Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 14

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ VÀ NHÂN VĂN

TIỂU LUẬN
Môn: TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN

Đề tài: QUAN ĐIỂM DUY VẬT BIỆN CHỨNG VỀ MỐI QUAN HỆ


GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC VÀ VẬN DỤNG VÀO CÔNG CUỘC
ĐỔI MỚI NƯỚC TA

Sinh viên thực hiện : Nguyễn Hà Nhi


Mã sinh viên : 2314810060
Lớp : TRI114 - K62.7
GV hướng dẫn : T.S Nguyễn Thị Tùng Lâm
MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU..........................................................................................................................3
PHẦN NỘI DUNG...................................................................................................................4
Chương 1: Lý luận chung về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức........................................4
1.1 Vật chất quyết định ý thức...........................................................................................4
1.2 Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất........................................5
1.3 Ý nghĩa phương pháp luận..........................................................................................6
Chương 2: Vận dụng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức vào công cuộc đổi mới nước ta....6
2.1 Thực trạng nền kinh tế nước ta...................................................................................6
2.1.1 Trước giai đoạn đổi mới: Nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp………….....6

2.1.2 Trong và thời kỳ sau đổi mới: Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa 7

2.2 Vận dụng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức vào sự đổi mới.....................................9
KẾT LUẬN............................................................................................................................12
TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................................................14

2
LỜI MỞ ĐẦU

Theo bước chân của chủ tịch Hồ Chí Minh, đi lên xã hội chủ nghĩa là mục tiêu cách mạng quan
trọng của Đảng và nhân dân ta. Đại hội VI của Đảng ta lần đầu tiên đã khẳng định: “Chủ nghĩa Mác-
LêNin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam cho hoạt động của Đảng”. Những
thành tự trong công cuộc đổi mới trong thời gian qua đã và đang tạo ra một thế lực mới để nước ta
bước vào một thời kỳ phát triển mới. Nhiều tiền đề cần thiết về cuộc công nghiệp hóa và hiện đại hóa
đã được tạo ra, quan hệ giữa nước ta và các nước trên thế giới ngày càng được mở rộng. Khả năng
giữ vững độc lập trong hội nhập với cộng đồng thế giới được tăng thêm. Cách mạng khoa học và
công nghệ tiếp tục phát triển với trình độ ngày càng cao, thúc đẩy quá trình chuyển dịch kinh tế và đời
sống xã hội.

Các nước trên toàn thế giới đều có cơ hội phát triển. Tuy nhiên, do ưu thế công nghệ và thị
trường thuộc về các nước phát triển khiến cho các nước chậm phát triển hơn đứng trước một thách
thức to lớn. Nguy cơ tụt hậu ngày càng cao, mà điểm xuất phát của nước ta lại quá thấp, đi lên từ môi
trường cạnh tranh vô cùng quyết liệt.

Trước tình hình đó, cũng với xu thế phát triển thời đại, Đảng và Nhà Nước cần tiếp tục thúc
đẩy công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, đặc biệt đổi mới mới kinh tế đóng vai trò chủ đạo. Kể từ
đại hội VI, Đảng ta đã vận dụng quan điểm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất và ý
thức vào đường lối, chính sách đổi mới đất nước

Đến với đề tài tiểu luận “Quan điểm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
vào công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay” , với tư cách là một sinh viên, là một công dân của Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, em muốn tìm hiểu sâu hơn quan điểm duy vật biện chứng về mối
quan hệ giữa vật chất và ý thức, cũng phần nào muốn góp thêm chút công sức nhỏ bé của mình vào
sự nghiệp phát triển đổi mới của nước ta hiện nay, làm tài liệu tham khảo cho những ai có nhu cầu
nghiên cứu triết học trong vấn đề này.

3
PHẦN NỘI DUNG

Chương 1: Lý luận chung về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức.

Đây là vấn đề cơ bản, cốt lõi để phân biệt các trường phái triết học. Theo quan điểm triết
học Mác – Lênin, vật chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng, trong đó vật chất quyết định ý thức,
còn ý thức tác động tích cực trở lại vật chất.

