Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 14

`

TỔNG LIÊN ĐOÀN LAO ĐỘNG VIỆT NAM


TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÔN ĐỨC THẮNG
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN







BÁO CÁO CUỐI KỲ
MÔN HỌC: CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM

GVHD: ThS. NGUYỄN HIẾU TÍN


SVTH: PHẠM THỊ HỒNG PHƯƠNG
MSSV: 32300079
LỚP: 23030202

TP. HỒ CHÍ MINH, THÁNG 1 NĂM 2024

1
MỤC LỤC

1. MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 5

2. THÂN BÀI ...................................................................................................... 5

2.1. Khái niệm .................................................................................................. 5

2.2. “Sự tích trầu cau” và ý nghĩa của câu chuyện ............................................. 5

2.3. Truyền thống ăn trầu bắt đầu từ thời xa xưa ............................................... 7

2.4. Đặc biệt, miếng trầu chính là một vật thể hiện tình yêu sâu sắc của vợ
chồng qua các câu ca dao, tục ngữ dân gian ........................................................ 8

2.5. Nghệ thuật têm trầu: ................................................................................... 8

2.6. Nghệ thuật ăn trầu: ....................................................................................10

2.7. Tục ăn trầu thời xưa ..................................................................................11

2.8. Giá trị văn hóa: .........................................................................................12

2.9. Phong tục trầu cau hiện nay ......................................................................12

3. KẾT LUẬN ....................................................................................................13

4. TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................................13

2
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, em muốn gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Khoa Khoa học xã hội và
Nhân văn trường Đại học Tôn Đức Thắng đã cho em cơ hội được học và trải nghiệm
môn học Cơ sở văn hóa Việt Nam.
Đặc biệt, em xin bày tỏ lòng biết ơn đối với ThS. Nguyễn Hiếu Tín, nhờ thầy
trong thời gian qua đã đồng hành và hỗ trợ mà chúng em đã học hỏi được rất nhiều
không chỉ về kiến thức về văn hóa Việt Nam qua các bài giảng mà còn truyền nguồn
cảm hứng cũng như niềm yêu mến của em đối với môn học này. Trong thời gian qua,
thầy không chỉ là người lái đò mà còn là người đồng hành thực sự. Và giờ đây, Báo
cáo cuối kỳ là minh chứng em đã gần đi hết chặng đường này và không thể thiếu
công ơn của thầy.
Cuối cùng, em xin chân thành cảm ơn các tác giả, nhóm tác giả của các tài liệu
em tham khảo là những người không thể thiếu trong việc đã tạo điều kiện, góp phần
xây dựng bài báo cáo này. Vì vẫn còn nhiều hạn chế, trong quá trình nghiên cứu và
hoàn thiện bài báo cáo, em không thể tránh khỏi những sai sót, kính mong thầy sẽ
thông cảm và góp ý cho em.
Em xin chân thành cảm ơn,
Trân trọng.

3
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN
................................................................................................................................................
................................................................................................................................................
................................................................................................................................................
................................................................................................................................................
................................................................................................................................................
................................................................................................................................................
................................................................................................................................................
................................................................................................................................................
................................................................................................................................................
................................................................................................................................................
................................................................................................................................................
................................................................................................................................................
................................................................................................................................................
................................................................................................................................................
................................................................................................................................................
................................................................................................................................................
................................................................................................................................................
................................................................................................................................................
................................................................................................................................................
................................................................................................................................................
................................................................................................................................................
................................................................................................................................................
................................................................................................................................................
................................................................................................................................................
................................................................................................................................................
................................................................................................................................................
................................................................................................................................................

Ngày 12 tháng 01 năm 2024


Giảng viên

ThS. NGUYỄN HIẾU TÍN

4
PHÂN TÍCH PHONG TỤC TRẦU CAU CỦA VIỆT NAM DƯỚI
GÓC NHÌN XÃ HỘI HỌC.

1. MỞ ĐẦU
Người ta thường có câu “Miếng trầu là đầu câu chuyện”. Việc ăn trầu như
một truyền thống tốt đẹp và ý nghĩa đã được đưa vào đời sống văn hóa của
người việt nam từ rất lâu. Nhắc tới miếng trầu cũng như nhắc tới “sự tích Trầu
cau” đã có từ thời Vua Hùng xa xưa để nhắc nhở cho con cháu về sau hiểu biết
thêm về ý nghĩa của tình cảm anh em trong một nhà và tình cảm vợ chồng và
sự thủy chung của họ. Hình ảnh miếng trầu cũng đóng góp rất nhiều ý nghĩa về
nhiều mặt văn hóa khác nhau ở nước ta như lễ cưới , lễ tang hay khi dâng trầu
cau để cúng tổ tiên.

