(HS 12. HC) Bai Thu Hoach

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 9

MỤC LỤC

1. Tóm tắt nội dung vụ án..............................................................................................1


2. Dự kiến kế hoạch hỏi của Luật sư (Tham gia với tư cách là người bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp cho bà Nguyễn Thị Tuyết)...............................................................3
3. Dự kiến kế hoạch hỏi của Hội thẩm nhân dân (Theo vai diễn)..............................4
4. Luận cứ bảo vệ của Luật sư (khi tham gia với tư cách là người bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp cho bà Nguyễn Thị Tuyết)....................................................................5

0
1. Tóm tắt nội dung vụ án
1.1. Tóm tắt nội dung:
Thời gian Tình tiết
23/12/2013 Đoàn kiểm tra của Thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh
GL tiến hành kiểm tra cơ sở kinh doanh nhà trọ của bà Nguyễn Thị
Tuyết (GCN đăng ký kinh doanh số 39A 8005684) tại số 241
đường Lê Lai, thành phố P, tỉnh G.L, phát hiện được: ông Thường
và bà Lành đang quan hệ tình dục tại phòng số 11 (không có Giấy
đăng ký kết hôn); ông Văn và bà Thùy đang xem tivi tại phòng 09
(đang ở chung phòng, không có Giấy đăng ký kết hôn); không vào
sổ bà Lành.
Đoàn kiểm tra đã lập Biên bản vi phạm hành chính trong hoạt động
văn hóa, thể thao và du lịch số 11/BB-VPHC với hành vi “chủ cơ
sở kinh doanh nhà trọ thiếu trách nhiệm để xảy ra hành vi vi phạm
như trên.”
09/03/2014 các bên đã có buổi làm việc đối với hành vi vi phạm trong hoạt
động kinh doanh quán trọ bình dân, ghi nhận tại Biên bản làm việc
với đương sự vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn hóa, thể thao
và du lịch số 11/BB-LV.

10/3/2014 Ông Trần Ngọc Minh (Phó Giám đốc kiêm Chánh thanh tra Sở Văn
hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh G.L) đã ban hành Quyết định xử lý vi
phạm trong lĩnh vực hoạt động văn hóa, thể thao và du lịch số
23/QĐ-XP đối với cơ sở kinh doanh nhà trọ của bà tại số 241
đường Lê Lai, thành phố P, tỉnh G.L với mức phạt 15.000.000 đồng
với lý do “đã có hành vi vi phạm hành chính: thiếu tinh thần trách
nhiệm tạo điều kiện cho người khác lợi dụng cơ sở kinh doanh có
điều kiện về an ninh, trật tự để tổ chức hoạt động mại dâm (Áp
dụng khoản 1 Điều 25 Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12 tháng
11 năm 2013 của Chính Phủ)".
18/03/2014 Thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh GL ban hành Công
văn chỉnh sửa Quyết định xử lý vi phạm trong lĩnh vực hoạt động
văn hóa, thể thao và du lịch số 23/QĐ-XP
24/03/2014 Bà Tuyết đã làm đơn khiếu nại gửi tới Sở Văn hóa - Thể thao và
Du lịch tỉnh G.L về Quyết định số 23/QĐ-XP ngày 10/03/2014 của
Chánh thanh tra Sở văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh G.L.
27/03/2014 Sở Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch tỉnh G.L ra thông báo số
01/TB-TTr về việc thụ lý giải quyết khiếu nại và Biên bản số
01/BB-TTr về việc gặp gỡ đối thoại giữa các bên
07/04/2014 Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ra Công văn số 167/CV-
VHTTDL về việc trả lời đơn khiếu nại trong đó nêu rõ Quyết định

