Thiên Chúa Giáo

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 34

THIÊN CHÚA GIÁO

TỔNG QUAN VỀ THIÊN CHÚA GIÁO


I. THIÊN CHÚA GIÁO
Tại Việt Nam, do các yếu tố lịch sử mà từ "Thiên Chúa giáo" thường được dùng để
gọi Công giáo Rôma. Tuy nhiên, xét về mặt ngữ nghĩa thì cụm từ "Thiên Chúa
giáo" có thể đề cập đến tất cả các tôn giáo khởi nguồn từ Tổ Phụ Abraham, khi đó
cách gọi Thiên Chúa (Thượng Đế) được dùng để đề cập tới Đấng tối cao và duy
nhất.
Từng tôn giáo có quan điểm và danh hiệu về Thiên Chúa (Thượng Đế) khác nhau.
Theo các quan điểm này thì Thiên Chúa giáo bao gồm 03 nhánh chính:
Ki-tô giáo ( Cơ Đốc giáo - thuật ngữ Hán Việt, tin vào Chúa Jesus): Bao gồm các
nhánh chính là: Công giáo La Mã, Chính Thống giáo, Tin Lành, Anh giáo và một
số nhánh nhỏ khác.....đều thờ Thiên Chúa Ba Ngôi - Thiên Chúa là duy nhất, hiện
hữu trong ba ngôi vị: Chúa Cha, Chúa Con (Chúa Jesus) và Chúa Thánh Linh
(Chúa Thánh Thần)
Do Thái giáo thờ Thiên Chúa (Thượng Đế) mang danh hiệu Giavê
Hồi giáo thờ Thiên Chúa (Thượng Đế) mang danh hiệu là Thánh Allah
Như vậy, em thuộc Giáo hội Công giáo Rôma (Catholic) là một nhánh của Ki-tô
giáo (Cơ Đốc giáo).
II. SƠ LƯỢC VỀ SỰ HÌNH THÀNH CÁC NHÁNH CỦA THIÊN CHÚA GIÁO
Các tôn giáo khởi nguồn từ Tổ phụ Abraham đều có nguồn gốc từ Do Thái giáo
(Judaism) phổ biến tại đất nước Do thái cổ đại trước thời kỳ lưu đày tại Babylon
vào đầu thiên niên kỷ thứ nhất trước công nguyên. Người Do Thái giáo không coi
Chúa Jesus là Đấng Cứu thế.
Ki-Tô giáo (Tin vào Chúa Jesus) xuất hiện vào thế kỷ thứ nhất như là một hình
thức cải cách triệt để của Do Thái giáo, mau chóng lan truyền đến Hy Lạp và La
Mã, từ đó tiến đến Châu Á, Châu Âu, Châu Mỹ và các nơi khác trên thế giới. Trải
qua nhiều thế kỷ, Kitô giáo tự chia cắt thành nhiều giáo hội và giáo phái khác nhau
như: Công giáo La Mã, Chính Thống giáo, Tin Lành, Anh giáo....
Vào thế kỷ thứ 6, Hồi giáo xuất hiện trên Bán đảo Ả Rập. Tuy nguyên thủy không
phải là một nhánh ly khai từ Do Thái giáo hay Kitô giáo, Hồi giáo tự cho mình là
sự tiếp nối và thay thế cho hai tôn giáo nói trên. Vì vậy người ta có thể tìm thấy
trong Hồi giáo nhiều di sản từ Do Thái giáo và Kitô giáo. Người Ả Rập là dòng dõi
của Tổ phụ Abraham theo phổ hệ IshmaeL ( một người con trai của Abraham)
III. TỔ PHỤ ABRAHAM
Ký thuật về khởi nguyên của các tôn giáo bắt nguồn từ Abraham được tìm thấy
trong sách Sáng thế ký mà theo truyền thuyết Do Thái được viết bởI Moses vào
thiên niên kỷ thứ hai trước công nguyên, theo nhiều ước tính, vào năm 1500 TCN.
Theo Sáng thế ký, các nguyên lý căn bản của Do Thái giáo được mặc khải tuần tự
theo dòng dõi các tổ phụ, từ Adam đến Jacob (cũng được gọi là Israel).
Có sáu nhân vật quan trọng trong Kinh Thánh sống trước Abraham:
Adam và Eva, các con trai, Cain và Abel và dòng dõi của họ,
Enoch và Noal. Noah là người đã cứu gia đình mình và tất cả chủng loại thú vật
trên mặt đất bằng Con tàu Noah trong cơn Đại hồng thủy
Các vị này không để lại bất kỳ hệ thống đạo lý nào – đơn giản họ chỉ sống cuộc đời
mình, làm nhiều điều tốt và xấu mà không để lại chỉ báo đặc biệt nào giúp giải
thích các hành động của họ. Họ chỉ tồn tại như những mắt xích trong một chuỗi các
sự kiện chuẩn bị cho sự khai sinh một tôn giáo lớn sau này.
Vì vậy Abraham xuất hiện như một hình tượng nổi bật được ba tôn giáo độc thần
lớn nhất nhìn nhận là người đóng vai trò quan trọng trong việc thành lập nền văn
minh chung của họ.
Theo Sáng thế ký, Abraham được kêu gọi rời bỏ Ur (thuộc miền Nam Iraq ngày
nay), thành phố quê hương của mình, để được Thiên Chúa "làm cho ông trở nên
một dân lớn". Abraham (hay Ibrahim theo tiếng Ả Rập) có tám con trai trong đó có
2 người con được nhắc đến nhiều nhất là:
Ishmael, con của Hagar, nữ tì của vợ ông là Sarah. Ishmael được coi là tổ tiên của
người Ả rập (Hồi giáo)
Isaac, con của Sarah, vợ ông. Cũng theo ký thuật này, dân Do Thái là hậu duệ của
Jacob, con trai của Isaac. Jacob sau này được đổi tên thành Israel. Do thái giáo dựa
trên giao ước được thành lập tại núi Sinai giữa Thiên Chúa và "con cái của Israel"
(hậu duệ của mười hai con trai của Israel).
Chúa Jesus thuộc dòng dõi dân Do thái
Ki-tô giáo nhìn nhận Chúa Jesus, là Đấng Messiah (Đấng Cứu Thế xuống trần gian
cứu chuộc loài người) mà người Do Thái mong đợi, là Con Thiên Chúa, và là một
thân vị trong Ba Ngôi (Chúa Con)
Do Thái giáo không nhìn nhận Chúa Jesus là Đấng Messiah
Hồi giáo nhìn nhận Chúa Jesus là một tiên tri và các nhà tiên tri Do Thái sau
Abraham (như Moses) là được Thiên Chúa soi dẫn và họ xem Muhammad (người
sáng lập Hồi giáo) là nhà tiên tri sau cùng.
Một điều đặc biệt nữa là, Trong Ki-Tô giáo, Sứ thần Gabriel truyền tin cho Đức
Mẹ Maria việc Chúa Jesus nhập thể trong lòng bà cũng chính là Sứ thần truyền
Kinh Koran từ Thánh Allah cho tiên tri Muhammad trong Hồi giáo
Như vậy, từ Tổ phụ Abraham và dòng dõi của ông đã sản sinh ra 03 tôn giáo lớn:
Do Thái giáo, Ki-Tô giáo, Hồi giáo với số lượng tín đồ chiếm hơn 1/2 Dân số Thế
giới.

TỔNG QUAN VỀ KI-TÔ GIÁO


Ở Phần 01, chúng ta đã cùng tìm hiểu sơ lược Thiên Chúa giáo là các tôn giáo
khởi nguồn từ Tổ phụ Abraham bao gồm 03 tôn giáo lớn, chiếm hơn 1/2 dân số thế
giới gồm:
1. Ki-tô giáo ( Cơ Đốc giáo - thuật ngữ Hán Việt, tin vào Chúa Jesus) thờ Thiên
Chúa Ba Ngôi - Thiên Chúa là duy nhất, hiện hữu trong ba ngôi vị: Chúa Cha,
Chúa Con (Chúa Jesus) và Chúa Thánh Linh (Chúa Thánh Thần)
2. Do Thái giáo thờ Thiên Chúa (Thượng Đế) mang danh hiệu Giavê
3. Hồi giáo thờ Thiên Chúa (Thượng Đế) mang danh hiệu là Thánh Allah
Hôm nay, chúng ta sẽ cùng đến với nhánh đầu tiên trong Thiên Chúa giáo đó là Ki-
tô giáo – Tôn giáo lớn nhất thế giới với khoảng 2,3 tỉ tín hữu, chiếm hơn 31% dân
số thế giới (năm 2015)
I. SƠ LƯỢC VỀ KI-TÔ GIÁO
1. Tên gọi
Ki-tô giáo (thuật ngữ phiên âm) hay Cơ Đốc giáo (thuật ngữ Hán Việt) là một
trong các tôn giáo khởi nguồn từ Tổ Phụ Abraham, đặt nền tảng trên giáo huấn, sự
chết trên thập giá và sự sống lại của Chúa Jesus như được ký thuật trong Kinh
thánh Tân ước
Theo Kinh thánh Cựu ước (Ki-tô giáo và Do Thái giáo) Thiên Chúa là đấng đã
sáng tạo ra vũ trụ, muôn loài trong 6 ngày và ngày thứ 7 Ngài nghỉ ngơi. Adam và
Eva không nghe lời Thiên Chúa đã ăn trái của "cây biết điều thiện điều ác" (trái
cấm) nên bị Thiên Chúa đuổi khỏi Vường địa đàng (Eden). Hai người này truyền
tội lỗi (gọi là tội tổ tông, nguyên tội) cho con cháu là loài người. Bởi loài người
mang tội, Thiên Chúa sẽ giáng sinh xuống thế làm người và chịu khổ hình để loài
người được hòa giải với Thiên Chúa.
(Kinh Koran của Hồi giáo nói cả Adam và Eva đều ăn trái cấm, và Chúa sau này
đã tha thứ cho họ và sau đó đưa họ xuống Trái Đất như những người đại diện của
mình. Ý tưởng tội tổ tông không tồn tại trong Đạo Hồi bởi Adam và Eva đã được
tha thứ sau khi họ xuất hiện trên Trái Đất theo Kinh Koran)
Ki-tô hữu (Cơ Đốc nhân) tin rằng Jesus là Con của Thiên Chúa và là Đấng
Messiah (Đấng cứu thế) của người Do Thái như đã được tiên báo trong Kinh thánh
Cựu ước
Các Ki-tô hữu tin rằng chỉ có một Thiên Chúa (Thượng Đế) duy nhất hiện hữu
trong ba thân vị gọi là Ba Ngôi: Chúa Cha, Chúa Con (Chúa Jesus) và Chúa Thánh
Linh (Chúa Thánh Thần)
Ki-tô giáo đóng một vai trò quan trọng trong nền văn hóa và văn minh phương
Tây.
2. Các nhánh chính của Ki-tô giáo
Trải qua hai thiên niên kỷ, các bất đồng về thần học và giáo hội học đã hình thành
các hệ phái Ki-tô giáo khác nhau:
Công giáo Rôma (Nhánh lớn nhất):
- Hiệp thông hoàn toàn với Tòa thánh Vatican, hiện nay đứng đầu là Đức Giáo
Hoàng Francis (Phanxicô) người Argentina.
- Ảnh hưởng bởi văn hóa La Tinh
- Giáo hội Công giáo hiện là nhánh Kitô giáo lớn nhất, với trên 1.3 tỉ thành viên,
tính đến năm 2018.
Chính thống giáo Đông phương
- Là nhánh Kitô giáo lớn thứ nhì trên thế giới
- Ảnh hưởng bởi văn hóa Hy Lạp
- Là một trong những định chế lâu đời nhất thế giới, Giáo hội Chính thống giáo
Đông phương đóng một vai trò quan trọng trong lịch sử và văn hóa Đông Âu, Hy
Lạp, Nga và Cận đông.
