Professional Documents
Culture Documents
Macxim Gorky tên thật là Aleksey Maksimovich Peshkov sinh ngày
Macxim Gorky tên thật là Aleksey Maksimovich Peshkov sinh ngày
1
Tuy phải vất vả lam lũ kiếm sống nhưng Gorky rất ham mê đọc sách, không có
tiền mua thì trích bớt tiền kiếm ăn ít ỏi hàng ngày để thuê, nhưng chủ yếu là
mượn sách. Không có thời gian đọc, nên cậu phải tranh thủ, cứ rảnh rỗi là lôi
cuốn sách ra đọc trong ánh sáng nhờ nhờ của gian gác xép áp mái, dưới hầm tàu
hoặc dưới ánh đèn thờ. Khi không có nến thì đánh bóng xoong rồi hứng ánh
trăng hắt ra từ đó mà đọc. Niềm say mê đọc sách đã giúp Gorky bổ sung những
kiến thức mà vì kiếm sống mà cậu không thể tiếp thu trên ghế nhà trường, đã
giúp cậu “rửa sạch tâm hồn”, đem lại niềm vui, niềm tin vào trong cuộc sống.
Những cuốn sách đã mở ra cho cậu một thế giới mới, hướng con đường của cậu
đến với văn chương.
Năm 1884(16 tuổi), Gorky đến Kazan với hy vọng vào trường Đại học Tổng
hợp, nhưng phải từ bỏ ý định này vì vấn đề sinh nhai. Không bó tay, bất lực
trước hoàn cảnh, ông đã thay việc học tập ở trường Đại học Tổng hợp Kazan
bằng trường học “đại học cuộc đời”.
Năm 1884-1898(16-30 tuổi), người thanh niên Gorky đã tiến hành hai cuộc
“hành trình vạn dặm” khắp nước Nga: năm 1884-1890 và năm 1890-1892. Nhờ
đó, Gorky có dịp tiếp xúc với bao thế giới con người: nông dân, thợ thuyền,
sinh viên, trí thức, chủ xưởng và quý tộc, đặc biệt còn có dịp tiếp xúc với các
nhà cách mạng dân túy đến những vùng quê vận động nông dân. Trong Gorky,
ý thức đấu tranh xã hội dần dần trở nên kiên định. Tuy nhiên, đã có lúc ông hoài
nghi, dao động, thậm chí bế tắc đến mức có lần tìm đến cái chết để thoát khỏi
hoàn cảnh sống nặng nề đang vây bủa xung quanh. Sau những hoang mang và
chán nản, ông quyết định kết thúc cuộc đời bằng một phát súng lục vào ngực.
May thay, viên đạn không xuyên qua trái tim người thanh niên 19 tuổi, mà chỉ
làm tổn thương lá phổi trái. Các bác sĩ đã mổ để cứu sống ông. Trong bệnh viện,
ông còn định tự vẫn lần nữa bằng chất clohydric, nhưng người ta cũng phát hiện
ra và kịp thời súc ruột cho ông. Sau này mỗi khi nghĩ lại Gorky đã rất xấu hổ vì
hành động xuẩn ngốc của mình.
Hoạt động văn học của Gorky được bắt đầu bằng truyện ngắn: “Makar Chudra"
đăng trên báo tạp chí địa phương Kavkaz(9/1892), với biệt danh Maxim Gorky,
một cái tên mới mẻ và đầy huyền thoại trong đời sống văn học nước Nga. Trong
tiếng Nga Gorky có nghĩa là “cay đắng”, Gorky là nhà văn trưởng thành từ
“sự cay đắng”, “sự Cay Đắng” của những tầng “lớp người dưới cùng của xã
hội” (Nguyễn Đình Thi).
