Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 22

Phần 1.

Câu 1: Quan niệm CNDV BC về vật chất và các hình thức tồn tại của vật chất
Chủ nghĩa duy tâm khách quan cho rằng , thế giới sinh ra từ một lực lượng siêu tự nhiên như Đạo,ý
niệm, ý niệm tuyệt đối, cho rằng vật chất tồn tại lệ thuộc vào cảm giác,vào sự cảm nhận của con
người.
Trong triết học TQ cổ đại,"Thuyết âm – dương ngũ hành” cho rằng thế giới được tạo nên bởi Mộc,
Hỏa, Thổ, Kim,Thủy với 2 lực lượng Âm dương.
Triết học Hy Lạp cổ đại đi tìm vật chất trong 1 yếu tố nguyên thủy, Thales cho rằng vật chất là
nước, Heraclit cho rằng vật chất là lửa....
Chủ nghĩa duy vật siêu hình đồng nhất vật chất với khối lượng, coi khối lượng là đại lượng không
đổi.Nói tóm lại, các quan niệm trước Mac về vật chất đều chưa nhận thức đúng đắn về vật chất,
nhìn theo quan điểm duy vật siêu hình về vật chất.
Định nghĩa vật chất của Lenin
“Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm
giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh lại và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.”

Hiểu nội hàm vật chất theo 4 ý cơ bản


1. Vật chất là sự trừu tượng hóa, khái quát hóa không tồn tại trực quan, không đồng nhất vật chất với
vật thẻ
2. Thực tại khách quan, không phụ thuộc vào cảm giác, phân biệt vật chất và ý thức
3. Thừa nhận vật chất có trước, ý thức cảm giác có sau
4. Thừa nhận con người có khả năng nhận thức được thế giới thông qua ý thức cảm giác
Quan điểm của CNDVBC về vật chất
 Triết học duy vật không bàn tới vấn đề vật chất từ đâu sinh ra và bắt nguồn như thế nào.
 Khẳng định vật chất không do ai sinh ra, không mất đi (tính vĩnh hằng)
 Vật chất được coi là cơ sở của sự thống nhất của thế giới.
 Vật chất là bản nguyên của mọi sự vật đang tồn tại trên thế giới (thực thể)
ý nghĩa định nghĩa vật chất của Lêninl

 Giải quyết vấn đề cơ bản của triết học trên lập trường của CNDVBC.
 Khắc phục được những sai lầm trong quan niệm về vật chất của các nhà triết học trước Mác.
 Trong lĩnh vực xã hội, cho phép xác định cái gì là vật chất
 Bác bỏ thuyết không thể biết, có ý nghĩa định hướng cho khoa học phát triển
Các hình thức tồn tại của vật chất:
1. Vận động: “ Hiểu theo nghĩa chung nhất, bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn
ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy”
 Là phương thức tồn tại của vật chất: vật chất tồn tại nhờ vận động, thông qua vận động thì vật
chất mới tồn tại
 Là thuộc tính cố hữu của vật chất: Không thể tách vật chất và vận động. Lênin “ không thể
hình dung nổi vật chất không có vận động”
 Các hình thức vận động:
- Vận động cơ học: Chuyển dịch vị trí của vật thể trong không gian
-Vận động vật lý: Quá trình biến đổi của điện, trường, các hạt cơ bản.v.v..
- Vận động hóa học: Quá trình phân giải, hóa hợp các hợp chất vô cơ, hữu cơ.
- Vận động sinh học: Quá trình trao đổi chất của sinh vật với môi trường
- Vận động xã hội: Sự biến đổi các quan hệ kinh tế, chính trị, văn hóa
2. Không gian và thời gian
Không gian là một khái niệm để biểu thị sự tồn tại và tách biệt giữa các sự vật, quy mô và mức độ kết cấu
của sự vật, vị trí và phân bố của sự vật
Thời gian là khái niệm phản ánh quá trình tự diễn biến, không ngừng biến đổi, nhanh, chậm , kế tiếp, diệt
vong của mọi quá trình vật chất trong không gian.
 Không gian thời gian mang tính khách quan: là thuộc tính cố hữu của vật chất, tồn tại không tách
rời nhau, thuyết tương đối đã chứng minh
 Không gian thời gian có tính vĩnh cửu, vô tận
 Tính ba chiều của không gian và 1 chiều của thời gian

Câu 2: Quan niệm của CNDVBC về nguồn gốc và bản chất của ý thức.
* Nguồn gốc tự nhiên: Bộ não con người và giới tự nhiên(tg khách quan)
Về nguồn gốc tự nhiên, chủ nghĩa duy vật biện chứng nhấn mạnh,sự xuất hiện của ý thức gắn liền với 2
nhân tố: bộ óc con người và thế giới khác quan
Ý thức là sp hoạt động bộ óc của con người, bộ óc con người là 1 tổ chức vật chất đặc biẹt, bao gồm
khoảng 15 tỉ tế bào thần kinh tạo nên mối liên hệ nhằm thu nhận, truyeenf dẫn, xử lý thokng tin. Bộ óc
con người là cơ quan nhận thức duy nhất,nếu bộ óc bị tổn thương thì sẽ ko có ý thức hoặc là ý thức không
bình thường. Nếu có bộ óc, nhưng bộ óc đó tồn tại tách biẹt khỏi thế giới khách quan hay không có tác
động của thế giới khách quan vào bộ óc con người thì không có ý thức. Vì vậy, sự tác động của thế giới
khách quan là nguồn gốc để từ đó hình thành ý thức.
*Nguồn gốc xã hội của ý thức:(ngôn ngữ và lao động)
-Sự ra đời của bọ óc người, cũng như sự hình thành con người và xã hội loài người nhờ hoạt động lao
động và ngôn ngữ.
-Lao động sáng tạo ra bản thân con người, nhờ có lao động con người mới tách ra khỏi thế giới động vật.
-Nhờ có lao động con người tác động vào tự nhiên buộc chúng bộc lộ các thuộc tính mà nhờ đó con người
mới có tri thức
-Nhờ có lao động hình thành nên nhu cầu giao tiếp, từ đó xuất hiện ngôn ngữ.Sự tác động của ngôn ngữ
đối với ý thức là tác động 2 chiều. Trong đó, ngôn ngữ là sản phẩm của quá trình lao động và là sản phẩm
trực tiếp của bộ óc, là phương tiện để giao tiếp, do đó mức độ giao tiếp của con người trở nên sâu hơn,
phạm vi giao tiếp rộng hơn, khả năng truyền đạt thông tin nhanh hơn.
Kết luận: Ý thức là phạm trù triết học chỉ toàn bộ hoạt động tinh thần phản ánh thế giới vật chất, diễn
ra trong bộ óc người, được hình thành trong quá trình lao động và được diễn đạt nhờ ngôn ngữ.
*Bản chất: CNDVBC“ Về bản chất ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc con người
một cách năng động sáng tạo, ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan”
 Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan: ý thức là sự phản ảnh thế giới khách quan
vào bộ óc con người một cách năng động, sáng tạo, ý thức có được nhờ sự tác động của thế giới
khách quan vào bộ óc con người, bộ óc con người cải biến thành tinh thần.
 Ý thức phản ánh thế giới khách quan nhưng không phản ánh nguyên xi thụ động, thông qua hoạt
động sáng tạo của bộ óc con người.
 Ý thức là một hiện tượng lịch sư-xã hội: Từ phía lịch sử, đó là những giá trị nhân bản được kết
tinh trong quá trình phát triển lịch sử nhân loại, là những nét đẹp của truyền thống của dân tộc,
truyền thống cộng đồng và dân tộc...Từ phía xã hội,là các quan hệ xã hội,quy luật, và điều kiện
kinh tế xã hội đặc biệt là quan hệ sản xuất

Kết cấu: Tiếp cận theo chiều ngang (các yếu tố cơ bản hợp thành nó): Tri thức, tình cảm, niềm tin, ý
chí, trong đó yếu tố tri thức là cốt lõi.
Tiếp cận theo chiều dọc (các cấp độ): Tự ý thức, tiềm thức và vô thức.
Câu 3: Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, ý nghĩa phương pháp luận.
I/ Nguyên lý về mối quan hệ phổ biến?
3/ Quan điểm duy vật biện chứng: cho rằng Thế giới này là một chỉnh thể thống nhất. các sự vật hiện
tượng trên thế giới này liên hệ tác động, chuyển hóa nhau.

