Tiểu Luận Nguyễn Minh Hiếu LớP BT37

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 38

HOẠT ĐỘNG BẢO TỒN VẦ PHÁT HUY DI TÍCH

LỊCH SỬ ĐỊA ĐIỂM CHIẾN THẮNG XƯƠNG GIANG


TẠI THÀNH PHỐ BẮC GIANG TỈNH BẮC GIANG

1. Lí do chọn đề tài
Bắc Giang là tỉnh trung du miền núi thuộc vùng văn hoá Kinh Bắc xưa,
được ví như phên dậu phía Bắc của quốc gia Đại Việt, mảnh đất này
không chỉ có bề dày về lịch sử văn hóa với những di tích nổi tiếng như
chùa Vĩnh Nghiêm, chùa Bồ Đà mà còn có truyền thống đấu tranh anh
hùng bất khuất chống lại các cuộc xâm lăng của quân thù bảo vệ đất
nước. Mỗi vùng đất con người Bắc Giang đều khắc ghi dấu ấn lịch sử
của cha ông trong quá trình đấu tranh xây dựng, bảo vệ đất nước. Một
trong những địa danh ghi dấu ấn sâu đậm là chiến thắng Chi Lăng -
Xương Giang trong cuộc kháng chiến chống giặc Minh của dân tộc Việt
Nam.
2. Mục đích ngiên cứu
Trận Xương Giang là một trận đánh nằm trong kế hoạch “vây thành diệt
viện” của nghĩa quân Lam Sơn trong chiến dịch Bắc tiến nhằm đánh đuổi
hoàn toàn giặc Minh xâm lược giành lại toàn bộ chủ quyền giang sơn Đại
Việt. Chiến thắng này có ý nghĩa vô cùng quan trọng, cùng với các trận
Chi Lăng, Cần Trạm, Hố Cát nghĩa quân đã tiêu diệt toàn bộ đạo quân
chi viện cho thành Đông Quan do Liễu Thăng Cầm đầu, giết và bắt sống
toàn bộ tướng chỉ huy địch. Chiến thắng Xương Giang là chiến thắng
cuối cùng quyết định thắng lợi của khởi nghĩa Lam sơn kết thúc 20 năm
nước ta chịu sự cai trị của nhà Minh. Từ những ý nghĩa trên việc nghiên
cứu , bảo tồn và phát huy các giá trị lịch sử của di tích chiến thắng thành
cổ Xương Giang không chỉ góp phần giới thiệu, quảng bá đến công
chúng về một di tích tiêu biểu góp phần phát triển kinh tế du lịch của địa
phương mà trên hết là giáo dục thế hệ trẻ hiểu về một di tích hào hùng
gắn với chiến thắng vang dội của cha ông trong cuộc đấu tranh giành lại
non sông đất nước. Qua đó khơi dậy niềm tự hào dân tộc ý thức về tinh
thần trách nhiệm của mỗi cá nhân trong công cuộc xây dựng bảo vệ đất
nước cũng như ý thức trong việc giữ gìn và bảo vệ phát huy những giá trị
văn hóa đặc sắc của dân tộc. Đây chính là sự tri ân ro lớn đối với công
lao của cha ông đã xây dựng, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, Bản sắc văn hóa
của dân tộc Việt .

3. Đối tượng , phạm vi nghiên cứu


Đối tượng nghiên cứu: Ý nghĩa lịch sừ hoạt động bảo tồn và phát huy giá
trị.

Phạm vi nghiên cứu : Quần thể di tích thành cổ Xương Giang


4. Phương pháp nghiên cứu

Để hoàn thành đề tài này, chúng tôi đã dựa vào những phương pháp nghiên
cứu sau đây:

Phương pháp thu thập tài liệu.

Phương pháp tổng hợp phân tích.

Phương pháp quan sát thực địa.

5. Bố cục đề tài

Chương 1 : Những cơ sở khoa học về quản lý di tích và khái quát về di


tích địa điểm chiếm thắng Xương Giang.

Chương 2 : Giá trị lịch sử, văn hóa , khoa học của di tích địa điểm chiến
thắng Xương Giang.

Chương 3 : Thực trạng phương pháp quản lý hoạt động bảo tồn, phát huy
giá trị di tích lịch sử địa điểm chiến thắng Xương Giang.

CHƯƠNG 1: NHỮNG CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ QUẢN


LÍ DI TÍCH VÀ KHÁI QUÁT VỀ THÀNH PHỐ BẮC
GIANG.

1. Một số khái niệm cơ bản


1.1 Văn hóa

Theo Wikipedia, Văn hóa là sản phẩm của loài người, văn hóa được Song,
chính văn hóa lại tham gia vào việc tạo nên con người, và duy trì sự bền
vững và trật tự xã hội. Văn hóa được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác
thông qua quá trình xã hội hóa. Văn hóa được tái tạo và phát triển trong quá
trình hành động và tương tác xã hội của con người. Văn hóa là trình độ phát
triển của con người và của xã hội được biểu hiện trong các kiểu và hình thức
tổ chức đời sống và hành động của con người cũng như trong giá trị vật chất
và tinh thần mà do con người tạo ra.

Từ văn hóa có rất nhiều nghĩa. Trong tiếng việt,văn hóa được dùng theo
nghĩa thông dụng để chỉ học thức,lối sống. Theo nghĩa chuyên biệt để chỉ
trình độ phát triển của một giai đoạn. Trong khi theo nghĩa rộng,thì văn hóa
bao gồm tất cả,từ những sản phẩm tinh vi,hiện đại,cho đến tín ngưỡng,phong
tục,lối sống...

Trong “Trung Quốc văn hóa sử”:“Văn” là những cái tốt đẹp của cuộc
sống đã được đúc kết lại. “Hóa” là đem cái đã được đúc kết ấy hóa thân trở
lại, làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn.

Năm 1871, Edward Burnett Tylor, Primitive Culture (Văn hóa nguyên
thủy), London, 1871, Vol 1. p.1: Văn hóa là tổng thể phức tạp bao gồm tri
thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục và cả những khả
năng và thói quen khác mà con người đạt được với tư cách là một thành viên
xã hội”
Trong cuốn Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, PGS.TSKH Trần Ngọc
Thêm cho rằng: Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh
thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn,
trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của
mình.
Theo tổ chức giáo dục và khoa học của Liên Hiệp Quốc UNESCO
(Thông tin UNESCO, 1, 1988): “Văn hóa là tổng thể sống động các hoạt
động sáng tạo trong quá khứ và hiện tại… hình thành một hệ thống giá trị,
các truyền thống và các thị hiếu – văn hóa giúp xác định tính riêng của từng
dân tộc”

Như vậy, có thể thấy rằng: Văn hóa là tất cả những giá trị vật thể do con
người sáng tạo ra trên nền của thế giới tự nhiên
1.2 Di sản văn hóa
Theo Wikipedia, Di sản văn hóa được hiểu là di sản của các hiện vật vật lý
và các thuộc tính phi vật thể của một nhóm hay xã hội được kế thừa từ các
thế hệ trước, đã duy trì đến hiện nay và dành cho các thế hệ mai sau. Di sản
văn hóa bao gồm di sản văn hóa (như các tòa nhà, cảnh quan, di tích, sách,
tác phẩm nghệ thuật, và các hiện vật), văn hóa phi vật thể (như văn hóa dân
gian, truyền thống, ngôn ngữ và kiến thức) và di sản tự nhiên (bao gồm cảnh
quan có tính văn hóa quan trọng và đa dạng sinh học.
Theo Luật Di sản văn hóa năm 2001, khái niệm Di sản văn hóa Việt Nam
được hiểu là tài sản quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam và là một
bộ phận của di sản văn hóa nhân loại, có vai trò to lớn trong sự nghiệp dựng
nước và giữ nước của nhân dân ta. Để bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn
hóa, đáp ứng nhu cầu về văn hóa ngày càng cao của nhân dân, góp phần xây
dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản săc dân tộc
và đóng góp vào kho tàng di sản văn hóa thế giới. Để tăng cương hiệu lực
quản lý nhà nước, nâng cao trách nhiệm của nhân dân trong việc tham gia
bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa.
Di sản văn hoá quy định tại Luật này bao gồm di sản văn hoá phi vật thể
và di sản văn hoá vật thể, là sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị lịch sử,
văn hoá, khoa học, được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác ở nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

1.3 Di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh


Theo Luật Di sản văn hóa năm 2001, Di tích lịch sử - văn hoá là công
trình xây dựng, địa điểm và các di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc công
trình, địa điểm đó có giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học.
Danh lam thắng cảnh là cảnh quan thiên nhiên hoặc địa điểm có sự kết
hợp giữa cảnh quan thiên nhiên với công trình kiến trúc có giá trị lịch sử,
thẩm mỹ, khoa học.

1.4 Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa


Trong vấn đề bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa hiện nay, Bảo tồn
được hiểu là bảo vệ và giữ gìn sự tồn tại của sự vật hiện tượng theo dạng
thức vốn có của nó. Bảo tồn là giữ lại, không để mất đi, không để bị thay
đổi, biến hóa hay biến thái.
Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa luôn gắn kết chặt chẽ biện chứng. Đó
là hai lĩnh vực thống nhất, tương hỗ, chi phối ảnh hưởng qua lại trong hoạt
động giữ gìn tài sản văn hóa. Bảo tồn di sản văn hóa thành công thì mới phát
huy được các giá trị văn hóa. Phát huy cũng là một cách bảo tồn di sản văn
hóa tốt nhất (lưu giữ giá trị di sản trong ý thức cộng đồng xã hội).
Đối tượng bảo tồn (tức là các giá trị di sản văn hóa vật thể và phi vật thể)
cần thỏa mãn hai điều kiện: Một là, nó phải được coi là tinh hoa, là một giá
trị đích thực được thừa nhận minh bạch, không có gì phải hồ nghi hay bàn
cãi. Hai là, nó phải hàm chứa khả năng, chí ít là tiềm năng, đứng vững lâu
dài với thời gian, là cái giá trị của nhiều thời (tức là có giá trị lâu dài) trước
những biến đổi tất yếu về đời sống vật chất và tinh thần của con người, nhất
là trong bối cảnh nền kinh tế thị trường và quá trình toàn cầu hóa đang diễn
ra cực kỳ sôi động.

2. khái quát về di tích địa điểm chiến thắng Xương Giang

2.1 Tên gọi di tích


Tên gọi di tích được thống nhất trong Hồ sơ khoa học: Địa điểm Chiến
thắng Xương Giang.
Tên gọi khác: Không.
2.2 Địa điểm và đường đi đến di tích
2.2.1 Địa điểm
Địa điểm Chiến thắng Xương Giang xưa thuộc bộ Vũ Ninh. Đến thời
Lý, Trần, Địa điểm Chiến thắng Xương Giang thuộc phủ Lạng Giang (Phủ
Lạng Giang từ thời Trần về trước là đất lộ Bắc Giang 1). Trong lịch sử đã từng
ghi nhận Bắc Giang thời Lý là trung tâm của đất Châu Lạng-mảnh đất có vai
trò quan trọng trong sự nghiệp bảo vệ kinh thành Thăng Long và quốc gia
Đại Việt nên được nhà Lý đặc biệt coi trọng 2.
Sang thời kỳ nhà Minh thống trị nước ta, năm Vĩnh Lạc thứ 5 (1407) chia
phủ Lạng Giang gồm 2 châu: Lạng Giang và Thượng Hồng, cai quản 10 huyện.
Sau khi xâm lược nước ta, nhà Minh đã chọn phủ Lạng Giang là trị sở và xây dựng
hệ thống thành lũy trong đó có thành Xương Giang. Lúc này, thành Xương Giang
thuộc xã Đông Nham (hay còn gọi là làng Thành), huyện Bảo Lộc, tổng Thọ
Xương, phủ Lạng Giang, trấn Kinh Bắc.
Đến thời Lê và thời Nguyễn, Địa điểm Chiến thắng Xương Giang thuộc
tổng Thọ Xương, phủ Lạng Giang.
Sau năm 1945, Địa điểm Chiến thắng Xương Giang thuộc xã Thọ Xương,
thị xã Bắc Giang. Năm 1999, thuộc xã Xương Giang, thị xã Bắc Giang. Từ năm
2014 đến nay, Địa điểm Chiến thắng Xương Giang thuộc phường Xương Giang,
thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang.
2.2 .2 Đường đi đến di tích
Từ trung tâm thành phố Bắc Giang đi theo hướng đường Hùng Vương -
Xương Giang (quốc lộ 1A cũ) chừng 1km về phía Đông Bắc là tới di tích Địa
điểm Chiến thắng Xương Giang.
Từ thủ đô Hà Nội, đi theo hướng đường quốc lộ 1A cũ khoảng 55km, đến
thành phố Bắc Giang, qua cầu Sông Thương đi thẳng theo đường Xương Giang
khoảng 2km là tới di tích.
Từ thủ đô Hà Nội, đi theo hướng đường quốc lộ 1A mới (cao tốc) khoảng
55km qua cầu Xương Giang, rẽ trái vào trung tâm thành phố Bắc Giang đi thẳng
đường Hùng Vương, rẽ phải đi theo đường Xương Giang khoảng 1km là tới di
tích Địa điểm Chiến thắng Xương Giang.
2.3 phân loại di tích

1
Đại Nam nhất thống chí, tập 4, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, năm 1971, tr 60.
2
Hội thảo khoa học " Bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa chiến thắng Xương Giang năm 1427" do Sở
VHTTDL- Viện Sử học- UBND thành phố Bắc Giang tổ chức - năm 2009, tr 169.
Căn cứ kết quả khảo sát, nghiên cứu về di tích; Căn cứ Điểm a, Khoản 3,
Điều 29 của Luật Di sản văn hóa năm 2001, được sửa đổi, bổ sung năm 2009;
căn cứ Điều 11 Nghị định số 98/2010/NĐ-CP ngày 21/9/2010 của Chính phủ
quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Di sản văn hóa năm 2001 và
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Di sản văn hóa năm 2009, di tích Địa
điểm chiến thắng Xương Giang tại thành Xương Giang thuộc loại hình Di tích
lịch sử.
2.4 Đặc điểm di tích Địa điểm Chiến thắng Xương Giang
Đầu thế kỷ XV, giặc Minh xâm lược nước ta. Suốt 20 năm đô hộ đầy sự hà
khắc khiến đời sống nhân dân ta vô cùng khổ cực. Thời kỳ này chúng đã áp
dụng chính sách chia làng, xã, lập thành Lí, Giáp, cùng hệ thống bộ máy như cơ
cấu hành chính của nông thôn Trung Quốc. Đặc biệt, nhà Minh rất quan tâm
việc thiết lập các sở, vệ, xây dựng hệ thống thành lũy ở những nơi xung yếu để
phòng thủ trong đó có thành Xương Giang. Theo các thư tịch cổ của Việt Nam
như: Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên; Bình Ngô Đại Cáo; Phú Núi Chí
Linh, Quân Trung Từ mệnh tập của Nguyễn Trãi, Phú Xương Giang của Lý Tử
Tấn, Kiến Văn tiểu lục của Lê Quý Đôn; Lịch triều hiến chương loại chí của
Phan Huy Chú… thì thành Xương Giang vốn là một toà thành được xây dựng
trong hệ thống thành luỹ của quân Minh (giai đoạn 1407-1427). Lúc đó, thành
Xương Giang còn là trị sở của phủ Lạng Giang (bao gồm các huyện: Lạng
Giang, Yên Thế, Yên Dũng, Lục Ngạn và Hữu Lũng) và là thành lũy kiên cố
của giặc Minh án ngữ trên con đường dịch trạm, là cầu nối giữa 2 tỉnh Quảng
Tây (Trung Quốc) với Đông Quan (Hà Nội). Với vị trí chiến lược này, thành
Xương Giang có thể phong toả các vùng xung quanh, liên lạc, ứng cứu, tiếp
viện khi cần thiết, ra công vào thủ rất lợi hại. Toà thành này lại ở vào vị trí cửa
ngõ, phên dậu của Đông Quan, nên được giặc Minh xây dựng rất kiên cố. Như
vậy, thành Xương Giang đã có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về mặt quân sự đối
với quân Minh ở Đại Việt. Sách Khởi nghĩa Lam Sơn của Phan Huy Lê - Phan
Đại Doãn viết:“Thời thuộc Minh, thành Xương Giang là thành lớn nhất của phủ
Lạng Giang, đương thời vẫn gọi là thành Lạng Giang... Xương Giang là trị sở của
phủ Lạng Giang. Sau khi xâm lược nước ta, nhà Minh cho xây dựng các sở vệ,
đắp thành lũy ở những nơi xung yếu để phòng thủ. Thành Xương Giang khi đó
trở thành thành lũy kiên cố của giặc Minh án ngữ trên con đường dịch trạm từ
Quảng Tây (Trung Quốc) nối với Đông Quan (Hà Nội)” 3.

