Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 15

Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 30, Số 2 (2014) 57-71

R.Jakobson và nỗ lực gìn giữ văn hóa Nga, Slav

Nguyễn Thị Như Trang*


Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội,
336 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội, Việt Nam

Nhận ngày 5 tháng 6 năm 2014


Chỉnh sửa ngày 10 tháng 6 năm 2014; Chấp nhận đăng ngày 20 tháng 6 năm 2014

Abstract: Khía cạnh mà chúng tôi quan tâm, băn khoăn và muốn lí giải trong bài báo này chính là:
tại sao R.Jakobson chủ yếu hoạt động nghiên cứu ở hải ngoại, các công trình nghiên cứu của ông
được viết bằng nhiều thứ tiếng nhưng ông vẫn được coi là nhà nghiên cứu của Nga; lí do nào khiến
các công trình nghiên cứu của R.Jakobson tìm được “visa” để trở về Nga? Một trong những lí do,
theo chúng tôi, căn bản và quan trọng nhất: mong muốn và nỗ lực gìn giữ văn hóa Nga và Slav của
ông trong suốt cuộc đời và trong các công trình nghiên cứu. Điều đó được chứng minh từ những
quan sát ban đầu về tiểu sử, gốc rễ văn hóa Nga và Slav và ảnh hưởng của nó trong cuộc đời của
R.Jakobson. Ngôn ngữ và văn học Nga, Slav luôn là “nguồn cảm hứng” cho những nghiên cứu của ông.
R.Jakobson trong cuộc đời mình cũng thực hiện hành trình nghiên cứu không mệt mỏi về văn hóa
và lịch sử Czech/Slav nhằm mục đích nhấn mạnh vai trò của người Slav trong lịch sử Châu Âu và thế giới.
Từ khóa: R.Jakobson, Ngôn ngữ, Văn học Nga, Văn hóa, Lịch sử Slav.

Trong thế kỉ XX, nước Nga chứng kiến nhận… đã được đề cập đến trong rất nhiều bài
nhiều “cuộc di tản” lớn của văn sĩ, trí thức sang báo, công trình, hội thảo [1-2]. Chúng tôi, trong
Tây Âu và Mĩ. Đó cũng là thế kỉ hình thành nên bài viết này không có tham vọng đề cập đến
một bộ phận văn học quan trọng trong tổng thể toàn bộ những đóng góp đồ sộ của ông trên
thẩm mĩ văn học Nga thế kỉ XX - bộ phận văn những lĩnh vực đó. Khía cạnh mà chúng tôi
học hải ngoại. Bên cạnh những nhà văn Nga hải quan tâm, băn khoăn và muốn lí giải chính là:
ngoại đoạt giải Nobel (I.Bunin, A.Solzhenitsyn, tại sao R.Jakobson chủ yếu hoạt động nghiên
J.Brodsky),*không thể không nhắc đến cứu ở hải ngoại, các công trình nghiên cứu của
R.Jakobson - nhà nghiên cứu, phê bình với ông được viết bằng nhiều thứ tiếng nhưng ông
hàng trăm công trình quan trọng, tạo ra những vẫn được coi là nhà nghiên cứu của Nga; lí do
bước ngoặt cho nghiên cứu phê bình, lí luận nào khiến các công trình nghiên cứu của
văn học thế giới. R.Jakobson (cũng như nhiều tác phẩm của các
Những đóng góp của R.Jakobson (1896- nhà văn Nga ở hải ngoại) tìm được “visa” để trở
1982) trong nghiên cứu ngôn ngữ, văn học, văn về Nga? Một trong những lí do, theo chúng tôi,
hóa, folklore, huyền thoại, nghiên cứu tri căn bản và quan trọng nhất: R.Jakobson dù ở
đâu, dù nghiên cứu đối tượng nào cũng luôn thể
_______
*
ĐT.: 84-912922272
Email: trangnguyennhu83@yahoo.com
57
58 N.T.N. Trang / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 30, Số 2 (2014) 57-71

hiện rõ mong muốn và nỗ lực gìn giữ văn hóa giảng dạy tại Đại học Masarik, đứng ra sáng lập
Nga và Slav. và phát triển trường phái ngôn ngữ học Praha.
Ý thức về việc nghiên cứu và lưu giữ văn hóa -
ngôn ngữ Nga, Slav được thể hiện rõ trong
1. Những quan sát ban đầu những hoạt động và các bài báo của R.Jakobson
trong thời gian sống ở Tiệp. Đặc biệt bài báo
Nếu nhìn vào tiểu sử1, có thể thấy ngay rằng
của R.Jakobson Remarques sur l'evolution
quãng thời gian R.Jakobson sống ở Nga không
phonologique du russe comparée à celle des
nhiều: từ 1896-1920, khoảng 24 năm. Hai mươi
autres langues slaves/Ghi chú về sự tiến hóa của
tư năm đó, ông không công bố nhiều công trình
âm vị học Nga được đánh giá là “cuộc cách
nhưng đó chính là thời gian nhà nghiên cứu này
mạng” trong nghiên cứu âm vị học giải thích
thẩm thấu trực tiếp văn hóa Nga, xây dựng cơ
những vấn đề quan trọng của âm vị học từ
sở, nền móng cho những nghiên cứu sau này
của mình. Ông từng học tại Viện Ngôn ngữ chính ngôn ngữ - văn hóa Slav. Những bài
Phương Đông và Đại học Tổng hợp Moskva. giảng của ông ở Trường Đại học từ những năm
Trong những năm tháng là sinh viên của Đại 1930-1939, trong môn học Văn học Nga và văn
học Tổng hợp Moskva, R.Jakobson cùng với học cổ Tiệp Khắc cho thấy cái nhìn và cách
một số sinh viên của Khoa Lịch sử - Ngữ văn nghiên cứu của nhà nghiên cứu trẻ này về thơ
sáng lập ra Câu lạc bộ ngôn ngữ học Moskva – cổ Tiệp khắc, âm vị học và ngữ pháp tiếng Nga,
một tổ chức quy tụ được nhiều nhà ngôn ngữ sứ mệnh của người Byzantine. Theo thống kê
học, lí luận văn học, để rồi từ đó hình thành Hội của MIT libraries, từ năm 1926-1939
nghiên cứu ngôn ngữ thi ca (OPOJAZ) và khai R.Jakobson có khoảng 300 bài báo đề cập đến
sinh ra Trường phái hình thức Nga – một trong ngôn ngữ Tiệp và phân tích tác phẩm văn học
những hiện tượng độc đáo nhất của lí luận phê nói chung trong đó có văn học Nga và văn học
bình văn học thế kỉ XX. Thơ Nga, văn học Nga Tiệp Khắc. Tất cả những điều đó nói lên rằng
có sức hấp dẫn lớn đối với nhà nghiên cứu trẻ chính trong quãng thời gian sống ở môi trường
này, những bài báo đầu tiên của ông dù thuộc văn hóa Nga và Slav, R.Jakobson đã quan tâm
về lĩnh vực ngôn ngữ nhưng đều khảo sát trên nghiên cứu về nó với sự “ám ảnh”, day dứt và
cứ liệu thơ ca nói riêng và văn học Nga nói chung. đam mê. Và điều đó cũng giải thích vì sao
Rời khỏi Nga để đến Tiệp Khắc, từ những những chặng đời tiếp theo, sống trong môi
năm 1920, R.Jakobson có cơ hội tiếp xúc và trường văn hóa khác ông vẫn không thể từ bỏ
chịu ảnh hưởng của văn hóa Tiệp nói riêng và những nghiên cứu về Nga và Slav.
văn hóa Slav nói chung. Quãng thời gian ông Quả thực, R.Jakobson trải nghiệm phần lớn
sống ở Tiệp cũng gần tương đương với quãng cuộc đời mình, khoảng 42 năm, ở Mĩ (1941-
thời gian ông sống ở Nga. Ông nhận bằng Tiến 1982), mở rộng lĩnh vực nghiên cứu của mình
sĩ của Đại học Charles và trở thành giáo sư và công bố rất nhiều công trình có giá trị về ngữ
_______ âm, ngữ nghĩa, thi pháp, huyền thoại học, ngôn
1
Độc giả có thể tham khảo những mốc thời gian cụ thể
ngữ học tri nhận và ngôn ngữ học bệnh lý….
trong cuộc đời và sự nghiệp nghiên cứu cùng danh mục
các công trình của R.Jakobson trên MIT libraries: Guide to song không vì thế những nghiên cứu về Nga và
the papers of Roman: Slav bị lãng quên. Ở các trường Đại học như
http://libraries.mit.edu/archives/research/collections/collec
tions-mc/mc72.html#ref8425 l'Ecole Libre des Hautes của New York,
N.T.N. Trang / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 30, Số 2 (2014) 57-71 59

