TL Triết Học

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 15

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

***

TIỂU LUẬN MÔN TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN


Đề tài: Quy luật lượng chất và sự vận dụng quy luật lượng chất
của bản thân trong quá trình học tập

Hà Nội, tháng 6, năm 2023

Lời cam đoan


Em xin cam đoan toàn bộ nội dung của đề tài là kết quả nghiên cứu của bản thân. Các tài liêụ đư
ợc sử dụng trong bài tiểu luận có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng. Các kết quả trong đề tài là trung th
ực và hoàn toàn khách quan. Em hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan của mình.

Người thực hiện

Đỗ Hương Giang
Lời cảm ơn

Lời đầu tiên, em xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc đến thầy Lê Ngọc Thông - Giảng viên phụ
trách môn Triết học Mác - Lênin Trường Đại học Kinh tế Quốc dân. Qua việc tham dự các tiết
học của thầy, em đã hiểu rõ hơn về những nội dung căn bản nhất của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đồ
ng thời, việc nắm vững những kiến thức đó đã giúp em hiểu rõ hơn phương hướng áp dụng phươ
ng pháp luận khoa học phục vụ cho việc tiếp thu các tri thức thuộc lĩnh vực chuyên môn được đà
o tạo của bản thân. Trong quá trình tìm hiểu những những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác -
Lênin, em nhận thấy Quy luật lượng - chất có tác động rất lớn trong việc học tập và rèn luyện củ
a bản thân nói riêng và với những sinh viên khác nói chung. Vì vậy, em đã lựa chọn Quy luật
lượng - chất làm đề tài để thực hiện tiểu luận với mong muốn làm sâu sắc hơn vốn hiểu biết và
giúp bản thân vận dụng được nhiều hơn những kiến thức này vào thực tiễn, cụ thể là trong quá trì
nh học tập.

Bài tiểu luận được thực hiện với mong muốn làm sáng tỏ nội dung đề tài mà em đã chọn. Tuy nh
iên, vì trình độ lý luận còn hạn chế, tiểu luận này không tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế nhất
định, em rất mong nhận được những góp ý, bổ sung từ thầy để bài tiểu luận được hoàn thiện hơn.

Một lần nữa em xin cảm ơn thầy vì sự tâm huyết của thầy trong mỗi bài giảng, trong việc truyền
tải những tri thức, những chân lý tới với mỗi học trò cũng như sự tận tình, chu đáo trong việc
hướng dẫn em hoàn thiện bài tiểu luận này. Em xin chân thành cảm ơn thầy.
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
PHẦN NỘI DUNG
1. CƠ SỞ LÝ THUYẾT: QUY LUẬT LƯỢNG – CHẤT
1.1. Nội dung quy luật lượng – chất
1.2. Các khái niệm, phạm trù có liên quan
1.2.1. Phạm trù “chất”
1.2.2. Phạm trù “lượng”
1.3. Mối quan hệ biện chứng giữa sự thay đổi về lượng và sự thay đổi về chất theo quy luật
lượng – chất
1.3.1. “Độ”
1.3.2. “Điểm nút”
1.3.3. “Bước nhảy”
1.4. Ý nghĩa phương pháp luận
2. VẬN DỤNG QUY LUẬT LƯỢNG CHẤT TRONG HỌC TẬP
2.1. Giới thiệu bản thân
2.2. Định hướng vận dụng quy luật lượng - chất trong quá trình học tập của bản thân
2.2.1 Vận dụng quy luật lượng – chất trong cách tích lũy kiến thức
2.2.2 Vận dụng quy luật lượng – chất trong ý thức học tập
2.2.3 Vận dụng quy luật lượng – chất trong phương pháp học tập
2.3. Những thành công đạt được khi vận dụng quy luật lượng - chất trong quá trình học
tập của bản thân
2.4. Những thất bại gặp phải khi vận dụng quy luật lượng - chất trong quá trình học tập củ
a bản thân
2.5 Nguyên nhân thành công và thất bại của việc vận dụng quy luật lượng - chất trong quá
trình học tập
2.6 Đề xuất giải pháp
PHẦN KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHẦN MỞ ĐẦU

1. Đặt vấn đề

Phép biện chứng duy vật là “linh hồn sống”, là “cái quyết định” của chủ nghĩa Mác, bởi khi
nghiên cứu các quy luật phát triển phổ biến của hiện thực khách quan và của nhận thức khoa học,
phép biện chứng duy vật thực hiện chức năng phương pháp luận chung nhất của hoạt động nhận
thức và thực tiễn. Chức năng này thể hiện ở chỗ, con người dựa vào các nguyên lý, được cụ thể
hoá bằng các cặp phạm trù và quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật để đề ra các nguyên
tắc tương ứng, định hướng hoạt động lý luận và thực tiễn của mình.

