Download as doc, pdf, or txt
Download as doc, pdf, or txt
You are on page 1of 63

NHỮNG KIẾN THỨC CƠ BẢN CẦN NẮM VỮNG

NGỮ VĂN 9 HỌC KÌ I


A. TIẾNG VIỆT
1. Các phương châm hội thoại:

 Phương châm về lượng yêu cầu khi giao tiếp, cần nói có nội dung; nội
dung của lời nói phải đáp ứng đúng yêu cầu của cuộc giao tiếp, không
thiếu, không thừa.
 Phương châm về chất yêu cầu khi giao tiếp, đừng nói những điều mà
mình không tin là đúng và không có bằng chứng xác thực.
 Phương châm quan hệ yêu cầu khi giao tiếp cần nói đúng vào đề tài
giao tiếp, tránh nói lạc đề.
 Phương châm cách thức yêu cầu khi giao tiếp cần chú ý nói ngắn gọn,
rành mạch, tránh nói mơ hồ.
 Phương châm lịch sự yêu cầu khi giao tiếp cần tế nhị và tôn trọng
người khác.
* Quan hệ giữa phương châm hội thoại với tình huống giao tiếp: Việc vận
dụng các phương châm hội thoại cần phù hợp với tình huống giao tiếp.
Việc không tuân thủ phương châm hội thoại có thể bắt nguồn từ những
nguyên nhân sau:

- Người nói vô ý, vụng về, thiếu văn hóa giao tiếp.

- Người nói phải ưu tiên cho một phương châm hội thoại hoặc một yêu cầu
khác quan trọng hơn.

- Người nói muốn gây một sự chú ý để người nghe hiểu câu nói theo một hàm
ý nào đó.

2. Xưng hô trong hội thoại:


- Từ ngữ xưng hô trong tiếng Việt có các từ chỉ quan hệ gia đình, một số từ
chỉ nghề nghiệp.

- Hệ thống từ ngữ xưng hô trong tiếng Việt rất phong phú, tinh tế và giàu sắc
thái biểu cảm.

- Người nói cần căn cứ vào đối tượng và các đặc điểm khác của tình huống
giao tiếp để xưng hô cho thích hợp.

3. Cách dẫn trực tiếp, cách dẫn gián tiếp


* Dẫn trực tiếp là nhắc lại nguyên văn lời nói hay ý nghĩ của người hoặc nhân
vật. Lời dẫn trực tiếp được đặt trong dấu ngoặc kép

* Dẫn gián tiếp là thuật lại lời nói hay ý nghĩ của người hoặc nhân vật có điều
chỉnh cho phù hợp. Lời dẫn gián tiếp không được đặt trong dấu ngoặc kép.

*Cần lưu ý khi chuyển lời dẫn trực tiếp thành lời dẫn gián tiếp:

- Bỏ dấu hai chấm và dấu ngoặc kép.

- Thay đổi đại từ xưng hô cho phù hợp.

- Lược bỏ các từ chỉ tình thái.

- Thêm từ rằng hoặc là trước lời dẫn.

- Không nhất thiết phải chính xác từng từ nhưng phải dẫn đúng về ý.

*Cần lưu ý khi chuyển lời dẫn gián tiếp thành lời dẫn trực tiếp:

- Khôi phục lại nguyên văn lời dẫn (thay đổi đại từ xưng hô, thêm bớt các từ
ngữ cần thiết ,…).

- Sử dụng dấu hai chấm và dấu ngoặc kép.

4. Sự phát triển của từ vựng:


- Từ vựng không ngừng được bổ sung, phát triển.

- Một trong những cách phát triển từ vựng tiếng Việt là biến đổi và phát triển
nghĩa của từ ngữ trên cơ sở nghĩa gốc của chúng.

- Có hai phương thức chủ yếu biến đổi và phát triển nghĩa của từ ngữ: phương
thức ẩn dụ và phương thức hoán dụ.

- Ngoài cách biến đổi và phát triển nghĩa của từ, từ vựng còn được phát triển
bằng hai cách khác:

+ Tạo từ mới để làm cho vốn từ ngữ tăng lên.

+ Mượn từ ngữ của tiếng nước ngoài. Bộ phận từ mượn quan trọng nhất trong
tiếng Việt là từ mượn tiếng Hán.

5. Thuật ngữ:
- Khái niệm: Thuật ngữ là những từ ngữ biểu thị khái niệm khoa học công
nghệ, thường được dùng trong các văn bản khoa học, công nghệ.

- Đặc điểm của thuật ngữ:

- Về nguyên tắc, trong một lĩnh vực khoa học, công nghệ nhất định, mỗi thuật
ngữ chỉ tương ứng với một khái niệm.

- Thuật ngữ không có tính biểu cảm.

6. Tổng kết từ vựng: Kiến thức về từ vựng đã học ở THCS:


- Từ đơn và từ phức;

- Thành ngữ;

- Nghĩa của từ; từ nhiều nghĩa và hiện tượng chuyển nghĩa của từ;

- Từ đồng âm, từ đồng nghĩa, từ trái nghĩa;


- Trường từ vựng;

- Khái niệm từ tượng hình, từ tượng thanh;

- Đặc điểm, tác dụng của các phép tu từ so sánh, ẩn dụ, nhân hóa, hoán dụ,
nói quá, nói giảm nói tránh, điệp ngữ, chơi chữ