3
Phan Huy Lê - Phan Đại Doãn. Khởi nghĩa Lam Sơn, Nxb Khoa học xã hội-HN 1997.Tr
403,
Theo sách Di tích Bắc Giang, tái bản năm 2016, trang 444: Thành Xương
Giang xưa nằm trên một gò đồi thấp, được đắp bằng đất, có sông nhỏ và các
thửa ruộng trũng bao quanh, cách sông Thương chừng vài ba km. Thành có hình
chữ nhật, chiều dài theo hướng Đông Tây là 600m, chiều rộng theo hướng Bắc
Nam là 450m, tổng diện tích là 27ha. Bốn góc thành có 4 vọng lâu lớn, đặt các
loại súng thần cơ lớn nhỏ. Có bốn cửa nhìn ra bốn hướng và cửa chính thành
trông về phía Tây. Trong thành được phân chia các khu vực rõ ràng: Dinh thự,
doanh trại, kho lương, kho đạn, giếng nước...
Thành Xương Giang hiện nay không còn nhưng dấu vết tường thành xưa
cùng các hiện vật dưới lòng đất mà khảo cổ học đã tìm được là minh chứng rõ
ràng về sự tồn tại và vai trò ý nghĩa của toà thành này trong lịch sử chống quân
Minh của dân tộc. Khu di tích Chiến thắng Xương Giang hiện có 12 địa điểm đã
được cắm mốc địa giới hành chính và khoanh vùng khu vực bảo vệ. Tại địa
điểm trung tâm thành Xương Giang xưa đã có ngôi đền thờ Lê Lợi cùng các
tướng sĩ nghĩa quân Lam Sơn, nhà Trưng bày và biểu diễn nghệ thuật giới thiệu
về Chiến thắng Xương Giang phục vụ khách tham quan.
2.5. Sự kiện nhân vật lịch sử liên quan
2.5.1 Sự kiện lịch sử liên quan đến di tích
Thế kỷ XV quân Minh xâm lược nước ta, cả nước dấy lên phong trào
khởi nghĩa chông quân Minh xâm lược. Giai đoạn này có nhiều cuộc khởi nghĩa
chống giặc Minh bảo vệ đất nước. Trong các cuộc khởi nghĩa ấy, chỉ có khởi
nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo là thành công. Từ một cuộc khởi nghĩa Lam
Sơn đã phát triển thành phong trào giải phóng dân tộc trên phạm vi cả nước.
Vùng đất Bắc Giang là nơi ghi dấu nhiều trận đánh ác liệt trong cuộc khởi nghĩa
này tiêu biểu là Chiến thắng Xương Giang để kết thúc ách đô hộ của nhà Minh
giải phóng dân tộc. Cùng với nhiều địa danh khác như: Chi Lăng, Cần Trạm,
Phố Cát... thành Xương Giang đã trở thành trung tâm diễn ra nhiều sự kiện
lịch sử quan trọng trong cuộc khởi nghĩa chống giặc Minh xâm lược. Đặc biệt,
nơi đây diễn ra 2 chiến thắng lớn của nghĩa quân Lam Sơn: Trận công thành
Xương Giang tháng 9 năm 1427 và chiến thắng Chi Lăng - Xương Giang trong
trận quyết chiến chiến lược Chi Lăng - Xương Giang tháng 11 năm 1427 do
Lê Lợi và Nguyễn Trãi chỉ huy đã đi vào lịch sử dân tộc.
2.5.1.1 Trận công thành Xương Giang tháng 9 năm 1427
Vào giữa năm 1426, nghĩa quân Lam Sơn do Lê Lợi chỉ huy đã mở rộng,
củng cố vùng giải phóng, thừa thắng kéo quân ra Bắc bao vây thành Đông Quan.
Tướng nhà Minh- bọn Vương Thông xin viện binh cứu viện và cố thủ tại đây.
Biết trước tình hình đó, Lê Lợi, Nguyễn Trãi và bộ tham mưu nghĩa quân Lam
Sơn gấp rút chuẩn bị hạ gấp thành Xương Giang nhằm chặt đứt một cầu nối quan
trọng giữa vùng Lưỡng Quảng (Trung Quốc) với Đông Quan (Hà Nội) và tính kế
dồn địch lại ở vùng Xương Giang. Mặt khác để nghĩa quân Lam Sơn, do Lê Lợi,
Nguyễn Trãi chỉ huy mở trận quyết chiến chiến lược tiêu diệt viện binh địch, đập
tan ý đồ trong ngoài giáp công, phá thế bao vây của nghĩa quân Lam Sơn giành
thế chủ động trên chiến trường của giặc Minh.
Nghĩa quân Lam Sơn do Lê Lợi, Nguyễn Trãi đích thân chỉ huy, bao vây
giặc Minh ở Đông Quan (Hà Nội). Hai tướng Bùi Quốc Hưng, Nguyễn Chích bao
vây thành Điêu Diêu (Gia Lâm) và thành Thị Cầu (Bắc Ninh). Hai tướng Lê Sát,
Lê Thụ chỉ huy lực lượng bao vây, tấn công đánh hạ thành Xương Giang. Trần
Lựu, Lê Bối đánh Khâu Ôn (Lạng Sơn).
Đến cuối năm 1426, nghĩa quân Lam Sơn đã tiến hành vây hãm thành
Xương Giang. Các tướng Lê Sát, Lê Triện, Nguyễn Đình Lý, Lê Thụ, Lê Lãnh
công thành đều không có kết quả. Vì đây là một toà thành lớn, có kiến trúc phòng
vệ chắc chắn, nguồn lương thực dự trữ bên trong đầy đủ và tập trung lực lượng
binh lực lớn. Số lượng quân giữ thành này từ vài nghìn cho đến một vạn quân.
Nhận thấy vai trò quan trọng cũng như thuận lợi về nhiều mặt nếu giữ được thành
nên quân Minh đã quyết thủ ở đây. Các tướng Lê Sát, Lê Triện và Lê Thụ phối
hợp với quân dân Lạng Giang bao vây, tiến đánh nhiều trận. Cuộc tiến công vào
thành Xương Giang diễn ra hết sức gay go, ác liệt, vì phía địch thì quyết tâm cố
thủ, quân ta lại quyết tâm hạ thành. Hai bên đã đem hết tài sức và mưu trí, vận
dụng linh hoạt mọi chiến thuật, sử dụng nhiều phương tiện vũ khí trong chiến
đấu. Quân ta vây chặt bốn mặt thành rồi đắp thành những điểm cao, đặt pháo bắn
vào, nhưng ban đêm quân Minh lại tổ chức liều chết ra chiếm các điểm cao ấy rồi
tập kích vào doanh trại nghĩa quân. Quân ta lại dùng phép “độn thổ” đào những
đường hầm ngầm đột nhập vào trong thành. Quân địch dò biết, đào hào chắn
ngang và dùng súng bắn làm cho nghĩa quân thiệt hại. Ta đem hàng tướng Thái
Phúc đến tận thành dụ giặc, nhưng địch vẫn ngoan cố không chịu đầu hàng, liều
chết cố thủ.
Trong suốt 6 tháng ròng rã bao vây, công thành kết hợp với dụ hàng quân
giặc nhưng thành vẫn chưa bị hạ. Tới tháng 9 năm 1427, các đợt vây hãm thành
Xương Giang của Lê Sát, Nguyễn Đình Lý… càng trở nên dồn dập, quân Minh
trong thành tuy đã bị tiêu hao nhiều, nhưng sức kháng cự vẫn mãnh liệt. Việc
công thành của nghĩa quân Lam Sơn vẫn không mang lại kết quả. Hạ gấp thành
Xương Giang, tiêu diệt toàn bộ sinh lực địch ở đây, biến Xương Giang thành căn
cứ vững chắc và điểm cuối cùng chặn đứng bước tiến của viện binh địch về Đông
Quan (Thăng Long) rồi bao vây tiêu diệt chúng trở thành một nhiệm vụ trọng tâm
của nghĩa quân Lam Sơn. Lê Lợi đã tăng cường lực lượng và quan trọng hơn là
đã cử Trần Nguyên Hãn tham gia vào kế hoạch đánh thành này. Trần Nguyên
Hãn được bổ sung, trở thành tướng chỉ huy các đợt công thành. Khi được giao
nhiệm vụ hạ thành Xương Giang, Trần Nguyên Hãn cho đào công sự từ các khu
rừng lân cận, đào hầm ngầm từ ngoài vào trong thành, dùng câu liêm, giáo, nỏ
cứng, hỏa tiễn, hỏa pháo bốn mặt cùng đánh, rồi tiến hành nội công ngoại kích
với sự phối hợp của lực lượng nghĩa quân đã lọt được vào nội thành và huy động
dân chúng của các làng xung quanh tham chiến cùng nghĩa quân Lam Sơn. Đến
ngày 9 tháng 8 năm Đinh Mùi (28/9/1427), sau khi dùng hoả pháo và tên lửa bắn
vào thành, quân ta đồng loạt dùng thang trèo lên thành, rồi ồ ạt đột nhập vào
trong. Nhân dân vùng Xương Giang, các làng Hà Vị, Hoà Yên, Đông Nham,
Nam Xương, làng Thành, làng Vẽ cũng hăng hái phối hợp với nghĩa quân chiếm
thành. Toàn bộ giặc trong thành đều bị tiêu diệt. Chỉ huy Lý Nhậm và các tướng
quân Minh cùng đường đã tự vẫn. Quân ta làm chủ thành Xương Giang. Sách
Đại Việt sử ký toàn thư chép về việc hạ thành Xương Giang như sau: “Tháng 9
ngày 8, bọn Thái úy Trần Hãn (tức Trần Nguyên Hãn), Tư mã Lê Sát, Lê Triện,
Lê Lý đánh lấy được thành Xương Giang. Khi ấy viên chỉ huy nhà Minh là Kim
Dận cho là thành này nằm trên đường về của quân Minh, nên cùng với tên quan
mới bổ đến là Lý Nhậm liều chết cố thủ. Trải qua hơn 6 tháng trời cầm cự với
quân Khoái Châu, Lạng Giang, chúng vừa đánh vừa giữ, khiến quan quân không
thể lên được thành. Vua sai Hãn đắp đất, mở đường đánh nhau với giặc, dùng câu
liêm giáo dài, nỏ cứng, tên lửa, súng lửa, bốn mặt đánh vào, thành cuối cùng bị
hạ. Bọn Dận, Nhậm đều tự sát”4. Sách Việt sử Thông giám cương mục cũng chép
về chiến thắng này: “Tháng 9. Các tướng Trần Hãn và Lê Sát đánh thành Xương
Giang: hạ được. Xương Giang là đường quân Minh tất phải qua lại. Bọn chỉ huy
Minh là Kim Dận và Lý Nhâm (Nhậm) bị vây hàng hơn sáu tháng, liều chết cố
giữ để đợi viện binh; quan quân không hạ được. Đến đây, các tướng Trần Hãn
khoét đất thành đường hầm đi xuyên vào thành, đánh kẹp lại, mới phá được thành
này. Bọn Kim, Dận, Nhậm đều tự sát”5…. Sách Minh Thực Lục (tập V), bản dịch
của Viện Nghiên cứu Trung ương, Viện Lịch sử Ngữ ngôn xuất bản, Đài Bắc,
1962, tr 0701 đã đề cập về trận chiến thành Xương Giang và được dịch ra như
sau: "... Ngày 2 tháng 4 năm Tuyên Đức thứ 2 (28/4/1427), ngày hôm đó, giặc
Giao Chỉ Lê Lợi công hãm thành Xương Giang. Lợi cho rằng Xương Giang là
nơi quan trọng, trên đường đại quân ra vào; bèn dùng 8 vạn quân đánh. Quan giữ
thành Đô Chỉ huy Lý Nhậm, Chỉ huy Cố Phúc ra lệnh già, trẻ đều lên mặt thành

4
Đại Việt sử ký toàn thư tập 1, Nxb KHXH, H, 1993, tr.276
5
Việt sử Thông giám cương mục tập I, Nxb Giáo dục, H.1998, Tr .817
giương cờ hò hét, ngày đêm chống cự... Bốn phía giặc đều đắp núi đất, dùng phi
minh (mũi tên sắt) bắn vào thành...". Đó là những tài liệu, chính sử ghi chép về
trận đánh thành Xương Giang; là căn cứ khoa học khẳng định giá trị lịch sử chiến
thắng Xương Giang.
Thành Xương Giang bị hạ trước khi Liễu Thăng kéo quân tới biên giới
Việt Trung 10 ngày (Liễu Thăng tới ải Pha Luỹ vào ngày 8/11/1427). Với chiến
thắng này, nghĩa quân Lam Sơn không chỉ tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch mà
còn chiếm giữ được một cứ điểm quan trọng và lớn nhất trên đường tiến quân của
viện binh địch đến Đông Quan, tạo thành bức tường vững chắc ngăn địch và tạo
điều kiện thuận lợi để tiêu diệt toàn bộ viện binh địch, giải phóng đất nước.
Thắng lợi này đánh dấu một bước trưởng thành vượt bậc của nghĩa quân Lam
Sơn về tài thao lược quân sự, vận dụng cách đánh mai phục, bao vây, công thành,
kết hợp dụ hàng đạt hiệu quả để từng bước tiến tới tổng phản công, đập tan âm
mưu chờ viện binh của giặc Minh đến để chi viện cứu nguy cho thành Xương
Giang. Thắng lợi trong trận đánh này còn cho thấy vai trò của Trần Nguyên Hãn
trong bộ máy chỉ huy của nghĩa quân Lam Sơn.
Chiến thắng lớn trong trận công thành Xương Giang đã có tác dụng và bài
học ý nghĩa về tài nghệ thuật quân sự của cha ông từ xa xưa. Đó là thế chủ động
tiến công, liên tục tiến công kết hợp với công tác địch vận bằng mọi cách theo
đường lối tác chiến mà bộ tham mưu và Lê Lợi đã vạch định: “Đánh thành là hạ
sách, ta đánh vào thành vững hàng tháng, hàng năm không hạ nổi. Quân ta sức
mòn khí nhụt, nếu viện binh của giặc tới thì trước mặt sau lưng đều bị địch đánh.
Đó là thế nguy. Sao bằng nuôi oai, chứa sức, đợi quân cứu viện, viện binh dứt thì
thành tất phải hàng. Làm một việc mà được cả hai. Đó mới là kế vẹn toàn” 6.
2.5.1.2. Chiến thắng Xương Giang trong trận quyết chiến chiến lược Chi
Lăng - Xương Giang
Nhằm cứu vãn tình thế liên tục thất bại, bị dồn vào đường cùng. Đầu tháng
10 năm 1427, nhà Minh đã cử hơn 10 vạn quân cứu viện do Liễu Thăng cầm đầu
ồ ạt kéo vào biên giới nước ta. Trên đường tiến quân, giặc Minh liên tiếp bị quân
ta tiêu diệt ở các trận Ải Chi Lăng ngày 10 tháng 10 năm 1427, Liễu Thăng cùng
hơn 1 vạn quân bị quân ta tiêu diệt. Tướng Lương Minh cùng đám tàn quân còn
lại khi tới Cần Trạm ngày 15 tháng 10 năm 1427 lại bị quân ta vây đánh tiêu diệt
3 vạn quân. Tới Phố Cát ngày 18 tháng 10 năm 1427, tướng giặc Lý Khánh cùng
kế tự vẫn và hàng vạn quân giặc bị ta tiêu diệt.

