Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 7

MỞ BÀI: “ Nguyễn Tuân đã đến, đã tính cho ta nghe có bao nhiêu tên làng, tên xóm,

bao nhiêu loài cá, loài chim ở vùng đất Cà Mau; bao nhiêu thứ gỗ quý trên rừng Việt
Bắc; bao nhiêu thứ cây tươi trên các đường phố Hà Nội, bao nhiêu tấm ván trên cầu
Hiền Lương, bao nhiêu cái chợ ở thành phố Sài Gòn.” ( Nguyễn Đăng Mạnh ). Đến
với sông Đà, giờ đây trong hành trang du kí của mình, tác giả đã cho người đọc đã đầy
những cảm nhận về sự hùng vĩ của đất trời Tây Bắc. Để rồi người nghệ sĩ chân chính
“suốt đời đi tìm cái đẹp” một cách nghiêm túc và khó tính đã “đắm say” trước vẻ đẹp
của dòng Đà giang, rồi không kìm lòng mà viết nên tùy bút “Người lái đò sông Đà”.
Đặc biệt qua ngòi bút của tác giả, đoạn trích “ Còn xa lắm… tiêu diệt thủy quái” đã
khắc họa thật rõ nét sự hung bạo của hình tượng sông Đà.
Khái quát:Người lái đò Sông Đà là bài tùy bút được in trong tập Sông Đà (1960).Tác
phẩm là thành quả nghệ thuật đẹp mà Nguyễn Tuân đã thu hoạch được trong chuyến đi
gian khổ và hào hứng tới miền Tây Bắc rộng lớn, xa xôi, không chỉ để thoả mãn cái
thú tìm đến những miền đất lạ cho thỏa niềm khát khao “xê dịch”, mà chủ yếu để tìm
kiếm chất vàng của thiên nhiên cùng "thứ vàng mười đã qua thử lửa" ở tâm hồn của
những con người lao động và chiến đấu trên miền núi sông hùng vĩ và thơ mộng đó. Vì
thế, Sông Đà nói chung và bài tuỳ bút Người lái đò Sông Đà nói riêng cho ta nhận ra
diện mạo của một nhà văn Nguyễn Tuân mới mẻ. khát khao được hòa nhịp với đất
nước và cuộc đời này, không giống với Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám,
con người chỉ muốn xê dịch cho khuây cảm giác “thiếu quê hương”. Trong tác phẩm,
hình tượng sông Đà đóng vai trò làm tấm phông nền để tôn lên vẻ đẹp của con người,
Nguyễn Tuân coi Sông Đà như một nhân vật, một sinh thể sống động có lai lịch, có
tính cách. Hơn hết nếu như ở phần đầu tác phẩm, tác giả chủ yếu miêu tả sự hung bạo,
hiểm nguy của con sông Đà qua cảnh đá dựng vách thành, qua mặt ghềnh Hát Loóng
hay của cảnh hút nước ở Tà Mường Vát thì đến với đoạn trích thuộc phần giữa tác
phẩm, Nguyên Tuân vẫn tiếp tục khắc họa sự hung bạo của sông Đà qua âm thanh thác
nước và cảnh thạch đá trên sông. Qua đó, khẳng định sự tài hoa trong nghệ thuật sáng
tác của nhà văn.
