 157
3.3. Nhận thức mói từ cuộc đào 170
3.4. Di tích Văn Miếu trong thế kỷ XXI 179
CHƯƠNG IV:
VÀI NÉT VẾ CHẾ Độ THI c ử NHO GIÁO TRÊN 0ẤT KINH KỲ 189
4.1. Học tập của nho sinh duới thời phong kiến 189
4.2. Thi cử và các khoa thi dưới thời Lý - Trần - Lê 205
4.3. Học hành - thi cử dưới triều Nguyễn 240
CHƯƠNG V:
CÁC TIẾN Sĩ NHO HỌC CÒN LƯU DANH TRÊN ĐẤT KINH KỲ 255
5.1. Bia Đại Bảo tam niên - Tấm bia đầu tiên của Văn
Miếu đế danh tiến sĩ 255

495
CHƯƠNG 8: ĐẠO HỌC VIỆT NAM TRUYỂN THỐNG, QUÊ HUONG, DÒNG HỌ...

67. Nguyễn Minh Tường: c ả i cách hành chính dưới triều


Minh Mệnh, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội 1996.
68. Văn bia Văn Miếu, NXB Thế Giới, Hà Nội 1993.
69. Chu Viễn: Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, NXB Bộ
Văn hóa Giáo dục, Sài Gòn 1966.
70. Tang Thương ngẫu tục. Bản dịch của Đạm Nguyên. Bộ
Quốc gia giáo dục xuất bản năm 1962.
71. Trần Quốc Vượng và Hà Văn Tấn: Lịch sử chế độ phong
kiến Việt Nam tập II, NXB Giáo dục 1960.
72. Nguyễn Vãn Xuân: Một trăm năm chữ Quốc ngữ. Tạp chí
Văn học tháng 11/1967.

494
NINNIHO GIẢO - ĐẠO HỌC TRÊN ĐẤT KINH KÌ (THẢNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

MỤC LỤC

TiTFiựBạch 5
CHƯƠNG I: NHO GIÁO c ó PHẢI LÀ MỘT TÔN GIÁO?
V À NHỮNG TẤC ĐỘNG CỦA NÓ VÀO “ĐẠO HỌC’ ở V IỆ T NAM 11

1.1.[. 1. Nho giáo có phải là một tôn giáo? 11


1.1.[ ..2. Ảnh hưởng của nho giáo vào“Đạo học” Việt Nam 47
CHƯƠNG II: VỤ NGHI ẤN TRÊN Hổ TAY
VA/ÂM NHỮNG VẤN ĐỀ LỊCH s ử CÒN Bỏ NGỎ TRÊN ĐẤT “RỐNG BAY' 7Ị
2.1.1. I. Nghi án hồ Dâm Đàm 71
2.2.Ĩ..2. Nho Phật xung đột 87
2.2.1..3. Nhà Nho và dân tộc 96
2.-Ỉ.Ĩ. 4 Cải cách của Hồ Quý Ly hay con đirrmg định mệnh
củxủía Nho giáo 111
CHƯƠNG III:
VAN MIẾU-QUỐC TỬ GIÁM - MỘT QUÁ TRlNH NHẬN BIẾT 121
3.Ỉ3.1. Văn Miếu hôm nay 121
3.33.12. Có một Văn Miếu trong lòng đất 157
3.3.Ỉ..3. Nhận thức mới từ cuộc đào 170
3.4.1.4. Di tích Văn Miếu trong thế kỳ XXI 179
CHƯƠNG IV:
VÀ I N ÉT V Ế C H Ế Đ ộ THI c ử NHO GIÁO TRÊN ĐẤT KINH KỲ 189
4.U. 1. Học tập của nho sinh dưới thời phong kiến 189
4.Ị.L2. Thi cử và các khoa thi dưới thời Lý - Trần - Lê 205
4 .Ị.L 3 . Học hành - thi cử dưới triều Nguyễn 240
CHƯƠNG V:
C Á C TIẾN S ĩ NHO HỌC CÒN LƯU DANH TRÊN ĐẤT KINH KỲ 255
5.5.Ĩ. 1. Bia Đại Bảo tam niên - Tấm bia đầu tiên của Văn
MvMIiếu để danh tiến sĩ 255

495
CHƯONG 8: ĐẠO HỌC VIỆT NAM TRUYỂN THỐNG. QUỄ HƯƠNG, DÒ Ni HỌ...

5.2. Danh sách các vị quan tế tửu và


tu nghiệp tại Quốc Tử Giám - Hà Nội 263
5.3. Các tiến sĩ Nho học trên đất Kinh kỳ 267
CHƯƠNG VI: ĐẠO HỌC V IỆ T NAM
TRƯỚC NHỮNG CÚ HUÝCH CỦA LỊCH s ử 331
6.1. Người Việt cổ trong lộ trình đi tìm một loại
chữ viết riêng cho mình 331
6.2. Chữ Nôm - một đặc trưng dân tộc 334
6.3. Chữ Quổc ngữ - quá trình hình thành và phát triển 352
CHƯƠNG VII. ĐÀO TẠO SAU ĐẠII HỌC
TRƯỚC NHỮNG THÁCH THỮC CỦA NỀN KINH T Ế THỊ TRƯỜNG 383
7.1. Bức tranh giáo dục Việt Nam thời mở cửa 385
7.2. Mấy cảnh báo về đào tạo tiến sĩ Việt Nam thời mc
cửa 420
7.3. Đào tạo sau đại học 30 nam - một chạng đườiiỊ
không ngắn 433
CHƯƠNG VIII: ĐẠO HỌC VIỆT NAM - TRUYỀN THÓNG,
QUÊ HƯƠNG - DÒNG HỌ ‘MỘT ĐI c ó TRỞ LẠI?* 455
8.1. Nhạt nhoà dấu ấn truyền thống 455
8.2. Liộu có trờ lại “mô hình vinh quy bái tổ” cho cá(
tiến sĩ thời nay ? 474
Tài liệu tham khảo 488

496
NHÀ XUẤT BẢN VĂN HÓA THÔNG TIN
Sô 43 Lò Đúc, Hà Nội
ĐT: 04.9712448

NHO GIÁO - ĐẠO HỌ C T R ÊN ĐẤT KIN H K Ỳ


(THĂNG LONG - ĐÔNG ĐÔ - HÀ NỘI)

Chịu trácli nhiệm xuất bản:


B Ù I V IỆ T BẮ C

Chịu trách nlúệm nội dung:


PHẠM NGỌC LU ẬT

ĐỖ T H Ị M IN H T H Ú Y

Biên tập: TH À N H CÔNG

Sửa bản in: H U YEN m i

V ẽ bìa: N G U Y Ễ N T IÊ N DŨNG

In 5 0 0 cuốn, khổ 1 4 ,5 x 2 0 ,5cm tại X í nghiệp IN SA V IN A .

You might also like