6
Đại Việt sử ký toàn thư, sđd, tr.277
Sau khi bị chặn đánh quyết liệt ở Chi Lăng, Cần Trạm, Phố Cát, tuy bị thất
bại nặng nề, nhưng số lượng quân lính vẫn còn nhiều nên các tướng nhà Minh
như Đô đốc Thôi Tụ, Thượng thư Hoàng Phúc... vẫn cố liều chết tiến về thành
Xương Giang, hy vọng có quân trong thành ra ứng cứu để từ đây liên hệ với
Đông Quan cứu vãn tình thế. Nhưng khi quân giặc kéo xuống Xương Giang thì
thành Xương Giang đã bị quân ta đánh chiếm, quân ta đóng giữ hình thành một
thế trận bao vây trùng điệp, lớp trong, lớp ngoài. Bốn mặt thành Xương Giang
đều có nghĩa quân Lê Lợi vây hãm. Quân giặc phải cố thủ ở ngoài thành, chúng
bèn đắp luỹ ngoài đồng để tự vệ chờ đạo quân thứ hai do Mộc Thạch cầm đầu
đến ứng cứu. Nhưng mưu mô của chúng đều bị thất bại. Sau khi chiếm được
thành Xương Giang, lực lượng nghĩa quân Lam Sơn đã được tăng cường ở mặt
trận này. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Mùa đông tháng 10, vua sai Lê Lý,
Lê Văn An, đem 3 vạn quân bao vây bốn mặt, lại dựng rào luỹ ở tả ngạn sông
Xương Giang để ngăn địch, đồng thời sai Trần Nguyên Hãn chặn đứng đường
vận chuyển lương thực của giặc”. “... Lê Vấn, Lê Khôi đem 3 nghìn quân thiết
đột, 4 thớt voi cùng với lực lượng của Lê Sát, Lê Lý, Nhân Chú, Lê Văn An tấn
công quân giặc” 7. Quân giặc đóng ở Xương Giang trong tình thế “Lương thực
hết tất cả, quân nhân chết đói, xác chất thành núi”.
Ngày 3 tháng 11 năm 1427 (15 tháng 10 năm Đinh Mùi) nghĩa quân Lam
Sơn tổng công kích quân Minh ở Xương Giang. Từ 4 mặt, quân dân ta nhất tề
tổng công kích, mở những mũi tiến công quyết liệt vào các khu vực phòng ngự
của địch. Bộ binh, tượng binh, kỵ binh của ta cùng phối hợp đột phá vào trung
tâm doanh trại của địch. Toàn bộ tướng lĩnh chỉ huy từ Thôi Tụ, Hoàng Phúc, Sử
An, Trần Dung... cùng hàng vạn quân lính bị giết và bị bắt, được tin này Vương
Thông vô cùng hoảng hốt và phải chịu chấp nhận “giảng hoà” xin rút quân về
nước. Sử nhà Minh chép: “Toàn quân (quân Minh) tan vỡ hết. Quân Minh đại bại
hoàn toàn. Các tướng chỉ huy: Thôi Tụ, Hoàng Phúc, Sử An, Trần Dung...cùng
hơn 300 tướng chỉ huy khác cùng hơn 5 vạn quân lính bị ta tiêu diệt và bắt sống.
Quân ta thu được rất nhiều ngựa, các loại vũ khí cùng vàng bạc, vải lụa...”
Mô tả chiến thắng này, Nguyễn Trãi đã viết trong Bình Ngô đại cáo:
“Đánh một trận, sạch không kình ngạc
Đánh hai trận tan tác chim muông
Cơn gió to trút sạch lá khô
Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ

7
Đại Việt sử ký toàn thư, sđd, tr 278, 279
Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng tờ tạ tội
Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng
Lạng Giang, Lạng Sơn thây ngả đầy đường
Xương Giang, Bình Than máu trôi đỏ nước” 8
Hàng loạt các địa danh vùng Xương Giang, cánh đồng Xương Giang, các
địa danh xung quanh như: đồi Phục, đồi Cút, bãi Bêu, bãi Thiều, bãi Cháy...còn
ghi lại chiến công oanh liệt của quân dân ta.
Chiến thắng Xương Giang vang dội, điểm kết huy hoàng của trận quyết
chiến chiến lược Chi Lăng- Xương Giang của nghĩa quân Lam Sơn đã đưa đến
kết thúc cuộc kháng chiến chống quân Minh ròng rã hơn 10 năm trời. Ngày 16
tháng 12 năm 1427, Vương Thông cùng các tướng giặc cúi đầu xin hàng kéo
quân về nước kết thúc 20 năm đô hộ của giặc Minh.
Chiến thắng Chi Lăng- Xương Giang là thắng lợi của chính nghĩa, của tinh
thần yêu nước và của ý chí căm thù quân xâm lăng, là thắng lợi của nghệ thuật
quân sự tài tình của cha ông ta từ xa xưa mà vai trò quan trọng là Lê Lợi, Nguyễn
Trãi và bộ tham mưu nghĩa quân. Trong bài Phú Xương Giang, Lý Tử Tấn đã so
sánh những trận đánh kinh điển của Trung Quốc không bằng chiến thắng vẻ vang
ở trận Chi Lăng- Xương Giang: “... Kìa trận Hợp Phì (9) oanh liệt khi trước, trận
Xích Bích (10) toàn thắng đời xưa sao được bằng đây vẻ vang”. Và ông còn khẳng
định:
“Non sông vốn thiêng
Nơi đây vũ công lừng lẫy
Giúp nên đất nước bình yên
Lạch thiên nhiên của trời Nam sẵn có
Mở thái bình cho đất Việt khắp miền
Ấy Xương Giang một sông hình đẹp
Mà dấu thơm muôn thuở còn truyền...”.