1.1 Vật chất quyết định ý thức.

Trước hết, ta tìm hiểu vật chất là gì? Trong tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh
nghiệm phê phán”, V.I. Lênin đã đưa ra định nghĩa về vật chất như sau: “Vật chất là một phạm trù
triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác
của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”. Qua đó, trong nhận
thức luận, Lênin muốn khẳng định rằng vật chất quyết định nguồn gốc, nội dung, bản chất và sự vận
động, phát triển của ý thức.

Thứ nhất, vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức.

Dựa trên những thành tựu khoa học tự nhiên, chủ nghĩa duy vật biện chứng đã khẳng định giới tự
nhiên có trước con người; vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau; vật chất là tính thứ nhất, ý thức
là tính thứ hai. Con người do giới tự nhiên, vật chất sinh ra, cho nên lẽ tất nhiên, ý thức - một thuốc
tính của bộ óc con người – cũng do giới tự nhiên, vật chất sinh ra. Vật chất tồn tại khách quan, độc lập
với ý thức và là nguồn gốc sinh ra ý thức. Bộ óc người là một dạng vật chất có tổ chức cao nhất, là cơ
quan phản ánh để hình thành ý thức. Sự vận động của thế giới vật chất là yếu tố quyết định sự ra đời
của cái vật chất có tư duy là bộ óc người.

Thứ hai, vật chất quyết định nội dung của ý thức.

Dưới bất kỳ hình thức nào, ý thức đều là phản ánh hiện thực khách quan. Ý thức mà trong nội
dung của nó chẳng qua là kết quả của sự phản ánh hiện thực khách quan trong đầu óc con người. Có
thế giới hiện thực vận động, phát triển được phản ánh vào ý thức mới có nội dung của ý thức. Thế
giới khách quan, trước hết và chủ yếu là hoạt động thực tiễn có tính xã hội – lịch sử của loài người, là
yếu tố quyết định nội dung mà ý thức phản ánh. Ý thức chỉ là hình ảnh của thế giới khách quan.

Thứ ba, vật chất quyết định bản chất của ý thức.

Phản ánh và sáng tạo là hai thuộc tính không tách rời trong bản chất của ý thức. Nhưng sự phản
ánh của con người là sự phản ánh tích cực, tự giác, sáng tạo thông qua thực tiễn. Chính thực tiễn là
hoạt động vật chất có tính cải biến thế giới của con người, là cơ sở để hình thành phát triển ý thức,
trong đó ý thức con người vừa phản ánh, vừa sáng tạo, phản ánh để sáng tạo và sáng tạo trong phản
ánh.

4
Thứ tư, vật chất quyết định sự vận động, phát triển của ý thức.

Mọi sự tồn tại, phát triển của ý thức đều gắn liền với quá trình biến đổi của vật chất; vật chất thay
đổi thì sớm hay muộn, ý thức cũng thay đổi theo. Con người – một sinh vật có tính xã hội ngày càng
phát triển cả về mặt thể chất lẫn tinh thần, thì dĩ nhiên ý thức – một hình thức phản ánh của óc người
cũng phải phát triển về cả nội dung lẫn hình thức phản ánh. Đời sống xã hội ngày càng văn minh và
khoa học ngày càng phát triển đã chứng minh điều đó. Sự vận động, biến đổi không ngừng của thế
giới vật chất, của thực tiễn là yếu tố quyết định sự vận động, biến đổi của tư duy, ý thức của con
người.

Trong đời sống xã hội, vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức được biểu hiện ở vai trò của
kinh tế đối với chính trị, đời sống vật chất đối với đời sống tinh thần, tồn tại xã hội đối với ý thức xã
hội. Trong xã hội, sự phát triển của kinh tế xét đến cùng quy định sự phát triển của văn hóa; đời sống
vật chất thay đổi thì sớm muộn đời sống tinh thần cũng thay đổi.

1.2 Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất.

Điều này được thể hiện qua những khía cạnh sau:

Thứ nhất, tính độc lập tương đối của ý thức được thể hiện ở chỗ, ý thức là sự phản ánh thế giới
vật chất vào trong đầu óc con người, do vật chất sinh ra, nhưng khi đã ra đời thì ý thức có “đời sống”
riêng, có quy luật vận động phát triển riêng, không lệ thuộc máy móc vào vật chất. Ý thức có thể lạc
hậu hơn so với sự biến đổi của đối tượng trong thế giới vật chất. Song, ý thức cũng có thể vượt trước
so với sự biến đổi của đối tượng trong thế giới vật chất. Ý thức còn có khả năng kế thừa tri thức từ thế
hệ trước cho thế hệ sau.