1
23/QĐ-XP đã được ban hành đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục
luật định và quyết định giữ nguyên Quyết định số 23/QĐ-XP.
11/4/2014 Bà Nguyễn Thị Tuyết tiếp tục có đơn khiếu nại của gửi Chủ tịch
Uỷ ban nhân dân tỉnh G.L, Giám đốc Sở Văn hóa, thể thao và du
lịch tỉnh G.L, Giám đốc công an tỉnh G.L.
20/4/2014 Thanh tra sở ra Quyết định số 01/QĐ-TTr về việc giải quyết khiếu
nại (lần đầu) về việc xử phạt vi phạm hành chính của bà Tuyết
ngày 24/3/2014, theo đó giữ nguyên quyết định số 23/QĐ-XP.
02/05/2014 Bà Tuyết làm đơn khởi kiện Chánh thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao
và Du lịch tỉnh G.L về việc ban hành Quyết định xử lý vi phạm
trong lĩnh vực hoạt động văn hóa, thể thao và du lịch số 23/QĐ-XP
Do không đồng ý với quyết định xử phạt và việc giải quyết nêu
trên.
13/05/2014 Tòa án nhân dân tỉnh G.L ra Thông báo số 03/2014 về việc Thụ lý
vụ án hành chính
29/05/2014 Thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh G.L gửi Công văn
số 04/2014/CV-TTr tóm tắt nội dung vụ án và đưa ra quan điểm về
vụ án
05/09/2014 bà Tuyết đã có đơn kiến nghị gửi đến Chánh Thanh tra Sở Văn hóa,
Thể thao và Du lịch tỉnh G.L
10/09/2014 Tòa án nhân dân tỉnh G.L ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử số
04/2014/QĐST-XX.
1.2. Đương sự vụ án
- Người khởi kiện: Bà Nguyễn Thị Tuyết sinh năm 1982, địa chỉ: tổ 9, phường Đông
Lan, thành phố P, tỉnh G.L
- Người bị kiện: Chánh thanh tra Sở Văn hóa, thể thao và du lịch tỉnh G.L
- Người làm chứng: Ông Nguyễn Văn Trường, bà Nguyễn Thị Lành, ông Phan Văn, bà
Nguyễn Thị Thủy
1.3. Đối tượng bị kiện: Quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động văn
hóa, thể thao và du lịch số 23/QĐ-XP ngày 10/3/2014
1.4. Yêu cầu khởi kiện: Hủy bỏ Quyết định là đối tượng bị kiện nêu trên
1.5. Điều kiện khởi kiện:
1.5.1. Chủ thể khởi kiện
Bà Tuyết là đối tượng bị xử phạt theo quyết định hành chính nhưng không đồng ý nên có
quyền khiếu kiện hành chính với tư cách là người khởi kiện theo quy định tại khoản 8 Điều 3
Luật tố tụng hành chính năm 2015.
1.5.2. Thời hiệu khởi kiện:
Quyết định số 23/QĐ-XP được ban hành ngày 10/3/2014; bà Tuyết nộp đơn khởi kiện ngày
02/05/2014. Căn cứ điểm a khoản 3 Điều 116 Luật tố tụng hành chính năm 2015 thì bà
Tuyết khởi kiện vụ án hành chính trong thời hiệu khởi kiện.
1.5.3. Tòa án có thẩm quyền,
2
Căn cứ Điều 30, khoản 2 Điều 32 Luật tố tụng hành chính năm 2015 thì vụ án thuộc thẩm
quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh GL.
1.5.4. Sự việc chưa được giải quyết bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của
Tòa án
Như vậy, việc Tòa án nhân dân tỉnh GL thụ lý vụ án hành chính theo đơn khởi kiện của bà
Tuyết là phù hợp các quy định tại Luật tố tụng hành chính năm 2015.

2. Dự kiến kế hoạch hỏi của Luật sư (Tham gia với tư cách là người bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp cho bà Nguyễn Thị Tuyết)
2.1. Xác định hướng bảo vệ:
Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên chấp nhận toàn bộ yêu cầu của người khởi kiện, tuyên
hủy Quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động văn hóa, thể thao và du lịch số
23/QĐ-XP ngày 10/3/2014 của Chánh Thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh GL.
2.2. Vấn đề cần chứng minh:
Quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động văn hóa, thể thao và du lịch số
23/QĐ-XP ngày 10/3/2014 của Chánh Thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh GL là
trái quy định pháp luật.
2.3. Kế hoạch hỏi chi tiết
2.3.1. Hỏi Người bị kiện
 Ông Thành cho biết căn cứ vào cơ sở pháp lý nào để Thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao
và Du lịch G.L ban hành Quyết định xử phạt hành chính số 23/QĐ-XP ngày 10 tháng 03
năm 2014 đối với bà Nguyễn Thị Tuyết?
 Quyết định xử phạt có phải đã không ghi ngày ban hành không? Sau đó cơ quan đã
sửa bằng văn bản gì để Quyết định 23/QĐ-XP có ngày ban hành và ngày có hiệu lực?
 Quyết định số 23/QĐ-XP đối với bà Nguyễn Thị Tuyết được ban hành vào ngày
10/3/2014 có đúng trình tự thủ tục hay không?
 Căn cứ vào Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 thời hạn ra Quyết định xử phạt vi
phạm hành chính kể từ khi lập biên bản là bao nhiêu ngày?
 Theo quy định pháp luật thì ai là người có thẩm quyền làm văn bản xin gia hạn thời
gian ra quyết định xử phạt? Từ thời điểm lập biên bản cho đến ngày ra Quyết định có bao
nhiêu công văn gia hạn?
 Căn cứ vào khoản 2 Điều 66 Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 trong trường hợp
quá thời hạn xử phạt hình cơ quan có thẩm quyền không được ra quyết định xử phạt vi
phạm hành chính đúng không?
 Tại buổi kiểm tra, đoàn kiểm tra có yêu cầu ông Nguyễn Văn Thường và bà Nguyễn
Thị Lành viết bản tường trình không? Có phải trong Bản tường trình, ông Thường và bà
Lành khai là vợ chồng đúng không?
 Ông có xác minh tình trạng hôn nhân của ông Thường và bà Lành tại nơi làm việc
trước khi ban hành quyết định xử phạt không?