- Trong thiên niên kỉ đầu của Kitô giáo, Chính thống giáo Đông phương và Công
giáo Rôma cùng là một giáo hội, mặc dù có một số khác biệt giữa đông phương và
tây phương. Vào thế kỷ 11, các khác biệt này dẫn đến cuộc Ly giáo Đông - Tây
năm 1054, phân chia thành Chính thống giáo Đông phương và Công giáo Rôma.
Kháng cách (Tin Lành)
- Tách ra từ Công giáo Rôma, thường được dùng để chỉ cộng đồng các giáo hội
khởi phát từ cuộc cải cách tôn giáo bắt đầu vào thế kỷ 16, bởi Martin Luther - Là tu
sĩ Công giáo dòng Augustino, mục tiêu ban đầu của Luther là kêu gọi cải cách từ
bên trong giáo hội Công giáo Rôma., về sau ông tách rời khỏi Giáo hội Công giáo
và thành lập Giáo hội Luther
- Trong khi đó tại Châu Âu, nhiều người có quan điểm tương tự như của Luther
cũng bắt đầu tách khỏi Công giáo và thành lập các giáo phái khác nhau
- Cộng đồng Kháng Cách bao gồm các giáo hội thuộc Ki-tô giáo chấp nhận nền
thần học của cuộc Cải cách Tin lành .
- Nền thần học này từ chối công nhận thẩm quyền của Giáo hoàng, với niềm xác
tín rằng chỉ có Kinh Thánh
Anh giáo
- Tách ra từ Công giáo Rôma,
- Là một tôn giáo truyền thống thuộc Ki-tô giáo bao gồm những giáo hội có mối
quan hệ lịch sử với Giáo hội Anh, phần lớn gia nhập Cộng đồng Anh giáo
- Cuộc cải cách tại Anh khởi đầu với những mục tiêu chính trị của vua Henry VIII.
Nhà vua muốn "hủy bỏ hôn nhân" với vợ là Catherine của Aragon để kết hôn chính
thức với Anne Boleyn, với lý do là hoàng hậu không có hoàng tử để thừa kế ngai
vàng, nhưng Giáo hoàng Clement VII khước từ. Cùng lúc, nhà vua nhận thấy sự
cần thiết và những lợi ích chính trị và kinh tế khi ly khai khỏi Công giáo Rô-ma và
thành lập Giáo hội Anh mà nhà vua là người đứng đầu giáo hội.
- Đạo luật Quyền Tối thượng năm 1534 tuyên bố vua Henry VIII là "Lãnh đạo Tối
cao duy nhất trên đất" của Giáo hội Anh. Các đạo luật khác như luật giải thể tu
viện năm 1542 mang một số lượng lớn các loại tài sản của tu viện Công giáo vào
tay nhà vua, rồi sau đó vào tay các nhà quý tộc. Điều này tạo nên các nguồn vật
chất lớn lao hỗ trợ cho giáo hội mới vừa độc lập trên lãnh thổ nước Anh, dưới
quyền cai trị của một quân vương.
Một số nhánh nhỏ khác như: Cảnh giáo, Chính Thống giáo Cổ Đông phương….
II. SỰ HÌNH THÀNH KITÔ GIÁO
1. Khởi nguyên và sự ra đời của Chúa Jesus
Theo Tân Ứơc, Jesus tự xưng mình là Đấng Messiah (Đấng cứu thế) mà dân Do
Thái vẫn hằng mong đợi, nhưng đã bị nhóm lãnh đạo Tôn giáo và Dân sự cũng như
dân chúng chối từ và bị xem như là chống lại Đền thờ và luật lệ thời đó. Ngài cũng
bị buộc tội phạm thượng do dám gọi Thiên Chúa là Cha và bị kết án tử hình bởi
chính quyền La Mã vào khoảng năm 30 SCN
Vậy tâm điểm việc cứu rỗi của Ki-tô giáo là Jesus, do đó trọng tâm của cuộc sống
Kitô hữu là niềm xác tín rằng Jesus là Con Thiên Chúa giáng trần, là Đấng cứu
thế . Danh hiệu "Messiah" có nguồn gốc từ tiếng Hebrew nghĩa là "đấng được xức
dầu"
Hầu hết các học giả đồng ý rằng Jesus là một người Do Thái vùng Galilea, sinh
vào khoảng đầu thế kỷ thứ nhất và qua đời trong khoảng từ năm 30 đến 36 SCN tại
xứ Judea, ông chỉ sống và hoạt động tại Galilea và Judea chứ không ở nơi khác.
Các sách Phúc Âm chỉ tập trung vào quãng đời ba năm cuối khi Jesus sống dưới
trần gian, đặc biệt là tuần lễ cuối cùng trước khi bị đóng đinh vào thập giá, nhưng
chúng cũng cung cấp một số manh mối liên quan đến năm sinh của Chúa Jesus.
Đoạn Mátthêu 2:1 liên kết sự giáng sinh của Chúa Giêsu với sự cai trị của Herod
Đại đế - người đã chết vào khoảng năm thứ 4 trước Công nguyên, và đoạn Luca
1:5 viết rằng Herod đã trị vì trước khi Chúa Jesus giáng sinh, ngoài ra Phúc Âm
này còn đề cập đến cuộc điều tra dân số của chính quyền La Mã diễn ra mười năm
sau đó.
Luke 3:1-2 và 3:23 viết rằng Chúa Jesus bắt đầu sứ vụ khi ông khoảng ba mươi
tuổi, và đó là năm thứ 15 của triều đại Tiberius (khoảng năm 28 hoặc 29 Công
Nguyên).
Qua những chi tiết này và bằng các phương pháp phân tích khác nhau, hầu hết các
học giả đi đến đồng thuận rằng Chúa Jesus sinh trong khoảng từ năm thứ 6 đến 4
trước Công nguyên
Về thời điểm qua đời, tức là sự kiện ông bị đóng đinh trên cây thập giá, hầu hết các
học giả đồng ý rằng sự kiện này xảy ra trong khoảng từ năm 30 đến 33 Công
nguyên.
Các sách Phúc Âm nói rằng sự kiện này xảy ra trong thành xứ Judea mà Pilate
( Phi-la-tô) là tổng trấn thuộc quyền La Mã khoảng năm 26-36.
Các nhà thiên văn từ thời Isaac Newton đã cố gắng ước lượng chính xác ngày
Chúa Giêsu bị đóng đinh bằng cách phân tích chuyển động của Mặt trăng và tính
theo lịch sử của Lễ Vượt Qua theo lịch của người Do Thái. Và ngày giả thiết được
chấp nhận rộng rãi nhất theo phương pháp này là ngày 7 tháng 4, năm 30 AD và
ngày 3 tháng 4 năm 33 (kể cả lịch Julius)
2. Sự nhìn nhận của các nhánh Thiên Chúa giáo về Chúa Jesus
Ki-tô giáo
- Hầu hết Ki-tô hữu tin rằng, Jesus là Thiên Chúa, là Đấng Messiah (Đấng cứu thế)
mà sự xuất hiện đã được tiên báo trong Cựu ước.
- Họ tin rằng Jesus là Thiên Chúa hóa thân thành người, là Ngôi Hai trong Ba
Ngôi; rằng Jesus nhập thể bởi quyền phép Chúa Thánh Thần (Chúa Thánh Linh),
xuống thế gian để cứu nhân loại khỏi tội lỗi và sự chết bởi máu của Jesus đã đổ ra
khi bị đóng đinh trên thập tự giá như là sinh tế chuộc tội cho loài người.
- Họ cũng tin rằng Jesus đã sống lại từ cõi chết và sau đó trở lại Thiên Đàng
Hồi giáo
- Khác với đức tin của người Kitô giáo, tín đồ Hồi giáo tin rằng, Jesus là một trong
những nhà tiên tri (ngôn sứ) đáng được tôn trọng, được Thiên Chúa sai đến và là
Đấng Messiah nhưng họ không tin Jesus là "Con Thiên Chúa".
- Họ cũng không tin về sự chết và sự phục sinh của Jesus, xem đó chỉ là sự hóa
phép của Thiên Chúa dành cho tiên tri Jesus để đánh lừa người đương thời. Sau đó,
Jesus về trời cả hồn lẫn xác.
Do Thái giáo
- Cực lực phản đối cả hai niềm tin của hai tôn giáo trên.
- Họ không xem Jesus là Thiên Chúa xuống thế làm người cũng không nhận đó là
nhà tiên tri, thậm chí coi đó là nhà tiên tri giả hay kẻ xúc phạm đến Thiên Chúa của
họ. Họ cho rằng, kể từ sau sự sụp đổ lần thứ hai của Đền thờ Jerusalem, không có
một tiên tri nào xuất hiện thêm nữa.
- Cho đến tận bây giờ, họ vẫn đang hy vọng có một Đấng Messiah từ trời xuống.
3. Hội thánh sơ khai
Kitô giáo được biết đến từ thế kỷ thứ nhất khi các môn đồ của Jesus được gọi là
Ki-tô hữu tại thành Antiochia xứ Syria (nay thuộc Thổ Nhĩ Kỳ), nơi họ đến để lánh
nạn và định cư sau những cuộc bức hại đầu tiên tại xứ Judea. Nền thần học của Ki-
tô giáo sơ khai được thành lập và truyền bá bởi sứ đồ Phaolo (Paul) và các sứ đồ
khác.
Phaolô (Paul) được xem như là nhà truyền giáo quan trọng nhất rao giảng thông
điệp Kitô cho thế giới bên ngoài.
Trong suốt ba thế kỷ đầu tiên, Ki-tô giáo lan truyền nhanh chóng trong khu vực
Địa Trung Hải và được truyền bá ra cả bên ngoài Đế quốc La Mã
Vào thời kỳ ban đầu, Hội thánh bao gồm hai cộng đồng: Do Thái và Hy Lạp.
Trong khi cộng đồng Do Thái, phần đông là các tín hữu gốc Do Thái, muốn duy trì
một số tập tục và nghi thức của Do Thái giáo (Judaism) như phép cắt bì và một số
kiêng cữ khác thì cộng đồng Hy Lạp, những người chịu ảnh hưởng từ thế giới nói
tiếng Hy Lạp, tin rằng thông điệp của Kitô giáo nên được truyền bá theo các
phương pháp thích hợp hơn với thế giới bên ngoài.
Suốt thời kỳ này, trong khi đang phát triển mạnh mẽ, Hội thánh cũng phải trải qua
các cơn bách hại. Ngay từ những ngày đầu tiên, Kitô giáo là mục tiêu của những sự
bách hại
Tuy nhiên, Hoàng đế La Mã Constantinus I vào năm 313 đã ban hành chiếu chỉ
Milano hợp pháp hóa Kitô giáo
Vào năm 380 dưới triều hoàng đế La Mã Theodosius I, Kitô giáo được công nhận
làm quốc giáo . Đây là tiền đề để Kitô giáo lan rộng ra toàn thế giới

TỔNG QUAN VỀ KI-TÔ GIÁO (CƠ ĐỐC GIÁO) TẠI VIỆT NAM - ĐẠO
CÔNG GIÁO
Ở Phần 02, chúng ta đã cùng tìm hiểu sơ lược về Ki-tô giáo, nhánh lớn nhất của
Thiên Chúa giáo
Trải qua hai thiên niên kỷ, các bất đồng về thần học và giáo hội học đã hình thành
các hệ phái Ki-tô giáo khác nhau:
Công giáo Rôma (Nhánh lớn nhất):
Chính thống giáo Đông phương
Kháng cách (Tin Lành)
Anh giáo
Một số nhánh nhỏ khác như: Cảnh giáo, Chính Thống giáo Cổ Đông phương….
Chắc hẳn mỗi người chúng ta đều đã một lần đi ngang qua các địa danh như Nhà
thờ Lớn Hà Nội, Nhà thờ Đức Bà TP.HCM , nhà thờ đá Phát Diệm (Ninh Bình),
các nhà thờ ở khu vực huyện Hải Hậu, Giao Thủy tỉnh Nam Định....Ở bài viết lần
này, chúng ta cùng tìm hiểu về Ki-tô giáo tại Việt Nam
Rất mong nhận được các ý kiến đóng góp từ mọi người !