Columbia, Havard, hay Massachusetts Institute 1. Phonological Studies/Những nghiên cứu


of Technology (MIT), R.Jakobson trước hết là về âm vị học, 1971
một giáo sư dạy ngôn ngữ và văn học Slav, 2. Word and Language/Từ và ngôn ngữ, 1971
truyền giảng những nghiên cứu về Nga và Slav 3. The Poetry of Grammar and the
đến sinh viên Mĩ. Tiếp tục niềm say mê, quan Grammar of Poetry/Thơ của ngữ pháp và ngữ
tâm đến ngôn ngữ và văn hóa Czech/ Tiệp, ông pháp của thơ, 1980
xây dựng các tạp chí của người Czech, những 4. Slavic Epic Studies/Những nghiên cứu về
tờ báo của người Mĩ gốc Czech. Ông lên tiếng sử thi của người Slav, 1966
phản đối mạnh mẽ Egon Hostovsky - một
5. On Verse, Its Masters and Explores/Về
người Czech nhập cư, vì đã khắc họa chân dung
thơ, nghệ nhân và những khám phá, 1978
của người trí thức Czech như là những người
6. Early Slavic Paths and Crossroads/
cộng tác với Đảng Quốc Xã Đức trong cuốn
Những con đường và bước ngoặt của ngôn ngữ
sách Seven Times in the Main Role. Sự phản đối
Slav gần đây, 1985
này khiến R.Jakobson rơi vào một cuộc tranh
cãi gay gắt và dai dẳng với những người nhập Nhìn vào tên gọi 6 tập sách, có thể thấy có
cư khác, những người ủng hộ tự do cho người đến 2 tập dành riêng để tập hợp những công
nghệ sĩ. Những lá thư từ những người bạn như trình nghiên cứu về văn học và ngôn ngữ Slav –
tập IV và tập VI. Nhưng điều đó không có
nhà ngôn ngữ Bohuslav Havranek và Ladislav
nghĩa những tập sách còn lại không đề cập đến
Novomesky, các nhà văn, nhà thơ, những người
các vấn đề có liên quan đến ngôn ngữ, văn hóa,
bạn, thành viên của Devetsil cũng là những
văn học Nga và Slav. Ngay trong tập 1 – Những
minh chứng thể hiện sự gắn bó của R.Jakobson
nghiên cứu về âm vị học ta có thể bắt gặp nhiều
với đất nước Czech.
bài viết đề cập và sử dụng ngôn ngữ, văn hóa
Khó có thể thống kê hết được số lượng công Slav như là cứ liệu nghiên cứu. Với bài báo
trình nghiên cứu/bài báo/tham luận của Linguistic Evidence in comparative mythology,
R.Jakobson. Stephen Rudy từ năm 1971 đến R.Jakobson tập trung so sánh rất thuyết phục
năm 1985 đã tập hợp các công trình của R. huyền thoại của Nga và Slav với huyền thoại
Jakobson và xuất bản bộ sách: Jakobson Phương Tây, trong đó đặc biệt nhấn mạnh vai
R., Selected Writings (ed. Stephen Rudy). The trò của những Vị thần/Chúa của người Slav
Hague, Paris, Mouton. Năm 1990 nhà nghiên (Slavic Gods). R.Jakobson cũng không bỏ qua
cứu này một lần nữa tiến hành một công trình những hiện tượng đặc biệt trong ngôn ngữ Slav,
rất công phu Roman Jakobson 1896 - 1982: A đặc biệt là các tính từ và khả năng ám chỉ mối
Complete Bibliography of His Writings với quan hệ không gian của nó trong bài báo
mong muốn tập hợp công trình nghiên cứu của Spatial relationship in slavic adjective… Nhìn
R.Jakobson theo thời gian. Song cho đến nay tổng quát có thể thấy, R.Jakobson tập trung sự
khi tìm hiểu về R.Jakobson, Selected quan tâm của mình đến bốn đối tượng và bốn
Writings vẫn là bộ sách được sử dụng nhiều hướng: ngôn ngữ học và chủ nghĩa cấu trúc,
hơn, bởi Stephen Rudy đã phân chia 6 tập những nghiên cứu về Nga, những nghiên cứu về
tương ứng với 6 chủ đề nghiên cứu: Slav và kí hiệu học. Điều đó có nghĩa là Nga và
Slav luôn là niềm trăn trở, là đối tượng khơi gợi
cảm hứng nghiên cứu, ý tưởng nghiên cứu cho
60 N.T.N. Trang / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 30, Số 2 (2014) 57-71

R.Jakobson. Ở đây chúng tôi sẽ điểm lại những hóa Slav. Kỷ yếu của Hội nghị Slav quốc tế và
hoạt động, những nỗ lực của R.Jakobson trong Ủy ban quốc tế của người Slav đã phác họa một
nghiên cứu về Slav và nghiên cứu về Nga để bức tranh về cộng đồng các học giả quốc tế và
chứng minh rằng Nga và Slav luôn là nguồn ảnh hưởng của Jakobson với cộng đồng đó,
cảm hứng, là nỗi khắc khoải một đời của nhà cũng như nét phác thảo về sự phát triển của
nghiên cứu hải ngoại này. nghiên cứu Slav ở Mĩ trong quãng thời gian 40
Trong nghiên cứu về Slav, văn học, huyền năm. Ngoài ra, các tài liệu về các hội nghị và
thoại và folklore của những nước đó thu hút xuất bản phẩm Slav cũng được tìm thấy ở các
Jakobson suốt cả cuộc đời từ những năm tháng trường Đại học của Mĩ, trong đó có những trao
tuổi trẻ đến những năm cuối đời. Từ những năm đổi thư từ của Jakobson với đồng nghiệp và bè
1930, R.Jakobson đã say đắm với Chính thống bạn lâu năm của ông, học giả người Byzantine-
giáo Đông phương. Những bài giảng tại Đại Đức cha Francis Dvorník.
học Masaryk năm 1936-1937 đã chứng minh Nga học cũng là một định hướng, lĩnh vực
rằng ông không chỉ quan tâm đến phương diện mà R.Jakobson miệt mài theo đuổi. Bởi ông là
ngôn ngữ, không chỉ xem văn bản liên quan đến một người sinh ra ở Nga, dạy tiếng Nga và văn
nhà thờ Slav như là văn bản và ngôn ngữ văn học Nga suốt đời. Những bài giảng đầu tiên của
chương Slav cổ nhất mà còn nhìn nó từ điểm ông đề cập đến tất cả các phương diện của tiếng
nhìn xã hội. Ông thấy trong công trình của Nga, đặc biệt là âm vị học Nga. Các tập bài
Constantine dấu hiệu sớm nhất về những nỗ lực giảng thể hiện rõ điểm cốt yếu trong cách tiếp
tự quyết dân tộc và biểu hiện đầu tiên của cận của Jakobson với Nga học, thể hiện toàn bộ
những tư tưởng dân chủ. Những bài viết trong những cách tân của ông trong ngôn ngữ học,
những năm 1950 liên quan đến Kyto giáo của đặc biệt nhất là sự phát triển lí thuyết của ông
người Slav cũng cho thấy cái nhìn sâu sắc của về những nét đặc trưng trong ngôn ngữ Nga.
R.Jakobson về chủ đề này. R.Jakobson tiếp tục phát triển những nghiên
Bên cạnh những đóng góp trong nghiên cứu cứu về âm vị học trong tiếng Nga của mình ở
Slav, R.Jakobson còn nỗ lực cổ vũ và hỗ trợ Đại học Havard vào những năm đầu 1950.
truyền bá văn hóa Slav ở Mĩ và Châu Âu. Ở Mĩ, Cùng với Gunnar Fant và Morris Halle, ông đã
ông trở thành người lãnh đạo của Khoa Slav tại định nghĩa một cách hệ thống mối quan hệ giữa
các đại học Columbia và Harvard, và cũng là các đặc điểm ngữ âm.
người đã hỗ trợ tìm việc làm cho nhiều người Trong các bài giảng và công trình về hình
nhập cư đến từ nước Đức Quốc xã. Những bài thái học tiếng Nga (biến cách, danh từ và động
viết, giáo án cho các khóa học về lịch sử và văn từ tiếng Nga), R.Jakobson đã áp dụng những
minh Slav là những tư liệu ông sử dụng để đào tạo nguyên lí mà ông phát hiện được trong những
một thế hệ người Slav mới. nghiên cứu về âm vị học. Ông đưa ra cách tiếp
R.Jakobson đã làm việc không mệt mỏi để cận mới mẻ khi nghiên cứu cấu trúc của động
tập hợp người Slav trong một cộng đồng quốc từ và hệ thống cách của tiếng Nga. Ông đã tham
tế. Trao đổi thư từ, kế hoạch làm việc, quyết gia mười khóa dạy tiếng Nga, trong đó có cả
định, biên bản, báo cáo, nỗ lực tổ chức của ông một loạt bài giảng từ những năm ông dạy ở Đại
và sự tham gia của ông vào những hội thảo, hội học Havard.
nghị chuyên đề về Slav là minh chứng cho sự Rất nhiều ghi chép và bản phác thảo minh
quan tâm gắn bó của ông với con người và văn chứng cho sự quan tâm của ông với văn học
N.T.N. Trang / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 30, Số 2 (2014) 57-71 61