Thời gian đầu cầm bút, Maxim Gorky đã gặp Anton Chekhov và Lev Tolstoy để
rồi họ trở thành bạn thân. Về sau ông đã viết những hồi ký rất hay và xúc động
2
về hai nhà văn đó. Ngoài văn xuôi, ông sáng tác nhiều tác phẩm kịch, trong đó,
vở kịch “Dưới đáy” đã được ông viết trong thời kỳ cộng tác với Nhà hát nghệ
thuật Moskva và được Chekhov rất khen ngợi. Trong tác phẩm này, Gorky
không chỉ mô tả cuộc đời khốn khổ của bao con người ở “dưới đáy” xã hội
nước Nga thuở ấy mà còn vạch rõ cho người ta thấy được những ảo tưởng vốn
đang vây bọc những người bất hạnh. Gorky được giới phê bình văn học đương
thời mệnh danh là “nhà văn của những người chân đất”.
Gorky tham gia cách mạng rất tích cực. Năm 1901, ông hoạt động ở nhiều tỉnh
nhằm trợ giúp tổ chức gây dựng báo chí bí mật. Đích thân Sa hoàng đã phủ
quyết quyết nghị bầu Gorky vào Viện Hàn lâm khoa học Nga năm 1902. Và
cũng vì những lời kêu gọi lật đổ chính phủ Sa hoàng mà ông lại bị tống ngục
trong thời kỳ Cách mạng Nga 1905.
Từ năm 1905-1917, là một giai đoạn mới trong cuộc đời hoạt động sáng tạo văn
học của Gorky. Trong không khí lịch sử sôi sục của chiến tranh và cách mạng,
Gorky luôn có mặt trong trung tâm của dòng chảy sự kiện. Ông viết truyền đơn
phản đối chính quyền Sa hoàng đàn áp các cuộc biểu tình của nhân dân, quyên
tiền ủng hộ Đảng xuất bản những tờ báo lớn, tham gia khởi nghĩa vũ trang của
công nhân thủ đô. Hè năm 1905, ông gia nhập Đảng Bolshevik. Ông trở thành
nhà hoạt động xã hội Cách mạng xuất sắc. Sáng tác của ông giai đoạn này bộc
lộ sự chín muồi về tài năng cũng như về tư tưởng. Tác phẩm tiêu biểu là: tiểu
thuyết Người mẹ(1906), Bộ ba tự truyện: thời thơ ấu(1912-1913), Kiếm sống
(1914-1915), Những trường đại học của tôi(1922) và truyện ngắn Một con
người ra đời (1912). Cùng với những sáng tác thời kỳ này, Gorky đã trở thành
“người đại diện lớn nhất của nghệ thuật vô sản”.
Từ năm 1917 cho đến năm cuối đời, năm 1936, gắn liền với sự kiện phức tạp
của thời kỳ đầu xây dựng một chế độ xã hội mới là những trăn trở có phần mâu
thuẫn của Gorky. Nhưng nhờ sự giúp đỡ chí tình của Lênin, ông đã vượt qua và
thực sự trở thành “thiên tài vĩ đại mang lại nhiều lợi ích cho phong trào vô sản
quốc tế” (Lênin).
Gorky lâm bệnh lao và mất ngày 18/6/1936, cho đến ngày cuối cùng của cuộc
đời Gorky vẫn không ngừng sáng tạo, ông vẫn miệt mài hối hả viết nốt bộ tiểu
thuyết sử thi 4 tập “Cuộc đời Klim Xamghin”, nhưng rất tiếc là chưa xong.
Lúc sinh thời ông đã được tôn kính và được công chúng say mê đọc, khi mất đi,
ông được tôn vinh là một trong những nhà văn vĩ đại nhất nước Nga thế kỷ XX.
3
Nhiều con phố, bảo tàng, nhà hát, trường đại học, nhà máy, nông trang…mang
tên Gorky.
4
tác đã được ấp ủ chín muồi. Đó là kết quả của một quá trình tích lũy vốn sống
phong phú của nhà văn trong thực tiễn đấu tranh cách mạng. Những sáng tác
của Gorky giai đoạn này không chỉ là tấm gương phản chiếu cách mạng vô sản
Nga mà còn là bộ bách khoa toàn thư về cuộc sống Nga thời kì giữa hai cuộc
cách mạng.