8
Nguyễn Trãi toàn tập, Nxb KHXH, H. 1976, tr 81
9
Hợp Phì: Tên một huyện thuộc tỉnh An Huy (Trung Quốc) nơi sông Hoài hợp lưu với sông
Phì. Tạ Huyền đời Tấn từng đánh phá 100 vạn quân của Bồ Kiên nước Tần trên sông Phì
10
Xích Bích: Dãy núi trên bờ sông Dương Tử. Thời Tam quốc, thuỷ quân Tào Tháo bị quân Chu
Du đốt cháy tan tành ở đấy.
Toàn bộ chiến cục từ Chi Lăng đến Xương Giang với các trận đánh xảy ra
theo bố trí chiến dịch của quân ta, đã liên tiếp đẩy địch vào thế bị động. Nghĩa
quân với một lực lượng khoảng 5 vạn, đã tiêu diệt và đánh tan trên 10 vạn quân
địch trong thời gian không đầy một tháng. Nghĩa quân vận dụng cách đánh “mưu
phạt tâm công”, dựa vào địa hình hiểm trở, chọn trận địa quyết chiến chính xác
nên nhanh chóng giành thắng lợi ở các mặt trận.
2.5.2 Nhân vật lịch sử
Địa điểm Chiến thắng Xương Giang là nơi diễn ra nhiều sự kiện đặc biệt
quan trọng của lịch sử quân sự Việt Nam. Nơi đây từng gắn liền với tên tuổi, sự
nghiệp của chủ tướng Lê Lợi và quân sư Nguyễn Trãi cùng các vị tướng lĩnh trực
tiếp chỉ huy tham gia trận đánh Xương Giang, các anh hùng nghĩa sỹ nghĩa quân
Lam Sơn như: Trần Nguyên Hãn, Lê Sát, Lưu Nhân Chú, Phạm Vấn, Lê Lý, Lê
Văn An... đều được sử sách ghi nhận họ luôn sống mãi trong lòng dân và xứng
đáng được ghi nhớ tôn thờ. Ở đây xin tóm tắt sơ lược về cuộc đời sự nghiệp
những nhân vật lịch sử tiêu biểu có công lớn trong chiến thắng Chi Lăng-Xương
Giang hiện đang được thờ tại đền Xương Giang.
● Lê Lợi (Lê Thái Tổ) sinh ngày 10 tháng 9 năm 1385 mất ngày 22 tháng
8 năm 1433. Là con trai thứ 3 của ông Lê Khoáng và bà Trịnh Thị Thương,
người ở hương Lam Sơn, huyện Lương Giang, trấn Thanh Hoá nay thuộc tỉnh
Thanh Hoá. Ông trưởng thành trong thời kỳ nhà Minh đô hộ nước Việt. Là một
nhà lãnh đạo quân sự, người đã quy tụ một đội quân chiến đấu chống lại sự
chiếm đóng của quân đội nhà Minh (Trung Quốc) từ năm 1418 cho đến lúc
đánh đuổi hoàn toàn quân Minh ra khỏi Đại Việt vào năm 1428. Lê Lợi là Vua
của nước Đại Việt từ năm 1428 cho tới năm 1433. Ông có vai trò đặc biệt quan
trọng với Đại Việt trong khoảng thời gian từ năm 1418 tới năm 1433 khi lãnh
đạo người dân Đại Việt đánh bại quân đội xâm lược nhà Minh, sau đó xây dựng
và tái thiết lại đất nước. Ông được coi là vị vua huyền thoại của Đại Việt với tài
năng quân sự, khả năng cai trị và lòng nhân ái đối với cả kẻ thù. Ông được các
sử gia đánh giá cao ở tài năng chính trị, quân sự, kinh tế, Lê Lợi và khởi nghĩa
Lam Sơn như là hình mẫu, niềm cảm hứng và biểu tượng của sự đoàn kết quốc
gia.
● Nguyễn Trãi hiệu là Ức Trai (1380–1442), quê gốc ở làng Chi Ngại,
huyện Phượng Sơn, lộ Lạng Giang (nay thuộc Chí Linh, Hải Dương). Ông là
con trai của Nguyễn Phi Khanh và bà Trần Thị Thái, là cháu ngoại của Trần
Nguyên Đán. Thi đỗ Thái học sinh năm 1400, Nguyễn Trãi từng làm quan dưới
triều Hồ. Sau khi Việt Nam bị rơi vào sự cai trị của nhà Minh, ông tham gia vào
cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo chống lại giặc Minh. Ông trở
thành mưu sĩ của nghĩa quân Lam Sơn. Năm 1442, toàn gia đình Nguyễn Trãi bị
tru di tam tộc trong vụ án Lệ Chi Viên. Năm 1464, vua Lê Thánh Tông xuống
chiếu giải oan cho ông. Ông là một nhà văn hóa lớn nổi tiếng với bài " Bình
Ngô Đại Cáo " được xem là bản tuyên ngôn độc lập thứ 2 của dân tộc Việt
Nam.
●Trần Nguyên Hãn (1390-1429). Theo sách Đại Việt thông sử, Trần
Nguyên Hãn người huyện Lập Thạch, dòng dõi Tư đồ Trần Nguyên Đán, có học
thức, giỏi binh pháp, là nhà quân sự Đại Việt thời Lê sơ. Ông tham gia khởi
nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo chống sự đô hộ của đế quốc Minh. Ông từng
giữ chức Tư đồ (1424-1425), Thái úy (1427), chỉ huy các trận đánh giải phóng
Tân Bình, Thuận Hoá (1425-1426), bao vây Đông Quan, công phá thành Xương
Giang và chặn đường tiếp tế của quân Minh trong chiến dịch Chi Lăng-Xương
Giang (1427). Cuộc khởi nghĩa thắng lợi, Lê Lợi lên ngôi Hoàng Đế, tức Lê
Thái Tổ (1428). Trần Nguyên Hãn được phong làm Tả tướng quốc.
●. Lê Sát người làng Bỉ Ngũ ở Lam Sơn, trí dũng hơn người. Năm Canh
Tý (1420) ông cùng Lê Triện lập công lớn ở trại Quan Du (sau là châu Quan
Hóa - Thanh Hóa). Năm Giáp Thìn (1424) ông tham gia chiến đấu ở ải Khả
Lưu, lập công lớn. Mùa thu năm Bính Ngọ (1426) khi Lê Lợi đem quân bao vây
Đông Đô, ông và Lưu Nhân Chú được cử mang quân lên phía Bắc đánh Xương
Giang, được tiến phong Thiếu úy. Mùa xuân năm Đinh Mùi, ông được gọi về
đóng giữ ở cửa Nam thành Đông Đô. Đến tháng 6 thăng là Tư mã, được vua sai
cùng Thái úy Trần Nguyên Hãn đánh gấp thành Xương Giang. Tháng 9 hạ được
thành ấy. Khi đại tướng nhà Minh là An Viễn hầu Liễu Thăng đem viện quân
sắp tới, ông đem 2 vạn quân và 5 thớt voi cùng Lưu Nhân Chú, Lê Linh đến mai
phục ở Chi Lăng, chỉ mở cho địch lối ra Xương Giang mà chặn hết đường về.
Tháng 10, ông cùng các tướng khác lại lập công lớn ở Xương Giang.
● Lưu Nhân Chú, người xã An Thuận, huyện Đại Từ (Thái Nguyên),
tham gia phong trào Lam Sơn từ đầu trong đội quân Thiết đột, lập được nhiều
công lớn trong các trận đánh ở ải Khả Lưu (1424), Tây Đô (1425) và Trường
Yên, Thiên Trường, Tân Hưng, Kiến Xương, Khoái Châu, Lạng Giang, Bắc
Giang (1426). Tại Chi Lăng ông cùng Lê Sát hợp mưu chung sức, sai Lê Lưu giả
thua nhử giặc rồi tung quân ra đánh úp, chém được Liễu Thăng ở núi Mã Yên, sau
đó lại chém được Bảo Định bá Lương Minh tại trận, lập công lớn ở Xương Giang.
● Phạm Vấn, người thôn Nguyên Xá, huyện Lương Giang (Thanh Hóa),
từng lập nhiều công lớn ở Bồ Mộng (1420), Sách Khôi (1422), Trà Lân (1424).
Khi quân của Lê Sát đã giết được Liễu Thăng, hội tướng vây Thôi Tụ, Hoàng
Phúc ở Xương Giang. Tháng 10 năm Đinh mùi - 1427 vua sai ông cùng Lê Khôi
đem 3000 tinh binh trợ chiến, phá được giặc, chém 5 vạn tên, bắt sống Thôi Tụ,
Hoàng Phúc.
● Lê Lý, người thôn Đạo Xá thuộc Lam Sơn (Thanh Hóa), từ đầu đã tham
gia vào đội quân Thiết đột, lập được công lớn ở Lạc Thủy (1418), Mường Thôi
(1420). Từ đó về sau, giữ Lam Sơn, đánh Trà Lân, tấn công cửa ải Khả Lưu,
bao vây Nghệ An, trải qua mấy chục trận, ông đều có công lớn, lần lượt thăng
đến Thiếu úy. Năm 1426, vua Lê Lợi tiến quân ra vây Đông Đô, sai ông cùng
Lê Sát đánh thành Xương Giang. Sau vua lại sai ông cùng Lê Văn An đem 3
vạn quân đến tiếp ứng đánh địch ở Cần Trạm, Phố Cát, Xương Giang bắt sống
Thôi Tụ, Hoàng Phúc cùng 3 vạn quân địch làm nên chiến thắng Xương Giang.
● Lê Văn An, người sách Mục Sơn, tham gia phong trào Lam Sơn từ đầu, có
mặt trong đội quân Thiết đột. Trải qua hơn 100 trận đánh lớn nhỏ, ông đều lập nhiều
công tích... Khi nhà vua tiến về Tây Đô, lưu ông lại bao vây chỉ huy của địch là Thái
Phúc ở Nghệ An. Khi Phúc đã hàng, ông bèn dẫn quân ra Đông Đô. Ra tới nơi, vua
lại sai ông cùng Lê Lý đem 3 vạn quân lên hỗ trợ Lê Sát làm thế ỷ dốc. Ông liên tục
đánh phá quân của Thôi Tụ, Hoàng Phúc và vây chúng ở Xương Giang rồi cùng các
tướng hợp lực lượng phá địch, bắt sống được Thôi Tụ, Hoàng Phúc và 3 vạn quân
địch làm nên chiến thắng Xương Giang.
● Lê Văn Linh, sinh năm Đinh Tỵ (1377), ở làng Hải Lịch, huyện Lôi
Dương, nay là xã Thọ Hải, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa. Xuất thân từ một
gia đình có truyền thống hiếu học, từ nhỏ Lê Văn Linh học rộng biết nhiều, am
tường tinh thông, có tài làm văn thơ. Lê Văn Linh lớn lên trong hoàn cảnh đất
nước Đại Việt chịu ách độ hộ của nhà Minh. Trước tình cảnh nhân dân chịu sự
áp bức, khổ cực nên Lê Văn Linh đã tìm đến với cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.
Ông là người đứng đầu trong ba văn thần có mặt trong hội thề Lũng Nhai, được
Bộ chỉ huy Lam Sơn và Bình Định Vương Lê Lợi trọng dụng.
● Trần Lựu, quê xã Lỗ Tự, huyện Thụy Nguyên (nay thuộc huyện Thiệu
Hoá, tỉnh Thanh Hoá) được theo họ vua Lê, nên cũng gọi là Lê Lựu. Ông tham
gia khởi nghĩa Lam Sơn ngay từ buổi đầu hội thề ở Lũng Nhai. Ông chỉ huy đội
quán thiết, đội hoạt động ở Nghệ An, nổi tiếng trong nhiều trận đánh lớn. Cuối
năm 1426, ông cùng Lê Bôi, Trịnh Khả, giải phóng các vùng Hồng Châu, Bắc
Giang, Lạng Giang, Lạng Sơn, rồi được phong làm Tổng tri Hồng Châu kiêm tri
An Bang (1427). Sau đó, ông nhận lệnh điều động quân sĩ chặn viện binh của
Liễu Thăng nơi Lạng Giang. Khởi nghĩa thành công, ông được dự vào bậc công
thần đệ nhất, phong làm Trấn viễn đại tướng quân, tước Thượng Trí Tự.
●. Phạm Văn Liêu, thôn Nguyễn Xá, hương Lam Sơn, huyện Thuỷ Nguyên,
phủ Thiên Trường, xứ Thanh Hoa. Phạm Văn Liêu theo Lê Lợi khởi nghĩa từ
những năm đầu (1418) có nhiều chiến công ở Thanh Hoá, Nghệ An nên được
phong Đô Đốc Khang Vũ Bá. Trong chiến dịch chặn viện binh quân nhà Minh,
Lê Lợi cử tướng Lê Sát, Lưu Nhân Chú, Lê Linh, Đinh Liệt, Lê Thụ, Lê Lỗng,
Phạm Văn Liêu đem 1 vạn quân tinh nhuệ, 100 ngựa và 5 voi chiến tiến lên bố trí
mai phục sẵn ở ải Chi Lăng, phối hợp với quân của Trần Lựu, Lê Bôi đánh giặc,
chém Liễu Thăng, tiếp tục đánh quân Minh ở Cần Trạm, Phố Cát, Xương Giang.
Sau ngày đại thắng, Phạm Văn Liêu được phong tặng Bình Ngô khai quốc
công thần Khang Thái uý và được ở lại xứ Kinh Bắc, thuộc khu vực xóm Chùa,
xã Xuân Hương, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang.
● Nguyễn Công Chuẩn, quê ở Bồng Trung, Vĩnh Lộc, Thanh Hoá. Ông
được vua Lê Thái Tổ ban quốc tính nên còn gọi là Lê Công Chuẩn. Trong cuộc
kháng chiến chống quân Minh, ông là người lo liệu đảm bảo việc cung cấp hàng
vạn tấn gạo muối và binh khí cho nghĩa quân. Đặc biệt trong chiến thắng Chi
Lăng- Xương Giang, ông cũng là người lo việc lương thực cho quân ta để đại
thắng quân Minh.
● Lê Lĩnh, Theo sổ hội đồng ở nhà thờ họ Phạm, xã Xuân Hương ghi về
ông như sau: Niên hiệu Thuận Thiên thứ nhất làm Tả lang hổ, Thượng tướng
quân, Tổng quản. Đến năm thứ 5 được phong danh hiệu Bảo Chính công thần,
chức Nhập nội. Niên hiệu Thiệu Bình thứ 6 đi qua Ai Lao (nước Lào) đánh trận
bị chết. Khi còn sống làm quan đến chức Thiếu uý.
● Đinh Liệt, người Lam Sơn, huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa, em ruột của
danh tướng Đinh Lễ. Ông theo vua Lê Lợi đánh quân Minh từ những ngày đầu
khởi nghĩa. Ông được Lê Lợi coi như tâm phúc luôn luôn theo hầu ở bên cạnh.
Khi Liễu Thăng kéo quân sang, Lê Lợi sai ông theo Tư Mã Lê Sát đem quân lên
Chi Lăng chống cự. Ông cùng các tướng góp sức tiêu diệt địch, chém được Liễu
Thăng. Năm 1428, vua Lê Lợi xếp ông vào chức Thủ quân thiết đột.
● Lê Thụ được danh hiệu Bình Ngô khai quốc công Thần. Ông theo Lê Lợi
đánh giặc từ ngày đầu khởi nghĩa. Trong chiến dịch Chi Lăng- Xương Giang,
Lê Lợi sai tướng Lê Sát, Lưu Nhân Chú, Đinh Liệt, Lê Thụ…đem 1 vạn quân
tinh nhuệ, 100 ngựa và 5 voi chiến tiến lên bố trí mai phục sẵn ở Chi Lăng. Khi
Trần Lựu nhử quân Liễu Thăng lọt vào ải Chi Lăng, Lê Thụ cùng các tướng hô
quân ra đánh, chém đầu Liễu Thăng, bẻ gãy quân tiên phong của quân Minh.
Sau đó Lê Thụ lại cùng nghĩa quân bám sát quân Minh tiếp tục vây đánh ở Cần
Trạm, Phố Cát, Xương Giang, góp phần làm nên chiến thắng Xương Giang lẫy
lừng.
● Lê Khôi, hương Lam Sơn, năm Thuận Thiên nguyên niên phong Bảo
chính công thần, Nhập nội thiếu uý, niên hiệu Thái Hoà năm thứ 4. Làm quan
tới chức Tham chính. Năm Hồng Đức thứ 15 (1484) được gia tặng Thái truyền
tán quốc công. Trong chiến thắng Chi Lăng -Xương Giang cánh quân của Lê
Lý, Lê Văn An, Lê Khôi đánh, phá địch ở Xương Giang bắt sống được Hoàng
Phúc, diệt toàn bộ cánh quân của địch.
● Phạm Bôi, có tài liệu gọi là Lê Bôi vì ông được mang họ vua. Trong
chiến dịch chặn viện đánh quân Minh do Liễu Thăng chỉ huy. Lê Lợi đã phái
Trần Lựu và Lê Bôi lên trấn giữ vùng biên giới Lạng Sơn, giải phóng Khâu Ôn,
phá tan đạo viện binh của Trần Viễn Hầu kéo sang, chém 3000 tên giặc, bắt 500
ngựa. Sau khi Lê Sát kéo quân lên chặn quân Liễu Thăng ở Chi Lăng, quân của
Lê Bôi cùng quân của Trần Lựu nhử quân Minh tiến sâu vào Chi Lăng, cho
phục binh của ta ra đánh, chém được Liễu Thăng. Sau đó, Trần Lựu, Lê Bôi tiếp
tục lui về đánh quân Minh ở Xương Giang.
● Lê Thiệt, theo sổ Hội đồng ở nhà thờ họ Phạm, xã Xuân Hương ghi về
ông như sau: Người Nguyệt Sơn Khúc, niên hiệu Thuận Thiên thứ nhất làm
Đồng quân tổng quản phủ Thiên Trường trông nom các việc quân sự. Niên hiệu
Đại Bảo thứ 3 mất. Khi còn sống làm quan tới chức Tổng quản. Niên hiệu Hồng
Đức thứ 15 tặng phong Thái truyền Quách quận công.