3
 Đoàn kiểm tra có thu thập được chứng cứ ông Thường và bà Lành có trao đổi tiền, lợi
ích vật chất để quan hệ tình dục không?
 Tại buổi kiểm tra, đoàn kiểm tra có yêu cầu ông Phan Văn và bà Nguyễn Thị Thùy
viết bản tường trình không? Ông Văn và bà Thùy khai trong Bản tường trình là họ đã làm
đám hỏi, bà Thùy đã có thai nhưng do ông ngoại chết nên phải đình lại đám cưới, đúng
không?
 Ông có xác minh tình trạng hôn nhân của ông Văn, bà Thùy tại địa phương họ trước
khi ban hành quyết định xử phạt không?
 Nam nữ thuê nhà trọ nghỉ có bắt buộc xuất trình giấy đăng ký kết hôn cho chủ cơ sở
hay không? Nếu có thì được quy định tại văn bản quy phạm pháp luật nào?
2.3.2. Hỏi người khởi kiện
 Ngày nào thì bà nhận được Quyết định số 23/QĐ-XP?
 Khi khách vào thuê trọ, bà có yêu cầu khách hàng xuất trình chứng minh nhân dân
hoặc hộ chiếu không?
 Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 23/QĐ-XP ngày 10/3/2014 có gây thiệt hại
cho cơ sở kinh doanh của bà không?
 Thanh tra Sở đã gọi bà đến làm việc mấy lần? Nội dung tại các bản tường trình của bà
Tuyết có phải là sự tự nguyện hay không?
 Bà Tuyết đã được đọc lại, nghe rõ và tự nguyện ký vào Biên bản vi phạm hành chính
số 11/BB-VPHC ngày 23/12/2013 hay không?
2.3.3. Hỏi Người làm chứng
 Ông Trường, bà Lành cho biết ông và bà có thường xuyên thuê phòng trọ của bà
Tuyết không? Mối quan hệ của ông Thường với bà Lành là gì?
 Ông Văn bà Thủy cho biết ông và bà có thường xuyên thuê phòng trọ của bà Tuyết
không? Mối quan hệ của ông Văn với bà Thủy là gì?

3. Dự kiến kế hoạch hỏi của Hội thẩm nhân dân (Theo vai diễn)
3.1. Hỏi Người khởi kiện
 Hộ của bà có giấy phép kinh doanh nhà trọ được cơ quan có thẩm quyền cấp không?
 Trong quá trình kinh doanh, bà có giải pháp nào để phòng ngừa hoạt động mại dâm
diễn ra tại cơ sở lưu trú của mình không?
3.2. Hỏi Người làm chứng
 Ông cho biết ngày 23/12/2013 ông và chị Lành đến thuê phòng số 11 tại nhà trọ
Hoàng Lan là lần đầu tiên 2 người đến thuê hay trước đấy đã đến nhiều lần?
 Hai người đã lấy nhau được bao nhiêu lâu rồi, vì sao đến giờ vẫn chưa có giấy đăng kí
kết hôn?