I. SƠ LƯỢC KI-TÔ GIÁO TẠI VIỆT NAM
Ki-tô giáo tại Việt Nam hiện gồm có Giáo hội Công giáo Rôma và các Hội thánh
Tin Lành.
Số lượng tín hữu Công giáo và Tin Lành ngày nay được ghi nhận lần lượt là chiếm
khoảng 7% và 2% dân số nước ta; tuy nhiên, con số thực tế có thể cao hơn.
Kitô giáo được truyền vào Việt Nam từ thế kỷ 16, thông qua các nhà truyền giáo
tới từ Châu Âu.
Ngày nay, Nhà nước với chủ trương hoạt động tôn giáo trong khuôn khổ của pháp
luật và "đoàn kết lương giáo" nên các sinh hoạt tôn giáo, trong đó có Ki-tô giáo,
diễn ra bình thường, tự do và ngày càng phát triển hơn.
II. CÔNG GIÁO TẠI VIỆT NAM
1.Tên gọi
Trong tiếng Việt, thuật ngữ Công giáo được dùng để dịch chữ catholicus hoặc
catholique, với ý nghĩa đó là "đạo chung, đạo phổ quát" đón nhận mọi người, chứ
không riêng cho dân tộc hay quốc gia nào
Các văn kiện tiếng Việt của Giáo hội hoặc Hội đồng Giám mục Việt Nam đều
dùng chữ "Công giáo"
Ban Tôn giáo Chính phủ Việt Nam cũng dùng chữ "Công giáo". Tuy nhiên, trong
ngữ cảnh không chính thức thì "Công giáo" ở Việt Nam cũng được gọi là "Thiên
Chúa giáo" hay "đạo Thiên Chúa".
2. Sơ lược
Công giáo Việt Nam là một bộ phận của Giáo hội Công giáo Rôma, dưới sự lãnh
đạo tinh thần của các Giám mục tại Việt Nam, hiệp thông với Đức giáo hoàng tại
Vatican.
Với tỉ lệ khoảng 7%, Việt Nam là quốc gia có tỉ lệ người Công giáo trong tổng dân
số xếp thứ năm ở châu Á (sau Đông Timor, Philippines, Liban và Hàn Quốc)
Về số lượng người Công giáo, Việt Nam cũng đứng thứ năm châu Á (sau
Philippines, Ấn Độ, Trung Quốc và Indonesia)
Công giáo có mặt tại Việt Nam từ thế kỷ 16 và được thiết lập vững chắc bởi các
thừa sai Dòng Tên Bồ Đào Nha và Ý vào đầu thế kỷ 17. Nền tảng truyền giáo do
các tu sĩ Dòng Tên xây dựng được tiếp nối bởi Hội Thừa sai Paris và Dòng Đa
Minh. Các linh mục người Việt đầu tiên được thụ phong vào năm 1668.
Hai giám mục người Việt tiên khởi là Gioan Baotixita Nguyễn Bá Tòng và Đa
Minh Hồ Ngọc Cẩn được bổ nhiệm vào thập niên 1930.
Năm 1960 chứng kiến sự hình thành Hàng Giáo phẩm Việt Nam.
Hội đồng Giám mục Việt Nam thống nhất được thành lập năm 1980 sau khi Thống
nhất đất nước.
Theo điều tra dân số chính thức của Nhà nước năm 2019, Công giáo là tôn giáo lớn
nhất tại Việt Nam, với hơn 5,86 triệu tín đồ.
Hiện nay Việt Nam có khoảng 7 triệu tín hữu Công giáo, thuộc về ba Giáo tỉnh
(Tổng Giáo phận) tương ứng với 3 miền Bắc, Trung, Nam là Hà Nội, Huế, và Sài
Gòn.
3. Lịch sử
a. Thời kỳ hình thành (1533 – 1659)
Cuối thế kỷ 16, đầu thế kỷ 17, Việt Nam đã bắt đầu giao thương với các nước
phương Tây như Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh, Pháp và với Nhật Bản ở châu Á để
trao đổi hàng hóa và vũ khí quân sự. Thời gian này, Công giáo cũng mở rộng
truyền giáo đến khắp nơi trên thế giới, trong đó có miền Viễn Đông Á châu.
Trong bộ Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục được Quốc sử quán triều
Nguyễn soạn thảo dưới triều Tự Đức có nói đến chỉ dụ cấm đạo Công giáo (khi đó
gọi là đạo Gia-tô, phiên âm từ chữ Giê-su trong tiếng Hán) chú thích như sau:
“Gia-tô, dã lục, Lê Trang Tông, Nguyên Hoà nguyên niên, tam nguyệt nhật,
Dương nhân I-nê-khu tiềm lai Nam Chân chi Ninh Cường, Quần Anh, Giao Thủy
chi Trà Lũ âm dĩ Gia-tô tả đạo truyền giáo" (Quốc sử quán triều Nguyễn, Khâm
Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, quyển XXXIII, tờ 5-6).
Dịch nghĩa: "Đạo Gia-tô, theo bút ký của tư nhân, tháng 3 năm Nguyên Hoà thứ
nhất (1533) đời Lê Trang Tông, có người Tây dương tên I-nê-khu, lén đến truyền
đạo Gia-tô ở làng Ninh Cường và Quần Anh, huyện Nam Chân và làng Trà Lũ,
huyện Giao Thủy".
Các làng trên lần lượt thuộc các huyện Trực Ninh, Hải Hậu và Xuân Trường, Giao
Thủy, tỉnh Nam Định ngày nay.
Tuy nhiên những chi tiết liên hệ tới I-nê-khu (có thể là phiên âm của Inácio trong
tiếng Bồ Đào Nha, Ignacio hoặc Íñigo trong tiếng Tây Ban Nha) ngày nay không
còn được ghi nhớ, và do đó không ai biết rõ về tông tích, cũng như về công cuộc
truyền đạo của vị thừa sai thứ nhất này.
Mặc dù vậy, với dấu tích đầu tiên trong tài liệu sử chính thống, nhiều nhà sử học
Công giáo Việt Nam đã chọn năm 1533 là năm khởi đầu cho đạo Công giáo tại
Việt Nam.
Các cộng đoàn tiên khởi
Những nỗ lực truyền giáo đầu tiên đã không đạt được thành tựu thường trực. Sang
thế kỷ 17, các vị thừa sai Dòng Tên thuộc nhiều quốc tịch dưới quy chế bảo trợ của
Bồ Đào Nha đã thiết lập nền tảng Công giáo vững chắc tại Đại Việt. Giai đoạn này
kéo dài từ năm 1615 tới năm 1659, vào cùng thời điểm lãnh thổ Việt Nam bị chia
cắt thành hai miền, lấy sông Gianh làm ranh giới. Phía Nam gọi là Đàng Trong, do
các chúa Nguyễn cai quản. Phía Bắc gọi là Đàng Ngoài do vua Lê, chúa Trịnh nắm
quyền.
Vì nhu cầu học hỏi tiếng Việt (lúc đó mới chỉ được viết bằng chữ Nôm, ngoài việc
chữ Hán được dùng làm văn tự chính thức), các giáo sĩ bắt đầu ghi lại âm tiết tiếng
Việt dưới dạng chữ Latinh. Các giáo sĩ đã có gắng tổ chức giáo hội bằng cách tập
trung khắp nơi những thanh thiếu niên và cả người đã đứng tuổi thiện chí, sống đời
độc thân và cùng với các linh mục trong giáo xứ hay là trong các nơi xa xôi hẻo
lánh để chia sẻ việc truyền đạo, nhất là chuyện dạy giáo lý cho dân chúng và cũng
giúp nâng cao đời sống xã hội của người dân; họ được gọi là các Kẻ giảng và Thầy
giảng.
Chữ Quốc ngữ được dùng để ghi âm tiếng Việt theo chữ cái Latinh nhưng song
hành với đó, kho tàng văn chương Hán-Nôm Công giáo còn lớn hơn nữa. Chỉ riêng
giáo sĩ Girolamo Maiorica, trong khoảng 1632-1656, đã viết 45 tác phẩm lớn nhỏ
bằng chữ Nôm, nổi tiếng nhất là cuốn Các Thánh Truyện viết năm 1646. Nhiều tác
phẩm bị hư hỏng và mất mát do thời gian, chiến tranh và bách hại tôn giáo.
Việc truyền đạo được vua chúa Việt Nam cho phép trong một số nơi với nhiều hạn
chế của các quan lại địa phương, nên các tín đồ gặp nhiều khó khăn trong việc giữ
đạo, có nơi phải bị giết chết như trường hợp thầy giảng Anrê Phú Yên ở Quảng
Nam ngày 26 tháng 7 năm 1644
b. Thời kỳ phát triển (1659 – 1820)
Ngày 9 tháng 9 năm 1659, Giáo hoàng Alexanđê VII qua Sắc chỉ Super Cathedram
quyết định thiết lập ở Việt Nam hai giáo phận tách ra từ giáo phận Macao, và chọn
hai người thừa sai thuộc Hội Thừa sai Paris làm Đại diện Tông Tòa. Giáo phận
Đàng Trong từ sông Gianh trở vào Nam do Giám mục Pierre Lambert de la Motte
cai quản. Giáo phận Đàng Ngoài từ sông Gianh trở ra Bắc do Giám mục François
Pallu cai quản.
Năm 1679, Giáo hoàng Innôcentê XI lại chia giáo phận Đàng Ngoài thành hai giáo
phận: Tây Đàng Ngoài (từ sông Hồng tới ranh giới Ai Lao) trao cho Hội Thừa sai
Paris dưới quyền quản nhiệm của Giám mục Bourges, và Đông Đàng Ngoài (từ tả
ngạn sông Hồng chạy ra biển), ban đầu cũng do Giám mục Deydier của Hội Thừa
sai Paris phụ trách nhưng năm 1693, Giám mục Deydier qua đời, Giám mục De
Bourges xin Tòa Thánh trao giáo phận này cho Dòng Đa Minh, vì từ 20 tháng 8
năm 1679 tất cả số nhân sự của dòng đó đã tập trung về đây.
Giám mục Pigneau de Béhaine, quen gọi là Bá Đa Lộc, Đại diện Tông tòa Đàng
Trong (1771-1799), đã hết lòng giúp đỡ Nguyễn Phúc Ánh, khi ông đang bị khốn
đốn bởi cuộc vây hãm của quân Tây Sơn. Giám mục này đã đưa hoàng tử Nguyễn
Phúc Cảnh (lúc bấy giờ mới lên 4 tuổi) sang Pháp và vận động người Pháp giúp đỡ
tàu chiến, vũ khí để Nguyễn Phúc Ánh chống Tây Sơn và chúa Trịnh.
Tâm định của các vị thừa sai và của Giám mục Bá Đa Lộc là muốn cho người
Công giáo Việt Nam được an thân giữ đạo và đạo Chúa được mở rộng. Ông đã
nuôi dạy Hoàng tử Cảnh ở dinh Tân Xá. Sau khi ở Pháp về năm 1789, hoàng tử
Cảnh không chịu làm lễ bái trước bàn thờ chư vị tiên đế khiến Gia Long rất bực
tức. Bá Đa Lộc cũng đã khuyên hoàng tử Cảnh phải tôn trọng tục lệ thờ kính ông
bà và lễ bái trước bàn thờ chư vị tiên đế. Đây cũng là một trong những nguyên
nhân sâu xa khiến vua Gia Long không chọn hoàng tôn Đán mà lại chọn người con
thứ là hoàng tử Đảm sau này.
Giám mục Bá Đa Lộc mất ngày 9 tháng 10 năm 1799 và hoàng tử Cảnh mất năm
1801, hi vọng của người Công giáo Việt Nam về một thời kì tự do truyền đạo trở
nên mờ nhạt.