Thứ hai, ý thức một khi ra đời nên có tính độc lập tương đối nên có sự tác động trở lại to lớn đối
với vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Nhờ hoạt động thực tiễn, ý thức có thể làm
biến đổi những điều kiện, hoàn cảnh vật chất, thậm chí còn tạo ra “thiên nhiên thứ hai” phục vụ cho
cuộc sống con người. Con người dựa trên những tri thức về thế giới khách quan, hiểu biết những quy
luật khách quan, từ đó đề ra mục tiêu phương hướng, biện pháp và ý chí quyết tâm để thực hiện thắng
lợi mục tiêu đã xác định. Đặc biệt là ý thức tiến bộ, cách mạng một khi thâm nhập vào quần chúng
nhân dân – lực lượng vật chất xã hội, thì có vai trò rất to lớn.

Ý thức tác động trở lại vật chất theo hai khuynh hướng: tích cực và tiêu cực. Vai trò của ý thức
thể hiện ở chỗ chỉ đạo hoạt động, hành động của con người; nó có thể quyết định làm cho hoạt động
của con người đúng hay sai, thành công hay thất bại. Khi phản ánh đúng hiện thực, ý thức có thể dự
báo, tiên đoán một cách chính xác cho hiện thực, có thể hình thành nên những lý luận định hướng
đúng đắn và những lý luận này được đưa vào quần chúng sẽ góp phần động viên, cổ vũ, khai thác

5
mọi tiềm năng sáng tạo, từ đó sức mạnh vật chất được nhân lên gấp bội. Ngược lại, ý thức có thể tác
động tiêu cực khi nó phản ánh sai lạc, xuyên tạc hiện thực.

Xã hội ngày càng phát triển thì vai trò của ý thức ngày càng to lớn, nhất là trong thời đại ngày
nay, thời đại thông tin, kinh tế tri thứ, thời đại của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại,
khi mà tri thức khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, vai
trò của tri thức khoa học, của tư tưởng chính trị, tư tưởng nhân văn là hết sức quan trọng.

1.3 Ý nghĩa phương pháp luận.

Từ “vật chất quyết định ý thức” rút ra phương pháp luận: tôn trọng khách quan, đòi hỏi con người
phải xuất phát từ thực tế khách quan, lấy thực tế khách quan làm căn cứ cho mọi hoạt động nhận thức
và thực tiễn của mình; không được lấy ý muốn chủ quan của mình làm chính sách; không được lấy
tình cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược và sách lược cách mạng. Nhìn chung, nhận thức cải tạo
sự vật, hiện tượng, phải xuất phát từ chính bản thân sự vật, hiện tượng đó với những thuộc tính, mối
liên hệ bên trong vốn có của nó.

Từ “ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất” rút ra phương pháp luận: biết phát
huy tính năng động, sáng tạo ý thức, phát huy vai trò của nhân tố con người, chống tư tưởng, thái độ
thụ động, ỷ lại, ngồi chờ, bảo thủ, trì trệ, thiếu tính sáng tạo; phải coi trọng vai trò của ý thức, coi trọng
công tác tư tưởng và giáo dục tư tưởng, coi trọng giáo dục lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh. Đồng thời, phải giáo dục và nâng cao trình độ tri thức khoa học, củng cố, bồi
dưỡng nhiệt tình, ý chí cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân nói chung, nhất là trong điều
kiện nền văn minh trí tuệ, kinh tế tri thức, toàn cầu hóa hiện nay; coi trọng việc giữ gìn, rèn luyện
phẩm chất đạo đức cho cán bộ, đảng viên, đảm bảo sự thống nhất giữa nhiệt tình cách mạng và tri
thức khoa học.

Chương 2: Vận dụng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức vào công cuộc đổi mới nước ta.

