Professional Documents
Culture Documents
Chương 1. VBTS
Chương 1. VBTS
Chương 1. VBTS
VĂN BẢN TỰ SỰ
(1)
Trích Lão Hạc - Nam Cao, Ngữ văn 8 - tập 1, Nxb Giáo dục, 2003.
(2) Theo Phép màu nhiệm của đời, Nxb Trẻ, 2004.
8
Hoạ sĩ cũng đặt câu hỏi tương tự với cô gái và được trả lời: “Tình yêu là điều đẹp
nhất trần gian, bởi tình yêu làm cho cay đắng trở nên ngọt ngào, mang đến nụ cười cho
kẻ khóc than, làm cho điều bé nhỏ trở nên cao trọng, cuộc sống sẽ nhàm chán biết bao
nếu không có tình yêu”.
Cuối cùng hoạ sĩ gặp một người lính mới từ trận mạc trở về. Được hỏi, người lính
trả lời: "Hoà bình là cái đẹp nhất trần gian, ở đâu có hoà bình ở đó có cái đẹp". Và hoạ
sĩ tự hỏi mình: "Làm sao tôi có thể vẽ cùng lúc niềm tin, hoà bình và tình yêu?".
... Khi trở về nhà, ông nhận ra niềm tin trong ánh mắt các con, tình yêu trong cái
hôn của người vợ. Chính những điều đó làm tâm hồn ông tràn ngập hạnh phúc và bình
an. Hoạ sĩ đã hiểu thế nào là điều đẹp nhất trần gian. Sau khi hoàn thành tác phẩm, ông
đặt tên cho nó là: “Gia đình”.
Thật vậy, gia đình là nơi đầy ắp tiếng cười của trẻ thơ, tiếng hát của người mẹ và
sức mạnh của người cha. Nơi đó có hơi ấm của những con tim biết yêu, là ánh sáng của
đôi mắt tràn đầy hạnh phúc, là sự ân cần, là lòng chung thuỷ. Gia đình là ngôi thánh
đường đầu tiên cho tuổi thơ học những điều hay lẽ phải, niềm tin và lí tưởng sống.
- Đó là nơi chúng ta tìm về để được an ủi, nâng đỡ.
- Đó là nơi những món ăn đơn sơ cũng là mĩ vị.
- Đó là nơi tiền bạc không quỷ bằng tình yêu.
- Đó là nơi ngay cả nước sôi cũng reo lên niềm vui hạnh phúc.
1.2. Đặc điểm của văn bản tự sự
- Có chuyện để kể: hai yếu tố tạo nên câu chuyện là sự việc có diễn biến (mà phần
cốt lõi nhất là cốt truyện) và ý nghĩa (điều muốn nói qua sự việc được kể lại). Sự việc có
diễn biến là các sự kiện, tình tiết, chi tiết, nhân vật có quan hệ với nhau tạo nên sự phát
triển liên tục từ khi bắt đầu đến khi kết thúc câu chuyện.
Sự việc có diễn biến tạo nên phần xác của câu chuyện, muốn câu chuyện sống
được trong lòng độc giả nó phải có phần hồn, chứa đựng một ý nghĩa nào đó, gửi gắm tới
độc giả những thông điệp về một lý tưởng xã hội thẩm mỹ
Chú ý: trong thực tế có những chuyện không có cốt truyện nhưng vẫn có ý nghĩa
(Hai đứa trẻ, Tỏa nhị kiều). Vì vậy, dù có chuyện hay không có chuyện những gì ta kể
phải có ý nghĩa.
9
- Có nhân vật, tình huống, chi tiết: tạo nên sự việc có diễn biến trong câu chuyện là
các nhân vật và hành trạng (công việc làm của nhân vật). Thiên truyện Dế Mèn Phiêu Lưu
Ký của Tô Hoài bao gồm nhiều nhân vật Dế Mèn, Dế Trũi Võ Sĩ Bọ Ngựa, Xiến tóc,
Châu Chấu Voi, trong đó Mèn và Trũi là các nhân vật chính. Cuộc đời của Mèn từ khi bé
đến lúc lớn, cuộc ngao du thiên hạ của Mèn và Trũi trải qua nhiều cảnh ngộ khác nhau,
gặp nhiều loại nhân vật khác nhau đã tạo nên diễn biến đầy hấp dẫn trong tác phẩm
Đứng ở những góc độ khác nhau người ta có thể phân chia nhân vật trong truyện
thành những loại khác nhau, chẳng hạn nhân vật chính - nhân vật phụ; nhân vật chính
diện - nhân vật phản diện; nhân vật tự sự - nhân vật trữ tình; nhân vật điển hình - nhân vật
không điển hình. Nhân vật trong tác phẩm bao giờ cũng là trung tâm của các sự kiện, biến
cố.