Năm 1802, Chúa Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi vua, lấy hiệu là Gia Long, triều đại
đầu tiên của nhà Nguyễn đóng đô ở Phú Xuân, Huế. Nhớ ơn Giám mục Bá Đa Lộc,
Vua Gia Long cho phép tự do truyền bá đạo Công giáo. Nhà vua có thiện cảm với
đạo nhưng không muốn theo đạo vì thấy luật lệ đạo quá nghiêm khắc đối với tục
đa thê và việc thờ cúng tổ tiên. Ông nói: "Đạo Thiên Chúa rất hợp với đạo lý
nhưng quá nghiêm khắc với tục đa thê. Đối với ta, không thể chỉ lấy một vợ, mặc
dù ta thấy là trị cả nước còn dễ dàng và ít mệt mỏi hơn là giữ cho gia đình ta được
yên ấm".
c. Thời kỳ thử thách (1820 – 1885)
Thời kỳ này gồm hai giai đoạn: giai đoạn đầu do Nhà Nguyễn cấm đạo và giai
đoạn sau do phong trào Văn Thân tàn sát người Công giáo.
Vua Minh Mạng (cai trị từ 1820 tới 1841) bắt đầu thực hiện các chính sách cấm
đạo khắc nghiệt. Pháp mở đầu xâm lược Việt Nam năm 1858, và chiếm ba tỉnh
miền Đông Nam Kỳ theo
Hòa ước Nhâm Tuất 1862. Với Hiệp ước này, Nhà Nguyễn cũng công nhận quyền
tự do tôn giáo. Tuy nhiên từ sau Hiệp ước này, phong trào Văn Thân của các nho sĩ
với khẩu hiệu "bình Tây sát Tả" nổi lên tàn sát người Công giáo vì cho rằng nhóm
này là cộng tác với thực dân Pháp, đặc biệt vào những năm 1867-1868, 1873-1874
và 1883-1885.
d. Giai đoạn Pháp xâm chiếm Đại Nam
Năm 1856, chiến thuyền Catinat vào cửa Đà Nẵng rồi cho người đem thư lên trách
triều đình Việt Nam về việc giết giáo sĩ Công giáo. Không được trả lời, quân Pháp
bắn phá các đồn lũy rồi bỏ đi.
Có Giám mục Pellerin trốn được lên tàu, về Pháp thuật lại cho triều đình Pháp cảnh
tượng các giáo sĩ Công giáo bị đàn áp dã man ở Việt Nam. Pellerin nói rằng chỉ
cần có loạn là các tín đồ Công giáo sẽ nổi lên đánh giúp. Cùng sự tác động của
Hoàng hậu Pháp Eugénie, một người rất sùng đạo, Hoàng đế Pháp Napoléon III
(1808 - 1873) quyết ý đánh Việt Nam.
Năm 1857, giám mục Pellerin và linh mục Huc đến Paris và được Napoleon tiếp
kiến. Napoleon III giao nhiệm vụ cụ thể cho đô đốc Rigoult de Genouilly để thực
hiện cuộc bảo hộ của Pháp trên Việt Nam.
Tháng 9 năm 1858, Pháp tấn công Đà Nẵng, không có một giáo dân nào tới trợ lực
quân Pháp như Giám mục Pellerin đã hứa. Tướng Genouilly muốn bắt giam
Pellerin vì nói láo.
Đây là lần duy nhất có sự tham dự của giáo sĩ Công giáo vận động Pháp chiếm
Việt Nam, cho thấy giáo dân dù bị chính quyền tàn sát nhưng không quay lưng lại
với đất nước
e. Hậu kỳ cận đại (1886 – 1975)
Giai đoạn 1886 – 1945
- Khi triều đình Huế ký Hiệp ước Giáp Thân 1884 với Pháp, công nhận sự bảo hộ
của Pháp thì Công giáo Việt Nam lúc đó mới thật sự được tự do, công khai hoạt
động. Các cơ sở tôn giáo như nhà thờ, tu viện, tòa giám mục, trường học, viện
dưỡng lão, viện cô nhi... được xây dựng khắp nơi.
Giai đoạn 1945 – 1954
- Người Công giáo Việt Nam tích cực ủng hộ sự độc lập của Việt Nam, đặc biệt
thấy rõ khi Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được tuyên bố thành lập vào tháng 9 năm
1945.
- Ngày tuyên ngôn độc lập mùng 2 tháng 9 khi đó trùng vào ngày lễ kính các đấng
tử đạo Việt Nam. Trong chính quyền Việt Nam có những nhân vật Công giáo nổi
bật như Nguyễn Mạnh Hà, Ngô Tử Hạ, Vũ Đình Tụng. Người Công giáo Việt
Nam chống lại việc thực dân Pháp quay trở lại Đông Dương, và họ trở nên dấn sâu
vào phong trào độc lập dân tộc.
- Chính quyền Việt Nam cử lãnh đạo cấp cao tới dự lễ tấn phong Giám mục Tađêô
Lê Hữu Từ và lễ thành lập Liên đoàn Công giáo tại Phát Diệm. Là người quyết liệt
chống Pháp, Giám mục Lê Hữu Từ nhận lời mời của Chủ tịch Hồ Chí Minh làm cố
vấn tối cao của chính phủ.
- Nhiều giáo sĩ Công giáo Việt Nam đề cao tinh thần dân tộc, chống thực dân đồng
thời cố gắng giữ người Công giáo khỏi bị cuốn vào cuộc chiến giữa thực dân Pháp
và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Hai địa phận Phát Diệm và Bùi Chu được vũ
trang thành khu tự vệ Công giáo.
- Trong suốt cuối thập niên 1940, khu vực này giữ được sự độc lập khỏi cả thực
dân Pháp và Việt Minh. Nhiều người dân lương, giáo đã kéo về đây để tránh tình
hình chiến sự căng thẳng.
- Trong suốt Chiến tranh Đông Dương, Tòa Thánh Vatican không sẵn lòng ủng hộ
thực dân Pháp lôi kéo người Công giáo Việt Nam. Tuy nhiên cũng không ủng hộ
phong trào Việt minh, vấn đề là phong trào dân tộc ở Việt Nam lại do Đảng cộng
sản lãnh đạo. Vatican cho rằng ý thức hệ cộng sản với chủ trương nhà nước vô
thần muốn loại bỏ các tôn giáo.
- Từ năm 1950, cả thực dân Pháp và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đều muốn kiểm
soát khu tự trị Phát Diệm–Bùi Chu, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trở nên gắn bó
với khối cộng sản quốc tế, trong khi Vatican thì lên án mọi sự cộng tác với cộng
sản, còn Quốc gia Việt Nam phi cộng sản được Hoa Kỳ hậu thuẫn đang trỗi dậy,
dẫn đến việc các giáo sĩ Việt Nam nghiêng về phía chống cộng nhưng không từ bỏ
chủ nghĩa dân tộc và chống thực dân.
Giai đoạn 1954 – 1975
- Từ 1954, theo Hiệp định Geneve, Việt Nam tạm thời chia thành hai vùng tập kết
quân đội: miền Bắc với chính thể Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và miền Nam với
các lực lượng của Liên hiệp Pháp.
- Theo Hiệp định Genève, 1954, người Việt Nam ở Bắc hay Nam vĩ tuyến 17 sẽ
được phép di chuyển qua đường phân ranh tạm thời trong thời hạn 300 ngày.
- Tính đến đầu năm 1956 thì có 927.000 người từ miền Bắc di cư vào Nam, trong
đó có 794.000 giáo dân, chiếm 85,6%, 619 linh mục và 5 giám mục (chỉ để lại
chừng 375 linh mục, 4 Giám mục người Việt Nam và 2 Giám mục ngoại quốc ở
miền Bắc)
- Cuộc di cư 1954 này đã thay đổi một cách triệt để tỷ lệ người Công giáo ở miền
Bắc và miền Nam. Trước đó, người Công giáo chiếm khoảng 10% dân số ở miền
Bắc và chỉ chiếm 5% dân số ở miền Nam; sau năm 1954, các con số này đã đảo
ngược. Hệ quả là Giáo hội Công giáo ở Miền Bắc bị xáo trộn còn Công giáo ở
Miền Nam bị thay đổi cấu trúc.
- Suốt nền Đệ Nhất Cộng hòa Việt Nam, Tổng thống Ngô Đình Diệm - một người
Công giáo sùng đạo - đã có những chính sách tạo điều kiện cho Giáo hội Công
giáo dấn thân phục vụ xã hội cách rộng rãi. Tháng 5 năm 1963 xảy ra biến cố Phật
giáo khiến sau đó chính quyền Ngô Đình Diệm bị lật đổ và anh em ông bị ám sát
vào ngày 2 tháng 11 cùng năm.
- Cuối năm 1959, Tòa Thánh cho thành lập Tòa Khâm sứ mới tại miền Nam Việt
Nam, đặt tại thủ đô Sài Gòn. Giáo hội điều hành nhiều cơ sở giáo dục như Viện
Đại học Đà Lạt, Viện Đại học Minh Đức, Trường Trung học Nguyễn Bá Tòng,
Trường Trung học Hồ Ngọc Cẩn, hệ thống các trường của Dòng La San như
Trường Trung học La San Taberd Sài Gòn và Trường d'Adran Đà Lạt.
- Ngày 23 tháng 4 năm 1975, Giám mục Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận của
Giáo phận Nha Trang được Tòa Thánh bổ nhiệm làm Tổng Giám mục hiệu tòa
Vadesi, Tổng Giám mục phó của Tổng giáo phận Sài Gòn với quyền kế vị. Ông là
cháu ruột của cựu Tổng thống Ngô Đình Diệm.
Từ 1975 đến nay
- Chính phủ Cộng hòa Miền Nam Việt Nam (Chính phủ Lâm thời Cộng hoà Miền
Nam Việt Nam) giành thắng lợi sau Sự kiện 30 tháng 4 năm 1975.
- Những ngày sau đó xảy ra sự bất ổn tại Tổng giáo phận Sài Gòn và Tòa khâm sứ
Sài Gòn. Ngày 27 tháng 6 năm 1975, tại Dinh Độc Lập, Ủy ban Quân quản Thành
phố Sài Gòn - Gia Định công bố quyết định không cho Tổng giám mục phó
Nguyễn Văn Thuận được hoạt động mục vụ tại Sài Gòn vì họ cho rằng việc bổ
nhiệm này là một âm mưu chính trị, sau đó, họ yêu cầu ông trở về lại giáo phận
Nha Trang như trước đây. Ngày 19 tháng 12 năm 1975, chính quyền yêu cầu
Khâm sứ Tòa Thánh Henri Lemaitre phải rời khỏi Việt Nam. Kể từ đó, giữa chính
quyền Việt Nam với Tòa Thánh không còn kênh liên hệ chính thức nào.
- Ngày 24 tháng 5 năm 1976, Giáo hoàng Phaolô VI đã nâng Tổng Giám mục Hà
Nội Giuse Maria Trịnh Như Khuê lên chức Hồng y đẳng linh mục, trở thành vị
hồng y đầu tiên của Việt Nam. Ông cũng là người Việt Nam đầu tiên tham gia bầu
chọn giáo hoàng, tới hai lần: vào tháng 8 và tháng 10 năm 1978.
- Sau khi Hồng y Trịnh Như Khuê qua đời, Tòa Thánh tôn phong người kế nhiệm
của ông là Tổng Giám mục Giuse Maria Trịnh Văn Căn lên chức hồng y vào ngày
2 tháng 5 năm 1979. Sau khi nhận chức, ông tiếp xúc với chính quyền và ban Tôn
giáo Trung ương để vận động thành lập Hội đồng Giám mục Việt Nam (thống
nhất).
- Từ 24 tháng 4 đến 1 tháng 5 năm 1980, có 33 Giám mục trong cả nước về Hà Nội
dự Đại hội các Giám mục Việt Nam, quyết định thành lập Hội đồng Giám mục
Việt Nam thống nhất, khẳng định đường hướng mục vụ cho giáo hội tại Việt Nam
"Sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc để phục vụ hạnh phúc của đồng bào". Hồng y
Trịnh Văn Căn, với cương vị là chức sắc cao cấp nhất của Giáo hội tại Việt Nam,
khi ấy trở thành chủ tịch ủy ban thường vụ Hội đồng Giám mục Việt Nam.