B. VĂN BẢN
I. Chuyện người con gái Nam Xương - Nguyễn Dữ.
1. Tác giả: Nguyễn Dữ quê làng Đỗ Tùng, huyện Trường Tân (nay thuộc
Thanh Miện - Hải Dương). Ông sống ở TK XVI - là thời kì nhà Lê bắt đầu
suy thoái, các tập đoàn phong kiến Lê - Trịnh - Mạc tranh dành quyền lực gây
ra những cuộc nội chiến kéo dài. Ông là người học rộng tài cao, đã từng tham
gia cuộc thi hương, thi hội. Ông làm quan chỉ một năm rồi xin về quê nuôi mẹ
già, viết sách sống ẩn dật như các trí thức đương thời.
- Ông để lại cho đời một sự nghiệp văn chương đồ sộ, tiêu biểu là tập “Truyền
kì mạn lục’’ gồm 20 truyện viết bằng chữ Hán thuộc thể văn xuôi xen lẫn biền
ngẫu, thơ ca. Nhân vật chính trong các truyện của ông thường là: những người
phụ nữ đức hạnh, khao khát cuộc sống bình yên, hạnh phúc. Nhưng các thế
lực bạo tàn và cả những lễ giáo phong kiến khắc nghiệt lại xô đẩy họ vào
những cảnh ngộ éo le, oan khuất, bất hạnh. Bên cạnh đó ta còn bắt gặp trong
những truyện của ông các nhân vật là trí thức có tâm huyết nhưng bất mãn với
thời cuộc, không chịu trói mình trong vòng danh lợi chật hẹp.
- Sáng tác của Nguyễn Dữ thể hiện cái nhìn tích cực của ông đối với văn học
dân gian.
2.Tác phẩm:
- Truyền kì mạn lục viết bằng chữ Hán, khai thác các truyện cổ dân gian dã
sử, truyền thuyết của Việt Nam. Tất cả gồm 20 truyện. Được đánh giá là “ áng
thiên cổ kì bút” ( áng văn hay ngàn đời)
- Nhân vật mà Nguyễn Dữ lựa chọn để kể (những người phụ nữ và tầng lớp trí
thức).
- Hình thức nghệ thuật (viết bằng chữ Hán, sáng tạo lại câu chuyện dân
gian…)
3. Tóm tắt VB:
Vũ Thị Thiết (Vũ Nương) là người thuỳ mị, nết na, tư dung tốt đẹp.
Nàng lấy chồng là Trương Sinh, một người không có học, tính đa nghi.
Trương Sinh đi lính, Vũ nương ở nhà chăm sóc mẹ chồng, nuôi con. Bà cụ
qua đời, giặc tan, Trương Sinh trở về. Khi ngồi với con, bé Đản nói rằng có
một người cha đêm nào cũng đến “mẹ Đản đi cũng đi, ngồi cũng ngồi, nhưng
chẳng bao giờ bế Đản cả”. Trương ghen, nghi ngờ vợ, mắng nhiếc nàng và
đánh đuổi đi. Vũ Nương ra bến Hoàng Giang than thở và tự vẫn. Một đêm bé
Đản lại trỏ cái bóng mà bảo là cha mình đến. Trương Sinh lúc ấy mới biết
mình ngờ oan cho vợ.
Có một người cùng làng là Phan Lang bị chết đuối nhưng vốn là ân
nhân của Linh Phi nên được cứu vào cung nước của rùa thần. Tại đây đã gặp
được Vũ Nương. Nàng gửi một chiếc hoa vàng và dặn nếu Trương Sinh nhớ
tình cũ thì lập đàn giải oan, nàng sẽ trở về. Phan Lang về gặp Trương Sinh,
đưa chiếc hoa vàng. Trương Sinh lập đàn giải oan. Vũ Nương có trở về thấp
thoáng trên sông nhưng không thể trở về nhân gian được nữa.
4. Nội dung:
- Vẻ đẹp của nhân vật Vũ Nương:
+ Hết lòng vì gia đình, hiếu thảo với mẹ chồng, thủy chung với chồng, chu
đáo, tận tình và rất mực yêu thương con.
+ Bao dung, vị tha, nặng lòng với gia đình.
+ Có một cái chết đầy oan khuất
- Thái độ của tác giả: phê phán sự ghen tuông mù quáng, lên án xã hội bất
công phi nghĩa , ngợi ca người phụ nữ với nhiều nét đẹp phẩm hạnh và cảm
thương cho số phận đầy oan khuất của họ.
5. Nghệ thuật:
- Khai thác vốn văn học dân gian.
- Sáng tạo về nhân vật, sáng tạo trong cách kể chuyện, sử dụng yếu tố truyền
kì…
- Sáng tạo nên một kết thúc tác phẩm không mòn sáo.
Ý nghĩa văn bản: Truyện phê phán xã hội nam quyền bất công, cuộc chiến
tranh phi nghĩa và ngợi ca vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam.
II. Hoàng Lê nhất thống chí (hồi thứ 14)
Bối cảnh lịch sử: Nửa cuối thế kỉ XVIII, đầu thế kỉ XIX, xã hội Việt Nam có
nhiều biến động lịch sử: sự khủng hoảng của chế độ phong kiến, mưu đồ của
kẻ thù xâm lược.
1.Tác giả: Ngô Gia Văn Phái là một tập thể các tác giả thuộc dòng họ Ngô
Thì. Quê ở làng Tả Thanh Oai (nay thuộc Thanh Oai - Hà Tây), trong đó hai
tác giả chính là Ngô Thì Chí và Ngô Thì Du.
Ngô Thì Chí (1753 - 1788) là em ruột của Ngô Thì Nhậm làm quan
dưới triều Lê Chiêu Thống. Ông là người tuyệt đối trung thành với nhà Lê.
Khi Nguyễn Huệ sai Vũ văn Nhậm ra Bắc diệt Nguyễn Hữu Chỉnh (1787)
Ngô Thì Chí chạy theo Lê Chiêu Thống dâng “Trung hưng sách” bàn kế khôi
phục nhà Lê. Sau đó ông được Lê Chiêu Thống cử đi Lạng Sơn triệu tập
những kẻ lưu vong lập nghĩa binh chống Tây Sơn. Nhưng trên đường đi ông
bị bệnh rồi mất tại huyện Gia Bình (nay thuộc Bắc Ninh).
Ngô Thì Du (1772 - 1840) là anh em chú bác với Ngô Thì Chí. Ông
học giỏi nhưng không đỗ đạt gì, dưới triều Tây Sơn ông ẩn mình ở vùng Kim
Bảng (nay thuộc tỉnh Hà Nam). Đến thời nhà Nguyễn ông ra làm quan được
bổ nhiệm chức “Đốc học Hải Dương”, đến năm 1827 thì nghỉ về hưu.
2.Tác phẩm:
- Thể loại: tiểu thuyết chương hồi.
- Là cuốn tiểu thuyết lịch sử có quy mô lớn, phản ánh những biến động lịch sử
nước nhà từ cuối thế kỉ XVIII đến những năm đầu thế kỉ XIX.
- Đoạn trích nằm ở hồi thứ mười bốn.
3. Tóm tắt VB:
Được tin báo quân Thanh vào Thăng Long, Bắc Bình Vương rất giận,
liền họp các tướng sĩ rồi tế cáo trời đất, lên ngôi hoàng đế, hạ lệnh xuất quân
ra Bắc, thân hành cầm quân vừa đi vừa tuyển quân lính. Ngày ba mươi tháng
chạp, đến núi Tam Điệp, vua mở tiệc khao quân, hẹn mùng bảy năm mới vào
thành Thăng Long mở tiệc ăn mừng. Bằng tài chỉ huy thao lược của Quang
Trung, đạo quân của Tây Sơn tiến lên như vũ bão, quân giặc thua chạy tán
loạn. Tôn Sĩ Nghị sợ mất mật, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp
mặc áo giáp, chuồn thẳng về biên giới phía Bắc, khiến nhà vua bù nhìn Lê
Chiêu Thống cũng phải chạy tháo thân.
4. Nội dung:
- Hình ảnh người anh hùng Nguyễn Huệ và sức mạnh dân tộc trong cuộc
chiến đấu chống xâm lược Thanh qua các sự kiện lịch sử:
+ Ngày 20, 22,24 tháng 11, Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế và xuất quân ra
Bắc ngày 25 tháng chạp năm Mậu Thân (1788).
+ Nguyễn Huệ tiến quân ra Bắc, gặp “người cống sĩ ở huyện La Sơn”
(Nguyễn Thiếp), tuyển mộ quân lính, duyệt binh, phủ dụ tướng sĩ ở Tam
Điệp.
+ Diễn biến trận chiến năm Kỉ Dậu (1789) đại phá 20 vạn quân Thanh.
- Hình ảnh quân Thanh xâm lược kiêu căng, tự mãn, tự chủ, khinh địch và sự
thảm bại của quân tướng Tôn Sĩ Nghị khi tháo chạy về nước.
- Hình ảnh vua quan Lê Chiêu Thống đê hèn, nhục nhã, số phận gắn chặt với
bọn giặc xâm lược.
5. Nghệ thuật:
- Lựa chọn trình tự kể theo diễn biến các sự kiện lịch sử.
- Khắc họa nhân vật lịch sử (người anh hùng Nguyễn Huệ, hình ảnh bọn giặc
xâm lược, hình ảnh vua tôi Lê Chiêu Thống) với ngôn ngữ kể, tả chân thực,
sinh động.
- Có giọng điệu trần thuật thể hiện rõ thái độ của tác giả với vương triều nhà
Lê, với chiến thắng của dân tộc và với bọn giặc cướp nước.
6. Ý nghĩa văn bản: Văn bản ghi lại hiện thực lịch sử hào hùng của dân tộc ta
và hình ảnh người anh hùng Nguyễn Huệ trong chiến thắng mùa xuân năm
Kỷ Dậu (1789).
III. Truyện Kiều của Nguyễn Du.
1.Tác giả:
Nguyễn Du (1766-1820) tên chữ Tố Như, hiệu Thanh Hiên. Quê làng
Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông sinh trưởng trong một gia
đình quí tộc nhiều đời làm quan, có truyền thống về văn học. Cha là Nguyễn
Nghiễm từng giữ chức Tể tướng.
Ông lớn lên trong thời đại có nhiều biến động dữ dội. Những thay đổi
lớn lao của lịch sử đã tác động sâu sắc đến tình cảm và nhận thức của Nguyễn
Du để ông hướng ngòi bút vào hiện thực.
Nguyễn Du là người có hiểu biết về văn hoá dân tộc và văn chương
Trung Quốc. Sự từng trải trong cuộc đời đã tạo cho Nguyễn Du một vốn sống
phong phú và một trái tim giàu lòng yêu thương thông cảm sâu sắc với nỗi
khổ của nhân dân.
Những yếu tố trên đã góp phần tạo nên một Nguyễn Du thiên tài văn
học của Việt Nam được công nhận là danh nhân văn hoá thế giới
* Sáng tác:
- Các tác phẩm được viết bằng chữ Hán và chữ Nôm.
• Chữ Hán: Thanh Hiên Thi Tập, Nam Trung tạp ngâm, Bắc hành tạp lục.
• Chữ Nôm: Truyện Kiều, Văn chiêu hồn.
- Đóng góp to lớn cho kho tàng văn học dân tộc, nhất là ở thể loại truyện thơ.
Nguồn gốc của Truyện Kiều: Truyện Kiều có dựa vào cốt truyện từ cuốn Kim
Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân nhưng phần sáng tạo của Nguyễn
Du rất lớn.
*Tóm tắt Truyện Kiều:
Thuý Kiều là một người con gái tài sắc vẹn toàn. Trong một lần chơi
xuân, nàng gặp Kim Trọng, một người phong nhã hào hoa. Hai người thầm
yêu nhau. Kim Trọng dọn đến ở gần nhà Thuý Kiều. Hai người chủ động, bí
mật đính ước với nhau.
Kim Trọng phải về quê gấp để chịu tang chú. Gia đình Kiều bị thằng
bán tơ vu oan. Kiều nhờ Thuý Vân thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng, còn
nàng thì bán mình để chuộc cha và cứu gia đình. Thuý Kiều bị bọn buôn
người Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh lừa gạt, bắt phải tiếp khách làng chơi
ở lầu xanh. Nàng được một khách chơi là Thúc Sinh chuộc ra, cưới làm vợ lẽ.
Vợ cả Thúc Sinh là Hoạn Thư ghen, bắt Kiều về làm con ở và đày đoạ. Kiều
trốn khỏi nhà Hoạn Thư và nương nhờ cửa phật. Một lần nữa nàng lại bị sa
vào tay bọn buôn người Bạc Bà, Bạc Hạnh, phải vào lầu xanh lần thứ hai. Tại
đây nàng gặp Từ Hải. Hai người lấy nhau, Từ Hải giúp Kiều báo ân báo oán.
Do bị Hồ Tôn Hiến lừa, Từ Hải bị giết chết, Thuý Kiều phải hầu rượu Hồ Tôn
Hiến và bị ép gả cho viên thổ quan. Kiều gieo mình xuống sông Tiền Đường
tự vẫn. Nàng được cứu và lần thứ hai nương nhờ nơi cửa Phật.
Khi Kim Trọng trở lại tìm Kiều thì Kiều đã lưu lạc. Chàng kết duyên
với Thuý Vân nhưng vẫn thương nhớ Thuý Kiều. Sau khi thi đỗ, chàng đi tìm
Kiều, nhờ gặp sư Giác Duyên nên gia đình được đoàn tụ. Kiều tuy lấy Kim
Trọng nhưng duyên đôi lứa cũng là duyên bạn bầy.
* Giá trị của Truyện Kiều:
*Giá trị nội dung: Truyện có giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo:
+ Giá trị hiện thực: “Truyện Kiều” là bức tranh hiện thực về một xã hội bất
công tàn bạo, là lời tố cáo xã hội phong kiến chà đạp quyền sống của con
người, đặc biệt là những người tài hoa, phụ nữ. ”Truyện Kiều” tố cáo các thế
lực đen tối trong xã hội phong kiến:Từ bọn sai nha, quan xử kiện, cho đến “họ
Hoạn danh giá”, quan tổng đốc trọng thần… đều ích kỉ tham lam, tàn nhẫn,
coi rẻ sinh mạng và phẩm giá con người. Đồng thời, truyện còn cho thấy sức
mạnh ma quái của đồng tiện đã làm tha hoá con người. Đồng tiền làm đảo
điên, đồng tiền giẫm lên lương tâm con người và xoá mờ công lí.
“Trong tay đã sẵn đồng tiền,
Dầu lòng đổi trắng thay đen khó gì !”
+ Giá trị nhân đạo:
- “Truyện Kiều” là tiếng nói thương cảm, là tiếng khóc đau đớn trước số phận
bi kịch của con người. Thuý Kiều là nhân vật mà Nguyễn Du yêu quý nhất.
Khóc Thuý Kiều, Nguyễn Du khóc cho nỗi đau đớn của con người: tình yêu
tan vỡ, tình cốt nhục lìa tan, nhân phẩm bị chà đạp, thân xác bị đày đoạ.
- “Truyện Kiều” đề cao con người, từ vẻ đẹp hình thức, phẩm chất đến những
ước mơ khát vọng chân chính. Hình tượng nhân vật Thuý Kiều tài sắc vẹn
toàn, hiếu hạnh đủ đường, là nhân vật lí tưởng tập trung những vẻ đẹp của con
người trong cuộc đời. “Truyện Kiều” còn là bài ca về tình yêu tự do trong
sáng, thuỷ chung của con người, là giấc mơ về tự do và công lí.
*Giá trị nghệ thuật:
- “Truyện Kiều“ là sự kết tinh thành tựu nghệ thuật của văn học dân tộc trên
tất cả các phương diện: Ngôn ngữ và thể loại.
- Với “Truyện Kiều” ngôn ngữ văn học dân tộc và thể thơ lục bát đã đạt tới
đỉnh cao rực rỡ. Nghệ thuật tự sự đã có những bước phát triển vượt bậc từ
nghệ thuật dẫn truyện đến nghệ thuật miêu tả thiên nhiên, con người.
- Nguyễn Du là thiên tài văn học, là danh nhân văn hoá thế giới, là nhà nhân
đạo chủ nghĩa có đóng góp to lớn đối với sự phát triển văn học Việt Nam.
“Truyện Kiều” là kiệt tác của văn học dân tộc.
IV. Đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”.
1. Vị trí đoạn trích:
- Đoạn trích gồm 24 câu (từ câu 15 (câu 38) trong phần đầu truyện Kiều: Gặp
gỡ và đính ước.
- Giới thiệu vẻ đẹp, tài năng của 2 chị em Kiều.
2. Kết cấu:
- 4 câu đầu: Giới thiệu khái quát hai chị em Kiều.
- 4 câu tiếp: Vẻ đẹp của Thuý Vân.
- 12 câu tiếp: Vẻ đẹp và tài hoa của Kiều.
- 4 câu cuối: Cuộc sống của hai chị em Kiều.
⇒ Kết cấu của đoạn trích có liên quan chặt chẽ với nhau. Phần trước chuẩn bị
cho sự xuất hiện của phần sau (tả vẻ đẹp Thuý Vân trước để làm nền cho vẻ
đẹp sắc sảo của Thuý Kiều)
Đại ý: Đoạn trích ca ngợi vẻ đẹp, tài năng của hai chị em Kiều, dự cảm về
kiếp người tài hoa bạc mệnh.
3.Nội dung:
a. Vẻ đẹp chung của hai chị em Kiều:
- Tố nga - Cô gái đẹp.
- Dáng - như mai.
- Tinh thần - trắng trong như tuyết.
( Mỗi người một vẻ đẹp nhưng đều đạt đến mức hoàn hảo.
b. Vẻ đẹp của Thuý Vân:
- Vẻ đẹp phúc hậu, cao sang quý phái.
- Vẻ đẹp hoà hợp với thiên nhiên xung quanh
(dự báo cuộc đời bình lặng, suôn sẻ.)
c. Vẻ đẹp của Thuý Kiều:
- Vẻ đẹp nhan sắc:
+ Đôi mắt, lông mày.
+ Hoa ghen, liễu hờn.
+ Nghiêng nước nghiêng thành.
- Tài: đa tài.
( Dự báo số phận éo le, đau khổ.
* Thái độ của tác giả: trân trọng ngợi ca vẻ đẹp, tài năng của Thúy Vân, Thúy
Kiều.
4. Nghệ thuật:
- Sử dụng những hình ảnh tượng trưng, ước lệ.
- Sử dụng nghệ thuật đòn bẩy.
- Lựa chọn và sử dụng ngôn ngữ miêu tả tài tình.
- Sử dụng một số biện pháp nghệ thuật: Ẩn dụ, nhân hóa, so sánh….
5.Ý nghĩa văn bản: Đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” thể hiện tài năng nghệ
thuật và cảm hứng nhân văn ngợi ca vẻ đẹp và tài năng của con người của tác
giả Nguyễn Du.
V. Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”
1. Vị trí đoạn trích: Đoạn trích gồm 22 câu (từ 10331054) ở phần "Gia biến và
lưu lạc".
- Đoạn trích thể hiện tâm trạng bi kịch của Kiều khi bị giam lỏng ở lầu Ngưng
Bích.
2. Đại ý: Đoạn trích cho thấy cảnh ngộ cô đơn, buồn tủi và tấm lòng thuỷ
chung, hiếu thảo của Thuý Kiều.
Tóm tắt đoạn trích: Gia đình Kiều gặp cơn nguy biến. Do thằng bán tơ vu
oan, cha và em bị bắt giam. Để chuộc cha, Kiều quyết định bán mình. Tưởng
gặp được nhà tử tế, ai dè bị bắt vào chốn lầu xanh, Kiều uất ức định tự tử. Tú
Bà vờ hứa hẹn gả chồng cho nàng, đem nàng ra giam lỏng ở lầu Ngưng Bích,
sau đó mụ sẽ nghĩ cách để bắt nàng phải tiếp khách làng chơi.
3. Nội dung:
• Tâm trạng nhân vật Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích:
- Đau đớn xót xa nhớ về Kim Trọng.