2.5.3 Sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng liên quan đến di tích
Đại thắng Xương Giang đã góp phần chấm dứt 20 năm đô hộ của nhà Minh
đối với nước ta, đất nước Đại Việt thái bình, thịnh trị gần 04 thế kỷ, mở ra thời
kỳ mới trong lịch sử dân tộc. Để ăn mừng chiến thắng quân Minh, Vua Lê Lợi
đã mở hội để khao quân, úy lạo tướng sỹ, tuyên đọc "Đại cáo Bình Ngô". Trong
niềm vui chung đó, ở Kinh Bắc (Bắc Đạo) có trụ sở là thành Xương Giang cũng
được hưởng lộc và tổ chức lễ hội lớn để cáo tế trời đất.
Quanh thành Xương Giang có các làng: Thành (Đông Nham), Vẽ (Nam
Xương), Thọ Xương (làng Thương), Hòa Yên, Cung Nhượng... là những địa
danh lịch sử gắn liền với chiến thắng Xương Giang lừng lẫy cũng hân hoan
cùng nhau tổ chức ăn mừng chiến thắng. Tại đây, nhân dân còn bảo lưu những
truyền tích dân gian về sự chiến dấu hy sinh của danh tướng Lều Văn Minh và
nhân dân các làng đã hết lòng ủng hộ, giúp đỡ và phối hợp với nghĩa quân Lam
Sơn bao vây công thành diệt viện… góp phần làm nên chiến công oanh liệt
trong cuộc kháng chiến chống giặc Minh. Đó cũng chính là những giá trị văn
hóa truyền thống đặc sắc được hội tụ và kết tinh gắn với phong tục, tập quán, tín
ngưỡng của vùng đất này. Từ đó, vào những dịp hội lệ, nhân dân nơi đây lại mở
hội để tri ân, tưởng nhớ công ơn của các bậc tiền bối với các nghi thức, nghi lễ
truyền thống.
Đến thời Lê Trung Hưng, thành Xương Giang không còn là trị sở của Kinh
Bắc nữa mà chuyển về thành Thị Cầu. Do nhu cầu canh tác, sản xuất mà đất
thành Xương Giang đã được chia cho các làng: Thành, Vẽ, Hòa Yên, Thương,
Châu Xuyên, do vậy hội lệ cũng chuyển đổi nhập vào hội của các làng này.
Chính vì vậy, đến nay, lễ hội tại các địa danh này luôn mang màu sắc, hào khí
của chiến thắng Xương Giang năm xưa.
Nhằm gìn giữ, kế thừa và phát huy giá trị của các sinh hoạt văn hóa truyền
thống xưa, năm 1998, nhân dịp kỷ niệm 571 năm chiến thắng Xương Giang
(1427-1998), lễ hội Xương Giang được tổ chức, để kỷ niệm sự kiện lịch sử,
khẳng định tầm vóc, ý nghĩa, giá trị lịch sử to lớn của chiến thắng Xương Giang
trong lịch sử dân tộc, góp phần giáo dục truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân
tộc cho các thế hệ hôm nay và mai sau. Dựa trên các yếu tố sinh hoạt văn hóa tín
ngưỡng của nhân dân quanh thành Xương Giang còn lưu giữ, hằng năm vào hai
ngày 6, 7 tháng Giêng, nhân dân thành phố Bắc Giang lại long trọng tổ chức lễ
hội Xương Giang với các nghi thức, nghi lễ truyền thống được diễn ra trong
không khí trang nghiêm cùng nhiều hoạt động văn hóa, thể thao bổ ích, hấp dẫn.
Lễ hội Xương Giang là một trong những lễ hội có qui mô rộng, có sức
ảnh hưởng lớn đến các làng, xã xung quanh thành Xương Giang xưa. Không
gian lễ hội không những được diễn ra khắp các khu vực quanh thành Xương
Giang như làng Thành, làng Vẽ, làng Hòa Yên, phường Dĩnh Kế, mà còn trải
dài ở khắp các phường khác trong thành phố Bắc Giang như: Lê Lợi, Hoàng
Văn Thụ, Trần Nguyễn Hãn… Đặc biệt hơn, lễ hội còn có sự phối hợp tham
gia của các địa phương ở huyện Lạng Giang (Bắc Giang), huyện Hữu Lũng-
Chi Lăng (Lạng Sơn), Thị Cầu (Bắc Ninh). Khu trung tâm thành Xương
Giang, phường Xương Giang, thành phố Bắc Giang là địa điểm chính diễn ra
các hoạt động của lễ hội Xương Giang.
Lễ hội Xương Giang được tổ chức bao gồm 2 phần: Phần lễ và phần hội,
thu hút đông đảo nhân dân và du khách thập phương cùng tham gia, đáp ứng
nhu cầu văn hóa tâm linh của người dân nơi đây nói riêng và nhân dân khắp
trong vùng và ngoài tỉnh Bắc Giang nói chung.
● Phần lễ
Để chuẩn bị cho lễ hội Xương Giang diễn ra thuận lợi, suôn sẻ, sáng
ngày mồng 5 tháng Giêng, đại diện các bậc hương lão của những làng quanh
khu vực thành Xương Giang cùng tập chung tại đền Xương Giang với trang
phục truyền thống để làm lễ tế mở cửa đền. Trong quá trình làm lễ, một cụ
thượng trong đội tế sẽ đại diện thực hiện nghi lễ tuyên sớ trạng để xin phép
mở cửa đền tổ chức lễ hội Xương Giang.
Sau khi nghi lễ tế xin mở cửa đền được thực hiện xong, nhân dân trong
vùng tiến hành làm lễ cầu siêu cho vong linh các anh hùng, nghĩa sỹ nghĩa quân
Lam Sơn năm xưa. Nghi lễ cầu siêu là một nghi lễ mang ý nghĩa sâu sắc về đạo
lý truyền thống “Uống nước, nhớ nguồn”, thể hiện lòng tri ân đối với sự hy sinh
anh dũng của các anh hùng, nghĩa sỹ đã hy sinh cho nền độc lập, tự do của dân
tộc.
Tiếp đến là nghi thức rước được diễn ra vào ngày chính hội mồng 6 tháng
Giêng. Đây là một trong những nghi lễ tâm linh quan trọng trong lễ hội Xương
Giang, nhằm phản ánh lịch sử hào hùng của dân tộc, biểu dương tinh thần bất diệt
của chiến thắng Xương Giang năm xưa. Lực lượng tham gia chính trong các đoàn
rước chính là những làng sở tại đã từng tham gia trong trận chiến Xương Giang.
Đến sáng sớm ngày mồng 6, các đoàn rước đại diện từ các thôn làng, phường, xã
với áo quần chỉnh tề dương cờ, gióng trống cùng tiến về khu trung tâm khai hội
trong tiếng trống, tiếng chiêng, tiếng nhạc vang lừng làm cho không khí càng
thêm phần vui tươi, hùng tráng, thể hiện sức mạnh của hào khí Xương Giang năm
xưa.
Đoàn rước đi đầu là đại diện 2 làng Thành, làng Vẽ (làng nằm kề cửa
phía Bắc thành Xương Giang). Đây là 2 làng đã có đóng góp to lớn vào chiến
thắng Xương Giang. Đoàn rước làng Thành được đi theo thứ tự lần lượt như
sau: Đội kỳ lân, đội sinh tiền, đoàn cờ kiệu, trống chiêng đoàn rước, đoàn bát
bửu, tiếp đến là kiệu, đội tế các cụ ông cuối cùng là đội dâng hương... Kề liền
đoàn rước của làng Thành là đoàn rước kiệu Thánh của làng Vẽ với 4 kiệu bát
cống, 4 bộ bát bửu, chấp kích, tàn, quạt, lọng, cờ, chiêng trống, phường bát âm,
múa sinh tiền, múa sư tử, 2 đội quan viên tế và dâng hương…
Cùng với đoàn của hai làng Thành, làng Vẽ, thì các làng, xã khác thuộc
thành phố Bắc Giang cũng đã chuẩn bị sẵn sàng và chu đáo như: Đoàn rước của
làng Hòa Yên, làng Kế, phường Đa Mai, phường Mỹ Độ, phường Lê Lợi,
Hoàng Văn Thụ, Trần Nguyên Hãn… cũng rầm rập tiến về trung tâm lễ hội. Tất
cả sự tham gia của các đoàn rước tạo nên không khí vui tươi, hùng tráng, thể
hiện sức mạnh của hào khí Xương Giang năm xưa.
Tại trung tâm thành Xương Giang năm xưa, lễ khai hội được diễn ra
trong không khí hào hùng, trang nghiêm. Trong buổi lễ khai hội, nhằm ôn lại
chiến thắng Xương Giang vẻ vang, bài cáo “Đại cáo bình Ngô” của Nguyễn
Trãi một lần nữa được vang lên trong tiếng nhạc hào hùng bởi sự thể hiện các
nghệ sĩ, diễn viên của Nhà hát Chèo Bắc Giang. Hình ảnh của nghĩa sĩ Xương
Giang trong cuộc chiến chống quân xâm lược được tái hiện lại trong không khí
đầy tự hào. Hồn sông núi lúc này như lắng sâu vào tâm trí mỗi người tham dự lễ
hội.
Tại lễ khai hội, lãnh đạo Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh, thành phố Bắc
Giang và các ban, ngành, đoàn thể đều có mặt đầy đủ để tham dự lễ và dâng
hương tưởng nhớ các anh hùng nghĩa sĩ. Sau lễ này, các đoàn rước trở về làng
mình làm “lễ an vị” đưa xếp các đồ tế khí, kiệu, ngựa vào vị trí cũ. Riêng làng
Thành và làng Vẽ có hội lệ diễn ra cùng với lễ hội Xương Giang thì đây coi như
là thời điểm bắt đầu hội lệ của 2 làng này.
● Phần hội
Sau phần lễ là phần hội được tổ chức tại trung tâm thành Xương Giang
với những hoạt động mang đậm ý nghĩa văn hóa truyền thống như: Trình diễn
thư pháp, hát quan họ, chầu văn, ca trù, thi đấu thể thao và trò chơi dân gian kéo
co, chọi gà, cờ tướng, biểu diễn võ thuật… thu hút đông đảo nhân dân trong
vùng và khách thập phương tham dự trong không khí vui tươi, náo nức.
Hòa chung trong ngày hội Xương Giang thì những hội lệ truyền thống
của các làng xã quanh thành Xương Giang cũng góp phần làm tăng thêm không
khí sôi nổi cũng như tinh thần thượng võ tại lễ hội Xương Giang. Làng Thành
và làng Vẽ là hai làng có lễ hội gắn bó mật thiết nhất với hội Xương Giang từ
xưa đến nay. Sau khi đoàn rước của 2 làng tiến về khu trung tâm khai hội xong
cũng là thời điểm bắt đầu vào ngày hội truyền thống của các làng này, tất cả cờ,
kiệu, ngựa... được đưa về đóng tại khu vực đình, chùa của hai làng và tổ chức
các trò chơi dân gian truyền thống. Trong đó, trò chơi cờ người thu hút đông đảo
người dân tham gia cổ vũ tạo nên không khí vui tươi trong lễ hội. Quân cờ được
chọn là các chàng trai, các cô gái chưa lập gia đình có phẩm hạnh tốt, gia đình
gia giáo. Trang phục của họ sẽ thay đổi dựa theo quân cờ mà họ đóng vai
(Tướng đội mũ, mặc triều phục. Sĩ mặc triều phục của quan văn đội mũ cánh
chuồn…), phía trước và phía sau ngực áo sẽ ghi tên quân cờ. Đội chơi được chia
ra làm 2 bên, 1 bên là đội nam, 1 bên là đội nữ. Sau khi bàn cờ được sắp xếp
xong trận đấu được bắt đầu. Mỗi nước đi quân cờ khi nhận lệnh di chuyển sẽ
biểu diễn một điệu múa tương ứng trước khi đi tới ví trị được chỉ định. Ngoài
ra, trong phần hội của 2 làng còn có các trò chơi dân gian khác như cướp cầu,
đánh đu… cũng tạo nên không khí vui tươi trong ngày hội.
Lễ hội Xương Giang được tổ chức vào những ngày đầu xuân năm mới
không những thể hiện sự tôn kính, ghi nhớ công ơn đối với các bậc hiền tài,
nghĩa sỹ, người dân Xương Giang đã chiến đấu anh dũng, hi sinh trên mảnh đất
anh hùng mà còn thể hiện bản sắc văn hóa truyền thống trên quê hương Bắc
Giang. Qua lễ hội Xương Giang, lịch sử truyền thống hào hùng của cha ông
năm xưa sẽ được khơi dậy, cổ vũ sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát
huy sức mạnh của toàn Đảng, toàn dân và nhân dân Bắc Giang phấn đấu hoàn
thành các mục tiêu kinh tế, xã hội đã đề ra và phát huy tốt giá trị văn hóa truyền
thống cho lớp lớp con cháu mai sau.

CHƯƠNG 2: GIÁ TRỊ LỊCH SỬ, VĂN HÓA, KHOA


HỌC CỦA DI TÍCH LỊCH SỬ ĐỊA ĐIÊM CHIẾN THẮNG
XƯƠNG GIANG.