2.1 Thực trạng nền kinh tế nước ta

2.1.1 Trước giai đoạn đổi mới: Nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp.

Như chúng ta đã biết sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, nền kinh tế nước ta rơi
vào khủng hoảng. Cơ sở vật chất kỹ thuật yếu kém, cơ cấu kinh tế nhiều mặt hạn chế, năng suất lao
động thấp, sản xuất chỉ đảm bảo cho nhu cầu đời sống, sản xuất nông nghiệp chỉ cung cấp đủ thực
phẩm cho nhân dân, nguyên liệu cho công nghiệp, hàng hóa cho xuất khẩu. Mặt khác, nền kinh tế
miền Bắc còn bị chiến tranh phá hoại bằng không quân của đế quốc Mỹ tàn phá nặng nề. Ở miền
Nam, sau 20 năm chiến tranh, nền kinh tế bị đảo lộn và suy sụp, nông nghiệp nhiều vùng hoang hóa,
lạm phát trầm trọng.

6
Thời kỳ này, nhà nước quản lý nền kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính dựa trên hệ thống
chỉ tiêu pháp lệnh áp đặt từ trên xuống dưới. Các doanh nghiệp hoạt động trên cơ sở các quyết định
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các chỉ tiêu pháp lệnh được giao. Tổng sản phẩm trong nước
bình quân mỗi năm trong giai đoạn 1977 – 1985 tăng 4,65%; trong đó: nông, lâm nghiệp tăng
4,49%/năm; công nghiệp tăng 5,54%/năm và xây dựng tăng 2,18%/năm. Theo loại hình sở hữu, sở
hữu quốc doanh tăng 4,29%; sở hữu tập thể tăng 10,26% và sở hữu tư nhân, cá thể tăng 0,71%. Nhìn
chung, tăng trưởng kinh tế trong thời kỳ này thấp và kém hiệu quả. Nông, lâm nghiệp là ngành kinh
tế quan trọng, nhưng chủ yếu dựa vào độc canh trồng lúa nước. Công nghiệp được dồn lực đầu tư nên
có mức tăng khá hơn nông nghiệp, nhưng tỷ trọng trong toàn nền kinh tế còn thấp, chưa là động lực
để thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng.

Trong cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã có
nhiều cố gắng nghiên cứu, tìm tòi, xây dựng đường lối, xác định đúng mục tiêu và phương hướng xã
hội chủ nghĩa. Nhưng Đảng đã phạm sai lầm chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan: Nóng
vội trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, xóa bỏ ngay nền kinh tế nhiều thành phần: có thúc đẩy mạnh quá
trình xây dựng công việc nặng; duy trì quá lâu cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp, có nhiều
chủ trương sai trong việc cải cách giá cả, tiền tệ, tiền lương.

Tất nhiên, ngoài những khuyết điểm chủ quan nêu trên, còn có những nguyên nhân khách quan
như hậu quả của nhiều năm chiến tranh, bối cảnh quốc tế, . . . song chủ yếu là do chúng ta phạm sai
lầm chủ quan, những sai lầm cũng với trì trệ công tác tổ chức, cán bộ đã kìm hãm lực lượng sản xuấ
và triệt tiêu nhiều động lực phát triển.

2.1.2 Trong và thời kỳ sau đổi mới: Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Dấu mốc khởi đầu của công cuộc đổi mới chính sách kinh tế được bắt đầu từ Đại hội VI của Đảng
(tháng 12-1986) với đường lối đổi mới toàn diện đất nước, mà trước hết là “đổi mới về tư duy kinh
tế”, mở ra bước ngoặt quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế nước ta. Lần đầu tiên
Văn kiện Đại hội VI của Đảng chính thức ghi nhận sự tồn tại bình đẳng của các thành phần kinh tế:
"Cần sửa đổi, bổ sung và công bố rộng rãi chính sách nhất quán đối với các thành phần kinh tế.
Những quy định có tính nguyên tắc phải trở thành pháp luật để mọi người yên tâm, mạnh dạn kinh
doanh... phải thực hiện nguyên tắc bình đẳng. Những người làm ra của cải và những việc có ích cho
xã hội, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ, chấp hành nghiêm chỉnh luật pháp và chính sách đều được tôn
trọng, được hưởng thu nhập tương xứng với kết quả lao động, kinh doanh hợp pháp của họ".