Quy luật “từ những thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại” là một trong ba
quy luật của phép biện chứng duy vật, nó cho biết phương thức của sự vận động, phát triển của c
ác sự vật hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và trong tư duy của con người.

Trong công cuộc đổi mới đất nước, phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục là một trong nhữn
g yêu cầu cấp thiết được đặt lên hàng đầu. Đây không chỉ là vấn đề từ phía nhà trường trong việc
đổi mới về quy mô, chất lượng giảng dạy mà còn là trách nhiệm của bản thân mỗi người học tron
g việc chủ động thay đổi và thích nghi để đáp ứng với yêu cầu học tập trong thời đại mới. Người
học nói chung và thế hệ sinh viên hiện nay nói riêng không chỉ có nhiệm vụ kế thừa và phát huy
những thành tựu của nền giáo dục nước nhà mà còn phải lĩnh hội những tinh hoa, những tiên tiến
trong kho tàng tri thức của các quốc gia khác trên thế giới cùng với việc bắt kịp sự phát triển nha
nh chóng của công nghệ. Những yêu cầu đó đặt ra cho thế hệ trẻ của Việt Nam những thách thức
to lớn, khiến những con người năng động ấy cũng khó lòng đạt được thành quả chỉ trong một sớ
m một chiều.

Việc học tập là cả một quá trình tích lũy tri thức không ngừng nghỉ, bản thân nó luôn có sự vận đ
ộng và biến đổi không ngừng. Quá trình tích lũy tri thức đối với mỗi người không giống nhau mà
còn phụ thuộc vào khả năng tiếp thu, mục đích và điều kiện học tập của mỗi cá nhân. Bất kể quá
trình tiếp thu diễn ra dù nhanh hay chậm, dù ít hay nhiều thì sự tích lũy về tri thức ấy đều khiến c
ho con người đạt đến những thay đổi nhất định, Triết học gọi đó là sự biến đổi về chất. Sự vận độ
ng, biến đổi trong quá trình học tập của con người có tính trật tự và mối liên hệ mang tính lặp lại
diễn ra theo một quy luật, cụ thể là “quy luật lượng chất”.

Việc nhận thức đúng đắn khái niệm, mối quan hệ biện chứng và ý nghĩa phương pháp luận của q
uy luật lượng chất là nền tảng lý luận làm cơ sở để con người vận dụng vào việc giải quyết các tì
nh huống về tự nhiên, xã hội hoặc tư duy, nhằm lý giải được sự vận động và phát triển của mọi s
ự vật hiện tượng để có những phương pháp và cách thức giải quyết một cách đúng đắn những vấ
n đề trong thực tiễn cuộc sống, cụ thể ở đây là vận dụng quy luật này vào quá trình học tập của si
nh viên.

2. Mục đích và đối tượng nghiên cứu


Với bài tiểu luận này, em muốn làm sáng tỏ hơn những nội dung và khía cạnh liên quan tới quy l
uật lượng chất để từ đó đưa ra quyết định vận dụng quy luật này vào học tập và đời sống của bản
thân như thế nào. Do vậy, đối tượng nghiên cứu được xác định trong bài tiểu luận này là các khía
cạnh của quy luật lượng chất và sự vận dụng quy luật này vào quá trình học tập cũng như trong
cuộc sống của bản thân.

3. Phạm vi nghiên cứu

Dựa trên yêu cầu đề tài, phạm vi nghiên cứu của tiểu luận này chỉ giới hạn ở việc phân tích sự ch
uyển hóa lượng – chất và cách thức vận dụng quy luật lượng chất vào quá trình học tập và các
hoạt động sống để bản thân ngày càng tiến bộ.

4. Phương pháp nghiên cứu

Bài tiểu luận được thực hiện dựa trên hai phương pháp nghiên cứu:

- Phương pháp luận duy vật biện chứng: là phương pháp luận dựa trên những quan điể
m về nhân sinh quan, thế giới quan, sử dụng các nguyên tắc của một hệ thống lý luận
nhất định để giải quyết các vấn đề.
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: là phương pháp thu thập, phân tích và tổng hợp cá
c thông tin tìm kiếm ở các nguồn tài liệu làm cơ sở cho lý luận của đề tài.
PHẦN NỘI DUNG

1. CƠ SỞ LÝ THUYẾT: QUY LUẬT LƯỢNG – CHẤT

1.1. Nội dung quy luật lượng – chất

Quy luật là mối liên hệ phổ biến, khách quan, bản chất, bền vững, tất yếu giữa các đối tượng và n
hất định tác động khi có các điều kiện phù hợp. Những quy luật của phép biện chứng mang tính
phổ biến, phản ánh những mối liên hệ phổ biến của tất cả các đối tượng hiện thực, đồng thời
cũng phản ánh cả nội dung chung, thống nhất vốn có.