Giai đoạn 1917 -1936: Đây là thời gian sáng tác rất sôi nổi của M.Gorky. Ông
viết rất nhiều và ở nhiều thể loại. Đặc biệt phải kể đến hai tiểu thuyết lớn “Sự
nghiệp gia đình Actamônôp” và “Cuộc đời của Klim Xamghin”. Hai tiểu thuyết
này có giá trị tổng kết mấy chục năm lao động của nhà văn. Trong những năm
tháng lao động cật lực cuối đời, M.Gorky còn chỉ đạo xây dựng một số chân
dung văn học như Lênin, Sekhop, Leptonxtoi, Êxênhin,...chỉ đạo xây dựng bộ
sách “cuộc đời của những danh nhân” và “tủ sách nhà thơ”. Nói về đóng góp
của M.Gorky trong lĩnh vực lý luận và phê bình văn học trước hết phải kể đến
bộ “M.Gorky bàn về văn học” và nhiều bài phê bình nghiên cứu đăng trên các
tạp chí…
Trong giai đoạn 1917-1936, bộ ba tự truyện “Thời thơ ấu” (1912-1913), “Kiếm
sống” (1915, in 1916), “Những trường đại học của tôi” (1923) được hoàn
thành. Bộ ba tự truyện đã dựng lại cuộc đời của Aliôsa trong thời gian từ 1872,
lúc chú bé mới bốn tuổi, đến những năm 89-90, khi Aliôsa đã là người thanh
niên Nga sắp thành nhà văn Macxim Gorky, ngòi bút xung kích của nền nghệ
thuật vô sản.
Trong cuộc đời hoạt động văn học ngót nửa thế kỷ, Macxim Gorky đã để lại
một sự nghiệp chói lọi, một di sản sáng tác khổng lồ. Nó là niềm tự hào của
nhân dân Liên Xô và của cả loài người tiến bộ. Rômanh Rôlăng, nhà văn lớn
của Pháp, đã nói: "Gorky là nhà văn đầu tiên và vĩ đại nhất thế giới đã dọn
đường cho cách mạng vô sản. Không có một nhà văn nào có vai trò cao như
thế”...
5
phối của một cảm hứng mãnh liệt đó là: khát vọng đấu tranh vì tự do của con
người.
Trong những truyện ngắn hiện thực đối tượng mà Gorky tập trung mô tả là
những con người thuộc tầng lớp đáy cùng xã hội: có thể là một tên ăn cắp, một ả
cái điếm, một cô gái làng chơi, một đứa ăn mày, một tên tù tội, đó cũng có thể
là những người nông dân bị nạn mất mùa, đói kém lùa ra khỏi quê hương, lang
thang, phiêu bạt từng đoàn kiếm sống trên các nẻo đường trong nước Nga. Cũng
có thể là những người làm công nhưng số phận của họ chẳng hơn gì những
người thất nghiệp, bị vắt kiệt sức lực vì một thứ lao động khổ sai…Đói rét, tối
tăm đã đẩy họ vào sự khốn cùng, đã biến họ thành những kẻ du thủ du thực.
Nhưng khác với những bậc thầy đi trước, trong khi đi sâu vào đời sống nội tâm,
mở ra những phẩm chất đạo đức tốt đẹp, Gorky đặc biệt phát hiện nhưng những
mầm mống của một ý thức mới đang nảy sinh; sự phản kháng xã hội dù chỉ ở
mức độ tự phát, âm thầm và mơ ước về một cuộc sống tốt đẹp hơn đang âm ỉ
cháy trong lòng họ. Vì thế, các nhân vật du thủ du thực của Gorky hiện ra không
phải như một đám đông quần chúng nhếch nhác, bệ rạc, mê muội mà là những
con người đang trăn trở suy nghĩ về số phận và cuộc đời của mình.