Theo quan niệm của duy vật biện chứng, Liên hệ là khái niệm chỉ sự phụ thuộc lẫn nhau, sự ảnh hưởng
tương tác và chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật hiện tượng .
Ví dụ: ở đây chúng ta có thể hình dung ra 1 sự vật hiện tượng nào đó ở bất kỳ vị trí nào đó trên thế giới
thông qua mối liên hệ từ nhận thức kinh nghiệm.
Liên hệ phổ biến, quan niệm duy vật biện chứng cho rằng: Mọi sự vật hiện tượng trên thế giới đều nằm
trong mối liên hệ phổ biến.
Cụ thể là giữa các sự vật hiện tượng liên hệ nhau.
LIÊN HỆ :Thực vật và động vật có mối liên hệ với nhau trong quá trình trao đổi chất
Giữa các mặt trong cùng một sự vật liên hệ nhau.
Ví dụ: các bộ phận trong cơ thể người. các địa phương trong 1 nước liên hệ nhau.
Giữa các quá trình phát triển của sự vật cũng liên hệ với nhau.
Ví dụ: Quá trình phát triển của con người theo tuổi tác, theo từng thời kỳ phát triển.
Mối liên hệ có tính nhiều bề vô cùng phong phú đa dạng. Cụ thể là liên hệ bên trong, liên hệ bên ngoài,
liên hệ gián tiếp, trực tiếp , liên hệ cơ bản, không cơ bản, chủ yếu và không chủ yếu.
-> Lưu ý: Riêng trong lĩnh vực xã hội: Có rất nhiều MỐI LIÊN HỆ khác nhau như: MỐI LIÊN HỆ :
KINH TẾ , CHÍNH TRỊ , XÃ HỘI , VĂN HÓA , Dân Tộc, Tôn giáo, huyết thống, làng xã...
Xét về tính chất của các mối liên hệ:
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định, các mối liên hệ có ba tính chất cơ bản: tính khách quan, tính
phổ biến và tính đa dạng, phong phú
+ Tính chất khách quan: - MỐI LIÊN HỆ luôn mang tính khách quan, không phụ thuộc vào ý thức của
con người.
Ví dụ: Mối liên hệ giữa các nước trên thế giới.
+ Tính phổ biến: Mối liên hệ phổ biến diễn ra cả trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
+ Tính đa dạng phong phú: Thời gian, không gian khác nhau có mối liên hệ khác nhau.
Tóm lại, Cả ba tính chất trên đều bị quy định bởi tính khách quan , phổ biến, đa dạng phong phú của THẾ
GIỚI VẬT CHẤT .
II/ Ý nghĩa của mối liên hệ phổ biến:
1/ Mối liên hệ phổ biến là cơ sở lý luận trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Trong đó:
+ Quan điểm toàn diện: Khi xem xét bất cứ 1 sự vật hiện tượng nào, chúng ta phải đặt nó trong quan hệ
với sự vật hiện tượng khác, phải nghiên cứu các mặt cấu thành của nó, các quá trình phát triển của nó, từ
trong tổng số mối liên hệ, tìm ra mối liên hệ bản chất chủ yếu …
Ví dụ: nghiên cứu 1 nước thì đặt nó trong quan hệ với các nước trong khu vực.
Xét kết nạp đảng
+ Xét các mặt cấu thành: các phòng ban trong 1 đơn vị….
+ Quá trình phát triển: xét quá trình hoạt động, công tác cá nhân để kết nạp.
+ Xét trong mối liên hệ: Quan hệ xã hội…
2/Về Mặt thực tiễn:
+ Ý nghĩa 1: Để cải tạo sự vật thì phải có giải pháp đồng bộ, toàn diện. Chọn lĩnh vực nào là chủ yếu.
Trong Công tác quản lý thì phải phân cấp quản lý.
Ví dụ: nhà nước (bộ ban ngành), cơ quan (phòng, ban)…
Ví dụ: đối mới toàn diện nước ta: kinh tế, chính trị, trong đó kinh tế là trọng tâm, chính trị từng bước.
+ Ý nghĩa 2: Chống quan niệm siêu hình:
Không thấy được trọng tâm, trọng điểm, đánh giá tràn lan các mối liên hệ , không thấy đâu là chủ yếu đó
là siêu hình. Chống chủ nghĩa chết chung và thuận nghị biện. Trong đó, chủ nghĩa chết chung là Kết hợp 1
cách vô nguyên tắc giữa các sự vật hiện tượng.
+ Ý nghĩa 3: Khi giải quyết 1 vấn đề cần xem xét các yếu tố cấu thành liên hệ mật thiết, phải xem xét yếu
tố lịch sử hình thành trong mối tương quan với hiện tạ
Câu4. Nguyên lý về sự phát triển, ý nghĩa phương pháp luận.
Nguyên lý về sự phát triển và ý nghĩa phương pháp luận - Mẫu 1
Sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng gắn liền với mối liên hệ phổ biến giữa chúng. Do
vậy, nguyên lý về sự phát triển cũng gắn liền, quan hệ hữu cơ với nguyên lý về mối liên hệ phổ biến.
Hiểu một cách chung nhất, “nguyên lý” là những tư tưởng ban đầu, xuất phát, có vai trò định hướng, chỉ
đạo việc triển khai những lý thuyết tiếp theo.
I. Khái niệm về sự phát triển
– Trong chủ nghĩa duy vật biện chứng, phát triển là một phạm trù triết học dùng để khái quát quá trình vận
động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
– Ta cần phân biệt khái niệm “vận động” và khái niệm “phát triển“:
+ Vận động là mọi biến đổi nói chung. Khái niệm này có ngoại diên lớn hơn khái niệm phát triển.
+ Phát triển là sự vận động có khuynh hướng tạo ra cái mới hợp quy luật. Phát triển gắn liền với sự ra đời
của cái mới này.
Nhờ có sự phát triển, cơ cấu tổ chức, phương thức tồn tại và vận động của sự vật cũng như chức năng vốn
có của nó ngày càng hoàn thiện hơn. Như thế, phát triển là một trường hợp đặc biệt của sự vận động.
– Quan điểm biện chứng thừa nhận tính phức tạp, tính không trực tuyến của quá trình phát triển. Sự phát
triển có thể diễn ra theo con đường quanh co, phức tạp, trong đó không loại trừ bước thụt lùi tương đối.
II. Tính chất của sự phát triển
1. Tính khách quan của sự phát triển
– Tất cả các sự vật, hiện tượng trong hiện thực luôn vận động, phát triển một cách khách quan, độc lập với
ý thức của con người. Đây là sự thật hiển nhiên, dù ý thức của con người có nhận thức được hay không, có
mong muốn hay không.
Nguồn gốc của sự phát triển nằm ngày trong chính bản thân của sự vật, hiện tượng. Đó là sự thống nhất và
đấu tranh giữa các mặt đối lập thuộc mỗi sự vật, hiện tượng.
Phát triển là quá trình tự thân (tự nó, tự mình) của mọi sự vật, hiện tượng.
– Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về tính khách quan của sự phát triển đã phủ nhận quan
điểm của chủ nghĩa duy tâm và quan điểm siêu hình về sự phát triển.
Quan điểm duy tâm cho rằng nguồn gốc của sự phát triển ở các lực lượng siêu nhiên, phi vật chất (thần
linh, thượng đế), hay ở ý thức con người. Tức là đều nằm ở bên ngoài sự vật, hiện tượng.
Quan điểm siêu hình cho rằng các sự vật, hiện tượng về cơ bản là “đứng im”, không phát triển. Hoặc phát
triển chỉ là sự thay đổi đơn thuần về mặt lượng (số lượng, kích thước…) mà không có sự biến đổi về chất.
2. Tính phổ biến của sự phát triển
Sự phát triển diễn ra ở tất cả mọi lĩnh vực, từ tự nhiên, xã hội và tư duy. Từ hiện thực khách quan đến
những khái niệm, những phạm trù phản ánh hiện thực ấy.
Trong hiện thực, không có sự vật, hiện tượng nào là đứng im, luôn luôn duy trì một trạng thái cố định
trong suốt quãng đời tồn tại của nó.
3. Tính kế thừa của sự phát triển
Sự phát triển tạo ra cái mới phải trên cơ sở chọn lọc, kế thừa, giữ lại, cải tạo ít nhiều những bộ phận, đặc
điểm, thuộc tính… còn hợp lý của cái cũ; đồng thời cũng đào thải, loại bỏ những gì tiêu cực, lạc hậu,
không tích hợp của cái cũ. Đến lượt nó, cái mới này lại phát triển thành cái mới khác trên cơ sở kế thừa
như vậy.
Đó là quá trình phủ định biện chứng. Là sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất. Quá trình này
diễn ra vô cùng, vô tận theo hình xoáy trôn ốc.
4. Tính phong phú, đa dạng của sự phát triển
Sự phát triển có muôn hình, muôn vẻ, biểu hiện ra bên ngoài theo vô vàn loại hình khác nhau.
Sự phong phú của các dạng vật chất và phương thức tồn tại của chúng quy định sự phong phú của phát
triển. Môi trường, không gian, thời gian và những điều kiện, hoàn cảnh khác nhau tác động vào các sự vật,
hiện tượng cũng làm cho sự phát triển của chúng khác nhau.
Trong giới hữu cơ, sự phát triển biểu hiện ở khả năng thích nghi của cơ thể trước sự biến đổi của môi
trường, ở khả năng tự sản sinh ra chính mình với trình độ ngày càng cao hơn…
Sự phát triển trong xã hội biểu hiện ở năng lực chinh phục tự nhiên, cải tạo xã hội ngày càng lớn của con
người.
Đối với tư duy, sự phát triển là năng lực nhận thức ngày càng sâu sắc, toàn diện, đúng đắn hơn.
III. Ý nghĩa phương pháp luận rút ra từ nguyên lý về sự phát triển
Từ việc nghiên cứu nguyên lý về sự phát triển của các sự vật, hiện tượng, chúng ta rút ra quan điểm phát
triển trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Quan điển này đòi hỏi:
1. Khi xem xét các sự vật, hiện tượng, ta phải đặt nó trong sự vận động và phát triển.
– Ta cần phải nắm được sự vật không chỉ như là cái nó đang có, đang hiện hữu trước mắt, mà còn phải
nắm được khuynh hướng phát triển tương lai, khả năng chuyển hóa của nó. Bằng tư duy khoa học, ta phải
làm sáng tỏ được xu hướng chủ đạo của tất cả những biến đổi khác nhau đó.
– Quan điểm phát triển hoàn toàn đối lập với quan điểm bảo thủ, trì trệ, định kiến. Tuyệt đối hóa một nhận
thức nào đó về sự vật có được trong một hoàn cảnh lịch sử nhất định, xem đó là nhận thức duy nhất đúng
về toàn bộ sự vật trong quá trình phát triển tiếp theo của nó sẽ đưa chúng ta đến sai lầm nghiêm trọng.
2. Không dao động trước những quanh co, phức tạp của sự phát triển trong thực tiễn.
Ta cần phải xác quyết rằng các sự vật, hiện tượng phát triển theo một quá trình biện chứng đầy mâu thuẫn.
Do đó ta phải công nhận tính quanh co, phức tạp của quá trình phát triển như một hiện tượng phổ biến,
đương nhiên.
Quan điểm phát triển đòi hỏi phải có sự nhìn nhận, đánh giá khách quan đối với mỗi bước thụt lùi tương
đối của sự vật, hiện tượng. Bi quan về sự thụt lùi tương đối sẽ khiến chúng ta gặp phải những sai lầm tai
hại.
3. Phải chủ động tìm ra phương pháp thúc đẩy sự phát triển của sự vật, hiện tượng.