2. THÂN BÀI
2.1. Khái niệm
- Ăn trầu được xem như một tập tục khá phổ biến ở châu Đại Dương và các vùng
nhiệt đới ở Châu Á, khi ăn sẽ dùng lá trầu không và cau.
- Tục ăn trầu có công dụng làm thơm miệng và cũng là nghi thức xã giao cùng
lễ nghi ở Nam Á và Đông Nam Á.
- Đặc biệt ở Việt Nam khi ăn trầu có thể thêm vôi, vỏ chay, vỏ quạch, vỏ quế
và thuốc lào. Hoặc ăn kèm các loại thực vật khác như vỏ trầm, rễ sen, vỏ khoai,
vỏ đỏ.
2.2. “Sự tích trầu cau” và ý nghĩa của câu chuyện
- Tóm tắt:
Chuyện kể về thời xưa có hai anh em tên Tân và Lang. Cả hai đều có gương
mặt và ngoại hình giống nhau như hai giọt nước khiến cho mọi người khó lòng
nhận ra ai mới là Tân ai mới là Lang .

5
Cha của hai anh em Tân Lang là người mạnh khỏe to lớn của làng ,ông từng
được vua Hùng gọi về vùng đất Phong Châu để trọng thưởng và được 1 danh
xưng tên gọi mới là Cao sau này cả gia đình ông cũng lấy họ Cao. Khi lớn lên cả
cha mẹ của 2 người lần lượt qua đời, đó là khoảng thời gian khó khăn nhưng cả
hai vẫn nỗ lực cùng nhau sinh sống . Người cha trước khi qua đời đã mang Tân
gửi cho 1 người đạo sĩ họ Lưu để theo học,Lang vốn không muốn xa cách người
anh của mình nên nuôi trong mình một ý nghĩ sẽ đi theo cùng người anh. Đạo sĩ
cũng có 1 người con gái sắp đến tuổi lấy chồng sau đó khi gặp hai anh em nhà
này cô không biệt được ai là người anh ai, ai là người em nên đã nghĩ ra một kế
là dọn sẵn 1 bát cháo trên bàn chờ đến khi hai anh em ra chờ ăn cô vội nấp đi và
nhìn vào thì thấy cả hai không chịu ăn mà nhường đi nhường lại cho nhau nhưng
khi nhận ra một trong hai có tính cách hài hước tích cực hài hước thì đó chính là
người anh. Sau lần đó cả hai càng có cho nhau các lần gặp và cưới nhau . Tuy
nhiên sau khi Tân và con gái của người đạo sĩ lấy nhau người em lại cảm thấy lạc
lõng mà dần mất đi sự khăng khít gắn bó với người anh nhưng Tân lại không hề
biết đến chuyện đó .

Đến khi một hôm, cả Tân Lang đều lên rẫy nhưng Lang lại về sớm trước
người anh của mình và người vợ đã nhận nhầm chồng . Khi người anh về đến lạ
nảy sinh nghi ngờ rằng người vợ của mình có ý dan díu với Lang . Đến một buổi
chiều , Lang ngồi buồn vì cả anh và chị đều vắng nha nên chàng đã bỏ đi vào một
ngôi rừng âm u đến suối Lang ngồi khóc nức nở. Mãi khi tối khuya do cái lạnh
thấu từ sương Lang đã chết và hóa thành tảng đá. Người anh về nhà không thấy
người em liền tức tốc bỏ nhà đi tìm càng đi sâu vào rừng càng không thấy người
em Tân ngồi khóc cạnh tảng đá do người em hóa thành rồi dần chết đi và hóa
thành một cành cây không cành ngay cạnh tảng đá. Người vợ không biết chồng ở
đâu cũng chạy vào rừng tìm kiếm không thấy chồng nàng ngồi cạnh khúc cây
khóc rồi mất và hóa thành dây leo quấn xung quanh thân cây. Thời gian trôi qua
người ta dần nghe về câu chuyện của cả ba người ai cũng đều thương lấy hoàn