Luận điểm chính: Trong cuộc hành trình ngược dòng thời gian khám phá dòng sông
Tây Bắc, Nguyễn Tuân đã dẫn dắt độc giả đến một cảm giác mới mẻ trên từng đoạn,
từng khoảnh sông khác nhau. Và tiếp đến, ta thấy cái hùng vĩ và hung bạo của sông Đà
hiển hiện qua hình ảnh thác đá với tiếng nước réo gầm được miêu tả từ xa đến gần, từ
nhỏ đến to: “Còn xa lắm mới đến cái thác dưới. Nhưng đã thấy tiếng nước réo gần mãi
lại réo to mãi lên”. Đọc đến đây, ta chợt nhớ về những con chữ đầu trong tập tùy bút:
“Hùng vĩ của Sông Đà không phải chỉ có thác đá”. Dường như trong tiềm thức của
mỗi người, khi nhắc đến con sông gập ghềnh, dữ dội này, thác đá đã trở thành một
phần quan trọng làm nên vẻ đẹp hùng vĩ đặc trưng của con sông Tây Bắc, đồng thời
tạo nên những đặc sắc nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Trước hết, văn sĩ họ Nguyễn đã
dùng đôi tai của mình để cảm nhận thứ âm thanh rợn ngợp, đầy sống động: “tiếng
nước réo gần mãi lại réo to mãi lên” dù “còn xa lắm mới đến cái thác dưới”, cho thấy
rằng dù con thác chưa hiện lên trước mắt thì nó đã tự tìm cách để người đi qua để ý,
choáng ngợp về âm thanh, cũng như cảnh báo con người về sự nguy hiểm phía trước.
Càng đến gần, âm thanh thác nước càng hiện lên to và rõ ràng hơn. Nguyễn Tuân
không chỉ đơn thuần cảm nhận âm thanh sóng nước qua thính giác, ông còn miêu tả
trạng thái của nó với đầy đủ cung bậc cảm xúc, thái độ, tâm trạng con người. Tiếng
nước thác nghe như là “oán trách gì”, “van xin”, “khiêu khích”, “giọng gằn mà chế
nhạo”. Chỉ vài phút trước, thác đá vẫn còn yếu ớt nỉ non, oán trách hờn dỗi, nhưng chỉ
một lúc sau, nó kiêu ngạo gào thét, ngông nghênh như một con thủy quái trú ngụ nơi
rừng thiêng nước độc, sẵn sàng vồ lấy bóng dáng con người để nuốt chửng cho thoả
cơn thèm khát. Dường như bao nhiêu âm thanh là bấy nhiêu đòn tâm lý mà con thủy
quái sông Đà tung ra làm người ta phải khiếp sợ. Bằng những câu văn ngắn, nghệ thuật
nhân hoá, liệt kê cùng trường từ vựng gợi tả âm thanh có sự tăng tiến, con thác Sông
Đà hiện lên như một sinh thể thực thụ, có suy nghĩ, cảm xúc, dù đa sầu đa cảm nhưng
vẫn đầy thách thức như kẻ thù số một của con người.
Thế nhưng, có lẽ câu văn giàu hình ảnh và tập trung bút lực bậc nhất về thanh âm
nước thác lại chính là câu: "Thế rồi nó rống lên như tiếng một đàn con trâu mộng đang
lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng
gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”. Bằng nét miêu tả tài tình, Nguyễn Tuân đã
viết nên một câu văn dài đầy ắp những hình ảnh dữ dội, gợi cho người đọc cảm giác
như bị hụt hơi, dồn đuổi lấn lướt. m thanh của nước thác được so sánh như tiếng rống
của “ngàn con trâu mộng”. Trâu mộng là một loài trâu đực rất khỏe và mạnh, được dân
ta ví von: “Sức của một con trâu mộng bằng hai con trâu nhà”. Thế nhưng ở đây, nó
không dừng lại ở một con trâu mộng mà là hàng ngàn con da cháy bùng bùng đang
lồng lộn, gào lên, phá tan rừng lửa, va đập vào từng thân cây vầu, tre nứa… Chỉ từ chỉ
số nhiều “một ngàn” vang lên cùng liên tưởng so sánh thú vị khiến người đọc không
khỏi hoảng hốt trước sự to lớn, khủng khiếp của tiếng nước đổ nơi thác đá. Con sông ở
quãng này đúng là một con quái vật hàng ngàn năm tuổi hung hãn với sức mạnh trời
ban, chỉ tiếng rống của nó thôi cũng đủ thức tỉnh cả đất trời Tây Bắc bạt ngàn, càng
làm nổi bật sự hùng vĩ của Sông Đà hơn bao giờ hết. Ta liên tưởng đến tiếng gầm oai
linh của chúa tể sơn lâm trong bài thơ Tây tiến của Quang Dũng: “Chiều chiều oai
linh thác gầm thét”. Không dừng lại ở đó, Nguyễn Tuân còn thể hiện sự độc đáo trong
bút pháp miêu tả và chất ngông qua việc dùng những yếu tố xung khắc để miêu tả cho
nhau: lấy lửa tả nước, lấy rừng tả sông, lấy tiếng gào thét của đàn trâu mộng đang
trong cơn nguy khốn để tả tiếng nước thác ào ào từ trên cao đổ xuống. Nó không
những đưa người đọc quay trở lại với nạn động đất, cháy rừng thời tiền sử với sức
công phá lớn, đe dọa đến tính mạng con người mà đồng thời, gây ấn tượng mạnh về
một con sông Đà dữ dội, ghê rợn, hiện lên như ngọn lửa sẵn sàng thiêu cháy rụi những
chiếc thuyền chẳng may đi qua. Như vậy, bằng nghệ thuật so sánh, nhân hoá, liên
tưởng đặc sắc cùng việc sử dụng ngôn ngữ tài hoa, Nguyễn Tuân đã tạo nên một khúc
tráng ca về âm thanh nơi thác đá với đủ cung bậc cảm xúc, qua đó thể hiện được sự dữ
tợn, hung bạo của con Sông Đà.