Có thể khái quát lại nội dung cơ bản của quy luật “chuyển hóa những thay đổi về lượng dẫn đến
những thay đổi về chất và ngược lại” như sau: Mọi đối tượng đều là sự thống nhất của hai mặt
đối lập chất và lượng, những sự thay đổi dần dần về lượng vượt quá giới hạn của độ sẽ dẫn đến
sự thay đổi căn bản về chất thông qua bước nhảy, chất mới ra đời tiếp tục tác động trở lại duy
trì sự thay đổi của lượng.

Quy luật này chỉ ra cách thức chung nhất của sự vận động và phát triển, khi cho thấy sự thay đổi
về chất chỉ xảy ra khi sự vật, hiện tượng đã tích lũy những thay đổi về lượng đạt đến ngưỡng
nhất định. Quy luật cũng chỉ ra tính chất của sự vận động và phát triển, khi cho thấy sự thay đổi
về lượng của sự vật, hiện tượng diễn ra từ từ kết hợp với sự thay đổi nhảy vọt về chất làm cho sự
vật, hiện tượng vừa tiến bước tuần tự, vừa có những bước đột phá vượt bậc.

1.2. Các khái niệm, phạm trù có liên quan

1.2.1. Phạm trù “chất”

Chất là khái niệm dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng; là sự
thống nhất hữu cơ của các thuộc tính, yếu tố tạo nên sự vật, hiện tượng làm cho sự vật, hiện
tượng là nó mà không phải là sự vật hiện tượng khác (trả lời cho câu hỏi sự vật, hiện tượng đó là
gì? Giúp phân biệt nó với sự vật, hiện tượng khác). Đặc điểm cơ bản của chất là nó thể hiện tính
ổn định tương đối của sự vật, hiện tượng; nghĩa là khi nó chưa chuyển hóa thành sự vật, hiện
tượng khác thì chất của nó vẫn chưa thay đổi. Mỗi sự vật, hiện tượng đều có quá trình tồn tại và
phát triển nhiều giai đoạn, trong mỗi giai đoạn ấy qua nó lại có chất riêng. Như vậy, mỗi sự vật,
hiện tượng không phải chỉ có một chất mà có thể có nhiều chất.

Chất và sự vật có mối quan hệ chặt chẽ, không tách rời nhau. Trong hiện thực khách quan không
thể tồn tại sự vật không có chất và không thể có chất nằm ngoài sự vật. Chất của sự vật được
biểu hiện qua những thuộc tính của nó, nhưng không phải bất kỳ thuộc tính nào cũng biểu hiện
chất của sự vật. Thuộc tính của sự vật có thuộc tính cơ bản và thuộc tính không cơ bản. Những
thuộc tỉnh cơ bản được tổng hợp lại tạo thành chất của sự vật; quy định sự tồn tại, vận động và
phát triển của sự vật, chỉ khi nào chúng thay đổi hay mất đi thì sự vật mới thay đổi hay mất đi.
Nhưng thuộc tính của sự vật chỉ bộc lộ qua các mối liên hệ cụ the với các sự vật khác. Bởi vậy,
sự phân chia thuộc tính thành thuộc tính cơ bản và thuộc tính không cơ bản cũng chỉ mang tính
tương đối. Trong mối liên hệ cụ thể này, thuộc tính này là thuộc tính cơ bản thể hiện chất của sự
vật, trong mối liên hệ cụ thể khác sẽ có thêm thuộc tính khác hay thuộc tính khác là thuộc tính cơ
bản. Ví dụ: Trong mỗi quan hệ với động vật thì các thuộc tính có khả năng chế tạo, sử dụng công
cụ, có tư duy là thuộc tính cơ bản của con người còn những thuộc tính khác không là thuộc tính
cơ bản. Song trong quan hệ giữa những con người cụ thể với nhau thì những thuộc tính của con
người về nhân dạng, về dấu vân tay.... lại trở thành thuộc tính cơ bản.

Chất của sự vật không những được quy định bởi chất của những yếu tố tạo thành mà còn bởi
phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành, nghĩa là bởi kết cấu của sự vật. Trong hiện thực
các sự vật được tạo thành bởi các yếu tố như nhau, song chất của chúng lại khác. Ví dụ: Kim
cương và than chì đều có cùng thành phần hóa học do các nguyên tố cácbon tạo nên nhưng do
phương thức liên kết giữa các nguyên tử cácbon là khác nhau, vì thế chất của chúng hoàn toàn
khác nhau. Kim cương rất cứng, còn than chì lại mềm. Trong một tập thể nhất định nếu phương
thức liên kết giữa các cá nhân biến đổi thì tập thể đó có thể trở nên vững mạnh, hoặc sẽ trở thành
yếu kém, nghĩa là chất của tập thể biến đổi.

