Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 4

A.

Lịch sử phát triển của đào tạo luật tại Mỹ qua các giai đoạn
1. Giai đoạn thông qua chế độ học nghề (apprenticeship ) và tự học (self-
study)
Chế độ học nghề tồn tại cho đến cuối thế kỉ 18 tại Mỹ, theo đó cá nhân
có nguyện vọng học luật sẽ liên hệ với một luật sư và làm việc cho luật sư đó.
Họ sẽ được hướng dẫn cả về học thuyết pháp lý và các kỹ năng pháp lý cần
thiết để trở thành một luật sư. Ngoài ra họ còn tự học qua các bài viết pháp lý
2. Sự thành lập của các trường luật vào cuối thế kỉ 18
Vào cuối thế kỷ 18, các luật sư độc lập hoặc các nhóm luật sư nhỏ bắt
đầu mở các trường luật của họ, cung cấp các bài giảng cho các nhóm sinh
viên có mong muốn trở thành luật sư. Tuy những người tham dự các trường
luật này cũng tham gia vào chế độ học nghề trước khi trở thành luật sư, nhưng
các trường luật tư này đã đánh dấu sự khởi đầu của các lớp hay các khóa pháp
luật ở Hoa Kỳ.
3. Những trường luật ở cấp độ đại học vào cuối thể kỉ 19
Mặc dù các trường đại học ở Hoa Kỳ đã sớm xuất từ đầu thế kỷ 17,
nghiên cứu về luật pháp không được xem là một lĩnh vực học thuật cho đến
cuối thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19, khi các trường đại học bắt đầu thuê giáo sư
luật và mở các khoa luật. Khi pháp luật nổi lên như một lĩnh vực học thuật
dựa trên mô hình châu Âu, đòi hỏi chương trình đạo tạo tổng thể cần có tìm
hiểu về các đối tượng pháp luật. Luật được giảng dạy giống như lịch sử và
kinh tế, và nghiên cứu về pháp luật tập trung vào học thuyết và lý thuyết pháp
lý.Khi việc đào tạo luật ở trường đại học lan rộng, mô hình các trường luật
độc quyền bắt đầu đóng cửa.
Bắt đầu với thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, ngày càng có nhiều người chọn
đào tạo pháp luật tại các cơ sở đại học. Lúc này, Hiệp hội luật sư Mỹ (ABA)
được thành lập. ABA ủng hộ đưa các yêu cầu cho giáo dục pháp luật tại bậc
đại học giống như yêu cầu để hành nghề. Nhiều khu vực tài phán ở Hoa Kỳ
đã chấp nhận đào tạo theo mô hình học việc hoặc giáo dục pháp luật tại đại
học trong giai đoạn này.
Vào cuối những năm 1920 và đầu những năm 1930, chiến dịch của ABA
về giáo dục pháp lý tại trường đại học bắt đầu thành công khi nhiều khu vực
tài phán bắt đầu yêu cầu hoàn thành chương trình đào tạo như một điều kiện
để được nhận vào hành nghề. Trong giai đoạn này, ABA cũng bắt đầu một dự
án nghiên cứu về đào tạo luật sau đại học, cuối cùng ra đời một mô hình đào
tạo ba năm.
4. Sự xuất hiện của những bài kiểm tra đầu vào trường luật vào cuối
những năm 1950
Là cấp độ đào tạo sau khi tốt nghiệp một bằng đại học, các trường luật
yêu cầu sinh viên luật có bằng đại học trong một số lĩnh vực nghiên cứu trước
khi vào trường luật. Vào cuối những năm 1950, các trường luật cũng bắt đầu
yêu cầu các ứng viên thực hiện bài kiểm tra tiêu chuẩn, và đến sau này việc
hoàn thành cuộc kiểm tra như vậy là bắt buộc. Ngày nay, chương trình đào
tạo các trường luật Hoa Kỳ tiếp tục tập trung vào học thuyết và lý thuyết pháp
