Download as doc, pdf, or txt
Download as doc, pdf, or txt
You are on page 1of 49

SỞ GIAO THÔNG VẬN TẢI TỈNH NAM ĐỊNH

TRƯỜNG TRUNG CẤP GTVT


---------------------------------

MÔN HỌC: LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ

NGHỀ: KẾ TOÁN DOANH NGHIỆP


TRÌNH ĐỘ: TRUNG CẤP

(Lưu hành nội bộ)

Ban hành kèm theo Quyết định số: /QĐ-TTCGTVT ngày tháng năm 2022
của Hiệu trưởng Trường Trung cấp GTVT Nam Định

1
Nam Định - 20232022
TUYÊN BỐ BẢN QUYỀN
Tài liệu này thuộc loại sách giáo trình nên các nguồn thông tin có thể được phép dùng
nguyên bản hoặc trích dung cho các mục đích về đào tạo và tham khảo.
Mọi mục đích khác mang tính lệch lạc hoặc sử dụng với mục đích kinh doanh thiếu
lành mạnh sẽ bị nghiêm cấm.

2
LỜI GIỚI THIỆU
Lý thuyết tài chính tiền tệ là môn học cơ sở, cung cấp các kiến thức nền tảng về
tiền tệ, tài chính, tín dụng, ngân hàng; được giảng dạy cho trình độ Trung cấp Kế toán
doanh nghiệp trong Trường Trung cấp GTVT Nam Định. Để góp phần nâng cao chất
lượng đào tạo của Nhà trường, đáp ứng yêu cầu về giáo trình giảng dạy cho giáo viên,
tài liệu học tập cho học sinh, nhóm tác giả đã biên soạn giáo trình môn học “Lý thuyết
tài chính tiền tệ” với những nội dung sau:
Chương 1: Bản chất chức năng của tiền tệ
Chương 2: Tổng quan hệ thống tài chính
Chương 3: Tổng quan về thị trường tài chính
Chương 4: Những vấn đề cơ bản về lý thuyết tiền tệ
Trong quá trình biên soạn giáo trình môn học do điều kiện về thời gian và yêu cầu
hoàn thiện môn học ngày càng cao, do vậy nội dung của giáo trình không tránh khỏi
những khiếm khuyết nhất định. Tập thể tác giả rất mong nhận được ý kiến đóng góp và
xây dựng của bạn đọc để giáo trình được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Nam Định, tháng năm 2023
Tham gia biên soạn:
1. Chủ biên: Phạm Trọng Chung
2. Thành viên tham gia: Đỗ Thị Minh Hằng

3
MỤC LỤC
LỜI GIỚI THIỆU ……………………………………………………………..………..…2
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT.....................................................................................6
GIÁO TRÌNH MÔN HỌC………………………………………………………………..7
CHƯƠNG 1: BẢN CHẤT CHỨC NĂNG CỦA TIỀN TỆ..............................................9
1. Bản chất của tiền tệ........................................................................................................9
1.1. Sự ra đời của tiền tệ.................................................................................................9
1.2. Bản chất của tiền tệ................................................................................................10
1.3. Sự phát triển của hình thái tiền tệ..........................................................................11
2. Chức năng của tiền tệ...................................................................................................13
2.1. Chức năng phương tiện trao đổi............................................................................13
2.2. Chức năng đo lường giá trị....................................................................................14
2.3. Chức năng dự trữ giá trị.........................................................................................14
3. Vai trò của tiền tệ.........................................................................................................14
3.1. Tiền tệ là công cụ thực hiện yêu cầu hạch toán kinh tế.........................................14
3.2. Tiền tệ là công cụ quản lý vĩ mô...........................................................................15
4. Các chế độ tiền tệ.........................................................................................................16
4.1. Chế độ song bản vị................................................................................................16
4.2. Chế độ bản vị vàng................................................................................................16
4.3. Chế độ tiền giấy.....................................................................................................17
Câu hỏi ôn tập chương 1....................................................................................................17
CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN HỆ THỐNG TÀI CHÍNH................................................18
1. Bản chất, chức năng của tài chính................................................................................18
1.1. Bản chất của tài chính............................................................................................18
1.2. Chức năng của tài chính........................................................................................19
2. Bản chất và cấu trúc của hệ thống tài chính.................................................................21
2.1. Bản chất của hệ thống tài chính.............................................................................21
2.2. Cấu trúc của hệ thống tài chính.............................................................................21
3. Các khâu của hệ thống tài chính...................................................................................23
3.1. Ngân sách nhà nước (NSNN)................................................................................23
3.2. Tài chính doanh nghiệp.........................................................................................24
3.3. Các trung gian tài chính (Các định chế tài chính trung gian)................................26
3.4. Tài chính hộ gia đình và các tổ chức xã hội..........................................................26
Câu hỏi ôn tập chương 2....................................................................................................27
CHƯƠNG 3: TỔNG QUAN THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH............................................28
1. Bản chất, chức năng và vai trò của thị trường tài chính...............................................28
1.1. Bản chất của thị trường tài chính...........................................................................28
1.2. Chức năng và vai trò của thị trường tài chính.......................................................29
2. Kết cấu thị trường tài chính..........................................................................................29
2.1. Theo tiêu thức thời hạn công cụ thị trường tài chính............................................29
2.2. Theo tiêu thức luân chuyển vốn............................................................................30
2.3. Theo tiêu thức tổ chức thị trường..........................................................................30
3. Thị trường tiền tệ và thị trường vốn.............................................................................31
3.1. Thị trường tiền tệ...................................................................................................31
3.2. Thị trường vốn.......................................................................................................32
4. Quá trình phát triển của thị trường tài chính Việt Nam...............................................34
4.1. Quá trình phát triển của thị trường tài chính ở Việt Nam......................................34
4.2. Các công cụ thị trường tài chính Việt Nam...........................................................34

4
4.3. Điều kiện phát triển thị trường tài chính Việt Nam...............................................36
Câu hỏi ôn tập chương 3....................................................................................................37
CHƯƠNG 4: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÝ THUYẾT TIỀN TỆ......................38
1. Lạm phát.......................................................................................................................38
1.1. Khái niệm và các loại lạm phát.............................................................................38
1.2. Nguyên nhân của lạm phát....................................................................................39
1.3. Hậu quả và biện pháp khắc phục lạm phát............................................................39
2. Bản chất chức năng của Ngân hàng trung ương (NHTW)...........................................41
2.1. Bản chất của Ngân hàng trung ương.....................................................................41
2.2. Chức năng của Ngân hàng trung ương..................................................................44
Câu hỏi ôn tập chương 4....................................................................................................47
Tài liệu tham khảo

5
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

STT Nội dung Ký hiệu viết tắt


1 Ngân sách nhà nước NSNN
2 Ngân hàng thương mại NHTM
3 Thị trường tài chính TTTC
4 Ngân hàng trung ương NHTW

6
GIÁO TRÌNH MÔN HỌC

Tên môn học: Lý thuyết tài chính tiền tệ


Mã môn học: MH11
Vị trí, tính chất của môn học
- Vị trí: Môn học lý thuyết tài chính tiền tệ thuộc nhóm các môn học cơ sở được bố trí
giảng dạy sau khi đã học xong các môn học chung. Trong nhóm các môn học cơ sở, môn lý
thuyết tài chính được bố trí sau môn kinh tế chính trị
- Tính chất: Môn học lý thuyết tài chính tiền tệ cung cấp những kiến thức cơ bản, nền
tảng về tài chính, tiền tệ làm cơ sở cho học sinh nhận thức các môn chuyên môn của nghề.
Mục tiêu môn học
- Kiến thức:
+ Trình bày được những kiến thức cơ bản của lĩnh vực tài chính, ngân sách nhà nước.
+ Trình bày được những nội dung cơ bản về tiền tệ về hệ thống ngân hàng và các tổ
chức tín dụng khác tồn tại trong nền kinh tế thị trường.
- Kỹ năng:
+ Xử lý được các vấn đề về hoạt động tài chính trên cơ sở lý luận.
+ Phân loại được các hình thức tiền tệ và các hình thức về tín dụng ngân hàng.
+ Sử dụng kiến thức đã được nghiên cứu làm cơ sở cho việc nhận thức, học tập các
môn chuyên môn của nghề và ứng dụng có hiệu quả vào hoạt động thực tiễn sau này.
- Năng lực tự chủ và trách nhiệm:
+ Có ý thức học tập theo phương pháp biết suy luận, kết hợp lý luận với thực tiễn.
+ Có thái độ nghiêm túc, cách tiếp cận khoa học khi xem xét một vấn đề thuộc lĩnh
vực tài chính.

7
Nội dung môn học
1. Nội dung tổng quát và phân bổ thời gian
Thời gian
Thực hành, Thí
STT Tên chương, mục Tổng Lý Kiểm
nghiệm, thảo
số thuyết tra
luận, bài tập
I Chương 1: Bản chất chức năng của tiền tệ 6 6 0

II Chương 2: Tổng quan hệ thống tài chính 8 8 0

III Chương 3: Tổng quan về thị trường tài 8 8 0


chính
IV Chương 4: Những vấn đề cơ bản về lý 8 7 0 1
thuyết tiền tệ
Cộng 30 29 0 1
2. Nội dung chi tiết:

8
CHƯƠNG 1
BẢN CHẤT CHỨC NĂNG CỦA TIỀN TỆ

Giới thiệu: Giới thiệu về bản chất chức năng của tiền tệ. Vai trò của tiền tệ đối với việc mở
rộng phát triển sản xuất và trao đổi hàng hoá, thực hiện và mở rộng các quan hệ quốc tế,
công cụ phục vụ cho mục đích người sử dụng.
Mục tiêu:
- Nhận biết được nguồn gốc ra đời và các hình thái phát triển của tiền tệ.
- Trình bày được vai trò và chức năng của tiền tệ đối với nền kinh tế, từ đó thấy được
tầm quan trọng của nó đối với mọi hoạt động của nền kinh tế.
- Trình bày bản chất các chế độ tiền tệ.
Nội dung chính:
1. Bản chất của tiền tệ
1.1. Sự ra đời của tiền tệ
Sự ra đời và tồn tại của tiền tệ gắn liền với sự ra đời và tồn tại của sản xuất và trao đổi
hàng hoá. Theo K.Marx, sự ra đời của tiền tệ chính là sự phát triển các hình thái biểu hiện
của giá trị trong trao đổi hàng hoá.
Trong lịch sử, ban đầu người ta trao đổi trực tiếp hàng lấy hàng. Khi sản xuất càng
phát triển, hàng hoá được sản xuất ra càng nhiều, nhu cầu sử dụng hàng hoá của con người
cũng tăng theo. Ví dụ, người sản xuất ra lúa cần cái rừu để cuốc đất nhưng người có rừu
không cần lúa mà cần vải, việc này buộc người có lúa phải đổi lấy vải sau đó dùng vải đổi
lấy rừu. Nhu cầu trao đổi càng nhiều hàng hoá thì quá trình trao đổi lòng vòng đó càng phức
tạp hơn. Chính vì vậy, người ta đã nghĩ ra những vật trung gian cho các cuộc trao đổi đó,
gọi là vật ngang giá.
Lịch sử đã ghi nhận sự phát triển của hình thái giá trị qua bốn giai đoạn:
- Hình thái giản đơn hay ngẫu nhiên.
Thời kỳ đầu của chế độ cộng sản nguyên thuỷ, công cụ lao động thô sơ, con người tự
cung tự cấp cho nhau, số sản phẩm thu về sau một ngày săn bắn hái lượm. Khi đời sống
cộng đồng phát triển, phân công lao động xã hội được hình thành, lượng sản phẩm làm ra đã
dư thừa làm nảy sinh quan hệ trao đổi giữa các thị tộc mang tính ngẫu nhiên bằng cách trao
đổi sản phẩm trực tiếp. Ví dụ: 1 con cừu = 10 kg thóc
Khi phân công lao động xã hội phát triển trao đổi được mở rộng hơn hình thái trao đổi
chuyển sang 1 giai đoạn khác.
- Hình thái giá trị mở rộng (toàn bộ)
Một hàng hoá có thể đổi được nhiều hàng hoá hơn.
Ví dụ: 1 con cừu = 10 kg thóc
= 5 m vải
= 1 cái rìu
= … (hàng hoá khác)
9
Như vậy: Giá trị một hàng hoá được biểu hiện ở giá trị sử dụng nhiều hàng hoá có tác
dụng là vật ngang giá, việc trao đổi vẫn mang tính chất trực tiếp.
Khi phân công lao động và sản xuất ngày càng phát triển hình thức trao đổi hàng hoá
trực tiếp nảy sinh mâu thuẫn như người này cần hàng hoá của người kia, người kia cần hàng
hoá của người khác… mâu thuẫn này không thể trao đổi trực tiếp mà phải trao gián tiếp
thông qua một hàng hoá mà mọi người đều cần. Hình thái biểu hiện giá trị được chuyển qua
một hình thái khác.
- Hình thái giá trị chung
Khi một hàng hoá đóng vai trò là vật ngang giá chung để thể hiện giá trị của tất cả các
hàng hoá khác.
Ví dụ:
10 kg thóc
5 m vải = 1 cái áo
1 con cừu
Ở giai đoạn này tác dụng của vật ngang giá chung vẫn chưa cố định ở một thứ hàng
hoá nào. Có nhiều hàng hoá đã từng được sử dụng làm vật ngang giá chung như: gia súc,
đồng, bạc, vàng... Mỗi loại vật này đều có một số thuận lợi và bất lợi riêng khi làm phương
tiện trao đổi – vật ngang giá chung. Cuối cùng, vật ngang giá chung bằng hàng hoá chỉ được
hạn chế trong kim loại quý vì dễ vận chuyển hơn, trong đó chủ yếu là vàng.
- Hình thái tiền tệ
Cuộc phân công lao động xã hội lớn lần thứ 2 xuất hiện, thủ công nghiệp tách khỏi
nông nghiệp làm cho sản xuất phát triển và thị trường mở rộng, nhiều hàng hoá có tác dụng
vật ngang giá chung trở nên mâu thuẫn nhu cầu ngày càng tăng của thị trường đòi hỏi phải
thừa nhận một vật ngang giá.
Vật ngang giá chung cố định ở một thứ hàng hoá thì sinh ra hình thái tiền tệ.
Tiền tệ xuất hiện sau một quá trình phát triển lâu dài của trao đổi, của các hình thái giá
trị.
Theo quan điểm của K.Marx, tiền tệ là một hàng hoá đặc biệt, độc quyền giữ vai trò
làm vật ngang giá chung để phục vụ cho quá trình lưu thông hàng hoá.
1.2. Bản chất của tiền tệ
Trong nền kinh tế hiện đại, định nghĩa về tiền tệ được phát biểu như sau: “Tiền tệ là
bất cứ cái gì được chấp nhận chung trong việc thanh toán để nhận hàng hoá, dịch vụ hoặc
trong việc trả nợ”. Đặc biệt trong điều kiện hiện nay, nền kinh tế hàng hoá phát triển cao,
trình độ công nghệ ngân hàng phát triển câu trả lời về tiền tệ vẫn còn là bí ẩn.
Định nghĩa này chỉ đưa ra các tiêu chí để nhận biết một vật có phải là tiền tệ hay
không. Tuy nhiên, nó chưa giải thích được tại sao vật đó lại được chọn làm tiền tệ. Để giải
thích được điều này, phải tìm hiểu bản chất của tiền tệ.
Về bản chất của tiền tệ được thể hiện rõ hơn qua hai thuộc tính sau:

10
- Giá trị sử dụng của tiền: Là khả năng thoả mãn nhu cầu trao đổi của xã hội, nhu cầu
sử dụng làm vật trung gian trong trao đổi. Như vậy, người ta sẽ chỉ cần nắm giữ tiền khi có
nhu cầu trao đổi. Giá trị sử dụng của một loại tiền tệ là do xã hội quy định. Khi nào xã hội
còn thừa nhận vai trò là vật trung gian của tiền tệ thì chứng tỏ giá trị sử dụng của loại tiền tệ
đó còn tồn tại. Đây chính là lời giải thích cho sự xuất hiện cũng như biến mất của các dạng
tiền tệ trong lịch sử.
- Giá trị của tiền: Được thể hiện qua khái niệm “sức mua tiền tệ”, đó là khả năng đổi
được nhiều hay ít hàng hoá khác nhau trong trao đổi. Tuy nhiên, khái niệm sức mua tiền tệ
không được xem xét dưới góc độ sức mua đối với từng hàng hoá nhất định mà trên phương
diện toàn thể các hàng hoá trên thị trường.
1.3. Sự phát triển của hình thái tiền tệ
* Tiền tệ bằng hàng hoá - hoá tệ
Hoá tệ tức là tiền bằng hàng hoá, là hình thái đầu tiên của tiền tệ và được sử dụng
trong một thời gian dài. Hàng hoá dùng làm tiền tệ trong trao đổi phải có giá trị thực sự và
giá trị của vật trung gian trao đổi phải ngang bằng với giá trị hàng hoá đem trao đổi. Hoá tệ
lần lượt xuất hiện dưới hai dạng: hoá tệ phi kim loại và hoá tệ kim loại.
- Hoá tệ phi kim loại:
Đây là hình thái cổ xưa nhất của tiền tệ, rất thông dụng trong các xã hội cổ truyền. Tuỳ
từng quốc gia, từng địa phương và từng khu vực, người ta dùng những hàng hoá khác nhau
để làm tiền tệ.
Ví dụ: Ở Hy Lạp và La Mã người ta dùng bò, trâu; ở Tây Tạng người ta dùng trà đóng
thành bánh, ở Châu Phi dùng lụa vải, vỏ sò, vỏ hến để làm tiền.
Việc dùng từng loại hàng hoá làm tiền tệ do thói quen của địa phương. Nói chung, hoá
tệ phi kim loại có nhiều bất lợi khi đóng vai trò tiền tệ, như: tính không đồng nhất, dễ hư
hỏng, khó phân chia hay gộp lại, khó bảo quản cũng như vận chuyển, nó chỉ được công
nhận trong từng khu vực, từng địa phương. Do vậy, hoá tệ không phải kim loại dần dần bị
loại bỏ và người ta bắt đầu dùng hoá tệ kim loại thay thế hoá tệ không kim loại.
- Hoá tệ bằng kim loại:
Là việc lấy kim loại làm tiền tệ. Các kim loại được dùng để đúc thành tiền là đồng,
kẽm, bạc, vàng... Kim loại có nhiều ưu điểm hơn hàng hoá không phải kim loại khi sử dụng
làm đơn vị tiền tệ như: phẩm chất, trọng lượng có thể quy định chính xác, dễ dàng hơn, bền
hơn, hao mòn chậm hơn, dễ chia nhỏ, giá trị tương đối ít biến đổi...
Qua thực tiễn trao đổi và lưu thông hoá tệ kim loại, dần dần người ta chỉ chọn hai kim
loại quý dùng làm tiền lâu dài hơn là bạc và vàng. Do vàng có những thuộc tính đặc biệt
như: tính đồng nhất, dễ chia nhỏ, tính dễ cất trữ, dễ lưu thông nên sau này, vàng vượt bạc và
trở thành kim loại độc quyền được dùng làm tiền tệ.

11
Tuy có những đặc điểm rất thích hợp làm tiền tệ nhưng tiền vàng không thể đáp ứng
được nhu cầu trao đổi của xã hội khi nền kinh tế sản xuất và trao đổi hàng hoá phát triển đến
mức cao. Một loạt lý do sau đây đã khiến cho việc sử dụng tiền vàng ngày càng trở nên bất
tiện, không thực hiện được chức năng tiền tệ nữa:
 Quy mô và trình độ sản xuất hàng hoá phát triển, khối lượng và chủng loại hàng hoá
ngày càng tăng và đa dạng, trong khi đó lượng vàng sản xuất ra không đủ đáp ứng nhu cầu
về tiền tệ (nhu cầu trao đổi) của nền kinh tế.
 Giá trị tương đối của vàng so với các hàng hoá khác tăng lên do năng suất lao động
trong ngành khai thác vàng không tăng theo kịp năng suất lao động chung của các ngành sản
xuất hàng hoá. Điều đó dẫn đến việc giá trị của vàng trở nên quá lớn, không thể đáp ứng nhu
cầu làm vật ngang giá chung trong một số lĩnh vực có lượng giá trị trao đổi mỗi lần nhỏ như
mua bán hàng tiêu dùng...
 Việc sử dụng tiền tệ hàng hoá bị các nhà kinh tế xem như một sự lãng phí những
nguồn tài nguyên vốn đã có hạn.
Việc tìm kiếm một loại hình tiền tệ, thay thế cho vàng trong lưu thông trở nên rất cần
thiết.
* Tiền giấy
Tiền giấy được lưu thông qua 2 giai đoạn:
- Tiền giấy khả hoán: là loại tiền được lưu hành thay cho tiền vàng hay tiền bạc ký
thác tại ngân hàng. Tiền giấy khả hoán đó đổi lấy vàng hay bạc có giá trị tương đương với
giá trị ghi trên giấy khả hoán đó.
- Tiền giấy bất khả hoán: là loại tiền giấy bắt buộc lưu hành mà mọi người không thể
mang tiền giấy này đến ngân hàng để đổi lấy vàng bạc.
Ngày nay hầu hết các nước đều áp dụng chế độ lưu thông tiền giấy vì có nhiều tiện lợi
như dễ mang theo, dễ cất giữ, có nhiều mệnh giá dễ trao đổi chính xác.
* Tiền ghi sổ - Bút tệ
Bút tệ còn gọi là tiền ghi sổ, sử dụng bằng cách ghi chép trong sổ sách kế toán của
ngân hàng. Khi thực hiện thanh toán chuyển khoản ở ngân hàng người ta sử dụng các công
cụ như: séc, lệnh chuyển tiền… thay cho tiền giấy để chuyển tiền từ tài khoản ký thác của
người này sang tài khoản của người khác.
Bút tệ trong thanh toán có nhiều ưu điểm: an toàn, dễ dàng, thuận tiện nhanh chóng…
làm giảm lượng tiền mặt lưu thông trên thị trường, quản lý điều tiết lượng tiền.
* Tiền điện tử
Gần đây, những tiến bộ về công nghệ máy tính cũng như sự phát triển của mạng lưới
thông tin viễn thông đã cho phép các ngân hàng thay thế phương thức thanh toán truyền
thống sử dụng các chứng từ giấy bằng phương thức thanh toán điện tử (Electronic means of
payment – EMOP) – phương thức thanh toán trong đó các giao dịch chuyển tiền thanh toán