Họ đau xót âm thầm vì cuộc sống “thiếu ánh mặt trời với nỗi buồn của kẻ nô
lệ” (Hai mươi sáu anh chàng và một cô gái). Họ nhận ra: chính “sự chật chội
của cuộc đời” đã làm chết dần chết mòn những con người khỏe mạnh(Vợ chồng
Orlov). Họ phẫn uất trước tình trạng bất công: những người lao động đói rách
“nhắm mắt nhắm mũi đến nộp mạng cho những kẻ bóc lột, để chúng vui lòng
lột da, xéo thịt” với cái giá 60 côpech một ngày(Làm muối). Nổi bật lên ở họ là
niềm khao khát thoát khỏi sự tối tăm để vươn tới ánh sáng, thoát khỏi sự nô lệ
để vươn tới tự do. Qua sự phát hiện của Gorky, hiện tượng của những người du
thử du thực là dấu hiệu của những xung chấn lịch sử, là biểu hiện của sự bất
mãn, không thỏa hiệp với trật tự xã hội hiện hành, là một phản ứng đối với chế
độ hiện tại. Bởi lẽ, với họ “thà đói khổ nhưng tự do còn hơn”. Tuy nhiên,
Gorky không hề lý tưởng hóa loại nhân vật này, trong khi khám phá những
phẩm chất tốt đẹp của người lao động, ông cũng thẳng thắn chỉ ra những hạn
chế của tầng lớp người này. Là những con người: dạn dày, nhưng họ cũng rất
thiếu hiểu biết; rất hào hiệp, trượng nghĩa nhưng cũng rất cục cằn, thô bạo; rất
sợ chúa nhưng lại cũng rất sẵn sàng phạm tội; khao khát tự do thật sự, nhưng lại
rất vô chính phủ trong hoạt động. Không phải ngẫu nhiên người đương thời
mệnh danh Gorky là “nhà văn của những người chân đất”. Qua hình tượng này
ông đã thể hiện một bút pháp hiện thực sâu sắc, một sự am hiểu tường tận, đồng
6
thời là một cái nhìn nhân đạo mới mẻ tràn đầy niềm tin vào khả năng “tái sinh”,
lớn dậy của con người, ngay cả khi họ rơi xuống đáy cùng xã hội.
So với truyện ngắn hiện thực, số lượng những truyện ngắn lãng mạn của ông
không nhiều, nhưng chúng lại đóng một vai trò quan trọng trong sự thể hiện
những quan điểm của ông: về vấn đề về sứ mệnh của văn học nghệ thuật, về sức
mạnh tinh thần của nhân dân, về tự do, về lẽ sống. Các nhân vật lãng mạn của
Gorky có tính cách phi thường, vì tự do họ có thể sẵn sàng hy sinh cả tình yêu,
lẫn cuộc sống của mình. Với những truyện ngắn lãng mạn ông đã bổ sung cho
chủ đề cơ bản được đặt trong những truyện ngắn hiện thực của ông, chủ đề đấu
tranh về tự do.
Chương 2: Quan niệm nghệ thuật về con người trong truyện ngắn “Một
con người ra đời”
2.1. Quan niệm nghệ thuật về con người.
7
mang đặc tính xã hội; có sự thống nhất biện chứng giữa hai phương diện tự
nhiên và xã hội"
Quan niệm nghệ thuật về con người: là “sự lý giải, cắt nghĩa, sự cảm thấy
con người đã được hóa thân thành các nguyên tắc, phương tiện, biện pháp hình
thức thể hiện con người trong văn học, tạo nên giá trị nghệ thuật và thẩm mỹ
cho các hình tượng nhân vật trong đó”
Quan niệm nghệ thuật về con người là khái niệm cơ bản nhằm thể hiện khả
năng khám phá, sáng tạo trong lĩnh vực miêu tả, thể hiện con người của nhà văn.
Có thể nói, nó giống như là một chiếc chìa khóa vàng góp phần gợi mở cho
chúng ta tất cả những gì bí ẩn trong sáng tạo nghệ thuật của mỗi người nghệ sĩ
nói chung và từng thời đại nói riêng. Trên tinh thần đó, quan niệm nghệ thuật
về con người của Gorky chính là sự khám phá, lý giải về con người trong tác
phẩm của ông.