Từ đó có thể thấy sự thay đổi về chất của sự vật vừa phụ thuộc vào sự thay đổi các yếu tố cấu
thành sự vật, vừa phụ thuộc vào sự thay đổi phương thức liên kết giữa các yếu tố ấy.

1.2.2. Phạm trù “lượng”

Lượng là khái niệm dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật, hiện tượng về mặt quy mô,
trình độ phát triển. các yếu tố biểu hiện ở số lượng các thuộc tính, ở tổng số các bộ phận, ở đại
lượng, ở tốc độ và nhịp điệu vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng. Lượng còn biểu hiện
ở kích thước dài hay ngắn, số lượng lớn hay nhỏ, tổng số ít hay nhiều, trình độ cao hay thấp, tốc
độ vận động nhanh hay chậm, màu sắc đậm hay nhạt... Đặc điểm cơ bản của lượng là tính khách
quan vì nó là một dạng biểu hiện của vật chất, chiếm một vị trí nhất định trong không gian và tồn
tại trong thời gian nhất định. Trong sự vật, hiện tượng có nhiều loại lượng khác nhau; có lượng là
yếu tố quy định bên trong, có lượng chỉ thể hiện yếu tố bên ngoài của sự vật, hiện tượng; sự vật,
hiện tượng càng phức tạp thì lượng của chúng cũng phức tạp theo. Trong tự nhiên và phần nhiều
trong xã hội, lượng có thể đo, đếm được nhưng trong một số trường hợp của xã hội và nhất là
trong tư duy, lượng khó đo được bằng số liệu cụ thể mà chỉ có thể nhận biết được bằng năng lực
trừu tượng hóa. Sự phân biệt giữa chất và lượng chỉ có ý nghĩa tương đối, tùy theo từng mối
quan hệ mà xác định đâu là lượng và đâu là chất; cái là lượng trong mối quan hệ này, lại có thể là
chất trong mối quan hệ khác.

1.3. Mối quan hệ biện chứng giữa sự thay đổi về lượng và sự thay đổi về chất theo quy luật
lượng – chất
Mối quan hệ giữa các khái niệm cấu thành quy luật chỉ ra rằng, mỗi sự vật, hiện tượng là một thể
thống nhất giữa hai mặt chất và lượng, chúng tác động biện chứng lẫn nhau theo cơ chế khi sự vậ
t, hiện tượng đang tồn tại, chất và lượng thống nhất với nhau ở một độ; nhưng cũng trong phạm v
i độ đó, chất và lượng đã tác động lẫn nhau làm cho sự vật, hiện tượng dần biến đổi bắt đầu từ lư
ợng. Quá trình thay đổi của lượng diễn ra theo xu hướng hoặc tăng hoặc giảm nhưng không lập t
ức dẫn đến sự thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng; chỉ khi nào lượng thay đổi đến giới hạn nh
ất định (đến độ) mới dẫn đến sự thay đổi về chất. Như vậy, sự thay đổi về lượng tạo điều kiện ch
o chất đổi và kết quả là sự vật, hiện tượng cũ mất đi, sự vật, hiện tượng mới ra đời.

Các khái niệm “độ”, “điểm nút”, “bước nhảy” xuất hiện trong quá trình tác động lẫn nhau giữa c
hất và lượng.

1.3.1. “Độ”

Độ là khái niệm dùng để chỉ mối liên hệ thống nhất và quy định lẫn nhau giữa chất với lượng; là
giới hạn tồn tại của sự vật, hiện tượng mà trong đó sự thay đổi về lượng chưa dẫn đến sự thay đổi
về chất; sự vật, hiện tượng vẫn là nó, chưa chuyển hóa thành sự vật, hiện tượng khác.

1.3.2. “Điểm nút”

Điểm giới hạn mà tại đó sự thay đổi về lượng đạt tới chỗ phá vỡ độ cũ, làm cho chất của sự vật,
hiện tượng thay đổi, chuyển thành chất mới, thời điểm mà tại đó bắt đầu xảy ra bước nhảy, gọi là
điểm nút.
Độ được giới hạn bởi hai điểm nút và sự thay đổi về lượng đạt tới điểm nút trên sẽ dẫn đến sự ra
đời của chất mới. Sự thống nhất giữa lượng mới với chất mới tạo ra độ mới và điểm nút mới.

1.3.3. “Bước nhảy”

Bước nhảy là khái niệm dùng để chỉ giai đoạn chuyển hóa cơ bản về chất của sự vật, hiện tượng
do những thay đổi về lượng trước đó gây ra, là bước ngoặt cơ bản trong sự biến đổi về lượng.
Bước nhảy kết thúc một giai đoạn biến đổi về lượng, là sự gián đoạn trong quá trình vận động
liên tục của sự vật, hiện tượng.