12
được thực hiện nhờ hệ thống viễn thông điện tử dựa trên cơ sở mạng máy tính kết nối giữa
các ngân hàng. Bằng phương thức mới này, tốc độ chuyển tiền tăng lên rất nhanh, giảm bớt
được chi phí về giấy tờ so với lưu thông tiền mặt và séc.
Khi chuyển sang phương thức thanh toán điện tử, tiền trong các tài khoản ở ngân hàng
được lưu trữ trong hệ thống máy tính của ngân hàng dưới hình thức điện tử (số hoá). Đồng
tiền trong hệ thống như vậy được gọi là tiền điện tử (E – money) hoặc tiền số (Digi money).
Như vậy, tiền điện tử là tiền tệ tồn tại dưới hình thức điện tử (số hoá).
2. Chức năng của tiền tệ
Theo quan điểm của các nhà kinh tế học hiện đại tiền tệ là bất cứ vật gì được xã hội
chấp nhận một cách phổ biến, làm phương tiện đo lường, trao đổi và tích luỹ một cách hữu
hiệu. Tiền tệ có ba chức năng cơ bản là phương tiện trao đổi, thước đo giá trị và cất giữ giá
trị.
2.1. Chức năng phương tiện trao đổi
Giá cả hàng hoá được xác định trước khi diễn ra lưu thông hàng hoá. Chỉ sau khi giá
cả hàng hoá được biểu hiện thành tiền mặt của người mua trao cho người bán thì hàng hoá
mới chuyển quyền sở hữu từ người bán sang người mua, lúc đó tiền tệ mới hoàn thành chức
năng phương tiện lưu thông và mới thực hiện đầy đủ vai trò vật ngang giá chung. Việc trao
đổi hàng hoá chỉ xảy ra và được thực hiện sau khi tiền tệ đã hoàn thành cùng một thời điểm
hai chức năng thước đo giá trị và phương tiện lưu thông.
Khi thực hiện chức năng phương tiện lưu thông, tiền tệ chỉ đóng vai trò môi giới giúp
cho việc trao đổi thực hiện được dễ dàng do vậy tiền chỉ xuất hiện thoáng qua trong trao đổi
(người ta bán hàng hoá của mình để lấy tiền rồi dùng nó để mua những hàng hoá mình cần).
Tiền tệ được xem là phương tiện trao đổi không nhất thiết phải là tiền tệ có đủ giá trị (ví dụ
dưới dạng tiền vàng). Dưới dạng dấu hiệu giá trị được xã hội thừa nhận như tiền giấy, tiền tệ
vẫn có thể phát huy được chức năng phương tiện trao đổi.
Việc dùng tiền tệ làm phương tiện trao đổi đã giúp đẩy mạnh hiệu quả của nền kinh tế
qua việc khắc phục những hạn chế của trao đổi hàng hoá trực tiếp, đó là những hạn chế về
nhu cầu trao đổi (chỉ có thể trao đổi giữa những người có nhu cầu phù hợp), hạn chế về thời
gian (việc mua và bán phải diễn ra đồng thời), hạn chế về không gian (việc mua bán phải
diễn ra tại cùng một địa điểm). Nhờ đó, việc lưu thông hàng hoá có thể diễn ra nhanh hơn,
sản xuất được thuận lợi, tránh được ách tắc, tạo động lực cho nền kinh tế phát triển. Với
chức năng này, tiền tệ được ví như chất dầu nhờn bôi trơn giúp cho guồng máy sản xuất và
lưu thông hàng hoá hoạt động trơn tru, dễ dàng.
Tuy nhiên, để thực hiện tốt chức năng này, đòi hỏi đồng tiền phải đáp ứng các tiêu
chuẩn sau:
- Phải được chấp nhận rộng rãi
- Phải dễ nhận biết
- Có nhiều mệnh giá, có thể chia nhỏ để dễ trao đổi

13
- Dễ vận chuyển - đồng nhất
2.2. Chức năng đo lường giá trị
Trong nền kinh tế sử dụng tiền tệ, mọi hàng hoá đều được quy đổi ra tiền tệ. Để có thể
đổi ra được như vậy, tiền tệ phải có khả năng biểu hiện giá trị của các hàng hoá khác. Biểu
hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá được gọi là giá cả hàng hoá.
Để thực hiện chức năng thước đo giá trị, tiền tệ bản thân nó phải có giá trị. Giá trị của
tiền tệ được đặc trưng bởi khái niệm sức mua tiền tệ, tức là khả năng trao đổi của đồng tiền.
Khi tiền tệ tồn tại dưới dạng hàng hoá (tiền có đầy đủ giá trị) thì sức mua của tiền phụ
thuộc vào giá trị của bản thân nó. Khi xã hội chuyển sang sử dụng tiền dưới dạng dấu hiệu
giá trị (tiền giấy hoặc tiền ghi sổ...) thì giá trị của tiền không còn được đảm bảo bằng giá trị
của nguyên liệu dùng để tạo ra nó (vì giá trị đó quá thấp so với giá trị mà nó đại diện) mà
phụ thuộc vào tình hình cung cầu tiền tệ trên thị trường, mức độ lạm phát, tình trạng hưng
thịnh hay suy thoái của nền kinh tế và cả niềm tin của người sử dụng vào đồng tiền đó.
Để tiện cho việc đo lường giá trị của hàng hoá, cần có một đơn vị tiền tệ chuẩn. Đơn vị
tiền tệ và tên gọi tiền tệ lúc đầu do dân chúng lựa chọn một cách tự phát, sau đó do chính
quyền lựa chọn và quy định trong pháp luật; chẳng hạn như: đồng Việt Nam (VNĐ), Đô la
Mỹ (USD), Euro (EUR)...
2.3. Chức năng dự trữ giá trị
Khi tạm thời chưa có nhu cầu sử dụng tiền tệ làm phương tiện trao đổi và thanh toán, nó
được cất trữ lại để dành cho những nhu cầu giao dịch trong tương lai. Khi đó, tiền có tác dụng
như một nơi chứa giá trị, nơi chứa sức mua hàng qua thời gian.
Tuy nhiên, tiền không phải là nơi cất trữ giá trị duy nhất; một số tài sản như cổ phiếu,
trái phiếu hay đất đai, nhà cửa, kim loại quý... cũng đều là phương tiện cất trữ giá trị. Tuy
nhiên, tiền tệ không đảm bảo sự chắc chắn về sự nguyên vẹn giá trị từ khi cất trữ cho đến
khi đem ra sử dụng nên tiền không phải là cách lựa chọn tốt nhất khi muốn dự trữ giá trị
trong dài hạn; chính vì thế, người ta có xu hướng cất trữ giá trị dưới dạng tiền tệ cho những
nhu cầu trong tương lai gần.
3. Vai trò của tiền tệ
3.1. Tiền tệ là công cụ thực hiện yêu cầu hạch toán kinh tế
* Tiền tệ là phương tiện để mở rộng phát triển sản xuất và trao đổi hàng hoá
Tiền tệ là phương tiện không thể thiếu để mở rộng và phát triển nền kinh tế hàng hóa.
C.Mác đã chỉ ra rằng, người ta không thể tiến hành sản xuất hàng hóa nếu như không có tiền
và sự vận động của nó.
- Khi tiền tệ tham gia trong chức năng thước đo giá trị và phương tiện lưu thông là cho
việc đo lường và biểu hiện giá trị của hàng hóa trở nên giản đơn, thuận lợi và thống nhất,
làm cho sự vận động của hàng hóa trong lưu thông tiến hành một cách trôi chảy.

14
- Với chức năng là phương tiện thanh toán, tiền tệ làm cho sự trao đổi hàng hoá không
bị ràng buộc về không gian và thời gian.
- Tiền tệ là công cụ tổ chức hạch toán kinh doanh của doanh nghiệp. Thông qua tiền tệ
doanh nghiệp xác định tổng hợp thu nhập, tổng chi phí, xác định được hiệu quả kinh tế, so
sánh lựa chọn phương án tốt từ đó đưa ra quyết định sử dụng vốn có hiệu quả.
Tiền tệ trở thành công cụ duy nhất và không thể thiếu để thực hiện yêu cầu quy luật giá
trị. Vì vậy, nó là công cụ không thể thiếu được để mở rộng và phát triển nền kinh tế hàng
hóa.
3.2. Tiền tệ là công cụ quản lý vĩ mô
Trong điều kiện của nền kinh tế hàng hóa phát triển cao thì hầu hết các mối quan hệ
kinh tế-xã hội đều được tiền tệ hóa, mọi cá nhân, tổ chức, cơ quan…đều không thể thoát ly
khỏi các quan hệ tiền tệ. Trong điều kiện tiền tệ trở thành công cụ có quyền lực vạn năng xử
lý và giải tỏa mối ràng buộc phát sinh trong nền kinh tế xã hội không những trong phạm vi
quốc gia mà còn phạm vi quốc tế. Vì vậy, tiền tệ có thể thỏa mãn mọi mục đích và quyền lợi
cho những ai đang nắm giữ tiền tệ. Chừng nào còn tồn tại nền kinh tế hàng hóa và tiền tệ thì
thế lực của đồng tiền vẫn còn phát huy sức mạnh của nó.
* Tiền tệ là phương tiện để Nhà nước thực hiện quản lý kinh tế ở tầm vĩ mô:
- Chính sách tài chính: Điều tiết các khoản thu nhập, chi tiêu của chính phủ cân đối thu
chi của ngân sách nhà nước.
- Chính sách tiền tệ: Để Ngân hàng trung ương thực thi chính sách tiền tệ.
- Chính sách thu nhập: Thông qua tiền tệ thực thi thuế, giá cả, tiền lương và cơ cấu đầu
tư…
- Chính sách kinh tế đối ngoại: Thuế xuất khẩu, nhập khẩu, tiền tệ tín dụng trong nước
và đối ngoại, cần cho nền kinh tế quốc dân.
* Tiền tệ là phương tiện để thực hiện và mở rộng các quan hệ quốc tế
Trong điều kiện của nền kinh tế hàng hóa phát triển chuyển sang nền kinh tế thị trường
thì tiền tệ không những là phương tiện thực hiện các quan hệ kinh tế xã hội trong phạm vi
quốc gia mà còn là phương tiện quan trọng để thực hiện và mở rộng quan hệ hợp tác quốc
tế.
Cùng với ngoại thương, các quan hệ thanh toán và tín dụng quốc tế, tiền tệ phát huy
vai trò của mình để trở thành phương tiện cho việc thực hiện và mở rộng các quan hệ quốc
tế, nhất là đối với các mối quan hệ nhiều mặt giữa các quốc gia trên thế giới hình thành và
phát triển làm cho xu thế hội nhập trên các lĩnh vực kinh tế xã hội, tài chính, tiền tệ ngân
hàng, hợp tác khoa học kỹ thuật giữa các nước.
4. Các chế độ tiền tệ
Chế độ tiền tệ là hình thức tổ chức lưu thông tiền tệ của một quốc gia, được quy định
bằng luật pháp. Chế độ tiền tệ bao gồm các yếu tố:

15
- Bản vị tiền: Là cái gì được dùng làm cơ sở định giá đồng tiền quốc gia
- Đơn vị tiền: Mỗi quốc gia đều có đơn vị tiền tệ của riêng mình, được quy định bằng
pháp luật.
Ví dụ: Đơn vị tiền tệ của Việt nam là “đồng” ký hiệu quốc tế là VND. Đơn vị tiền tệ
của Mỹ là “đô la Mỹ” ký hiệu quốc tế là USD.
- Công cụ trao đổi: tức là những công cụ được sử dụng để thực hiện mua bán hàng
hoá, dịch vụ hoặc thanh toán các khoản nợ.
Trong chế độ tiền tệ yếu tố thường xảy ra, thường thay đổi là bản vị tiền tệ. Bản vị tiền
tệ của các nước do điều kiện cụ thể của mỗi nước, mỗi thời kỳ quyết định. Các chế độ bản vị
tiền tệ đã được sử dụng như: Chế độ song bản vị, chế độ bản vị vàng, chế độ tiền giấy.
4.1. Chế độ song bản vị
Chế độ song bản vị là chế độ lưu thông tiền tệ mà trong đó bạc và vàng đều được sử
dụng làm thước đo giá trị.
Bạc và vàng hai kim loại này có “quyền lực” ngang nhau. Tiền đúc bằng hai thứ kim
loại này đều được thanh toán không hạn chế theo giá trị thực tế của nó. Chế độ song bản vị
được chia làm 2 loại:
- Chế độ bản vị song song: là chế độ song bản vị, bạc và vảng lưu thông theo giá trị
thực tế của nó trên thị trường và đã có hai thước đo giá trị dẫn đến có hai hệ thống giá cả.
Trong lưu thông giá trị của bạc thấp hơn của vàng và vàng trở thành thước đo giá trị của bạc
rồi đến lượt bạc trở thành thước đo giá trị của các hàng hoá khác đã làm cho lưu thông tiền
tệ gặp nhiều khó khăn vì tỷ lệ trao đổi giữa vàng và bạc không thống nhất.
- Chế độ bản vị kép: Là chế độ song bản vị nhưng được Nhà nước can thiệp vào thị
trường bằng cách quy định tỷ giá giữa tiền vàng và tiền bạc thống nhất trong cả nước. Khắc
phục tình trạng giá cả không ổn định trong lưu thông.
4.2. Chế độ bản vị vàng
Chế độ bản vị vàng là chế độ lưu thông tiền tệ trong đó vàng được sử dụng làm thước
đo giá trị và phương tiện lưu thông.
Chế độ bản vị vàng có đặc điểm:
- Tự do đúc tiền vàng: Nhà nước cho phép mọi công dân tự do đưa vàng thỏi của
mình đến sở đúc tiền của Nhà nước đúc thành những đồng tiền theo tiêu chuẩn giá cả pháp
định.
- Tự do lưu thông: Tiền vàng được thanh toán không hạn chế. Nếu tiền vàng hao mòn
quá mức được Nhà nước cho đổi lại tiền mới.
- Vàng được tự do luân chuyển giữa các quốc gia. Việc trao đổi vàng thỏi giữa các
quốc gia không bị cản trở.
Chế độ bản vị vàng là chế độ lưu thông tiền tệ ổn định nhất trong lịch sử phát triển của
sản xuất và trao đổi hàng hoá.

16
Tuy nhiên, tiền vàng có nhược điểm: hao mòn nhiều, không đủ vàng để đúc tiền, cản
trở trong lưu thông và dần được thay thế bằng các loại dấu hiệu giá trị.
4.3. Chế độ tiền giấy
Tiền giấy là một dạng tiền dấu hiệu là phương tiện thay cho tiền vàng trong lưu thông,
thực hiện các quan hệ trao đổi hàng hoá, dịch vụ. Chúng chỉ có giá trị danh nghĩa theo luật
định và thay thế tiền đủ giá (tiền vàng) trong lưu thông ở những chức năng mà lưu thông
không cần phải sử dụng tiền đủ giá.
Ngày nay các quốc gia đều áp dụng chế độ lưu thông tiền giấy không đổi được ra vàng
do ngân hàng trung ương phát hành. Giá trị thực tế của đồng tiền phụ thuộc vào sức mua của
nó là số lượng hàng hoá hay dịch vụ mà nó có thể mua được.
Chế độ lưu thông tiền giấy có đặc điểm:
- Tiền giấy do ngân hàng trung ương phát hành, là đồng tiền pháp định, được sử dụng
là phương tiện lưu thông, thanh toán hợp pháp không hạn chế về số lượng.
- Vàng không được dùng làm tiền tệ nó là kim loại quý có giá trị cao chỉ được dùng để
thanh toán các khoản nợ quốc tế.
- Tuy mối liên hệ chuyển đổi từ tiền giấy ra vàng hoàn toàn không còn nữa nhưng các
nước vẫn coi trọng dự trữ vàng như ngoại tệ mạnh làm cơ sở đảm bảo gián tiếp cho lưu
thông tiền tệ trong nước.
- Chế độ lưu thông tiền giấy dễ gây ra lạm phát nên ngân hàng trung ương các quốc gia
phải thực thi chính sách tiền tệ hợp lý đảm bảo cho lưu thông tiền tệ ổn định để ổn định và
phát triển kinh tế.

Câu hỏi ôn tập

Câu 1: Trình bày sự ra đời của tiền tệ?


Câu 2: Phân tích sự phát triển của hình thái tiền tệ?
Câu 3: Theo các nhà kinh tế học hiện đại, tiền tệ có những chức năng gì? Lấy ví dụ minh
họa?
Câu 4: Phân tích vai trò của tiền tệ? Lấy ví dụ minh hoạ?
Câu 5: Phân tích đặc điểm của chế độ lưu thông tiền giấy. Lấy ví dụ minh họa?

17
CHƯƠNG 2
TỔNG QUAN HỆ THỐNG TÀI CHÍNH

Giới thiệu: Những kiến thức cơ bản về tài chính; bản chất, cơ cấu hệ thống tài chính và mối
quan hệ giữa các khâu trong hệ thống tài chính.
Mục tiêu:
- Trình bày được những vấn đề cơ bản của tài chính.
- Mô tả được hệ thống tài chính của Việt Nam.
- Phân tích được chức năng và bản chất của tài chính.
- Phân tích được mối quan hệ giữa các khâu trong hệ thống tài chính.
- Vận dụng kiến thức vào học các môn chuyên môn nghề.
Nội dung chính:
1. Bản chất, chức năng của tài chính
1.1. Bản chất của tài chính
Sự ra đời và phát triển của nền kinh tế hàng hoá cùng với sự xuất hiện tiền tệ là hai
nhân tố tiền đề cho sự ra đời của tài chính. Sự hình thành của nhà nước là nhân tố thúc đẩy
tài chính thêm phát triển đa dạng.
Tài chính là các quan hệ kinh tế trong phân phối tổng sản phẩm xã hội dưới hình thức
giá trị bằng việc hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ nhằm đáp ứng nhu cầu tích luỹ và
tiêu dùng của các chủ thể trong nền kinh tế.
Bản chất của tài chính được thể hiện qua các quan hệ kinh tế chủ yếu trong quá trình
phân phối tổng sản phẩm xã hội sau đây:
- Quan hệ giữa Nhà nước với cơ quan quản lý Nhà nước thông qua quan hệ phân phối
lại nguồn ngân sách Nhà nước để duy trì các hoạt động văn hoá giáo dục, y tế, an ninh quốc
phòng.
- Quan hệ kinh tế giữa Nhà nước với các tổ chức kinh tế, các tầng lớp dân cư… thông
qua việc Nhà nước huy động một phần thu nhập của các tổ chức kinh tế vào Nhà nước dưới
hình thức Nhà nước thu thuế đối với các tổ chức kinh tế và tầng lớp dân cư.
- Quan hệ giữa các tổ chức kinh tế với nhau thể hiện qua các hoạt động kinh doanh
buôn bán, hợp tác, đầu tư liên doanh liên kết để sản xuất kinh doanh.
- Quan hệ nội bộ trong từng đơn vị kinh tế như việc đơn vị trả lương, trả thưởng cho
công nhân viên trong nội bộ doanh nghiệp, trả lãi cho các cổ đông, các nhà đầu tư tham gia
góp vốn…
- Quan hệ kinh tế giữa các quốc gia với nhau trên thế giới.
Các quan hệ trên nảy sinh trong quá trình phân phối của cải xã hội dưới hình thức giá
trị được nhận thức là quan hệ tài chính.

18
1.2. Chức năng của tài chính
* Chức năng huy động nguồn tài chính
Đây là chức năng thể hiện khả năng tổ chức khai thác các nguồn lực tài chính nhằm
đáp ứng nhu cầu phát triển của nền kinh tế.
Chức năng huy động vốn được thực hiện trên cơ sở tương tác giữa các yếu tố:
- Chủ thể cần vốn
- Các nhà đầu tư
- Hệ thống tài chính
- Môi trường tài chính và kinh tế.
Chính sách huy động vốn cần đáp ứng đầy đủ các yêu cầu:
- Về thời gian: đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn.
- Về kinh tế: chi phí huy động vốn chấp nhận được và có tính cạnh tranh.
- Về pháp lý: phải biết vận dụng phù hợp với pháp luật (trong phạm vi pháp luật cho
phép).
Chức năng huy động vốn là chức năng quyết định sự ra đời và tồn tại của tài chính.
Phản ánh kế hoạch sử dụng nguồn lực tài chính để đạt được mục tiêu trong tương lai. Trên
thực tế: nguồn lực luôn có giới hạn so với nhu cầu (xem hình 1).