❖ Quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học Nga vào thế kỷ 19
Cuối thế kỉ XIX, nước Nga chứng kiến nhiều biến động: nạn đói, chiến tranh,
nhân dân sống cực khổ dưới ách thống trị của cả Nga hoàng (Aleksandr II,
Aleksandr III, Nikolai II) và giai cấp tư sản. Năm 1895, cuộc vận động đấu
tranh giải phóng của nhân dân Nga từ đầu thế kỉ XIX đến bấy giờ bước vào thời
kỳ mới - thời kỳ do giai cấp vô sản (đứng đầu là V.I.Lenin) lãnh đạo. Các cuộc
cách mạng nổ ra liên tiếp: cách mạng 1905, cách mạng 1907, cách mạng dân
chủ 2/1917 và cuối cùng là cuộc cách mạng tháng Mười vĩ đại đã xây dựng nên
nhà nước Xôviết đầu tiên trên thế giới. Sau cách mạng tháng Mười, nước Nga
lại bước vào cuộc nội chiến đẫm máu giữa Hồng quân và Bạch vệ.
Sống trong không khí sôi động của thời đại, văn nghệ sĩ là những người cảm
nhận rõ ràng nhất và sâu sắc nhất những biến động mạnh mẽ của thời đại ấy, họ
đồng thời cũng là những “người thư kí trung thành” nhất của thời đại mình.
Vì thế con người trong văn học Nga thế kỉ XIX là những con người chứa đựng
tư tưởng tiên tiến của thời đại. Ðó là con người với lòng yêu nước nhiệt thành,
khát vọng tự do, dân chủ, tinh thần nhân đạo cao cả; con người với tư tưởng phê
phán, tố cáo xã hội sâu sắc. Chính những quan niệm nghệ thuật về con người
này đã tạo nên tầm vóc thế giới cho văn học Nga. Trong hoàn cảnh cụ thể của
xã hội Nga cuối thế kỷ XIX; “Khi bình minh của phong trào công nhân ở buổi
8
đang lên”. Theo Gorky, văn học miêu tả con người như nó “hiện có” không
thôi thì chưa đủ, nếu như thế nhà văn mới chỉ “ngang tầm cuộc sống”. Nhà văn
phải vượt lên trước cuộc sống phải mô tả con người như nó “cần phải có”, phải
khích lệ tinh thần dũng cảm, ý chí đấu tranh vì cuộc sống tự do của con người.
Trong truyện ngắn này Gorky không chỉ dừng lại miêu tả những điều kiện
sống khó khăn, cực khổ, sự vất vả của nghề nghiệp mà các nhân vật phải
chịu đựng. Ông đi sâu khám phá những diễn biến tâm lý, những trăn trở
suy nghĩ của họ về số phận, cuộc đời. Họ ý thức được nỗi khổ, vùng vẫy
phản ứng nhưng vẫn bế tắc. Đó không chỉ là tấn bi kịch của riêng vợ
9
chồng Orlov mà còn là cả một tầng lớp người “dưới đáy” nói chung. Tuy
nhiên thông qua bi kịch đó, Gorky phát hiện ra mầm mống của hiện thực
mới đang nảy sinh-đó là sự thức tỉnh của ý thức nhân dân. Đồng thời
chuyện ngắn cũng mở ra một xu thế-những con người lao động muốn giải
phóng đời mình chỉ có một cách là đứng lên tham gia vào cuộc đấu tranh
xã hội.
Bà lão Iderghin(1894), là tác phẩm lãng mạn xuất sắc nhất thời kỳ đầu
của Gorky. Truyện có kết cấu khá độc đáo gồm ba phần lắp ghép lại với
nhau: phần đầu là truyền thuyết về Larra; phần thứ hai là chuyện kể về bà
Iderghin và phần thứ ba là chuyện kể về Danko. Toàn bộ câu chuyện là
do bà lão Iderghin kể lại cho tác giả nghe vào một đêm hè trên bờ biển.