Tùy vào sự vật, hiện tượng, tùy vào mâu thuẫn vốn có của chúng và vào điều kiện, trong đó diễn
ra sự - đổi về chất của sự vật, hiện tượng mà có nhiều hình thức bước nhảy. Căn cứ vào quy mô
và nhịp độ của bước nhảy, có bước nhảy toàn bộ và bước nhảy cục bộ. Bước nhảy toàn bộ làm
cho tất cả các mặt, các bộ phận, các yếu tố... của sự vật. hiện tượng thay đổi. Bước nhảy cục bộ
chỉ làm thay đổi một số mặt, một số yếu tố, một số bộ phận... của chúng. Sự phân biệt bước nhảy
toàn bộ hay cục bộ chỉ có ý nghĩa tương đối, bởi chúng đều là kết quả của quá trình thay đổi về
lượng. Căn cứ vào thời gian của sự thay đổi về chất và dựa trên cơ chế của sự thay đổi đó, có
bước nhảy tức thời và bước nhảy dần dần. Bước nhảy tức thời làm chất của sự vật, hiện tượng
biến đổi mau chóng ở tất cả các bộ phận. Bước nhảy dần dần là quá trình thay đổi về chất diễn ra
bằng cách tích lũy dần những yếu tố của chất mới và loại bỏ dần các yếu tố của chất cũ, trong
trường hợp này sự vật, hiện tượng biến đổi chậm hơn.

1.4. Ý nghĩa phương pháp luận

Thứ nhất, trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải biết tích lũy về lượng để có biến
đổi về chất; không được nôn nóng cũng như không được bảo thủ. Bước nhảy làm cho chất mới ra
đời, thay thế chất cũ là hình thức tất yếu của sự vận động, phát triển của mọi sự vật, hiện tượng;
nhưng sự thay đổi về chất do thực hiện bước nhảy gây nên chỉ xảy ra khi lượng đã thay đổi đến
giới hạn, tức là đến điểm nút, đến độ nên muốn tạo ra bước nhảy thì phải thực hiện quá trình tích
lũy về lượng.

Thứ hai, khi lượng đã đạt đến điểm nút thì thực hiện bước nhảy là yêu cầu khách quan của sự
vận động của sự vật, hiện tượng; tư tưởng nôn nóng thường biểu hiện ở chỗ không chú ý thỏa
đáng đến sự tích lũy về lượng mà cho rằng sự phát triển của sự vật, hiện tượng chỉ là những bước
nhảy liên tục; ngược lại, tư tưởng bảo thủ thường biểu hiện ở chỗ không dám thực hiện bước
nhảy, coi sự phát triển chỉ là những thay đổi về lượng. Do vậy, cẩn khắc phục cả hai biểu hiện
trên.

Thứ ba, sự tác động của quy luật này đòi hỏi phải có thái độ khách quan, khoa học và quyết tâm
thực hiện bước nhảy, tuy đều có tính khách quan, nhưng quy luật xã hội chỉ diễn ra thông qua
hoạt động có ý thức của con người do vậy, khi thực hiện bước nhảy trong lĩnh vực xã hội, tuy
vẫn phải tuân theo điều kiện khách quan, nhưng cũng phải chú ý đến điều kiện chủ quan. Nói
cách khác, trong hoạt động thực tiễn, không những cần xác định quy mô và nhịp điệu bước nhảy
một cách khách quan, khoa học. chống giáo điều, rập khuôn, mà còn phải có quyết tâm và nghị
lực để thực hiện bước nhảy khi điều kiện đã chín muổi, chủ động nắm bắt thời cơ thực hiện kịp
thời bước nhảy khi điều kiện cho phép, chuyển thay đổi mang tính tiến hóa sang thay đổi mang
tính cách mạng.

Thứ tư, quy luật yêu cầu phải nhận thức được sự thay đổi về chất còn phụ thuộc vào phương thức
liên kết giữa các yếu tố tạo thành sự vật, hiện tượng; do đó, phải biết lựa chọn phương pháp phù
hợp để tác động vào phương thức liên kết đó trên cơ sở hiểu rõ bản chất, quy luật của chúng.

2. VẬN DỤNG QUY LUẬT LƯỢNG CHẤT VÀO QUÁ TRÌNH HỌC TẬP

2.1. Giới thiệu bản thân

Mỗi người đều độc đáo theo một cách riêng biệt của mình như câu châm ngôn của nhà thơ nổi tiế
ng Milton. Mỗi người chúng ta sinh ra trên thế gian đều mang trong mình một năng lực đặc biệt
cùng khát vọng tìm ra sứ mệnh của bản thân. Câu hỏi đặt ra là liệu chúng ta có ý thức về những
thiên bẩm được ban tặng và vận dụng được chúng hay không.

