Professional Documents
Culture Documents
Liệu Pháp Tế Bào Gốc
Liệu Pháp Tế Bào Gốc
Liệu Pháp Tế Bào Gốc
Tuy nhiên, trong cơ thể chúng ta, mỗi ngày có khoảng 50 tỷ tế bào trong tổng số khoảng 10.000
tỷ tế bào chết đi. Để duy trì sự cân bằng, một lượng tế bào tương đương như vậy cũng sẽ được
tăng sinh và thay thế. Do đó, tế bào gốc trong cơ thể cũng luôn hoạt động. Sự hoạt động của tế
bào gốc khiến quá trình phân bào cũng được thực hiện với cơ chế tương tự tế bào ung thư. Điều
này vô tình nằm trong tầm tác động của các hóa chất hoặc tác nhân tia xạ khiến tế bào gốc trong
cơ thể bị tổn thương trầm trọng. Điều khiến chúng ta dễ dàng quan sát là các bệnh nhân ung thư
thường bị rụng hết lông tóc. Lý do là tóc là bộ phận thường xuyên tăng độ dài, nghĩa là các tế
bào gốc của tóc đang hoạt động rất tốt. Vì mức độ tăng sinh của nang lông nhanh gần giống tế
bào ung thư nên sẽ bị tổn thương nhanh hơn và làm tóc rụng sớm trong suốt quá trình điều trị.
Không chỉ vậy, các dữ liệu nghiên cứu cũng cho thấy tế bào chức năng cũng bị ảnh hưởng không
nhỏ. Như vậy, việc sử dụng liệu pháp điều trị ung thư này ngoài tác dụng tiêu diệt tế bào ung thư
thì cũng vô tình tiêu diệt các tế bào gốc “hiền lành” khác trong cơ thể cùng với nhiều loại tế bào
khác.
Ở trường hợp này, sau các liệu pháp xạ trị/hóa trị kết thúc, cơ thể người bệnh sẽ bị suy giảm tế
bào trầm trọng, khi đó, cấy ghép tế bào gốc sẽ giúp cơ thể được bổ sung thêm một nguồn tế bào
gốc mới để thúc đẩy quá trình phục hồi cơ thể. Ở bệnh nhân ung thư máu, sau khi người bệnh
được điều trị để loại bỏ tế bào ung thư thì tủy xương cũng bị tiêu diệt gần hết các tế bào máu.
Do đó, việc truyền tế bào gốc tạo máu sau điều trị là một liệu pháp để phục hồi lại hệ tuần hoàn
của cơ thể.
Trong cơ thể chúng ta có một số loại tế bào miễn dịch và mỗi loại tế bào miễn dịch có vai trò
khác nhau trong hệ thống miễn dịch. Nhìn chung, hệ thống miễn dịch có hai cơ chế chính, được
gọi là hệ thống miễn dịch bẩm sinh và hệ thống miễn dịch thích nghi, để loại bỏ virus, vi khuẩn
và các cơ chế khác. Đặc điểm của hệ thống miễn dịch bẩm sinh là nhận biết mầm bệnh để đáp
ứng miễn dịch ngay lập tức theo cách không đặc hiệu. Mặt khác, đặc điểm của hệ thống miễn
dịch thích nghi là có phản ứng đặc hiệu với kháng nguyên sau khi được kích hoạt bởi phản ứng
bẩm sinh. Liên quan đến các cơ chế trên, liệu pháp tế bào miễn dịch cũng có hai loại điều trị, đó
là liệu pháp đặc hiệu với kháng nguyên và liệu pháp không đặc hiệu với kháng nguyên.
Liệu pháp tế bào miễn dịch là một phương pháp cực kỳ hứa hẹn để điều trị nhiều bệnh có thành
phần miễn dịch bao gồm ung thư, bệnh tự miễn và viêm mãn tính. Trong nhiều liệu pháp tế bào
miễn dịch, các quần thể tế bào cụ thể được phân lập khỏi các tế bào máu, biến đổi gene, kích
hoạt và tăng sinh đến số lượng lớn cần thiết để điều trị cho bệnh nhân. Tế bào T, tế bào NK, tế
bào T điều hòa (tế bào Treg) hoặc tế bào đuôi gai có thể được chuyển hướng để tấn công các
khối u hoặc khuếch đại phản ứng miễn dịch cục bộ. Chức năng ức chế miễn dịch của tế bào Treg
cho phép các liệu pháp nhắm mục tiêu cụ thể vào hệ thống miễn dịch hoạt động quá mức, chẳng
hạn như bệnh tự miễn.
Như vậy, tế bào miễn dịch là các tế bào vốn được tạo ra đã có chức năng cụ thể. Một trong
những mục tiêu đó là tấn công các tế bào ung thư, một đặc tính khác so với tế bào gốc (có khả
năng tự làm mới, tăng sinh số lượng lớn và biệt hóa thành tế bào chức năng).
Ngoài ra, tôi cũng cần lưu ý thêm một nguy cơ về việc cấy ghép tế bào gốc trong thời gian điều
trị bệnh. Các bằng chứng nghiên cứu hiện nay cho thấy tính “hai mặt” của việc tiêm tế bào gốc
trung mô (MSC) trong thời gian điều trị ung thư. Một mặt có một số nghiên cứu cho thấy có thể
sử dụng tế bào gốc trung mô như một chất mang để đưa thuốc đến tế bào ung thư, tiêu diệt tế bào
ung thư nhanh và chính xác hơn1. Nhưng cũng đồng thời có các nghiên cứu cho thấy, việc cấy
ghép tế bào gốc, đặc biệt là tế bào gốc trung mô (MSC) cho bệnh nhân đang ung thư được báo
cáo có thể gây bất lợi lớn cho bệnh nhân bởi vì MSC tham gia vào quá trình khởi đầu, phát triển,
tiến triển và di căn của bệnh ung thư2. Hơn nữa, vì MSC có đặc tính bị hấp dẫn bởi các khối u
tức là ở đâu có tế bào ung thư, MSC sẽ dễ dàng tìm đến hơn. Tại đây, chúng có thể tiết ra các yếu
tố kích thích sự phát triển mạnh mẽ của khối u và hỗ trợ sự di căn của tế bào. Sự có mặt của
MSC cũng tạo điều kiện thuận lợi cho việc trốn tránh sự giám sát miễn dịch của tế bào ung thư
khiến ung thư bùng phát dữ dội hơn.
Vẫn cần thêm nhiều bằng chứng xác quyết hơn về việc sử dụng tế bào gốc trong điều trị ung thư.
Do đó, cần rất thận trọng khi sử dụng tế bào gốc trong thời gian điều trị bệnh ung thư, tránh tự ý
nghe các quảng cáo đồn đại để “tiền mất tật mang”.
----------
999 từ