1. Giá trị lịch sử khoa học: Di tích Địa điểm Chiến thắng Xương Giang
là nơi ghi dấu sự kiện lịch sử sống động nhất hiện còn về cuộc khởi nghĩa
oanh liệt 10 năm chiến thắng quân Minh của dân tộc.
Khởi nghĩa Lam Sơn (1418-1427) chống lại ách thống trị tàn bạo của giặc
Minh. Điểm kết cuối cùng đánh dấu mốc son lịch sử là Chiến thắng Chi Lăng-
Xương Giang giải phóng dân tộc. Địa điểm Chiến thắng Xương Giang có giá trị
to lớn trong việc ghi dấu cuộc kháng chiến 10 năm chống quân Minh thắng lợi
mà tiêu biểu là hai lần chiến thắng Xương Giang. Lần thứ nhất: Sau khoảng 30
trận đọ sức kéo dài 6 tháng, ngày 28/9/1427, quân ta hạ được thành Xương
Giang. Lần thứ hai: Sau chiến thắng Cần Trạm, Phố Cát đến tháng 11/1427,
quân ta ở Xương Giang tiến hành chốt chặn, bao vây tiêu diệt lực lượng lớn gần
7 vạn quân địch, làm phá sản hoàn toàn kế hoạch cứu viện của quân Minh,
giáng một đòn quyết định buộc Vương Thông ở Đông Quan phải xin hoà, giành
lại độc lập trọn vẹn cho Đại Việt.
Các nhà nghiên cứu Việt Nam đánh giá đây là chiến công oanh liệt nhất
của Hoàng đế Lê Lợi. Đại thắng Xương Giang giữ vai trò quyết định tới việc
kết khúc chiến tranh: Quân dân Đại Việt giành thắng lợi hoàn toàn, đất nước
được giải phóng. Chiến thắng Xương Giang đã ghi thêm chiến công chói lọi
trong lịch sử dân tộc Việt Nam, là niềm tự hào của nhân dân cả nước. Nhà sử học
Lê Quý Đôn từng đánh giá về chiến thắng này:”Từ triều Trần bắt được Tích Lệ
Cơ, Ô Mã Nhi cho đến lúc ấy, nước Nam thắng giặc phương Bắc chưa có trận
nào lớn như vậy”.
Địa điểm Chiến thắng Xương Giang có giá trị lịch sử quan trọng ghi dấu
và phản ánh sinh động, chân xác những chiến thắng lớn trong cuộc kháng chiến
chống giặc Minh của dân tộc Việt Nam nói chung, nhân dân các dân tộc tỉnh Bắc
Giang nói riêng ở đầu thế kỷ XV do Lê Lợi và Nguyễn Trãi lãnh đạo.
Cùng với thành Xương Giang là những địa danh, dấu tích: Đồi quân Ngô,
đồi Phục, đồi Cút, bãi Thiêu và những truyền tích về nhân dân Xương Giang,
làng Thành, làng Vẽ, Hoà Yên… đã hết lòng ủng hộ, giúp đỡ và phối hợp với
nghĩa quân Lam Sơn bao vây công thành diệt viện… góp phần làm nên chiến
công oanh liệt của dân tộc ta trong cuộc kháng chiến chống giặc Minh xâm
lược.
2. Giá trị văn hoá khoa học:
2.1. Di tích Địa điểm Chiến thắng Xương Giang là minh chứng sinh
động cho truyền thống yêu nước và nghệ thuật quân sự tài tình trong đánh
giặc ngoại xâm của dân tộc
Qua chiến thắng Chi Lăng -Xương Giang cho thấy nghệ thuật quân sự đánh
giặc của cha ông từ xa xưa. Đó là lấy yếu thắng mạnh, lấy ít địch nhiều. Nghĩa
quân Lam Sơn đã ít lại phải đánh với một đội quân đông, nhiều mục tiêu xuất
hiện cùng một lúc, vừa phân tán lực lượng trên toàn chiến trường để kiềm chế,
chia cắt lực lượng địch, đồng thời vừa phải tập trung đánh vào hướng chủ yếu.
Lực lượng của ta đã khéo léo phân bố ra làm nhiều nơi để buộc địch phân tán
lực lượng chống đỡ, chia cắt đội hình địch trên toàn chiến trường, sau đó tập
trung đánh vào hướng chủ yếu để tiêu diệt từng bộ phận địch rồi tiêu diệt toàn
bộ quân địch.
Đó là việc bố trí thế trận phù hợp đạt hiệu quả cao trong tác chiến, thực
hành chiến lược. Bộ chỉ huy nghĩa quân đã làm chủ được thế trận, chủ động
trong điều khiển thế trận, dẫn dắt địch đi vào đúng thế trận của ta để tiêu diệt
địch một cách quyết định đánh những trận then chốt. Thế trận chủ yếu được
hình thành khá chặt chẽ, vững chắc và linh hoạt. Do bố trí thế trận đúng, tạo
được nhiều yếu tố bất ngờ nên các bước tác chiến của ta tiêu diệt đạo quân địch
hiệu quả, điển hình như thế trận bẻ gãy đạo quân của Liễu Thăng mức độ thành
công cao góp phần rất lớn giành được thắng lợi hoàn toàn cho cuộc kháng
chiến.
Trong Chiến thắng Xương Giang, bên cạnh các lực lượng quân chủ lực của
nghĩa quân Lam Sơn, còn có sự tham gia của các lực lượng dân binh địa
phương. Ta dùng cách đánh bao vây kết hợp dụ hàng, bộ chỉ huy để một số ít
quân chủ lực làm nòng cốt, còn chủ yếu dùng quân địa phương và dân binh. Vì
vậy, địa điểm chiến thắng Xương Giang là một biểu trưng cho sức mạnh đoàn
kết của quân dân cả nước, sức mạnh đoàn kết giữa miền xuôi miền ngược trong
những cuộc chiến đấu chống giặc ngoại xâm của dân tộc.
Chiến thắng Xương Giang đánh dấu sự phát triển về mặt nghệ thuật công
thành của nghĩa quân Lam Sơn. Đây là lần đầu tiên nghĩa quân Lam Sơn kết
hợp hỏa lực và xung lực, kết hợp nhiều loại binh khí để tiến công thành, công
phá thành bằng nhiều loại phương tiện, từ nhiều hướng. Có được sự liên kết
này, nghĩa quân phải trải qua quá trình nghiên cứu tìm tòi, phát hiện và đúc rút
kinh nghiệm trong nhiều tháng vây hãm thành Xương Giang- một trong những
thành lũy kiên cố của quân Minh.
Chiến thắng Xương Giang đã ghi thêm chiến công chói lọi trong lịch sử
dân tộc Việt Nam, là niềm tự hào của nhân dân cả nước, góp phần chấm dứt 20
năm ách đô hộ của nhà Minh đối với nước Đại Việt. Sách “Khởi Nghĩa Lam
Sơn” của Giáo sư Phan Huy Lê -Phan Đại Doãn, NXB KHXH-H.1977-Tr 462
viết: “Chiến thắng Chi Lăng-Xương Giang là một điển hình của nghệ thuật
quân sự lấy ít đánh nhiều, lấy yếu đánh mạnh của nghĩa quân Lam Sơn.
Từ một lực lượng không bằng nửa quân số của địch, nghĩa quân đã nêu
cao tinh thần quyết chiến, vận động liên tục trên một chiến tuyến dài hàng mấy
trăm dặm, chiến đấu anh dũng kiên cường, tiêu diệt toàn bộ đạo viện binh của
Liễu Thăng. Chiến thắng Chi Lăng - Xương Giang là biểu hiện của sức mạnh
tinh thần và ý chí quyết thắng của dân tộc ta.
Với những tác dụng và ý nghĩa có tính chất quyết định của nó, chiến
thắng Chi Lăng-Xương Giang đã trở thành một chiến thắng lịch sử được ghi
bằng chữ vàng chói lọi trong những trang sử chống ngoại xâm bất diệt của dân
tộc, ngang hàng với chiến thắng Bạch Đằng, Rạch Gầm, Xoài Mút, Ngọc Hồi -
Đống Đa, Điện Biên Phủ, chiến dịch Hồ Chí Minh...”
2.1. Địa điểm Chiến thắng Xương Giang là khu di tích tiêu biểu lưu giữ
các chứng tích văn hoá vật chất của một giai đoạn lịch sử đặc biệt và đầy
biến động trong lịch sử Việt Nam
Hiện nay, địa điểm chiến thắng Xương Giang còn bảo lưu nhiều dấu tích lịch
sử, trong đó có dấu tích về tường thành Xương Giang xưa; đoạn sông Xương
Giang; Giếng Phủ; các mốc cửa thành... các tài liệu, hiện vật khá phong phú, minh
chứng cho lịch sử đấu tranh oanh liệt của dân tộc ở thế kỷ XV.
Kết quả khai quật khảo cổ học năm 2008 đã phát hiện tại đây có dấu tích
những công trình kiến trúc, dinh thự của tầng lớp quan lại cao cấp của quân đội
nhà Minh, những mộ táng, đồ gốm men cao cấp của Trung Quốc như bát, đĩa
men ngọc thế kỷ XV và một số đồ gia dụng của Việt Nam như gốm men lam
thế kỷ XV, các vật liệu như gạch, ngói … Như vậy, qua việc khai quật khảo cổ
cho thấy, rõ ràng đây là công trình kiến trúc của tầng lớp quan lại cao cấp trong
quân đội của nhà Minh (Trung Quốc) thông qua một vài loại hình hiện vật như
đồ gốm men Việt Nam và đồ sành có mặt trong di tích góp phần giải thích thêm
về cuộc sống của người chủ công trình kiến trúc này vẫn sử dụng những đồ
dùng gia dụng của người Việt trong cuộc sống hàng ngày của mình.
Giai đoạn 1407-1427, quân Minh xâm lược nước ta với dã tâm đồng hoá
khốc liệt với chính lệnh được ban ra từ Minh Thái Tổ, quyết đánh cho Đại Việt
“một chữ chớ để còn" nên các chứng tích vật chất về thời kỳ này cực kỳ khan
hiếm và không rõ ràng. Theo PGS.TS Tống Trung Tín: "Giai đoạn 1407- 1427
là thời kỳ nhà Minh ra sức đồng hóa người Việt và ngược lại người Việt kiên
cường chống trả để bảo vệ nền văn hóa Việt Nam. Tuy nhiên các chứng tích vật
chất về thời kỳ này cực kỳ khan hiếm và chưa rõ ràng. Ví như một di vật khoảng
đầu thế kỷ XV mà tìm thấy ở Thăng Long hay Tây Đô sẽ rất khó mà đoán đó có
phải là di vật của thời kỳ này hay không? Trong khi đó, ở thành Xương Giang
lại rất rõ ràng của giai đoạn lịch sử này. Vì vậy toàn bộ các di tích và di vật
thuộc thành Xương Giang sẽ là chứng tích vật chất chắc chắn để tìm hiểu lịch
sử văn hóa thời kỳ này".
2.3. Di tích Địa điểm Chiến thắng Xương Giang là trung tâm sinh hoạt văn
hoá tín ngưỡng, nơi diễn ra nhiều sự kiện văn hóa gắn với đời sống văn hoá
tinh thần của nhân dân các dân tộc tỉnh Bắc Giang và nhiều địa phương khác
Địa điểm Chiến thắng Xương Giang là nơi gắn liền với tên tuổi, sự
nghiệp của Hoàng đế Lê Lợi, Nguyễn Trãi cùng các vị tướng lĩnh trực tiếp chỉ
huy tham gia trận đánh Xương Giang, các anh hùng nghĩa sỹ nghĩa quân Lam
Sơn như: Trần Nguyễn Hãn, Lê Sát, Lưu Nhân Chú, Phạm Vấn, Lê Lý, Lê Văn
An...
Hằng năm, lễ hội Xương Giang diễn ra trong hai ngày 6 và 7 tháng Giêng
tại khu trung tâm thành Xương Giang. Đây là lễ hội mở đầu cho chuỗi lễ hội
xuân trên địa bàn thành phố Bắc Giang. Lễ hội Xương Giang với quy mô lớn,
do UBND thành phố Bắc Giang đứng ra chỉ đạo. Phần lễ được tổ chức trong
không khí trang nghiêm. Sáng ngày 6 tháng Giêng các làng Thành, Vẽ, Thọ
Xương, Hoà Yên, Dĩnh Kế…mỗi làng sắp một mâm lễ rước tập trung về đền
Xương Giang để dâng lễ đức vua Lê Lợi và các tướng sĩ nghĩa quân Lam Sơn.
Nghi thức tế diễn ra trang nghiêm trước cửa đền Xương Giang. Sau nghi thức
này là phần hội với những hoạt động văn hóa văn nghệ truyền thống đặc sắc
như: Trình diễn thư pháp, hát quan họ, chầu văn, ca trù, thi đấu thể thao và trò
chơi dân gian kéo co, chọi gà, cờ tướng, biểu diễn võ thuật… thu hút đông đảo
người dân và du khách thập phương tham gia.
Trải qua gần 600 năm với những biến đổi thăng trầm của lịch sử, hiện
nay, Địa điểm chiến thắng Xương Giang là di tích đã xếp hạng cấp Quốc gia.
Nhằm phát huy giá trị của di tích chiến thắng Xương Giang tại thành Xương
Giang xưa, thành phố Bắc Giang đã xây dựng đền Xương Giang thờ Lê Lợi,
Nguyễn Trãi và tướng sỹ, nghĩa quân Lam Sơn, trở thành trung tâm sinh hoạt
văn hoá tín ngưỡng, nơi diễn ra nhiều sự văn hoá của tỉnh Bắc Giang và cả
nước. Trong đó, đã 22 lần tổ chức lễ hội Xương Giang; năm 2019, tỉnh Bắc
Giang phối hợp Hội Nhà Văn Việt Nam tổ chức Ngày Thơ Việt Nam lần thứ
XVII tại Khu di tích lịch sử Chiến thắng Xương Giang; tham dự có gần 200 đại
biểu quốc tế là nhà thơ, dịch giả, nhà văn đến từ 46 nước trên thế giới; văn nghệ
sĩ, các nhà thơ, văn học, nghệ thuật trong tỉnh, trong nước; đông đảo nhân dân
và công chúng yêu thơ.
Giá trị của di tích Địa điểm Chiến thắng Xương Giang bao gồm văn hóa
vật thể và văn hóa phi vật thể mang giá trị lịch sử sâu sắc, là sản phẩm kết tinh
của tinh thần đoàn kết dân tộc, tính nhân văn và cố kết cộng đồng, tinh thần
chiến đấu anh dũng hy sinh vì nền độc lập dân tộc của các thế hệ người Việt
Nam. Di tích Địa điểm Chiến thắng Xương Giang hiện nay còn là nơi bảo tồn,
phát huy giá trị lịch sử, văn hóa của chiến thắng Xương Giang, trở thành địa
điểm tham quan du lịch hấp dẫn đối với du khách trong và ngoài nước, góp
phần tuyên truyền, quảng bá về vùng đất, con người Bắc Giang, giáo dục truyền
thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc cho các thế hệ hôm nay và mai sau, phục
vụ phát triển du lịch và phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh.
THỰC TRẠNG BẢO VỆ VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI TÍCH
1.Về công tác quản lý nhà nước
1.1. Hiện nay di tích Địa điểm Chiến thắng Xương Giang tại thành Xương
Giang đã được xếp hạng Di tích quốc gia, công tác bảo vệ và phát huy giá trị di
tích được thực hiện theo đúng Luật Di sản văn hoá năm 2001, được sửa đổi bổ
sung năm 2009; Thông tư số 18/2012/TT-BVHTTDL ngày 28/12/2012 của Bộ
Văn hoá, Thể thao và Du lịch Quy định chi tiết một số quy định về bảo quản, tu
bổ, phục hồi di tích; Chỉ thị số 07/CT-CT ngày 21/6/2001 của Chủ tịch UBND
tỉnh Bắc Giang về việc Tăng cường bảo vệ di tích lịch sử-văn hoá, danh lam
thắng cảnh, nay là Chỉ thị số 06/CT-UBND ngày 12/9/2014 của UBND tỉnh Bắc
Giang về việc tăng cường các biện pháp quản lý di tích và các hoạt động bảo
quản, tu bổ và phục hồi di tích.
1.2. Để bảo vệ và phát huy giá trị di tích Địa điểm Chiến thắng Xương
Giang tại thành Xương Giang, UBND tỉnh Bắc Giang đã ban hành Quyết định số
471/QĐ-UBND ngày 10/7/2017 về việc thành lập Ban Quản lý Di tích thành phố
Bắc Giang. Trong những năm qua, Ban Quản lý di tích đã xây dựng kế hoạch
hoạt động, tổ chức bảo vệ và phát huy giá trị của di tích, trong đó có việc hướng
dẫn, thuyết minh, giới thiệu về khu di tích, tầm vóc lịch sử và ý nghĩa của chiến
thắng Xương Giang trong lịch sử dân tộc. Năm 2019, Ban Quản lý di tích thành
phố sáp nhập với Trung tâm Văn hoá, Thông tin và Thể thao thành phố Bắc
Giang; di tích Địa điểm Chiến thắng Xương Giang hiện nay do Trung tâm Văn
hoá, Thông tin và Thể thao thành phố Bắc Giang trực tiếp quản lý, bảo vệ và phát
huy giá trị di tích.
1.3. UBND thành phố Bắc Giang chỉ đạo Trung Văn hoá, Thông tin và Thể
thao thực hiện việc bảo vệ và phát huy giá trị di tích Địa điểm Chiến thắng Xương
Giang theo các văn bản chỉ đạo của Nhà nước. Hiện nay, di tích Địa điểm chiến
thắng Xương Giang đã được cắm mốc lô giới, lập bản đồ khoanh vùng bảo vệ di
tích. Công tác quản lý đất đai được chính quyền địa phương thực hiện tốt, do