Em nhận thức được về tiềm năng của bản thân từ rất sớm. Ngay từ khi còn nhỏ, em đã nhận thấy
bản thân có niềm đam mê và năng khiếu về hội hoạ. Từ những ngày đầu tiên cầm bút, em đã thử
vẽ rất nhiều bức tranh, mô phỏng lại hình dáng của sự vật xung quanh như nhà cửa, đồng ruộng,
làng quê, con người, động vật,… và đặt bút vẽ. Khi bản thân thực sự yêu thích một lĩnh vực, việc
dành hàng giờ để luyện tập và trau dồi kĩ năng đối với bản thân em chưa bao giờ là một sự gò ép
hay bắt buộc. Trái lại, đó lại là khoảng thời gian mà tâm hồn được chìm đắm trong nghệ thuật,
được thoả sức thể hiện ước mơ và sự sáng tạo của bản thân trên trang giấy. Cho đến hiện tại, dù
chuyên ngành đang theo đuổi không liên quan nhiều đến nghệ thuật, nhưng khả năng thường
thức mỹ thuật và vẽ những bức tranh cơ bản vẫn giúp em hoàn thành tốt hơn việc học tập và rèn
luyện trên lớp, đồng thời cũng là một sở thích lành mạnh, đem tới những giây phút nghỉ ngơi
thoải mái.

Việc đọc sách cũng đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong việc hình thành thế giới quan và
cách sống của bản thân. Điều khiến em cảm thấy thích thú là khám phá những trải nghiệm mới
thông qua sách, hiểu rõ hơn về những vùng đất mà bản thân chưa từng đặt chân tới và giải đáp
những tò mò, thắc mắc về thiên nhiên và vũ trụ rộng lớn ngoài kia. Đọc câu chuyện trong sách
cho em cảm giác như được hoá thân thành từng nhân vật, lí giải niềm hạnh phúc, đau khổ, yêu
thương, thù ghét của họ, để nhận ra cuộc sống chứa đựng muôn vàn màu sắc.

Việc dành thời gian để theo đuổi sở thích của bản thân cũng như giữ vững thành tích trên lớp
khiến cho bản thân em cũng gặp nhiều thiếu sót trong những kinh nghiệm thực tế. Vì vậy, khi trở
thành một sinh viên của Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, em đã quyết định dành nhiều thời
gian hơn cho các hoạt động ngoại khoá để trau dồi không chỉ kiến thức chuyên môn mà còn rèn
luyện các kỹ năng mềm như kỹ năng giao tiếp, kỹ năng làm việc nhóm,… Qua việc tiếp xúc và
học hỏi từ những người xung quanh, em được thổi thêm một luồng gió mới, tiếp thêm nhiều
động lực và mục tiêu để phát triển trong tương lai.

2.2. Định hướng vận dụng quy luật lượng - chất của bản thân trong quá trình học tập

2.2.1 Vận dụng quy luật lượng – chất trong cách tích lũy kiến thức

Để đạt được mục tiêu tốt nghiệp với tấm bằng giỏi trong tay, em thấy rằng bản thân cần phải tích
lũy nhiều hơn về lượng – kiến thức, để dẫn tới những biến đổi về chất – kết quả học tập được
nâng cao. Để hiện thực hoá mục tiêu đó, em đã lên kế hoạch học tập cũng như ôn tập lại các bài
học đã học đều đặn mỗi ngày để tránh quên kiến thức. Bên cạnh đó, vì số lượng tín chỉ cần đạt
của chuyên ngành Ngôn ngữ Anh là khá lớn nên bản thân em cũng phải rèn luyện năng lực tiếng
Anh mỗi ngày. Việc tích luỹ kiến thức và kỹ năng mỗi ngày sẽ đặt nền móng vững vàng cho việc
vận dụng kiến thức tiếng Anh để tìm kiếm công việc phù hợp với bản thân trong tương lai.

2.2.2 Vận dụng quy luật lượng – chất trong ý thức học tập

Môi trường giáo dục bậc đại đòi hỏi mỗi sinh viên cần phải có nắm rõ lý thuyết cũng như có hiểu
biết thực tế trong các môn học cao hơn so với bậc trung học phổ thông. Để thích nghi được với
sự thay đổi này, em cần phải xác định được một mục tiêu học tập phù hợp với chính bản thân, từ
đó mới có thể tiến hành xây dựng được phong cách và phương pháp học tập, rèn luyện một cách
hợp lý. Việc xác định được một hướng đi cụ thể là một nhân tố vô cùng quan trọng, tránh đi
được những sự lãng phí không cần thiết các nguồn lực để có thể đạt được kết quả tốt trong quá tr
ình học tập và nghiên cứu.