Từ sau Đại hội VII của Đảng (tháng 6-1991), cùng với sự thừa nhận kinh tế thị trường là thành tựu
chung của văn minh nhân loại, nhận thức và chính sách phát triển kinh tế thị trường định hướng
XHCN của Việt Nam cũng ngày càng hoàn thiện và cụ thể hóa.

7
Với chủ đề "Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; phát huy sức mạnh toàn dân tộc
và dân chủ XHCN; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ
vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp
theo hướng hiện đại”, Đại hội XII của Đảng (tháng 1-2016) đã tập trung xây dựng các giải pháp nâng
cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Tiếp tục thực hiện
có hiệu quả 3 đột phá chiến lược (hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN; đổi mới
căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng
cao; xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ), cơ cấu lại tổng thể và đồng bộ nền kinh tế gắn với
đổi mới mô hình tăng trưởng; đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, chú trọng CNH, HĐH nông nghiệp,
nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới.

Với những chủ trương, đường lối đúng đắn, công cuộc đổi mới ở nước ta đã đạt được nhiều thành
tựu đáng khích lệ: khắc phục một bước quan trọng tình trạng khủng hoảng kinh tế xã hội,… khắc
phục được nhiều mặc đình đốn, suy thoái, tốc độ tăng trưởng khá trong bao năm qua. Lạm phát được
đẩy lùi từ 67% năm 1991 xuống 17,5% năm 1992 và còn 5,2% năm 1993. Tổng sản lượng lương
thực năm năm qua đã tăng 26% so với năm năm trước, tạo điều kiện cơ bản để ổn định đời sống nhân
dân, phát triển ngành nghề chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn, vấn đề lương thực
được giải quyết tốt. Sản xuất công nghiệp đạt nhịp độ tăng trưởng bình quân hàng năm 13,3% ( mức
kế hoạch là 7,5% - 8,5%). Quan hệ kinh tế đối ngoại mở rộng theo hướng đa dạng hóa và đa phương
hóa, thị trường xuất nhập khẩu được củng cố và mở rộng đầu tư vốn nước ngoài tăng mạnh … đảm
bảo nhập các loại vật tư thiết bị và hàng hóa đáp ứng nhu cầu của sản xuất và đời sống, góp phần cải
thiện cán cân thanh toán thương mại… Khoa học công nghệ có bước phát triển, đã tập trung nghiên
cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn trong sự nghiệp đổi mới và phát triển của nước ta, phục vụ cho
việc xây dựng một đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, lĩnh vực văn hóa – xã hội có nhiều
chuyển biến tích cực, đời sống nhân đan được cải thiện. Quốc phòng an ninh được giữ vững.

Thực tế trong những năm qua với những chính sách chương trình phát triển kinh tế chính trị xã
hội, chính sách ngoại giao hợp lý, chúng ta đã đạt được những bước tiến rất quan trọng, bình thường
hóa quan hệ với Mỹ, là thành viên của khối ASEAN ( Hiệp hội các nước Đông Nam Á), đặc biệt năm
1998 ta đã trở thành thành viên của khối APEC ( Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình
Dương)… Từ chỗ bị bao vây cấm vận, nay đã bình thường hóa được tất cả các nước lớn, có quan hệ
ngoại giao với 167 nước, quan hệ thương mại với 120 nước đồng thời cân bằng quan hệ với các nước
lớn, phát triển quan hệ tốt đẹp với các nước láng giềng khu vực. Điều đó có ý nghĩa to lớn trong việc
giữ vững môi trường hòa bình ổn định, là nền tảng xây dựng và bảo vệ tổ quốc.

8
2.2 Vận dụng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức vào sự đổi mới.

Qua những dẫn chứng trên, ta thấy rõ tác động qua lại giữa ý thức và vật chất, giữa kinh tế và
chính trị, nhờ có đường lối đổi mới, sản xuất phát triển, đời sống nhân dân nói chung được cải thiện,
mức khủng hoảng đã giảm bớt, do đó góp phần ổn định tình hình chính trị đất nước, góp phần vào
việc phát huy dân chủ trong xã hội.