vậy không có hiện tượng tranh chấp hay xâm lấn đất đai thuộc khu di tích.
1.4. Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch quan tâm chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm
tra công tác quản lý, tu bổ, tôn tạo và phát huy giá trị di tích; chỉ đạo Bảo tàng
tỉnh hướng dẫn, hỗ trợ giúp đỡ tổ chức trưng bày chiến thắng Xương Giang tại
khu di tích. Sau khi xin chủ trương nhất trí của Bộ VHTTDL, thực hiện sự chỉ
đạo của UBND tỉnh, Sở VHTTDL tổ chức lập hồ sơ khoa học di tích: Địa điểm
Chiến thắng Xương Giang tại thành Xương Giang đề nghị Bộ Văn hoá, Thể
thao và Du lịch trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định xếp hạng Địa
điểm Chiến thắng Xương Giang tại thành Xương Giang là di tích lịch sử Quốc
gia đặc biệt.
2. Công tác bảo vệ và phát huy giá trị của di tích
2.1. Bảo vệ và phát huy giá trị văn hoá vật thể
2.1.1. Hiện trạng đất đai, cảnh quan: Di tích Địa điểm Chiến thắng Xương
Giang có diện tích khá lớn nhưng việc khoanh vùng bảo vệ di tích đảm bảo chặt
chẽ, đồng bộ, phù hợp với quy định về bảo vệ và phát huy giá trị di tích.
2.1.2. Ngày 29/11/2007, UBND thành phố Bắc Giang có Quyết định số 476/
QĐ-UBND phê duyệt Quy hoạch chi tiết Khu di tích lịch sử thành Xương Giang
với tổng diện tích là 32,85ha. Ngày 28/4/2009, UBND tỉnh ra thông báo số 57/TB-
UBND về chấp thuận chủ trưởng đầu tư dự án xây dựng khu di tích thành Xương
Giang của thành phố Bắc Giang với quy mô lớn có diện tích 1,3 ha (Khu trung tâm
thành Xương Giang). Đến nay, sau một thời gian triển khai các giai đoạn của dự
án, đền Xương Giang được xây dựng tại khu trung tâm thành Xương Giang khang
trang tố hảo. Đặc biệt, năm 2019, đã đưa vào sử dụng nhà trưng bày và biểu diễn
nghệ thuật trong khuôn viên đền Xương Giang để phục vụ khách tham quan. Cảnh
quan môi trường sạch đẹp; hệ thống cây xanh được trồng bổ sung đang phát triển
tạo vẻ đẹp sinh thái cho khu di tích.
2.1.3. Việc tu bổ, tôn tạo di tích Địa điểm chiến thắng Xương Giang được
thực hiện theo đúng Luật Di sản văn hoá năm 2001, được sửa đổi bổ sung năm
2009 và Thông tư số 18/2012/TT-BVHTTDL ngày 28/12/2012 của Bộ Văn hóa,
Thể thao và Du lịch quy định chi tiết một số quy định về bảo quản, tu bổ, phục
hồi di tích. Đặc biệt, việc xây dựng đền Xương Giang được thực hiện theo sự
chỉ đạo, hướng dẫn của Cục Di sản Văn hoá tại Văn bản thoả thuận số
503/DSVH-DT ngày 8 tháng 8 năm 2016 về việc thoả thuận Thiết kế bản vẽ thi
công bài trí nội thất đền Xương Giang, tỉnh Bắc Giang.
2.1.4. Hiện nay, các hạng mục thuộc di tích Địa điểm chiến thắng Xương
đã được Trung tâm Văn hoá, Thông tin và Thể thao thành phố trực tiếp quản lý,
duy tu theo định kỳ. Hiện vật khai quật khảo cổ học đã được trưng bày giới
thiệu khách tham quan tại Nhà trưng bày trong khuôn viên đền Xương Giang,
một số hiện vật đưa về lưu giữ và tiếp tục xử lý tại Bảo tàng tỉnh.
2.1.5. Bên cạnh những việc đã làm được vẫn còn tồn tại một số hạn chế
trong công tác bảo vệ và phát huy giá trị văn hoá vật thể, cụ thể như: Ngoài khu
trung tâm thành Xương Giang, còn có 12 địa điểm ghi dấu sự kiện lịch sử thuộc
thành Xương Giang xưa đã được quy hoạch và đặt bia ghi dấu sự kiện lịch sử.
Hiện trạng những điểm di tích này nằm đan xen trong các công trình dân dụng
và đất nông nghiệp nên việc phát huy giá trị còn hạn chế. Công tác khai quật
khảo cổ học mới chỉ ở giai đoạn đầu, những tài liệu, hiện vật thuộc địa tầng văn
hoá tại thành Xương Giang còn nhiều nhưng chưa được khai quật để bổ sung
vào bộ sưu tập phục vụ công tác nghiên cứu. Nhà trưng bày và biểu diễn nghệ
thuật tại khu trung tâm thành Xương Giang còn thiếu tài liệu hiện vật trưng bày
về Chiến thắng Xương Giang. Nội dung trưng bày chưa khoa học, các trích
đoạn vở diễn sân khấu hay thước phim tư liệu tái diễn về chiến thắng Xương
Giang chưa có để phục vụ khách tham quan. Mô hình sa bàn về Chiến thắng
Xương Giang chưa sinh động không diễn tả hết được diễn biến những trận đánh
trong Chiến thắng Xương Giang.
2.2. Bảo vệ và phát huy giá trị văn hoá phi vật thể
2.2.1. Trong những năm qua, lễ hội Xương Giang được tổ chức để kỷ niệm
sự kiện lịch sử, bảo tồn và phát huy giá trị lịch sử, văn hóa của chiến thắng
Xương Giang. Hằng năm, lễ hội được UBND thành phố Bắc Giang chỉ đạo tổ
chức có quy mô phù hợp, bài bản, phần lễ theo đúng nghi thức truyền thống,
phần hội quan tâm tổ chức các hoạt động văn hóa, thể thao, trò chơi dân gian
như biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thư pháp, đấu vật, kéo co, chọi gà, cờ
tướng… thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân, du khách trong và ngoài nước
tham dự.
2.2.2. UBND thành phố Bắc Giang quan tâm tổ chức nghiên cứu và sưu
tầm các giá trị văn hoá phi vật thể gắn với lễ hội Xương Giang; bổ sung hoàn
thiện nội dung, hình thức lễ hội Xương Giang cho xứng tầm với tầm vóc chiến
thắng Xương Giang trong lịch sử dân tộc theo hướng ngày càng nâng cao chất
lượng, hiệu quả, đưa các hoạt động văn hóa, thể thao truyền thống mang bản sắc
văn hóa của vùng đất Xương Giang vào lễ hội, đáp ứng nhu cầu tâm linh và văn
hóa tinh thần ngày càng cao của nhân dân. Tổ chức tuyên truyền sâu rộng về giá
trị lịch sử, văn hóa của di tích chiến thắng Xương Giang, lễ hội Xương Giang
đến đông đảo các tầng lớp nhân dân và du khách thập phương; quan tâm hoàn
thiện các hạng mục của khu di tích, trong đó có đền Xương Giang, tạo không
gian thiêng của lễ hội và phục vụ lễ dâng hương tưởng niệm, tri ân các tướng
lĩnh, nghĩa sỹ đã hy sinh góp phần làm nên chiến thắng Xương Giang nói riêng,
khởi nghĩa Lam Sơn nói chung để mang lại hòa bình, thịnh trị cho Đại Việt gần
4 thế kỷ. Chú trọng đẩy mạnh xã hội hoá các hoạt động bảo tồn và phát huy giá
trị văn hóa của lễ hội; phát huy vai trò của nhân dân trong tổ chức các hoạt động
lễ hội để phù hợp với nguyện vọng, nhu cầu sinh hoạt tín ngưỡng, văn hóa tinh
thần của nhân dân.
2.2.3. Bên cạnh những mặt tích cực, vẫn còn những mặt hạn chế trong
công tác tổ chức lễ hội như: Thiếu màu sắc của lễ hội lịch sử, cần bổ sung
những tích trò hay trò chơi có tính lịch sử tái diễn lại chiến thắng Chi Lăng-
Xương Giang, đặc biệt là sự kiện trong trận công thành Xương Giang.
3. Công tác nghiên cứu, tuyên truyền phát huy giá trị di tích
Trong những năm qua, công tác nghiên cứu tuyên truyền phát huy giá trị di
tích Địa điểm Chiến thắng Xương Giang được thực hiện với nhiều nội dung cụ thể
sau:
3.1. Tiến hành khai quật khảo cổ học để nghiên cứu, tìm hiểu về giá trị
lịch sử Địa điểm chiến thắng Xương Giang, thu về nhiều hiện vật có giá trị phục
vụ nghiên cứu và trưng bày tại Bảo tàng tỉnh, khu di tích chiến thắng Xương
Giang. Tuy nhiên, công việc này mới chỉ ở giai đoạn đầu của đề án khai thác,
phát huy giá trị di tích Địa điểm Chiến thắng Xương Giang đã đề ra.
3.2. Tổ chức các cuộc hội thảo khoa học tranh thủ ý kiến đóng góp xây
dựng của các nhà nghiên cứu khoa học cho việc bảo tồn và phát huy giá trị di tích
Địa điểm Chiến thắng Xương Giang cụ thể:
3.2.1. Năm 2009, Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch-Viện Sử học và UBND
thành phố Bắc Giang tổ chức Hội thảo khoa học “Bảo tồn và phát huy các giá trị
di sản văn hoá chiến thắng Xương Giang năm 1427”.
3.2.2. Năm 2016, UBND thành phố Bắc Giang tổ chức Hội thảo khoa học
“Sắp xếp, bài trí nội thất đền Xương Giang” theo chỉ đạo của Bộ VHTTDL để
tranh thủ ý kiến của các nhà nghiên cứu, nhà khoa học cho việc bài trí nội thất
đền Xương Giang để thực hiện.
3.3. Thực hiện công tác tuyên truyền, viết sách, bài giới thiệu trên các
báo, tạp chí về giá trị di tích Địa điểm Chiến thắng Xương Giang tại thành
Xương Giang. Năm 2019, Phòng Văn hoá và Thông tin thành phố Bắc Giang
xuất bản cuốn sách: Đền Xương Giang, giới thiệu về lịch sử, ý nghĩa của trận
quyết chiến chiến lược Chi Lăng- Xương Giang, thành cổ Xương Giang, những
giá trị to lớn của nghệ thuật quân sự trong trận quyết chiến chiến lược này, kết
quả khai quật khảo cổ học, sự hình thành và phát triển của Lễ hội Xương Giang.
3.4. Địa điểm Chiến thắng Xương Giang là nơi diễn ra nhiều sự kiện lịch
sử chính trị gắn với đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân các dân tộc tỉnh
Bắc Giang. Trong những năm qua, nơi đây vinh dự được đón các đồng chí lãnh
đạo Đảng, nhà nước về thăm và làm việc tại Bắc Giang đã đến dâng hương
tưởng niệm Lê Lợi, các anh hùng nghĩa sỹ của khởi nghĩa Lam Sơn tại đền
Xương Giang. Đặc biệt, đầu năm 2019, nằm trong chuỗi các hoạt động của Tuần
Văn hoá- Du lịch tỉnh Bắc Giang với chủ đề “Khám phá vùng đất thiêng Tây Yên
Tử”, UBND tỉnh Bắc Giang phối hợp với Hội Nhà Văn Việt Nam tổ chức Ngày
Thơ Việt Nam lần thứ XVII, năm 2019 tại Khu di tích lịch sử Chiến thắng
Xương Giang; tham dự có gần 200 đại biểu quốc tế là nhà thơ, dịch giả, nhà văn
đến từ 46 nước trên thế giới; văn nghệ sĩ, các nhà thơ, văn học, nghệ thuật trong
tỉnh, trong nước; đông đảo nhân dân và công chúng yêu thơ.
3.5. Khu di tích: Địa điểm Chiến thắng Xương Giang còn phục vụ nhu cầu
“du lịch về nguồn” của cán bộ, đảng viên, giáo viên, học sinh, các tầng lớp nhân
dân trong cả nước và khách du lịch quốc tế đến tham quan, tìm hiểu, nghiên cứu
về di tích liên quan đến khởi nghĩa Lam Sơn của Lê Lợi thế kỷ XV. Đồng thời, di
tích còn là địa điểm để tuyên truyền, giới thiệu một cách sinh động về di tích
chiến thắng Xương Giang, góp phần giáo dục truyền thống yêu nước, nhất là cho
thế hệ trẻ. Hằng năm, nhiều đơn vị của thành phố Bắc Giang đã tổ chức cho học
sinh về mảnh đất lịch sử này để kết nạp đoàn viên, nhằm giáo dục về truyền
thống quê hương, đất nước, để các em không ngừng phấn đấu, rèn luyện và viết
tiếp những trang sử hào hùng của dân tộc.
X. PHƯƠNG HƯỚNG BẢO VỆ VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI TÍCH
1. Về công tác quản lý nhà nước
1.1. Di tích Địa điểm Chiến thắng Xương Giang hiện nay thuộc Trung tâm
Văn hoá, Thông tin và Thể thao thành phố Bắc Giang quản lý. Để bảo vệ và
phát huy giá trị di tích, Trung tâm Văn hoá, Thông tin và Thể thao thành phố
cần tổ chức hoạt động có hiệu quả; tăng cường quản lý đối với hệ thống các
điểm di tích, đất đai, cảnh quan, môi trường, quản lý tốt các hoạt động đầu tư
xây dựng, các hoạt động kinh tế, văn hóa xã hội trên địa bàn khu di tích và trong
vùng liên quan.
1.2. Quan tâm nghiên cứu, xây dựng quy hoạch tổng thể bảo tồn và phát
huy giá trị khu di tích Địa điểm Chiến thắng Xương Giang; trong đó từng bước
thực hiện việc tôn tạo các địa điểm di tích, bổ sung các hạng mục trong dự án,
bảo vệ môi trường, cảnh quan thiên nhiên, nghiên cứu bổ sung thêm các cây
xanh phù hợp với tích chất của di tích. Căn cứ quy hoạch tổng thể, xác định các
dự án cần thực hiện, lộ trình và thứ tự ưu tiên cho việc triển khai các dự án,
nhằm quảng bá, phát huy giá trị di tích, góp phần phát triển du lịch và phát triển
kinh tế-xã hội trên địa bàn tỉnh Bắc Giang.
1.3. Tăng cường công tác tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ, nâng cao trình độ
chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ cho đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ chuyên
môn nghiệp vụ của Trung tâm Văn hoá, Thông tin và Thể thao thành phố Bắc
Giang. Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn cho đội ngũ hướng dẫn viên,
thuyết minh viên tại di tích để phục vụ khách tham quan cả trước mắt và lâu dài.
1.4. Huy động có hiệu quả các nguồn lực từ nguồn ngân sách nhà nước và
nguồn xã hội hóa từ các tổ chức, cá nhân hảo tâm đóng góp cho công tác bảo
quản, tu bổ và phục hồi di tích. Quản lý và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực
này trong việc tu bổ, tôn tạo di tích theo quy định của Luật Di sản văn hóa và
các văn bản hướng dẫn thực hiện. Thực hiện chặt chẽ, đồng bộ các biện pháp
bảo vệ nguyên trạng các địa điểm di tích, dấu vết tường thành cùng tài liệu, hiện
vật khảo cổ tại di tích. Khai thác các tiềm năng, lợi thế của khu di tích để phát
triển du lịch, nhưng phải đảm bảo không làm ảnh hưởng đến di tích.
1.4. Triển khai tổ chức thực hiện các văn bản hướng dẫn, chỉ đạo về quản lý và
tổ chức lễ hội; xây dựng kế hoạch tổ chức lễ hội Xương Giang hàng năm, đảm bảo
lễ hội có nội dung phong phú, hấp dẫn, diễn ra an toàn, lành mạnh, tiết kiệm, có ý
nghĩa thiết thực; tổ chức thắp hương đúng nơi quy định, thực hiện không xả rác bừa
bãi, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm trong lễ hội. Chú trọng đẩy mạnh xã hội hoá
các hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị lịch sử, văn hóa của lễ hội; phát huy vai trò
cộng đồng, của người dân trong việc quản lý và tổ chức lễ hội, để lễ hội giữ gìn
được bản sắc văn hóa truyền thống thể hiện trong việc tế lễ, dâng hương, các hoạt
động văn hóa, thể thao dân tộc và các trò chơi dân gian; nghiên cứu tái hiện lại các
hoạt động văn hóa của nhân dân các làng xung quang khu vực di tích ăn mừng chiến
thắng Xương Giang, chiến thắng chấm dứt ách đô hộ hà khắc suốt 20 năm của nhà
Minh đối với nhân dân ta.