Nga. Phần lớn công trình của Jakobson về ngữ, văn học và văn hóa Nga” ở Đại học
truyền thống sử thi Nga tập trung vào Câu Wellesley. Những ghi chép của loạt bài giảng
chuyện về cuộc hành binh Igor2. Từ 1932 đến này tóm lược nội dung chính của các công trình
1965 nhà nghiên2cứu này có 9 công trình (bài và cách nhìn của ông về ngôn ngữ và văn học
báo, chuyên khảo, dịch thuật) về Câu chuyện về Nga trong suốt cả cuộc đời.
cuộc hành binh Igor. Năm 1966, các công trình
đó được tập hợp trong R.Jakobson. Selected
Writings. Vol. 4. Slavic Epic Studies. The 2. Ngôn ngữ, văn học Nga và Slav - “nguồn
Hague; Paris, 1966. Mối quan hệ của Jakobson cảm hứng” cho những nghiên cứu của R.
với Vladimir Mayakovsky đã giúp ông hiểu sâu Jakobson
cấu trúc các bài thơ của nhà thơ này. Cùng với
2.1.Từ những đặc trưng ngôn ngữ Nga/ Slav
V.Mayakovsky, Marina Tsvetaeva là nhà thơ
đến những suy ngẫm về đặc trưng ngôn ngữ và
mà R.Jakobson đặc biệt quan tâm. Công trình thi ca
của ông về nữ thi sĩ này được viết để đáp lại lời
phê bình của Simon Karlinsky về bản dịch sang Đông Slav3 là khu vực được R.Jakobson
tiếng Anh những bài thơ của Tsvetaeva. chú ý và được nhắc đến nhiều nhất trong các
R.Jakobson đã phân tích chi tiết bài thơ công trình nghiên cứu, bởi qua quan sát ngôn
Pis'mo/Lá thư của bà và một bài báo ngắn chỉ
ngữ của khu vực đó, ông nhìn thấy và chứng
trích sai lầm của Karlinsky khi hiểu thơ của
minh được các quy luật phổ quát của ngôn ngữ
Tsvetaeva. Ông cũng để lại nhiều bài nghiên
nói chung. Một trong những quy luật và nguyên
cứu thú vị về B.Pasternak, S.Esenin và
lí quan trọng được R.Jakobson nhấn mạnh từ
A.Pushkin trong công trình về thơ Nga.
việc nghiên cứu các xung đột trong ngôn ngữ
R. Jakobson vẫn thường được coi là cố vấn Slav chính là: bên cạnh những đặc điểm, yếu tố
cho một vài dự án của các học giả và các viện cùng tồn tại, ngôn ngữ luôn luôn hàm chứa mối
nghiên cứu khác. Mối quan hệ thư từ với Đại quan hệ đối lập xung đột của những yếu tố
học Wayne từ năm 1963-1967, các văn bản về không thể đồng tồn, những yếu tố loại trừ lẫn
vai trò của ông như là một cố vấn cho việc xuất nhau: “nếu a tồn tại, thì b biến mất”/ “Nếu A thì
bản cuốn từ điển tiếng Nga mới và sách giáo không B”. Ngạc hóa phụ âm và âm vực/cao độ
khoa tiếng Nga được Trung tâm phương pháp (cụ thể hơn có các cặp loại trừ nhau: phụ âm và
Tự nhiên xuất bản cũng chứng minh rõ điều đó. thanh điệu cố hữu, nguyên âm và thanh điệu
Đây là cuốn sách thể hiện rất rõ định hướng biến điệu), trọng âm lực và trọng âm lượng là
nghiên cứu từ vựng tiếng Nga của R.Jakobson những đặc điểm nằm trong mối liên hệ mà
bởi nó được xây dựng dựa trên việc học từ vựng nguyên lí đó nêu ra. Trong tất cả các ngôn ngữ
và cấu trúc ngữ pháp trong văn cảnh tình Slav dường như âm vực không bao giờ kết nối
huống. với hiện tượng ngạc hóa âm vị. Theo đó có thể
Đến những năm cuối đời, R.Jakobson vẫn hình dung các ngôn ngữ này theo ba nhóm đặt
đau đáu những suy nghĩ về văn hóa, văn học, trong nguyên lí xung đột:
ngôn ngữ Nga. Năm 1980, ông giới thiệu loạt
_______
bài giảng “Những con đường phổ quát của ngôn 3
Trong quan niệm của R.Jakobson, Đông Slav bao gồm:
_______ Nam Ukraina, Bắc Ukraina, Nam Belarus, Bắc Belarus và
2
Một thiên sử thi của văn học Nga cổ (thế kỷ XII) Nga
62 N.T.N. Trang / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 30, Số 2 (2014) 57-71

Nhóm ngôn ngữ có hiện tượng ngạc hóa âm những liên tưởng thú vị được phát hiện trong
vị nhưng thiếu âm vực/cao độ (Các ngôn ngữ chính những song hành, đối lập về mặt cú pháp
Đông Slav, Bulgaria, Ba Lan) đó. Nhà nghiên cứu đã phân tích rất thuyết phục
Nhóm các ngôn ngữ có cao độ/âm vực cấu trúc cú pháp bài ca hôn lễ của Nga. Từ quan
nhưng thiếu hiện tượng ngạc hóa (Serbo– sát cách tổ chức cú pháp và hình thái, ông cho
Croatia, Slovenia) rằng “con chim ưng rực sáng” và “con ngựa
nhanh nhẹn” là những ẩn dụ liên quan tới
Nhóm các ngôn ngữ thiếu cả hiện tượng
“chàng trai hiền lành đi tới cổng”. “Con ngựa
ngạc hóa và âm vực (Tiệp, Slovakia,
nhanh nhẹn” xuất hiện ở dòng trước trong cùng
Macedonia)
một vị trí thi luật và cú pháp với “chàng trai
Từ sự phân loại đó R.Jakobson đi sâu lí giải hiền lành” thể hiện đồng thời như một cái gì đó
tại sao lại diễn ra kiểu xung đột đó với ngôn tương đồng với chàng trai vừa như thuộc tính
ngữ mỗi nước, những ảnh hưởng và sự tiếp nối của anh ta. Từ đó ông rút ra kết luận: “trong các
mô hình ngôn ngữ của nhau để hình thành nên bài ca hôn lễ và các biến thể khác của folklore
khu vực ngôn ngữ Slav vừa có những đặc trưng Nga “con ngựa nhanh nhẹn” trở thành biểu
riêng vừa phản ánh những quy luật ngôn ngữ tượng phồn thực tiềm tàng hoặc hiện ra rõ rệt” [5].
nói chung.
Điểm qua như vậy để thấy rằng, trong các
R.Jakobson không chỉ dừng lại ở việc trang viết của R.Jakobson, ngôn ngữ, văn học
nghiên cứu các cặp đối lập trong từ, âm vị mà Nga, Slav luôn là những nguồn cứ liệu đặc biệt,
còn mở rộng ra cả trong cú pháp. Thơ ca Nga những gợi ý để ông đi xa và đi sâu hơn nữa
và Slav được ông khảo sát rất kĩ, và trở thành trong những luận điểm khoa học của mình. Từ
những cứ liệu gợi ý cho nhà nghiên cứu tìm một phía khác, qua những trang viết đó người
hiểu một đặc điểm quan trọng trong ngữ pháp đọc có thể hình dung về tính độc đáo, đa dạng,
của thơ: sự song hành và đối lập. Từ những đa tầng và phức tạp của ngôn ngữ và văn học
song hành và đối lập trong cú pháp, những so Nga, Slav. Đó là một nguồn mạch cần khám
sánh đối lập trong hình ảnh thơ, R.Jakobson phá và luôn mở ra những chân trời mới.
đưa ra những cặp ý nghĩa song hành và đối lập.
Ông đã phân tích rất kĩ bản ballat của vùng Bắc 2.2 Những khám phá về thi ca Nga
Nga Vaxili và Sophia theo chiều hướng đó.
Nhiều dẫn chứng được dẫn ra để chứng minh Ngoài việc sử dụng ngôn ngữ, thi ca Nga
rằng “sự kết nối của người anh và người em gái như những cứ liệu, dẫn chứng để làm rõ các
được ghép chặt bằng các nhóm lặp lại” [4], sự luận điểm của mình hoặc để rút ra và chứng
gắn kết của cây liễu trên mộ người anh, cây minh các quy luật ngôn ngữ, R.Jakobson còn có
bách trên mộ người em. Theo ông, sự kết hợp những chuyên luận đem đến cho độc giả cái
của những câu cặp đôi, hình ảnh cặp đôi trong nhìn sâu, mới mẻ về các nhà thơ, nhà văn Nga.
bài ca này là sự lặp lại motif cái chết của đôi Trong đó R.Jakobson dành nhiều tâm huyết cho
tình nhân. sáng tạo thơ của V.Mayakovsky, B.Pasternak
Ngoài ra, R.Jakobson khi khảo sát kĩ cấu và A. Pushkin. Qua các cuốn sách dành riêng
trúc ngữ pháp, sự song hành và đối lập trong cho ba nhà thơ Nga này, ta có thể hình dung ra
thơ ca Nga, Slav nói riêng, thơ ca nói chung cách R.Jakobson tiếp cận với lịch sử văn học,
còn chứng minh rằng, các ẩn dụ, hoán dụ,
N.T.N. Trang / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 30, Số 2 (2014) 57-71 63