Tuy nhiên, sự hung bạo ấy không chỉ dừng lại ở âm thanh ầm ầm của nước
chảy từ thác xuống mà còn đến từ trùng vi thạch trận nơi đây. Tác giả đã miêu tả thiên
nhiên từ khái quát đến cụ thể. Câu văn “Tới cái thác rồi” ngắn gọn vang lên như một
tiếng reo thích thú. Phải chăng, Nguyễn Tuân muốn truyền cảm giác hứng thú của một
con người với đam mê “xê dịch” đến người đọc khi đang dấn sâu vào cuộc thủy chiến
dữ dội trên sông? Ấy cũng là lúc nhà văn chiêm ngưỡng được cảnh tượng “sóng bọt đã
trắng xóa cả một chân trời đá”. Câu văn đã gợi mở một không gian hùng vĩ, mênh
mông kéo dài đến tận chân trời cùng sự xuất hiện bất ngờ của lực lượng đá hùng hậu;
chúng miên man, trùng điệp, chiếm lĩnh suốt chiều dài dòng sông. Tính từ "trắng xóa"
gây ấn tượng về sóng, về gió, về bọt nước trào sôi mãnh liệt, gợi ra vẻ đẹp bí ẩn, huyền
ảo của thiên nhiên nước non. Không những miêu tả chủ thể dưới góc độ không gian,
Nguyễn Tuân còn đặt đá Sông Đà dưới sự tương quan về thời gian: “Đá ở đây từ ngàn
năm vẫn mai phục hết trong lòng sông”. Dường như thời gian trôi đi càng tôi luyện
thêm bản tính mưu mô, xảo quyệt, nham hiểm của những con thủy quái hàng ngàn
năm tuổi. Những tảng đá lởm chởm ẩn mình trong góc khuất, “mai phục hết trong lòng
sông” để chờ đợi, rình rập tấn công kẻ thù truyền kiếp của chúng - những người lái đò
nhỏ bé khinh suất tay lái mà không hề báo trước. Thiên nhiên luôn tiềm ẩn những khó
khăn nguy hiểm. Sông Đà không chỉ đầy sóng, gió trên mặt nước mà nó vẫn muôn đời
hiểm ác, mang sự khủng khiếp tiềm tàng dưới lòng sâu. Không chỉ vậy, những tượng
đá dưới góc nhìn nhân hoá của Nguyễn Tuân đều mang trong mình diện mạo, dáng vẻ,
tính cách, điệu bộ riêng: chúng hiện lên với đủ loại kích thước “to”, “bé”; có những
tảng đá gồ ghề, “nhăn nhúm méo mó”, “ngỗ ngược”, tự do “đứng”, “nằm”, “ngồi” tùy
theo sở thích… Chúng đều mang dáng dấp của những tên côn đồ hung hãn, lũ du côn
của thiên nhiên hoang dại, đầy trịch thượng, ương ngạnh và ngổ ngáo. Bằng sự quan
sát cùng trí tưởng tượng đầy sáng tạo, việc sử dụng nghệ thuật nhân hoá, từ láy, những
câu văn ngắn đan xen đầy tính tạo hình, Nguyễn Tuân đã truyền sự sống, linh hồn cho
từng thớ đá tưởng chừng như vô tri vô giác, để tảng nào tảng nấy hiện lên thật sống
động, rõ nét như những sinh thể sống để gợi lên vẻ hiểm ác, hung dữ ngàn năm của đá
Sông Đà.