- Cốt truyện:
Trong tác phẩm truyện truyền thống, cốt truyện thường được xem là hình thức tổ
chức cơ bản của truyện, nó bao gồm các giai đoạn phát triển chính, các sự kiện và hành
động chính của tác phẩm truyện.
Về quy mô, cốt truyện có thể chỉ gồm một tuyến sự kiện (còn gọi là cốt truyện
“đơn tuyến”). Ví dụ: truyện cổ tích Cây khế, truyện ngắn Mất cái ví của Nguyễn Công
Hoan,... đều chỉ có một tuyến sự kiện.
Cốt truyện cũng có thể được xây dựng với nhiều tuyến sự kiện (còn gọi là cốt
truyện “đa tuyến”). Trong Những người khốn khổ của V. Huygô, bên cạnh tuyến cốt
truyện chính về Giăngvangiăng, còn có các tuyến sự kiện về Făngtin, Côzét, Mariúyt,
Tênacđie; Chiến tranh và hòa bình của L. Tônxtôi; Đất vỡ hoang của M. Sôlôkhôp; Cửa
biển của Nguyên Hồng, Vỡ bờ của Nguyền Đình Thi,... đều là những tác phẩm có cốt
truyện đa tuyến.
Về thành phần, một cốt truyện đầy đủ thường có: trình bày, thắt nút, phát triển,
đỉnh điểm, mở nút, và đôi khi có thêm “vĩ thanh”.
Phần trình bày có nhiệm vụ giới thiệu hoàn cảnh xã hội, nhân vật chính. Ví dụ:
trong Truyện Kiều, tác giả giới thiệu “năm Gia Tĩnh triều Minh”, nhà Viên ngoại họ
Vương, chị em Thúy Kiều.
Phần thắt nút thường bắt đầu bằng một hành động, sự kiện làm nảy sinh xung đột.
10
Trong Truyện Kiều, việc Thúy Kiều trong ngày hội đạp thanh gặp Kim Trọng rồi “gặp”
Đạm Tiên, có thể xem là thắt nút (với một câu hỏi ám ảnh tâm trí Thúy Kiều và tâm trí
người đọc: “Trăm năm biết có duyên gì hay không?”).
Phần phát triển là sự triển khai toàn bộ các sự kiện, quan hệ, mâu thuẫn. Qua đó,
nhân vật sẽ được đặt trong nhiều tình huống cảnh ngộ khác nhau. Trong Truyện Kiều,
phần này được triển khai bằng hàng loạt tình tiết: Kim - Kiều tương tư, đính ước thề bồi,
Kim Trọng về Liễu Dương hộ tang chú, gia đình Kiều mắc oan, nàng phải bán mình, nếm
trải mười lăm năm “đoạn trường”...
Ở phần đỉnh điểm mâu thuẫn, xung đột được đẩy tới đỉnh cao. Nhân vật được đặt
trong tình trạng căng thẳng, khi phải đối mặt với một sự lựa chọn, một quyết định hệ
trọng đặc biệt. Trong Truyện Kiều, đỉnh điểm là lúc Từ Hải chết, Kiều phải hầu đàn Hồ
Tôn Hiến, rồi bị gả cho thổ quan, nàng buộc phải lựa chọn cái chết ở sông Tiền Đường.
Phần mở nút trình bày kết quả của xung đột, xóa bỏ xung đột.
Trong Truyện Kiều, các sự kiện từ sau khi Kiều tự tử cho đến cảnh đoàn viên chính
là mở nút. Còn đoạn tổng kết về số phận con người và lời tâm sự của Nguyễn Du về câu
chuyện được kể có thể xem là đoạn “vĩ thanh”.