những điểm độc đáo trong thi pháp thơ của các có mặt ở các quảng trường, các đường phố và
nhà thơ Nga. các bãi chiến trường của cuộc cách mạng chỉ
V.Mayakovsky được R. Jakobson đề cập với một mình ông mà thôi” [6]. Vì thế chuyên
đến trong tập tiểu luận On a Generation that luận của R.Jakobson dành cho Mayakovsky là
Squandered its Poets/ Về một thế hệ đã lãng phí những khám phá để sự vắng mặt của ông trên
những nhà thơ của nó (1931). Nhà nghiên cứu cõi đời không phải là sự chấm dứt tất cả, không
quay trở về với luận đề mĩ học của chủ nghĩa vị phải là sự vắng mặt của những suy tư, những bi
lai, rằng chủ nghĩa vị lai đã thay thế mô hình kịch ông đã gửi vào trong những vần thơ, để
thời gian và sự kiện theo quy ước, tiến lên bằng mọi người nhận diện được một chân dung
sự xuyên thấu vào nhau giống như cầu vồng Mayakovsky.
của của các trục đồng đại và lịch đại. Những Theo R.Jakobson, thơ Mayakovsky từ dòng
người khởi xướng cuộc cách mạng này chính là đầu đến dòng cuối đều là một và không thể chia
Gumilev, Blok, Khlebnikov, Esenin và cắt, là sự phát triển biện chứng của một chủ đề,
Mayakovsky và họ đã ra đi. R.Jakobson lo sợ một hệ thống biểu tượng chặt chẽ. Chủ đề đó,
và đau khổ khi nhận ra rằng sẽ không có “sự hệ thống biểu tượng đó gắn liền với nhân vật
thay thế thậm chí là không có bất cứ một phần “Tôi” độc đáo của nhà thơ4. Cái “tôi” đó “vượt
củng cố thêm” cho thế hệ tài năng bị hoang phí qua vành đai cuối cùng” để hướng đến một
này. Ông lo lắng rằng những bài thơ của tương lai, hướng đến sự đầy đặn của sự sống
Mayakovsky sẽ không còn là “một phần của sự “người ta phải trích ra được niềm vui từ những
vận động lịch sử nữa (mà) bị chuyển thành ngày chưa đến”. Nhưng đó cũng là hiện thân
những sự kiện lịch sử - văn học”, rằng yếu tố của một bi kịch.
lịch sử sinh động của văn bản thơ mà Nghiên cứu sự vận động chủ đề, đặc điểm
Mayakovsky nhấn mạnh và những gì giữ cho cái “tôi” trong thơ V.Mayakovsky, R.Jakobson
bài thơ khỏi cơ chế quyết định luận của hiện tại, nhận ra rằng sự hòa hợp, gắn bó quan trọng của
quá khứ và tương lai sẽ bị bưng bít bởi những thơ V.Mayakovsky với chủ đề cách mạng đã
quy trình tương tự như thế này: “khi ca sĩ đã ra được lưu ý nhiều. Nhưng một sự nối kết không
đi, bài hát của họ bị kéo vào viện bảo tàng và thể chia cắt được của các motif trong tác phẩm
ghim lên bức tường của quá khứ, thế hệ mà họ của Mayakovsky đã không được quan tâm
đại diện cô độc, mồ côi và mất mát hơn” chính là: cách mạng và cái chết của nhà thơ.
[6].Tác phẩm của Mayakovsky chứa đựng Nhà thơ đã bắt gặp được nhạc điệu của tương
những minh chứng về cuộc cách mạng, tập hợp lai bằng đôi tai tham lam vô độ nhưng ông
các sự kiện của lịch sử vào một trục duy nhất không đặt cược số phận của mình vào miền đất
quá khứ, hiện tại và tương lai. Tiểu luận của hứa. Một cái nhìn về tương lai luôn thường trực
R.Jakobson ám gợi đến mối quan hệ mơ hồ trong hầu hết các trang viết của Mayakovsky.
giữa hiện thực, sự hiện diện của nhà thơ trong Với Mayakovsky tương lai là một sự tổng hợp
văn cảnh, và bản sao hình ảnh của ông trong biện chứng. Ý tưởng về sự xóa bỏ các mâu
văn bản đã được chuyển đổi của bài thơ. thuẫn được thể hiện ở hình ảnh khôi hài của
R.Jakobson đã viết rằng “Những từ ngữ trong Chúa trong các ván cờ với kẻ sát nhân, trong
Những bài thơ cuối cùng của Mayakovsky bỗng huyền thoại về vũ trụ tràn ngập tình yêu thương
nhiên đem lại một nghĩa bi kịch”. “Nhà thơ của
chúng ta là một Mayakovsky đa trạng thái, ông _______
4
Tập thơ đầu tiên của V.Mayakovsky cũng có tên là “Tôi”
64 N.T.N. Trang / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 30, Số 2 (2014) 57-71

và trong lời đề nghị “Công xã là nơi quan chức cũng đã tự so sánh cuộc đọ kiếm của ông với
biến mất, và sẽ chỉ còn thơ và những bài ca”. V. cái phàm tục và những cuộc đấu kiếm của
Mayakovsky cũng nuôi dưỡng một niềm tin Pushkin và Lermontov. Số phận của họ đem
rằng phía sau cuộc cách mạng là “thiên đường đến cảm giác đột ngột và trống rỗng khi hướng
thực sự trên trái đất”, giải pháp duy nhất có thể về phía trước, cảm giác ngột ngạt về cái ác đang
có cho các xung đột. đè nặng lên đời sống tinh thần của nước Nga.
R. Jakobson nhận ra chân dung Vì thế, chuyên khảo của R.Jakobson ở thời
V.Mayakovsky - một người đi theo chủ nghĩa vị điểm xuất hiện đã đề xuất một cách nhìn mới về
lai từ những cảm nhận đó song ông còn thấy số phận, cảm hứng thi ca và cách tiếp cận với
rằng motif tự tử vốn xa lạ với chủ nghĩa vị lai, thơ V.Mayakovsky, cung cấp cho thế giới một
xuất hiện trong tác phẩm của V.Mayakovsky và cách nhìn mới về một nhà thơ tưởng như đã
ngày càng trở nên cấp thiết. Trong những bài quen thuộc của Nga.
thơ nồng nhiệt nhất của V.Mayakovsky Người R. Jakobson cũng dành riêng cho
đàn ông (1916) và Về điều này (1923), dự cảm B.Pasternak một chuyên luận. Ông coi
cái chết luôn ám ảnh. Mỗi tác phẩm của ông là B.Pasternak như một nhà thơ và một nhà viết
một bài ca báo điềm gở về chiến thắng của tiểu thuyết, so sánh B.Pasternak với
tương lai, xoáy sâu chủ đề chính “Vấp đời V.Mayakovsky và Klebnikov. Ông bắt đầu
phàm tục/Tan vỡ chiếc thuyền tình”, mặc dù chuyên luận với một nhận xét rằng có những sự
ông đã từng tranh luận với Esenin: “Trên đời khác nhau đáng chú ý giữa văn xuôi của nhà
này chết chẳng có gì khó/Nhưng sống để dựng thơ và văn xuôi của nhà văn và giữa thơ của
xây cuộc đời khó biết bao nhiêu”. nhà văn và thơ của nhà thơ. “Một nhà leo núi đi
Cuối đời, những vần thơ ngợi ca, châm trên đồng bằng có thể không tìm được một chỗ
biếm của V.Mayakovsky hoàn toàn làm lu mờ nghỉ chân và trượt chân trên đất. Anh ta di
những khúc bi thương của ông. Nhìn lại những chuyển với sự vụng về hay gượng gạo quá đỗi,
nghiên cứu của phương Tây về Mayakovsky, cả hai trường hợp đều không phải là dáng đi tự
R.Jakobson cho rằng ở đó, hạt nhân chính, cảm nhiên mà liên quan đến nỗ lực hiển nhiên và sự
hứng chính trong thơ Mayakovsky không bị quan sát quá nhiều giống như bước đi của
nghi ngờ. Phương Tây chỉ biết đến “một người những vũ công. Dễ dàng nhận ra ngôn ngữ
đánh trống của cuộc cách mạng tháng Mười”. được học, tuy nhiên sự hoàn hảo trong việc làm
Những lí giải về thành công của những tác chủ nó chỉ có được từ người có nó một cách tự
phẩm tuyên truyền được đưa ra theo nhiều cách nhiên” [7].
khác nhau. R. Jakobson mong mỏi đừng hạ thấp R. Jakobson không tranh luận rằng
V.Mayakovsky như một người tuyên truyền Pasternak nhà thơ là người có phong cách tồi
theo chiều kích đơn giản, những cách giải thích hay một người có tài năng vượt trội; mà chỉ ra
phiến diện về cái chết của ông là nông cạn, mơ rằng sự gia nhập thất thường của hoán dụ văn
hồ. Nhà nghiên cứu dẫn ra rằng ở tuổi 31, xuôi trở nên hiển nhiên trong tác phẩm thi ca
Ryleev bị tử hình. Ở tuổi 36, Batiushkov bị của ông. Ông lưu ý rằng thơ và văn xuôi của
điên. Venevitinov mất lúc 22 tuổi. Griboedov bị Pasternak “được nhuộm đầy hoán dụ, nói cách
giết ở tuổi 34. Lermontov - 26 tuổi và Pushkin - khác đó là sự liên kết bởi những thứ tiếp giáp
37 tuổi. Cách kết thúc số phận của họ, theo ông, nhau” [7]. Văn xuôi Pasternak xứng đáng được
cũng thuộc về dạng thức tự tử. Mayakovsky ca tụng như là tác phẩm trữ tình, nhưng ông chỉ
N.T.N. Trang / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 30, Số 2 (2014) 57-71 65