– Ta phải tích cực, chủ động nghiên cứu, tìm ra những mâu thuẫn trong mỗi sự vật, hiện tượng. Từ đó, xác
định biện pháp phù hợp giải quyết mâu thuẫn để thúc đẩy sự vật, hiện tượng phát triển.
Việc xác định những biện pháp cũng cần căn cứ vào từng giai đoạn, hoàn cảnh cụ thể của sự vật, hiện
tượng. Vì sự phát triển diễn ra theo nhiều giai đoạn, từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện
hơn.
– Vì trong sự phát triển có sự kế thừa, ta phải chủ động phát hiện, cổ vũ cái mới phù hợp, tìm cách thúc
đẩy để cái mới đó chiếm vai trò chủ đạo.
Ta cũng phải tìm cách kế thừa những bộ phận, thuộc tính… còn hợp lý của cái cũ, đồng thời kiên quyết
loại bỏ những gì thuộc cái cũ mà lạc hậu, cản trở sự phát triển.
Phải tích cực học hỏi, tích lũy kiến thức khoa học và kiến thức thực tiễn.
Tuyệt đối tránh bảo thủ, trì trệ trong tư duy và hành động.
– Sự phát triển được thực hiện bằng con đường tích lũy về lượng để tạo ra sự thay đổi về chất. Do đó,
chúng ta phải luôn nỗ lực, chăm chỉ lao động để làm cho sự vật, hiện tượng tích lũy đủ về lượng rồi dẫn
đến sự thay đổi về chất.
Câu 5. Cặp phạm trù Cái riêng và Cái chung, ý nghĩa phương pháp luận.
I. Khái niệm
– “Cái riêng” là phạm trù được dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình riêng lẻ nhất định.
Ví dụ:
+ 01 quả bưởi đang ở trong tủ lạnh là cái riêng A; 01 quả bưởi ở trên bàn là cái riêng B. Cái riêng A khác
với cái riêng B.
+ 01 trận bóng đã giữa đội tuyển Việt Nam và đội tuyển Thái Lan diễn ra vào ngày 05/9/2019 là một cái
riêng.
– “Cái chung” là phạm trù được dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính chung không những có một kết
cấu vật chất nhất định, mà còn được lặp lại trong nhiều sự vật, hiện tượng hay quá trình riêng lẻ khác.
Ví dụ: Giữa 02 quả bưởi A và B nêu trên có thuộc tính chung là đều có cùi dày, nhiều múi, mỗi múi có rất
nhiều tép. Cái chung này được lặp lại ở bất kỳ quả bưởi nào khác. (Quả quýt khá giống quả bưởi nhưng lại
có cùi mỏng và có khối lượng nhẹ hơn quả bưởi).
– Ta cần phân biệt “cái riêng” với “cái đơn nhất”.
“Cái đơn nhất” là phạm trù được dùng để chỉ những nét, những mặt, những thuộc tính… chỉ có ở một kết
cấu vật chất nhất định và không được lặp lại ở bất cứ một kết cấu vật chất nào khác.
Về mặt ngữ nghĩa, “cái đơn nhất” gần giống với cái cá biệt.
Ví dụ: Đỉnh núi Everest cao nhất thế giới với độ cao 8.850 mét. Độ cao 8.850 mét của Everest là cái đơn
nhất vì không có một đỉnh núi nào khác có độ cao này.
Phần giao thoa giữa 03 “cái riêng” A, B, C là “cái chung”. Phần không giao thoa với bất cứ cái gì là
“cái đơn nhất”.
II. Mối quan hệ biện chứng giữa “cái riêng” và “cái chung” và “cái đơn nhất”
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, “cái riêng”, “cái chung” và “cái đơn nhất” có mối
quan hệ qua lại như sau:
1. “Cái chung” chỉ tồn tại trong “cái riêng”, thông qua “cái riêng”.
“Cái chung” không tồn tại biệt lập, tách rời “cái riêng” mà chỉ tồn tại trong “cái riêng”.
Ví dụ: Cùi dày, nhiều múi, rất nhiều tép là cái chung giữa các quả bưởi. Rõ ràng, cùi, múi, tép ở đây (cái
chung) chỉ và phải tồn tại trong một quả bưởi nhất định (cái riêng).
2. “Cái riêng” chỉ tồn tại trong mối liên hệ đưa đến “cái chung”.
– Điều này có nghĩa “cái riêng” tồn tại độc lập, nhưng sự độc lập này không có nghĩa là cô lập với những
cái khác. Thông qua hàng ngàn mối liên hệ, hàng ngàn sự chuyển hóa, “cái riêng” của loại này có liên hệ
với những “cái riêng” của loại khác.
– Bất cứ “cái riêng” nào cũng tồn tại trong một môi trường, hoàn cảnh nhất định, tương tác với môi
trường, hoàn cảnh ấy, do đó đều tham gia vào các mối liên hệ qua lại hết sức đa dạng với các sự vật, hiện
tượng khác xung quan mình.
Các mối liên hệ qua lại này cứ trải rộng dần, gặp gỡ rồi giao thoa với các mối liên hệ qua lại khác, kết quả
là tạo nên một mạng lưới các mối liên hệ mới, trong đó có những mối liên hệ dẫn đến một hoặc một
số “cái chung” nào đó.
– Bất cứ “cái riêng” nào cũng không tồn tại mãi mãi.
Mỗi “cái riêng” sau khi xuất hiện đều tồn tại trong một khoảng thời gian nhất định rồi biến thành một “cái
riêng” khác. “Cái riêng” khác này lại biến thành “cái riêng” khác thứ ba…v.v., cứ như vậy đến vô cùng
tận. Kết quả của sự biến hóa vô cùng tận này là tất cả “cái riêng” đều có liên hệ với nhau.
Thậm chí, có những cái tưởng chừng như hết sức xa lạ, hoàn toàn không dính dáng gì đến nhau, nhưng
qua hàng ngàn mối liên hệ, hàng ngàn sự chuyển hóa, ta vẫn thấy chúng liên quan nhau.
3. “Cái chung” là một bộ phận của “cái riêng”, còn “cái riêng” không gia nhập hết vào “cái chung”.
– Do “cái chung” được rút ra từ “cái riêng”, nên rõ ràng nó là một bộ phận của “cái riêng”.
– Mặt khác, bên cạnh những thuộc tính (cái chung) được lặp lại ở các sự vật khác, bất cứ “cái riêng” nào
cũng còn chứa đựng những đặc điểm, thuộc tính mà chỉ “cái riêng” đó mới có. Tức là, bất cứ “cái
riêng” nào cũng chứa đựng những “cái đơn nhất”.
4. “Cái đơn nhất” có thể biến thành “cái chung” và ngược lại.
– Sự chuyển hóa “cái đơn nhất” biến thành “cái chung” và “cái chung” biến thành “cái đơn nhất” sẽ xảy
ra trong quá trình phát triển khách quan của sự vật, trong những điều kiện nhất định.
– Sở dĩ như vậy là do trong hiện thực, cái mới không bao giờ xuất hiện đầy đủ ngay một lúc, mà lúc đầu
xuất hiện dưới dạng “cái đơn nhất”, cái cá biệt. Nhưng theo quy luật, cái mới nhất định sẽ phát triển mạnh
lên, ngày càng hoàn thiện, tiến tới hoàn toàn thay thế cái cũ và trở thành “cái chung”.
Ngược lại, “cái cũ” ngày càng mất dần đi. Từ chỗ là “cái chung”, cái cũ biến dần thành “cái đơn nhất”.
III. Ý nghĩa phương pháp luận
Từ việc phân tích mối quan hệ biện chứng giữa “cái riêng” và “cái chung”, ta rút ra ý nghĩa phương
pháp luận trong nhận thức và hoạt động thực tiễn như sau:
1. Phải xuất phát từ “cái riêng” để tìm “cái chung”.
Vì “cái chung” chỉ tồn tại trong và thông qua “cái riêng”, nên chỉ có thể tìm hiểu, nhận thức về “cái
chung” trong “cái riêng” chứ không thể ngoài “cái riêng”.
Để phát hiện, đào sâu nghiên cứu “cái chung”, ta phải bắt đầu nghiên cứu từ những sự vật, hiện tượng
riêng lẻ cụ thể chứ không thể xuất phát từ ý muốn chủ quan của con người.
2. Cần nghiên cứu cải biến “cái chung” khi áp dụng “cái chung” vào từng trường hợp “cái riêng”.
– Vì “cái chung” tồn tại như một bộ phận của “cái riêng”, bộ phận đó tác động qua lại với những bộ phận
còn lại của “cái riêng” mà không gia nhập vào “cái chung”, nên bất cứ “cái chung” nào cũng tồn tại
trong “cái riêng” dưới dạng đã bị cải biến.
Tức là, luôn có sự khác biệt một chút giữa “cái chung” nằm trong “cái riêng” này và “cái chung” nằm
trong “cái riêng” kia. Sự khác biệt đó là thứ yếu, rất nhỏ, không làm thay đổi bản chất của “cái chung”.
– Do đó, bất cứ “cái chung” nào khi áp dụng vào từng trường hợp riêng lẻ cũng cần được cải biến, cá biệt
hóa. Nếu không chú ý đến sự cá biệt hóa, đem áp dụng nguyên xi “cái chung”, tuyệt đối hóa cái chung thì
sẽ rơi vào sai lầm của những người giáo điều, tả khuynh.
Ngược lại, nếu xem thường “cái chung”, tuyệt đối hóa “cái đơn nhất”, thì lại rơi vào sai lầm của việc chỉ
bảo tồn cái vốn có mà không tiếp thu cái hay từ bên ngoài. Đó là sai lầm của những người xét lại, bảo thủ,
trì trệ, hữu khuynh.
3. Không được lảng tránh giải quyết những vấn đề chung khi giải quyết những vấn đề riêng.
Vì “cái riêng” gắn bó chặt chẽ với “cái chung”, không tồn tại bên ngoài mối liên hệ dẫn tới “cái chung”,
nên nếu muốn giải quyết những vấn đề riêng một cách hiệu quả thì không thể bỏ qua việc giải quyết
những vấn đề chung.
Nếu không giải quyết những vấn đề chung – những vấn đề mang ý nghĩa lý luận – thì sẽ sa vào tình trạng
mò mẫm, tùy tiện. Nếu bắt tay vào giải quyết những vấn đề riêng trước khi giải quyết những vấn đề chung
thì ta sẽ không có định hướng mạch lạc.
4. Khi cần thiết, cần tạo điều kiện cho “cái đơn nhất” biến thành “cái chung” và ngược lại.
Vì trong quá trình phát triển của sự vật, trong những điều kiện nhất định, “cái đơn nhất” có thể biến
thành “cái chung” và ngược lại, nên trong hoạt động thực tiễn, ta cần hết sức tạo điều kiện thuận lợi cho
“cái đơn nhất” phát triển, trở thành “cái chung” nếu điều này có lợi.
Ngược lại, phải tìm cách làm cho “cái chung” tiêu biến dần thành “cái đơn nhất” nếu “cái chung” không
còn phù hợp với lợi ích của số đông mọi người.
6. Cặp phạm trù Nguyên nhân và Kết quả, ý nghĩa phương pháp luận.
1. Khái niệm
Nguyên nhân là phạm trù triết học chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật hay giữa các sự
vật với nhau, gây ra một biến đổi nhất định nào đó ở các sự vật.
Ví dụ, sự tác động của dòng điện với dây dẫn là nguyên nhân làm cho dây dẫn nóng lên. Ở đây, cần phân
biệt nguyên nhân khác với nguyên cớ và điều kiện. Trước hết, cần hiểu nguyên nhân là do mối liên hệ bản
chất bên trong sự vật quyết định,còn nguyên cớ được quyết định bởi mối liên hệ bên ngoài có tính chất giả
tạo. Ví dụ, nguyên nhân của việc mở rộng chiến tranh xâm lược ra miền Bắc nước ta là ở bản chất xâm
lược của đế quốc Mỹ.
Nhưng chúng đã dựng nên “Sự kiện vịnh Bắc bộ” vào ngày 5/8/1964 để lấy đó làm nguyên cớ ném bom
miền Bắc. Nguyên nhân là cái gây ra kết quả, còn điều kiện tự nó không gây ra kết quả, nhưng nó đi liền