6
cảnh của cả ba. Đến cả vua Hùng cũng nghe được câu chuyện bảo người tới những
quả trên cây đem nghiền với dây leo nghiền lại với nhau sau đó nhai và nhổ ra
tảng đá thì nước bọt lại có màu đỏ từ đó họ gọi đó là trái trầu cau.

- Ý nghĩa câu chuyện:

Khi nhắc đến trầu cau không ai là không nghĩ ngay tới sự tích Trầu cau bởi lẽ
vì tính nhân văn do câu chuyện mang đến. Lá trầu trái cau chính là do vợ chồng
Tân hóa thành và tất cả đều xuất phát từ tình nghĩa vợ chồng cũng như tình anh
em mà cả Tân và Lang dành cho nhau. Trầu Cau ý thể hiện cả ba người đã mất đi
nhưng vẫn luôn ở cạnh nhau sát nhau gắn kết đi kể khi mọi thứ có kết thúc . Từ
đó, câu chuyện thể hiện được ý nghĩa của việc ăn Trầu Cau ở Việt Nam . Khi gặp
nhau người ta sẽ bày lên dĩa trầu ngụ ý “Miếng trầu là đầu câu chuyện “để tạo
nên một khởi đầu tốt đẹp cho cuộc gặp gỡ trò chuyện của hai bên .

2.3. Truyền thống ăn trầu bắt đầu từ thời xa xưa


Qua câu chuyện “sự tích Trầu Cau” ta hiểu được truyền thông ăn trầu đã có
từ rất lâu đời cụ thể là vào thời vua Hùng . Và đặc biệt khi hình ảnh Trầu Cau
luôn xuất hiện trong các dịp lễ cưới ngụ ý thể hiện sự bền chặt gắn kết lâu dài của
đôi lứa. Từ khi thời nông nghiệp lạc hậu vào thời tiết giá rét người ta thường có
xu hướng ăn trầu để làm giúp làm ấm cơ thể khi đi ruộng có thể tạm thời xua bớt
đi cái lạnh . Mỗi khi có khách đến chơi nhà thường sẽ có trầu cau để mời khách
giúp cho miệng thơm môi đỏ răng chắc để gắn bó thêm tình cảm của chủ nhà và
khách mời.
Trong một ngôi mộ vào thời kỳ Đông Sơn khai quật ở núi Nấp, Thanh Hóa,
các nhà khảo cổ đã khảo sát một vài bộ răng có niên đại 1700 đến 3000 năm trước
đây và đã thấy được chứng tích phẩm màu đỏcùng những vết cọ xát qua kính hiển
vi điện tử. Khi được đem phân tích hóa chất thấy tương tự như hóa chất của cau
nên đã phỏng đoán là người cổ đại văn minh Đông Sơn đã có tục nhuộm răng ăn
trầu.