ra rằng tính tượng trưng được tạo ra nhờ sự dịch Bakhtin nói đến tính cần thiết của người viết
chuyển: “hai đặc điểm nổi bật - sự xâm nhập tiểu thuyết “tự định hướng” với những hoàn
lẫn nhau của các đối tượng (việc tạo dựng hoán cảnh phi văn chương của ngôn ngữ và đưa
dụ trong nghĩa chính xác của từ) và sự phân li những “nét riêng” này vào trong “mặt phẳng
(việc tạo dựng phép hoán dụ) - đưa tác phẩm diễn ngôn của mình”. Cùng sử dụng một thuật
của Pasternak đến gần với những nỗ lực của các ngữ nhưng Jakobson bất đồng quan điểm với
họa sĩ lập thể” [7]. Bakhtin:
Và ông chỉ ra cách mà B.Pasternak lắp sự “Rất hợp lí khi cố gắng tìm một sự tương
liên kết hoán dụ kế tiếp nhau vào những đặc ứng giữa các mặt phẳng khác nhau của thực tại,
trưng “chủ âm” của diễn ngôn thơ. Kết quả là, cũng như cố gắng phỏng đoán các sự thực về
ông chứng minh được rằng thơ của Pasternak một trong những mặt phẳng từ các sự thực
phô diễn độ căng giữa sự liên kết văn cảnh hoán tương ứng về mặt phẳng khác - phương pháp
dụ của người sáng tạo và yêu cầu bên trong của chính là một cách phát ra hiện thực đa chiều
cấu trúc thơ, ở đó tính tự nhiên cụ thể của kí kích trên một bề mặt. Tuy nhiên, sẽ là sai lầm
hiệu kéo ngược lại chức năng tham chiếu của khi nhầm lẫn sự phóng chiếu này với bản thân
nó. Tuy nhiên, Mayakovsky và Khlebnikov hiện thực và coi nhẹ cả cấu trúc đặc thù và sự
khéo léo chấp nhận ưu thế nổi trội của kí hiệu. vận động tự trị của các mặt phẳng cá nhân” [7].
Thế giới biểu tượng của Khlebnikov được hiểu Lý lẽ của R.Jakobson và trường phái
rằng với ông mỗi biểu tượng, mỗi từ tạo ra Bakhtin đều thống nhất rằng hiện thực là khái
được cung cấp một thực tại hoàn toàn độc lập niệm mang tính tương đối, dễ vỡ vụn, là một
và câu hỏi về mối quan hệ của nó với bất kì đối cấu trúc của phối cảnh, hệ tư tưởng và hệ thống
tượng bên ngoài nào, thực chất là câu hỏi về sự kí hiệu hơn là một thực thể bất biến. Song đối
tồn tại một đối tượng nào đó là không cần thiết. lập với trường phái Bakhtin coi nghệ sĩ ngôn từ
Nếu M.Bakhtin lập luận rằng việc như là một người nào đó tái dựng lại hình ảnh
B.Pasternak loại bỏ kĩ thuật lấy kí hiệu là trung ngôn ngữ, tư tưởng, xã hội của một hoàn cảnh
tâm của Khlebnikov, Mayakovsky và những đặc biệt, R.Jakobson khẳng định rằng thơ tự
nhà vị lai thể hiện mối quan hệ nhân quả trực trong nó là một hoàn cảnh, đồng thời là một
tiếp giữa văn xuôi và những hoàn cảnh xã hội ngôn ngữ độc lập, phi lịch sử và là một hệ
và chính trị hỗn loạn của thời đại (chúng ta thống hấp thu và phản chiếu cái tôi của nhà thơ
đang nói về nước Nga trước và sau cuộc cách và phối cảnh của nhà thơ về thế giới của anh ta.
mạng), thì R.Jakobson lại xác nhận lịch sử văn Từ những nhận định đó, R.Jakobson đã đề xuất
học, đặc biệt là lịch sử thi ca, liên quan đến quá việc nghiên cứu thơ B.Pasternak trong mối
khứ, hiện tại và tương lai của nó vì nó như là quan hệ cá nhân, văn bản (text) và văn cảnh
bản ghi chép hay dấu hiệu về sự tồn tại của các (context) song mỗi yếu không bị hấp thu hoàn
sự kiện và hoàn cảnh phi văn chương. Ông toàn bởi những yếu tố còn lại.
không cho rằng lịch sử văn học tiếp diễn không Trong chuyên khảo Bức tượng trong huyền
phụ thuộc vào lịch sử, nhưng ngược lại với thoại bằng thơ của Pushkin (1937) - ta bắt gặp
Bakhtin, cách giải quyết của người nghệ sĩ ngôn cách sử dụng phức tạp và độc đáo mô hình này
từ về mối quan hệ của kí hiệu và vật ám chỉ nên của R.Jakobson với cuộc đời và tác phẩm của
được coi là hoạt động độc lập và không phải là một nhà thơ đặc biệt. Huyền thoại theo cách
sự kiện mà ở đó vật ám chỉ điều khiển kí hiệu. hiểu của R.Jakobson là: “những yếu tố gắn
66 N.T.N. Trang / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 30, Số 2 (2014) 57-71