Đảng và nước ta đã đi sâu nghiên cứu phân tích tình hình, lấy ý kiến của nhân dân và đặc biệt là
đổi mới tư duy về kinh tế. Đại hội Đảng lần VI đã rút ra kinh nghiệm lớn trong đó có: phải luôn luôn
xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hoạt động theo quy luật khách quan. Đảng đã đề ra đường lối đổi
mới, mở ra bước ngoặt trong sự việc xây dựng CNXH ở nước ta

Tại đại hội VI Đảng đã nghiêm khắc, tự phê bình, tìm ra đúng nguyên nhân khủng hoảng kinh
tế xã hội và đã đề ra nhiều phương hướng nhiệm vụ trong việc đổi mới, nhất là về kinh tế, thực hiện
chương trình kinh tế với 3 mục tiêu: lương thực – thực phẩm, hàng tiêu dùng, xuất khẩu, hình thành
nền kinh tế nhiều thành phần, thừa nhận kinh tế tư sản sản xuất hàng hóa và kinh tế tư bản tư nhân,
đổi mới cơ chế quản lý. Trong quá trình thực hiện nghị quyết của Đảng, những diễn biến quốc tế đã
ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế nước ta nhưng Đảng, nhà nước và nhân dân đã nỗ lực khắc phục
những khó khăn và tìm tòi khai phá ra đường lối đổi mới. Tại đại hội VII, ta đã đánh giá tình hình
kinh tế chính trị của nước ta sau hơn nhiều năm thực hiện đổi mới đã đạt được các bước tiến quan
trọng.

Qua các dẫn chứng trên, ta thấy sự tác động qua lại giữa vật chất và ý thức, giữa kinh tế và chính
trị, nhờ có đường lối đổi mới, nền kinh tế ngày càng phát triển, cuộc sống của người dân ngày càng
ổn định, góp phần to lớn trong việc phát huy dân chủ trong xã hội. Ngoài mặt tích cực còn có mặt tiêu
cực như: lạm phát vẫn còn cao, nhiều cơ sở đình đốn kéo dài, lao động thiếu việc làm tăng lên và
trong quản lý còn nhiều lúng túng sơ hở … đặc biệt đại hội cũng đã xác định “về quan hệ giữa đổi
mới kinh tế và chính trị phải tập trung sức đổi mới kinh tế đáp ứng được nhu cầu cấp bách của nhân
dân về việc làm, và các nhu cầu xã hội khác, xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật của CNXH, coi đó là
điều kiện quan trọng để tiến hành đổi mới trong lĩnh vực chính trị.”

Đảng Cộng Sản Việt Nam ngày càng vận dụng đúng đắn phương pháp luận duy vật biện chứng
về mối quan hệ vật chất và ý thức vào cuộc đổi mới, tiến hành đổi mới kinh tế trước để tạo điều kiện
đổi mới trong lĩnh vực chính trị. Đại hội VII, sau khi đã phân tích sâu sắc đặc điểm tình hình quốc tế
và trong nước đã đề ra mục tiêu tổng quát và các mục tiêu cụ thể, những phương châm chỉ đạo trong
năm năm 1991 – 1995, đặc biệt đáng chú ý là phương châm kết hợp động lực kinh tế và động lực
chính trị tinh thần, phương châm tiếp tục đổi mới toàn diện và đồng bộ đa công tác đổi mới vào chiều
sâu với bước đi vững chắc, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm đồng thời thúc đẩy mạnh mẽ việc đổi
mới lĩnh vực khác.

9
Trong báo cáo của Đảng về công cuộc đổi mới đã nhận xét: “nét nổi bật là trong Đảng đã có sự
đổi mới tư duy về kinh tế với tinh thần độc lập sáng tạo. Đảng ta cụ thể hóa và phát triển nghị quyết
đại hội VII, bước đầu hình thành hệ thống các quan điểm, nguyên tắc chỉ đạo sự nghiệp đổi mới ở
nước ta”.