Ngoài ra, em cũng có kế hoạch rèn luyện cho bản thân tính chăm chỉ, chủ động, tự giác trong học
tập và tiếp thu những tri thức mới từ việc thay đổi những thói quen hàng ngày như luôn đến lớp
đúng giờ, học tập và sinh hoạt theo giờ giấc điều độ, thường xuyên rèn luyện thể dục để nâng cao
sức khoẻ,… Quá trình tích luỹ những điều đơn giản ấy sẽ đem lại những kết quả to lớn, góp phần
giúp bản thân em đạt được nhiều thành tựu trong học tập cũng như trong cuộc sống.

2.2.3 Vận dụng quy luật lượng – chất trong phương pháp học tập

Trong quá trình tiếp thu kiến thức mới, em nhận thấy bản thân cần phải dành thời gian tìm hiểu
trước bài giảng bằng cách đọc trước giáo trình, đọc thêm những tài liệu có liên quan, ôn tập
những kiến thức đã được học,... Thành quả của quá trình ôn tập và chuẩn bị trước là khi tiếp cận
những kiến thức mới, bản thân em có thể tránh được việc tiếp nhận kiến thức một cách thụ động,
một chiều hay sự đứt gãy mạch kiến thức mà thay vào đó có thể tiếp thu kiến thức một cách chủ
động liền mạch, đồng thời ghi nhớ và vận dụng những kiến thức ấy một cách tốt hơn.

Ngoài ra, em cũng áp dụng phương pháp học tuần tự, từ dễ đến khó, từ cơ bản tới nâng cao. Việc
áp dụng phương pháp học tập khoa học này sẽ giúp em xây dựng được nền tảng vững chắc, từ đó
mở rộng thêm nhiều kiến thức nâng cao, cũng đồng thời làm giảm thiểu sự nóng vội, đốt cháy
giai đoạn. Tích luỹ kiến thức cơ bản hàng ngày, nâng cao dần trình độ, học từ thấp tới cao sẽ
giúp bản thân em đạt được thành tích cao trong học tập và rèn luyện.

2.3. Những thành công đạt được khi vận dụng quy luật lượng - chất trong quá trình học
tập

- Trong năm học lớp 12, sau khi đã tích luỹ đủ kiến thức của các môn học, em đã tham dự kỳ thi
Tốt nghiệp Trung học phổ thông Quốc gia và đạt đủ điều kiện để tốt nghiệp. Không những vậy,
nhờ việc tập trung ôn luyện các môn thi thuộc tổ hợp khối A1, em đã đạt được số điểm đủ để đỗ
vào Trường Đại học Kinh tế Quốc dân và trở thành một sinh viên của Khoa Ngoại ngữ Kinh tế.
- Để có thể đạt điểm cao trong môn Quản lý học, em đã tích luỹ kiến thức và điểm cộng trong
suốt học kỳ. Mỗi buổi học em đều cố gắng có mặt đúng giờ, chăm chỉ lắng nghe bài giảng trên
lớp, ghi chép những lưu ý của thầy vào vở và ôn tập những kiến thức đã học. Kết quả là bản thân
em đã nắm vững kiến thức của môn học và đạt được đánh giá điểm A cho môn học.

- Để đạt được mục tiêu sử dụng thành thạo phần mềm chỉnh sửa Canva, mỗi tuần, em đều dành
ra 2 tiếng tìm đọc các tài liệu hướng dẫn sử dụng phần mềm. Bên cạnh đó, khi được giao làm
việc nhóm chuẩn bị bài thuyết trình, em cũng chủ động xung phong nhận phần thiết kế các trang
trình bày nhằm rèn luyện kỹ năng của bản thân. Sau 3 tháng, em đã sử dụng thành thạo công cụ
Canva để giải quyết những công việc như thiết kế bài trình bày, áp phích, thiệp mời,… Sau khi
thành thạo công cụ Canva, mục tiêu mới của em là sử dụng thành thạo các chức năng của phần
mềm Microsoft Powerpoint và đạt được Chứng chỉ tin học văn phòng MOS.

2.4. Những thất bại gặp phải khi vận dụng quy luật lượng - chất trong quá trình học tập

- Để chuẩn bị cho bài kiểm tra lấy điểm thành phần 40% của môn Toán cho các nhà kinh tế, em
đã dành ra một tuần để ôn tập lại những kiến thức đã học. Tuy nhiên do việc tích luỹ kiến thức
còn chưa đủ, trong bài kiểm tra này em không đạt được điểm cao.

- Sau khi đã hoàn thiện khoá học ôn thi Ielts 6.0 – 6.5, em vẫn chưa dám đăng kí tham dự kì thi
do lo ngại điểm số không đạt như mong muốn.

2.5 Nguyên nhân thành công và thất bại của việc vận dụng quy luật lượng - chất trong quá
trình học tập

Sau khi tổng hợp và xem xét quá trình vận dụng quy luật lượng - chất của bản thân trong học tập,
em nhận thấy những nguyên nhân căn bản dẫn tới sự thành công và thất bại.