7
2.4. Đặc biệt, miếng trầu chính là một vật thể hiện tình yêu sâu sắc
của vợ chồng qua các câu ca dao, tục ngữ dân gian:
“Trầu vàng nhá lẫn cau xanh,
Duyên em sánh với tình anh tuyệt vời”.
“Nhà em đất tốt trồng cau,
Cho anh trồng ghé bụi trầu gần bên”.
“Ðôi ta sang một con đò,
Nhìn quanh vắng khách trao cho miếng trầu”.
“Túi gấm cho lẫn túi hồng,
Têm trầu cánh kiếm cho chồng đi quân”.
2.5. Nghệ thuật têm trầu:
- Têm trầu cũng được xem như là một nghệ thuật . Người ta có thể têm trầu qua
thành hình thù các bộ phận của các con vật. Ví dụ như cánh phượng, cánh kiến,
mũi mác. Tính cách của mõi người cũng được thể hiện qua cách mà họ têm
trầu. Khi quẹt nhiều vôi và têm một cách không khéo léo ngụ ý chỉ người têm
là người sống rất hoang phí không biết lo xa chỉ nghĩ về chuyện trước mắt.
Nhìn vào lượng vôi cũng có thể biết người đó có cầu kỳ hay giản dị cũng như
là một người sống thú vị hay rất nhạt nhẽo.
- Khi têm trầu, ta sẽ dùng dao sắc để róc vỏ cau nhưng phải luôn đảm bảo độ
khéo léo vì chỉ được cắt đứt chừng 1/3 vỏ phía dưới, và tỉa chũm và tỉa khắc
hoa trên phần vỏ xanh còn lại. Quả cau sẽ được được bổ dọc và chia làm 6
phần đều nhau, khi ăn sẽ tước bỏ vỏ xanh. Khi têm trầu cánh phượng, ta gấp lá
trầu làm hai theo chiều dọc, rồi tiếp đến đưa một nhát dao hơi xéo vào hai bên
phiến lá, khoảng từ giữa lá lên phía cuống nhưng không được để đứt. Phần giữa
lá, ta xén bỏ hai bên mép lại cho thẳng như têm trầu ăn thường ngày, phết một
chút vôi ở giữa rồi cuộn tròn lại,sau đó tiếp tục dùi một lỗ ở ngay giữa để gài
cuống lá vào cho thật chặt. Hai rẻo lá sẽ được cắt gần sát cuống vểnh lên như
hai cánh con chim phượng. Khi têm trầu cánh kiến khác ở chỗ là thay vì rọc
một đường khá rộng (1cm) hai bên phiến lá thì ta rọc làm hai, ba đường hẹp,

8
rẻo lá vểnh ra có nhiều cánh nhỏ trông như những cánh con kiến xòe ra rất độc
đáo.
- Bình vôi khi ta dùng để ăn trầu thường sẽ có dáng tròn vẹt, trổ một lỗ tròn
làm miệng ở vai bình. Cho tới khi bình vôi đã cạn thì tiếp tục đổ thêm vôi đã
tôi vào, dần lâu ngày lớp vôi cũ sẽ bám chặt vào thành bình phía trong và cứng
dần, không thể nạo ra khiến lòng bình khi đó miệng bình hẹp dần không dùng
được nữa. Thay vì vứt bỏ, người ta đem bỏ ở gốc cây cổ thụ trong làng. Vào
ngày lễ cổ truyền người ta thắp hương cúng “Ông bình vôi”. Tục thờ Ông bình
vôi xuất hiện khoảng những năm đầu thế kỷ 20 và chỉ phổ biến ở miền Bắc,
miền Trung nhưng vẫn chưa có sự tích nào rõ ràng giải thích về tục thờ này.
Chiếc bình vôi còn được tôn là Bà Chúa trong nhà, là biểu tượng cho quyền
lực của người phụ nữ trong gia đình.
- Khi nhắc đến bình vôi và ống ngoáy hầu như người ăn trầu nào cũng có nhưng
đặc biệt chỉ có ống nhổ là những người giàu sang mới có. Phàm ăn trầu không
thể nuốt cả nước và cái. Dân đen đi chân đất ở nhà tranh thì ăn trầu xong nhổ
toẹt xuống nền đất là xong, còn đối với những người giàu sang sẽ sắm ống nhổ
để khoe vẻ cao sang của mình. Ống nhổ thường sẽ có thân hình bầu, miệng
ống loe và xòe rộng, có thể làm bằng đồng hoặc gốm. Loại có kích cỡ lớn
thường dùng cho cộng đồng, tiếp khách còn loại nhỏ thì dùng cá nhân.
- Chính vì thế cái nết hay tình cảm của người têm nằm gọn trong miếng trầu.
Trong câu chuyện Tấm Cám khi nhà vua nhìn thấy miếng trầu được têm hình
cánh phượng người đã nhận ra người mình yêu đang trong hàng quáng của
người bán nước. Hình ảnh miếng trầu cũng trở thành các đề tài được các nhạc
sĩ, thi sĩ lấy ý tưởng để tạo nên các tác phẩm nói về tình yêu và nhận được
nhiều sự mến mộ yêu thích.
- Ngày xưa hễ làng nào mà có tổ chức lễ cưới thường sẽ mời các bà lão đến để
têm trầu. Đến khi buổi lễ được diễn ra người ta sẽ bày các dĩa trầu lên bàn để
mời khách các ông bà lão sẽ thưởng thức các dĩa trầu bằng cách nhai chúng