Nhu cầu A

Đường giới hạn nguồn lực tài chính

Nhu cầu B

Hình 1: Đường giới hạn nguồn lực tài chính


Nhận xét: Khi nguồn lực tài chính phân bổ cho dự án A tăng thì phải giảm nguồn lực ở
dự án B. Chính vì thế tài chính cần phát huy chức năng thứ hai là chức năng phân bổ nguồn
lực tài chính.
* Chức năng phân phối
Chức năng phân phối là chức năng mà nhờ đó, các nguồn lực đại diện cho những bộ
phận của cải xã hội được đưa vào các quỹ tiền tệ khác nhau; để sử dụng cho những mục
đích khác nhau, đảm bảo hiệu quả tối ưu trong phân bổ nguồn lực tài chính cho những nhu
cầu, lợi ích khác nhau của đời sống xã hội.
Phân phối tài chính bao gồm bao gồm:

19
- Phân phối lần đầu: Là quá trình phân phối diễn ra trong lĩnh vực sản xuất kinh
doanh, nhằm phân chia giá trị của hàng hoá tạo ra cho các chủ thể tham gia vào quá trình
sản xuất kinh doanh đó.
- Phân phối lại: Là quá trình phân phối tiếp tục các quỹ tiền tệ hình thành từ quá trình
phân phối lần đầu nhằm phục vụ mục đích của các chủ thể kinh doanh.
So với phân phối lần đầu, hoạt động phân phối lại trong tài chính phát triển đa dạng và
phức tạp hơn nhiều do tính chất đa dạng và phong phú về nhu cầu của các chủ thể kinh tế.
Phạm vi của phân phối lại cũng rộng hơn so với phân phối lần đầu, bao gồm cả lĩnh vực sản
xuất vật chất và dịch vụ.
Phân phối trong tài chính được thực hiện thông qua việc tạo lập và sử dụng các quỹ
tiền tệ. Về cơ bản, các quỹ tiền tệ trong nền kinh tế có thể chia thành 5 nhóm chính sau:
 Quỹ tiền tệ của doanh nghiệp sản xuất hàng hoá và cung ứng dịch vụ. Đây là quỹ
tiền tệ của khâu trực tiếp sản xuất kinh doanh.
 Quỹ tiền tệ của các tổ chức tài chính trung gian: Được hình thành nhằm giúp cho
việc nâng cao hiệu quả cho các hoạt động tài chính của các chủ thể kinh tế.
 Quỹ tiền tệ của nhà nước, trong đó quỹ ngân sách nhà nước là quỹ tiền tệ lớn nhất
và quan trọng nhất của nhà nước. Đây là quỹ tiền tệ mà nhà nước sử dụng một cách tập
trung để duy trì hoạt động của bộ máy nhà nước và giải quyết các vấn đề phát triển kinh tế
xã hội.
 Quỹ tiền tệ của khu vực dân cư. Các quỹ tiền tệ này được hình thành nhằm đáp ứng
các nhu cầu tiêu dùng và tích luỹ của các cá nhân và hộ gia đình.
 Quỹ tiền tệ của các tổ chức chính trị, xã hội.
* Chức năng giám đốc
Chức năng giám đốc của tài chính bắt nguồn từ sự cần thiết khách quan theo dõi, kiểm
soát các hoạt động phân phối trong tài chính để đảm bảo cho các hoạt động tài chính phục
vụ tốt các mục tiêu đề ra của các chủ thể kinh tế. Đối với giám đốc tài chính là quá trình tạo
lập và sử dụng quỹ tiền tệ. Giám đốc tài chính là giám đốc bằng tiền, thông quá các chỉ tiêu
tài chính, các chỉ tiêu về xây dựng, phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ.
Khi đề cập đến chức năng giám đốc của tài chính doanh nghiệp, chúng ta cần phân biệt
rõ hai thuật ngữ “chức năng giám đốc tài chính” và “công tác thanh tra, kiểm tra tài chính”.
Giữa chúng có điểm khác nhau cơ bản là: khi nói đến “chức năng giám đốc tài chính” là nói
đến khả năng của tài chính trong việc giám sát tính mục đích, tính hiệu quả của việc cải tạo
và sử dụng các quỹ tiền tệ của chủ thể kinh tế, nằm trong mối quan hệ hữu cơ với các chức
năng của tài chính doanh nghiệp, còn “công tác thanh tra, kiểm tra tài chính” là hoạt động
chủ quan của con người trong việc vận dụng chức năng giám đốc tài chính một cách độc lập
với việc vận dụng các chức năng khác nhau trong tài chính.

20
2. Bản chất và cấu trúc của hệ thống tài chính
2.1. Bản chất của hệ thống tài chính
Trong các lĩnh vực hoạt động kinh tế xã hội các quan hệ tài chính thể hiện rất đa dạng
và phong phú, đan xen lẫn nhau trong một tập hợp hàng loạt các hoạt động khác nhau của
nền kinh tế. Tuy nhiên, đó không phải là hoạt động hỗn loạn và ngược lại chúng tuân thủ
những nguyên tắc, những quy luật nhất định, trong đó những quan hệ tài chính có tính chất
đặc thù giống nhau nhóm lại thành một nhóm riêng có mối liên hệ, tác động, ràng buộc lẫn
nhau tạo thành hệ thống thống nhất.
Các nhóm quan hệ tài chính này thường gắn liền với những quỹ tiền tệ nhất định, có
liên hệ với nhau, hình thành nên những tụ điểm tài chính riêng. Các nhóm này được gọi là
các khâu của tài chính. Mỗi khâu của tài chính thường hướng tới một mục đích chung và có
những quỹ tiền tệ chung. Giữa các khâu tài chính có mối quan hệ tương tác lẫn nhau trong
quá trình thực hiện mục tiêu của mình. Tập hợp các khâu tài chính cùng với những mối
quan hệ tương tác đó được gọi là hệ thống tài chính.
Như vậy có thể hiểu hệ thống tài chính là tổng thể thống nhất của nhiều bộ phận hợp
thành dưới nhiều hình thức hoạt động khác nhau, ở nhiều lĩnh vực khác nhau nhưng cùng
gắn liền với các quỹ tiền tệ đặc trưng và cơ cấu tổ chức của các chủ thể kinh tế xã hội nhất
định.
Hệ thống tài chính là tổng thể các quan hệ tài chính trong các lĩnh vực khác nhau
nhưng giữa chúng có mối quan hệ hữu cơ với nhau trong quá trình tạo lập, phân phối và sử
dụng các nguồn lực tài chính.
2.2. Cấu trúc của hệ thống tài chính
Các bộ phận trong hệ thống tài chính hoạt động trên các lĩnh vực tạo ra các nguồn lực
tài chính, thu hút các nguồn tài chính và chu chuyển các nguồn tài chính. Với các lĩnh vực
hoạt động này, toàn bộ hệ thống tài chính thực hiện vai trò đặc biệt quan trọng trong nền
kinh tế quốc dân là đảm bảo nhu cầu về vốn cho phát triển kinh tế xã hội.
Các hoạt động kinh tế nói chung và tài chính nói riêng trong mỗi một nền kinh tế đều
chịu sự chi phối bởi ba nhóm chủ thể cơ bản là: nhà nước, doanh nghiệp, hộ gia đình và các
tổ chức xã hội. Các nhóm chủ thể này sẽ thực hiện các hành vi kinh tế cũng như các hoạt
động tài chính nhằm đạt mục tiêu đề ra. Chính vì vậy, mọi quan hệ tài chính trong hệ thống
tài chính đều phải phục vụ việc đạt được các mục tiêu đó. Sự tác động qua lại giữa các quan
hệ tài chính phản ánh mối quan hệ giữa các chủ thể kinh tế và trong nội bộ từng chủ thể kinh
tế. Mối quan hệ tương tác giữa các khâu tài chính được thể hiện trong hình 2 như sau:

21
Ngân sách nhà nước

Tài chính Thị trường Các khâu tài


doanh nghiệp tài chính chính trung gian

Tài chính hộ gia đình


và các tổ chức xã hội

Hình 2. Cấu trúc hệ thống tài chính


Trong hệ thống tài chính của một nền kinh tế bao gồm ba khâu cơ bản, gắn với ba
nhóm chủ thể, đó là:
- Tài chính công (chủ yếu là Ngân sách nhà nước): Được đặc trưng bằng các quỹ tiền
tệ của các định chế thuộc khu vực công gắn liền với thực hiện các chức năng của nhà nước;
bao gồm: quỹ Ngân sách nhà nước, các quỹ tài chính khác của nhà nước.
- Tài chính doanh nghiệp: Được đặc trưng bằng các loại vốn hay quỹ tiền tệ phục vụ
cho hoạt động của các công ty, các đơn vị kinh tế trong việc cung cấp hàng hoá và dịch vụ.
- Tài chính hộ gia đình và các tổ chức xã hội: Được đặc trưng bằng sự tồn tại của các
quỹ tiền tệ được sở hữu bởi cá nhân, tổ chức xã hội.
Ngoài ra, còn một khâu tài chính khác rất quan trọng, có vai trò kết nối 3 khâu tài
chính cơ bản nói trên đó là: Thị trường tài chính và trung gian tài chính.
- Thị trường tài chính: Là nơi diễn ra các hoạt động mua bán, chuyển nhượng quyền
sử dụng các khoản vốn ngắn hạn hoặc các khoản vốn dài hạn thông qua các công cụ tài
chính nhất định.
- Trung gian tài chính: Là những tổ chức làm cầu nối giữa cung và cầu về vốn như
NHTM, công ty tài chính, công ty bảo hiểm, quỹ đầu tư,...
Mỗi khâu tài chính đều bao gồm các quan hệ tài chính nảy sinh trong nội bộ chủ thể
kinh tế và giữa các chủ thế kinh tế với nhau nhằm giúp cho các chủ thể kinh tế đạt được mục
tiêu kinh tế cuối cùng của mình.