Hơn hết, cái độc đáo trong tưởng tượng của Nguyễn Tuân khi khắc họa sự
hung bạo của sông Đà là ông hình dung con sông như giao việc cho từng hòn đá để sẵn
sàng lật ngửa bụng bất cứ con thuyền nào qua đây. Người đọc không khỏi thấy thích
thú khi chứng kiến sự bày binh bố trận của những hòn đá để thành những thạch trận
trên sông kia. Mỗi tảng đá đều có nhiệm vụ rõ ràng: “Đám tảng đám hòn chia làm ba
hàng chặn ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền”; đá sông Đà hiện lên như những
chiến binh khát máu, trong tư chế ngông nghênh, tiến công khiến con thuyền khó mà
thoát thân. Trận địa đá bao gồm “hàng tiền vệ, có hai hòn canh cửa như là sơ hở” để dụ
dỗ đối phương đi vào sâu, rồi “đánh khuýp quật vu hồi lại”. Thậm chí chúng còn có
chiến lược dự phòng để hoàn thành nhiệm vụ của mình: nếu thuyền du kích vẫn chọc
thủng được tuyến hai thì “nhiệm vụ của những boongke chìm và pháo đài đá nổi ở
tuyến ba là đánh tan chiếc thuyền lọt dưới đá tuyến trên”, không để ai thoát thân…Cả
một đội quân đá hùng hậu là một chuỗi nguy hiểm rình rập người lái đò. Quả không
sai khi nói Sông Đà thật sự là kẻ thù to lớn của con người. Nguyễn Tuân đã sử dụng
một loạt những thuật ngữ của quân sự, thể thao, võ thuật, cùng hệ thống dày đặc những
động từ mang sắc thái nhân hóa, đặt trong những câu văn ngắn, dồn dập… khiến lòng
sông quãng này không khác gì một chiến trường với những trận hỗn chiến không cân
sức giữa con người với thiên nhiên. Nhưng thạch địa ấy đồng thời cũng là chất gia vị
đặc biệt để làm nổi bật lên vẻ đẹp hùng vĩ của con sông Đà, đặc biệt là tiềm năng thủy
điện của nó đúng như cảm hứng sáng tác tác phẩm này của Nguyễn Tuân: gắn liền với
công cuộc khai phá, kiến thiết của miền đất phía Bắc của tổ quốc.
Đánh giá:Người lái đò Sông Đà là một áng văn đẹp được làm nên từ tình yêu đất
nước say đắm, thiết tha của một con người muốn dùng văn chương để ca ngợi về đẹp
vừa kì vĩ, hào hùng, vừa trữ tình, thơ mộng của thiên nhiên, và nhất là của con người
lao động bình dị ở miền Tây Bắc. Tác phẩm còn cho thấy công phu lao động nghệ
thuật khó nhọc, cùng sự tài hoa, uyên bác của người nghệ sĩ Nguyễn Tuân trong việc
dùng chữ nghĩa để tái tạo những kỳ quan của tạo hoá.