9
còn đối với những người nhỏ tuổi không ăn được thì sẽ lấy một vài miếng
trầu,cau để về biếu tặng cho ông bà như một món quà.
2.6. Nghệ thuật ăn trầu:
- Ta sẽ dùng từ 1 đến 2 lá trầu, sau đó quét một ít vôi (loại vôi nhão, màu hồng
hoặc màu trắng,) vào một quả cau bổ ra làm sáu miếng nhỏ, vào thời điểm cau
hiếm có thể bổ cau làm tám. Cau tươi hoặc cau khô đều đắc dụng. Nếu trường
hợp cau khô thì ta phải ngâm nước trước khi ăn khoảng 20 phút cho mềm. Hỗn
hợp trầu, cau, vôi ta đem cho vào miệng rồi nhai nát. Đối với những người lớn
tuổi, răng yếu thì cho vào ống ngoái tức là ống giã trầu. Dụng cụ này có hình
dáng, kích thước giống như cái chung uống rượu, được làm bằng đồng hoặc
bằng sứ. Sau đó dùng một que có chất liệu từ kim loại được gọi là cây ngoái trầu
để nghiền nhỏ trầu cau ra rồi cho chúng vào miệng để nhai.
- Khi nhai như thế hương vị của trầu-cau-vôi sẽ làm cho người nhai trầu có cảm
giác cay cay, hơi say. Khi nhai, nước bọt sẽ được tiết ra và hòa vào hỗn hợp
trầu-cau-vôi, người nhai thường nhổ ra. Dung dịch này có màu hồng, được gọi
là cổ trầu. Khi ta nhai khoảng 30-60 phút hoặc lâu hơn,người ta sẽ nhả bỏ ra
khỏi miệng những gì còn sót lại, đây được gọi là xác trầu hoặc bã trầu. Khi
nhai, để loại cổ trầu và xác trầu dính,bám vào răng, ta còn có thể dùng một ít
nhúm nhỏ thuốc lào hoặc thuốc lá loại thường để chà răng. Động tác này gọi là
xỉa thuốc. Nhúm thuốc xỉa này sẽ được ngậm bằng môi trên ở một phía của
miệng để xỉa thường xuyên trong lúc nhai trầu, đến khi nào nhả bỏ bã trầu thì
bỏ luôn nhúm thuốc xỉa này. Tiếp tục ta súc miệng bằng nước lã, đó chính là
lý do những khi giỗ kỵ, ta thường thấy trên bàn cúng thường có thêm ly nước
lã, gọi là "nước súc miệng", ngụ ý dành cho hương hồn của những quý bà ăn
trầu.