- Day dứt, nhớ thương gia đình. (Trong tình cảnh đáng thương, nỗi nhớ của
Thúy Kiều đi liền với tình thương - một biểu hiện của đức hy sinh, lòng vị
tha, chung thủy rất đáng ca ngợi ở nhân vật này.
• Hai bức tranh thiên nhiên trước lầu Ngưng Bích trong cảm nhận của Thúy
Kiều:
- Bức tranh thứ nhất (bốn câu thơ đầu) phản chiếu tâm trạng, suy nghĩ của
nhân vật khi bị Tú Bà giam lỏng ở lầu Ngưng Bích. Cảnh vật hiện ra bao la,
hoang vắng, xa lạ và cách biệt. Kiều cảm thấy bẽ bàng, tủi nhục, cô đơn đến
mức tuyệt đối
- Bức tranh thứ hai (tám câu thơ cuối) phản chiếu tâm trạng nhân vật trở về
với thực tại phũ phàng, nỗi buồn của Thúy Kiều không thể vơi. Cảnh nào
cũng buồn, cũng gợi thân phận con người trong cuộc đời vô định.
4.Nghệ thuật:
- Nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật: diễn biến tâm trạng được thể hiện qua
ngôn ngữ độc thoại và tả cảnh ngụ tình đặc sắc.
- Lựa chọn từ ngữ, sử dụng các biện pháp tu từ.
5. Ý nghĩa văn bản: Đoạn trích thể hiện tâm trạng cô đơn, buồn tủi và tấm
lòng thủy chung, hiếu thảo của Thúy Kiều.
VI. Đoạn trích “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” - Nguyễn Đình
Chiểu.
1. Tác giả:
Nguyễn Đình Chiểu (1822 - 1888) sinh ở làng Tân Khánh , phường
Tân Bình - Gia Định (thuộc TPHCM ngày nay), là con của một viên quan
nhỏ. Cuộc đời của NĐC có nhiều đau khổ, cha bị cách chức, tuổi nhỏ phải về
quê nội ở Huế học nhờ. Năm 1843 đỗ tú tài, 1847 chuẩn bị cho kì thi cao hơn
thì được tin mẹ mất. Ông bỏ thi vào Nam để chịu tang mẹ, bị ốm nặng trên
đường về nên mù cả hai mắt. Gia đình nhà giàu trước hứa gả con gái cho ông
liền bội ước. Những ước mơ tuổi trẻ tan vỡ, ông về quê dạy học, làm thuốc và
sống thanh bạch. Khi giặc Pháp xâm lược, ông đứng về phía nhân dân kháng
chiến.
Nguyễn Đình Chiểu là nhà văn có số phận đau thương nhất trong số các
nhà văn. Ông đã để lại cho đời một sự nghiệp văn chương có giá trị lớn với
nhiều truyện thơ, bài thơ, văn tế nổi tiếng đều viết bằng chữ Nôm. Những tác
phẩm tiêu biểu như: “Ngư tiều y thuật vấn đáp “, Văn tế nghĩa sĩ Cần
Giuộc”….
2. Tác phẩm:
Truyện “Lục Vân Tiên” ra đời khoảng đầu những năm 50 của thế kỉ 19,
thể hiện rõ lý tưởng đạo đức mà Nguyễn Đình Chiểu muốn gửi gắm qua tác
phẩm. Truyện “Lục Vân Tiên” là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của
Nguyễn Đình Chiểu được lưu truyền rộng rãi trong nhân dân. Đoạn trích thể
hiện khát vọng hành đạo giúp đời của tác giả, và khắc hoạ những phẩm chất
đẹp đẽ của hai nhân vật chính: Lục Vân Tiên tài ba dũng cảm, trọng nghĩa
khinh tài; Kiều Nguyệt Nga hiền hậu, nết na, ân tình.
Đoạn trích mang nét tiêu biểu của Nguyễn Đình Chiểu: Đó là một thứ
ngôn ngữ mộc mạc bình dị gần gũi với lời nói thông thường, và mang đậm
màu sắc địa phương Nam Bộ. Nó có phần thiếu trau chuốt nhưng tự nhiên, dễ
đi vào quần chúng.
3. Tóm tắt sơ lược:
Lục Vân Tiên là học trò có đức, có tài, giỏi cả văn võ. Trên đường lên
kinh dự thi, chàng tình cờ dẹp được giặc cướp cứu được Kiều Nguyệt Nga.
Cô gái này rất cảm phục chàng...Giữa đường nghe tin mẹ mất Vân Tiên phải
quay về chịu tang mẹ… Bị gặp nạn bao lần nhưng chàng luôn được thần và
dân cứu giúp.. .
Kiều Nguyệt Nga sau khi thoát nạn đã tự xem Vân Tiên là người kết
tóc trăm năm. Do bị gian thần hãm hại nàng bị buộc đi cống giặc Ô Qua
nhưng vẫn một lòng chung thuỷ với Vân Tiên. Giữa đường nàng đã tự vẫn
nhưng được Phật bà và nhân dân cứu giúp.
Cuối cùng Vân Tiên và Nguyệt Nga vẫn được gặp nhau và cùng sống
trong hạnh phúc
4. “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga”:
a.Vị trí đoạn trích:
- Gồm 58 câu, (từ câu 153 đến câu 180) nằm ở phần đầu truyện.
LVT đi thi, gặp cướp, chàng đánh tan bọn cướp cứu được KNN. KNN cảm
kích tấm lòng của chàng.
- Diễn biến của sự việc trong đoạn trích nằm trong kiểu kết cấu của các truyện
truyền thống: người tốt thường gặp nhiều gian truân, trắc trở, bị hãm hại
nhưng cuối cùng bao giờ cũng tai qua nạn khỏi, cái Thiện luôn chiến thắng
cái Ác.
b. Nội dung:
- Đạo lý nhân nghĩa ở hình tượng nhân vật Lục Vân Tiên được thể hiện qua
hành động dũng cảm đánh cướp cứu người, tấm lòng chính trực, hào hiệp,
trọng nghĩa khinh tài, từ tâm nhân hậu khi cư xử với Kiều Nguyệt Nga sau khi
đánh bại bọn cướp.
- Đạo lý nhân nghĩa còn được thể hiện qua lời nói của cô gái thùy mỵ, nết na,
Kiều Nguyệt Nga một lòng tri ân người đã cứu mình.
c. Nghệ thuật:
- Miêu tả nhân vật chủ yếu thông qua cử chỉ, hành động, lời nói.
- Sử dụng ngôn ngữ mộc mạc, bình dị, gắn với lời nói thông thường, mang
màu sắc Nam Bộ rõ nét, phù hợp với diễn biến tình tiết truyện.
d. Ý nghĩa văn bản: Đoạn trích ca ngợi phẩm chất cao đẹp của hai nhân vật
Lục Vân Tiên, Kiều Nguyệt Nga và khát vọng hành đạo cứu đời của tác giả.
VII. Bài thơ Đồng chí - Chính Hữu.
1. Tác giả:
- Chính Hữu (1926 - 2007), tên thật Trần Đình Đắc, quê: Can Lộc - Hà Tĩnh.
- Nhà thơ quân đội, chuyên viết về người lính và chiến tranh.
- Được nhà nước trao tặng giải thưởng HCM về văn học nghệ thuật năm 2000
2. Tác phẩm:
- Sáng tác đầu năm 1948, tiêu biểu viết về người lính trong kháng chiến
chống Pháp.
Đại ý: Tình đồng chí của người lính dựa trên cơ sở cùng chung cảnh ngộ và lý
tưởng chiến đấu đã gắn bó và tạo nên sức mạnh chiến thắng kẻ thù.
3. Nội dung:
a. Cơ sở tạo nên tình đồng chí cao đẹp (7 câu đầu)
+ Cùng chung cảnh ngộ - vốn là những người nông dân nghèo ở những miền
quê hương “nước mặn đồng chua”, “ đất cày lên sỏi đá”.
+ Cùng chung lý tưởng, cùng chung chiến hào chiến đấu vì độc lập tự do của
Tổ quốc.
+ Cùng chia sẻ những gian lao thiếu thốn của cuộc đời người lính
+ Vận dụng sáng tạo thành ngữ dân gian, cấu trúc thơ sóng đôi, điệp ngữ…
=> Sáu câu thơ đầu đã giải thích cội nguồn và sự hình thành của tình đồng chí
giữa những người đồng đội. Câu thơ thứ bảy ngắn gọn chỉ có 2 tiếng và 1 dấu
chấm than vang lên như mốt nhấn trong bản đàn, như một cái bản lề khép lại
đoạn thơ một để mở ra đoạn hai.
b. Những biểu hiện của tình đồng chí trong chiến đấu gian khổ:
- Tình đồng chí là sự cảm thông sâu sắc những tâm tư, nỗi niềm của nhau.
Những người lính gắn bó với nhau, họ hiểu đến những nỗi niềm sâu xa, thầm
kín của đồng đội mình:
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày,
Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”
Người lính đi chiến đấu để lại sau lưng những gì yêu quý nhất của quê hương:
ruộng nương, gian nhà, giếng nước gốc đa. Từ "mặc kệ"cho thấy tư thế ra đi
dứt khoát của người lính. Nhưng sâu xa trong lòng, họ vẫn da diết nhớ quê
hương. Ở ngoài mặt trận, họ vẫn hình dung thấy gian nhà không đang lung lay
trong cơn gió nơi quê nhà xa xôi.
- Tình đồng chí còn là cùng nhau chia sẻ những gian lao, thiếu thốn của cuộc
đời người lính. Những gian lao, thiếu thốn trong cuộc sống của người lính
những năm kháng chiến chống pháp hiện lên rất cụ thể, chân thực: áo rách,
quần vá, chân không giày, sự khổ sở của những cơn sốt rét rừng hành hạ, trời
buốt giá, môi miệng khô và nứt nẻ, nói cười rất khó khăn, có khi nứt ra chảy
cả máu. Nhưng những người lính vẫn cười bởi họ có hơi ấm và niềm vui của
tình đồng đội "thương nhau tay nắm lấy bàn tay". Hơi ấm ở bàn tay, ở tấm
lòng đã chiến thắng cái lạnh ở "chân không giày" và thời tiết "buốt giá". Cặp
từ xưng hô "anh" và "tôi" luôn đi với nhau, có khi đứng chung trong một câu
thơ, có khi đi sóng đôi trong từng cặp câu liền nhau diễn tả sự gắn bó, chia sẻ
của những người đồng đội.
c. Hình ảnh biểu tượng cho tình đồng chí ( 3 câu cuối)
- Ba câu cuối cùng kết thúc bài thơ bằng một hình ảnh thơ thật đẹp:
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo”
Nổi lên trên cảnh rừng đêm hoang vắng, lạnh lẽo là hình ảnh người lính
"đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới". Đó là hình ảnh cụ thể của tình đồng chí
sát cánh bên nhau trong chiến đấu. Họ đã đứng cạnh bên nhau giữa cái giá rét
của rừng đêm, giữa cái căng thẳng của những giây phút "chờ giặc tới". Tình
đồng chí đã sưởi ấm lòng họ, giúp họ vượt lên tất cả...
- Câu thơ cuối cùng mới thật đặc sắc: "Đầu súng trăng treo". Đó là một hình
ảnh thật mà bản thân Chính Hữu đã nhận ra trong những đêm phục kích giữa
rừng khuya. Nhưng nó còn là một hình ảnh thơ độc đáo, có sức gợi nhiều liên
tưởng phong phú sâu xa. "Súng" biểu tượng cho chiến tranh, cho hiện thực
khốc liệt. "Trăng" biểu tượng cho vẻ đẹp yên bình, mơ mộng và lãng mạn.
Hai hình ảnh "súng" và "trăng" kết hợp với nhau tạo nên một biểu tượng đẹp
về cuộc đời người lính: chiến sĩ mà thi sĩ, thực tại mà mơ mộng. Hình ảnh ấy
mang được cả đặc điểm của thơ ca kháng chiến - một nền thơ giàu chất hiện
thực và giàu cảm hứng lãng mạn.
Vì vậy, câu thơ này đã được Chính Hữu lấy làm nhan đề cho cả một tập
thơ - tập "Đầu súng trăng treo".
=> Đoạn kết bài thơ là một bức tranh đẹp về tình đồng chí, đồng đội của
người lính.
4. Nghệ thuật:
- Sử dụng ngôn ngữ bình dị, thấm đượm chất dân gian, thể hiện tình cảm chân
thành.
- Sử dụng bút pháp tả thực kết hợp với lãng mạn một cách hài hòa, tạo nên
hình ảnh thơ đẹp, mang ý nghĩa biểu tượng.
5. Ý nghĩa văn bản: Bài thơ ngợi ca tình cảm đồng chí cao đẹp giữa những
người chiến sĩ trong thời kì đầu kháng chiến chống thực dân Pháp gian khổ.
VIII. Bài thơ về tiểu đội xe không kính – Phạm Tiến Duật
1.Tác giả: Phạm Tiến Duật (1941 - 2007) sinh trưởng ở Thanh Ba - Phú Thọ,
là nhà thơ trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Sáng
tác thơ của Phạm Tiến Duật thời kì này tập trung viết về thế hệ trẻ trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ.
2.Tác phẩm: “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” được sáng tác năm 1969 và
in trong tập thơ “Vầng trăng quầng lửa”.
- Nhan đề bài thơ: Qua hình ảnh những chiếc xe không kính và người chiến sĩ
lái xe, tác giả ca ngợi những người chiến sĩ lái xe trẻ trung, hiên ngang, bất
chấp khó khăn nguy hiểm ngày đêm lái xe chi viện cho chiến trường, giải
phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
3. Nội dung:
a. Hình ảnh những chiếc xe không kính
- Hình ảnh những chiếc xe không kính được tác giả miêu tả trần trụi, chân
thực:
Không có kính không phải vì xe không có kính,
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi.
+ Đó là những chiếc xe vận tải chở hàng hóa, đạn dược ra mặt trận, bị máy
bay Mĩ bắn phá, kính xe vỡ hết.
+ Động từ “giật”, “rung” cùng với từ “bom” được nhấn mạnh hai lần càng
làm tăng sự khốc liệt của chiến tranh
=> Hai câu thơ đã giải thích nguyên nhân những chiếc xe lại không có kính,
qua đó phản ánh mức độ khốc liệt của chiến tranh.
- Càng lăn bánh ra chiến trường, chiếc xe càng bị biến dạng đến mức trần
trụi,: “không đèn, không mui” và thêm “ có xước” tưởng chừng không thể
chạy được nữa. Điệp ngữ “ không có” như nhân lên những khốc liệt.
b. Hình ảnh người lính lái xe
- Tư thế hiên ngang, thái độ ung dung, tự tin
Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.
+ Tính từ “ung dung” đảo lên đầu câu nhấn mạnh tư thế chủ động, coi thường
mọi khó khăn, nguy hiểm của các chiến sĩ lái xe.
+ Điệp từ “nhìn”: khí phách kiên cường, như thách đố với khó khăn.
- Tinh thần lạc quan, sự trẻ trung, nghịch ngợm, ngang tàng trước những khó
khăn:
+ Bụi phun vào tóc trắng, mưa ướt áo cứ đi tiếp vì gió lùa áo khô nhanh thôi,
xe không kính cũng có cái hay đó là tầm nhìn rộng hơn, thấy được con đường
“chạy thẳng vào tim”, thấy sao trời gần hơn “ùa vào buồng lái”.
-> Những khó khăn gian khổ như tăng lên gấp bội vì xe không có kính nhưng
không làm giảm ý chí và quyết tâm của các chiến sĩ lái xe.
+ Điệp từ “ừ thì”: như một cái tặc lưỡi, chép miệng đồng thuận, coi mọi khó
khăn là chuyện nhỏ.
=> Thái độ lạc quan, yêu đời, tự tin có chút bướng bỉnh, ngang ngạnh; hình
ảnh người lính lái xe hiện lên vừa đáng yêu vừa đáng nể.
- Tình đồng đội thắm thiết, thiêng liêng là sợi dây vô hình nối kết mọi người
trong hoàn cảnh hiểm nguy, kề cận cái chết:
+ Tiểu đội xe là “Những chiếc xe từ trong bom rơi” gặp nhau.
+ Tình đồng đội: những cái bắt tay qua “cửa kính vỡ rồi”, là dựng bếp lửa
giữa trời, cùng ăn cùng ca hát, cùng mắc võng ngủ trong rừng.
=> Từ trong khó khăn, người lính từ mọi miền xa lạ trở thành “gia đình” của
nhau.
- Niềm tin vào chiến thắng, khát vọng, ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam,
thống nhất đất nước.
+ Điệp từ “lại đi”, lí do “vì miền Nam phía trước” : Không gì ngăn cản được
các anh đến chi viện cho chiến trường miền Nam.
+ Hình ảnh ẩn dụ “trời xanh ” và hoán dụ “trong xe có một trái tim”: tình yêu
thương dành cho miền Nam, cho Tổ quốc, là niềm tin và chiến thắng, khát
vọng thống nhất đất nước.
-> Hình ảnh "trái tim" là một hoán dụ nghệ thuật đẹp đẽ và đầy sáng tạo,
khẳng định phẩm chất cao quý của các chiến sĩ lái xe trên đường ra tiền tuyến
lớn.
=> Tất cả cùng chung lí tưởng chiến đấu giải phóng miền Nam, thống nhất
đất nước và tin tưởng vào tương lai tươi sáng đang tới rất gần.
4. Đặc sắc nghệ thuật:
- Kết hợp thể thơ bảy chữ và tám chữ
- Sử dụng các biện pháp tu từ như điệp ngữ, hoán dụ...
- Sáng tạo được những hình ảnh độc đáo có chất liệu hiện thực sinh động
- Ngôn ngữ và giọng điệu giàu tính khẩu ngữ, tự nhiên, khỏe khoắn.
5. Ý nghĩa văn bản: Bài thơ ca ngợi người chiến sĩ lái xe Trường Sơn dũng
cảm, hiên ngang, tràn đầy niềm tin chiến thắng trong thời ký chống giặc Mỹ
xâm lược.
IX. Đoàn thuyền đánh cá – Huy Cận
1.Tác giả: Huy Cận (1919-2005)
- Tên thật là: Cù Huy Cận. Quê: Hương Sơn - Hà Tĩnh
- Là nhà thơ nổi tiếng trong phong trào Thơ mới.
- Được giải thưởng HCM về văn hóa nghệ thuật năm 1996
2. Hoàn cảnh ra đời của bài thơ:
+ Được viết tại Hòn Gai 4/10/1958
+ In trong tập thơ “Trời mỗi ngày lại sáng” .
+ Trong chuyến đi thực tế dài ngày ở Quảng Ninh, nhà thơ đã sáng tác bài thơ
này.
+ Mạch cảm xúc trong bài thơ: theo trình tự thời gian đoàn thuyền của ngư
dân ra khơi đánh cá và trở về.
3. Nội dung
a. Cảnh đoàn thuyền ra khơi đánh cá ( 2 khổ thơ đầu)
Mở đầu bài thơ là cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi trong một buổi
hoàng hôn tuyệt đẹp:

“Mặt trời xuống biển như hòn lửa

Sóng đã cài then, đêm sập cửa”

– Điểm nhìn nghệ thuật đặc biệt của nhân vật trữ tình: một điểm nhìn di động
khi nhân vật đang trên con thuyền, cùng người dân làng chài tiến ra khơi

- Hình ảnh so sánh độc đáo: “Mặt trời xuống biển như hòn lửa”: Miêu tả
chân thực vầng mặt trời đỏ rực đang từ từ chìm xuống dưới mặt biển, báo
hiệu sự kết thúc của một ngày trong vòng tuần hoàn giữa ngày và đêm. Thể
hiện quang cảnh kỳ vĩ, tráng lệ giữa bầu trời và mặt biển lúc hoàng hôn. Đoàn
thuyền lúc này hiện lên thật nhỏ bé trong ánh sáng của “hòn lửa” và sự mênh
mông của “biển”. Phép so sánh gợi liên tưởng đến bước chuyển mình của thời
gian, đó là giai đoạn giao thoa giữa hai trạng thái ngày và đêm, là sự vận động
của thời gian song song với hành trình ra khơi của đoàn thuyền đánh cá.

- Hình ảnh nhân hóa: “Sóng đã cài then, đêm sập cửa”: Sóng gắn liền với
biển, khi hoàng hôn đến, thủy triều lên cũng là lúc những con sóng xô bờ
ngày một mạnh hơn. Những con sóng tại điểm nhìn của nhân vật trữ tình tựa
như những chiếc then cửa của vũ trụ đang kéo lại gần bờ để chìm vào trạng
thái nghỉ ngơi.
– Sử dụng các từ gắn liền với đời thường như “cài then”, “sập cửa” giúp gợi
cảm giác gần gũi, thân thương. Con người tuy nhỏ bé nhưng không hề lạc
lõng trong sự rộng lớn của vũ trụ, thay vào đó, thiên nhiên được hình dung
như một ngôi nhà lớn của con người, nơi con người tìm thấy sự bình yên và
hạnh phúc

=> Hai câu thơ đầu cho thấy tình yêu mà Huy Cận dành cho thiên nhiên và
cho cuộc đời. Một tình yêu rực cháy như “mặt trời” và dào dạt như sóng biển.

- Trên chất liệu thiên nhiên tráng lệ, hùng vĩ ấy, hình ảnh con người lao
động dần xuất hiện:

“Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi

Câu hát căng buồm cùng gió khơi.”

– Sử dụng từ “Đoàn thuyền” thay vì “con thuyền” ra khơi, Huy Cận đã tạo ra
sự qua lại tấp nập trên biển.

- Phó từ “lại” giúp tạo điểm nhấn ngữ điệu và điểm nhấn cho câu thơ:Tạo
hình tượng chủ động của con người trong sự vận động của thời gian. Nhắc về
tính lặp lại của công việc ra khơi diễn ra hàng ngày, trở thành một hành động
quen thuộc, một nhịp điệu lao động đã đi vào ổn định của người dân chài

– Có tác dụng miêu tả một hành động đối lập giữa hoạt động của vũ trụ với
hoạt động của con người: khi thiên nhiên dần bước vào trạng thái nghỉ ngơi
thì con người bắt đầu làm việc

- Hình ảnh “câu hát căng buồm cùng gió khơi” có tác dụng: Cụ thể hóa niềm
vui, phấn khởi, sự hào hứng, hăm hở của người lao động trên hành trình đánh
bắt xa bờ trước mắt. Gợi cho ta liên tưởng tới nguồn sức mạnh đẩy con
thuyền vượt trùng ra khơi. Luồng sức mạnh ấy không chỉ đến từ những con
sóng, ngọn gió mà còn đến từ lời ca tiếng hát, năng lượng dồi dào của những
thành viên trên thuyền. “Đoàn thuyền” trong mắt tác giả không di chuyển phụ
thuộc vào thiên nhiên mà hoàn toàn chủ động, hòa mình vào sự vận động của
vũ trụ.

– Bằng nghệ thuật chuyển đổi cảm giác “câu hát căng buồm”, tác giả đã tôn
vinh vẻ đẹp tâm hồn của người lao động, qua những câu hát tràn đầy năng
lượng, nhiệt huyết, hòa cùng gió biển để đẩy thuyền ra khơi.

=> Huy Cận đã tạo ra một khung cảnh khỏe khoắn bằng việc kết hợp 3 sự vật
và hiện tượng: Câu hát, cánh buồm và gió khơi, 3 sự vật biểu trưng cho 3 đối
tượng là con người, công cụ lao động và thiên nhiên

=> Đoàn thuyền trong mắt nhìn của Huy Cận ra khơi trong trạng thái phấn
chấn và náo nức đến kỳ lạ. Dường như có một sức mạnh vật chất từ con người
đã hòa cùng với gió biển, góp phần làm căng cánh buồm, đẩy con thuyền nhẹ
nhàng lướt sóng ra khơi

*Trong tâm trạng phấn chấn, rộn ràng khi ra khơi, những người dân chài
đã cất cao tiếng hát mang theo niềm mong mỏi tha thiết:

“Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng

Cá thu biển Đông như đoàn thoi

Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng

Đến dệt lưới ra, đoàn cá ơi!”


– Từ “hát rằng” nói lên niềm vui của người dân chài khi bắt đầu một chuyến
ra khơi

– Sử dụng thủ pháp liệt kê “cá bạc”, “cá thu” và phép so sánh “như thoi đưa”
đã thể hiện rõ sự giàu có phong phú của biển Đông, đồng thời là giai điệu
ngợi ca, biết ơn về “rừng vàng biển bạc” mà thiên nhiên đã ưu ái ban tặng cho
quê hương

- Hình ảnh ẩn dụ, nhân hóa “đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng” của những
loài cá biển có tác dụng:Tạo ra không khí lao động hăng say không kể ngày
đêm của người lao động. Cùng với hoạt động náo nhiệt diễn ra nơi những con
thuyền, những đàn cá cũng thi nhau bơi trong biển đêm, tạo ra nhiều sắc màu
chuyển động nhộn nhịp hai bên mạn thuyền

– Từ “dệt biển” ở đây miêu tả những vệt nước lấp lánh được tạo ra khi đoàn
cá bơi lội dưới ánh trăng. Muôn ngàn đoàn cá bơi qua lại tạo thành thảm biển
đêm lấp lánh đầy sinh động qua con mắt của nhà thơ

=> Qua 4 câu thơ, tác giả đã phác họa thành công một bức tranh thiên nhiên
kỳ vĩ, thơ mộng từ hoàng hôn đến cảnh biển về đêm, cùng với đó là tâm hồn
phóng khoáng, nhiệt huyết dành cho lao động và niềm hy vọng của người dân
chài mỗi lần ra khơi.

b. Phân tích khổ 3, 4, 5 và 6: Cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển, mang
khí thế lao động hào hùng

b1. Đoàn thuyền ra khơi với tư thế tầm vóc lớn lao, được miêu tả cụ thể và rất
sinh động

“Thuyền ta lái gió với buồm trăng


Lướt giữa mây cao với biển bằng

Ra đậu dặm xa dò bụng biển

Dàn đan thế trận lưới vây giăng”

– Đoàn thuyền đánh cá trong mắt tác giả hiện lên với sức mạnh lớn lao, có thể
so sánh với thiên nhiên bao la, rộng mở như: chiều cao của trăng và mây;
chiều rộng của mặt biển; độ sâu của biển

Lấy cảm hứng nhân sinh vũ trụ, tác giả đã dựng lên hình ảnh đoàn thuyền
đánh cá tương xứng với không gian:

– Nghệ thuật phóng đại qua 2 câu thơ “lái gió với buồm trăng”, “lướt giữa
mây cao với biển bằng” cho thấy con thuyền đánh cá vốn nhỏ bé trước khung
cảnh hoàng hôn trên biển, nay đã trở thành con thuyền khổng lồ, kỳ vĩ, làm
chủ hoàn toàn không gian bao la, rộng lớn của thiên nhiên, sánh ngang tầm vũ
trụ

– Khác với thời điểm bắt đầu, đoàn thuyền ngoài khơi thể hiện khí phách
mạnh kẽ khác thường, hòa nhập vào thiên nhiên và sẵn sàng mang về mẻ cá
đầy

– Khi con thuyền buông lưới, mặt lưới rộng như dò thấu đáy đại dương, toàn
bộ biển nước mênh mông giờ đây đều được con thuyền đánh cá kiểm soát

=> Sự kết hợp giữa hiện thực với chất lãng mạn được thể hiện qua cách nói
phóng đại đã giúp Huy Cận tạo nên những vần thơ đẹp và sâu sắc
– Sử dụng các động từ: “lái”, “lướt”, “dò”, “dàn”, rải đều trong mỗi câu thơ,
cho thấy sự linh hoạt của đoàn thuyền, các hoạt động diễn ra liên tục khiến
con thuyền như đang thực sự làm chủ biển trời.

– Câu thơ “Ra đậu dặm xa dò bụng biển” gợi cho ta thấy không khi lao động
hứng khởi của người dân trên thuyền. Mặc cho đêm tối, biển đen họ vẫn
quyết tâm tìm cá trong “lòng biển”

– Sử dụng phép ẩn dụ trong câu thơ “Dàn đan thế trận” phản chiếu cuộc sống
của người dân chài với mỗi lần ra khơi như tham gia vào một trận chiến đấu
ác liệt

=> Khổ thơ vẽ lên một bức tranh con người và sự vật trong lao động thật đặc
sắc và tráng lệ. Trong bức tranh ấy, thiên nhiên và con thuyền dường như
không có sự tách biệt. Con người bây giờ không những điều khiển cả con
thuyền mà còn thâu tóm được cả không gian vũ trụ.

b2. Cảnh biển đẹp trong đêm với sự giàu có, phong phú và tấm lòng hào
phóng

“Cá nhụ cá chim cùng cá đé

Cá song lấp lánh đuốc đen hồng

Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe

Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long”

– Qua thủ pháp liệt kê, tác giả đã diễn tả sự phong phú và giàu có của biển cả
quê hương qua những loài cá quý hiếm của biển như: cá chim, cá nhụ, cá đé
- Hình ảnh ẩn dụ “cá song lấp lánh đuốc đen hồng” mang nhiều ý nghĩa:
Nghĩa tả thực: miêu tả chân thực loài cá song với chiếc thân dài, trên vảy có
những chấm nhỏ màu đen hồng, lấp lánh như màu những ngọn đuốc. Nghĩa
ẩn dụ: gợi liên tưởng đến đoàn cá song bơi nối đuôi nhau, từ xa, tựa như một
ngọn đuốc lấp lánh dưới ánh trăng đêm, soi sáng biển đêm đen, tạo nên một
cảnh tượng thật lộng lẫy và kỳ vĩ

- Biện pháp nghệ thuật nhân hóa trong câu thơ “Cái đuôi em quẫy trăng vàng
chóe” mang nhiều lớp nghĩa: Nghĩa tả thực: miêu tả động tác quẫy đuôi của
một chú cá dưới mặt biển, trong ánh trăng vàng chiếu rọi. Nghĩa ẩn dụ: tác giả
muốn khắc họa khung cảnh của một đêm trăng tuyệt đẹp, huyền ảo mà ánh
trăng như dát đầy mặt biến khiến cho đàn cá quẫy nước mà như quẫy trăng

- Hình ảnh nhân hóa trong câu thơ “Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long”:Miêu
tả sinh động nhịp điệu của những cánh sóng trên biển Hạ Long. Giúp người
đọc liên tưởng đến nhịp thở của biển về đêm. Biển lúc này như một thực thể
sống, mang linh hồn của một con người, rực rỡ sắc màu như một bức tranh
sơn mài được tô điểm bởi những vì sao.

*Biển cả phong phú tài nguyên cùng tấm lòng bao dung đã mở ra tâm
trạng háo hức, tinh thần lao động hăng say và lòng biết ơn biển qua câu
hát:

“Ta hát bài ca gọi cá vào

Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao

Biển nuôi ta lớn như lòng mẹ

Nuôi lớn đời ta tự buổi nào”


– Qua câu thơ “Ta hát bài ca gọi cá vào” cùng bút pháp lãng mạn, tác giả đã
thể hiện sự vui tươi của người dân chài trong lao động. Họ đã biến khó khăn
thành bài ca nhiệt huyết, thúc đẩy tinh thần lao động giữa biển đêm đầy sóng
gió.

– Điều kỳ diệu trong tiếng hát của người dân chài là không chỉ tăng thêm tinh
thần lao động mà còn có khả năng gọi cá vào lưới, đem đến cho đoàn thuyền
những mẻ cá tươi ngon

– Sử dụng phép so sánh “biển” với “lòng mẹ” cho thấy sự bao dung, hào
phóng mà mẹ thiên nhiên ban tặng cho con người. Đồng thời, thể hiện sự biết
ơn của những người dân chài tới biến, tựa như nguồn sữa khổng lồ, nuôi
nấng người dân từ bao đời nay

=> Khổ thơ ngoài thể hiện sâu sắc niềm tự hào và lòng biết ơn của người dân
chài trước ân tình của quê hương đất nước

b 3. Khung cảnh thu hoạch cá hăng say trên biển trong nhịp điệu lao động
khẩn trương, hào hứng và hăng say:

“Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng

Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng

Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông

Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng.”

– “Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng” diễn tả khung cảnh người dân vội vàng,
nhộn nhịp thu hoạch cá cho kịp trời sáng
- Ẩn dụ “Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng” thể hiện nhịp độ công việc của
người trên thuyền đang trở nên khẩn trương với hi vọng đón chờ mẻ cá nặng:
Có thể hình dung thấy những cánh tay săn chắc, cuồn cuộn, làn da khỏe
khoắn trong tư thế hiên ngang, đang gồng lên kéo lấy chùm cá từ lòng biển. –
Những nét tạo hình gân guốc, chắc khỏe, cơ bắp cuồn cuộn tôn lên vẻ đẹp
khỏe khoắn của người dân chài lưới trong lao động. Đồng thời dấu hiệu cho
thấy một mẻ lưới bội thu

- Bút pháp sử dụng màu sắc hình ảnh “vẩy bạc”, “đuôi vàng” đầy ắp khoang
thuyền: Gợi ra niềm vui phơi phới của người lao động khi đón nhận món quà
từ biển cả. Vảy cá tựa như màu bạc, đuôi cá óng ánh như dát vàng, mẻ cá
chất đầy thuyền lấp lánh dưới ánh mặt trời, rực sáng cả rạng đông, mọi vật
đều tràn ngập sức sống

=> Tác giả đã khắc họa được một bức tranh thiên nhiên hùng vĩ với sự giàu
có hào phóng của biển cả. Đồng thời khắc họa thành công hình tượng người
lao động làng chài với tầm vóc lớn lao, phi thường.

c. Cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về ( khổ cuối)

“Câu hát căng buồm với gió khơi

Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời

Mặt trời đội biển nhô màu mới

Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.”

– Câu hát ra khơi và câu hát trở về được miêu tả với cùng một cấu trúc nhưng
lại mang âm hưởng hoàn toàn khác nhau.
- Nghệ thuật đầu cuối trong câu hát ra khơi: “Câu hát căng buồm cùng gió
khơi”, và câu hát trở về: “Câu hát căng buồm với gió khơi”: Trong câu hát ra
khơi, tác giả sử dụng từ “cùng” để thể hiện sự hài hòa giữa ngọn gió từ thiên
nhiên và câu hát từ con người. Từ đó, kỳ vọng vào một chuyến đi biển thuận
lợi và bình yên. Trong câu hát trở về, tác giả sử dụng từ “với” để bộc lộ niềm
vui phơi phới khi trở về trên những con thuyền đầy ắp cá

- Sử dụng phép nghệ thuật nhân hóa “Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”:
Đoàn thuyền như trở thành một thực thể sống, vượt qua giới hạn sức mạnh để
chạy đua với thiên nhiên. Tầm vóc của đoàn thuyền hay con người nay đã có
thể sánh ngang với tầm vóc của vũ trụ. Trong tư thế hào hùng, khẩn trương
con người đã hoàn thành nhiệm vụ và chiến thắng về đích trước khi biển đón
bình minh

– Khi “Mặt trời đội biển nhô màu mới” thì đoàn thuyền đã cập bến, ánh mặt
trời chiếu sáng long lanh trong những tàu cá, tạo nên hình ảnh thơ: “Mắt cá
huy hoàng muôn dặm khơi”. => Cảnh bình minh huy hoàng đang về trên quê
hương đất nước sau bao đêm dài nô lệ.