Kết bài:Một Sông Đà, một Nguyễn Tuân- một thiên nhiên dữ dội, một người nghệ sĩ
tài hoa. Tùy bút của Nguyễn Tuân chân thực mà hấp dẫn là vậy. Đọc từng dòng văn, ta
như được trải nghiệm trong một không gian Tây Bắc, được gặp và chiêm ngưỡng cái
tài hoa của những con người nơi đây. “ Người lái đò Sông Đà” là một áng văn đẹp làm
nên từ tình yêu đất nước thiết tha, say đắm của một người nghệ sĩ muốn dùng văn
chương Để khắc họa vẻ đẹp kỳ vĩ, hào hùng, vừa trữ tình, vừa thơ mộng. Sự đầu tư
nghiêm túc, công phu và tâm huyết cho nghệ thuật của Nguyễn Tuân càng khiến ta
thêm khâm phục, phải chăng đó chính là cái tài hoa, độc đáo của Nguyễn Tuân - cái
điều mà ông vẫn quan niệm : “ Đã viết văn thì phải viết cho hay, cho đúng cái tạng
riêng của mình. Văn chương cần sự độc đáo hơn bất kỳ một lĩnh vực nào khác…”.

Nhà văn Pautopxki từng quan niệm: “Niềm vui của nhà văn chân chính là niềm vui
của người dẫn đường đến xứ sở của cái đẹp”. Mỗi một trang viết của người nghệ sĩ
chân chính phải là từ hoa với sắc biếc mây trời, ngạt ngào hương hoa, lấp lánh tình
người. Nguyễn Tuân từng muốn mỗi ngày đều có "cái say của rượu tân hôn", kỳ vọng
mỗi trang đời là một trang nghệ thuật. Luôn luôn đổi mới cảm giác, nhận thức cũng
như phương châm cảm thụ cái đẹp, ông coi đời là những “trang hoa” luôn mở dưới ánh
sáng nghệ thuật mới .Và chuyến đi Tây Bắc của nhà văn sau Cách mạng là một "trang
hoa" như thế. Để từ đây vẻ đẹp thiên nhiên và con người được mở ra "dưới ánh sáng
nghệ thuật" của "Người lái đò Sông Đà". Bước vào xứ sở sông Đà, người đọc choáng
ngợp, hãi hùng bởi sự hung bạo của Đà giang qua đoạn trích “Hùng vĩ của sông Đà…..
tan xác ở khuỷnh sông dưới”. Từ đó, góp phần làm nổi bật góc nhìn độc đáo của nhà
văn Nguyễn Tuân.
Nguyễn Tuân là cây bút tài hoa của nền văn học Việt Nam .Ông nổi tiếng là nhà văn
uyên bác, giàu cá tính, là một nghệ sĩ “suốt đời đi tìm cái đẹp” .Ông được mệnh danh
là "phù thủy ngôn từ” đã khắc họa được nhiều bức tranh thiên nhiên sinh động, hấp
dẫn của vùng núi rừng vừa hùng vĩ, hiểm trở, vừa tuyệt vời thơ mộng ở phía Tây Bắc
của Tổ quốc. “Người lái đò sông Đà” (1960) là một tùy bút tiêu biểu cho phong cách
nghệ thuật của nhà văn.Đây là kết quả của chuyến đi gian khổ và hào hứng tới miền
Tây Bắc rộng lớn của Tổ quốc để tìm kiếm chất vàng của thiên nhiên và “thứ vàng
mười đã qua thử lửa" ở tâm hồn những con người lao động, chiến đấu trên miền núi
sông hùng vĩ và thơ mộng.Với tác phẩm này,tất cả những vẻ đẹp độc đáo, cuốn hút của
sông Đà được Nguyễn Tuân phơi bày, phóng bút kỳ công và tỉ mỉ. Nguyễn Tuân đã
dày công “tỉ mẩn” tô đậm sông Đà với vẻ đẹp hung bạo qua cảnh đá bờ sông, qua mặt
ghềnh Hát Loóng và đặc biệt là độ sâu của những cái hút nước. Qua đó, người đọc
thấy được góc nhìn độc đáo của tác giả Nguyễn Tuân.