10
- Nhai trầu là một thói quen của một số phụ nữ Việt Nam, thường thấy ở độ tuổi
trung niên trở lên. Nó như thói quen hút thuốc ở nam giới. Việc ăn trầu còn là
một nét văn hóa khi trò chuyện,giao tiếp ở các vùng nông thôn. Khi các bà gặp
nhau thì việc đầu tiên họ làm là mời nhau miếng trầu, sau đó mới hàn huyên,
đàm đạo.
2.7. Tục ăn trầu thời xưa:
- Đầu thế kỉ 20, việc ăn trầu đều phổ biến ở cả 2 giới tính nam và nữ. Khi nam
giới ăn trầu sẽ kèm theo hút thuốc rê, kể cả khi làm việc hoặc lao động họ cũng
mang theo cho mình một cái túi như cái bóp được gọi là Hổ phệ để đựng trầu.
Còn đối với nữ giới khi ăn người ta thường kèm theo các loại thuốc xỉa hoặc
các loại chất độn như vỏ cau khô, vỏ của cây giấy, đậu phộng. Họ thường mang
theo một ruột tượng để đựng trầu cau khi làm việc.
- Đối với các gia đình giàu có, thường thường các bà sẽ mang theo cho mình một
chiếc túi đan bằng tre hoặc mây bên trong túi sẽ có ốp trầu, các trái cau tươi ,
một hủ vôi, một hộp thuốc xỉa, một con dao nhỏ và một cái ống nhổ. Khi khách
có khách đến thì trước hết ngươi chủ nhà phải bưng một tô nước kèm theo một
cái muỗng (đặt trên một cái đài) để cho khách súc miệng. Tiếp tục , chủ nhà sẽ
mang khay trầu ra tiếp khách. Trên khay có cái dĩa đựng trầu, dĩa đựng cau, hũ
vôi, hộp thuốc xỉa, dao, dĩa đựng vỏ giấy, vỏ cau, dưới chân lúc nào cũng có
một ống nhổ lớn. Một miếng trầu bao gồm: cau, lá trầu không, thuốc xỉa, vôi.
Khi ăn, cau được nhai dập mới cho trầu vào, sau cùng là lấy thuốc xỉa quệt thêm
ít vôi sẽ khiến cho vị cay, thơm, giúp chắc răng, sạch miệng. Người ăn trầu
thường sẽ lấy tay quệt ngang miệng khi ăn, dần tạo thành nét môi cắn chỉ mà ta
vẫn thường nghe nhắc đến.
- Tục ăn trầu và tục nhuộm răng đen đều có mối liên hệ với nhau nhưng lại là
hai khía cạnh khác nhau. Một bên mang hình thức xã giao và lễ nghi, một bên
lại là trang sức nhưng đặc biệt ở chỗ cả hai lại bổ sung cho nhau.

11
2.8. Giá trị văn hóa:
- Đối với người Việt Nam, khi nhắc đến trầu cau không chỉ dừng lại ở một phong
tục lâu đời mà còn ẩn chứa rất nhiều ý nghĩa ví dụ như một câu chuyện về triết
lý nhân sinh, văn hóa giao tiếp, ứng xử trong cộng đồng, là ngôn ngữ thể hiện
tình cảm giữa con người với nhau, thông qua hình ảnh miếng trầu là ý nghĩa
của việc gắn kết tình thân, tình cảm gia đình, bạn bè, làng xóm.
- Về triết lý nhân sinh, tục ăn trầu chính là sự tổng hợp biện chứng hài hòa của
nhiều chất khác nhau, đặc biệt biểu trưng cho âm dương, tam tài. Khi nói đến
cây cau chúng được hiểu là biểu tượng của dương khí luôn vươn lên cao, hướng
lên trời; vôi là biểu tượng cho âm khi là một tảng đá, đất; còn dây trầu là biểu
tượng của sự trung gian giữa âm - dương, kết hợp từ khi mọc lên từ đất vàquấn
quýt lấy thân cây cau, hướng lên trời.
2.9. Phong tục trầu cau hiện nay:
- Trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày, tục ăn trầu vẫn được duy trì ở nhiều
vùng quê, như một việc để nhắc nhớ, giáo dục truyền thống văn hóa tốt đẹp
của cha ông ta từ xưa để lại cho thế hệ trẻ ngày hôm nay.
- Cụ Lê Thị Yêu sống ở thôn Cẩm Đội, xã Thụy Vân (TP. Việt Trì) năm nay đã
95 tuổi nhưng vẫn nhai được trầu do hàm răng của bà đã được nhuộm từ thời
trung tuổi nên vẫn chắc đều, đen bóng. Khi vừa nhai trầu cụ vừa kể: “Miếng
trầu đã gắn bó với bà đến nay đã hơn nửa thế kỷ, bắt đầu từ những ngàytháng
đi cầy cấy, làm đồng cùng các mẹ, các chị. Lúc đó, ăn trầu là thói quen và là
“thức ăn” không thể thiếu với bà. Giờ tuổi đã cao, khi thèm ăn trầu là lại bảo
con cháu ra chợ quê mua trầu, cau, rễ (cây chay), vôi đã tôi… để làm nên hương
vị không thể thiếu trong mỗi miếng trầu. Vị ngọt đến từ quả cau, vị cay từ lá
trầu, vị đắng chát từ rễ cây và vị nóng từ vôi làm cho thơm miệng, đỏ môi, say
lòng người”.
- Ông Đặng Đình Thuận - Phó Chủ tịch Hội văn nghệ dân gian tỉnh cho biết:
Miếng trầu cau tuy nhìn đơn sơ, mộc mạc nhưng lại chứa đựng rất nhiều ý