chắc, cấu thành bất biến nào đó, là phương tiện Nhà nghiên cứu cũng chỉ rõ sự thay đổi vị
thống nhất vô số tác phẩm của nhà thơ chứng tỏ trí của một tác phẩm thuộc về một thể loại nghệ
những tác phẩm này là của riêng nhà thơ” [7]. thuật sang một kiểu thức nghệ thuật khác - sang
Cách xác định này nhập nhằng có chủ ý. Ông thơ. Một bức tượng, một bài thơ - tóm lại, mỗi
nhận diện rõ rằng “các yếu tố gắn chắc, cấu tác phẩm nghệ thuật - là một bài thơ đặc biệt.
thành bất biến nào đó” như là yếu tố nổi trội, Thơ về một bức tượng theo đó là một kí hiệu về
“những đặc trưng bất biến của mỗi văn bản - hệ một kí hiệu hoặc một hình ảnh về một hình ảnh.
thống vần, kiểu vận luật, … đều chi phối các cơ Trong một bài thơ về bức tượng, một kí hiệu
chế chức năng và cấu trúc của các văn bản cụ (signum) trở thành một chủ đề hoặc một đối
thể và bảo đảm mối quan hệ giữa các văn bản tượng biểu đạt (signatum).
này với ngôn ngữ chung của hình thức thơ. Các bài thơ luôn có sự căng thẳng giữa tính
Nhưng những yếu tố này có thể có cả “những liên tục tham chiếu được dàn xếp bởi kí hiệu và
biểu tượng rải rác” - cái “chỉ có thể được hiểu mô hình bên trong của các kí hiệu cụ thể, nhưng
đầy đủ trong mối quan hệ với toàn bộ hệ thống trong các bài thơ về các bức tượng sự căng
biểu tượng. Việc Jakobson lựa chọn nghiên cứu thẳng này gấp đôi bởi thực tế rằng tính liên tục
A.Pushkin và bức tượng là khéo léo và hợp lí. quan trọng của các tham chiếu bản thân nó chứa
Một mặt, bức tượng đóng vai trò như một trục đựng các kí hiệu. Tiểu luận của R.Jakobson bảo
biểu tượng và tượng trưng giữa cuộc đời của vệ mạnh mẽ và chứng minh tỉ mỉ việc phác họa
nhà văn và tác phẩm - chức năng của nó như là sự kết nối giữa cuộc đời, hoàn cảnh và tác phẩm
yếu tố kí ức đến hành động chính trị và quân sự của Pushkin. Bức tượng sẽ làm xuất hiện một
và có khả năng lưu giữ cuộc sống vừa sống không gian ba chiều kích kì quái, quen thuộc và
động vừa đứng yên đã được Jakobson nêu ra, bình thường, nó sẽ kể một câu chuyện ngắn về
tương ứng với trải nghiệm của Pushkin về sự một hành động, một phong trào hay một hoàn
rối loạn chính trị của nước Nga đầu thế kỉ XIX cảnh; nhưng nó phải tiếp tục thông báo trạng
và mối quan hệ đầy phiền phức của ông với phụ thái của nó như là một kí hiệu. Nó là cái biểu
nữ. Mặt khác, bức tượng như là một kí hiệu có đạt phi ngôn từ kín đáo nhất.Các bức tượng,
những đặc trưng gắn với ngôn ngữ thơ. Bức giống như ngôn ngữ mẹ đẻ của chúng ta, dễ
tượng là một ví dụ hoàn hảo cho sự kết hợp dàng bị nhầm lẫn với kí hiệu thuần khiết, sự
hình tượng, cách biểu thị và biểu tượng. Đó là quen thuộc sinh ra tính dễ hiểu. Với Pushkin
hình tượng cơ bản và đa chiều kích, tư thế và quan niệm về sự liên tục của các tham chiếu - tự
trạng thái của nó là điểm chỉ dẫn đến một trạng do, khoan dung chính trị, sự thỏa mãn cảm xúc
thái đặc biệt; chức năng của nó trong ngôn ngữ và nhục dục - dường như liên tục đẩy xuống
văn hóa xã hội của nghệ thuật Phương Tây (cột, dưới trọng lượng không thể chịu đựng được của
kỵ sỹ, khỏa thân, quần áo và đồng phục…) thực tại bất hoà.
mang đến cho nó chức năng biểu tượng trong
Theo R.Jakobson, sự cân bằng giữa “giấc
hệ thống riêng được định trước. R. Jakobson
ngủ vĩnh viễn” của Peter đã mất và sự yên tĩnh
chứng minh, cách xử lí của Pushkin với các bức
vĩnh viễn ở bản sao bằng đồng của ngài và sự
tượng rất quan trọng, bởi nó nhấn mạnh sự phụ
mâu thuẫn đồng thời giữa tính phù du của di hài
thuộc lẫn nhau của hai chiều kích trong thế giới
đã chết và tính vững chắc ở bức tượng tạo ra ý
huyền thoại của nhà thơ, văn bản (text) và văn
niệm về cuộc sống của đối tượng được miêu tả
cảnh (context).
N.T.N. Trang / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 30, Số 2 (2014) 57-71 67

tiếp tục trong hình ảnh điêu khắc, trong đài kỉ điểm đó, văn hóa cổ đại, Trung Cổ của Czech
niệm [7]. không có sức hấp dẫn với giới nghiên cứu. Do
R. Jakobson kết luận chuyên luận của mình vậy, không quá ngạc nhiên khi việc R.Jakobson
với lời khẳng định rằng “việc dùng biểu tượng công bố cuốn Czech Epic Verse [1924]/ [1985]
của A.Pushkin về tượng tiếp tục ảnh hưởng đến không thu hút được sự quan tâm của Viện Hàn
thi ca Nga cho đến ngày nay, nó gắn liền với Lâm Khoa học Czech. Bản thảo đó rơi vào lãng
người sáng tạo ra nó” [7] và ông dẫn ra tác quên và bị loại bỏ hoàn toàn. Mục tiêu chung
phẩm của “ba nhà thơ Nga tiêu biểu của thế kỉ của những hoạt động và nỗ lực mà R.Jakobson
này”, Blok, Khlebnikov và Mayakovsky. Điều mải miết thực hiện trong thời gian này được
đó có nghĩa là ông đã vạch ra mạch chảy của phát biểu rất ngắn gọn trong lời giới thiệu cuốn
lịch sử văn học Nga thông qua việc nghiên cứu sách về tác phẩm thời Trung Cổ của Czech viết
những trường hợp đặc biệt. năm 1927 [8]. Với ông những ý kiến phủ định
giá trị của văn hóa Trung Cổ là tàn dư của nền
văn hóa được nuôi dưỡng bởi hệ tư tưởng của
3. Văn hóa, lịch sử Czech/Slav - hành trình thời đại Phục hưng và Ánh sáng. Vì thế, ông
nghiên cứu không mệt mỏi của R.Jakobson thấy rằng cần phải chỉ ra những giá trị của triết
học, nghệ thuật, kiến trúc và khoa học tự nhiên
Âm vị học và thi pháp học là những lĩnh của thời Trung Cổ. Nhà khoa học nhấn mạnh
vực mà R.Jakobson nhiệt tình theo đuổi. Đó là các yếu tố của văn hóa Trung cổ là những điểm
điều khó phủ nhận. Song cần phải thấy rằng xuất phát hợp lí cho các công trình đương thời.
ông là người uyên bác và có vốn học vấn ngữ Cần phải thấy rằng, những giá trị của thời
văn truyền thống, do đó ông có đủ khả năng để Trung Cổ cũng đã từng được các nhà khoa học
làm việc với những văn bản thời Trung Cổ và đánh giá cao, chẳng hạn N.Berdiaev với cuốn
trở thành nhà lịch sử văn hóa uyên bác về Đông sách nổi tiếng Thời Trung cổ mới (1924). Tuy
Âu – một sử gia đặc biệt. Có thể chứng minh nhiên, R.Jakobson đã đi xa hơn giới hạn tái
được điều đó qua hành trình R.Jakobson tìm định giá đơn giản về thời Trung Cổ, ông không
hiểu, nghiên cứu văn hóa Czech thời Trung Cổ chỉ nêu thành tựu mà còn chứng minh nguồn
và những nỗ lực của ông trong việc đưa ra một gốc, động lực làm nên sức hấp dẫn của văn hóa
cách giải thích mới về lịch sử Czech. Những thời Trung Cổ. Vì thế khi nghiên cứu thơ Czech
nghiên cứu của ông về lịch sử văn hóa Czech Trung Cổ5, R.Jakobson không chỉ cho rằng thơ
đều nhằm mục đích nhấn mạnh vai trò của Czech Trung Cổ cần được đánh giá nghiêm túc
người Slav trong lịch sử Châu Âu, nhắc nhở mà còn nhấn mạnh những ảnh hưởng của văn
Phương Tây rằng trong cả hiện tại và quá khứ chương nhà thờ cổ đối với văn học Czech
họ không phải là trung tâm của thế giới. Ta có Trung cổ.
thể bắt gặp ý tưởng đó trong toàn bộ các bài Người Slav thuộc lãnh thổ Bohemia,
viết được tập hợp trong R.Jakobson, Selected Moravia, Tây Slovak trong lịch sử đã trải qua
Writings: Early Slavic Paths and Crossroads. một giai đoạn ngắn theo Kyto giáo do người
Từ những năm đầu thập kỉ 20 của thế kỉ Byzantine du nhập. Vào những năm 860, quốc
XX, R.Jakobson - một người đến Czech với vai
_______
trò là một nhà ngoại giao, đã quan tâm đến thơ 5
Công trình nghiên cứu về thơ Czech Trung Cổ có tên gọi
Czech và lịch sử Czech thời Trung Cổ. Vào thời Nejstarší české písně duchovní [The Oldest Czech
Spiritual Songs]. Praha : Kuncíř, 1929
68 N.T.N. Trang / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 30, Số 2 (2014) 57-71