- Phép ẩn dụ được sử dụng trong hình ảnh “mắt cá huy hoàng”: Tác giả dùng
để tả thực muôn triệu mắt cá li ti được phản chiếu bởi ánh rạng đông và trở
nên rực rỡ, huy hoàng. Nghĩa ẩn dụ: muôn vàn mắt cá lấp lánh này không còn
là ánh sáng của tự nhiên nữa, mà là ánh sáng của chiến thắng, của thành quả
lao động. Ánh sáng mở ra chân trời niềm vui mới đối với những người con
miền biển.

=> Khổ thơ cuối được xem như khúc ca khải hoàn của bản anh hùng ca lao
động, thể hiện niềm vui phơi phới của con người khi hòa hợp nhuần nhuyễn
với thiên nhiên thành, tạo nên vẻ đẹp thực sự tráng lệ
4. Về nghệ thuật

- Bằng một ngòi bút tràn đầy cảm hứng thiên nhiên, hình ảnh sinh động, giàu
sức gợi, kết cấu tương ứng đầu cuối đặc sắc. Bài thơ đã thành công trong việc
xây dựng hình ảnh đoàn thuyền đánh cá với sức mạnh khỏe khoắn, hào hùng
và tràn đầy nhiệt huyết.

- Sử dụng bút pháp lãng mạn với các biện pháp nghệ thuật đối lập, so sánh,
nhân hoá, phóng đại:
+ Khắc họa những hình ảnh đẹp về mặt trời lúc hoàng hôn, khi bình minh,
hình ảnh biển cả và bầu trời trong đêm, hình ảnh ngư dân và đoàn thuyền
đánh cá.
+ Miêu tả sự hài hoà giữa thiên nhiên và con người.
- Sử dụng ngôn ngữ thơ giàu hình ảnh, nhạc điệu, gợi liên tưởng.
5. Ý nghĩa văn bản: Bài thơ thể hiện nguồn cảm hứng lãng mạn ngợi ca biển
cả lớn lao, giàu đẹp, ngợi ca nhiệt tình lao động vì sự giàu đẹp của đất nước
của những người lao động mới.
X. Bếp lửa – Bằng Việt
1. Tác giả: Bằng Việt (1941)
- Tên thật: Nguyễn Việt Bằng. Quê quán: Thạch Thất - Hà Tây.
- Thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ.
- Phong cách sáng tác:
+ Đề tài khai thác: Kỷ niệm thiếu thời & ước mơ tuổi trẻ
+ Giọng thơ: Trầm lắng, nghĩ ngợi, mượt mà
2. Tác phẩm: Bài thơ được sáng tác năm 1963, khi tác giả đang học ngành
Luật ở nước Liên Xô (cũ).
+ Mạch cảm xúc bài thơ đi từ hồi tưởng đến hiện tại, từ kỉ niệm đến suy
ngẫm.
+ Đại ý: Bài thơ gợi lại những kỉ niệm sâu sắc của người cháu về người bà và
tuổi ấu thơ được ở cùng bà.
3. Nội dung:

a. Hình ảnh bếp lửa gợi nỗi nhớ về kỉ niệm tuổi thơ cùng tình bà cháu

Dòng hồi tưởng và mạch cảm xúc của tác giả được gợi từ hình ảnh bếp
lửa thân thương, ấm áp. Từ đó những kỉ niệm về bà ùa về trong tâm trí tác
giả.

“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm

Một bếp lửa ấp iu nồng đượm”

– Điệp từ “một bếp lửa” được lặp lại hai lần:Hình ảnh bếp lửa hiện lên với ý
nghĩa tả thực, thân thương ấm áp, gần gũi và vô cùng quen thuộc đối với mỗi
gia đình Việt Nam từ xưa đến nay

- Sử dụng từ láy “chờn vờn” có ý nghĩa: Miêu tả thực hình ảnh ngọn lửa bập
bùng, tỏa sáng trên bếp lửa, ẩn hiện giữa màn sương sớm vừa thể hiện những
ký ức mờ ảo, kỷ niệm về những năm tháng tuổi thơ đang tỏa ra, chờn vờn
trong tâm trí tác giả

- Từ “ấp iu nồng đượm” có tác dụng: Liên tưởng đến bàn tay cần mẫn, khéo
léo của người bà khi nhóm bếp lửa mỗi sớm tinh mơ.Thể hiện tấm tình yêu
thương của người bà, nuôi nấng người cháu bằng tấm lòng ấm áp tựa như hơi
ấm bếp lửa

- Sự trỗi dậy cảm xúc yêu thương mãnh liệt trong người cháu qua hình ảnh
bếp lửa được thể hiện qua câu thơ:“Cháu thương bà biết mấy nắng mưa!”–
Bộc lộ sự thấu hiểu của người cháu trước những vất vả, lam lũ, nhọc nhằn của
cuộc đời người bà. Cụm từ “biết mấy nắng mưa” chính là để lột tả sự cần cù,
chịu khó, đức hi sinh của người bà dành cho người cháu. Từ “thương” là từ
biểu cảm đắt nhất trong câu thơ. “Thương” là động từ chỉ tình cảm chân
thành, được thể hiện qua sự sẻ chia và sự kính trọng. Tác giả sử dụng từ
“thương” thay vì từ khác giúp cảm xúc an tỏa tâm hồn người cháu một cách
rất tự nhiên.

=> Hình ảnh “bếp lửa” đã khơi dậy trong lòng người cháu những ký ức xúc
động về người bà những kỷ niệm bên bà. Dòng cảm xúc đi từ nỗi nhớ bà lan
rộng thành nỗi nhớ về quê hương, nơi có gia đình và có những người thân yêu

b.Những kỉ niệm tuổi thơ bên bà và tình bà cháu

* Từ những năm lên bốn tuổi, tác giả đã phải trải qua những năm tháng
tuổi thơ thiếu thốn, đầy khó khăn cùng gia đình:

“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói

Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi,

Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy”

- Thành ngữ “đói mòn đói mỏi” có mang ý nghĩa: Diễn tả hiện thực đau
thương trong lịch sử, đó chính là nạn đói năm 1945. Do chính sách cai trị hà
khắc của quân Nhật và Pháp, hơn hai triệu đồng bào ta đã chết đói. Những
người còn lại thì chật vật kiếm ăn qua ngày. Cái đói cái nghèo làm nhân dân
ta mệt mỏi, rã rời và kiệt sức. Giọng điệu câu thơ chùng xuống, lòng người
như nao nao, nghẹn ngào cảm xúc khi nghĩ về những năm tháng tuổi thơ đói
khổ ấy
– Hình ảnh “bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy” diễn tả được hậu quả mà cái đói
đã gây ra. Nó khiến cho không chỉ người mà đến ngựa cũng trở nên gầy rạc,
xanh xao…Tuy tiều tụy, thiếu thốn là vậy nhưng với vai trò là trụ cột gia
đình, người cha vẫn phải “đi đánh xe”, bươn chải kiếm sống đủ nghề

=> Cả hai hình ảnh “đói mòn đói mỏi” và “khô rạc ngựa gầy” đều mang đậm
chất hiện thực. Qua đó, tác giả đã thành công trong việc đặc tả sự xơ xác,
xanh xao, mệt mỏi của những con người sống trong nạn đói lớn nhất lịch sử
dân tộc.

*Trong những năm nạn đói hoành hành, người cháu đã cùng bà nhóm
lửa:

“Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu

Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay”

– Khói bếp của bà năm tháng ấy đã lưu giữ một cảm giác khó quên, dai dẳng
đến nỗi, bây giờ khi nghĩ lại “sống mũi còn cay’’.

– Trong khổ thơ này từ “khói” đã được lặp lại 2 lần dưới 2 trạng thái khác
nhau: “mùi khói” và “khói hun”. Tuy ở hai hình thái khác nhau nhưng “khói”
đều gợi sự ám ảnh về một thời gian khó khăn mà tác giả đã phải trải qua cùng
người bà

– Cảm giác “cay” vì khói bếp và cái cay cay bởi nỗi xúc động như hòa vào
làm một. Hai trạng thái “cay” của quá khứ và “cay” của hiện tại như hiện lên
đồng thời qua những dòng thơ
=> Những câu thơ được đầy ắp tình cảm, chan chứa nước mắt, ùa về trong
tâm tư tác giả, mờ ảo qua làn khói. Từ đó giúp gợi cho người đọc hình dung
rõ nét về một tuổi thơ đầy gian khổ, thiếu thốn và nhọc nhằn, một thời kỳ đen
tối trong lịch sử dân tộc.

* Ký ức hồi lên tám tuổi

“Tám năm ròng, cháu cùng bà nhóm lửa

Tu hú kêu trên những cánh đồng xa

Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà,

Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?”

“Tám năm ròng” là khoảng thời gian người cháu sống trong sự cưu mang,
dạy dỗ của bà:

– “Tám năm ròng, cháu cùng bà nhóm lửa” cũng là tám năm cháu nhận được
sự yêu thương, bao bọc của bà. Tám năm ấy tuy thiếu thốn, khó khăn nhưng
chưa bao giờ cháu thiếu tình yêu thương

– Hình ảnh “Bếp lửa” hiện lên trong khổ thơ như thể hiện cho tình bà cháu ấm
áp. Với cháu, bà như chỗ dựa tinh thần, là nơi cho cháu sự bình yên và an
toàn

Năm tháng sống bên bà là những năm tháng hồn nhiên, trong sáng và vô tư.
Điều này được thể hiện qua hình ảnh tâm tình của tác giả với chim tu hú:
“Tu hú kêu trên những cảnh đồng xa

Tu hú kêu bà còn nhớ không bà?

Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế

Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!”

– Tiếng chim tu hú báo hiệu hè về là âm thanh quen thuộc của đồng quê Việt
Nam, báo hiệu một mùa bội thu. Tiếng chim cũng khiến cho bức tranh đồng
quê trở nên sinh động hơn với đồng lúa chín vàng đồng và vải chín đỏ cành

Tiếng chim tu hú giục giã liên hồi như khắc khoải da diết, khiến lòng người
trỗi dậy những kỷ niệm xưa cũ. Nó gợi nhắc về:

– Tám năm kháng chiến chống Pháp, tác giả đã phải xa cha mẹ: “mẹ cùng cha
công tác bận không về”. Lúc bấy giờ chỉ có hai bà cháu sống cùng nhau. Có
thể nói, bà vừa là cha, vừa là mẹ, nuôi dưỡng cháu khôn lớn và trưởng thành.

– Những năm tháng tuổi thơ cùng bà nhóm lửa. Đó là cảm giác yên bình khi
được sống trong tình yêu thương, đùm bọc, tìm cảm ấm áp, trọn vẹn của bà.

“Cháu ở cùng bà, bà kể cháu nghe

Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học’’

– Sử dụng các động từ “bà bảo”, “bà dạy”, “bà chăm” như một cách liệt kê.
Tác giả cho thấy tấm lòng bao la, sự nâng niu, chăm sóc mà bà dành cho đứa
cháu nhỏ
– Các từ “bà” và từ “cháu” được lặp lại bốn lần, đan xen vào nhau, góp phần
thể hiện sự quấn quýt yêu thương của tình bà cháu

– Tình yêu thương, sự kính trọng trước những hi sinh của người bà được tác
giả thể hiện chân thành, sâu sắc qua câu thơ: “Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà
khó nhọc”

Hình ảnh chim tú hú được nhắc lại ở cuối khổ thơ kết hợp cùng câu hỏi tu từ
là một sáng tạo độc đáo của Bằng Việt. Tác giả đã diễn tả nỗi lòng da diết
của mình khi nhớ về tuổi thơ bên bà:

“Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà

Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?”

– Qua câu thơ, ta thấy được hình ảnh chú chim tu hú đang lạc lõng, bơ vơ
giữa không gian rộng lớn, mênh mông của cánh đồng, được tác giả mời gọi
đến bên bà

– Người cháu nơi phương xa bỗng chạnh lòng trước hình ảnh chú chim tu hú,
nhớ về những ngày được sống trong tình yêu, sự đùm bọc của bà. Chú chim
chính là phản chiếu hình ảnh người cháu đã lớn khôn, bơ vơ, lạc lõng giữa nơi
đất khách quê người nhưng trong lòng vẫn đau đáu nỗi nhớ bà, thương bà da
diết

– Người cháu thương con tu hú bao nhiêu thì lại biết ơn những tháng bên bà
bấy nhiêu

=> Trong hồi tưởng của người cháu về quá khứ, người cháu luôn bày tỏ nỗi
nhớ thương và lòng biết ơn bà vô hạn
*. Ký ức về một thời bom đạn chiến tranh

Trong sự tàn khốc của cuộc chiến tranh bừng sáng lên hình ảnh người bà
với nhiều phẩm chất cao đẹp:

“Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi

Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi

Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh”

– Hình ảnh thơ “cháy tàn cháy rụi” đã thể hiện rõ nét sự tàn phá khủng khiếp
mà chiến tranh đã mang lại cho những làng quê Việt Nam.

– Trong cái khắc nghiệt của chiến tranh là tình cảm làng xóm, cùng “đỡ đần
bà dựng lại túp lều tranh”. Đó chính là phẩm chất lá lành đùm lá rách – một
phẩm chất đáng quý trong truyền thống dân tộc ta

Trước bi kịch của hiện thực ấy, người bà vẫn mạnh mẽ, kiên cường sống và
nuôi nấng người cháu. Bà đã dặn dò cháu:

“Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh:

Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,

Mày có viết thư chớ kể này kể nọ,

Cứ báo nhà vẫn được bình yên!”

– Mặc cho sự khó khăn thiếu thốn nơi quê nhà, bà vẫn nói rằng có thể lo toan
mọi việc, mục đích để các con yên tâm công tác, phục vụ cách mạng. Lời dặn
của bà không chỉ tạo chỗ dựa vững chắc cho những đứa con xa nhà mà còn là
điểm tựa vững chắc cho cả người cháu

=> Hình ảnh người bà qua lời dặn đã làm nổi bật lên vẻ đẹp tâm hồn của
người phụ nữ, người mẹ anh hùng Việt Nam. Họ không những giàu lòng vị
tha mà còn giàu đức hi sinh.

c.Suy ngẫm về hình ảnh người bà và bếp lửa ( khổ 5,6)

a. Suy ngẫm của tác giả về hình ảnh bếp lửa

Từ đầu bài thơ, hình ảnh bếp lửa luôn song hành cùng hình ảnh người
bà, với sự tần tảo, nhẫn nại và giàu tình thương. Đến khổ 5, tác giả đã tự mình
bày tỏ những suy ngẫm về bếp lửa:

“Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen

Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn

Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…”

– Hình ảnh “bếp lửa” ở dòng thơ đầu là mang nghĩa tả thực. Đó là sự vật hữu
hình và gần gũi nhất, luôn xuất hiện trong những khoảng thời gian khó khăn
của đời bà

Từ hình ảnh “bếp lửa” tả thực, tác giả đã gợi lên hình ảnh “ngọn lửa”. Đó là
“ngọn lửa” mà “lòng bà luôn ủ sẵn”, mang ý nghĩa trừu tượng sâu sắc:

– Bếp lửa bà nhóm lên không phải bằng than, bằng củi, mà còn bằng “ngọn
lửa” từ trong lòng bà. Một ngọn lửa ấm áp tình yêu thương, niềm tin “dai
dẳng” vào một tương lai tươi sáng, tương lai sống trong hòa bình độc lập
– “Ngọn lửa” bền bỉ và bất diệt bà nhóm mỗi ngày ấy chính là phản chiếu
niềm vui, niềm tin, tình yêu thương mà bà thắp lên để nâng đỡ người cháu
trên chặng đường trưởng thành.