giúp cho nguyên nhân gây ra kết quả. Ví dụ, vận động bên trong hạt thóc là nguyên nhân tạo thành cây
lúa, nhưng hạt thóc muốn trở thành cây lúa phải có điều kiện độ ẩm, ánh sáng v.v. thích hợp. Nguyên nhân
phải gây ra kết quả mới được gọi là nguyên nhân, và sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật là
quan trọng vì nó nói lên sự vận động tự thân của sự vật, hiện tượng.
Kết quả là phạm trù triết học chỉ các biến đổi do nguyên nhân tương ứng gây ra.
Ví dụ, hiện tượng dây dẫn nóng lên là kết quả tác động của dòng điện với dây dẫn. Cần lưu ý rằng kết quả
phải là kết quả của nguyên nhân sinh ra nó. Ví dụ, quả trứng gà B là kết quả của con gà A sinh ra nó, chứ
không thể là kết quả của mọi con gà C, D nào khác. Kết quả phải là biến đổi đã hoàn thành mới đựơc gọi
là kết quả. Ví dụ, tấm bằng cử nhân là kết quả học tập của một sinh viên sau thời gian học tập ở bậc đại
học, còn điểm số từng môn học trong quá trình học ở đại học là quá trình hình thành của kết quả ấy.
Tính chất của mối liên hệ nhân quả
Thứ nhất, tính khách quan. Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng thì mối quan hệ nhân quả
mang tính khách quan. Tính khách quan của mối liên hệ nhân quả thể hiện ở chỗ mối liên hệ đó tồn tại
trong bản thân các sự vật, nó diễn ra ngoài ý muốn của con người, không phụ thuộc vào việc người ta có
nhận thức được nó hay không. Ngược lại, quan điểm của chủ nghĩa duy tâm lại cho rằng mối quan hệ
nhân quả là do Thượng đế sinh ra hoặc do cảm giác của con người quyết định.
Thứ hai, tính phổ biến. Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng thì tất cả mọi sự vật, hiện tựơng
xuất hiện đều có nguyên nhân, không có hiện tượng nào không có nguyên nhân cả, chỉ có điều là con
người đã biết hoặc chưa biết nguyên nhân đó mà thôi, các nguyên nhân này vẫn tồn tại một cách khách
quan và sớm hay muộn con người sẽ phát hiện ra nó. Đây là nguyên tắc quyết định luận duy vật biện
chứng hết sức quan trọng trong nghiên cứu khoa học, nó đòi hỏi khi khoa học đứng trước một sự vật, hiện
tượng nào đó cần phải tìm ra nguyên nhân của sự vật, hiện tượng đó. Chủ nghĩa duy tâm hiện đại ra sức
phủ nhận nguyên tắc này và thay vào đó bằng nguyên tắc vô định luận cho rằng không có sự ràng buộc
nhân quả trong tự nhiên, rằng có những hiện tượng không có nguyên nhân, đây là quan điểm sai lầm và
gây ra tác hại to lớn trong hoạt động thực tiễn.
Thứ ba, tính tất yếu. Tính tất yếu thể hiện ở chỗ, với một nguyên nhân nhất định, trong một điều kiện nhất
định sẽ cho ra đời một kết quả nhất định và ngược lại. Ví dụ nước nguyên chất luôn luôn sôi ở 1000C
trong điều kiện áp suất 1 at.
2. Mối quan hệ biện chứng
Một là, nguyên nhân là cái sinh ra kết quả.
Nguyên nhân luôn luôn có trước kết quả, được sản sinh ra trước kết quả. Còn kết quả chỉ xuất hiện sau khi
nguyên nhân sinh ra nó đã xuất hiện. Tuy nhiên, trong tự nhiên, chúng ta bắt gặp rất nhiều các hiện tượng
kế tiếp nhau như ngày luôn đến sau đêm, sấm luôn đến sau chớp v.v., nhưng ngày không phải là nguyên
nhân sinh ra đêm, sấm không phải là nguyên nhân sinh ra chớp. Mối liên hệ nhân quả không đơn thuần là
sự kế tiếp nhau về mặt thời gian. Ngoài sự kế tiếp nhau về thời gian, mối quan hệ nhân quả còn là mối
quan hệ sản sinh, trong đó nguyên nhân là cái đẻ ra (cái sản sinh), là cái sinh ra kết qua (cái phái sinh).
Nguyên nhân sinh ra kết quả rất phức tạp, bởi vì nó phụ thuộc vào nhiều điều kiện và hoàn cảnh khác
nhau. Cùng một nguyên nhân trong điều kiện hoàn cảnh khác nhau sẽ gây nên những kết quả khác nhau.
Ví dụ, hút thuốc lá có hại cho sức khoẻ, nhưng do thể trạng của người hút thuốc khác nhau thì mức độ tác
hại với mỗi người sẽ khác nhau. Một kết quả có thể do một hay nhiều nguyên nhân khác nhau tác động
riêng lẻ hay tác động cùng một lúc. Ví dụ, vật thể nóng lên có thể do bị đốt nóng, có thể do cọ sát với vật
thể khác, có thể do ánh sáng mặt trời chiếu vào v.v., hoặc năng suất lúa cao do nhiều nguyên nhân như
giống tốt, nước tưới đủ, phân bón đủ, chăm sóc chu đáo. Ngược lại, một nguyên nhân lại dẫn đến nhiều
kết quả. Ví dụ, do nguyên nhân chặt phá rừng đã gây ra nhiều kết quả như lũ lụt, hạn hán, nạn đói, sự
tuyệt chủng của một số loài sinh vật v.v..
Khi các nguyên nhân tác động cùng một lúc lên sự vật thì hiệu quả tác động của từng nguyên nhân tới sự
hình thành kết quả sẽ khác nhau tuỳ thuộc vào hướng tác động và cường độ tác động của nó. Nếu nhiều
nguyên nhân tác động cùng chiều sẽ thúc đẩy và tăng cường kết quả, nếu nguyên nhân tác động ngược
chiều thì nguyên nhân này làm suy yếu, tiêu diệt tác dụng của nguyên nhân kia làm hạn chế và kìm hãm
kết quả.
Do chỗ một kết quả có thể đựơc gây nên bởi tác động đồng thời của một số nguyên nhân và hiệu quả tác
động của từng nguyên nhân tới sự hình thành kết quả không giống nhau, cho nên chúng ta cần phân loại
để xác định đựơc vai trò, tác dụng của từng nguyên nhân đối với việc hình thành kết quả.
Tuỳ theo vai trò, tính chất,vị trí của nguyên nhân mà người ta phân ra các loại nguyên nhân như: nguyên
nhân chủ yếu, nguyên nhân thứ yếu, nguyên nhân bên trong và nguyên nhân bên ngoài, nguyên nhân chủ
quan và nguyên nhân khách quan, nguyên nhân trực tiếp và nguyên nhân gián tiếp.
Nguyên nhân chủ yếu là nguyên nhân mà thiếu nó thì kết quả không thể xảy ra, còn nguyên nhân thứ yếu
là những nguyên nhân chỉ quyết định những đặc điểm nhất thời, không ổn định, cá biệt, và khi tác động,
nó phụ thuộc vào nguyên nhân chủ yếu. Ví dụ, để có năng suất lúa cao thì giống là nguyên nhân chủ yếu,
còn nước, phân bón, chăm sóc là nguyên nhân thứ yếu. Nước, phân bón, chăm sóc có quan trọng hay
không là tuỳ thuộc yêu cầu của giống, khi nào cây lúa cần nước thì nước trở nên quan trọng nhất, khi cây
lúa cần chăm sóc thì chăm sóc trở nên quan trọng. Nguyên nhân bên trong là sự tác động lẫn nhau giữa
các mặt, hay các yếu tố của cùng một kết cấu vật chất nào đó và gây nên những biến đổi nhất định.
Nguyên nhân bên ngoài là sự tác động lẫn nhau giữa những kết cấu vật chất khác nhau và gây ra những
biến đổi thích hợp với những kết cấu vật chất ấy.
Nguyên nhân bên trong bao giờ cũng giữ vai trò quyết định chi phối sự hình thành, tồn tại và phát triển
của các kết cấu vật chất. Nguyên nhân bên ngoài dù to lớn đến đâu cũng không thể thay thế được nguyên
nhân bên trong, khi phát huy tác dụng nó phải thông qua nguyên nhân bên trong. Ví dụ, để có kết quả là
đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược giành độc lập, thống nhất cho đất nước ta có nhiều nguyên nhân như do
Đảng ta lãnh đạo tài tình, nhân dân ta anh hùng dũng cảm, sự giúp đỡ to lớn của Liên Xô, Trung Quốc và
các nước xã hội chủ nghĩa anh em. Nhưng yếu tố quyết định để giành thắng lợi trong trường hợp này là
Đảng ta và nhân dân ta là nguyên nhân bên trong.
Nguyên nhân chủ quan là sự hoạt động của các cá nhân, các giai cấp, các chính đảng v.v. nhằm thúc đẩy
hay kìm hãm sự xuất hiện, phát triển v.v. của các quá trình xã hội nhất định. Còn nguyên nhân khách quan
của các hiện tượng xã hội là nguyên nhân xuất hiện và tác động độc lập với ý chí của con người, của các
giai cấp, các chính đảng v.v. Trong hoạt động thực tiễn, nếu hoạt động của con người phù hợp với quan hệ
nhân quả khách quan thì sẽ thúc đẩy thế giới hiện thực phát triển nhanh hơn. Ngược lại, nếu hoạt động của
con người không phù hợp với quan hệ nhân quả khách quan thì sẽ kìm hãm sự phát triển của thế giới hiện
thực, cần phải phân biệt nguyên nhân trực tiếp và nguyên nhân gián tiếp gây ra kết quả để có biện pháp xử
lý thích hợp; phân biệt nguyên nhân tất nhiên và nguyên nhân ngẫu nhiên.
Hai là, sự tác động trở lại của kết quả đối với nguyên nhân sinh ra nó.
Nguyên nhân là cái sản sinh ra kết quả, nhưng sau khi kết quả xuất hiện, kết quả không giữ vai trò thụ
động đối với nguyên nhân mà nó có ảnh hưởng tác động trở lại nguyên nhân sinh ra nó. Sự tác động trở lại
của kết quả đối với nguyên nhân có thể diễn ra theo hai chiều hướng: hoặc là tác động tích cực thúc đẩy
hoạt động của nguyên nhân, hoặc là tác động tiêu cực làm cản trở hoạt động của nguyên nhân. Ví dụ, do
nền kinh tế kém phát triển, ít đầu tư cho giáo dục nên trình độ dân trí thấp. Trình độ dân trí thấp là nhân tố
cản trở việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, làm cản trở, kìm hãm sản xuất phát triển.
Ngược lại, trình độ dân trí cao là kết quả của chính sách phát triển kinh tế và giáo dục đúng đắn. Đến lượt
nó, dân trí cao lại tác động tích cực thúc đẩy sự phát triển của kinh tế và giáo dục.
Ba là, nguyên nhân và kết quả có thể chuyển hoá thay đổi vị trí cho nhau khi thay đổi mối quan hệ.
Mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả còn thể hiện ở chỗ nguyên nhân và kết quả có thể
chuyển hoá lẫn nhau trong những quan hệ và điều kiện nhất định. Điều đó có nghĩa là một sự vật, hiện
tượng nào đó trong mối quan hệ này là nguyên nhân, nhưng trong mối quan hệ khác là kết quả và ngựơc
lại. Trong thế giới khách quan, chuỗi nhân quả là vô cùng, không có bắt đầu, không có kết thúc, vì thế giới
vật chất là vô cùng vô tận. Vì vậy, muốn biết đâu là nguyên nhân, đâu là kết qủa chúng ta phải đặt nó
trong một mối quan hệ xác định.