Tác động của kinh tế với chính trị và xã hội, đối với công tác đối ngoại, quốc phòng, an ninh,…
đổi mới kinh tế nhưng các nhân tố chính trị xã hội, đối ngoại… cũng tác động tích cực trở lại đối với
kinh tế. Vận dụng đúng đắn các mối quan hệ biện chứng duy vật, tại đại hội nghị đại biểu toàn quốc
đã vạch ra những điểm yếu kém, vấn đề kinh tế như “nền kinh tế vẫn còn mang tính chất nông nghiệp
lạc hậu, công nghiệp nhỏ bé, kết cấu hạ tầng kém phát triển, kinh tế tuy tăng trưởng khá nhưng năng
suất chất lượng hiệu quả còn kém …” và vẫn còn những tồn tại về mặt văn hóa, xã hội … để có
những thay đổi tốt hơn, Đảng đã đề ra những nhiệm vụ chủ yếu thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh
tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chăm lo đến các vấn đề văn hóa xã hội, đảm bảo an
ninh – quốc phòng, xây dựng nhà nước văn hóa của dân, do dân và vì dân, đổi mới chỉnh đốn Đảng
và củng cố mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân.

Sau đại hội TƯ Đảng (khóa VII) ra nghị quyết phát triển công nghiệp mới đến 2000 theo hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Cải cách nền hành chính nhà nước với nội dung của hội nghị
TƯ lần thứ VIII, có thể coi đã cụ thể hóa một bước cương lĩnh và chiến lược phát triển khoa học xã
hội mà đại hội VIII đã thông qua.

Với thành công trong những năm qua, ta thấy đường lối và chính sách của Đảng và Nhà Nước là
hoàn toàn đúng đắn phù hợp với nền kinh tế thị trường mà trước đây ta đã phủ nhận để hướng tới
CNXH bỏ qua CNTB. Đảng đã phạm sai lầm đó là vội cải tạo CNXH xóa bỏ nền kinh tế nhiều thành
phần duy trì lâu cơ chế quản lý quan liêu bao cấp. Có nhiều sai sót về việc quản lý tiền tệ cũng như
quản lý về giai cấp lãnh đạo. Nước ta đã nghiên cứu các mặt mạnh và hạn chế của CNTB để tận dụng
một cách tổng hợp vào tình hình kinh tế xã hội nước ta hiện nay, để đưa Việt Nam theo hướng phát
triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Các bước phát triển kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và
công bằng xã hội.

Trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm 2001 – 2010 của Đảng ta đã khẳng định: con
đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá của nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian so với các nước đi
trước, vừa có những bước tuần tự vừa có những bước nhảy vọt. Phát huy những lợi thế của đất nước,
tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và công
nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến hơn những thành
tựu mới về khoa học và công nghệ, bảo đảm cho khoa học và công nghệ thật sự trở thành lực lượng
sản xuất trực tiếp và động lực chủ yếu trong phát triển kinh tế – xã hội, khắc phục nguy cơ tụt hậu về
khoa học và công nghệ. Trong thời đại cách mạng thông tin hiện nay, chúng ta không có sự lựa chọn
nào khác là phải tiếp cận nhanh chóng với tri thức và công nghệ mới của thời đại để từng bước phát

10
triển kinh tế trí thức. Phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của người Việt Nam, coi phát
triển giáo dục và đào tạo là nền tảng và động lực của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Bởi
nhân tố con người đóng vai trò hết sức quan trọng trong sự phát triển lực lượng sản xuất.

Công cuộc đổi mới ở Việt Nam ngày càng đúng đắn, chính vì Đảng ngày càng nắm vững và
vận dụng đúng đắn phương pháp luận triết học toàn diện Mác – Lênin. Mối quan hệ kinh tế biện
chứng giữa kinh tế và chính trị ngày càng rõ nét, đơn cử từ việc thiếu ăn bây giờ Việt Nam trở thành
nước thứ 3 xuất khẩu gạo trên thế giới. Lòng tin của nhân dân ngày càng tăng cao. Ngoài ra còn tăng
trưởng về tổng sản phẩm quốc dân, về tốc độ thu hút vốn đầu từ nước ngoài về xuất khẩu…

Tóm lại, với những thành tựu đã đạt được trong thời gian qua chúng ta hoàn toàn có cơ sở khẳng
định công cuộc đổi mới mà Đảng và nhân dân ta đang thực hiện là hoàn toàn đúng đắn và phù hợp
với thực tế đất nước.