– Người bà trong mắt cháu không chỉ là người thắp lửa, nhóm lửa, giữ lửa mà
còn là người truyền lửa, giúp duy trì ngọn lửa của sự sống, niềm tin cho thế
hệ sau

– Sau suy ngẫm đó, tác giả nhận ra trong sự bình dị của hình ảnh bếp lửa là
một điều kỳ diệu, thiêng liêng. Từ đó, tác giả đã chợt thốt lên: “Ôi kì lạ và
thiêng liêng — bếp lửa!”

– Sử dụng các động từ: “nhen”, “ủ sẵn”, “chứa”, tác giả muốn thể hiện rằng ý
chí, bản lĩnh của bà, vốn đã có sẵn trong tố chất, phẩm chất cao đẹp của người
phụ nữ Việt Nam, chỉ đợi một ngọn lửa để thắp lên, bộc lộ ra bên ngoài

– Sử dụng điệp ngữ đi kèm với phép ẩn dụ “một ngọn lửa”, cùng với đó là kết
cấu song hành đã khiến giọng thơ vang lên với đầy xúc động, tự hào

=> Qua những suy ngẫm về hình ảnh bếp lửa, tác giả đã thể hiện sự ngợi ca
về vẻ đẹp tần tảo, kiên trì, nhẫn nại và giàu đức hy sinh của người bà. Những
phẩm chất cao đẹp ấy hiện lên lấp lánh như một thứ ánh sáng diệu kỳ giữa
những điều bình dị, giản dị nhất trong cuộc sống đời thường

b. Suy ngẫm của tác giả về hình ảnh người bà

Bà vừa là người nhóm lửa, vừa là người giữ cho ngọn lửa ấm nóng và tỏa
sáng. Trong ký ức người cháu mỗi khi nhớ lại luôn hiện lên hình ảnh người bà
với sự cảm phục và biết ơn vô hạn:

“Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa


Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ

Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm”

– Cụm từ chỉ thời gian “đời bà”, “mấy chục năm” cùng với từ láy tượng hình
“lận đận” và hình ảnh ẩn dụ “nắng mưa” đã diễn tả một cách trọn vẹn và sâu
sắc về cuộc đời đầy gian nan, vất vả của người bà

– Thời gian trôi qua, mọi sự biến đổi, song chỉ một điều duy nhất bất biến, đó
là cuộc đời bà: suốt một cuộc đời vất vả chăm con chăm cháu, bà “vẫn giữ
thói quen dậy sớm” để nhóm lửa, nhóm niềm tin, thắp lên tình yêu thương,
nuôi dưỡng cháu khôn lớn

=> Tình thương yêu tác giả đối với người bà được bộ lộ rõ qua từng câu chữ.
Đó là tình cảm ấm áp, giản dị, chân thành mà sâu nặng, thiết tha.

Đôi tay khẳng khiu, gầy guộc của bà không những nhóm lửa mà còn “ấp
iu nồng đượm” tình yêu con cháu, ấp ủ tình cảm cảm bằng tất cả tấm lòng
đôn hậu:

“Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm

Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi

Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui

Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ”

Điệp từ “nhóm” được lặp lại bốn lần, đan xen với những chi tiết tả thực, gợi
ra nhiều ý nghĩa sâu sắc:
– Hình ảnh “Nhóm bếp lửa” và “nhóm nồi xôi gạo” là hình ảnh miêu tả thực
công việc thường ngày của người bà

– Mặt khác, “nhóm niềm yêu thương” hay “nhóm dậy cả những tâm tình” là
mang nghĩa ẩn dụ về công việc thiêng liêng, cao quý nhất của người bà. Bà đã
khơi dậy niềm yêu thương và sự chia sẻ trong tâm hồn cháu

=> Có thể nói, 2 khổ thơ chính là cảm xúc dâng trào của tác giả khi suy ngẫm
về bà và bếp lửa. Từ đó ngợi ca, khẳng định: Bà là một người phụ nữ tần tảo,
luôn chăm lo và dành những điều tốt đẹp nhất cho con cháu.

d. Nỗi nhớ khôn nguôi về bà và bếp lửa ( khổ cuối)

Người cháu năm xưa được bà nuôi nấng giờ đã lớn khôn, chắp cánh bay xa
nhưng vẫn không quên được nguồn cội, không thể quên được quê nhà, nơi có
bếp lửa và đặc biệt là có bà:

“Giờ cháu đã đi xa, có ngọn khói trăm tàu,

Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả,

Nhưng vẫn chăng lúc nào quên nhắc nhớ:

Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”

– Dòng thơ đầu được ngắt thành hai nhịp đã gợi vận động của thời gian: từ
năm bốn tuổi, lên tám tuổi, đến tuổi trưởng thành. Nhịp thơ cũng biểu thị sự
biến đổi của không gian: từ căn bếp của bà đến những khoảng trời rộng lớn).

– Điệp từ “trăm” giúp người độc mở rộng tầm nhìn ra một thế giới rộng lớn
với muôn vàn điều mới mẻ
- Tác dụng của điệp từ “có” và biện pháp liệt kê: Thể hiện những thay đổi
lớn trong cuộc đời người cháu. Ở nơi phương xa, người cháu đã tìm được cho
mình nhiều niềm vui mới. Giúp khẳng định nỗi nhớ khắc khoải trong tâm trí
người cháu về hình ảnh ngọn lửa của bà, tấm lòng hi sinh, che chở, ấp iu, đùm
bọc của bà. Ngọn lửa ấy đã trở thành ký ức khó phai, thành niềm tin thiêng
liêng, tạo động lực cho người cháu trên suốt chặng đường trưởng thành và
phát triển

=> Khép lại bài thơ, tác giả đã thể hiện lòng tôn vinh đối với đạo lí thủy
chung, cao đẹp của người Việt: “uống nước nhớ nguồn”. Đạo lí nhân văn ấy
được nuôi dưỡng từ thuở ấu thơ, nhen nhóm trong tâm hồn người cháu từ nhỏ,
để rồi sau này chắp cánh bay cao, bay xa trên hành trình cuộc đời nhiều khó
khăn thử thách.

4. Nghệ thuật:

+ Xây dựng hình ảnh thơ vừa cụ thể, gần gũi, vừa gợi nhiều liên tưởng, mang
ý nghĩa biểu tượng.
+ Viết theo thể thơ tám chữ phù hợp với giọng điệu, cảm xúc hồi tưởng và
suy ngẫm.
+ Kết hợp nhuần nhuyễn giữa miêu tả, tự sự, nghị luận và biểu cảm.
5.Ý nghĩa văn bản: Từ những kỉ niệm tuổi thơ ấm áp tình bà cháu, nhà thơ
cho ta hiểu thêm về những người bà, người mẹ, về nhân dân nghĩa tình.
XI. Ánh trăng – Nguyễn Duy
1. Tác giả:
Nguyễn Duy sinh năm 1948, tên khai sinh là Nguyễn Duy Nhuệ, quê:
thành phố Thanh Hóa. Nhà thơ - chiến sĩ, trưởng thành trong kháng chiến
chống Mỹ.
2.Tác phẩm: Viết năm 1978 tại TP Hồ Chí Minh, trong tập thơ "Ánh trăng",
giải A Hội nhà văn Việt Nam (1984).
- Bài thơ có sự kết hợp giữa hình thức tự sự và chiều sâu cảm xúc. Trong
dòng diễn biến của thời gian, sự việc ở các khổ 1,2,3 bằng lặng trôi nhưng
khổ thơ thứ 4 “đột ngột” một sự kiện tạo nên bước ngoặt để nhà thơ bộc lộ
cảm xúc, thể hiện chủ đề tác phẩm. Vầng trăng hiện ra soi sáng không chỉ
không gian hiện tại mà còn gợi nhớ những kỉ niệm trong quá khứ chẳng thể
nào quên.
- Đại ý: “Ánh trăng” như một lời tự nhắc nhở về những năm tháng gian lao đã
qua của cuộc đời người lính gắn bó với thiên nhiên, đất nước. Bài thơ gợi
nhắc, củng cố thái độ sống thuỷ chung, ân tình với quá khứ tươi đẹp, chân
chất, hồn nhiên.
- Hình ảnh vầng trăng trong bài thơ mang nhiều tầng ý nghĩa:
+ Trăng là vẻ đẹp của thiên nhiên, tự nhiên
+ Là người bạn gắn bó với con người
+ Là biểu tượng cho quá khứ nghĩa tình, cho vẻ đẹp của đời sống tự nhiên
vĩnh hằng.
3. Nội dung:

a. Hình ảnh vầng trăng trong quá khứ của tác giả

Tác giả đã gợi lại những kỉ niệm đẹp, tình cảm gắn bó giữa con người và
vầng trăng trong quá khứ:

“Hồi nhỏ sống với rừng

với sông rồi với bể

hồi chiến tranh ở rừng


vầng trăng thành tri kỉ

Trần trụi với thiên nhiên

hồn nhiên như cây cỏ

ngỡ không bao giờ quên

cái vầng trăng tình nghĩa”

Khổ thơ đầu tuy ngắn nhưng với giọng tâm tình, thủ thỉ, kết hợp với biện
pháp tu từ liệt kê, tác giả đã gợi lên nhiều hoài niệm về một tuổi thơ sống
gắn bó, gần gũi với thiên nhiên của chính mình:

– Sử dụng hai chữ “hồi” ở câu thơ thứ nhất và thứ ba, tác giả như tạo ra chỗ
dừng chân cho khổ thơ. Đó là ranh giới của ấu thơ và trưởng thành. Ánh trăng
không những thắp sáng lên những hình ảnh về quá khứ mà còn mang theo
tiếng nói tâm tình sâu lắng thiết tha

– Không gian đầy ắp kỷ niệm mát lành dịu ngọt ân tình của quê hương như
được mở ra trong hai câu thơ đầu tiên với hình ảnh ánh trăng lai láng trên
cánh đồng, dòng sông, bãi biển.

– Tiếp theo đó là những năm tháng tuổi thơ vùng nông thôn gắn với ký ức
cùng bạn bè dạo chơi đồng, sông, bể. Bất kể nơi nào dạo qua cũng đều có ánh
trăng làm bạn đồng hành.

– Phạm vi không gian trong khổ thơ được mở rộng dần theo thời gian, nhịp
trưởng thành của con người.
Trong sự vận động không ngừng của thời gian, cậu bé nông thôn ấy đã lớn
lên và trở thành một người lính. Khi là một người lính, hình ảnh “hồi chiến
tranh ở rừng” cùng mang lại nhiều hoài niệm:

– Gợi nhắc về những năm tháng chiến đấu khó khăn nơi chiến trường, ánh
trăng soi đường lúc hành quân, dẫn lối những người lính tiến về phía trước, là
nguồn động lực tinh thần không thể thiếu nơi chiến trường khốc liệt

– Ánh trăng trở thành người bạn tri kỷ, giúp san sẻ mọi gian nan thiếu thốn,
chia sẻ niềm vui, nỗi buồn cũng những người lính trong những năm tháng
chiến tranh.

– Sử dụng điệp từ “với” lặp lại ba lần, tác giả đã giúp làm nổi bật tình cảm
gắn bó, thắm thiết giữa nhân vật trữ tình và thiên nhiên. Cho dù thời gian có
trôi, thời thế có nhiều đổi thay nhưng ánh trăng vẫn dõi theo tác giả, từ khi
còn bé đến lúc trưởng thành, không lúc nào biến mất.

Tác dụng của phép nghệ thuật nhân hóa trong câu thơ “vầng trăng thành tri
kỉ”:

– Nhắc tác giả nhớ về kỉ niệm trong những đêm hành quân hay gác giữa rừng,
làm bạn với vầng trăng chiếu rọi.

– Ánh trăng trở thành người bạn thân thiết, tri âm, tri kỷ, luôn xuất hiện để
đồng cảm cộng khổ, chia sẻ những vui buồn trong cuộc đời đời người lính.

=> Có thể thấy, ánh trăng cao khiết ấy đã soi rọi tuổi thơ của tác giả, soi sáng
từng bước đi trên hành trình trưởng thành của tác giả, khiến con đường hồi
tưởng quá khứ trở nên sáng rõ hơn bao giờ hết.
Trong khổ thơ thứ hai khi hồi tưởng về quá khứ, ta có thể thấy, ngay từ khi
còn nhỏ, sự gắn bó khăng khít của con người với thiên nhiên:

“Trần trụi với thiên nhiên

hồn nhiên như cây cỏ”

Sử dụng phép so sánh sánh “trần trụi, hồn nhiên” kết hợp với phép liệt kê
“thiên nhiên, cây cỏ” mang lại nhiều giá trị về nội dung:

– Nhấn mạnh lối sống đơn giản, mộc mạc của con người trước khi có được sự
phồn hoa như ngày hôm nay. Khi đó, mọi buồn vui sướng khổ đều gắn bó với
thiên nhiên, đặc biệt là với ánh trăng

– Thể hiện sự ngưỡng mộ của tác giả trước vẻ đẹp bình dị, vô tư, trong sáng
của vầng trăng

– Vẻ đẹp của ánh trăng tượng trưng cho nét đẹp trong tính cách và tâm hồn
người lính

Con người coi trăng như tri kỉ, như tình nghĩa:

“Ngỡ không bao giờ quên

cái vầng trăng tình nghĩa”

– Sử dụng động từ “ngỡ” giàu giá trị biểu đạt, tác giả dường như đang muốn
báo hiệu những chuyển biến trong câu chuyện hay chính là sự thay đổi tình
cảm của con người.
– Sử dụng phép nhân hóa trong câu thơ “cái vầng trăng tình nghĩa”, tác giả đã
ngầm khẳng định sự vĩnh cửu của ánh trăng. Dù cho mai về sau lòng người có
đổi thay thì ánh trăng vẫn len lỏi, quấn quýt, nồng nàn và mối quan hệ giữa
người và trăng là bền vững mãi mãi

=> Qua hai khổ thơ đầu, ánh trăng hiện diện như hình ảnh của quá khứ, tượng
trưng cho kí ức chan hòa tình nghĩa. Vầng trăng chính là biểu tượng cho quá
khứ nghĩa tình thủy chung. Dù cho trải qua biết bao khó khăn, khắc nghiệt,
con người vẫn luôn có trăng làm bạn đồng hành trên mỗi bước đường. Để rồi
từ đó, con người và trăng trở thành người bạn tri kỷ, cùng nhau chia sẻ mọi
niềm vui, nỗi buồn.

2. Hình ảnh vầng trăng trong hiện tại (2 khổ tiếp)

Những tưởng vầng trăng vẫn giữ vị trí quan trọng trong lòng người lính,
nhưng trong khổ thơ tiếp theo, Nguyễn Duy cho người đọc thấy điều ngược
lại:

“Từ hồi về thành phố

quen ánh điện, cửa gương

vầng trăng đi qua ngõ

như người dưng qua đường”

Trước sự thay đổi của thời gian cũng như xô bồ cuộc sống, người lính dần
quên đi “cái vầng trăng tình nghĩa”:
– Đối với người lính trong bài thơ, cuộc sống từ nhỏ tới khi chinh chiến nơi
trời Nam gian khổ đều có trăng làm bạn. Ấy thế mà khi chiến tranh kết thúc,
về thành phố, người lính lại quên đi tri kỷ của mình.