Là nhà văn của những cảm giác phi thường, những phong cảnh tuyệt mỹ, núi cao, rừng
thông, sóng gió và thác ghềnh dữ dội, Nguyễn Tuân đã dùng những nét vẽ khoáng đạt
để tạo nên hình tượng sông Đà thật hung bạo. Đập vào mắt người đọc, Đà giang xuất
hiện ở đoạn trích thứ nhất với sự hung bạo mà ấn tượng đầu tiên chính là hình ảnh
vách đá thành sừng sững. Văn nhân khẳng định “Hùng vĩ của sông Đà không phải chỉ
có thác đá. Mà nó còn là những cảnh đá bờ sông dựng vách thành”. Sự dữ dằn nơi Đà
giang là sự cộng hưởng của nhiều yếu tố. Mà vách thành sông Đà là cảnh sừng sững án
ngữ trước mặt độc giả ngay lần dạo chơi đầu tiên. Nguyễn Tuân đã vận dụng tinh tế
“thành cao hào sâu” để mở ra ấn tượng nơi người đọc về vách thành kiên cố, vững
chắc, thâm nghiêm. Vách đá hiện lên như thành cao, sông Đà với vực thảm như hào
sâu hun hút. Tất cả bước đầu dần kéo người đọc vào trùng vây liên tưởng choáng
ngợp, hãi hùng. Chỉ hai chữ “vách thành” thôi văn nhân đã khắc tạc vào đó bao điều bí
hiểm của thành quách cổ xưa sự rình rập của những đợt hỗn chiến, tấn công. Chính bởi
thành trì ấy cao thăm thẳm, sâu hun hút mà “đúng ngọ mới có mặt trời”. Ánh nắng
chói chang soi chiếu vạn vật nhưng chỉ khi lên thiên đỉnh mới được le lói trên lòng
sông Đà. Cao, sâu thôi chưa đủ nhà văn còn muốn đưa người đọc đến sự hung bạo tột
cùng của cảnh đá bờ sông qua độ hẹp của sông Đà. Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân
hai bên bờ sông như đang xích lại gần nhau: “Có vách đá thành chẹt lòng sông Đà như
một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con
nai, con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia”. Độ hẹp lòng sông bị vách đá chèn ép
tới mức nghẹt thở..Động từ “chẹt” giúp người đọc cảm tưởng như vách thành đã lấn át
hết cả bờ sông ghê rợn, hãi hùng. Những chi tiết miêu tả tưởng chừng như bâng quơ
của cụ Nguyễn nhưng lại đem lại ấn tượng đậm nét hơn về độ hẹp nơi sông Đà. Chỉ
hành động đơn giản của nai hổ, cú ném nhẹ chơi đùa của con người lại là thước đo tài
tình hơn bất cứ con số chuẩn xác nào. Tất cả đã đem đến hình dung ban đầu về dòng
sông, quy tụ tất cả tính từ đo lường nguy hiểm nhất: cao thăm thẳm, sâu hun hút, hẹp
đến không thở nổi. Chính bởi lẽ này cảm giác của văn nhân khi chèo thuyền qua đây
mới thật thú vị: “ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng cảm thấy
lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ nào mà ngóng vọng lên một khung
cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”. Nguyễn Tuân đã tạo
ra ấn tượng về xúc giác phi lý ngày giữa mùa hè. Nhưng suy nghĩ cùng dòng cảm giác
này với Nguyễn, người ta mới thấy lạnh rợn tóc gáy, sởn gai ốc. Tuy nhiên cụ Nguyễn
đâu giống người thường, nguy hiểm mà vẫn dậm tô cho kì được thêm cảm giác hãi
hùng về độ cao rợn ngợp của vách đá sông Đà, qua từ ngữ không xác định “nào, mấy”,
qua độ hẹp của hè phố và sự phụt tắt bất thình lình của đèn điện làm thót tim người
quan sát khi đi vào khúc sông tối tăm này. Sông Đà hung bạo đã dần hiện ra trong trí
óc người đọc bao hãi hùng, sửng sốt.