1.5. Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch tăng cường công tác quản lý nhà nước,
quan tâm chỉ đạo, hướng dẫn về nghiệp vụ chuyên môn đối Trung tâm Văn hoá,
Thông tin và Thể thao thành phố, đặc biệt là công tác khai quật khảo cổ học tại
thành Xương Giang; công tác tu bổ, tôn tạo và bảo vệ, phát huy giá trị di tích theo
đúng quy định của nhà nước.
2. Về bảo vệ và phát huy giá trị di tích
2.1. Bảo vệ và phát huy giá trị văn hoá vật thể
2.1.1 Di tích Địa điểm chiến thắng Xương Giang nằm ở vị trí thuận lợi,
phục vụ du khách khi đến thăm quan chiêm bái và học tập. Vì vậy, trong thời
gian tới, UBND thành phố cần chỉ đạo Trung tâm Văn hoá, Thông tin và Thể
thao thành phố xây dựng kế hoạch hàng năm và dài hạn để bảo tồn và phát huy
giá trị di tích. Trước mắt phải có biện pháp kịp thời, chặt chẽ, hiệu quả trong
việc giữ nguyên hiện trạng các điểm đã được khoanh vùng bảo vệ nằm đan xen
trong các hộ dân và cánh đồng thuộc phạm vi di tích. Có phương án tôn tạo, đặt
biển chỉ dẫn cũng như lời giới thiệu về giá trị lịch sử tại các địa điểm di tích
này. Tổ chức trồng thêm nhiều cây xanh, đặc biệt là các cây lâu năm tại khu di
tích, tạo cảnh quan môi trường sinh thái và không gian di tích xanh -sạch- đẹp,
thân thiện, hấp dẫn.
2.1.2. Tiếp tục triển khai và thực hiện có hiệu quả theo từng giai đoạn
Quy hoạch chi tiết Khu di tích Địa điểm chiến thắng Xương Giang tại thành
Xương Giang đã được UBND thành phố Bắc Giang phê duyệt. Đồng thời, triển
khai lập Quy hoạch tổng thể bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị di tích Địa điểm
Chiến thắng Xương Giang đề nghị cấp có thẩm quyền phê duyệt; từng bước hoàn
thiện cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật của Khu di tích đảm bảo đồng bộ và thuận
tiện. Phát triển hệ thống dịch vụ du lịch đa dạng, phong phú, chất lượng cao
nhằm thu hút và đáp ứng yêu cầu của khách du lịch.
2.1.3. Tiếp tục tham mưu đề xuất cơ quan có thẩm quyền kế hoạch tu bổ,
tôn tạo những điểm di tích xung quanh khu vực trung tâm như: Cải tạo, kè nạo
vét thêm đoạn sông Xương Giang; phục hồi lại những đoạn tường thành Xương
Giang cũ, cắm biển tên, chỉnh trang cảnh quan môi trường xung các điểm di tích
đã dựng bia nhằm tăng cường quản lý và khai thác phục vụ tham quan du lịch
cũng như công tác giáo dục truyền thống. Hoàn thiện việc xây dựng biển chỉ
dẫn đường đi tới di tích, tạo điều kiện thuận lợi cho khách du lịch tham quan di
tích. Bổ sung tư liệu, hiện vật liên quan đến Chiến thắng Xương Giang để trưng
bày. Hoàn thiện mô hình sa bàn tái diễn lại Chiến thắng Xương Giang tại Nhà
trưng bày và biểu diễn nghệ thuật phục vụ khách tham quan.
2.2. Bảo vệ và phát huy giá trị văn hoá phi vật thể
2.2.1. Tiếp tục quan tâm tổ chức nghiên cứu và sưu tầm các giá trị văn hoá
phi vật thể gắn với lễ hội Xương Giang. Bảo tồn nguyên trạng những yếu tố gốc
lịch sử là cốt lõi của lễ hội Xương Giang, bên cạnh đó cần khôi phục các nghi
lễ, hoạt động văn hóa, thể thao truyền thống, các trò chơi dân gian trong lễ hội
như trình diễn thư pháp, đấu vật, thi thổi cơm niêu,…Bổ sung những trò chơi,
tích trò mang ý nghĩa lịch sử về chiến thắng Xương Giang trong lễ hội nhằm
tuyên truyền giáo dục về giá trị lịch sử, ý nghĩa chiến thắng Xương Giang trên
đất Bắc Giang.
2.2.1. Điều tra thêm về địa hình, truyền thuyết và di tích nơi đóng quân của
địch và ta trong trận đánh tháng 11/1427 nhằm làm rõ thêm diễn biến của trận
đánh. Sưu tầm ghi chép những câu chuyện kể về diễn biến những trận đánh, tên
địa danh gắn với sự kiện lịch sử…, để bổ sung tư liệu về di tích, phục vụ nghiên
cứu cũng như công tác bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể
của di tích. Xây dựng kịch bản sân khấu hoá về Chiến thắng Xương Giang phục
vụ khách tham quan nghiên cứu tại Nhà trưng bày và Biểu diễn nghệ thuật khu
trung tâm thành Xương Giang.
2.2.3. Quan tâm xây dựng các tour du lịch kết nối với di tích địa điểm
chiến thắng Xương Giang, trong đó có việc liên kết với các công ty lữ hành xây
dựng các tour du lịch kết nối di tích địa điểm chiến thắng Xương Giang với các
di tích Cần Trạm, Phố Cát (Lạng Giang), ải Chi Lăng (Lạng Sơn) để phục vụ
khách tham quan tìm hiểu về chiến thắng Chi Lăng- Xương Giang, góp phần
giáo dục truyền thống và phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh.
2.2.4. Xây dựng kế hoạch tổ chức lễ hội Xương Giang hàng năm trên cơ sở
có phương án đảm bảo an ninh trật tự, phòng chống cháy nổ, quan tâm bảo tồn và
phát huy các giá trị lịch sử, văn hóa của lễ hội, đưa các hoạt động văn hóa, thể
thao truyền thống, các trò chơi dân gian phù hợp với không gian và tính chất của
lễ hội lịch sử, để đáp ứng ngày càng cao nhu cầu sinh hoạt văn hóa của cộng
đồng và du khách thập phương.
2.2.5. Nghiên cứu đề xuất cấp có thẩm quyền cho phép xây dựng Hồ sơ lễ
hội Xương Giang đề nghị Bộ VHTTDL đưa vào danh mục di sản văn hoá phi
vật thể cấp quốc gia.
3. Công tác nghiên cứu tuyên truyền và phát huy giá trị di tích
3.1. Tiếp tục triển khai nghiên cứu, sưu tầm tài liệu, khai quật khảo cổ
phục vụ công tác bảo tồn bền vững di tích lịch sử Địa điểm Chiến thắng Xương
Giang. Tổ chức các cuộc Hội thảo về giá trị di tích nhằm khẳng định giá trị đặc
biệt và quảng bá, giới thiệu di tích Địa điểm Chiến thắng Xương Giang tại thành
Xương Giang đến đông đảo nhân dân, bạn bè trong nước và quốc tế. Tổ chức
nghiên cứu, bảo tồn di sản văn hoá vật thể và phi vật thể gắn với di tích. Điều
tra nghiên cứu khu vực trong và ngoài thành Xương Giang. Đối với ngoài thành,
điều tra xem thành có ngoại hào hay không. Đặc biệt, từ tháng 5 năm 2019, Bảo
tàng tỉnh tiến hành nghiên cứu xây dựng Hồ sơ khoa học, pháp lý đề nghị Bộ
Văn hoá, Thể thao và Du lịch trình Thủ tướng Chính phủ xếp hạng di tích Địa
điểm Chiến thắng Xương Giang là di tích lịch sử quốc gia đặc biệt.
3.3. Nghiên cứu xây dựng kế hoạch Khảo cổ dài hạn tại di tích Địa điểm
Chiến thắng Xương Giang trong những năm tiếp theo nhằm thăm dò, từng bước
khai quật mở rộng để làm rõ mặt bằng chi tiết của thành Xương Giang, tìm hiểu
bố cục của các kiến trúc, đặc điểm kiến trúc, thu thập tất cả các loại di vật phát
lộ trong lòng đất để phục vụ nghiên cứu khoa học và công tác bảo vệ, phát huy
giá trị di tích.
3.4. Tổ chức các cuộc trưng bày, triển lãm về chiến thắng Xương Giang
nhằm giáo dục cộng đồng về truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm của
cha ông. Đồng thời nghiên cứu, đưa ra những định hướng để khai thác tốt các
hoạt động tại Nhà trưng bày và biểu diễn nghệ thuật. Bổ sung tư liệu, hiện vật
về Chiến thắng Xương Giang trưng bày giới thiệu phục vụ du khách trong và
ngoài nước đến thăm quan, tìm hiểu về chiến thắng Xương Giang. Áp dụng
khoa học công nghệ mới trong công tác trưng bày hiện vật liên quan đến Chiến
thắng Xương Giang, xây dựng thước phim tư liệu ngắn tái diễn lại trận đánh
thành Xương Giang phục vụ khách tham quan nghiên cứu tại Nhà trưng bày và
Biểu diễn nghệ thuật khu trung tâm thành Xương Giang.
3.5. UBND thành phố Bắc Giang quan tâm chỉ đạo Trung tâm Văn hoá,
Thông tin và Thể thao thành phố phối hợp với các cơ quan chuyên môn, Báo,
Đài Phát thanh truyền hình Trung ương và địa phương tăng cường công tác
tuyên truyền về giá trị lịch sử di tích Địa điểm Chiến thắng Xương Giang. Đồng
thời, đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền; chú trọng xây dựng các ấn phẩm
văn hoá gắn với di tích: in tờ rơi, tờ gấp, viết sách, giới thiệu những chuyên đề
riêng về di tích trên các tạp chí văn hóa, di sản nhằm quảng bá rộng rãi giá trị
của di tích Địa điểm Chiến thắng Xương Giang.
3.6. Phát huy vai trò của cộng đồng trong việc bảo tồn di tích: Để tăng
cường công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản cần phải tập trung nâng cao
nhận thức của người dân về giá trị của di sản đang tồn tại và khả năng khai
thác có sự tham gia của cộng đồng trong các hoạt động cung cấp dịch vụ du
lịch, tiến tới xã hội hóa các hoạt động du lịch. Đồng thời, làm tốt công tác giáo
dục, khơi dậy và phát huy ý thức trách nhiệm của người dân. Nghiên cứu xây
dựng những cơ chế chính sách để người dân được hưởng lợi từ những hoạt
động du lịch tại di tích Địa điểm Chiến thắng Xương Giang.
3.7. Tổ chức kêu gọi sự chung tay bảo vệ và phát huy giá trị di tích Địa điểm
Chiến thắng Xương Giang đến các tầng lớp nhân dân, doanh nghiệp và các tổ
chức, cá nhân trong và ngoài tỉnh. Tuyên truyền để mọi người cùng tham gia bảo
vệ di tích, đặc biệt đóng góp kinh phí phục vụ tu bổ, tôn tạo di tích theo chủ
trương xã hội hóa và giữ gìn, bảo vệ cảnh quan, môi trường di tích. Địa điểm
Chiến thắng Xương Giang là một trong những di tích có giá trị lịch sử đặc biệt,
trong hiện tại và tương lai; hiện nay khu di tích đã có đền Xương Giang và các
công trình phụ trợ, đáp ứng nhu cầu văn hóa tâm linh và tham quan du lịch ngày
càng cao của du khách, trở thành điểm du lịch hấp dẫn trong tuyến du lịch Xương
Giang- Phố Cát- Cần Trạm- Chi Lăng (Lạng Sơn) và các di tích phụ cận liên
quan đến khởi nghĩa Lam Sơn nên cần phải được tuyên truyền, quảng bá sâu rộng
để thu hút khách du lịch, thúc đẩy phát triển du lịch, góp phần phát triển kinh tế -
xã hội của địa phương.
XI. KẾT LUẬN
Địa điểm Chiến thắng Xương Giang tại thành Xương Giang là nơi ghi dấu
chiến công oanh liệt quyết định thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, mở ra
trang sử mới trong lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc. Năm 2009, Địa điểm
Chiến thắng Xương Giang tại thành Xương Giang được Bộ Văn hoá, Thể thao
và Du lịch Quyết định xếp hạng là Di tích lịch sử quốc gia (QĐ số 293/QĐ-
BVHTTDL ngày 22/01/2009). Sau khi được xếp hạng quốc gia, công tác bảo vệ
và phát huy giá trị của di tích đã được quan tâm, đạt nhiều kết quả tích cực, thu
hút đông đảo khách du lịch trong và ngoài nước tham quan, góp phần giáo dục
truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc cho các thế hệ hôm nay và mai sau.
Với những giá trị tiêu biểu nổi bật về lịch sử, văn hoá nêu trên, UBND tỉnh
Bắc Giang đã giao Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch phối hợp với UBND thành
phố Bắc Giang tiến hành điều tra, nghiên cứu lập Hồ sơ khoa học di tích Địa
điểm Chiến thắng Xương Giang tại thành Xương Giang đề nghị Bộ Văn hoá,
Thể thao và Du lịch xem xét trình Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định xếp hạng
di tích Địa điểm Chiến thắng Xương Giang tại thành Xương Giang là Di tích
lịch sử Quốc gia đặc biệt.
VIII. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bảo tàng Bắc Giang (2001), Di tích Bắc Giang tập I-tái bản, Nhà in
Báo Bắc Giang.
2. Bảo tàng Bắc Giang (2008), Di sản văn hoá Bắc Giang-Văn học dân gian,
Công ty cổ phần in Bắc Giang.
3. Bảo tàng tỉnh Bắc Giang (2009), Hồ sơ xếp hạng di tích Quốc gia Địa
điểm chiến thắng Xương Giang.
4. Bảo tàng tỉnh Bắc Giang (2012), Những giá trị Văn hoá cổ truyền tỉnh Bắc
Giang, Nxb Thông tấn.
5. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2011), Thông tư 09/2011/TT-BVHTTDL
ngày 14/7/2011 Quy định về nội dung hồ sơ khoa học để xếp hạng di tích lịch sử -
văn hóa và danh lam thắng cảnh.
6. Chính Phủ (2010), Nghị định số 98/2010 NĐ-CP ngày 21/09/2010 quy
định chi tiết thi hành một số điều của Luật di sản văn hoá và Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật di sản văn hoá.
7. Đại Việt sử ký toàn thư, tập 1 (1993), Nxb Khoa học xã hội.
8. Địa chí Hà Bắc (1982), Thư viện Hà Bắc xuất bản.
9. Lê Qúy Đôn (1978), Đại Việt thông sử, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội,
1978.
10. Lê Quý Đôn, Ngô Thế (2007), Đại Việt thông sử, Nxb Văn hoá Thông tin.
11. Hà Bắc- Ngàn năm văn hiến, tập 3 (1976), Những di tích lịch sử, Ty Văn
hoá Hà Bắc.
12. Hội thảo khoa học “Bảo tồn và phát huy các giá trị di sản chiến thắng
Xương Giang” (2009) do Sở VHTTDL- Viện Sử học- UBND thành phố Bắc
Giang tổ chức.
13. Hội thảo khoa học “Sắp xếp, bài trí nội thất đền Xương Giang” (2016)
do UBND thành phố Bắc Giang tổ chức.
14. Hội thảo khoa học “Khu di tích lịch sử Chi Lăng-Giá trị lịch sử, bảo tồn
và phát huy" (2019), do Bảo tàng Lịch sử quốc gia- UBND huyện Chi Lăng- Sở
VHTTDL tỉnh Lạng Sơn tổ chức.
15. Nguyễn Văn Huyên (1997), Địa lý hành chính Kinh Bắc, Hội Khoa học
lịch sử Việt Nam-Sở VHTT Bắc Giang.
16. Phan Huy Lê- Bùi Đăng Dũng-Phan Đại Doãn- Phạm Thị Tâm-Trần Bá
Chí (1976), Một số trận quyết chiến chiến lược trong lịch sử dân tộc của , Nxb Quân
đội nhân dân.
17. Phan Huy Lê - Phan Đại Doãn (1997), Khởi nghĩa Lam Sơn, Nxb Khoa
học xã hội.
18. Lam Sơn thực lục-Nguyễn Trãi toàn tập (1976), Nxb Khoa học xã hội. Hà Nội.
19. Lịch sử Hà Bắc tập 1 (1982), do Hội đồng lịch sử tỉnh Hà Bắc biên soạn.
20. Luật Di sản văn hoá năm 2001 được sửa đổi bổ sung năm 2009 (2009).
Nxb Chính trị Quốc gia.
21. Lý Tử Tấn, Phú Xương Giang;
22. Phòng Văn hoá và Thông tin thành phố Bắc Giang (2019), Đền Xương
Giang, Nhà in Báo Bắc Giang.

Bắc Giang, ngày tháng 7 năm 2019

You might also like