3. Ý nghĩa phương pháp luận
Vì mối liên hệ nhân quả có tính khách quan, tính phổ biến và tính tất yếu, nghĩa là bất kỳ sự vật, hiện
tượng nào cũng tồn tại trong quan hệ nhân quả. Điều đó đòi hỏi con người khi đứng trước một sự vật, hiện
tượng nào đó phải khám phá ra nguyên nhân của sự vật, hiện tượng đó; trong thế giới khách quan chỉ có
những cái con người chưa biết nhưng rồi sẽ biết, chứ không có cái gì con người không thể biết. Nghiên
cứu mối quan hệ nhân quả sẽ trang bị cho chúng ta quan điểm quyết định luận đúng đắn khác với quan
điểm duy tâm theo thuyết định mệnh. Thừa nhân quy luật nhân quả, nhưng những người theo quan điểm
duy vật biện chứng đồng thời khẳng định vai trò của con người trong việc nhận thức, vận dụng quy luật vì
mục đích sống của mình.
Một sự vật, hiện tượng có thể do nhiều nguyên nhân sinh ra. Những nguyên nhân này có vị trí khác nhau
trong việc hình thành kết quả. Do vậy trong hoạt động thực tiễn chúng ta cần phân loại nguyên nhân (bên
trong hay bên ngoài, chủ yếu hay thứ yếu, trực tiếp hay gián tiếp, chủ quan hay khách quan v.v.) để đánh
giá đúng vai trò, vị trí của từng nguyên nhân với việc hình thành kết quả. Đồng thời phải nắm được các
nguyên nhân tác động cùng chiều hoặc tác động ngựơc chiều nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp và hạn chế
những nguyên nhân nghịch chiều.
Kết quả do nguyên nhân sinh ra, nhưng kết quả không tồn tại thụ động mà có tác động trở lại nguyên nhân
sinh ra nó. Vì vậy trong hoạt động thực tiễn chúng ta phải biết khai thác, vận dụng các kết quả đã đạt được
để nâng cao nhận thức và tiếp tục thúc đẩy sự vật phát triển.
Câu 7. Cặp phạm trù Nội dung và Hình thức, ý nghĩa phương pháp luận.
1. Khái niệm:
– Nội dung: Phạm trù dùng để chỉ sự tổng hợp tất cả những mặt, những yếu tố, những quá trình tạo nên sự
vật, hiện tượng.
– Hình thức: Phạm trù dùng để chỉ phương thức tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng đó, là hệ thống
các mối liên hệ tương đối bền vững giữa các yếu tố của nó.
2. Quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức
Nội dung và hình thức gắn bó chặt chẽ, thống nhất biện chứng với nhau, vì vậy không có một hình thức
nào không chứa dựng nội dung, đồng thời không có nội dung nào lại không tồn tại trong một hình thức
nhất định. Cùng một nội dung có thể biểu hiện trong nhiều hình thức, và cùng một hình thức có thể chứa
đựng nhiều nội dung.
Mối quan hệ giữa nội dung và hình thức là mối quan hệ biện chứng, trong đó nội dung quyết định hình
thức và hình thức tác động trở lại nội dung. Khuynh hướng chủ đạo của nội dung là khuynh hướng biến
đổi còn hình thức là mặt tương đối ổn định trong mỗi sự vật, hiện
tượng. Nội dung thay đổi bắt buộc hình thức phải thay đổi theo cho phù hợp. Tuy nhiên, không phải bất cứ
lúc nào cũng có sự phù hợp tuyệt đối giữa nội dung và hình thức. Nội dung quyết định hình thức nhưng
hình thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại nội dung. Hình thức phù hợp với nội dung thì sẽ
thúc đẩy nội dung phát triển. Nếu hình thức không phù hợp thì sẽ kìm hãm sự phát triển của nội dung.
3. Ý nghĩa phương pháp luận
Nội dung và hình thức luôn luôn thống nhất hữu cơ với nhau. Vì vậy, trong hoạt động nhận thức và thực
tiễn, không được tách rời giữa nội dung và hình thức, hoặc tuyệt đối hóa một trong hai mặt đó.
Nội dung quyết định hình thức nên khi xem xét sự vật, hiện tượng thì trước hết phải căn cứ vào nội dung.
Muốn thay đổi sự vật, hiện tượng thì trước hết phải thay đổi nội dung của nó.
Trong thực tiễn cần phát huy tác động tích cực của hình thức đối với nội dung; mặt khác cũng cần phải
thực hiện những thay đổi đối với những hình thức không còn phù hợp với nội dung, cản trở sự phát triển
của nội dung.
Câu 8. Nội dung quy luật Lượng-Chất, ý nghĩa phương pháp luận.
* Nội dung quy luật
- Chất: Là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của các sự vật, là sự thống nhất
hữu cơ của những thuộc tính làm cho sự vật là nó chứ không phải là cái khác. Cái gì làm cho sự vật là nó
chứ không phải cái khác thì đó là chất của sự vật. Và được bộc lộ thông qua các mối liên hệ
VD: chất của một người cụ thể chỉ được bộc lộ thông qua mối quan hệ với người khác
( anh A sống tốt vì giúp đỡ mọi người)
Chất của sự vật bộc lộ qua thuộc tính của nó
VD: Ngoài những thuộc tính giống loài vật của con người có thuộc tính khác với động vật là : biết chế tạo
và sử dụng công cụ lao động. Chất của sự vật không chỉ quy định bởi chất của các yếu tố cấu thành mà
còn tạo phương thức liên kết.
VD: Cũng là các phân tử cacbon nhưng phương thức liên kết của than chì khác với kim cương.
- Lượng: là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan, vốn có của sự vật về mặt số
lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu và sự phát triển của sự vật, cũng như của các thuộc tính sự vật.
Nếu như chất là cái làm cho nó là nó, thì lượng là cái chưa làm cho nó là nó.
Ở đây chiều cao, cân nặng, trình độ vẫn là lượng của sự vật, bởi vì chiều cao, cân nặng,trình độ vẫn chưa
làm cho anh A khác với anh B.
Sự phân biệt giữa chất và lượng chỉ mang tính tương đối, bởi sự phân biệt đó phụ thuộc vào mqh cụ thể
của sự vật với các sự vật khác. ở mối qh này thì là chất song sang mqh khác nó lại đóng vai trò là lượng.
Quan hệ biện chứng giữa lượng và chất:
2. Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng
– Chất và lượng là hai mặt đối lập: chất tương đối ổn định, còn lượng thường xuyên biến đổi. Song, hai
mặt đó không tách rời nhau, mà tác động lẫn nhau một cách biện chứng. Sự thống nhất giữa chất và lượng
ở trong một độ nhất định, khi sự vật đang tồn tại.
Độ là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự thống nhất giữa lượng và chất, là khoảng giới hạn, mà trong
đó sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản về chất của sự vật. Điểm giới hạn mà khi lượng đạt tới
sẽ làm thay đổi về chất của sự vật thì gọi là điểm nút.
Điểm nút: Sự thay đổi về chất qua điểm nút được gọi là bước nhảy. Đó là bước ngoặt căn bản kết thúc
một giai đoạn trong sự biến đổi về lượng, là sự gián đoạn trong quá trình biến đổi liên tục của các sự vật.
Do vậy có thể nói phát triển là sự “đứt đoạn” trong liên tục, là trạng thái liên hợp của các điểm nút.
– Khi sự vật mới ra đời với chất mới lại có một lượng mới phù hợp, tạo nên sự thống nhất mới giữa chất
và lượng. Sự tác động của chất mới đối với lượng mới được biểu hiện ở quy mô, nhịp điệu phát triển mới
của lượng.
Tóm lại: Quy luật lượng – chất đã chỉ rõ cách thức biến đổi của sự vật và hiện tượng. Trước hết, lượng
biến đổi dần dần và liên tục và khi đạt đến điểm nút (Giới hạn của sự thống nhất giữa chất và lượng) sẽ
dẫn đến bước nhảy về chất; chất mới ra đời lại tạo nên sự thống nhất mới giữa chất và lượng.
Tất nhiên, thế giới sự vật, hiện tượng là đa dạng, phong phú, do đó hình thức của các bước nhảy cũng rất
đa dạng và phong phú.
II. Ý nghĩa phương pháp luận
Từ việc nghiên cứu quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất và
ngược lại có thể rút ra các kết luận có ý nghĩa phương pháp luận sau đây:
– Sự vận động và phát triển của sự vật bao giờ cũng diễn ra bằng cách tích luỹ dần dần về lượng đến một
giới hạn nhất định, thực hiện bước nhảy để chuyển về chất. Do đó, trong hoạt động nhận thức và hoạt
động thực tiễn, con người phải biết từng bước tích luỹ về lượng để làm biến đổi về chất theo quy luật.
Trong hoạt động của mình, ông cha ta đã rút ra những tư tưởng sâu sắc như “tích tiểu thành đại”, “năng
nhặt, chặt bị”, “góp gió thành bão”,… Những việc làm vĩ đại của con người bao giờ cũng là sự tổng hợp
của những việc làm bình thường của con người đó. Phương pháp này giúp cho chúng ta tránh được tư
tưởng chủ quan, duy ý chí, nôn nóng, “đốt cháy giai đoạn” muốn thực hiện những bước nhảy liên tục.
– Quy luật của tự nhiên và quy luật của xã hội đều có tính khách quan. Song quy luật của tự nhiên diễn ra
một cách tự phát, còn quy luật của xã hội chỉ được thực hiện thông qua hoạt động có ý thức của con
người. Do đó, khi đã tích luỹ đủ về số lượng phải có quyết tâm để tiến hành bước nhảy, phải kịp thời
chuyển những sự thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất, từ những thay đổi mang tính chất tiến
hóa sang những thay đổi mang tính chất cách mạng. Chỉ có như vậy mới khắc phục được tư tưởng bảo
thủ, trì trệ, “hữu khuynh” thường được biểu hiện ở chỗ coi sự phát triển chỉ là sự thay đổi đơn thuần về
lượng.
– Trong hoạt động con người còn phải biết vận dụng linh hoạt các hình thức của bước nhảy. Sự vận dụng
này tùy thuộc vào việc phân tích đúng đắn những điều kiện khách quan và những nhân tố chủ quan, tùy
theo từng trường hợp cụ thể, từng điều kiện cụ thể hay quan hệ cụ thể. Mặt khác, đời sống xã hội của con
người rất đa dạng, phong phú do rất nhiều yếu tố cấu thành, do đó để thực hiện được bước nhảy toàn bộ,
trước hết, phải thực hiện những bước nhảy cục bộ làm thay đổi về chất của từng yếu tố.
Sự thay đổi về chất của sự vật còn phụ thuộc vào sự thay đổi phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo
thành sự vật. Do đó, trong hoạt động phải biết cách tác động vào phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo
thành sự vật trên cơ sở hiểu rõ bản chất, quy luật, kết cấu của sự vật đó. Chẳng hạn, trên cơ sở hiểu biết
đúng đắn về gen, con người có thể tác động vào phương thức liên kết giữa các nhân tố tạo thành gen làm
cho gen biến đổi. Trong một tập thể cơ chế quản lý, lãnh đạo và quan hệ giữa các thành viên trong tập thể
ấy thay đổi có tính chất toàn bộ thì rất có thể sẽ làm cho tập thể đó vững mạnh.
Câu 9. Nội dung quy luật mâu thuẫn, ý nghĩa phương pháp luận
Quy luật mâu thuẫn là một trong những quy luật cơ bản trong phép biện chứng duy vật và biện chứng duy
vật lịch sử khằng định về: mọi sự vật hay hiện tượng ở trong tự nhiên đều có sự tồn tại và mâu thuẫn bên
trong. Quy luật mâu thuẫn còn được gọi là quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập.
Nội dung của quy luật mâu thuẫn
Mọi sự vật hoặc hiện tượng đều chứa đụng những khuynh hướng, mặt đối lập, từ đó tạo thành những mâu
thuẫn trong bản thân chúng. Sự thống nhất và đấu tranh từ các mặt đối lập tạo ra xung lực nội của sự vận
động, phát triển, và dẫn tới mất đi cái cũ thay thế bởi cái mới.
– Các khái niệm về mặt đối lập, mâu thuẫn biện chứng, thống nhất, đấu tranh
+ Mặt đối lập: Mặt đối lập là những mặt mà có những thuộc tính, đặc điểm, những tính quy định mà có
khuynh hướng biến đổi trái ngược, tồn tại theo khách quan ở trong tự nhiên, tư duy và xã hội.
Ví dụ:
Trong mỗi con người đều có mặt đối lập theo tự nhiên như hoạt động ăn và hoạt động bài tiết.
Đối với sinh vật sẽ có mặt đồng hóa và dị hóa, đối lập nhau.
+ Mâu thuẫn biện chứng: Mâu thuẫn biện chứng là một trạng thái mà mặt đối lập liên hệ, chúng có tác
động qua lại với nhau, theo đó mâu thuẫn biện chứng được tồn tại một cách khách quan, phổ biến ở trong
xã hội, tư duy và tự nhiên. Trong mâu thuẫn biện chứng tư duy có sự phản ánh mâu thuẫn đối với hiện
thực, nguồn gốc phát triển nhận thức.
+ Sự thống nhất của các mặt đối lập:
Sự thống nhất của các mặt đối lập: là sự nương tựa với nhau, tồn tại nhưng không tách rời với nhau của
các mạt đối lập, tự tồn tại đó phải lấy sự tồn tại của mặt khác để làm tiền đề.
Sự thống nhất đó tạo lên những nhân tố “đồng nhất” của các mặt đối lập. Khi ở một mức độ nào đó chúng
sẽ có thể chuyển hóa cho nhau.
Sự thống nhất của các mặt đối lập cũng có biểu hiện tác động ngang nhau, đó chỉ là trạng thái vận động
khi có sự diễn ra căn bằng.
+ Sự đấu tranh của các mặt đối lập
Đấu tranh của các mặt đối lập là sự tác động qua lợi với nhau theo xu hướng là bài trừ, phủ định lẫn nhau
giữa các mặt đó.
Hình thức đấu tranh các mặt đối lập vô cùng phong phú và đa dạng, tùy thuộc vào mối quan hệ qua lại của
điều kiện diễn ra cuộc đấu tranh và các mặt đối lập, tính chất.
– Mâu thuẫn là nguồn gốc sự vận động, sự phát triển
+ Sự thống nhất, đấu tranh các mặt đối lập chính là hai xu hướng tác động khác nhau mặt đối lập
Trong đó, hai xu hướng này tạo ra loại mâu thuẫn đặc biệt, từ đó mâu thuẫn biện chứng bao gồm sự thống
nhất và sự đấu tranh của mặt đối lập.
Trong quá trình phát triền và vận động thì sự thống nhất, đấu tranh của mặt đối lập không tách rời nhau.
+ Đấu tranh của mặt đối lập được quy định tất yếu về sự thay đổi các mặt đang tác động, làm mâu thuẫn
phát triển.
Khi bắt đầu xuất hiện thì mâu thuẫn chỉ là một sự khác nhau cơ bản. Tuy nhiên theo khuynh hướng trái
ngược nhau thì sự khác nhau này càng lớn lên và rộng dẫn ra đến khi nào trở thành đối lập.
Khi hai mặt đối lập có sự xung đột gay gắt, đủ điều kiện thì sẽ tự chuyển hóa lẫn nhau và từ đó mâu thuận
được giải quyết. Nhờ sự giải quyết theo hướng này mà thể thống nhất mới sẽ thay thế thể thống nhất cũ
hay sự vật mới thay cho sự vật cũ bị mất đi.
+ Sự phát triển là cuộc đấu tranh các mặt đối lập.
Ta đã thấy rằng khi có thống nhất của các mặt đối lập thì sẽ có đấu tranh, đấu tranh và thống nhất các mặt
đối lập thì không thể tách rời khỏi nhau đối với mâu thuẫn biện chứng.
Sự vận động, phát triển là sự thống nhất trong tính ổn định và tính thay đổi, đấu tranh và thống nhất các
mặt đối lập quy định về tính thay đổi và tính ổn định sự vật. Do đó, mâu thuẫn là nguồn gốc của phát triển
và vận động.
– Phân loại mâu thuẫn
+ Nếu dựa vào quan hệ của sự vật được xem xét, mâu thuẫn sẽ được phân loại thành mâu thuẫn bên trong
và mâu thuẫn bên ngoài.
+ Dựa vào ý nghĩa sự tồn tại, phát triển toàn bộ sự vật thì mâu thuẫn được chia làm mâu thuẫn cơ bản và
mâu thuẫn không cơ bản.
+ Dựa vào vai trò mâu thuẫn của sự tồn tại, phát triển sự vật ở 1 giai đoạn nhất định thì mâu thuẫn phân
loại là mâu thuẫn chủ yếu, mâu thuẫn thứ yếu.
+ Dựa vào tính chất của quan hệ lợi ích, mâu thuẫn chia làm mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối
kháng.
Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật mâu thuẫn
– Để nhận thức được ban chất của sự vật hoặc tìm ra phương hướng, giải pháp cho hoạt động thực tiễn cần
phải nghiên cứu mâu thuẫn sự vật.
– Việc nghiên cứu quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập hay quy luật mâu thuẫn có ý
nghĩa quan trọng đối với nhận thực, hoạt động thực tiễn.
Bởi mâu thuận là động lực và cùng là nguồn gốc của sự vận động, phát triển, có tính khách quan phổ
biến.
VVí dụ: Trong hoạt động bài tiết thì con người có hai hoạt động đối lập nhau: hoạt động ăn, hoạt động bài
tiết. Mặc dù chúng đối lập nhau nhưng lại không thể tách rời nhau và phụ thuộc vào nhau, từ đó cho thất
hai hoạt động này có sự thống nhất với nhau.
Câu hỏi về quy luật mâu thuẫn
Xung quanh quy luật mâu thuẫn, có nhiều câu hỏi đặt ra. Chúng tôi xin chia sẻ về một trong số đó tới Quý
độc giả:
Câu hỏi:
Tại sao trong mâu thuẫn, hai mặt đối lập lại phải vừa thống nhất vừa đấu tranh với nhau?
Trả lời:
Mâu thuẫn giữa các mặt đối lập trong sự vật, hiện tượng là nguyên nhân; giải quyết mâu thuẫn đó là động
lực của sự vận động, phát triển; sự vận động, phát triển của các sự vật, hiện tượng là tự thân. Quá trình từ
khác nhau, thống nhất qua mâu thuẫn đến đấu tranh giữa các mặt đối lập mà kết quả là mâu thuẫn giữa
chúng được giải quyết; xuất hiện sự thống nhất mới cùng với sự hình thành mâu thuẫn mới trong một sự
vật, hiện tượng ở dạng thống nhất thường trải qua ba giai đoạn chính, mỗi giai đoạn có những đặc điểm
riêng của mình.
Câu 10. Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính
Nhận thức là gì?
Nhận thức là hành động hay quá trình tiếp thu kiến thức và những am hiểu thông qua suy nghĩ, kinh
nghiệm và giác quan, bao gồm các qui trình như là tri thức, sự chú ý, trí nhớ, sự đánh giá, sự ước lượng,
sự lí luận, sự tính toán, việc giải quyết vấn đề, việc đưa ra quyết định, sự lĩnh hội và việc sử dụng ngôn
ngữ.
Theo “Từ điển Bách khoa Việt Nam”, nhận thức là quá trình biện chứng của sự phản ánh thế giới khách
quan trong ý thức con người, nhờ đó con người tư duy và không ngừng tiến đến gần khách thể.
Theo quan điểm triết học Mác-Lênin, nhận thức được định nghĩa là quá trình phản ánh biện chứng hiện
thực khách quan vào trong bộ óc của con người, có tính tích cực, năng động, sáng tạo, trên cơ sở thực
tiễn.
Nhận thức là gì?
Nhận thức suy cho cùng là sự chú ý, là những chi tiết bạn thu thập được từ nhận thức của bạn về thế
giới. Đó là ý thức tích cực thu thập và xử lý thông tin từ môi trường của bạn. Đó là cách bạn trải nghiệm
cuộc sống.
Nhận thức bản thân là gì?
Nếu “nhận thức” là để ý đến mọi thứ trên thế giới, thì “tự nhận thức” là tập trung nhận thức của bạn vào
bản thân.
Nhận thức bản thân là khả năng chúng ta nhận thấy những suy nghĩ, cảm xúc và cách chúng ảnh hưởng
đến hành vi của chúng ta. Khi làm như vậy, tự bản thân có thể giám sát vì tự bản thân có thể hiểu rõ hơn
về sở thích bên trong của mình là gì. Về cốt lõi, nhận thức bản thân là khả năng chúng ta hiểu được bản
thân và cách chúng ta hòa nhập với thế giới.
Tự nhận thức bản thân cũng có nghĩa là nhận ra những gì bạn có thể và không thể kiểm soát. Nhiều
người trong chúng ta dựa vào thế giới bên ngoài để cho chúng ta biết cách sống. Kết quả là, chúng ta mất
đi khả năng xác định sự thật của chính mình. Chúng ta cũng không thể khám phá đầy đủ các giá trị, ước
mơ và khuôn mẫu của mình. Tất cả những chìa khóa quan trọng có thể giúp đưa ra quyết định của chúng
ta trong việc tạo ra cuộc sống mà chúng ta mong muốn xuất phát từ tự nhận thức bản thân.
Phân biệt nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính
Định nghĩa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính
Nói một cách dễ hiểu:
 Nhận thức cảm tính là những cảm nhận ban đầu về bề ngoài của một sự vật nào đó. Nhận thức
được đánh giá bằng trực quan.
 Nhận thức lý tính là nhận thức đã được suy nghĩ, tư duy từ nhận thức cảm tính. Để có những
đánh giá chính xác hơn, khách quan hơn về sự vật.
So sánh nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính
Giống nhau:
Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính đều phản ánh:
 Chỉ khi có hiện thực khách quan tác động vào con người mới xuất hiện nhận thức.
 Mang những đặc điểm riêng của mỗi người với cách nhìn nhận, đánh giá khác nhau.
 Dựa vào những phong tục, tập quán, lịch sử, xã hội của nơi mà bạn sinh sống hình thành nên.
 Đều có ở động vật và con người.
Khác nhau:
Để hiểu rõ sự khác nhau giữa 2 loại nhận thức này, mời bạn xem qua bảng so sánh dưới đây:

Tiêu chí Nhận thức cảm tính Nhận thức lý tính

Là giai đoạn phản ánh gián tiếp trừu


Là giai đoạn đầu tiên của quá trình nhận thức. Đó là
Bản chất về tượng, khái quát sự vật, được thể hiện
giai đoạn con người sử dụng các giác quan để tác
giai đoạn qua các hình thức như khái niệm, phán
động vào sự vật nhằm nắm bắt sự vật ấy.
đoán, suy luận.
– Phản ánh trực tiếp đối tượng bằng các giác quan
của chủ thể nhận thức. – Là quá trình nhận thức gián tiếp đối
– Phản ánh bề ngoài, phản ánh cả cái tất nhiên và với sự vật, hiện tượng.
ngẫu nhiên, cả cái bản chất và không bản chất. – Là quá trình đi sâu vào bản chất của
Đặc điểm – Giai đoạn này có thể có trong tâm lý động vật. sự vật, hiện tượng.
– Hạn chế của nó là chưa khẳng định được những – Nhận thức cảm tính và lý tính không
mặt, những mối liên hệ bản chất, tất yếu bên trong tách bạch nhau mà luôn có mối quan hệ
của sự vật. Để khắc phục, nhận thức phải vươn lên chặt chẽ với nhau.
giai đoạn cao hơn, giai đoạn lý tính.
Mỗi quan hệ lẫn nhau: Nếu không có nhận thức cảm tính thì tất yếu sẽ không có nhận thức lý tính; Và
nếu không có nhận thức lý tính thì không nhận thức được bản chất của sự vật – chúng có mối quan hệ
tương quan, bổ sung cho nhau phát triển.
Ví dụ về nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính
Ví dụ: Cả công ty rủ nhay đi ăn ở nhà hàng bình dân. Trong lúc đợi, nhân viên phục vụ bê lên một đĩa
thức ăn trông rất hấp dẫn, ngon miệng và khiến bạn có cảm giác muốn ăn ngay lập tức.
Nhận thức cảm tính: Đĩa thức ăn này thật ngon, rất muốn ăn.
Nhận thức lý tính: Đây là một nhà hàng nhỏ, món ăn lại rẻ, nhưng món ăn xào nấu rất đẹp mắt. Không biết
ăn có ngon hay không nữa.
Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức góp phần quan trọng. Thực tiễn đóng vai trò vừa là cơ sở vừa là
động lực, mục đích của nhận thức và là tiêu chuẩn của chân lý, kiểm tra tính chân lý của quá trình nhận
thức, Sở dĩ như vậy vì thực tiễn là điểm xuất phát trực tiếp của nhận thức; nó để ra nhu cầu, nhiệm vụ,
cách thức, khuynh hướng vận động và phát triển của nhận thức.
Chính con người có nhu cầu tất yếu khách quan là phải giải thích thế giới và cải tạo thế giới nên con người
tất yếu phải tác động vào các sự vật, hiện tượng bằng hoạt động thực tiễn của mình. Sự tác động đó làm
cho các sự vật, hiện tượng bộc lộ những thuộc tính, những mối liên hệ và quan hệ khác nhau giữa chúng,
đem lại những tài liệu cho nhận thức, giúp cho nhận thức nắm bắt được bản chất, các quy luật vận động và
phát triển của thế giới.
Thực tiễn là cơ sở, động lực và mục đích của nhận thức còn là vì nhờ có hoạt động thực tiễn mà các giác
quan của con người ngày càng được hoàn thiện, năng lực tư duy logich không ngừng được củng cố và
phát triển, các phương tiện nhận thức ngày càng hiện đại, có tác dụng “nổi dài” các giác quan của con
người trong việc nhận thức thế giới.
Thực tiễn chẳng những là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức mà còn đóng vai trò là tiêu chuẩn của
chân lý, kiểm tra tỉnh chân lý của quá trình nhận thức. Điều này có nghĩa thực tiễn là thước đo giá trị của
những tri thức đã đạt được trong nhận thức.
Đồng thời, thực tiễn không ngừng bổ sung, điều chỉnh, sữa chữa, phát triển và hoàn thiện nhận thức, Tóm
lại thực tiễn chẳng những là điểm xuất phát của nhận thức, là yếu tố đóng vai trò quyết định đối với sự
hình thành và phát triển của nhận thức mà còn là nơi nhận thức phải luôn luôn hướng tới để thể nghiệm
tính đúng đắn của mình.
Phần 2:
Câu 11. Vai trò của sản xuất vật chất trong đời sống xã hội.
VAI TRÒ CỦA SẢN XUẤT VẬT CHẤT:
Xã hội tồn tại và vận động chính là nhờ hoạt động của con người.Trong đó hoạt động sản xuất
vật chất được Mác coi là hoạt động nền tảng, ông nghiên cứu xã hội bắt đầu từ việc nghiên cứu quá trình sản
xuất.
Khái niệm:
- Sản xuất vật chất: là quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác động (trực tiếp hoặc gián
tiếp) vào tự nhiên, cải biến những dạng vật chất của tự nhiên để tạo ra của cải nhằm thỏa mãn
nhu cầu tồn tại và phát triển của con người.
Vai trò của sản xuất vật chất
- Quyết định tới chính sự tồn tại của con người, tạo ra tư liệu sinh hoạt
-Tạo ra các quan hệ xã hội như chính trị, đạo đức
- Cải biến tự nhiên, xã hội, bản thân và con người
- Quyết định với những tiến bộ xã hội