Máy quay của người nghệ sĩ đã chuyển từ vách thành qua cái dữ dội ở mặt ghềnh Hát
Loóng: “dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió
gùn ghè suốt năm”. Ghềnh là nơi mặt sông đột ngột nâng cao lên mặt nước khiến cho
mục nước tại nơi đó cạn hơn so với những chỗ khác. Hình ảnh nước, đá ,sóng ,gió như
cuộn vào nhau xô vào nhau liên tiếp, dồn dập, dữ dội. Nguyễn Tuân đã đặt vào ba vế
câu ba điệp từ “xô” để cộng hưởng cho những đợt đánh liên hoàn dữ dội của sóng
nước thác đá. Bên cạnh đó tác giả còn sử dụng những biện pháp tu từ: liệt kê, điệp cấu
trúc câu kết hợp với các từ láy mới lạ: "cuồn cuộn", "ghùn ghè" tạo âm hưởng dữ dội
và có tác động mạnh mẽ tới người đọc, người nghe cho nên chúng ta có cảm giác như
nghe được âm thanh của sóng của gió như đang vần vũ trên dòng sông. Đặc biệt hơn là
hình ảnh vừa so sánh vừa nhân hóa “Như lúc nào cũng đòi nợ suýt người lái đò sông
Đà” đã gợi cho người đọc cảm giác hình ảnh Đà giang giận dữ, tức tối, hầm hè, hậm
hực như một người đi đòi nợ vô lý, vô cớ. Như vậy, qua đoạn văn trên tác giả giúp
người đọc thấy được hình ảnh” nước, đá, sóng, gió “sông Đà không còn là những vật
vô tri vô giác nữa mà có khuôn mặt tính cách tâm trạng như con người. Tất cả đều bộc
lộ sự giận dữ hung bạo của dòng sông và sẵn sàng nhấn chìm Người lái đò sông Đà
mỗi khi qua đây.
Dưới bàn tay ma thuật của văn sĩ, sông Đà hung bạo tiếp tục nghênh chiến với người
đọc qua đội quân hút nước dữ dằn. Trước hết, cái hút nước hiện ra trước mặt độc giả
qua hình ảnh so sánh: “cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu”
vừa gợi độ sâu, vừa gợi độ xoáy dữ dội của sông Đà. Nhưng cái tài hoa của văn nhân ở
việc sử dụng hình ảnh so sánh kết hợp nhân hóa “Nước ở đây thở và kêu như cửa
cống cái bị sặc”. Đây là hình ảnh so sánh, nhân hóa rất mới lạ nhưng cũng vô cùng độc
đáo bởi cách diễn tả thật táo bạo. Ở đây, cái hút nước được nhân hóa vừa biết thở, vừa
biết kêu giống như những con thủy quái sẵn sàng nuốt trọn con thuyền nào đi qua đây.
Đứng trước nhà ảo thuật ngôn từ, người ta dễ thấy cái cảm giác bất lực khi khó có thể
tìm thêm tính từ nào cho sự hung bạo ấy.”Vậy mà nhà văn tài hoa, uyên bác Nguyễn
Tuân vẫn lạnh lùng pha kích thích chĩa ống kính về cái bí ẩn, cái “ặc ặc” ghê rợn của
sông Đà.
Đi thuyền qua quãng sông này, Nguyễn Tuân đưa người đọc cùng vào chơi trò chơi
mạo hiểm qua hình dung về “ô tô sang số ấn ga…vút qua quãng đường mượn cạp ra
ngoài bờ vực”. Chưa bao giờ người đọc lại tưởng tượng thấy cảm giác đáng sợ của
đường sông rõ ràng như vậy qua cái hình dung về đường bộ. ”Những cái giếng sâu
nước ặc ặc như rót dầu sôi vào” giúp ta cảm nhận được cả hình ảnh lẫn âm thanh. Có
lúc nghe rờn rợn như tiếng rót dầu sôi, nhà văn đã miêu tả những hút nước ấy thật kinh
khủng, dữ dội , đầy nguy hiểm với người lái đò. Chèo thuyền men gần hút nước này
chắc chỉ người thích phiêu lưu như Nguyễn Tuân hay dũng cảm như ông lái đò mới
dám thử. Ghê sợ là vậy mà Nguyễn Tuân vẫn còn đủ sức hình dung: bè gỗ rừng bị lôi
tuột xuống, thuyền bị dìm cho tan xác trên sông Đà. Chiều kích trí tưởng tượng của
nhà văn mở rộng hết cỡ. Ông muốn cùng người đọc đi tới cái hung bạo đến tột cùng
của Đà giang.