Larra(phần 1)-tên của nhân vật trong những truyền thuyết (có nghĩa là
kẻ bị xua đuổi, bị ruồng bỏ) vốn là con trai của chim đại bàng và một cô
gái bị nó đánh cắp mang đi 20 năm. Sau khi đại bàng chết, cô gái đưa con
trai về nhận lại bộ lạc. Vì kiêu ngạo và ích kỷ Larra đã giết chết một cô
gái khi cô cưỡng lại ý muốn chiếm đoạt của y. Để trừng phạt, bộ lạc đã từ
bỏ, xa lánh Larra. Y sống tự do trong đơn độc nhiều năm đến nỗi chỉ
mong chết để giải thoát sự tự do đơn độc đó, nhưng cái chết vẫn không
đến.
Chuyện đời bà Iderghin(phần 2) kể lại cuộc sống sôi nổi, phóng túng và
tình yêu của bà Iderghin khi còn trẻ. Theo tiếng gọi của trái tim, từ khi 15
tuổi Iderghin đã bỏ nhà ra đi, sống lưu lạc nhiều nơi và gặp gỡ nhiều
người. Bà kể về quá khứ của mình một cách tự hào vì cho rằng mình đã
“biết sống” và phê phán thiên hạ “không sống” mà chỉ đắn đo suy tính
tiêu phí cả đời mình. Bà cho rằng con người phải sống lập nên những
chiến công, những kỳ tích phi thường.
10
Truyền thuyết về Danko(phần 3) là một người sống vì mọi người. Anh
dũng cảm nhận nhiệm vụ dẫn đường đầy khó khăn để cứu sống bộ lạc.
Trong lúc nguy kịch nhất, một số người đã giận dữ, oán trách, đổ lỗi cho
anh. Danko rất phẫn nộ, nhưng rồi tình thương yêu của con người đã
chiến thắng. Chàng đã xé toang lồng ngực, rút ra trái tim và giơ cao. Trái
tim cháy rực như bó đuốc lớn, soi đường cho cả đoàn người bộ lạc thoát
chết. Còn Danko “sung sướng nhìn khoảng đất tự do, cất tiếng cười tự
hào rồi gục xuống”.
Trong Bà lão Iderghin, Gorky đã đặt ra chủ đề tự do: con người phải
vươn tới cuộc sống tự do, sống tự do là sống như thế nào? Ba phần của
truyện đưa ra ba lối sống: của Larra, của Iderghin thời trẻ và của Danko.
Thông qua đó, Gorky thể hiện quan niệm tự do của ông: sống tự do
không phải là chỉ sống để sống cho riêng mình(như Larra); cũng không
hẳn như Iderghin, sôi nổi, mãnh liệt nhưng lại tiêu phí cả đời mình trong
những cuộc phiêu lưu tình cảm. Theo Gorky, Danko mới chính là hiện
thân của lối sống tự do chân chính, với tình thương yêu con người cao cả,
Danko đã vượt lên hoàn cảnh, vượt lên bản thân, lập chiến công phi
thường cứu cả bộ lạc.
11
Còn Tachiana và Piotr thì luôn miệng nói về những điều cao siêu, tân tiến
để đối lập với tư tưởng thiển cận của bố. Xung đột cha con càng phát
triển lại càng làm rõ bản chất đích thực con người Tachiana và Piotr. Sự
tân tiến của các nhân vật thực ra chỉ là hình thức phù phiếm nhằm che
đậy bản chất “cá nhân chủ nghĩa” trong con người họ, thực chất họ cũng
chẳng đi xa hơn cái đầu óc từ hữu, trưởng giả của ông bố Bessemenov.