22
3. Các khâu của hệ thống tài chính
3.1. Ngân sách nhà nước (NSNN)
Ngân sách nhà nước là hệ thống những mối quan hệ kinh tế giữa Nhà nước và xã hội
phát sinh trong quá trình nhà nước huy động và sử dụng các nguồn tài chính nhằm đảm bảo
yêu cầu thực hiện các chức năng của nhà nước.
Quỹ NSNN được hình thành từ các nguồn tài chính của các khâu tài chính khác trong
hệ thống tài chính, trong đó chủ yếu là các khoản nộp mang tính chất pháp lý bắt buộc như
thuế, phí, lệ phí. Bên cạnh đó, quỹ NSNN còn được hình thành từ các nguồn khác như vay
trong dân cư, vay nợ, viện trợ…
Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, NSNN có vai trò to lớn trong việc điều tiết
kinh tế vĩ mô. Đó là vai trò định hướng phát triển sản xuất, điều tiết thị trường, bình ổn giá
cả, điều chỉnh đời sống xã hội. Để thực hiện được các vai trò đó, NSNN phải có các nguồn
vốn được tập trung từ các tụ điểm vốn thông qua các chính sách thu thích hợp. NSNN thực
hiện các khoản chi cho tiêu dùng thường xuyên và đầu tư kinh tế. Như vậy, hoạt động thu
chi NSNN đã nảy sinh các mối quan hệ kinh tế giữa Nhà nước và các tổ chức kinh tế xã hội.
* Các quan hệ kinh tế giữa Nhà nước và các tổ chức kinh tế xã hội
- Quan hệ kinh tế giữa NSNN và các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh dịch vụ
- Quan hệ kinh tế giữa NSNN và các tổ chức tài chính trung gian
- Quan hệ kinh tế giữa NSNN và các tổ chức xã hội
- Quan hệ kinh tế giữa NSNN và các hộ gia đình
- Quan hệ kinh tế giữa NSNN và thị trường tài chính
- Quan hệ kinh tế giữa NSNN với hoạt động tài chính đối ngoại.
* Thu ngân sách nhà nước
Thu NSNN là việc Nhà nước dùng quyền lực của mình để tập trung một phần nguồn
lực tài chính quốc gia hình thành quỹ NSNN nhằm thoả mãn các nhu cầu của Nhà nước.
Cơ cấu thu NSNN ở Việt Nam, bao gồm:
- Thuế, phí, lệ phí do các tổ chức cá nhân nộp theo quy định của pháp luật
- Các khoản thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nước
- Thu từ các hoạt động sự nghiệp
- Thu hồi quỹ dự trữ Nhà nước
- Tiền sử dụng đất
- Các khoản huy động đóng góp của các tổ chức, cá nhân để đầu tư xây dựng các công
trình cơ sở hạ tầng
- Các khoản đóng góp tự nguyện của các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước
- Các khoản di sản Nhà nước được hưởng
- Thu kết dư ngân sách năm trước

23
- Tiền bán hoặc cho thuê tài sản thuộc sở hữu Nhà nước tại các đơn vị hành chính sự
nghiệp
- Các khoản tiền phạt tịch thu
- Các khoản thu khác theo quy định của pháp luật
- Các khoản viện trợ của các tổ chức, Chính phủ các nước
- Các khoản vay trong nước, vay nước ngoài
* Chi ngân sách nhà nước
Chi NSNN là việc phân phối và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung lớn nhất của Nhà nước
nhằm phục vụ cho việc thực hiện chức năng Nhà nước về mọi mặt theo những nguyên tắc
nhất định.
Ví dụ: Tại Việt Nam để phòng chống dịch bệnh viêm đường hô hấp cấp do chủng
virus Corona mới gây ra (COVID-19); theo thông tin từ Bộ Tài chính thì trước mắt, các bộ,
cơ quan Trung ương, UBND cấp tỉnh, cơ quan, đơn vị tham gia phòng, chống dịch bệnh chủ
động dùng dự toán NSNN năm 2020 đã được giao, sử dụng các nguồn lực sẵn có, tại chỗ để
bảo đảm kịp thời kinh phí thực hiện các hoạt động trên.
Cơ cấu chi NSNN:
- Chi đầu tư phát triển: Chi đầu tư xây dựng, chi đầu tư hỗ trợ vốn cho các doanh
nghiệp nhà nước, chi góp vốn cổ phần, góp vốn liên doanh vào các doanh nghiệp, chi cho
quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia, chi dự trữ Nhà nước.
- Chi thường xuyên: Chi sự nghiệp kinh tế; sự nghiệp giáo dục, đào tạo; sự nghiệp y
tế, sự nghiệp văn hoá, nghệ thuật, thể thao, sự nghiệp xã hội; khoa học công nghệ, quản lý
nhà nước; chi an ninh quốc phòng và trật tự an toàn xã hội.
- Chi trả nợ tiền vay: Trả nợ trong nước và trả nợ nước ngoài.
3.2. Tài chính doanh nghiệp
Tài chính doanh nghiệp là hệ thống những quan hệ kinh tế biểu hiện dưới hình thức
giá trị phát sinh trong quá trình hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ của doanh nghiệp để
phục vụ cho nhu cầu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và các nhu cầu chung của xã
hội.
Trong hệ thống tài chính, tài chính doanh nghiệp được coi như những tế bào có khả
năng tái tạo ra các nguồn tài chính. Do vậy, nó có tác động rất lớn đến đời sống xã hội, đến
sự phát triển hay suy thoái của nền sản xuất. Tài chính doanh nghiệp có quan hệ mật thiết
với tất cả các bộ phận của hệ thống tài chính trong quá trình hình thành và sử dụng vốn cho
các nội dung khác nhau. Mỗi quan hệ đều có những nét khác biệt và có những tác động khác
nhau đến tài chính doanh nghiệp. Chính sự đa dạng này phản ánh mối quan hệ giữa tài chính
doanh nghiệp với các bộ phận khác trong hệ thống tài chính.

24
* Các mối quan hệ tài chính doanh nghiệp: Căn cứ vào hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp có thể có các mối quan hệ tài chính sau:
- Mối quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với NSNN:
Mối quan hệ này trong nền kinh tế thị trường thể hiện ở chỗ Nhà nước góp vốn cổ
phần theo những nguyên tắc và phương thức nhất định để tiến hành sản xuất kinh doanh và
phân chia lợi nhuận. Đồng thời, mối quan hệ tài chính này cũng phản ánh những quan hệ
kinh tế dưới hình thức giá trị phát sinh trong quá trình phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và
thu nhập quốc dân, giữa NSNN với doanh nghiệp được thể hiện thông qua các khoản thuế,
phí, lệ phí mà doanh nghiệp phải nộp vào NSNN theo luật định.
- Mối quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với thị trường tài chính (TTTC)
Các quan hệ này được thể hiện thông qua việc giải quyết các nhu cầu vốn của doanh
nghiệp với TTTC.
 Với thị trường tiền tệ thông qua hệ thống ngân hàng, các doanh nghiệp nhận được
các khoản tiền vay cho các nhu cầu vốn ngắn hạn và ngược lại, các doanh nghiệp phải hoàn
trả vốn vay và tiền lãi trong thời hạn nhất định.
 Với thị trường vốn, thông qua hệ thống các tổ chức tài chính trung gian khác, doanh
nghiệp tìm kiếm các nguồn tài trợ khác để đáp ứng nhu cầu vốn dài hạn bằng cách phát hành
các chứng khoán. Ngược lại, các doanh nghiệp phải hoàn trả mọi khoản lãi cho các chủ thể
tham gia đầu tư vào doanh nghiệp.
Thông qua TTTC các doanh nghiệp cũng có thể đầu tư vốn nhàn rỗi bằng cách ký gửi
vào hệ thống ngân hàng hoặc đầu tư vào chứng khoán của các doanh nghiệp khác.
- Mối quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với các thị trường khác
Các thị trường khác như thị trường hàng hoá, dịch vụ, thị trường đầu tư kinh doanh bất
động sản… Là chủ thể hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp phải sử dụng vốn
để mua sắm các yếu tố sản xuất như: vật tư, máy móc thiết bị, trả công lao động, chi trả các
dịch vụ… Thông qua các thị trường, doanh nghiệp xác định nhu cầu sản phẩm và dịch vụ
mà doanh nghiệp cung ứng để làm cơ sở hoạch định ngân sách đầu tư, kế hoạch sản xuất,
tiếp thị… nhằm thoả mãn nhu cầu của thị trường.
- Mối quan hệ tài chính trong nội bộ doanh nghiệp
Đây là mối quan hệ tài chính khá phức tạp, phản ánh quan hệ tài chính các bộ phận sản
xuất kinh doanh, giữa các bộ phận quản lý, giữa các thành viên trong doanh nghiệp, giữa
quyền sở hữu vốn và quyền sử dụng vốn trong doanh nghiệp.
Tài chính doanh nghiệp có quan hệ với các khâu của hệ thống tài chính như: quan hệ
với tài chính hộ gia đình thông qua trả lương, thưởng, lợi tức cổ phần, trái phiếu; quan hệ
với NSNN thông qua nộp thuế; quan hệ với các tổ chức tín dụng thông qua việc thu hút
nguồn tài chính để tạo vốn hoặc trả nợ gốc và lãi vay… Quan hệ giữa tài chính doanh

25
nghiệp với các khâu tài chính khác có thể là trực tiếp với nhau hoặc gián tiếp thông qua
TTTC.
3.3. Các trung gian tài chính (Các định chế tài chính trung gian)
Thuộc về khâu tài chính trung gian thường có ba loại tổ chức tài chính sau đây:
- Các tổ chức nhận tiền gửi (các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng);
- Các tổ chức nhận gửi tiết kiệm theo hợp đồng (các công ty bảo hiểm);
- Các tổ chức là trung gian đầu tư.
* Các tổ chức nhận tiền gửi
Các tổ chức nhận tiền gửi là những trung gian tài chính nhận tiền gửi từ các cá nhân và
tổ chức cho vay.
- Các ngân hàng thương mại: Các trung gian tài chính này huy động vốn trước hết
bằng cách phát hành tiền gửi. Sau đó họ dùng nguồn vốn này để thực hiện cho vay: cho vay
sản xuất kinh doanh, cho vay tiêu dùng hoặc cho vay đầu tư.
- Các tổ chức tín dụng bao gồm: Các hiệp hội cho vay và tiết kiệm, các liên hiệp tín
dụng, các ngân hàng tiết kiệm tương trợ.
* Các tổ chức nhận gửi tiết kiệm theo hợp đồng (các công ty bảo hiểm)
- Các tổ chức nhận gửi tiết kiệm theo hợp đồng: Các công ty bảo hiểm là những trung
gian tài chính; họ thu nhận vốn một cách có định kỳ trên cơ sở hợp đồng và có xu hướng
đầu tư nguồn vốn vào các chứng khoán dài hạn như: trái phiếu Chính phủ, trái phiếu công
ty, các cổ phần và các khoản vay thế chấp.
- Các công ty bảo hiểm sinh mạng: Các công ty bảo hiểm sinh mạng đảm bảo cho dân
chúng đề phòng các rủi ro tài chính.
- Quỹ bảo hiểm xã hội, quỹ hưu trí: Các tổ chức tài chính này cung cấp thu nhập hưu
trí dưới dạng các món lương hưu hàng năm; tiền nhận được từ sự đóng góp của những
người sử dụng lao động.
* Các tổ chức là trung gian đầu tư
Nhóm các trung gian tài chính này bao gồm: các công ty tài chính, các công ty chứng
khoán, công ty đầu tư kinh doanh bất động sản.
3.4. Tài chính hộ gia đình và các tổ chức xã hội
Các hộ gia đình và các tổ chức xã hội cũng là một khâu trong hệ thống tài chính, có
đặc trưng cơ bản là gắn liền với các quỹ tiền tệ sử dụng chủ yếu cho mục đích tiêu dùng.
Cá nhân và các hộ gia đình là chủ thể tham gia vào quá trình phân phối của tài chính
trên phạm vi rộng lớn, gắn liền với việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ của cá nhân hay
gia đình. Quỹ tiền tệ của các hộ gia đình được hình thành từ các khoản thu nhập thường
xuyên hoặc không thường xuyên của các thành viên trong gia đình và được sử dụng chủ yếu
để đáp ứng nhu cầu sinh hoạt của hộ gia đình. Trong điều kiện hộ gia đình có nguồn thu
nhập lớn, ngoài việc chi tiêu thường xuyên có thể còn một phần tích luỹ có thể được dùng