4
4. Luận cứ bảo vệ của Luật sư (khi tham gia với tư cách là người bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp cho bà Nguyễn Thị Tuyết)

ĐOÀN LUẬT SƯ TP HÀ NỘI


VĂN PHÒNG LUẬT SƯ ABC

LUẬN CỨ BẢO VỆ
(Cho người khởi kiện (bà Nguyễn Thị Tuyết) trong Vụ án hành chính kiện yêu cầu hủy
Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 23/QĐ-XP ngày 10/03/2014 của Chánh thanh
tra Sở Văn hóa, Thể thao và Di lịch tỉnh G.L)

Kính thưa Hội đồng xét xử;


Thưa vị đại diện Viện kiểm sát, Luật sư đồng nghiệp
Thưa các Quý vị có mặt trong phiên tòa ngày hôm nay

Tôi tên là Trần Mỹ Hạnh, Trưởng Văn phòng Luật sư ABC. Được sự ủy thác của thân
chủ tôi là bà Nguyễn Thị Tuyết và được sự chấp thuận của Tòa án nhân dân tỉnh G.L, nay
tôi có mặt tại phiên tòa này với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà
Nguyễn Thị Tuyết (Sinh năm 1982, Địa chỉ: Số 241 Lê Lai, tổ 9 phường Đông Lân,
thành phố P, tỉnh G.L) là Người khởi kiện trong Vụ án hành chính kiện yêu cầu hủy
Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 23/QĐ-XP ngày 10/03/2014 của Chánh thanh
tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh G.L (Sau đây gọi là “Quyết định 23/QĐ-XP”)
Sau khi nghiên cứu tài liệu trong hồ sơ vụ án, qua phần xét hỏi tại phiên tòa ngày hôm
nay, với tư cách là luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho Người khởi kiện tôi nhận
thấy những yêu cầu khởi kiện của thân chủ tôi là hoàn toàn có cơ sở, đúng quy định của
pháp luật. Tôi khẳng định rằng Quyết định 23/QĐ-XP là hoàn toàn trái với quy định của
pháp luật và ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của thân chủ tôi.
Để chứng minh cho quan điểm trên, tôi xin đưa ra những lập luận sau:
I. Về mặt thủ tục
1. Có sự vi phạm pháp luật về thời gian ban hành Quyết định 23/QĐ-XP
Căn cứ Điều 66 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định:
“Người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính phải ra quyết định xử phạt vi phạm
hành chính trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày lập biên bản vi phạm hành chính. Đối với
vụ việc có nhiều tình tiết phức tạp mà không thuộc trường hợp giải trình hoặc đối với vụ
việc thuộc trường hợp giải trình theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 61 của Luật
này thì thời hạn ra quyết định xử phạt tối đa là 30 ngày, kể từ ngày lập biên bản”.
Thanh tra Sở Văn hóa, thể thao và du lịch tiến hành kiểm tra và lập Biên bản số 11/BB-
VPHC ngày 23/12/2013 thì sau 07 ngày, Thanh tra Sở phải ra Quyết định xử phạt vi
phạm hành chính. Trong trường hợp có nhiều tình tiết phức tạp và được thủ trưởng trực
tiếp là Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch phê duyệt yêu cầu gia hạn bằng văn