11
KẾT LUẬN

Đổi mới là khó khăn nhưng nhờ có chính sách và đường lối đúng đắn và có sự tìm tòi học hỏi từ
nền kinh tế tư bản của nhiều nước, cùng các diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, những biến
động nhiều mặt của đất nước càng đòi hỏi lòng kiên trì, giữ vững lòng tin, quyết tâm khắc phục khó
khăn để thích ứng kịp thời với sự biến đổi từng ngày từng giờ

Từ lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và từ kinh nghiệm thành công và thất bại trong quá trình
lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã rút ra bài học quan trọng là: “Mọi đường lối, chủ
trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan”.

Đất nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đảng chủ trương:
“huy động ngày càng cao mọi nguồn lực cả trong và ngoài nước, đặc biệt là nguồn lực của dân vào
công cuộc phát triển đất nước.”, muốn vậy phải “nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra
khỏi tình trạng kém phát triển, thực hiện “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh.”

Chúng ta chỉ có thể tiến lên chủ nghĩa xã hội nếu như: Mọi đường lối, chính sách, phương hướng
mục tiêu đề ra, hoạch định ra phải được xuất phát từ thực tế điều kiện nước nhà. Đồng thời, chúng ta
cũng cần tránh tư tưởng chủ quan duy ý chí, nóng vội trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Một điều hết sức quan trọng đó là làm sao để vừa xây dựng nền kinh tế có sự tham gia của các thành
phần kinh tư bản lại vừa tránh được nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Đây cũng là một vấn đề
cấp thiết mà Đảng và nhà nước ta cần có phương hướng đi sao cho phù hợp.

Người cán bộ kinh tế phải quán triệt sâu sắc vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh là phải nghiên cứu đề xuất và áp dụng đúng đắn các chủ trương và chính sách
kinh tế để đưa nền kinh tế nước ta vượt qua tình trạng nghèo đói và kém phát triển, tránh khỏi nguy
cơ tụt hậu so với kinh tế thế giới. Trong việc xóa bỏ quan liêu bao cấp nghĩa là đòi hỏi người làm
công tác quản lý phải sáng tạo, năng động nắm bắt được thực tế để vận dụng và phát triển nó. Từ kinh
nghiệm thực tế chỉ cần không nhận định đúng một vấn đề, một chủ trương, một thông tin, một từ ngữ
trong bản hợp đồng kinh tế, một hành động chậm trễ hay vội vã là có thể lớn về nền kinh tế. Ngược
lại nếu biết nắm bắt kịp thời một thông tin dù nhỏ vẫn có thể dẫn tới một thắng lợi lớn. Nên sự kết
hợp giữa thực tế khách quan và phát huy nỗ lực chủ quan, kết hợp giữa tình cảm và trí tuệ phải thật
nhuần nhuyễn, các bộ quản lý phải có phẩm chất tốt đẹp, phải trung thực, chính xác kịp thời, phải biết
nắm bắt và đề ra giải pháp cho mọi tình huống.

Quán triệt phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng
thành thạo phép duy vật biện chứng vào việc nghiên cứu và quản lý kinh tế, phát huy mạnh mẽ hơn
nữa mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị trong công cuộc đổi mới nhằm tăng trưởng nền

12
kinh tế quốc dân, nhất định chúng ta sẽ trở thành cán bộ quản lý kinh tế tốt, góp phần xứng đáng vào
công cuộc đổi mới kinh tế đất nước, tạo điều kiện cho nền kinh tế Việt Nam cất cánh, để từ đó nâng
cao hơn nữa vị trí của Việt Nam trên chính trường quốc tế, góp phần củng cố hơn nữa sự ổn định về
chính trị đất nước.

13
TÀI LIỆU THAM KHẢO

- Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2016
- C.Mác và Ph. Ăng ghen: Toàn tập, t.20, phần Biện chứng của tự nhiên, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2002
- Triết học Mác - Lênin, Những vấn đề lý luận cơ bản, Nxb Văn hóa- Thông tin, Hà Nội 2014
- GS,TS, Nguyễn Phú Trọng (Chủ biên) 2011, Về các mối quan hệ lớn cần được giải quyết tốt
trong quá trình đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb CTQG, HN.

14

You might also like