26
tham gia vào các hoạt động đầu tư trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua thị trường tài chính.
Đây là một tụ điểm vốn quan trọng trong hệ thống tài chính. Hoạt động tài chính của các
nước có nền kinh tế phát triển và hoạt động tài chính ở nước ta trong những năm gần đây chỉ
ra rằng: nếu có những biện pháp thích hợp, chúng ta có thể huy động được một khối lượng
vốn đáng kể từ các hộ gia đình để phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế, đồng thời còn
góp phần to lớn vào việc thực hiện các chính sách về định hướng tích luỹ và tiêu dùng của
Nhà nước.
Tuy nhiên cũng nhận thấy rằng, tính chất phân tán và đa dạng là đặc điểm nổi bật của
tài chính hộ gia đình. Nguồn lực tài chính không quy tụ vào những tụ điểm lớn mà phân bố
rải rác không đồng đều trong hàng triệu hộ gia đình và cần có những biện pháp quan tâm
thích đáng.
Các tổ chức xã hội được đề cập bao gồm tất cả các tổ chức đoàn thể, tôn giáo, hội quần
chúng,…tồn tại và hoạt động một cách hợp pháp, được pháp luật thừa nhận. Đây cũng là
những chủ thể phân phối tài chính, gắn liền với việc hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ
của các tổ chức này. Nguồn hình thành quỹ tiền tệ từ sự đóng góp của các thành viên trong
tổ chức, từ các khoản quyên góp, ủng hộ của các tổ chức cá nhân trong nước và ngoài nước.
Mục đích sử dụng của các quỹ là đảm bảo hoạt động của các tổ chức trong trường hợp chưa
sử dụng có thể dùng tham gia thị trường tài chính như: gửi các tổ chức tín dụng, đầu tư vào
các loại chứng khoán hoặc tham gia trực tiếp vào các hoạt động sản xuất kinh doanh bằng
việc góp vốn. Khi đó nguồn tài chính từ các tổ chức này vận động ở các khâu tài chính
trung gian hay tài chính doanh nghiệp.
Câu hỏi ôn tập

Câu 1: Nêu bản chất chức năng của hệ thống tài chính? Lấy ví dụ minh họa?
Câu 2: Trình bày nội dung và vẽ sơ đồ cấu trúc hệ thống tài chính?
Câu 3: Vai trò của hệ thống tài chính trong quá trình phát triển nền kinh tế xã hội của các
quốc gia?
Câu 4: Cấu trúc và mối quan hệ giữa các khâu cấu thành hệ thống tài chính?
Câu 5: Trình bày bản chất của ngân sách hà nước?
Câu 6: Cho biết cơ cấu thu ngân sách hà nước ở Việt Nam?
Câu 7: Chi ngân sách nhà nước là gì? Cơ cấu chi ngân sách nhà nước? Cho ví dụ?
Câu 8: Định nghĩa tài chính doanh nghiệp? Trình bày các mối quan hệ tài chính doanh
nghiệp căn cứ theo hoạt động sản xuất kinh doanh?

27
CHƯƠNG 3
TỔNG QUAN THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH

Giới thiệu: Những kiến thức cơ bản về thị trường tài chính, kết cấu thị trường tài chính theo
các tiêu thức nhất định; khái niệm và các công cụ trên thị trường vốn và thị trường tiền tệ.
Giới thiệu quá trình phát triển của thị trường tài chính Việt Nam.
Mục tiêu:
- Phân tích được bản chất và vai trò của thị trường tài chính.
- Trình bày được kết cấu thị trường tài chính.
- Phân biệt giữa thị trường tiền tệ và thị trường vốn.
- Quá trình phát triển của thị trường tài chính Việt Nam.
Nội dung chính:
1. Bản chất, chức năng và vai trò của thị trường tài chính
1.1. Bản chất của thị trường tài chính
Thị trường tài chính ra đời và phát triển xuất phát từ yêu cầu khách quan của sự phát
triển kinh tế trong nền kinh tế thị trường. Khi nền kinh tế phát triển nhu cầu về vốn đầu tư
tăng lên. Nhu cầu về vốn đầu tư càng lớn đòi hỏi các hình thức huy động vốn cho đầu tư
càng mở rộng. Trong thực tế các nguồn vốn có thể sử dụng để đầu tư thường phân tán và có
quy mô nhỏ trong khi đó vốn cho đầu tư cần phải tập trung và có quy mô lớn. Nhu cầu tập
trung vốn quy mô lớn chính là tiền đề cho sự xuất hiện thị trường tài chính.
Thị trường tài chính là nơi diễn ra việc trao đổi các công cụ tài chính, là nơi gặp gỡ
giữa cung và cầu về vốn trong xã hội. Thông thường có hai phương thức lưu chuyển vốn
trên thị trường đó là phương thức chuyển giao vốn trực tiếp và phương thức chuyển giao
vốn gián tiếp.
Phương thức chuyển giao vốn trực tiếp được thực hiện thông qua việc mua bán vốn
trực tiếp giữa người tiết kiệm với người đầu tư cuối cùng. Còn phương thức chuyển giao
vốn gián tiếp được thực hiện thông qua các trung gian tài chính.
Như vậy, thị trường tài chính là nơi diễn ra các hoạt động mua bán, chuyển nhượng
quyền sử dụng các khoản vốn ngắn hạn hoặc dài hạn thông qua các công cụ tài chính nhất
định.
Thị trường tài chính được kết hợp bởi các yếu tố:
- Đối tượng của thị trường tài chính: nguồn cung cầu vốn trong xã hội của các chủ thể
kinh tế.
- Công cụ tham gia trên thị trường tài chính: các chứng từ có giá như công trái do nhà
nước phát hành, chứng khoán do doanh nghiệp phát hành, các loại trái phiếu do các tổ chức
tài chính phát hành, các dạng kỳ phiếu…

28
- Chủ thể tham gia trên thị trường tài chính là những pháp nhân hay thể nhân đại diện
cho những nguồn cung cầu về vốn tham gia trên thị trường tài chính, chính phủ, các công ty,
các hộ gia đình, các trung gian tài chính…
1.2. Chức năng và vai trò của thị trường tài chính
* Chức năng của thị trường tài chính
Thị trường tài chính là bộ phận quan trọng bậc nhất, chi phối toàn bộ hoạt động của
nền kinh tế hàng hoá. Thị trường tài chính phát triển góp phần thúc đẩy mạnh mẽ sự phát
triển kinh tế xã hội của một quốc gia.
Thị trường tài chính có ba chức năng kinh tế quan trọng:
- Là nơi gặp gỡ giữa người mua và người bán để quyết định giá cả các loại tài sản tài
chính
- Cung cấp cho các nhà đầu tư khả năng giải quyết vấn đề thanh khoản trong trường
hợp họ cần hoặc muốn bán tài sản tài chính.
- Là nơi gặp gỡ giữa những người mua và người bán, nhờ vậy mà cắt giảm được các
chi phí về thông tin nghiên cứu tìm hiểu thị trường.
* Vai trò của thị trường tài chính
- Thị trường tài chính có vai trò quan trọng trong việc thu hút, huy động các nguồn tài
chính nhàn rỗi trong xã hội góp phần tài trợ cho nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
- Thị trường tài chính thúc đẩy nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn tài chính trong xã
hội, tạo điều kiện thuận lợi dễ dàng cho việc luân chuyển vốn và di chuyển vốn từ lĩnh vực
kinh doanh kém hiệu quả sang lĩnh vực kinh doanh có hiệu quả.
- Thị trường tài chính đóng tạo điều kiện thuận lợi cho những hoạt động điều tiết vĩ mô
của Nhà nước vào nền kinh tế.
- Thị trường tài chính góp phần tạo điều kiện thuận lợi thu hút vốn đầu tư nước ngoài,
tạo ra kênh thông tin quan trọng hỗ trợ cho công tác giám đốc của các hoạt động tài chính.
2. Kết cấu thị trường tài chính
2.1. Theo tiêu thức thời hạn công cụ thị trường tài chính
* Thị trường tiền tệ: Là thị trường tài chính trong đó chỉ mua bán các công cụ tài
chính ngắn hạn.
Thị trường tiền tệ được biết là một trong những thị trường hấp dẫn nhất, tạo điều kiện
cho việc chuyển giao các nguồn vốn ngắn hạn từ các đại lý với nguồn vốn dư thừa (tổng
công ty, các tổ chức tài chính, cá nhân, chính phủ) tới những người tham gia trên thị trường
mà thiếu vốn có thể nhận được với nhu cầu trong ngắn hạn. Thị trường tiền tệ là thị trường
mà tất cả mọi người có thể trao đổi, mua bán… các loại ngoại tệ khác nhau .

* Thị trường vốn: Là thị trường phát hành và mua bán lại các công cụ tài chính (các
công cụ nợ và các công cụ vốn) có thời hạn trên một năm. Thị trường vốn bao gồm thị

29
trường vay nợ dài hạn (thị trường tín dụng) và thị trường chứng khoán (thị trường cổ phiếu
và thị trường trái phiếu).
Các chủ thể chính tham gia thị trường vốn là các ngân hàng thương mại, tổ chức tài
chính phi ngân hàng, chính phủ, các doanh nghiệp, cá nhân, các nhà môi giới chứng khoán.
Hàng hoá được giao dịch trên thị trường vốn bao gồm cổ phiếu, trái phiếu chính phủ, trái
phiếu công ty, khế ước thế chấp và tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng. Các công cụ
của thị trường vốn thường có độ rủi ro lớn hơn và có mức lợi tức cao hơn các công cụ của
thị trường tiền tệ.
2.2. Theo tiêu thức luân chuyển vốn
* Thị trường nợ: Là thị trường trong đó người cần vốn huy động bằng cách phát hành
các công cụ vay nợ hay thực hiện một món vay thế chấp. Người vay nợ thanh toán cho
người nắm giữ các công cụ nợ một khoản tiền cố định trong những khoảng thời gian đều
đặn (thanh toán lãi suất tiền gửi) cho tới một thời điểm quy định trước (ngày đáo hạn) là lúc
đợt thanh toán cuối cùng được thực hiện. Kỳ hạn thanh toán của một công cụ nợ là thời gian
tính tới ngày kết thúc của công cụ vay nợ. Công cụ vay nợ có thể có kỳ hạn thanh toán ngắn
hạn, trung hạn và dài hạn.
* Thị trường cổ phiếu: Là thị trường trong đó người cần vốn huy động vốn bằng cách
phát hành các cổ phiếu. Người nắm giữ cổ phiếu gọi là cổ đông. Các cổ đông thường được
thanh toán cổ tức theo định kỳ. Các cổ phiếu không có thời gian đáo hạn và được coi là các
chứng khoán dài hạn.
2.3. Theo tiêu thức tổ chức thị trường
* Thị trường cấp một (thị trường sơ cấp): Là thị trường tài chính trong đó diễn ra
việc mua bán chứng khoán lần đầu phát hành hay chứng khoán mới. Thị trường này thu hút
các khoản tiết kiệm của các hộ gia đình và các khoản vốn nhàn rỗi của doanh nghiệp, chính
phủ thành các khoản đầu tư vốn. Điều này có nghĩa là các chủ thể phát hành thu được tiền từ
việc bán các công cụ tài chính để tài trợ cho việc đầu tư ngắn hạn hoặc dài hạn. Việc mua
bán chứng khoán trên thị trường cấp một thường được tiến hành thông qua trung gian đó là
ngân hàng.
* Thị trường cấp hai (thị trường thứ cấp): Là thị trường mua bán lại những chứng
khoán đã phát hành trên thị trường sơ cấp (chứng khoán cũ).
Khi một cá nhân mua chứng khoán ở thị trường cấp hai thì cá nhân - người vừa bán
chứng khoán, nhận được tiền bán chứng khoán nhưng công ty - người đã phát hành chứng
khoán lần đầu tiên không thu được tiền nữa. Một công ty thu được vốn chỉ khi chứng khoán
đó được bán lần đầu tiên trên thị trường cấp một. Hay nói cách thị trường này chỉ liên quan
đến việc giải quyết quyền lợi của những người tham gia mua bán và làm thay đổi quyền sở
hữu chứng khoán chứ không làm tăng vốn đầu tư cho nền kinh tế.