vương Moravia cho phép những người truyền Truyền thống Cyril và Methodius được
giáo của Constantinople đến để cung cấp cho R.Jakobson nhấn mạnh ở tầm ảnh hưởng và sự
người Slav “Chân lí” và “Luật pháp” theo nối tiếp liên tục của nó. Di sản của Cyril và
những cách diễn đạt gần gũi, dễ hiểu nhất. Sự Methodius cắm rễ sâu trong ngôn ngữ. Rõ ràng
xuất hiện của hai nhà truyền giáo từ Byzantine, cách tiếp cận của R.Jakobson với vai trò của
Cyril và Methodius là câu trả lời tích cực cho nhà thờ Slav cổ ở Czech không loại trừ lĩnh vực
lời đề nghị đó. Cả hai đều là người Hi Lạp và ngữ văn. Các ngôn ngữ Tây Slav nhìn chung
ngôn ngữ họ sử dụng đều là ngôn ngữ Slav của lưu giữ được những dấu ấn của ngôn ngữ nhà
nhà thờ cổ. Tuy nhiên sứ mệnh của Cyril và thờ Slav cổ. Nhưng mặt khác người Nga lại xa
Methodius với Moravia rất ngắn ngủi, bởi họ lạ với khái niệm nhà thờ theo tinh thần Slav.
sớm bị trục xuất, dưới sức ép cạnh tranh của Tương tự, truyền thống Cyril và Methodius dù
các vị giáo sĩ Đức. Kết quả là Tây Slav vẫn giữ vẫn để lại dấu ấn trong nghi lễ chính thống, khá
hoàn toàn ảnh hưởng của Phương Tây, đó là dễ hiểu với người Nga có học nhưng lại mơ hồ
khu vực văn hóa, tôn giáo Latin. Chính vì thời với người Czech hay Ba Lan. Để thực hiện
gian truyền giáo của Cyril và Methodius rất được mục đích của mình, bên cạnh ngôn ngữ,
ngắn nên dấu ấn để lại của họ rất ít và khó nhận R.Jakobson tập trung vào nghiên cứu nghi thức
ra. Vì vậy luận điểm của R.Jakobson về tiếng tế lễ của người Slav cổ. Những nghi thức này
Slav của nhà thờ cổ trong văn hóa Czech dường từng bị Giáo hoàng cấm đoán, vì thế từ thế kỉ
như rất mong manh. Rất nhiều tác phẩm văn 10 đến 12 người Czech trở thành những “kẻ nổi
học Trung Cổ từ Bohemia xuất hiện, nhưng hầu loạn chống lại Rome”. Ông nhìn thấy ở các
hết các văn bản đều được viết bằng tiếng Latin. nghi lễ đó khát vọng về một nghi thức tế lễ
Văn bản viết bằng tiếng Czech xuất hiện từ năm bằng tiếng cận bản địa, một sự lựa chọn có ý
1300. Nghĩa là một khoảng trống trong lịch sử thức và sự nhấn mạnh vào tính bình đẳng của
văn hóa, ngôn ngữ đã tồn tại ở đây, từ thế kỉ 9 tất cả các ngôn ngữ và dân tộc. Điều thú vị là,
đến thế kỉ 14. R.Jakobson đã đặt ra và chứng vào buổi bình minh của lịch sử, “một nguyên lí
minh một cách thuyết phục giả thuyết về sự tiếp đã được nêu ra, theo một nguyên tắc đơn giản
tục của ngôn ngữ và văn hóa Slav từ thế kỉ 10 một lần và cho tất cả, về sự bình đẳng của tất cả
đến 12. Ông đưa ra một thực tế rằng nghi lễ của các ngôn ngữ, tất cả các dân tộc và tất cả thành
người Phương Đông được sử dụng trong tu viện viên trong một dân tộc - một nguyên lí về chủ
Sazava (một trung tâm của ngôn ngữ Slav) và nghĩa quân bình, một khẩu hiệu chấn động về
sau đó là tu viện Emmaus được thành lập ở sự bình đẳng và một sự cách tân mang tính cách
Praha năm 1348 do các thầy tu người Croatia mạng của người Czech. Điều này diễn ra vào
đứng đầu. R.Jakobson nhấn mạnh rằng sự tồn những năm 860, tức là 9 thế kỉ trước tuyên
tại của hai trung tâm này là không thể nghi ngờ ngôn nhân quyền của người Pháp” [9]. Từ
và do đó người Czech cổ đại không hoàn toàn những suy nghĩ đó, R.Jakobson nhấn mạnh ý
thuộc về Kito giáo Phương Tây. Không phải tất tưởng về tinh thần tự quyết dân tộc và nền dân
cả mọi thứ được quyết định ở Regenburg hay chủ thực sự của người Slav cổ trong Sự thông
Mainz, hai địa phận giám mục nổi tiếng của thái của người Slav cổ - một cuốn sách nổi
người Đức. Bước sang thời Trung Cổ, nhà thờ ở tiếng dày 220 trang, nghiên cứu chuyên sâu về
Bohemia cũng dần hướng về Phía Đông. các nước Slav khi ông sống ở New York. Ông
cho rằng: “Quyền điều khiển nghi thức tế lễ
N.T.N. Trang / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 30, Số 2 (2014) 57-71 69

trong ngôn ngữ dân tộc thể hiện quyền của dân thời Trung Cổ. Trong các văn bản R.Jakobson
tộc đối với giá trị văn hóa cao nhất trong hệ trích dẫn, người Đức hiện lên như những kẻ
thống các giá trị của thời Trung Cổ, và vì vậy mánh khóe, phân biệt chủng tộc và hung bạo.
nó ở vị trí cao nhất trong tổng thể các giá trị: Sự xuất hiện của người Đức trong lịch sử các
toàn bộ nền văn hóa, đặc biệt là toàn bộ nền văn nước Slav theo R.Jakobson không phải vì mục
chương, phác họa đặc điểm dân tộc. Từ khởi đích thương mại, giao thương. “Sự nhập cư của
đầu của nó, tinh thần Cyrill - Methodius tạo người Đức […] đã xâm phạm tính thuần nhất
mối liên kết không tách rời yếu tố dân tộc với dân tộc của mảnh đất Czech, đặc điểm nguyên
yếu tố mang tính dân chủ. Quyền hướng tới khối Slav của nó” [9]. Có thể nói trên mảnh đất
những giá trị tinh thần cao nhất được tạo ra cho Czech, người Đức là những người nhập cư
mỗi dân tộc và toàn bộ dân tộc”, và khẳng định không được hoan nghênh. Trong bối cảnh trước
“Các quyền bình đẳng - bao gồm cả quyền bình chiến tranh thế giới thứ hai, nhắc đến điều này,
đẳng của các dân tộc và ngôn ngữ - là nguyên R.Jakobson muốn đẩy xa hơn ý tưởng rằng
tắc chủ đạo của di sản tinh thần Đại Moravia” người Đức có thể bị trục xuất về phương diện
[10]. Như vậy ý tưởng của R.Jakobson muốn pháp lí khỏi Cộng hòa Czech và Slovak. Năm
chứng minh tính dân chủ ở các nước Slav cổ 1969, sau khi cải cách Mùa xuân Praha bị quân
thông qua các nghi lễ cận bản địa đã đưa đến đội Liên Xô cản trở, trong lúc nâng cốc tại hội
một gợi ý thú vị rằng, đó là một sự đổi mới của nghị Comenius ở Praha, R.Jakobson đã gợi lại
Czech và Slovakia6 nhưng đồng thời đó cũng là chủ đề sự diệt vong của Đức và sự trường tồn
hệ quả sự trợ giúp của Đông Byzantine. Và theo của các nước Slav: Đế chế Đức thần thánh của
đó cái hiện diện như là ý thức hệ của Czech và dân tộc Đức sẽ không tồn tại nữa, cũng như nền
Slovakia và sự cách tân mang tính cách mạng quân chủ Habsburg và “Đế chế La Mã Nghìn
của Czech và Slovakia cũng chính là sự gần gũi năm” của Hitler - tất cả chúng đều cố gắng phủ
của Slav và Phương Tây. nhận tư tưởng của Constantine, nhưng những tư
Ngoài việc chứng minh rằng người Slav có tưởng này vẫn còn đây, cái tên của Constantine
ngôn ngữ riêng, có ý thức dân chủ và bình đẳng vẫn còn trong khi những cái tên của các hoàng
từ thời cổ đại, R.Jakobson còn nỗ lực tìm đến đế, quốc vương và các nhà cầm quyền giờ đây
một định nghĩa mới về các nước Slav, khẳng rất khó nhớ. Số phận việc truyền giáo của
định rằng trong lịch sử đây là những nước độc Constatine thể hiện sức mạnh của ngôn từ7, sự
lập, không phụ thuộc và là cầu nối quan trọng vĩnh cửu của tư tưởng của Ngài. Không ai phá
về văn hóa và lịch sử giữa Phương Đông và hoại điều đó hoặc nó không bị phá hoại bởi vì
Phương Tây. R.Jakobson luôn khẳng định rằng nó là giá trị của một trật tự khác. “Sự sáng suốt
từ quá khứ xa xưa, các nước Slav luôn chống phát ra trong nó”, nói như Constantine, và sự
lại Đức để không bị phụ thuộc. Tư tưởng chống sáng suốt có thể chỉ bị vượt qua bởi một sự
Đức xuyên suốt trong Sự thông thái của người sáng suốt sâu sắc hơn, không bởi cái gì khác
Slav cổ và nhiều bài báo của ông in trong nữa” [11].
R.Jakobson: Selected Writings 6 cũng nhấn Các dân tộc Slav có những đặc điểm riêng
mạnh. Ông không bỏ qua bất cứ một văn bản, và có những mối liên hệ để có thể tạo ra hình
cứ liệu nào mang tư tưởng phản/chống Đức từ ảnh một Slav chung. Beneš cũng đã từng đưa ra
_______ _______
6 7
Trong cách nhìn của R.Jakobson, Czech và Slovak thuộc “Khởi thủy là lời”: Đấng toàn năng đã tạo dựng thế giới
về Đại Monravia đúng như những gì đã viết trong Kinh Thánh.
70 N.T.N. Trang / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 30, Số 2 (2014) 57-71