– Sự đối lập trong hoàn cảnh sống giữa quá khứ và thực tại thể hiện rõ qua
dụng ý của tác giả. Không gian núi rừng bao la rộng lớn, đầy hoang vu, nguy
hiểm được thay thành không gian thành phố với ánh điện, cửa gương hiện đại
và hào nhoáng.

– Cuộc sống của người lính từ hành quân chốn rừng thiêng nước độc, làm bạn
với tăm tối, với vắt, với đỉa nay trở nên bận bịu với những lo toan cơm áo gạo
tiền trong tòa nhà khang trang, hiện đại nơi phố thị.

– Sử dụng phép hoán dụ trong câu thơ “Quen ánh điện, cửa gương” tác giả đã
làm nổi bật cuộc sống tiện nghi, đủ đầy của con người trong thời đại mới.

=> Cuộc sống của con người thành phố như bị thu hẹp lại với bốn bức tường
cùng những gương cửa kính và ánh điện sáng trưng, không còn gần gũi và
thân thiện với nhiên nhiên như trước. Con người bó buộc chính bản thân trong
căn phòng nhỏ, với ánh đèn nhân tạo mà xa rời thiên nhiên rộng lớn, quên đi
con sông chảy chậm, bỏ qua ánh trăng hiền hòa.

Hai câu thơ tiếp càng khẳng định sự thay đổi của người lính, khi vầng trăng
tri kỷ giờ chỉ như “người dưng”:

“Vầng trăng đi qua ngõ

như người dưng qua đường”


– Cuộc sống tại thành phố hết sức tiện nghi, hiện đại và đầy đủ hoàn toàn
khác với những tháng ngày trong quá khứ làm con người quên đi người bạn
tri kỷ, tri âm luôn đồng hành với mình.

– Sử dụng biện pháp nhân hóa khi miêu tả “Vầng trăng đi qua ngõ” khiến
vầng trăng từ chỗ chan hòa khắp thiên nhiên nay thu hẹp lại chỉ bằng con ngõ
nhỏ tối tăm, mù mịt.

– Con người đã thay đổi tình cảm đối với người bạn trong quá khứ. Trăng vẫn
tròn đầy, thủy chung nhưng giờ đây con người lại trở nên thờ ơ, lạnh nhạt
không quan tâm tới. Trăng chỉ còn là dĩ vãng, là quá khứ nhạt nhòa bị bỏ quên
ở một quãng thời gian xa xôi trong tâm trí người lính năm xưa.

Biện pháp so sánh hết sức độc đáo: Từ “Vầng trăng tình nghĩa” thành “Như
người dưng qua đường”. Đây là một hành động bội bạc, quên đi quá khứ
thường xảy ra trong cuộc sống:

– “Người dưng” chỉ những người xa lạ, không quen biết. Điều tổn thương hơn
cả là “tri âm” hóa thành “người dưng”. Vầng trăng trở thành người xa lạ, lạnh
lùng như người dưng qua đường. Điều này càng làm nổi bật sự bạc bẽo, vô
tình của con người trong xã hội hiện đại.

– Quên đi “vầng trăng tri kỷ” cũng có nghĩa người lính đã quên đi quá khứ
gian lao, gian khổ chiến đấu vì độc lập tự do cho Tổ Quốc, quên đi mất mát
hy sinh. Hơn hết, người lính đã quên đi chính bản thân mình cùng những lý
tưởng cao đẹp khi còn trẻ.

=> Khổ thơ đưa tới nhiều suy ngẫm cho người đọc. Ý nghĩa những câu thơ
tựu chung lại là hoàn cảnh sống thay đổi có thể khiến con người quên đi quá
khứ gian khổ, nhọc nhằn mà phản bội lại chính bản thân, thay đổi cả về tình
cảm. Đây là một sự thực đáng buồn trong xã hội thời hiện đại.

* Tình huống gặp lại vầng trăng:

Có lẽ vầng trăng sẽ thực sự đi vào dĩ vãng nếu như không có tình huống mất
điện bất ngờ:

“Thình lình đèn điện tắt

phòng buyn – đinh tối om

vội bật tung cửa sổ

đột ngột vầng trăng tròn”

– Từ láy “thình lình” cùng cách đảo trật tự cú pháp câu vừa làm câu thơ độc
đáo vừa diễn tả sự bất ngờ về một sự việc bất thường, đột ngột xảy ra.

– Căn phòng vốn sáng trưng những đèn điện, cửa gương giờ đây không còn
nguồn sáng. Bốn bề chỉ toàn bóng tối. Lúc này, nhân vật trữ tình trong bài thơ
phải nhanh chóng kiếm tìm nguồn sáng.

– Câu thơ “Vội bật tung cửa sổ” sử dụng tới ba động từ mạnh “vội”, “bật”,
“tung”. Ba động từ nhắc tới trong câu diễn tả sự khó chịu vì thiếu đi nguồn
sáng cùng hành động khẩn trương, vội vã của nhân vật trữ tình.

=> Đặt trong hoàn cảnh quá khứ, những tháng ngày “trải lá làm giường, manh
áo thay chăn”, người lính quen với bóng tối chốn rừng thiêng nước độc không
hẳn sẽ lo lắng khi thiếu đi nguồn sáng. Điều này cũng thể hiện sự thay đổi của
con người khi làm quen với cuộc sống chốn thành phố hiện đại.
Khi “bật tung cửa sổ”, vầng trăng tròn hiện ra “đột ngột” khiến nhân vật
bàng hoàng, xúc động khi bao kỉ niệm nghĩa tình bất chợt ùa về:

– Nhịp thơ vốn đang được đẩy lên cao trào với ba động từ mạnh, giờ đây sững
lại trước ánh trăng

– Sử dụng biện pháp đảo ngữ, đưa từ láy “đột ngột” lên đầu câu, Nguyễn Duy
đã diễn tả chính xác sự ngỡ ngàng của người lính khi đột nhiên gặp lại vầng
trăng tròn trên bầu trời đêm thành phố.

– “Đột ngột” trong câu thơ đâu đến từ vầng trăng, mà đến từ chính tâm trạng
tác giả. Nguyễn Duy đang thảng thốt, ngỡ ngàng trước sự thay đổi của mình.
Vầng trăng vẫn tròn đầy vẹn nguyên, vẫn tỏa ánh sáng dịu huyền ảo, nhưng
lòng người lại đổi thay, không còn như ngày đầu.

– Hình ảnh “vầng trăng tròn” xuất hiện đột ngột, chiếu rọi ánh sáng dịu vào
căn phòng tối om tạo ra sự đối lập giữa ánh sáng cùng bóng tối. Khoảnh khắc
này được ví như một “cánh cửa bản lề”, một bước ngoặt lớn trong mạch cảm
xúc cùng sự “tỉnh ngộ” trong nhận thức của nhân vật trữ tình.

– Ẩn dụ vầng trăng trong đêm tối mất điện như một “cánh cửa bản lề” do
trăng vốn là một sự vật gắn với quá khứ và thực tại của người lính. Phía bên
này là người lính dần trở nên thờ ơ, vô cảm quen với xô bồ bon chen của cuộc
sống, bên kia là những quá khứ, kỉ niệm mà người lính dần quên đi.

=> Khổ thơ mang ý nghĩa bước ngoặt, đóng vai trò như cánh cửa bản lề cho
mạch cảm xúc cũng như sự tỉnh ngộ của nhà thơ. Chỉ với bốn dòng thơ,
Nguyễn Duy cho thấy được ý nghĩa bao trùm của toàn bài: con người vội vã
bận bịu với cuộc sống hiện đại, chỉ khi nhận ra vẻ đẹp của thiên nhiên, cuộc
sống mới bàng hoàng, sững sờ.
c. Tâm tư, tình cảm của nhân vật trữ tình từ hình ảnh ánh trăng ( 2 khổ
cuối)

Trong khi khổ thứ tư đẩy tình huống trong bài thơ lên cao trào, khổ thứ năm
tập trung miêu tả sự xúc động mãnh liệt của Nguyễn Duy khi đối mặt người
bạn cũ:

“Ngửa mặt lên nhìn mặt

có cái gì rưng rưng

như là đồng là bể

như là sông là rừng”

Tình huống gặp trăng đầy bất ngờ đã mở ra những dòng cảm xúc đầy mãnh
liệt của nhân vật trữ tình:

– Khoảnh khắc đèn điện vụt tắt, ánh trăng len lỏi vào căn phòng tối tăm thật
bất ngờ, đột ngột. Cùng với ánh trăng, những kí ức năm xưa hiện lên trong
lòng tác giả. Đó là sông, là bể, là rừng, những năm tháng nghèo đói, thiếu
thốn gian khổ, có buồn có vui.

– Trong giờ phút gặp lại “cố nhân”, người lính có hành động “ngửa mặt lên
nhìn mặt”. Đây là tư thế trực tiếp đối mặt của nhân vật trữ tình với vầng trăng
tròn. Tác giả không viết “ngửa mặt lên nhìn trăng” bởi lẽ ông đã thực sự coi
trăng là một con người, một người bạn cũ lâu ngày không gặp. Trăng không
còn là vật vô tri, là nguồn chiếu sáng đơn thuần.

=> Nguyễn Duy đối mặt với trăng trong sự im lặng có phần thành kính. Chủ
thể trong câu thơ không còn là trăng sáng và nhân vật trữ tình, mà suy rộng ra
còn là quá khứ và hiện tại, thủy chung gắn bó và vô tâm đổi thay đối diện với
nhau.

– Ý thơ gợi mở cho người đọc được Nguyễn Duy khéo léo thể hiện qua cách
dùng từ “mặt” cuối câu thơ. Từ “mặt” đa nghĩa, có thể là trăng, là thiên nhiên,
là quá khứ bị lãng quên hay cũng là bản thân con người cũ của chính nhân vật
trữ tình.

– Giờ phút này, nhân vật trữ tình đang tự đối diện với chính mình, soi lại bản
thân trong thuở đã qua. Nguyễn Duy chợt nhận ra thời gian xoay vần đã che
lấp tất cả: giá trị của quá khứ, sự đổi thay của bản thân và vầng trăng vẹn
nguyên, không mảy may thay đổi.

– Cuộc đối thoại không lời trong khoảnh khắc khiến cho cảm xúc trào dâng.
Cụm từ “rưng rưng” đã diễn tả chính xác nỗi xúc động nghẹn ngào, sự thổn
thức, muốn nói mà chẳng thể cất lời của nhân vật trữ tình.

=> Quá khứ vất vả mà chan hòa tình yêu với trăng tưởng như bị lãng quên
nay ùa về, khiến nhà thơ “rưng rưng” xúc động, tự hổ thẹn, ân hận bởi sự đổi
thay đầy bạc bẽo, vô tình.

Qua đôi mắt rưng rưng và cảm xúc dâng trào, nhà thơ như thấy được những
kỉ niệm đẹp ngày xưa:

“như là đồng là bể

như là sông là rừng”

– Hai câu thơ trên được nhà thơ sử dụng cấu trúc song hành với điệp từ “như
là … là” ở đầu câu cùng biện pháp so sánh và liệt kê sự vật nhằm diễn tả
những kí ức về một thời gắn bó, chan hòa với thiên nhiên đang ùa về trong
tâm trí.

– Điệp từ “như là” cùng các hình ảnh sông, đồng, rừng, bể được liệt kê làm
nhịp thơ trở nên dồn dập, phản ảnh dòng cảm xúc mãnh liệt của tác giả.
Người đọc nhờ vậy cũng như hòa chung dòng cảm xúc với hoàn cảnh trữ tình
trong thơ.

=> Nhà thơ cảm thấy hổ thẹn khi nhận ra sự thay đổi vô tình tới bạc bẽo của
mình trong thời gian qua. Nhưng đan xen vào nỗi hổ thẹn này, cảm xúc nghẹn
ngào vui sướng cũng nhen nhóm trong trái tim khô cằn của nhà thơ, được gặp
lại người bạn cũ tri kỷ – gặp lại trăng.

– Khoảnh khắc đối diện với trăng như ngừng lại, nhường chỗ cho những kí ức
ùa về. Tác giả nhớ lại quãng thời gian đáng nhớ với đồng, với bể, sông và
rừng. Câu thơ trải dài về miền quá khứ và thực tại, bao quát thiên nhiên và
con người, lao động cùng chiến đấu, thủy chung tình nghĩa và bạc bẽo vô
tâm.

– Trăng không còn là nguồn sáng, cũng không còn là bạn tri kỷ của nhân vật
trữ tình, mà là biểu tượng cho vẻ đẹp của tạo hóa, sự vĩnh hằng của thiên
nhiên, đất nước. Trăng đại diện cho quá khứ nghĩa tình, rộng hơn là một thời
xuân xanh cùng bao lý tưởng sống tốt đẹp.

=> Ánh trăng trong khổ thơ này gợi ra hình ảnh của hiện tại, vẻ đẹp thiên
nhiên hùng vĩ và cũng là biểu tượng cho quá khứ nghĩa tình không thể quên
và không được phép quên. Ánh trăng giúp nhà thơ bừng tỉnh, từ đó đưa ra
những suy ngẫm và khát vọng trong tương lai.

Khổ thơ cuối thể hiện những suy ngẫm và triết lý sâu sắc của nhà thơ:
“Trăng cứ tròn vành vạnh

kể chi người vô tình

ánh trăng im phăng phắc

đủ cho ta giật mình”

– Trong cuộc gặp lại này, trăng và người có sự đối lập. Khác với con người
đổi thay, bội bạc vô tình, trăng vẫn vẹn nguyên như kí ức thuở nào. Trăng đã
trở thành biểu tượng của sự vĩnh hằng, bất biến mãi không đổi thay.

Câu thơ “trăng cứ tròn vành vạnh” được diễn tả với hai lớp nghĩa:

– Nghĩa tả thực là thể hiện ánh trăng rằm tròn đầy lung linh, tỏa sáng trong
không gian thiên nhiên bao la bát ngát.

– Nghĩa ẩn dụ là thể hiện cho sự thủy chung, trọn vẹn của thiên nhiên; là quá
khứ nghĩa tình, bao dung, đôn hậu.

– Trăng gợi nhắc về quá khứ tươi đẹp không thể phai mờ. Dù con người thay
đổi, quên đi quá khứ, những ngày tháng gắn liền với thuở nghèo khổ gian nan
xưa vẫn còn đó, không hề mất đi.

– Trăng tròn đại diện cho thiên nhiên vẫn tuân theo quy luật tuần hoàn của tạo
hóa, vẫn chiếu sáng, vẫn “tròn vành vạnh” dầu cho “người vô tình”. Xuyên
suốt bài thơ, Nguyễn Duy luôn gắn trăng với các định ngữ như “tình nghĩa”,
hay “tròn”, lúc này tới khổ cuối, vầng trăng được kết tinh thành hình ảnh
“tròn vành vạnh”, đại diện cho những giá trị tốt đẹp của một thời quá khứ, là
ân nghĩa thủy chung không thể nào phai.
– Khoảnh khắc nhà thơ đối diện với người bạn cũ – ánh trăng, dường như con
người bị lép vế bởi nhận biết được sự vô tâm, bỏ quên những ân tình trong
quá khứ. Con người dễ bị chi phối bởi hoàn cảnh mà chạy theo cuộc sống xô
bồ tấp nập, chạy theo “ánh điện cửa gương”. Từ đó tách biệt với thiên nhiên
và quên đi tri kỷ tưởng như “ngỡ không bao giờ quên”.