Bằng con mắt của mình, ngôn ngữ tinh tế, chắt lọc, Nguyễn Tuân đã phần nào cho
người đọc thấy sự cuốn hút mà con sông Đà mang đến. Nhà văn đã dựng lên một thác
đá sông Đà sống động như những sinh vật có tâm địa nham hiểm, luôn rình rập con
người, tạo nên cá tính độc đáo khác biệt trong văn chương. Với cách nói kết hợp giữa
miêu tả và kể chuyện, đồng thời cài cắm những thủ pháp nhân hoá và so sánh một cách
khéo léo, Nguyễn Tuân đã đem đến cho người đọc cảm nhận về thế giới thiên nhiên
đầy hung bạo của con sông Đà. Qua đó, ta thấy rằng tác giả đã cung cấp những kiến
thức rất phong phú bằng khả năng quan sát kỹ lưỡng và chính xác, sử dụng ngôn từ
một cách điêu luyện, sinh động kết hợp với những liên tưởng độc đáo, mới mẻ của
mình.
Tóm lại, bằng một tình yêu thiên nhiên đất nước thiết tha, bằng tài năng của một nghệ
sĩ ngôn từ đích thực, Nguyễn Tuân đã đưa con sông Đà của Tổ quốc vào văn học.
Dưới cái nhìn độc đáo của mình, tác giả đã khéo léo mang đến cho người đọc thấy nét
tính cách hung bạo, dữ dội của sông Đà. Chỉ một đoạn sông ngắn mà qua lời văn của
ông, người đọc như đang chứng kiến một bộ phim tài liệu có hình ảnh sắc nét và chân
thực. Qua đó, ta thật khâm phục sự đầu tư nghiêm túc, công phu và tâm huyết cho
nghệ thuật của Nguyễn Tuân.
Trong xã hội nhộn nhịp và đầy biến động như ngày nay thì việc có những góc nhìn,
suy nghĩ tiêu cực là không thể tránh khỏi. Thế nhưng, mỗi chúng ta không nên để bản
thân lún sâu vào sự tiêu cực mà phải biết từ bỏ chúng. Trước hết, suy nghĩ tiêu cực
được hiểu là trạng thái tồi tệ của con người khiến ta cảm thấy lo lắng, bất an, căng
thẳng. Nó có thể bắt nguồn từ việc thất bại trong công việc, học tập hay sự mất mát
của những người xung quanh. Việc từ bỏ suy nghĩ tiêu cực đóng vai trò rất to lớn đối
với mỗi cá nhân. Bởi những suy nghĩ ấy có tác động, ảnh hưởng xấu tới con người về
cả thể xác lẫn tinh thần, dần dần khiến sức khỏe và chất lượng cuộc sống trở nên tồi tệ
hơn. Loại bỏ được những suy nghĩ tiêu cực giúp ta hình thành nên lối sống tích cực,
sống vui vẻ, cởi mở, hòa đồng hơn, tận hưởng được ý nghĩa đích thực của cuộc sống.
Hơn nữa, việc vượt qua sự lo âu căng thẳng chính là biểu hiện của con người có bản
lĩnh, biết đứng lên dũng cảm đối diện với khó khăn của mình. Những người như vậy sẽ
luôn được mọi người yêu quý, tin tưởng cũng như thành công trong cuộc sống. Tuy
nhiên, trong thực tế xã hội ngày nay, những vụ tự tử đầy thương tâm đều bắt nguồn từ
những suy nghĩ tiêu cực khiến con người ta lạc lối, đánh mất hi vọng trong cuộc sống.
Điều đó chứng minh rằng vẫn có nhiều người, đặc biệt là thế hệ trẻ, luôn sống tiêu cực
và giữ cho mình thái độ bi quan về cuộc đời, họ không biết cách từ bỏ những lo âu,
căng thẳng, thất vọng của mình với những thứ xung quanh. Vì thế, chúng ta hãy tuyên
truyền với mọi người rằng:" Cuộc sống chỉ đáng sống khi ta sống tích cực và hòa nhập
với mọi người".

You might also like