- Tính đến năm 2020, Việt Nam có 3 Tổng giáo phận Hà Nội, Huế, Sài Gòn và 24
giáo phận.
- Theo thống kê được trình báo trong chuyến thăm Ad Limina của Hội đồng Giám
mục Việt Nam thì cho đến đầu năm 2018, Công giáo tại Việt Nam có 7 triệu giáo
dân, với 4.000 linh mục, 4.500 giáo xứ, 22.000 tu sĩ với hơn 240 dòng tu, hơn 2400
đại chủng sinh
4. Tổ chức phân chia địa phận
Hội đồng Giám mục Việt Nam là hội đồng giám mục của các giám mục Việt Nam.
Chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam hiện nay là Tổng giám mục Giuse Nguyễn
Chí Linh - Tổng giám mục của Tổng giáo phận Huế (từ 2016)
a. Giáo tỉnh (Tổng Giáo phận)
Từ hai địa phận tông tòa đầu tiên được thành lập năm 1659, Giáo hội Công giáo tại
Việt Nam có 7 địa phận vào năm 1850, 17 địa phận vào năm 1957, và hiện nay có
3 tổng giáo phận và 24 giáo phận, được nhóm vào ba giáo tỉnh tương ứng với 3
Miền:
Giáo tỉnh Hà Nội: gồm một tổng giáo phận và 10 giáo phận.
Giáo tỉnh Huế: gồm một tổng giáo phận và 5 giáo phận.
Giáo tỉnh Sài Gòn: gồm một tổng giáo phận và 9 giáo phận.
Đứng đầu mỗi Giáo tỉnh (tổng giáo phận) là một vị Tổng giám mục do Tòa Thánh
bổ nhiệm, với sự đồng thuận của Chính phủ Việt Nam
b. Giáo phận
Mỗi giáo tỉnh được chia thành các giáo phận (có thể tương ứng với 01 tỉnh hoặc
nhiều tỉnh theo địa lí)
Đứng đầu mỗi giáo phận là Giám mục chính tòa do Tòa Thánh bổ nhiệm, với sự
đồng thuận của Chính phủ Việt Nam
c. Giáo hạt
Mỗi giáo phận được chia thành các giáo hạt(có thể tương ứng với 01 huyện hoặc
nhiều huyện theo địa lí)
Đứng đầu mỗi giáo hạt là Linh mục quản hạt do Giám mục chính tòa bổ nhiệm, với
sự đồng thuận của Chính quyền địa phương
d. Giáo xứ
Mỗi giáo hạt được chia thành các giáo xứ (có thể tương ứng với 01 xã hoặc nhiều
xã theo địa lí)
Đứng đầu mỗi giáo xứ là Linh mục chính xứ do Giám mục chính tòa bổ nhiệm với
sự quản lý của Linh mục quản hạt, với sự đồng thuận của Chính quyền địa phương
e. Giáo họ, giáo khu...
Mỗi giáo xứ được chia thành các giáo họ, giáo khu (có thể tương ứng với 01 khu
xóm hoặc nhiềukhu xóm theo địa lí) dưới sự quản lý của Linh mục chính xứ.
Có thể thấy, Giáo hội Công giáo Việt Nam có sự phân chia và liên kết vô cùng chặt
chẽ
5. Những đóng góp của Giáo hội Công giáo Việt Nam
Chữ viết và ngôn ngữ học:
- Tiêu biểu là chữ Quốc ngữ. Một số tài liệu khi nói đến chữ quốc ngữ thường cho
rằng giáo sĩ Alexandre de Rhodes (thường gọi là Đắc Lộ), tác giả cuốn Từ điển
Việt - Bồ - La in tại La Mã năm 1651, là ông tổ của chữ quốc ngữ.
- Nhà thờ Mằng Lăng là một nhà thờ Công giáo nằm trên địa phận xã An Thạch,
huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên là nơi lưu giữ cuốn sách chữ quốc ngữ đầu tiên -
Phép giảng tám ngày của linh mục Alexandre de Rhodes in năm 1651 tại Roma, Ý.
Kỹ thuật in ấn và báo chí
- Cùng với việc truyền bá đạo Công giáo, các giáo sĩ đã du nhập vào Việt Nam rất
nhiều thành tựu của kỹ thuật hiện đại phương Tây. Trong đó, một ngành công nghệ
có tầm quan trọng đặc biệt đối với sự phát triển của văn hoá Việt Nam được các
giáo sĩ thừa sai đưa vào nước này khá sớm: đó là ngành in ấn
Khoa học và y khoa
- Trong số những nhà truyền giáo buổi đầu ở Việt Nam, không ít người, nhất là các
tu sĩ Dòng Tên – một dòng tu nổi bật về nghiên cứu khoa học, được đào tạo bài
bản trong các dòng tu, học viện phương Tây nên họ cũng là những nhà khoa học
tinh thông nhiều lĩnh vực.
- Họ đã góp công đưa nền khoa học phương Tây tiếp cận đến Việt Nam
Đời sống văn hóa
- Công giáo hội nhập sâu sắc vào văn hóa Việt Nam với những biểu hiện phong
phú như đọc kinh, vãn hát, múa dâng hoa, nghi thức tế, diễn xướng Tuần Thánh, lễ
hội, rước kiệu...
- Nếp sống của người Công giáo Việt Nam được hình thành trên cơ sở của nếp
sống cổ truyền Việt Nam kết hợp hài hòa với văn hóa phương Tây. Văn hóa làng
Công giáo độc đáo với việc đan xen những lễ nghi, tục lệ của làng Việt nói chung
với nghi lễ của Công giáo.
- Giữ gìn luân thường đạo lý, bảo tồn phong hóa là một nội dung quan trọng trong
đời sống đạo phong phú của người Công giáo Việt Nam
6. Quan hệ giữa Giáo hội và Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
Quan hệ Tòa Thánh và chính quyền Việt Nam bắt đầu được nối lại bằng những
cuộc tiếp xúc trực tiếp từ năm 1990, sau khi Việt Nam bước vào giai đoạn mở cửa
Đầu năm 2007, Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng đã viếng thăm Vatican,
hội kiến Giáo hoàng Biển Đức XVI và Thủ tướng Vatican, Hồng y Tarcisio
Bertone. Đây là vị thủ tướng đầu tiên của Việt Nam đến Vatican hội kiến Giáo
hoàng, kể từ sau năm 1975.
Giáo hoàng Biển Đức XVI đã ra sắc lệnh tôn phong hai nhà thờ ở Việt Nam lên
hàng vương cung thánh đường là Phú Nhai (ngày 12 tháng 8 năm 2008) và Sở
Kiện (ngày 24 tháng 6 năm 2010). Như vậy, Việt Nam hiện có 4 Vương cung
thánh đường (Nhà thờ Lớn Hà Nội, Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn).
Ngày 11 tháng 12 năm 2009, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết cũng đã có cuộc
hội kiến với Giáo hoàng Biển Đức XVI và Hồng y Tarcisio Bertone. Ông là vị
nguyên thủ quốc gia đầu tiên của chính phủ Việt Nam hội kiến Giáo hoàng.
Ngày 22 tháng 1 năm 2013, ông Nguyễn Phú Trọng - tổng bí thư Đảng Cộng sản
Việt Nam đến thăm Vatican và có cuộc hội kiến Giáo hoàng Biển Đức XVI.

TỔNG QUAN VỀ KI-TÔ GIÁO (CƠ ĐỐC GIÁO) TẠI VIỆT NAM - ĐẠO TIN
LÀNH
Xin chào tất cả các thành viên trong Đại gia đình Đường Tour !
Em xin phép trở lại với Series về Thiên Chúa giáo. Ở Phần 03, chúng ta đã cùng
tìm hiểu sơ lược về Ki-tô giáo tại Việt Nam với Nhánh Công Giáo. Ở bài viết này
chúng ta cùng tìm hiểu về nhánh tiếp theo của Ki-tô giáo tại Việt Nam đó là Hội
Thánh Tin Lành
Rất mong nhận được các ý kiến đóng góp từ mọi người !
I. SƠ LƯỢC KI-TÔ GIÁO (CƠ ĐỐC GIÁO) TẠI VIỆT NAM
Ki-tô giáo tại Việt Nam hiện gồm có Giáo hội Công giáo Rôma và các Hội thánh
Tin Lành.
Số lượng tín hữu Công giáo và Tin Lành ngày nay được ghi nhận lần lượt là chiếm
khoảng 7% và 2% dân số nước ta; tuy nhiên, con số thực tế có thể cao hơn.
Kitô giáo được truyền vào Việt Nam từ thế kỷ 16, thông qua các nhà truyền giáo
tới từ Châu Âu.
Ngày nay, Nhà nước với chủ trương hoạt động tôn giáo trong khuôn khổ của pháp
luật và "đoàn kết lương giáo" nên các sinh hoạt tôn giáo, trong đó có Ki-tô giáo,
diễn ra bình thường, tự do và ngày càng phát triển hơn.
II. ĐẠO CÔNG GIÁO TẠI VIỆT NAM (PHẦN 03)
III. ĐẠO TIN LÀNH
1.Tên gọi
Tin-lành có nghĩa là “tin tức tốt lành”. Kinh Thánh chép rằng: “Theo như đã định
cho loài người: Phải chết một lần rồi chịu phán xét” (Hê-bơ-rơ 9:27). Cho nên sống
ở trên đời, có những tin lành (dẫu rằng lành ít dữ nhiều) đem đến những khoảnh
khắc vui vẻ hạnh phúc, nhưng lương tâm ai cũng lo sợ đến sự phán xét ở đời sau.
Mọi người đều chờ mong một tin lành có thể mang lại phước hạnh cả đời này lẫn
đời sau.
Danh xưng Tin Lành thường được dùng để chỉ một cộng đồng các giáo hội khởi
phát từ cuộc cải cách tôn giáo bắt đầu vào thế kỷ 16 bởi Martin Luther (người Đức)
- Là tu sĩ Dòng Augustinô, mục tiêu ban đầu của Luther là kêu gọi cải cách từ bên
trong Giáo hội Công giáo Rôma, về sau ông tách rời khỏi Giáo hội Công giáo và
thành lập Giáo hội Luther.
2. Sơ lược
Vào thế kỷ 16 cùng với Martin Luther, khi đó tại Châu Âu, nhiều người có quan
điểm tương tự như của Luther cũng bắt đầu tách khỏi Công giáo và thành lập các
giáo phái khác nhau. Họ được gọi dưới tên chung là Kháng Cách, hay Tân giáo (để
phân biệt với Cựu giáo là Công giáo).
Kháng Cách (Tin Lành) được xem là một trong ba nhánh chính của Ki-tô giáo (Cơ
Đốc giáo), cùng với Công giáo Rôma và Chính Thống giáo Đông phương.
Tin Lành (Kháng Cách) từ chối công nhận thẩm quyền của Giáo hoàng, với niềm
xác tín rằng chỉ có Kinh Thánh (không phải Truyền thống thánh hoặc quyền giải
thích Kinh Thánh dành cho các chức sắc cao cấp của giáo hội là nguồn chân lý duy
nhất, và tin rằng chỉ bởi ân điển của Thiên Chúa mà con người được cứu rỗi.
Trong ý nghĩa rộng lớn hơn, tên gọi Kháng Cách dùng để chỉ các giáo hội khác
nhau, tách khỏi Công giáo do chịu ảnh hưởng của Martin Luther và John Calvin,
người khởi xướng và lãnh đạo một cuộc cải cách tôn giáo khác tại Geneve, Thuỵ
Sĩ. Bên cạnh đó cũng xuất hiện một số phong trào cải cách khác, thường được gọi
là Cải cách triệt để. Trong khi đó nhiều nhóm tôn giáo tách khỏi Công giáo cũng
được gán cho nhãn hiệu Kháng Cách dù chính họ cũng phủ nhận mọi liên hệ với
Luther, Calvin hay với Công giáo.