- Bất cứ truyện nào cũng được xây dựng trên những tình huống và chi tiết. Các tình
huống và chi tiết là da và thịt đắp lên bộ xương là cốt truyện. Chi tiết trong truyện thường
bao gồm nhiều loại: chân dung, ngoại hình, nội tâm, tâm lí nhân vật (ý nghĩ, cảm xúc,
trạng thái lo sợ, buồn rầu, vui mừng,…).
Ví dụ:
Nguyễn Du dành hàng loạt chi tiết giới thiệu tên họ, lai lịch, tuổi tác, hình dáng,
điệu bộ của Mã Giám Sinh: “Hỏi tên, rằng: Mã Giám sinh/ Hỏi quê, rằng: Huyện Lâm
Thanh cũng gần/ Quá niên trạc ngoại tứ tuần/ Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao/
Trước thầy sau tớ xôn xao,...”; hàng loạt chi tiết về cử chỉ hành vi của Mã trong quá trình
mua Kiều: nào “ghế trên ngồi tót sỗ sàng”, nào “Ép cung cầm nguyệt thử bài quạt thơ”,
nào “Cò kè bớt một thêm hai/ Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm”,...
Chi tiết hành động của Sở Khanh: Rẽ song đã thấy Sở Khanh lẻn vào
Chi tiết ngoại hình của Chí Phèo:
Chi tiết về phong cảnh thiên nhiên, về các đồ dùng sinh hoạt hay những chi tiết
11
tưởng tượng không có thật trong đời sống như con rồng khung cảnh thiên nhiên thiên
đường hoặc địa ngục…
Tình huống trong truyện cũng bao gồm nhiều loại: có tình huống tạo sự xung đột
gay gắt. Ví dụ, tình huống tức nước vỡ bờ trong Tắt đèn: chị Dậu bị xô đấy đến bước
đường cùng: chồng ốm, mùa sưu thuế đến, nhà không có gạo ăn; chị tần tảo ngược xuôi lo
được suất sưu của chồng thì lại xuất hiện suất sưu của anh Hợi, em anh Dậu đã chết….
Có tình huống tạo sự tương phản làm nổi bật tính cách nhân vật (Cuộc gặp gỡ giữ
Huấn Cao và viên quản ngục) hoặc hoàn cảnh xã hội (tình huống bán con, bán choc của
chị Dậu làm nổi bật sự đểu cáng, tàn nhẫn của vợ chồng Nghị Quế)
- Dựa trên một cách kể chuyện nhất định: cách kể chuyện do nhiều yếu tố tạo nên
cách sắp xếp câu chuyện cách mở đầu thắt nút cách lựa chọn ngôi kể giọng kể lựa chọn
chi tiết 2 tình huống hay
- Lời kể chuyện: đó là việc sử dụng ngôn từ một cách có nghệ thuật của người kể
để dựng lại câu chuyện (sự kiện, nhân vật…) để gửi gắm tình cảm cách nhìn cách nghĩ
của mình đối với những sự kiện nhân vật trong truyện.
- VBTS rất giàu các hình thức ngôn ngữ và thường kết hợp hài hòa, linh hoạt các
hình thức văn bản khác (miêu tả, biểu cảm, nghị luận,...). Trong VBTS có ngôn ngữ
người kể chuyện (trần thuật), ngôn ngữ nhân vật; có lời đối thoại, độc thoại nội tâm;
người kể chuyện có thể kể bằng lời khách quan “bên ngoài”, hay kể bằng “tiếng nói bên
trong”, bằng lời nhập vai,... Tóm lại, có thể nói, ngôn ngữ tự sự được tết dệt nên bởi vô
vàn lời nói, cách nói, giọng nói khác nhau.
Tuy vậy, như trên đã nói, trong các thành phần ngôn ngữ, lời kể, lời miêu tả của
người kể chuyện vẫn luôn luôn là thành phần quan trọng nhất. Đằng sau lời kể, lời miêu
tả luôn ẩn, hiện một chủ thể kể, tả nhất định. Đó là hình tượng người kể chuyện (dưới
dạng “lộ mình” hay hàm ẩn). Khi cần, người kể chuyện có thể sử dụng các phương thức
miêu tả (văn miêu tả), biểu cảm (văn biểu cảm), nghị luận (văn nghị luận),... để tăng sức
mạnh tạo hình, khắc họa nhân vật, sự kiện, tâm trạng mà mình đang kể lại.
12
13