Khác với họ anh thợ máy Nil-là con nuôi của gia đình Bessemenov là
“một con người bình tĩnh, tin vào sức mạnh của mình và quyền được cải
tổ lại cuộc sống và tất cả những trật tự của nó theo quan điểm của anh
ta”. Nil xuất hiện không nhiều, nói cũng không nhiều, nhưng anh chính là
trung tâm của tư tưởng, đồng thời là kết cấu toàn bộ vở kịch. Quan điểm
của Nil tiêu biểu cho quan niệm tiến bộ của thời đại, đối lập hoàn toàn
với quan điểm của những người trong nhà Bessemenov. Xung đột cơ bản
của vở kịch chỉ bật mở khi xuất hiện của Nil, như vậy xung đột cha con
nhà Bessemenov chỉ là xung đột giả hỗ trợ cho việc khám phá xung đột
chân thật của Gorky.
Qua vở kịch lần đầu tiên trong văn học Nga đã xuất hiện một kiểu nhân
vật mới. Đó là anh thợ máy Nil-đại diện cho một thế hệ những con người
mới: trung thực, dũng cảm, có tư tưởng, tình cảm cao đẹp. Đặc biệt ở họ
người sáng lên một tư tưởng đấu tranh cách mạng, niềm tin ở sức mạnh
và sứ mệnh lịch sử cải tạo xã hội của giai cấp mình. Anh thợ máy Nil
từng nói: “Tôi biết rằng tôi không phải là một tráng sĩ mà chỉ là một
người trung thực, khỏe mạnh. Nhưng không sao, chúng tôi sẽ thắng! Và
với tất cả tâm hồn mình, tôi sẽ nỗ lực thỏa mãn khát vọng nhập sâu vào
cuộc sống… nhào nặn nó lại, ngăn cản kẻ này, giúp đỡ kẻ khác… Và đó
chính là niềm vui trong cuộc sống!” Gorky đã thể hiện tài nắm bắt những
chớp lửa khát vọng vươn lên cuộc sống mới.
12
niềm nhớ thương, hồi tưởng về quê hương “Và họ hồi tưởng cánh đồng cỏ
Ngựa cái, bãi chăn Cạn, dải đất Ướt-những nơi thân thuộc mà mỗi nắm đất đều
là một nắm tro của hài cốt ông cha họ và mọi vật đều quen thuộc, thân yêu, đầy
kỉ niệm, nơi mà mỗi tấc đất đều thấm sâu mồ hôi của họ.”
Trên đường đi, người sản phụ chuyển dạ, cơn đau sinh nở khiến miệng chị “bè
ra”, “méo xệch”, “ đôi môi tím bầm”, đôi mắt khi “trợn ngược lên như người
điên”, khi lại “lồi lên như muốn nổ tung”, khi “dại khờ chạy đầy những tia
máu”. Miệng chị “gầm gừ”, “để lộ hàm nanh vàng như răng chó sói”, “rống
lên”, “quằn quại”. Trước sự đau đớn vật vã của người sản phụ cùng lòng nhân
ái, nhân vật “tôi” đã trở thành người đỡ đẻ bất đắc dĩ :“Tôi thấy thương chị quá
trừng và tôi có cảm giác như nước mắt chị đã bắn lên ướt cả mắt tôi, lòng tôi
đau thất lại”. Họ cùng nhau vượt qua những khốn khó, thiếu thốn cả vật chất
lẫn tinh thần để chào đón một “cư dân mới của đất Nga”. Và rồi đứa trẻ cũng
đã ra đời, nó như một sức mạnh kì diệu khơi dậy niềm tin trong họ, người mẹ vô
cùng sung sướng, đôi mắt chị “Xanh biếc, đôi mắt ấy nhìn lên bầu trời xanh
biếc, trong đôi mắt bừng lên và hòa tan một nụ cười hoan hỉ biết ơn; nhấc cánh
tay nặng trĩu, người mẹ chậm rãi làm dấu thánh cho mình và cho con…”. Câu
chuyện kết thúc trong khung cảnh hân hoan “Biển vỗ ì ầm và cuộn sóng lao
xao, phủ toàn những lớp đăngten vỏ bào trắng muốt ; bị cây thì thầm, mặt trời
gần đứng bóng rọi nắng chói lọi.”, họ kề vai nhau đi tới chân trời tương lai.
Hết
13