lý. Năm đầu tiên của Trường Luật thường được giảng dạy bởi các giảng viên
toàn thời gian, và phần lớn các khóa học khác trong hầu hết các trường luật
được giảng dạy bởi các giảng viên toàn thời gian. luật sư và thẩm phán cũng
dạy một số khóa học về cơ sở bán thời gian, thường không có luật sư hoặc
thẩm phán sẽ dạy nhiều hơn một khóa học mỗi năm, và các thành viên giảng
viên luật bán thời gian này được gọi là các thành viên giảng viên pháp luật
phụ trợ.
Thay vì chỉ nghiên cứu, giảng dạy các học thuyết và lý thuyết pháp lý,
đến cuối những năm 1950, các nội dung có tính thực tiễn bắt đầu được tích
hợp vào chương trình giảng dạy tại hầu hết các trường luật. Ngày nay, giáo
dục pháp lý ở Hoa Kỳ vẫn tập trung nhiều vào việc dạy học thuyết và phân
tích pháp lý, mặc dù mọi sinh viên đều nhận được một số hướng dẫn về kỹ
năng luật sư thông qua các khóa học trải nghiệm.
B. Lịch sử phát triển của đào tạo luật tại Anh
1. Sự xuất hiện của các trường dòng luật (Inns)
Vào thế kỉ 13, các trường dòng dạy luật ra đời nhằm đào tạo pháp luật
cho những người có mong muốn hành nghề luật. Việc đào tạo thông qua quan
sát các quy trình tố tụng tại Tòa được thực hiện bởi các luật sư tranh tụng,
đồng thời thông qua các cuộc tranh luận và phiên tòa giả định.
Đến thế kỷ XV 'các bài đọc và bài giảng' về luật đã được đưa ra bởi 'sinh
viên ' và các luật sư hành nghề. Tuy cách thức đào tạo mang tính chính thức
hơn so với trước đo, nhưng không có bất kỳ yêu cầu chính thức nào với người
học ngoài việc 'tham dự đủ số bữa ăn cần thiết' cùng với những người hướng
dẫn
2. Chế độ học nghề
Kể từ khi cuộc nội chiến Anh năm 1642 nổ ra, đào tạo luật tại các trường
dòng dần bị thay thế bằng chế độ học việc tại văn phòng luật sư tranh tụng và
hãng luật. Họ sẽ quan sát các công việc của một luật sư trước khi chính thức
đảm nhận vai trò đó. Bộ luật Anh 1729 yêu cầu một người phải dành 5 năm
tại các văn phòng luật trước khi chính thức hành nghề đã khiến cho chế độ
học nghề trở nên nhàm chán, tẻ nhạt với công việc chủ yếu liên quan tới giấy
tờ và các việc vặt. Tuy nhiên, cũng có một số ngoại lệ khi một số người xuất
phát từ chế độ học nghề có bước phát triển lớn lao trong sự nghiệm như các
cựu tổng thống Mỹ: Tony Addams, Thomas Jefferson-cha đẻ của hiến pháp
Hoa Kỳ, Andrew Jackson, John Marshall.
3. Đào tạo luật tại các trường đại học
Dù luật La Mã được giảng dạy tại các đại học như Cambrigde hay
Oxford từ thế kỉ 12, nhưng thông luật được sử dụng tại các tòa Hoàng gia
không thuộc phạm vi giảng dạy tại đại học do sự xuất hiện của các trường
dòng. Đến khi các trường dòng dần mất vị trí, chế độ học việc nổi lên khiến
phải mất gần hai thế kỉ từ giữa thế kỉ 17-19, đào tạo luật tại các trường đại
học mới có chỗ đứng. Sự phát triển này được đánh dấu bởi một báo cáo của
ủy bản tuyển trạch hạ viện khi cho rằng các đại học nên được đào tạo luật. Và
các đại học đã nhanh chóng tiếp nhận vai trò bằng cách đưa vào chương trình
giảng dạy luật La Mã, luật quốc tế, luật hiến pháp, lịch sử pháp luật,…

You might also like