những hình dung về các dân tộc Slav, với quan chiến tranh thế giới thứ hai cũng như toàn bộ
điểm cố gắng đi xa hơn cách nhìn truyền thống lịch sử phát triển sau này của các nước Slav.
- Slav là một cộng đồng huyết thống. Ông cho Có thể nói, dù mở rộng các lĩnh vực và đối
rằng đó là nhóm, được xác định trước hết bởi tượng nghiên cứu, dù không quay về Nga và
mục tiêu chính trị chung: “các dân tộc Slav là Czech nhưng Nga và Slav vẫn là nguồn cội thúc
những hàng xóm về mặt địa lí, và gần gũi nhau đẩy những sáng tạo của R.Jakobson, là những
trong mối quan hệ chủng tộc, văn hóa và ngôn đối tượng nghiên cứu khơi gợi những khám phá
ngữ hơn các dân tộc khác. Vì thế, mỗi hoạt không có điểm dừng của ông. Đọc các công
động chính trị ở Slav trong tương lai trước tiên trình của R.Jakobson độc giả hoàn toàn có thể
sẽ dựa trên nhu cầu thực tiễn và quyền lợi, điều nhận ra chân dung của một nhà nghiên cứu luôn
kiện chính trị bắt buộc cụ thể” [12].Như vậy giữ được chất Nga và Slav và hướng đến khẳng
Beneš không phủ nhận yếu tố di truyền, chủng định sự độc lập, sự độc đáo, riêng có của ngôn
tộc trong mối quan hệ của các nước Slav khi ngữ, văn hóa, lịch sử của Nga và các nước Slav.
tìm kiếm định nghĩa về cộng đồng Slav. Còn Chính ông đã gợi ra và đề xuất định hướng:
R.Jakobson cho rằng thứ duy nhất mà người nhìn nhận mọi hiện tượng ngôn ngữ văn hóa
Slav có thể theo đuổi về mặt di truyền học là lịch sử Nga và Slav từ chính những đặc điểm
quan hệ máu mủ về mặt ngôn ngữ, người Slav “gốc”, “bản địa” của nó.
không biết đến một di sản văn hóa chung hay
Tài liệu tham khảo
một cơ sở nhân học, hay đặc điểm dân tộc học
chung. Trong chuyên luận The Kernel of Slavic [1] Huỳnh Như Phương (2007), Trường phái hình
thức Nga, NXB ĐHQGTPHCM
Literatures/Hạt nhân của các nền văn học Slav, [2] Steven C. Caton (1987), “Contributions of
R.Jakobson cũng nhấn mạnh cấu trúc ngôn ngữ Roman Jakobson”, Annual Review of
là tài sản chung duy nhất mà người Slav có. Anthropology, Vol. 16, tr. 223-260
Ngôn ngữ Slav như đã nói ở trên là thứ ngôn [3] Halle (1986) “Remarks on the scientific
revolution in linguistics 1926–1929,”
ngữ có nguồn gốc bản địa, của riêng người Съпоставитлно езикознание 11: 5:40
Slav. [4] R.Jakobson, Thơ và ngữ pháp thơ, Trịnh Bá Đĩnh
Với tất cả những lập luận đó, R.Jakobson dịch, in trong Chủ nghĩa cấu trúc trong Văn học,
NXB Hội nhà Văn, 2010, tr. 133
khẳng định sự tồn tại độc lập, trường tồn của [5] R.Jakobson, Ngôn ngữ học và thi pháp học, Trịnh
các nước Slav. Czech và Nga trong cách nhìn Bá Đĩnh dịch, in trong Chủ nghĩa cấu trúc trong
của ông còn là cầu nối giữa Phương Đông và Văn học, NXB Hội nhà Văn, 2010, tr.117
Phương Tây. Toàn bộ lịch sử Czech và Nga [6] R.Jakobson, On a Generation that Squandered its
Poets, in trong Language in Literature, 1987, ed.
được xác định bởi sự lưỡng lự giữa hai cực - sự K.Pomorska and S.Rudy, Cambridge,
trỗi dậy hướng về phía Phương Đông tái lặp Mass.:Harvard University Press, tr. 276, 300
không ngớt và các phản ứng chống lại nó. [7] R.Jakobson (1987), Language in Literature, ed.
K.Pomorska and S.Rudy, Cambridge,
Không phải Phương Đông, cũng không hẳn Mass.:Harvard University Press, tr.301, 307, 311,
Phương Tây, Czech và các nước Slav có những 316, 318, 358, 363
đặc điểm văn hóa, ngôn ngữ riêng, họ gắn kết [8] Preface to Spor duše s tělem, ed. by R. Jakobson
nhưng cũng độc lập ở nhiều phương diện. Vì & Stanislav Petíra. Praha : L. Kuncíř, đã được
dịch sang tiếng Anh và in trong cuốn R.Jakobson
vậy R.Jakobson nhấn mạnh họ cần được giải (1985), Selected Writings Volume 6, Ed. by
phóng và đi theo quỹ đạo riêng của mình. Luận Stephen Rudy, Berlin, New York, Amsterdam,
điểm này thực sự có ý nghĩa vào thời điểm cuộc Mouton, tr. 589-614)
N.T.N. Trang / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 30, Số 2 (2014) 57-71 71

[9] R. Jakobson (1943), Moudrost starých Čechů — [11] R.Jakobson (1988), “Pzemi a lidu/A Toast to the
Odvěké základy národního odboje [The Wisdom Czech Land and Its People”, Slovo a Slovo a
of the Ancient Czechs—Enduring Foundations Slovesnost 52 (1993), 1-3, tr.1
of National Resitence]. New York : [12] Beneš, Eduard (1947): U^vahy o slovanství.
Československý kulturní kroužek, dịch theo bản Hlavní problémy slovanské politiky [Thoughts
tiếng Anh của Jindřich TOMAN (1997) trong bài on Slavdom. Main Issues in Slavic Politics].Praha
báo Jakobson and Bohemia / Bohemia and the : Čin. Dẫn theo bản dịch tiếng Anh của Jindřich
East,Cahiers de l’ILSL, N° 9, 1997, pp. 229-239 TOMAN (1997) trong bài báo “Jakobsonand
[10] R.Jakobson (1985), Selected Writings Volume 6, Bohemia / Bohemia and the East”,Cahiers de
Ed. by Stephen Rudy, Berlin, New York, l’ILSL, N° 9, tr.229-239
Amsterdam, Mouton, tr. 589-614 tr. 119, 133

R.Jakobson and Efforts to Preserve Russian and Slavic Culture

Nguyễn Thị Như Trang


VNU University of Social Sciences and Humanities
336 Nguyễn Trãi Road, Thanh Xuân Dist., Hanoi, Vietnam

Abstract: The aspect that we are concerned with, worried about and want to explain in this article
is that why had R.Jakobson made his researches mainly overseas, his works were written in several
languages, but why is he still considered as a Russian researcher; why did his works get the "visa" to
return to Russia? One of the basic and most important reasons, in our opinion is no matter where
R.Jakobson lived, what he researched, he always expressed his desire and efforts to preserve the
Russian and Slavic culture. That will be proven from the initial observations on biography, Russian
and Slavic cultural roots and their influences in R.Jakobson’s life, observations on the role of Slavic
and Russian studies in many research fields. The Russian and Slavic language and literature were
always the “inspiration” for his study. In his life, R.Jakobson had also carried out a journey of his
tireless study of the Czech/Slavic culture and history with the aim of laying stress on the role of the
Slavic people in the history of Europe and the world.
Keywords: R.Jakobson, Language, Russian literature, Slavic culture and history.

You might also like