Phần lớn tín hữu Kháng Cách gia nhập vào một trong các cộng đồng Kháng Cách
sau:
Calvinist/ Cải cách/ Trưởng Lão
Giáo hội Luther
Baptist
Giám Lý
Anh giáo
Ngũ Tuần
.........................
Nhiều phong trào đại kết ra đời trong nỗ lực liên kết và tái tổ chức các giáo hội
Kháng Cách, nhưng chỉ có được những kết quả hạn chế. Hầu hết các giáo phái
Kháng Cách đều đồng thuận với nhau về các giáo lý quan trọng cùng các giá trị
căn cốt trong đức tin Cơ Đốc, và tôn trọng sự khác biệt trong quan điểm liên quan
đến các vấn đề không quan trọng trong thần học, giáo nghi và tổ chức. Khó có
được con số chính xác, nhưng ước tính hiện có khoảng "33 000 giáo phái hiện diện
trên 238 quốc gia".
Thống kê gần đây, có khoảng 600 triệu tín hữu Kháng Cách trên toàn thế giới, bao
gồm 170 triệu tại Bắc Mỹ, 140 triệu tại Phi Châu, 120 triệu tại Âu Châu, 70 triệu
tại châu Mỹ La tinh, 60 triệu tại Á Châu và 10 triệu tại Úc Châu. Như vậy cộng
đồng Kháng Cách chiếm khoảng 27% tổng số gần 2 tỉ tín hữu Ki-tô giáo (Cơ Đốc
giáo)
Các giáo hội Tin Lành (Khánh Cách) không có sự liên kết chặt chẽ với nhau như
giáo hội Công Giáo Rôma
IV. ĐẠO TIN LÀNH TẠI VIỆT NAM
1. Sơ lược
Tại Việt Nam, thuật ngữ Đạo Tin Lành thường được chỉ về một nhánh tôn giáo
thuộc Cơ Đốc giáo(Ki-tô giáo) gắn liền với Phong trào Kháng Cách, để phân biệt
với nhánh Công giáo gắn liền với Tòa Thánh Vatican (gọi là Đạo Công giáo)
Đức tin Kháng Cách được truyền bá tại Việt Nam từ cuối thế kỷ 19 do nỗ lực của
các nhà truyền giáo thuộc Hội Truyền giáo Phúc âm Liên hiệp (Christian and
Missionary Aliance; C&MA).
Năm 1911 thường được kể là năm đánh dấu Kháng Cách đến Việt Nam khi những
nhà truyền giáo thuộc Hội Truyền giáo Phúc âm Liên hiệp đặt chân đến Tourane
(nay là Đà Nẵng) để thiết lập cơ sở truyền giáo tại đây.
Hội thánh Tin Lành Việt Nam (The Evangelical Church of Vietnam) cho đến nay
vẫn là giáo hội Kháng Cách lâu đời nhất và có số tín hữu đông nhất tại Việt Nam.
Có lẽ vì lý do này thuật từ Tin Lành (Evangelical) thường được dùng như một từ
đồng nghĩa với Kháng Cách (Protestant), mà tại Việt Nam, danh xưng Tin Lành
thường được dùng để thay thế cho Kháng Cách.
Tin Lành hay Phúc Âm có nghĩa là tin tức tốt lành theo cách gọi của các nhà truyền
giáo đầu tiên của Kháng Cách tại Việt Nam.
Theo những ước tính khác nhau, có khoảng từ 1 triệu đến hơn 2 triệu tín hữu thuộc
cộng đồng Kháng Cách tại Việt Nam, phần lớn tập trung ở miền Nam.
Tin Lành được xem là một trong những tôn giáo phát triển nhanh nhất tại Việt
Nam.
2. Lịch sử
Trước năm 1911
Từ cuối thế kỷ thứ 10, "tu sĩ Nedjran" thuộc nhóm Nestorian (Cảnh giáo) đã đến
Việt Nam trong cuộc hành trình truyền giáo sang Trung Hoa trong năm 980. Theo
Geography of Earisi, ông đã đến Loukin (kinh thành Lou, có lẽ là Hoa Lư). Tuy
nhiên, không có chứng cứ cho thấy nhà truyền giáo này đã đạt được thành quả nào
tại Việt Nam.
Đến đời Lê Anh Tông (1557-1573) khi tái thiết một ngôi đền cũ, người ta tìm thấy
một "thập tự giá rất cổ" trên một bức tường của ngôi đền.
Những nhà truyền giáo Công giáo Rô-ma đặt chân đến Việt Nam từ thế kỷ 16, đến
thế kỷ 18 Giáo hội Công giáo đã phát triển mạnh mẽ. Trong khi đó, Việt Nam vẫn
chưa được cộng đồng Kháng Cách trên thế giới quan tâm đến.
Từ thế kỷ 17, Charles Hartsingh, ở trong số những người Pháp Kháng Cách vùng
Normandie làm việc cho công ty Hà Lan và Đông Ấn, thiết lập sự định cư đầu tiên
của công ty trong vùng đồng bằng sông Hồng
Một tín hữu Kháng Cách khác, Jean-Baptiste Chaigneau, là sĩ quan hải quân Pháp,
gia nhập lực lượng của Gia Long trong nỗ lực tái thống nhất đất nước và thiết lập
triều đại nhà Nguyễn
Ngày 15 tháng 10 năm 1890, Alexandre Yersin, nhà khoa học và nhà thám hiểm,
một tín hữu Tin Lành và là hậu duệ những người Huguenot lánh nạn sang Thụy Sĩ
vì bị bách hại tôn giáo dưới triều Louis XIV, đặt chân đến Sài Gòn để làm việc trên
tàu Volga theo tuyến hải hành Sài Gòn - Manila với chức trách của một bác sĩ.
Năm 1891, Yersin quyết định ở lại Việt Nam. Sau nửa thế kỷ tận tụy cống hiến,
ông từ trần tại Nha Trang và được an táng tại Suối Dầu vào tháng 3 năm 1943
Sau khi người Pháp chiếm đóng Việt Nam, một nhà thờ thành lập năm 1884 tại Hải
Phòng dành cho "các tín hữu Kháng Cách châu Âu"; sau đó có hai nhà thờ được
thành lập tại Hà Nội và Sài Gòn (1902), những giáo đoàn này đều phát triển tốt cho
đến tháng 3 năm 1945 khi quân đội Nhật chiếm đóng Đông Dương và bắt giữ các
công dân Pháp
Từ 1911 đến 1927
Ngay trong năm đầu tiên thành lập Hội Truyền giáo Phúc âm Liên hiệp, nhà lãnh
đạo sáng lập tổ chức này, Albert Benjamin Simpson, trong tạp chí Word, Work,
and World (tháng 2 năm 1887) đã đề cập đến tình trạng "bán đảo Đông Nam Á đã
bị lãng quên nhiều," và "vương quốc An Nam rộng lớn" cùng với Tây Tạng phải
được xem là công trường truyền giáo tương lai.
Năm 1921, Mục sư P. Monet lãnh đạo một nhóm truyền giáo, với hai người Việt là
Vũ Tam Thất và Đội Dương, rời Paris đến Hà Nội. Năm sau, họ thành lập Hội
Sinh viên An Nam, một trung tâm sinh hoạt của sinh viên do Tin Lành bảo trợ, hội
cũng xuất bản một tạp chí song ngữ Pháp –Việt nhắm vào giới trí thức trẻ ở Hà
Nội. Thay vì trực tiếp truyền bá Phúc âm, nhóm truyền giáo này tập trung vào các
hoạt động văn hóa như xiển dương chữ Quốc ngữ, các loại hình báo chí, và văn
minh phương Tây. Mặt khác, do thiếu tài trợ tài chính cùng những hạn chế về
chính trị và pháp lý (mãi cho đến năm 1937, chính quyền Pháp ở Đông Dương mới
công nhận giáo hội Tin Lành), họ ngưng hoạt động. Từ đó, hoạt động của Tin Lành
Pháp tại Việt Nam chỉ hạn chế trong sinh hoạt mục vụ ở Hà Nội, Hải Phòng (trước
tháng 7 năm 1954) và Sài Gòn, Đà Lạt (trước tháng 4 năm 1975).
Trong thập niên 1920, các hoạt động truyền bá Tin Lành bị hạn chế và cấm đoán.
Theo thông tri ngày 26 tháng 1 năm 1925 của Hội đồng Cơ mật, "Theo điều khoản
thứ 13 của Hòa ước năm 1884, chỉ Giáo hội Công giáo La Mã có quyền truyền
giảng trong xứ chúng ta. Các Giám mục, Linh mục, và giáo sư thuộc giáo hội Công
giáo La Mã là những người duy nhất có phép giảng đạo của họ…
Từ 1927 đến 1941
Thành lập giáo hội
Sau 16 năm khai khẩn và gieo giống, tháng 3 năm 1927, các giáo đoàn Tin Lành
rải rác ở Bắc kỳ, Trung kỳ, và Nam kỳ tập hợp thành một đoàn thể quốc gia với tên
chính thức là Hội Tin Lành Đông Pháp.
Khi bản Điều lệ của Hội thánh được tu chính lần thứ nhất năm 1936, từ "Việt
Nam" được thêm vào trước "Đông Pháp". Đến cuối Chiến tranh thế giới thứ hai, từ
"Đông Pháp" bị loại bỏ.
Từ 1942 đến 1954
Mặc dù không xảy ra chiến tranh trên bộ tại Việt Nam trong suốt Chiến tranh thế
giới thứ hai, nền kinh tế của đất nước bị thiệt hại nặng nề, rồi nạn đói năm Ất Dậu,
1944-1945 làm cho tình hình càng tồi tệ hơn. Cộng đồng Tin Lành còn non trẻ
đang trên đường xây dựng một giáo hội tự lập, tự trị cũng bị tác động mạnh. Vì
khó khăn kinh tế, nhiều giáo đoàn không thể cấp dưỡng đầy đủ cho các quản
nhiệm, và một số nhà thờ bị buộc phải đóng cửa. Trường Kinh Thánh Đà Nẵng
cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Tuy nhiên, trong vòng hội thánh dấy lên tinh
thần tương thân tương trợ, đặc biệt là khi quyên góp trợ giúp tín hữu miền Bắc
đang gánh chịu nạn đói.
Năm 1950, Hội đồng Tổng Liên hội biểu quyết chọn danh hiệu chính thức của giáo
hội là Hội thánh Tin Lành Việt Nam.
Từ năm 1948 đến 1950 được xem là giai đoạn củng cố và phục hồi của giáo hội
sau khi gánh chịu nhiều mất mát do chiến tranh và những biến động xã hội, thì
trong thời kỳ 1951 -1954 cộng đồng Tin Lành phát triển và mở rộng công cuộc
truyền bá phúc âm. Nhiều giáo đoàn mới được thành lập trên khắp xứ sở
Từ 1954 đến 1975
Từ năm 1954, Việt Nam tạm thời bị chia cắt, Hội thánh Tin Lành Việt Nam cũng
bị phân chia thành 2 tổ chức, ở miền Bắc và ở miền Nam.