12. Quy luật QHSX phù hợp với trình độ LLSX. Lấy ví dụ vận dụng xem xét vấn đề thực tiễn ở nước
ta.
Quá trình sản xuất của cải vật chất xuất hiện 2 mối quan hệ là mối quan hệ với tự nhiên và mối quan hệ với
con người (phương diện kỹ thuật và kinh tế) Mác gọi là LLSX và QHSX. Chúng không
chỉ là 2 mặt cấu thành PTSX mà chúng còn tác động, quy định lẫn nhau biểu hiện thành quy luật
QHSX phù hợp với trình độ của LLSX.
Quy luật về sự phù hợp giữa QHSX với trình độ phát triển của LLSX:
Nội dung QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX là phép biện chứng cơ bản của chủ nghĩa duy
vật lịch sử, thể hiện phương pháp nhận thức khoa học, đối lập với phép nhận thức siêu hình. Phép biện
chứng này nhìn thấy sự tác động qua lại của QHSX và LLSX trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Mối
quan hệ biện chứng giữa LLSX và QHSX được thể hiện thành một quy luật, đó là quy luật về sự phù hợp
của QHSX với trình độ phát triển của LLSX.
Sự phù hợp là một khái niệm chỉ sự thích ứng giữa các yếu tố cấu thành LLSX và QHSX; giữa LLSX
với QHSX, đem lại 1 phương thức kết hợp giữa lao động sống và lao động quá khứ, tạo ra 1 hiệu quả cao
nhất trong quá trình sản xuất và kinh doanh.
Quy luật về sự phù hợp giữa QHSX với trình độ phát triển của LLSX: là một quy luật cơ bản của sự vận
động và phát triển của XH loài người, là nguyên nhân động lực đưa đến sự thay đổi và phát triển của các
PTSX. Từ CXNT -> CHNL, PK,TBCN-> CSCN
13. Phạm trù hình thái KT-XH. Sự phát triển của các hình thái KT-XH là quá trình lịch sử-tự nhiên.
Liên hệ quá trình xây dựng CNXH ở nước ta.
Sự phát triển của hình thái KT-XH là quá trình phát triển lịch sử tự nhiên.
Trên cơ sở phát hiện ra những quy luật Mác đi tới kết luận “sự phát triển hình thái KT -
XH là một quá trình lịch sử - tự nhiên”
* Các bộ phận của hình thái KT-XH tác động qua lại lẫn nhau tạo thành các quy luật khách quan như:
- QL sự phù hợp của QHSX với trình độ của LLSX
- QL CSHT quyết định KTTT
- Các QL xã hội khác
Các quy luật đó tác động làm cho xã hội phát triển từ thấp đến cao, xét đến cùng là do sự phát triển của LLS
X
14. Quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng
Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng thể hiện ở chỗ, cơ sở hạ tầng nào thì
kiến trúc thượng tầng ấy. Giai cấp nào thống trị về mặt kinh tế thì đồng thời thống trị về mặt tinh thần.
Cho nên, cơ sở hạ tầng nào thì sẽ sinh ra một kiến trúc thượng tầng tương ứng.
Sự biến đổi của cơ sở hạ tầng tất yếu sẽ dẫn đến sự biến đổi của kiến trúc thượng tầng. Sự biến đổi đó diễn
ra trong một hình thái kinh tế – xã hội nhất định, hoặc giữa các hình thái kinh tế – xã hội khác nhau. Khi
cơ sở hạ tầng cũ mất đi thì kiến trúc thượng tầng do nó sinh ra cũng sẽ mất theo và cơ sở hạ tầng mới xuất
hiện thì một kiến trúc thượng tầng mới phù hợp với nó cũng xuất hiện. Cho nên, một khi cơ sở hạ tầng cũ
bị thay thế bằng một cơ sở hạ tầng mới, thì sự thống trị của giai cấp thống trị cũ cũng mất theo, làm xuất
hiện một giai cấp thống trị mới, một nhà nước mới, một hệ tư tưởng thống trị mới.
Một khi cơ sở hạ tầng cũ mất đi thì kiến trúc thượng tầng của nó cũng mất theo. Nhưng có những nhân tố
riêng lẻ của kiến trúc thượng tầng cũ vẫn còn tồn tại rất lâu trong xã hội mới, nhất là về mặt tư tưởng. Mặt
khác cũng có thể có những nhân tố nào đấy của kiến trúc thượng tầng cũ còn được giai cấp thống trị mới
kế thừa. Cho nên trong quá trình chuyển hóa giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng cũ và cơ sở hạ
tầng, kiến trúc thượng tầng mới bao giờ cũng bao hàm sự kế thừa lẫn nhau dưới những hình thức cụ thể
nào đó.
15. Nguồn gốc hình thành giai cấp. Vai trò của đấu tranh giai cấp.
QH sở hữu khác nhau về TLSX quyết định hình thành giai cấp Sở hữu tư nhân bất bình đẳng về của
cải giai cấp
Kết cấu xã hội giai cấp:
Giai cấp cơ bản-giai cấp không cơ bản- tầng lớp trung gian.
 Giai cấp cơ bản: giai cấp gắn với phương thức sản xuất thống trị. VD
 Giai cấp không cơ bản: Giai cấp gắn với phương thức tàn dư và PTSX mầm mống.VD
Tầng lớp trung gian: nhóm xã hội (tri thức, giới tu hành) không có địa vị kinh tế độc lập.
Đấu tranh giai cấp:
Mác và Ănghen “ Lịch sử tất cả các xã hội cho đến nay chỉ là lịch sử đấu tranh giai cấp”
 Lênin: “cuộc đấu tranh của quần chúng bị tước hết quyền, bị áp bức và lao động chống bọn có đặc
quyền, đặc lợi, bọ áp bức và bọn ăn bám, cuộc đấu tranh của những người công nhân làm thuê hay
những người vô sản chống những người hữu sản hay giai cấp tư sản”
Chủ nghĩa Mác đã chỉ ra tính tất yếu của đấu tranh giai cấp
 Mâu thuẫn giữa giai cấp bị áp bức bóc lột và giai cấp áp bức bóc lột sẽ xảy ra đấu tranh giai cấp
Đấu tranh giai cấp là tất yếu do đối lập về lợi ích căn bản không thể điều hòa được

 Đấu tranh giai cấp là cuộc đấu tranh của các tập đoàn to lớn có lợi ích căn bản đối lập
nhau trong một PTSX xã hội nhất định
Thực chất của đấu tranh giai cấp là cuộc đấu tranh của quần chúng lao động bị áp bức, bóc lột chống lại
giai cấp áp bức, bóc lột nhằm lật độ ách thống trị của chúng
Vai trò của đấu tranh giai cấp: Một trong những động lực phát triển của xã hội có giai cấp
– Đỉnh cao của đấu tranh giai cấp tất yếu sẽ dẫn đến cách mạng xã hội để thay thế phương thức sản xuất
cũ bằng một phương thức sản xuất mới tiến bộ hơn. Phương thức sản xuất mới ra đời mở ra địa bàn mới
cho sự phát triển của sản xuất xã hội. Đến lượt mình, sản xuất phát triển sẽ là động lực thúc đẩy sự phát
triển của toàn bộ đời sống xã hội.
Như C. Mác và Ph, Ăng-ghen đã khẳng định: Đỉnh cao của cuộc đấu tranh giai cấp là cách mạng xã hội.
Cách mạng xã hội như là đòn bẩy thay đổi các hình thái kinh tế – xã hội, vì vậy, “đấu tranh giai
cấp là động lực trực tiếp của lịch sử các xã hội có giai cấp”.
– Đấu tranh giai cấp góp phần xóa bỏ các thế lực phản động, lạc hậu, đồng thời cải tạo cả bản thân
giai cấp cách mạng.
Ví dụ như giai cấp tư sản trong thời kỳ cuối của chế độ phong kiến, thời kỳ đầu của chế độ tư bản là giai
cấp cách mạng. Giai cấp vô sản khi vừa ra đời, giương cao ngọn cờ chống áp bức, bóc lột là giai cấp cách
mạng.
Giai cấp nào đại biểu cho phương thức sản xuất mới, giai cấp đó sẽ lãnh đạo cách mạng. Thànhr tựu mà
loài người đạt được trong tiến trình phát triển của lực lượng sản xuất, cách mạng khoa học và công nghệ,
cải cách về dân chủ và tiến bộ xã hội… không tách rời cuộc đấu tranh của các giai cấp tiến bộ chống lại
các thế lực thù địch, phản động.
Cuộc đấu tranh của giai cấp bị trị chống lại giai cấp thống trị là một trong những động lực của phát triển
xã hội. Ảnh: Medium.com.
– Đấu tranh giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản là cuộc đấu tranh sau cùng trong lịch sử xã hội có
giai cấp.
Đó là cuộc đấu tranh khác về chất so với các cuộc đấu tranh trước đó trong lịch sử. Bởi vì mục tiêu của nó
là thay đổi về căn bản sở hữu tư nhân bằng sở hữu xã hội.
+ Trước khi giành được chính quyền, nội dung của đấu tranh giai cấp giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư
sản là đấu tranh kinh tế, đấu tranh tư tưởng, đấu tranh chính trị.
+ Sau khi giành được chính quyền (ví dụ như tại Nga sau cách mạng tháng Mười, tại Việt Nam sau cách
mạng tháng Tám), thiết lập nền chuyên chính của giai cấp vô sản, mục tiêu và hình thức đấu tranh giai cấp
cũng thay đổi.
Mục tiêu của cuộc đấu tranh sau khi giành chính quyền là giữ vững thành quả cách mạng, xây dựng và
củng cố chính quyền của nhân dân; tổ chức quản lý sản xuất, quản lý xã hội,, bảo đảm tạo ra một năng
suất lao động xã hội cao hơn, trên cơ sở đó thủ tiêu chế độ người bóc lột người, xây dựng một xã hội mới,
công bằng, dân chủ và văn minh.
Đó vừa là mục tiêu, đồng thời vừa là nhân tố bảo đảm thắng lợi cho cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản
chống lại giai cấp tư sản.

16. Nguồn gốc và bản chất của Nhà nước. Nhà nước vô sản là nhà nước kiểu mới, liên hệ với Nhà
nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2. Đặc điểm của Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam
Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam có năm đặc điểm:
Một là, nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân, vì dân, một tổ chức thực hiện quyền làm chủ của nhân
dân lao động do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Hai là, nhà nước ta tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc thống nhất quyền lực, tập trung dân chủ, nhưng
có phân công rõ và phát huy hiệu lực của cả ba quyền: lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Ba là, nhà nước ta vừa là bộ máy chính trị – hành chính, vừa là một tổ chức quản lý kinh tế – chính trị – xã
hội – văn hoá. Nhà nước thực hiện hai chức năng: tổ chức xây dựng và trấn áp. Trong đó, chức năng tổ
chức xây dựng là chủ yếu; vì có tổ chức xây dựng thành công xã hội mới, mới đảm bảo thắng lợi hoàn
toàn và triệt để của CNXH.
Bốn là, nhà nước ta có sự thống nhất giữa tính chất dân tộc và tính chất quốc tế; vì lợi ích chân chính của
dân tộc do nhà nước ta đại diện hoàn toàn nhất trí với lợi ích quốc tế của giai cấp công nhân.
Năm là, nhà nước ta là một tổ chức, thông qua đó, Đảng Cộng sản Việt Nam thực hiện vai trò lãnh đạo
của mình đối với tiến trình phát triển của dân tộc. Sự lãnh đạo của Đảng quyết định bản chất giai cấp công
nhân của bộ máy nhà nước.
Để đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nghị quyết TW 3 (khoá VIII) của Đảng ta đã đề ra
3 chủ trương lớn trong việc xây dựng nhà nước là:
Một là, tiếp tục phát huy tốt hơn quyền làm chủ của nhân dân qua các hình thức dân chủ đại diện và dân
chủ trực tiếp để nhân dân tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ nhà nước, nhất là việc giám sát, kiểm tra
của nhân dân đối với hoạt động của cơ quan và cán bộ, công chức nhà nước.
Hai là, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam trong sạch, vững mạnh, hoạt
động có hiệu quả; cán bộ, công chức nhà nước phải thực sự là công bộc, tận tụy phục vụ nhân dân.
Ba là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, xây dựng và hoàn thiện nội dung, phương thức
lãnh đạo của Đảng phù hợp với đặc điểm, tính chất của các cơ quan nhà nước ở từng cấp, chú trọng sự
lãnh đạo của các tổ chức Đảng đối với việc kiểm kê, kiểm soát trong quản lý kinh tế, tài chính.

You might also like