5
bản thì muộn nhất đến ngày 23/01/2014 Chánh Thanh tra Sở phải ban hành Quyết định
xử phạt vi phạm hành chính. Tuy nhiên đến ngày 10/3/2014 Chánh thanh tra Sở Văn hóa,
thể thao và du lịch ra Quyết định 23/QĐ-XP.
Như vậy, thời gian ra Quyết định của Chánh thanh tra Sở Sở Văn hóa, thể thao và du lịch
đã vượt quá thời hạn quy định của pháp luật, vi phạm Điều 66 Luật xử lý vi phạm hành
chính.
2. Căn cứ pháp lý không thống nhất, áp dụng sai quy phạm pháp luật khi ban
hành Quyết định 23/QĐ-XP
Một là, Biên bản vi phạm số 11/BB-VPHC có nêu hành vi vi phạm trên đã vi phạm
theo Nghị định 158/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 quy định về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực hoạt động văn hóa – thông tin. Tuy nhiên tại Quyết định số 23/QĐ-
XP thì lại căn cứ Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013. Như vậy, không có sự
thống nhất về căn cứ pháp lý giữa Biên bản xử phạt và Quyết định xử phạt, dẫn đến tính
không hợp pháp của Quyết định số 23/QĐ-XP.
Hai là, trong Quyết định số 23/QĐ-XP và tại phiên tòa ngày hôm nay, Người bị kiện
thừa nhận rằng đã áp dụng Nghị định số 167/2013/NĐ-CP để xử lý hành vi của bà Tuyết.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 72, Nghị định số 167/2013/NĐ-CP thì Nghị định này có
hiệu lực thi hành từ ngày 28/12/2013 nhưng hành vi của bà Tuyết xảy ra trước đó tức vào
ngày 23/12/2013. Căn cứ khoản 1 Điều 83 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm
2008 thì “Văn bản quy phạm pháp luật được áp dụng từ thời điểm bắt đầu có hiệu lực. Văn
bản quy phạm pháp luật được áp dụng đối với hành vi xảy ra tại thời điểm mà văn bản đó
đang có hiệu lực. Trong trường hợp văn bản có hiệu lực trở về trước thì áp dụng theo quy
định đó”.
Căn cứ Điều 73 Nghị định số 167/2013/NĐ-CP thì Nghị định này chỉ được áp dụng hồi
tố nếu có các quy định có lợi cho người vi phạm, tại thời điểm xảy ra hành vi của bà Tuyết
thì Nghị định số 73/2010/NĐ-CP đang có hiệu lực áp dụng. Giả thiết là hành vi của bà Tuyết
là có vi phạm thì căn cứ điểm đ khoản 3 Điều 14 Nghị định số 73/2010/NĐ-CP, bà Tuyết chỉ
bị xem xét phạt tiền từ 5.000.0000 đồng đến 15.000.000 đồng nhưng căn cứ Điều 25 Nghị
định số 167/2013/NĐ-CP thì bà Tuyết bị xem xét phạt tiền mức khởi điểm là từ 15.000.000
đồng đến 20.000.000 đồng. Do đó, Nghị định số 73/2010/NĐ-CP đương nhiên được áp dụng
để xem xét hành vi của bà Tuyết mà không phải là Nghị định số 167/2013/NĐ-CP. Như vậy,
người bị kiện đã áp dụng sai văn bản quy phạm pháp luật khi ban hành quyết định xử phạt
hành chính.

3. Vi phạm về thẩm quyền xử phạt trong Quyết định 23/QĐ-XP


Căn cứ theo quy định tại Điều 69, Nghị định 167/2013/NĐ-CP thì “Thanh tra Lao
động - Thương binh và Xã hội có thẩm quyền xử phạt theo quy định của Luật xử lý vi
phạm hành chính đối với những hành vi quy định tại Mục 2 Chương II; Thanh tra Văn
hóa, Thể thao và Du lịch có thẩm quyền xử phạt theo quy định của Luật xử lý vi phạm
hành chính đối với những hành vi quy định tại Mục 4 Chương II; ...”
Như vậy, đặt ra giả thiết là Hành vi lợi dụng kinh doanh, dịch vụ để tổ chức hoạt động
mại dâm hoạt động mua dâm, bán dâm (theo quy định tại Điều 25 ở mục 2 của Nghị định

6
167/2013/ NĐ-CP) thì nội dung xử phạt của Quyết định 23/QĐ-XP phải thuộc thẩm
quyền ban hành của Thanh tra Lao động - Thương binh và Xã hội chứ không phải thẩm
quyền của Thanh tra Văn hóa, Thể thao và Du lịch.