Tại miền Bắc, do phần lớn tín đồ và chức sắc di cư vào miền Nam nên các hoạt
động có phần chững lại.Vào thời điểm 1975, chỉ có khoảng hơn 1 500 tín hữu với
14 chi hội tại 9 tỉnh, thành ở miền Bắc
Ngay khi hòa bình vừa tái lập, tại miền Nam, giáo hội đẩy mạnh công cuộc truyền
bá phúc âm với sự hợp tác tích cực từ hầu hết các giáo đoàn trên cả nước
Từ sau 1975
Từ sau năm 1975, Hội thánh Tin Lành ở miền Bắc chỉ hoạt động cầm chừng, lại bị
lâm vào khủng hoảng vì thiếu nhân sự kế thừa
Đến năm 2004, sau 20 năm không tổ chức đại hội, Đại hội đồng lần thứ 32 được
triệu tập mở ra một giai đoạn mới cho giáo hội với sự phát triển nhiều giáo đoàn
trong vòng người dân tộc ở miền núi phía Bắc. Tầm hoạt động của giáo hội cũng
mở rộng ở hơn 20 tỉnh, thành phố từ Quảng Bình trở ra. Vùng Tây Bắc có khoảng
135.000 người Mông, và khoảng 2.500 người Dao trở thành tín hữu Kháng Cách
Tại miền Nam, sau năm 1975, Hội thánh Tin Lành chưa được nhà nước Việt Nam
công nhận. Năm 1992-94, Chính phủ Việt Nam cho phép nhập 33 000 Kinh Thánh
và 20 000 Thánh ca, rồi cấp phép ấn hành 85 000 quyển Kinh Thánh toàn bộ (Cựu
Ước và Tân Ước), 65 000 Kinh Thánh Tân Ước, 25 000 Thánh ca, và 120 000
quyển Truyện tích Kinh Thánh.
Tháng 2, 2001, Đại hội đồng lần thứ 43 tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh thông
qua bản Hiến chương mới, và bầu Mục sư Phạm Xuân Thiều làm Hội trưởng. Các
hoạt động của giáo hội dần được phục hồi và phát triển với khoảng 600 000 tín hữu
(năm 2009) ở 34 tỉnh, thành phố từ Quảng Trị trở vào. Về đào tạo, Viện Thánh
Kinh Thần học được mở lại từ năm 2003 tại Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh.
Trong tháng 6 năm 2011, Lễ Kỷ niệm 100 năm Tin Lành đến Việt Nam lần lượt
được tổ chức tại Đà Nẵng, Hà Nội, và Thành phố Hồ Chí Minh.
Kết luận
Dù có mặt ở Việt Nam khá muộn màng, sau hơn 100 năm tồn tại Tin Lành được
xem là tôn giáo phát triển nhanh nhất, đặc biệt là từ những thập niên cuối thế kỷ
20.
Sự hình thành và phát triển của cộng đồng Kháng Cách tại Việt Nam là một thành
quả đáng kể nếu so sánh với những xứ sở lân cận. Sau 100 năm hoạt động truyền
giáo ở Thái Lan, chỉ có 9 000 người qui đạo. Cộng đồng Kháng Cách ở Campuchia
và Lào có quy mô nhỏ hơn nhiều. Số tín hữu ở Trung Quốc đông đảo hơn nhưng
họ có đến hơn 200 năm truyền giáo với sự tập trung rất lớn của các hội truyền giáo
từ châu Âu và Bắc Mỹ.
Kể từ cuộc chiến giành độc lập, sau năm 1975, Tin Lành đã được công nhận là một
trong những tôn giáo chính của đất nước

HỒI GIÁO
Ở Phần 01, chúng ta đã cùng tìm hiểu sơ lược Thiên Chúa giáo là các tôn giáo khởi
nguồn từ Tổ phụ Abraham bao gồm 03 tôn giáo lớn, chiếm hơn 1/2 dân số thế giới
gồm:
1. Ki-tô giáo ( Cơ Đốc giáo - thuật ngữ Hán Việt, tin vào Chúa Jesus) thờ Thiên
Chúa Ba Ngôi - Thiên Chúa là duy nhất, hiện hữu trong ba ngôi vị: Chúa Cha,
Chúa Con (Chúa Jesus) và Chúa Thánh Linh (Chúa Thánh Thần)
2. Do Thái giáo thờ Thiên Chúa (Thượng Đế) mang danh hiệu Giavê
3. Hồi giáo thờ Thiên Chúa (Thượng Đế) mang danh hiệu là Thánh Allah
Hôm nay, chúng ta sẽ cùng đến với nhánh thứ 3 - Hồi giáo (Theo dõi Phần 01 để
hiểu rõ hơn)
Hồi giáo là tôn giáo lớn thứ hai thế giới với hơn 1,8 tỷ người theo tương đương
khoảng 1/4 dân số thế giới
I. SƠ LƯỢC
1. Tên gọi
Hồi giáo còn gọi là đạo Hồi, đạo Islam là một tôn giáo khởi nguồn từ Abraham,
độc thần, dạy rằng chỉ có một Thiên Chúa, và Muhammad là sứ giả của Thượng
Đế
Nguyên nghĩa của Hồi giáo trong tiếng Ả Rập là 'Islam' và có nghĩa là "vâng mệnh,
quy phục Thượng Đế".
2. Sự liên quan với 2 nhánh Ki-tô giáo và Do Thái giáo
Abraham (hay Ibrahim theo tiếng Ả Rập) có tám con trai trong đó có 2 người con
được nhắc đến nhiều nhất là:
- Ishmael, con của Hagar, nữ tì của vợ ông là Sarah. Ishmael được coi là tổ tiên của
người Ả rập (Hồi giáo)
- Isaac: con của Sarah, vợ ông. Dân Do Thái là hậu duệ của Jacob, con trai của
Isaac. Jacob sau này được đổi tên thành Israel (nhánh Ki-tô giáo và Do Thái giáo)
Tuy cùng một hệ thống nhất thần của các tôn giáo khởi nguồn từ Abraham nhưng
giáo lý Hồi giáo không chịu ảnh hưởng tư tưởng của Ki tô giáo và Do Thái giáo.
Thể hiện rõ trong kinh Koran (trong 6219 câu của kinh này đã thể hiện nội dung
của kinh Cựu Ước và Tân Ước).
Người Hồi giáo tin tưởng các vị sứ giả đến trước sứ giả Muhammad, kể từ Adam
đến Jesus xuyên qua Noah, Abraham, Moise, v.v. Họ cũng tin tưởng Cựu ước và
Tân ước là kinh sách của Allah nhưng họ không thi hành theo vì sự "lệch lạc" do
người Do Thái giáo và Thiên Chúa giáo tạo ra và thiên kinh Qur'an được Allah
mặc khải xuống để điều chỉnh lại những gì đã sai trái ở hai kinh sách đó.
Jesus đối với người Hồi giáo là một sứ giả rất được kính mến, nhưng họ không tin
Jesus là con của Thiên Chúa (Allah), đối với họ Jesus chỉ là một con người, một sứ
giả như mọi sứ giả khác vì theo quan điểm của Hồi giáo thì Thiên Chúa không có
con, như Thiên kinh Qur'an đã phán:
"Allah là Đấng Tạo Thiên Lập Địa! Làm thế nào Ngài có con khi Ngài không hề có
người bạn đường? Chính Ngài là Đấng đã sáng tạo và thông hiểu tất cả mọi vật."
(trích 6:101)
Hồi giáo không chấp nhận tội tổ tông, việc làm của Adam và Eve không phải là
nguồn gốc tội lỗi của loài người. Và không có một ai có quyền rửa tội cho một ai
khác; ngoại trừ Allah.
Trên phương diện khoa học nhân văn, Hồi giáo là một tôn giáo ra đời vào thế kỷ
thứ 7, dựa trên những nền tảng có sẵn của Do Thái giáo và Kitô giáo. Tuy nhiên,
với những tín đồ Hồi giáo, đạo của họ là đạo thường hằng trong vũ trụ, do Thượng
đế tạo ra, và vì Thượng đế vốn bất sinh bất diệt nên đạo của Ngài cũng bất sinh bất
diệt; còn Muhammad đơn thuần chỉ là một người "thuật nhi bất tác", thuật lại cho
mọi người những mặc khải của Thượng đế mà thôi. Trong quan niệm của các tín
đồ, Hồi giáo không khởi sinh từ Muhammad. Với họ, con người đầu tiên do
Thượng đế tạo ra, tức Adam, là tín đồ Hồi giáo đầu tiên, và ngay từ thuở hồng
hoang, khắp đất trời đã là một vương quốc Hồi giáo
3. Thánh Allah (Thượng Đế)
Khi Adam, con người đầu tiên và cũng là Thiên Sứ đầu tiên, lìa trần, con cháu ông,
không còn ai chỉ bảo, càng lún sâu vào con đường tối. Do thế mà Thượng đế lại
phải gửi xuống nhân gian những vị Thiên Sứ mới để nhắc lại Thiên Đạo, đưa loài
người về đúng nẻo ngay.
Trước Muhammad, đã có hằng trăm ngàn Thiên Sứ giảng lời mặc khải ở trần thế,
trong đó có Noah, Abraham (Ibrahim), Moses (Musa), David (Dawud) và Jesus
(Ysa)... Tuy nhiên, một là do loài người u mê chưa tỉnh ngộ, hai là do sự ngoan cố,
tự cao, tự đại của con người, mà chính đạo vẫn bị bóp méo như thường. Rốt cuộc,
đến thế kỷ 7, Thượng đế khải thị cho Muhammad, và biến ông trở thành vị Thiên
Sứ hoàn hảo nhất trước nay, hơn hẳn những Thiên Sứ tiền nhiệm. Do đó mà đạo
của Muhammad truyền bá cũng là hoàn hảo nhất, không thể bị bóp méo như trước
kia. Muhammad là vị Thiên Sứ cuối cùng, và bất cứ ai dám xưng Thiên Sứ sau
Muhammad đều là kẻ tà giáo.
Như đã thấy ở trên, Abraham (Ibrahim) cử xuống cho Do Thái Giáo, và Giêsu
(Ysa) cử xuống cho Kitô giáo, đều có vị trí Thiên sứ trong Hồi giáo. Như vậy,
Thiên Chúa mà ba tôn giáo này thờ phượng chỉ là một.
4. Thánh địa Mecca
Theo quy định của Hồi giáo, mỗi giáo dân ít nhất một lần trong cuộc đời phải hành
hương về thánh địa Mecca bằng chính kinh phí của bản thân mình và trước khi đi
phải chuẩn bị đồ ăn thức uống cho người thân (những người ở nhà, không đi hành
hương) trong thời gian mà họ đi vắng. Vào tháng Ramadan, người Hồi giáo hành
hương về đây (và chỉ có người Hồi giáo mới được về đây).Sau khi hành hương đến
Mecca, tín đồ đạo Hồi sẽ có được danh hiệu là "Haj" hoặc "Haji".
II. HỒI GIÁO
1. Khái quát về lịch sử ra đời và phát triển của Hồi giáo
a. Hoàn cảnh lịch sử dẫn đến sự ra đời của hồi giáo
Hồi giáo ra đời do hàng loạt nguyên nhân kinh tế, xã hội, tư tưởng gắn liền với sự
chuyển biến từ chế độ công xã nguyên thủy sang xã hội có giai cấp của các tộc
người vùng Trung cận Đông và yêu cầu thống nhất các bộ lạc trong bán đảo Ảrập
thành một nhà nước phong kiến thần quyền do đó cần một tôn giáo độc thần để
thay thế những tôn giáo đa thần tồn tại ở đó từ trước.
b. Sự ra đời và phát triển của Hồi giáo
Sự ra đời của Hồi giáo gắn liền với tên tuổi một người nổi tiếng là giáo chủ
Muhammad (570 – 632) là một người thuộc gia tộc Casimu ở Mecca.
Vào năm 610 Sau Công Nguyên, một thương gia Ả Rập tên là Muhammad leo lên
những ngọn đồi ở phía trên trị trấn Mecca quê hương ông để suy ngẫm và cầu
nguyện về tình trạng tôn giáo hỗn loạn xung quanh ông. Sau lần đó, ông cho biết
rằng ông đã nhận được một khải tượng kêu gọi ông trở thành một vị tiên tri cho
dân ông.
Kể từ lúc đó, Muhammad nói rằng ông đã nhận được nhiều điều mặc khải cho đến
khi ông qua đời gần 25 năm sau đó. Ban đầu ông chia sẻ những điều mặc khải đó
với dân chúng trong thị trấn của mình, cảnh báo về những sự phán xét thiêng liêng
sẽ xảy đến; hô hào những người nghe ông phải hối cải và đối xử tử tế với những
góa phụ, trẻ mồ côi, và người nghèo túng; thuyết giảng về sự phục sinh chung cho
người chết và sự phán xét cuối cùng của Thượng Đế.