Nguyên chính dẫn tới thành công là do sự thay đổi về lượng - kiến thức, kinh nghiệm – đã đạt
đến độ chín muồi, vượt qua điểm nút và dẫn tới bước nhảy vọt về chất – thành tựu đạt được.

Nguyên nhân chính dẫn tới những thất bại là do bản thân em đã có phần nôn nóng, biểu hiện ở
chỗ không chú ý thỏa đáng đến sự tích lũy về lượng mà cho rằng sự phát triển của sự vật, hiện
tượng là những bước nhảy liên tục. Bên cạnh đó, đã có lúc bản thân em giữ tư tưởng bảo thủ,
không dám thực hiện bước nhảy, coi sự phát triển chỉ là những thay đổi về lượng.

2.6 Đề xuất giải pháp

- Phải biết tích lũy về lượng để có biến đổi về chất; không được nôn nóng cũng như không được
bảo thủ.
- Muốn tạo ra bước nhảy vọt về chất, đạt được nhiều thành tích thì phải thực hiện quá trình tích
lũy về lượng, về kiến thức trong thời gian dài, liên tục.
- Trong quá trình học tập và rèn luyện, không những cần xác định mục tiêu, phương thức học tập
một cách khách quan, khoa học, chống giáo điều, rập khuôn, mà còn phải có quyết tâm và nghị
lực để thực hiện bước nhảy khi điều kiện đã chín muổi, chủ động nắm bắt thời cơ thực hiện kịp
thời bước nhảy khi điều kiện cho phép.
- Phải biết lựa chọn phương pháp học tập phù hợp để tác động vào ý thức học tập và khả năng
tiếp thu kiến thức trên cơ sở hiểu rõ năng lực của bản thân.
PHẦN KẾT LUẬN

Sự vật, hiện tượng mới xuất hiện là do bước nhảy được thực hiện; trong sự vật, hiện t
ượng đó lượng lại biến đổi, đến điểm nút mới, lại xảy ra bước nhảy mới. Cứ như thế,
sự vận động của sự vật, hiện tượng diễn ra, lúc thì biến đổi tuần tự về lượng, lúc thì
nhảy vọt về chất, tạo nên một đường dài thay thế nhau vô tận sự vật, hiện tượng cũ b
ằng sự vật, hiện tượng mới. Quy luật lượng đổi - chất đổi còn nói lên chiều ngược lại,
nghĩa là khi chất mới đã khẳng định mình, nó tạo ra lượng mới phù hợp để có sự thốn
g nhất mới giữa chất với lượng.

Như vậy, quy luật chỉ ra rằng quan hệ lượng - chất là quan hệ biện chứng. Những thay
đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và ngược lại; chất là mặt tương đối ổn
định, lượng là mặt dễ biến đổi hơn. Lượng biến đổi, mâu thuẫn với chất cũ, phá vỡ đ
ộ cũ, chất mới hình thành với lượng mới; lượng mới lại tiếp tục biến đổi, đến độ nào
đó lại phá vỡ chất cũ đang kìm hãm nó. Quá trình tác động qua lại lẫn nhau giữa lượn
g và chất tạo nên sự vận động liên tục

Phương hướng đề ra để nâng cao tỉ lệ thành công và giảm thiểu tỉ lệ thất bại khi vận dụng
quy luật lượng - chất trong quá trình học tập của bản thân em ở đây là: “dục tốc bất đạt” – nên
thực hiện từng bước một, không nên nhảy vọt, đốt cháy giai đoạn. Khi cảm thấy lượn
g chưa thay đổi đạt đến giới hạn nhất định của độ thì không nên thực hiện “bước nhảy”,
mà phải thực hiện “bước nhảy” một cách phù hợp với từng điều kiện, hoàn cảnh cụ thể đ
ể “chất” mới có thể ra đời.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Giáo trình Triết học Mác – Lênin (Dành cho bậc đại học hệ không chuyên lý luận chính trị),
NXB Chính trị Quốc gia Sự thật.

[2] Nhiều tác giả, Nguyễn Chương Nhiếp (chủ biên), Nguyễn Ngọc Khá (chủ biên), 2007, Hỏi v
à đáp môn triết học Mác – Lênin, Nxb. Trẻ, TP.HCM.

[3] Nhiều tác giả, Trần Văn Phòng (chủ biên), 2006, Tìm hiểu môn học triết học Mác – Lênin: D
ưới dạng hỏi & đáp, Nxb. Lý luận Chính trị, Hà Nội.

[4] Lê Doãn Tá (2003), Một số vấn đề Triết học Mác – Lênin: Lý luận và thực tiễn (tái bản có bổ
sung), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

You might also like