– Câu thơ tiếp theo, nhà thơ sử dụng hai tiếng “kể chi” như khẳng định sự bao
dung, nhân hậu của trăng.

Hình ảnh nhân hóa “ánh trăng im phăng phắc” như một lời nhắc nhở nghiêm
khắc, là lời trách móc trong lặng im. Tuy vậy, sự im lặng này cũng mang ý
nghĩa bao dung, thấu hiểu và tha thứ:

– “Ánh trăng im phăng phắc” là nhân chứng nghĩa tình, là người bạn cũ đang
nghiêm khắc nhắc nhở nhà thơ, cũng như mỗi chúng ta rằng con người có thể
lãng quên đi kí ức cũ, nhưng thiên nhiên, nghĩa tình thì luôn tròn đầy, vẹn
nguyên.

– Tình cảm của trăng, tấm lòng của trăng là tình cảm của những người đồng
chí đồng đội, của đồng bào Việt Nam. Trăng không chỉ là bạn tri kỷ của nhân
vật trữ tình mà còn mang ý nghĩa tới cả một thế hệ hào hùng, thêm vào đó,
còn mang ý nghĩa lớn lao với con người trong mọi thời đại.

– Ánh trăng như một tấm gương giúp con người soi qua đó, để nhận ra những
gì đã quên, để thức tỉnh lương tri trong chính bản thân. Nó mang ý nghĩa cảnh
tỉnh, thúc đẩy mọi người sống có ý nghĩa, xứng đáng với những người đã
khuất, xứng đáng với chính bản thân. Phải trân trọng quá khứ để có thể vững
bước đi tới tương lai.
– Trong đêm tối, trăng im lặng không có nghĩa là bất động mà là để cho con
người tự suy nghĩ về mình. Chính cái im phăng phắc của trăng đã làm nhà thơ
“giật mình”, “giật mình” vì bị đánh thức, xáo động những kí ức trong tâm
hồn. Đây là sự bừng tỉnh của nhân cách, sự trở về của lương tâm và nhớ lại
những lý tưởng tốt đẹp. Những ăn năn, hối lỗi và hổ thẹn dồn nén đã kết tinh
lại thành cái lặng im và giật mình thảng thốt này.

– Hình ảnh thơ lúc này mang chiều sâu tư tưởng, khi vầng trăng không chỉ đại
diện cho vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn là hiện thân của quá khứ thủy chung,
tình nghĩa. “Vầng trăng tròn” là quá khứ nghĩa tình, trong sáng vô tư; còn
“ánh trăng” là vầng hào quang của một thời dĩ vãng, là ánh sáng của lương
tâm, là ánh sáng để thức tỉnh, soi sáng những góc khuất trong tâm hồn.

– Phẩm chất bao dung độ lượng, nghĩa tình thủy chung của trăng cũng đại
diện cho phẩm chất cao cả của nhân dân mà Nguyễn Duy đã phát hiện và gửi
gắm một cách sâu sắc vào từng dòng thơ.

=> Dòng thơ cuối dồn nén bao tâm sự, như một lời sám hối ăn năn đầy ám
ảnh, day dứt. Từ đó, nhà thơ muốn gửi lời nhắc nhở về lẽ sống, đạo đức ân
nghĩa thủy chung.

4. Nghệ thuật:

- Nghệ thuật kết cấu kết hợp giữa tự sự và trữ tình, tự sự làm cho trữ tình trở
nên tự nhiên mà cũng rất sâu nặng.
- Sáng tạo nên hình ảnh thơ có nhiều tầng ý nghĩa: Trăng là vẻ đẹp của thiên
nhiên, tự nhiên, là người bạn gắn bó với con người; là biểu tượng cho quá khứ
nghĩa tình, cho vẻ đẹp của đời sống tự nhiên vĩnh hằng.
5. Ý nghĩa văn bản: Ánh trăng khắc hoạ một khía cạnh trong vẻ đẹp của
người lính sâu nặng nghĩa tình, thuỷ chung sau trước.
XII. Làng – Kim Lân
1.Tác giả:
- Kim Lân (1920 - 2007), tên khai sinh là Nguyễn Văn Tài, quê: Từ Sơn - Bắc
Ninh.
- Chuyên viết truyện ngắn, am hiểu sâu sắc cuộc sống nông thôn.
2. Tác phẩm: đăng lần đầu trên báo Văn nghệ năm 1948, thời kì đầu của cuộc
kháng chiến chống Pháp.
- Tình huống truyện: Ông Hai nghe tin làng theo giặc, lập tề (Tạo mâu thuẫn
giằng xé trong tâm trí ông Hai (Nút thắt của câu chuyện .
- Tóm tắt: Ông Hai là một nông dân thật thà, chất phác, quê ở làng Chợ Dầu.
Ông rất yêu làng của mình và có một thói quen “khoe làng”. Ông “khoe” đủ
thứ về làng của ông, từ cái sinh phần viên Tổng Đốc, đến nhà cửa, đường
làng, chòi kháng chiến với hầm hào, ụ chiến đấu… Đi tản cư, nhớ làng, tối
nào ông cũng qua nhà hàng xóm chuyện trở về làng Chợ Dầu của mình cho
đỡ nhớ. Tin làng theo giặc, khiến ông đau đớn, xót xa. Ông xấu hổ, lo lắng đủ
điều. tình cảm của ông bị giằng xé, để rồi ông đi đến quyết định dứt khoát
“Làng theo Tây mất rồi phải thù”. Thế nhưng khi chuyện trò với đứa con, ông
Hai vẫn dạy con về nguồn gốc, quê hương mình là làng Dầu. Khi tin đồn trên
được cải chính, ông vui mừng, sung sướng và lại “khoe” về làng Chợ Dầu của
mình.
3. Nội dung:
- Tâm trạng nhân vật ông Hai khi nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc thực chất
là tâm trạng và suy nghĩ về danh dự, lòng tự trọng của người dân làng Chợ
Dầu , của người dân Việt Nam. Nhà văn đã khắc hoạ hình tượng nhân vật qua
các chi tiết miêu tả:
+ Nỗi đau đớn, bẽ bàng:”cổ họng ông nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân”,
nước mắt ông lão giàn ra”.
+ Dáng vẻ, cử chỉ, điệu bộ (cúi gằm mặt, chột dạ, nơm nớp, trống ngực ông
lão đập thình thịch...)
+ Nỗi băn khoăn khi ông kiểm điểm từng người trụ lại làng, ông trằn trọc
không ngủ được, ông trò chuyện với đứa con út...
- Khi nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc được cải chính, tâm trạng ông Hai khác
hẳn:
+ Ông Hai tươi vui rạng rỡ hẳn lên , chia quà cho các con.
+ Ông Hai đi khoe nhà ông bị giặc đốt cháy.
- Tình yêu làng của ông Hai như vậy đồng thời là biểu hiện của tình yêu đối
với đất nước, với kháng chiến, với cụ Hồ.
4.Nghệ thuật:
- Tạo tình huống truyện gây cấn: tin thất thiệt được chính người đang đi tản
cư từ phía làng Chợ Dầu lên nói ra.
- Miêu tả tâm lí nhân vật chân thật và sinh động qua suy nghĩ, hành động, qua
lời nói (đối thoại và độc thoại)
5. Ý nghĩa văn bản: Đoạn trích thể hiện tình cảm yêu làng, tinh thần yêu
nước của người nông dân trong thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp .
XIII. Lặng lẽ Sa Pa
1. Tác giả:
- Nguyễn Thành Long (1925 - 1991), quê: Duy Xuyên - Quảng Nam.
- Chuyên viết truyện ngắn và bút kí.
- Phong cách văn xuôi nhẹ nhàng, tình cảm, giàu chất thơ.
2. Tác phẩm: kết quả của chuyến đi thực tế lên Lào Cai mùa hè năm 1970, in
trong tập "Giữa trong xanh" (1972).
- Cốt truyện & nhân vật:
- Cốt truyện đơn giản, tạo tình huống tự nhiên (kể về cuộc gặp gỡ giữa 3 nhân
vật: người thanh niên, ông hoạ sĩ già và cô kỹ sư trẻ).
- Nhân vật:
+ Anh thanh niên nhân vật chính.
+ Ông hoạ sĩ, cô kỹ sư, bác lái xe và 1 số nhân vật khác nhân vật phụ.
3. Tóm tắt truyện:
Rời cây cầu số 4, chiếc xe chở hành khách lên Lai Châu dừng lại nghỉ
để lấy nước và cho hành khách nghỉ ngơi, bác lái xe giới thiệu với ông họa sĩ
và cô gái về một người “cô độc nhất thế gian” đó là anh thanh niên 27 tuổi
làm công tác khí tượng thủy văn kiêm vật lý địa cầu trên đỉnh Yên Sơn cao
2600 mét. Anh mời mọi người lên nhà chơi, anh chạy lên trước hái hoa tặng
cô gái, họ chuyện trò khoảng 30 phút; anh kể chuyện mình sống và làm việc ở
đây, anh rất yêu và gắn bó với công việc, anh thích đọc sách, trồng hoa, trồng
rau, nuôi gà, anh ăn ở gọn gàng, ngăn nắp. Biết ông họa sĩ vẽ mình, anh giới
thiệu cho ông anh thanh niên trên đỉnh Phan-xi-păng, ông kỹ sư vườn rau Sa
Pa, người cán bộ nghiên cứu bản đồ sét. Cô kỹ sư nghe anh nói chuyện đã
nhận thấy mối tình đầu nhạt nhẽo mà mình từ bỏ là đúng và yên tâm công tác
ở miền núi. Cô muốn để lại chiếc khăn làm kỉ niệm của cuộc gặp gỡ nhưng
anh không hiểu nên đã trả lại cho cô. Hết 30 phút, anh chia tay mọi người và
tặng họ trứng và hoa, không tiễn họ xuống đến tận xe.
4. Nội dung:
- Bức tranh nên thơ về cảnh đẹp Sa Pa.
- Chân dung người lao động bình thường nhưng phẩm chất rất cao đẹp.
- Lòng yêu mến, cảm phục với những người đang cống hiến quên mình cho
nhân dân, cho Tổ
quốc.
5. Nghệ thuật:
- Tạo tình huống truyện tự nhiên, tình cờ, hấp dẫn.
- Xây dựng đối thoại, độc thoại và độc thoại nội tâm.
- Nghệ thuật tả cảnh thiên nhiên đặc sắc; miêu tả nhân vật với nhiều điểm
nhìn.
- Kết hợp giữa kể với tả và nghị luận.
- Tạo tính chất trữ tình trong tác phẩm truyện.
6. Ý nghĩa văn bản: “Lặng lẽ Sa Pa” là câu chuyện về cuộc gặp gỡ với những
con người trong một chuyến đi thực tế của nhân vật ông hoạ sĩ, qua đó tác giả
thể hiện niềm yêu mến đối với những con người có lẽ sống cao đẹp đang lặng
lẽ quên mình cống hiến cho Tổ quốc.
XIV. Chiếc lược ngà – Nguyễn Quang Sáng
1. Tác giả:
- Nguyễn Quang Sáng sinh năm 1932, quê: huyện Chợ Mới - tỉnh An Giang.
- Trong kháng chiến chống Pháp, ông hoạt động ở chiến trường Nam Bộ, sau
1954 tập kết ra Bắc và bắt đầu viết văn.
- Ông trở về Nam Bộ tham gia kháng chiến chống Mĩ vừa sáng tác văn học.
- Ông hầu như chỉ viết về cuộc sống và con người ở vùng đất Nam Bộ.
- Tác phẩm chính: Đất lửa, Cánh đồng hoang, Mùa gió chướng,... (các tiểu
thuyết đã dựng thành phim), Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng.
2.Tác phẩm:: Truyện ngắn "Chiếc lược ngà" được viết năm 1966, nằm trong
tuyển tập 25 truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng.
Vị trí đoạn trích: nằm ở phần giữa truyện.
Tình huống truyện:
- Hai cha con ông Sáu gặp nhau sau 8 năm xa cách, bé Thu không nhận cha,
đến lúc em nhận ra thì ông Sáu phải ra đi.
- Ở khu căn cứ, ông Sáu dồn tất cả tình yêu thương con vào việc làm cây lược
ngà để tặng con, nhưng ông đã hy sinh khi chưa kịp trao món quà cho con gái.
-> Bộc lộ sâu sắc tình cảm của cha con ông Sáu.
3.Tóm tắt truyện:
Ông Sáu xa nhà đi kháng chiến. Mãi đến khi con gái lên 8 tuổi ông mới có dịp
về thăm nhà, thăm con. Nhưng bé Thu - con ông, không nhận ra cha vì vết
thẹo trên mặt làm ông khác so với người cha trong ảnh. Em đối xử với ba như
người xa lạ. Đến khi nhận ra thì cũng là lúc ông Sáu phải ra đi. Ở khu căn cứ,
ông Sáu dồn hết tình cảm nhớ thương con vào việc làm một chiếc lược bằng
ngà voi. Chiếc lược hoàn thành nhưng ông Sáu đã hy sinh trong một trận càn
của giặc.Trước lúc nhắm mắt, ông còn kịp trao lại cây lược cho người bạn
thân. Người bạn ấy trong một lần đi công tác, dừng lại ở trạm giao liên - nơi
có một cô giao liên dũng cảm và thông minh, Bác Ba - bạn anh Sáu - hỏi
chuyện và nhận ra cô giao liên ấy chính là Thu. Bác chuyển cho Thu chiếc
lược ngà, kỉ vật thiêng liêng của cha cô. Họ chia tay trong sự lưu luyến và tự
lúc nào, trong lòng Bác Ba đã nảy nở một tình cảm mới lạ, đó là tình cha con
quyến luyến với cô giao liên.
4 Nội dung:
- Nỗi niềm của người cha:
- Lần đầu tiên gặp con: Thuyền còn chưa cập bến, ông Sáu đã nhảy thót lên
bờ, vừa gọi vừa chìa tay đón con.
- Những ngày đoàn tụ: Ông Sáu quan tâm, chờ đợi con gái gọi mình là cha.
- Những ngày xa con: Ông Sáu thực hiện lời hứa với con, làm cây lược ngà.
Giờ phút cuối cùng trước lúc hy sinh, người chiến sĩ ấy chỉ yên lòng khi biết
cây lược sẽ được chuyển đến - tận tay con gái.
- Niềm khát khao tình cha của người con:
- Từ chối sự quan tâm, chăm sóc của ông Sáu vì nghĩ rằng ông không phải là
cha mình.
- Khi hiểu ra, tình cảm tự nhiên của bé Thu được thể hiện qua tiếng gọi cha
đầu tiên và qua hành động.
5 Nghệ thuật:
- Tạo tình huống truyện éo le.
- Có cốt truyện mang yếu tố bất ngờ.
- Lựa chọn người kể chuyện là bạn của ông Sáu, chứng kiến toàn bộ câu
chuyện, thấu hiểu cảnh ngộ và tâm trạng của nhân vật trong truyện.
6. Ý nghĩa văn bản: Là câu chuyện cảm động về tình cha con sâu nặng, Chiếc
lược ngà cho ta hiểu thêm về những mất mát to lớn của chiến tranh mà nhân
dân ta đã trải qua trong hai cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

You might also like