Đầu tiên ông bí mật truyền giáo trong số những bạn bè thân thiết và họ trở thành
những tín đồ đầu tiên, về sau sự truyền đạo trở nên công khai, đối tượng mở rọâng
tới quần chúng ở Mecca nhưng bị giới quý tộc đả kích và bức hại. Muhammad đã
trốn được đến Yathrib (sau đổi thành Madinah – Thành phố tiên tri). Ở đây ông
phát động và tổ chức quần chúng đấu tranh và cuộc cách mạng của ông giành được
thắng lợi. Sau đó ông tổ chức vũ trang cho các tín đồ (Muslim) và dùng khẩu hiệu
“Chiến đấu vì Allah” và đè bẹp được giới quý tộc ở Mecca.
Cùng với việc mở rộng phạm vi truyền đạo, Muhammad còn liên minh với các bộ
tộc và dùng sức mạnh buộc các thế lực còn lại phải quy thuận theo Hồi giáo. Có
thể nói cuộc cách mạng do Muhammad lãnh đạo là một cuộc cách mạng tôn giáo
và cải cách xã hội kết hợp với nhau. Sự ra đời của Hồi giáo đã mở ra một thời kỳ
lịch sử mới thống nhất trên bán đảo Ảrập.
2. Nội dung cơ bản của Hồi giáo
a. Giáo lý của Hồi giáo
Đặc điểm giáo lý của Hồi giáo là rất đơn giản nhưng luật lệ và lễ nghi rất phức tạp
và nghiêm khắc thậm chí đến mức khắt khe và nhiều khi nó vượt ra khỏi phạm vi
tôn giáo và trở thành một chuẩn mực pháp lý của xã hội. Trong Hồi giáo khó thấy
ranh giới giữa cái thiêng và cái tục.
Giáo lý cơ bản của Hồi giáo là Kinh Koran (Coran theo nguyên nghĩa tiếng Ảrập là
“tụng đọc”) vì đó là những lời nói của Môhamet được ghi lại và những lời này do
thánh Allah thông qua thiên sứ Gabriel “khải thị” cho Muhammad . Kinh Koran
tổng cộng có 30 quyển, 114 chương hơn 6200 tiết (là những đoạn thơ). Nội dung
Kinh Coran vô cùng phong phú đại thể bao gồm những tín ngưỡng cơ bản và chế
độ tôn giáo của đạo Hồi và những ghi chép về tình hình xã hội trên bán đảo Ảrập
đương thời cùng với những chính sách về chủ trương xã hội, quy phạm luân lý đạo
đức… Giáo lý Hồi giáo gồm các điểm cơ bản sau:
+ Allah là đấng tối cao sinh ra trời đất.
+ Allah là đấng tối cao sinh ra muôn loài trong đó có con người.
+ Con người là bình đẳng trước Allah nhưng số phận và tài năng tạo nên sự khác
nhau giữa những con người .
+ Số phận con người có tính định mệnh và do Allah sắp đặt.
+ Tín đồ Hồi giáo phải luôn có thái độ đúng: trong cộng đồng (Hồi giáo) thì phải
kiên nhẫn chịu đựng, phục tùng Allah, đối với người ngoài thì phải kiên quyết bảo
vệ mọi lợi ích của Hồi giáo và phải có tinh thần thánh chiến.
+ Về y lý: khuyên bảo con người phải giữ gìn sức khỏe.
+ Những lời khuyên về đạo lý:
Tôn thờ thần cao nhất là Allah.
Sống nhân từ độ lượng.
Thưởng phạt công minh, trừng phạt chủ yếu đối với kẻ thù.
Thánh chiến là thiêng liêng và bắt buộc.
Kiên định và nhẫn nại trong mọi thử thách.
Tin vào định mệnh và sự công minh của Allah.
Cấm một số thức ăn: thịt heo, rượu bia và các chất có men. (Heo là con vật gắn với
khởi nguyên: phát triển là nhờ chăn nuôi).
Trung thực.
Không tham của trộm cắp
Làm lễ và tuân thủ các nghi lễ Hồi giáo.
b. Niềm tin trong Hồi giáo
Xét về niềm tin, tín đồ Hồi giáo tin vào Alah, sứ giả Mohammed, thiên sứ, thiên
kinh, hậu thế.
Tin vào Allah: Đây là một nội dung quan trọng của tín điều cơ bản. Theo Hồi giáo,
Allah là vị thần duy nhất trong vũ trụ, tự sinh ra và bất tử. Allah sáng tạo thế giới,
và là chúa tể. Hồi giáo không thờ ảnh tượng của Allah vì họ quan niệm Allah toả
khắp nơi, không một hình tượng nào đủ để thể hiện Allah.
Tin vào sứ giả Muhammad: Giáo lý Hồi giáo cho rằng Allah từng cử nhiều sứ giả
đến các dân tộc khác nhau trong những thời kỳ nhất định để truyền đạt ngôn luận
của Allah cho con người. Có đến 5 sứ giả. Trong đó Muhammad là sứ giả cuối
cùng mà Allah chọn lựa. Đây cũng là sứ giả xuất sắc nhất. Chỉ có Muhammad là
được nhận những ngôn luận của Allah một cách đầy đủ nhất.
Tin Thiên kinh: Allah từng trao thiên kinh cho các sứ giả trước Mohammedû, mỗi
người một bộ. Nhưng những bộ ấy không đầy đủ, bị thất lạc hoặc bị người đời sau
giải thích sai lệch. Chỉ có bộ thiên kinh mà Allah truyền cho Muhammad là bộ
kinh điển cuối cùng nhưng đầy đủ nhất. Đó là kinh Coran. Vì vậy, kinh Coran dưới
mắt người Hồi giáo làø bộ kinh điển thần thánh duy nhất.
Tin vào Thiên sứ: Thiên sứ do Allah tạo ra, là một loại linh hồn, vô hình trước con
người, không có tính thần. Mỗi thiên sứ có một nhiệm vụ. Trong Thiên sứ cũng có
sự phân chia cao thấp. Cao nhất là thiên sứ Gabriel. Con người không phải phủ
phục trước thiên sứ.
Tin vào hậu thế: Sẽ có ngày tận thế. Trong ngày ấy, mọi sinh linh sẽ kết thúc để rồi
tất cả sống lại nhận sự phán xét của Allah. Dựa vào hành vi của mỗi người mà
Allah quyết định: thiên đường dành cho người thiện, địa ngục là nơi của kẻ ác.
c. Nghĩa vụ Hồi giáo
Hệ thống nghĩa vụ của tín đồ Hồi giáo rất rộng và chi tiết, dựa trên cơ sở kinh
Koran và sách Thánh huấn.
Các tín đồ có 5 nghĩa vụ chủ yếu. Đó là niệm, lễ, trai, khoá, triều. Đây là 5 trụ cột
của Hồi giáo, tạo nên sườn cốt cho đời sống của người Hồi giáo.
– Niệm: tín đồ phải thường xuyên tụng niệm thành tiếng tín điều cơ bản (Vạn vật
không phải là Chúa, chỉ có Chân chúa; Muhammad là sứ giả của Chúa).
– Lễ: tức là lễ bái. Các tín đồ mỗi ngày hành lễ 5 lần (sáng, trưa, chiều, tối, đêm).
Thứ 6 hàng tuần thì làm lễ tại thánh đường 1 lần vào buổi trưa. Trước khi làm lễ,
tín đồ phải rửa mặt, tay chân, quỳ xuống, hướng về đền Kabah để cầu nguyện.
– Trai: tức là trai giới. Tháng 9 theo lịch Hồi là tháng trai giới của Hồi giáo. Trong
tháng này mọi tín đồ không ăn uống, quan hệ tính dục từ khi mặt trời mọc đến khi
mặt trời lặn, trừ một số trường hợp đặc biệt. Kết thúc tháng này là lễ Phá bỏ sự
nhịn đói, các tín đồ sẽ cùng nhau cầu nguyện, sau đó tặng quà cho nhau, và bố thí.
– Khoá: các tín đồ có nghĩa vụ đóng góp cho các hoạt động từ thiện. Sự đóng góp
đó có thể là tự nguyện, nhưng cũng có khi là bắt buộc dựa vào tài sản của tín đồ
(khoảng 1/40 tài sản).
– Triều: Các tín đồ có nghĩa vụ hành hương về Mecca ít nhất 1 lần trong cuộc đời,
để triều bái Kabah trong tháng 12 theo lịch Hồi (hành hương Haji). Cuộc lễ triều
bái kéo dài trong 10 ngày. Ngày cuối cùng tín đồ sẽ hiến lễ là một con cừu hoặc lạc
đà, hoặc một con vật có sừng. Triều bái Mecca trong dịp này là chính triều. Còn
phó triều thì diễn ra trong thời gian bất kỳ của năm và ít nghi lễ hơn.
Ngoài ra, Hồi giáo còn có nhiều quy định cụ thể về hành vi của tín đồ trong các
mối quan hệ xã hội.
d. Tổ chức Hồi giáo
Thánh đường Hồi giáo là nơi sinh hoạt tập thể và có tính thiêng với các tín đồ.
Thánh đường gồm có Đại Thánh đường và Tiểu Thánh đường. Trong Thánh đường
có bài trí đơn giản, không bàn ghế, không có đồ thờ quý hay nhạc cụ, chỉ có chiếc
gậy mà theo truyền thuyết là của giáo chủ Môhammet đã dùng nó để đi truyền đạo.
Hệ thống chức sắc gồm có Giáo chủ (Mufty), phó giáo chủ (Naib Mufty), Giáo cả
(Ha Kim), phó giáo cả (Naib Ha Kim), Imân, Khatib, Tuan, Bilat, Slak, HaDjiđ
III. SỰ PHÂN CHIA HỒI GIÁO
Đến nay Hồi giáo đã chia ra làm nhiều nhánh với những giáo lý và quan điểm
chính trị khác biệt.
1. Sunni
Hồi giáo dòng Sunni chiếm 75%–90% số người theo Đạo Hồi.[45] Dòng Sunni
cũng có tên Ahl as-Sunnah nghĩa là "người truyền thống"
Người theo Sunni tin rằng bốn Khalip đầu tiên là những người thừa kế hợp pháp
của Muhammad; vì Chúa không chỉ định bất kỳ lãnh đạo đặc biệt nào để kế thừa
ông và những người này được bầu ra. Người theo Sunni tin rằng bất cứ ai là người
công chính và chỉ có thể là một khalip nhưng họ phải hành động theo kinh Qur'an
và Hadith (tuyển tập lời dạy của Muhammad).
2. Shia
Shi'a chiếm 10–20% số người theo đạo Hồi và là nhánh lớn thứ 2
Trong khi Sunni tin rằng Muhammad không chỉ định một người kế nhiệm và do đó
kế nhiệm ông sẽ được chọn bởi cộng đồng thì Shia tin rằng trong lần hành hương
cuối cùng của Muhammad đến Mecca, ông đã chỉ định con nuôi của ông là Ali ibn
Abi Talib, làm người kế vị trong Hadith of the pond of Khumm. Và thế là họ tin
rằng Ali ibn Abi Talib là Imam (lãnh đạo) đầu tiên, và bác bỏ tính hợp pháp của
các khalip Hồi giáo trước Abu Bakr, Uthman ibn al-Affan và Umar ibn al-Khattab.
3. Sufism
Sufism là một nhánh Hồi giáo thiên về chiều hướng thần bí, nội tâm của Islam
nhằm mục đích đạt được sự hoàn thiện về đạo đức,sự hành đạo và đức tin (al-
ihsan) và gần gũi với Đấng Tối cao Allah.
Do đặc tính linh hoạt và nghiên về chiều hướng thần bí nên Sufism là nhánh Hồi
giáo tiên phong mở đường trong công cuộc truyền bá Islam
Các dòng khác

You might also like