II. Về mặt nội dung


Việc đưa ra cáo buộc bà Tuyết có hành vi vi phạm hành chính: “Thiếu tinh thần trách
nhiệm tạo điều kiện cho người khác lợi dụng cơ sở kinh doanh có điều kiện về an ninh,
trật tự để tổ chức hoạt động mại dâm (áp dụng khoản 1, Điều 25 Nghị định
167/2013/NĐ-CP) là không có căn cứ. Bởi:
Một là, không có hoạt động mại dâm tại cơ sở nhà trọ Hoàng Lan. Căn cứ khoản 1, 2,
3 Điều 3 Pháp lệnh phòng, chống mại dâm năm 10/2003/PL-UBTVQH11:
“1. Bán dâm là hành vi giao cấu của một người với người khác để được trả tiền hoặc lợi
ích vật chất khác.
2. Mua dâm là hành vi của người dùng tiền hoặc lợi ích vật chất khác trả cho người bán
dâm để được giao cấu.
3. Mại dâm là hành vi mua dâm, bán dâm.”
Có thể thấy, mại dâm là hành vi mua dâm, bán dâm, là có sự trao đổi tiền bạc, lợi ích vật
chất khác để quan hệ tình dục. Theo định nghĩa luật định, việc thực hiện hành vi giao cấu
không đồng nghĩa với việc là thực hiện hoạt động mại dâm, điều quan trọng là phải xác định
xem có sự trao đổi tiền bạc, lợi ích vật chất để quan hệ tình dục hay không. Với những chứng
cứ đã thu thập được và theo nội dung Biên bản vi phạm hành chính số 11/BB-VPHC, Đoàn
kiểm tra không ghi nhận có hành vi mua dâm, bán dâm tại nhà trọ bà Tuyết tại thời điểm
kiểm tra.
Hai là, việc Thanh tra Sở viện dẫn lý do bà Tuyết không cung cấp được Giấy chứng
nhận đăng ký kết hôn của ông Thường – Bà Lành và ông Văn – bà Thùy để nhận định hành
vi của các ông/bà nêu trên là hành vi mại dâm là không có cơ sở. Pháp luật không quy định
về việc nam nữ phải có đăng ký kết hôn thì mới được quan hệ tình dục, ở chung phòng. Việc
Thanh tra sở yêu cầu cung cấp Giấy chứng nhận là sự hiểu sai về tinh thần pháp luật, bởi
pháp luật quy định rằng công dân được làm những gì pháp luật không cấm. Việc xem xét
đánh giá hành vi có phải là hành vi vi phạm hay không phải dựa trên căn cứ pháp lý rõ ràng
và thực tế vụ việc, không thể đánh đồng hay suy đoán thiếu căn cứ. Ngoài ra, điểm e khoản 2
Điều 6 Thông tư 33/2010/TT-BCA cũng chỉ yêu cầu “Người đến lưu trú có trách nhiệm
xuất trình một trong các loại giấy tờ sau: Chứng minh nhân dân; Hộ chiếu; các loại giấy tờ
có dán ảnh do các cơ quan quản lý Nhà nước Việt Nam cấp; giấy xác nhận cử đi công tác
của cơ quan, tổ chức; xác nhận của cơ quan đến liên hệ công tác; xác nhận của Ủy ban
nhân dân xã, phường, thị trấn nơi cư trú.”.
Như vậy, pháp luật không buộc các cơ sở kinh doanh lưu trú như hộ bà Tuyết phải bố trí
phòng nghỉ nam riêng, nữ riêng. Ngoài ra, khi bố trí nam và nữ ở chung thì cũng không quy
định việc xuất trình giấy chứng nhận đăng ký kết hôn mới được ở chung phòng.
Ba là, giả thiết đặt ra trường hợp ông Thường và bà Lành thực sự có hành vi mại dâm thì
không không thể quy chụp bà Tuyết có hành vi tạo điều kiện cho 2 ông bà nêu trên thực hiện
hành vi mại dâm. Sai sót duy nhất của bà Tuyết là không kịp vào sổ theo dõi khách lưu trú

7
(bà Lành). Nếu nhận định sai sót như vậy là thiếu tinh thần trách nhiệm để xảy ra hoạt động
mua, bán dâm thì phải đáp ứng được các điều kiện sau: (i) xảy ra hoạt động mua, bán dâm và
(ii) hành vi không vào sổ theo dõi là ngyên nhân xảy ra hành vi mua, bán dâm. Có thể thấy,
hành vi không vào sổ của bà Tuyết không thỏa mãn các điều kiện được coi là thiếu tinh
thần để xảy ra hoạt động mại dâm.

Kiến nghị:
Kính thưa Hội đồng xét xử với tất cả những lý do trên và căn cứ điểm b, khoản 2,
Điều 193 Luật tố tụng hành chính 2015; Khoản 1 điều 65 và khoản 1 điều 66 Luật xử lý
vi phạm hành chính năm 2012; Điều 79 và Điều 83 Luật ban hành văn bản quy phạm
pháp luật hành chính, tôi kính mong Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 2 Điều 193
Luật Tố tụng hành chính tuyên chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Tuyết và
tuyên hủy Quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động văn hóa, thể thao và
du lịch số 23/QĐ-XP ngày 10/3/2014
Trên đây là những quan điểm tôi trình bày để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho
thân chủ tôi. Tôi kính đề nghị Hội đồng xét xử phân tích và đánh giá các chứng cứ một
cách khách quan, toàn diện, đầy đủ trên cơ sở cân nhắc những lập luận vừa nêu của tôi để
từ đó áp dụng các quy định pháp luật phù hợp nhằm đưa ra phán quyết công minh và
chính xác.
Trân trọng cảm ơn Hội đồng xét xử và toàn thể quý vị đã chú ý lắng nghe.

Luật sư

Trần Mỹ Hạnh

You might also like