12
nghĩa văn hóa giá trị, giúp gắn kết tình thân, “mở đầu câu chuyện” trong văn
hóa giao tiếp, ứng xử.
- Ngày nay, phần lớn chỉ còn những người cao tuổi ở các vùng quê mới ăn trầu,
nhưng tục ăn trầu vẫn còn nguyên giá trị văn hóa như một lời nhắc nhở thế hệ
hôm nay biết đến và gìn giữ truyền thống tốt đẹp của dân tộc, truyền thống đạo
hiếu và ý nghĩa trong việc thực hành tín ngưỡng về văn hóa tâm linh của người
Việt Nam.
- Hiện nay Bảo tàng Phụ nữ Nam Bộ đang lưu giữ bộ sưu tập hiện vật về tục ăn
trầu, đa dạng về chủng loại, kiểu dáng, chất liệu và kích thước.Với mục đích
giới thiệu đến khách tham quan tục ăn trầu thông qua những bộ sưu tập về dụng
cụ ăn trầu, bảo tàng đã thực hiện trưng bày chuyên đề “Tục ăn trầu”. Chuyên
đề thu hút đông đảo người tham quan và đã nhận được nhiều đánh giá tích cực
từ cộng đồng.

3. KẾT LUẬN
Hiện tại, tục ăn trầu tuy không còn phổ biến như ngày xưa nhưng lá trầu vẫn
mang nhiều ý nghĩa có tính ứng dụng, vặn hóa nhất định trong nhiều lĩnh vực như
tâm lý học xã hội, bản sắc truyền thống dân tộc, y học… Trầu cau được xem là
một trong những thức ăn chơi cho khỏi buồn miệng của người Việt, tuy bình dị,
mộc mạt nhưng đã trở thành một phần gần như không thể thiếu trong việc kết
thân, lễ tế, cưới hỏi, cũng chính vì thế miếng trầu mang đậm dấu ấn văn hóa Việt
Nam. Trong văn hóa ăn trầu, các vật dụng được dùng đã trở thành di sản, phong
tục tập quán tốt đẹp được chính mỗi người Việt chúng ta lưu giữ trong lòng.

4. TÀI LIỆU THAM KHẢO


Bình, B. T. (2014, 5 12). Tục ăn trầu xưa và nay. Retrieved from Tục ăn trầu
xưa và nay: https://baothaibinh.com.vn/tin-tuc/20/27465/tuc-an-trau-xua-va-nay
Bộ, B. t. (2023, 8 15). Giới thiệu tục ăn trầu. Retrieved from
https://baotangphunu.com/gii-thiu-tc-n-tru/
Bộ, B. t. (23, 8 15). Tục ăn trầu.

13
Nai, B. Đ. (2022, 9 3). Văn hóa trầu cau trong văn hóa người Việt. Retrieved
from https://baodongnai.com.vn/dong-nai-cuoi-tuan/202209/van-hoa-trau-cau-
trong-doi-song-nguoi-viet-3133131/
Nguyên, P. t. (2013, 12). Ý nghĩa sự tích trầu cau. Retrieved from Ý nghĩa sự
tích trầu cau.
Thơ, B. C. (2022, 1). Tục ăn trầu trong văn hóa người Việt. Retrieved from
https://baocantho.com.vn/tuc-an-trau-trong-van-hoa-truyen-thong-cua-nguoi-
viet-a142309.html
Thọ, B. P. (2022, 3 27). Tục ăn trầu - Nét đjep văn hóa của người Việt.
Retrieved from https://baophutho.vn/van-hoa/tuc-an-trau-net-dep-van-hoa-cua-
nguoi-viet/183389.htm
Wikipedia. (2023, 8 9). Ăn trầu. Retrieved from Ăn trầu:
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%82n_tr%E1%BA%A7u

14

You might also like