30
3. Thị trường tiền tệ và thị trường vốn
3.1. Thị trường tiền tệ
3.1.1. Khái niệm
Thị trường tiền tệ là thị trường mua bán các chứng khoán nợ ngắn hạn (có thời hạn
đáo hạn dưới một năm).
Những người đi vay hay người phát hành chứng khoán trên thị trường này là những
người đang thiếu hụt tạm thời tiền tệ để đáp ứng cho nhu cầu thanh toán. Thông qua các
giao dịch mua bán quyền sử dụng vốn vay ngắn hạn, thị trường tiền tệ đã cung ứng một
lượng tiền tệ cho họ để thoả mãn nhu cầu thanh toán. Cũng chính vì thế mà nó được gọi là
thị trường tiền tệ.
Trên thị trường tiền tệ, do khối lượng giao dịch chứng khoán thường có quy mô lớn
nên các nhà đầu tư (cho vay) thường là các ngân hàng, ngoài ra còn có các công ty tài chính
hoặc phi tài chính, còn những người vay vốn thường là chính phủ, các công ty và ngân hàng.
3.1.2. Các công cụ trên thị trường tiền tệ
- Tín phiếu kho bạc:
Là công cụ vay nợ ngắn hạn của Chính phủ do Kho bạc phát hành để bù đắp cho
những thiếu hụt tạm thời của NSNN.
Đây là một trong những công cụ quan trọng để thực hiện chính sách tiền tệ. Tín phiếu
kho bạc có độ an toàn cao, khối lượng phát hành lớn, có tính thanh khoản cao.
- Thương phiếu:
Là chứng chỉ có giá ghi nhận lệnh yêu cầu thanh toán hay cam kết thanh toán không
điều kiện một số tiền xác định trong một khoảng thời gian nhất định.
Thương phiếu có 2 loại:
+ Hối phiếu: Là chứng chỉ có giá do người ký phát lập, yêu cầu người bị ký phát phải
thanh toán không điều kiện một số tiền xác định khi có yêu cầu hoặc vào một thời gian nhất
định trong tương lai cho người thụ hưởng. Hối phiếu thực chất là một phiếu ghi nợ do chủ
nợ (người ký phát) lập ra để ra lệnh cho người thiếu nợ (người bị ký phát) trả một số tiền
nhất định cho người thụ hưởng. Người thụ hưởng có thể là chủ nợ hoặc một người nào đó
do chủ nợ chỉ định.
+ Lệnh phiếu: Là chứng chỉ có giá do người phát hành lập, cam kết thanh toán không
điều kiện một số tiền xác định khi có yêu cầu hoặc vào một thời gian nhất định trong tương
lai cho người thụ hưởng. Lệnh phiếu thực chất là một phiếu nhận nợ do người thiếu nợ
(người phát hành) lập ra để cam kết trả một số tiền nhất định cho người thụ hưởng khi có
yêu cầu hoặc vào một thời gian nhất định.
Thương phiếu có đặc điểm:
+ Mang tính trừu tượng: Không ghi rõ nguyên nhân dẫn đến quan hệ tín dụng, chỉ nêu
các yếu tố như tổng số tiền nợ, người được hưởng, người nợ và thời hạn thanh toán.

31
+ Mang tính bắt buộc: Nghĩa vụ trả nợ theo thương phiếu là bắt buộc, được điều chỉnh
theo pháp luật.
+ Mang tính thanh khoản: Trong thời gian hiệu lực, thương phiếu được sử dụng như
phương tiện thanh toán. Người sở hữu thương phiếu có thể chuyển thành phương tiện lưu
thông như tiền bằng cách ký hậu chuyển nhượng, bán ra thị trường tiền tệ, chiết khấu tại các
ngân hàng.
- Chứng chỉ tiền gửi và chứng chỉ tiền gửi có thể chuyển nhượng được
Chứng chỉ tiền gửi là một công cụ nợ do các ngân hàng phát hành, cam kết trả lãi
định kỳ cho khoản tiền gửi và sẽ hoàn trả vốn gốc (được gọi là mệnh giá của chứng chỉ) cho
người gửi tiền khi đến ngày đáo hạn.
Lúc đầu, các chứng chỉ tiền gửi không được phép bán lại và nếu người gửi tiền rút vốn
trước hạn thì sẽ phải chịu phạt. Nhưng về sau để tăng tính hấp dẫn của các chứng chỉ tiền
gửi này, các ngân hàng bắt đầu cho phép các chứng chỉ tiền gửi có mệnh giá lớn được phép
bán lại trước hạn. Khi đó chúng được gọi là các chứng chỉ tiền gửi có thể chuyển nhượng.
Ví dụ: Tại Mỹ, chứng chỉ tiền có mệnh giá trên 100.000 USD được phép bán lại trước
hạn (với một mức giá khấu trừ) và có thể bán cho chính ngân hàng phát hành.
- Chấp phiếu ngân hàng
Chấp phiếu ngân hàng là các hối phiếu kỳ hạn do các công ty ký phát và được ngân
hàng đảm bảo thanh toán bằng cách đóng dấu “đã chấp nhận” lên tờ hối phiếu.
Khách hàng gửi cho ngân hàng của mình lệnh thanh toán một số tiền vào một ngày
trong tương lai, khi ngân hàng ký chấp nhận thanh toán vào tờ lệnh thì có nghĩa là ngân
hàng nhận trách nhiệm thanh toán cho người cầm giấy chấp nhận đó. Lúc này, giấy chấp
nhận có thể mua bán ở các thị trường thứ cấp như các chứng chỉ khác của ngân hàng.
- Các hợp đồng mua lại:
Hợp đồng mua lại là một hợp đồng trong đó ngân hàng bán một số lượng tín phiếu
kho bạc mà ngân hàng đang nắm giữ, kèm theo điều khoản mua lại số tín phiếu đó sau một
vài ngày hay một vài tuần với mức giá cao hơn.
Là các hợp đồng mà nhà kinh doanh cam kết sẽ mua lại với mức giá cao hơn vào thời
gian sau những chứng khoán mà họ đã bán cho người mua.
3.2. Thị trường vốn
3.2.1. Khái niệm
Thị trường vốn là thị trường mua bán các chứng khoán nợ dài hạn (có thời hạn đáo
hạn trên một năm) và các chứng khoán vốn.
Do các chứng khoán mua bán trên thị trường vốn có thời hạn dài nên các nhà phát
hành có thể sử dụng vốn thu được để đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Vì vậy, thị trường vốn
được coi là thị trường cung ứng vốn đầu tư cho nền kinh tế.
3.2.2. Các công cụ trên thị trường tiền tệ

32
- Trái phiếu
Trái phiếu là một chứng thư xác nhận nghĩa vụ trả những khoản lãi theo định kỳ và
vốn gốc đến hạn của tổ chức phát hành.
Trái phiếu có bản chất là một công cụ nợ, được phản ánh qua đặc điểm sau:
 Nhà phát hành trái phiếu phải có nghĩa vụ trả lãi vay cũng như hoàn trả vốn gốc cho
trái chủ khi trái phiếu đáo hạn.
 Do có bản chất là một khoản nợ, nên nghĩa vụ trả nợ của nhà phát hành trái phiếu
phải được đảm bảo bằng tài sản cầm cố, thế chấp hoặc bằng uy tín của nhà phát hành.
 Người sở hữu trái phiếu không được quyền tham gia vào các quyết định của công ty
như các cổ đông.
- Cổ phiếu
Cổ phiếu là một chứng thư hay bút toán ghi sổ xác nhận trái quyền (quyền hưởng lợi)
về vốn đối với thu nhập và tài sản ròng của một công ty cổ phần.
Cổ phiếu có bản chất là công cụ góp vốn và chỉ do các công ty cổ phần phát hành. Khi
cần huy động vốn, công ty cổ phần chia số vốn cần huy động thành nhiều phần nhỏ bằng
nhau, gọi là các cổ phần; người mua những cổ phần này được gọi là cổ đông. Với số cổ
phần mua, các cổ đông được cấp một giấy chứng nhận sở hữu gọi là cổ phiếu.
Vốn mà công ty cổ phần huy động được từ việc phát hành cổ phiếu được xem là vốn
thuộc sở hữu của công ty. Những cổ đông khi mua các cổ phần của công ty đã thực hiện
việc góp vốn để công ty kinh doanh và do vậy trở thành người đồng sở hữu công ty. Tỷ lệ sở
hữu công ty phụ thuộc vào số cổ phần mà cổ đông nắm giữ.
Là chủ sở hữu công ty, các cổ đông có quyền cơ bản sau đây:
 Quyền tham gia quản lý công ty, những người nắm giữ càng nhiều cổ phần của
công ty thì càng có nhiều khả năng trở thành thành viên của hội đồng quản trị.
 Quyền sở hữu tài sản ròng của công ty: Các cổ đông sở hữu công ty theo tỷ lệ cổ
phần nắm giữ; do vậy, khi tài sản ròng của công ty tăng lên do làm ăn có lãi, giá trị các cổ
phần mà cổ đông nắm giữ cũng tăng lên theo.
 Quyền tham gia chia lợi nhuận ròng: Cổ đông được quyền hưởng một phần lợi
nhuận ròng của công ty theo tỷ lệ với số cổ phần mà cổ đông đang sở hữu. Phần lãi trả cho
mỗi cổ phần được gọi là cổ tức.
- Các khoản vay thế chấp
Vay thế chấp là khoản tiền cho các cá nhân hoặc công ty vay đầu tư (mua hoặc xây
nhà) vào đất hoặc bất động sản khác, các bất động sản và đất đó sau đó lại trở thành khoản
thế chấp để đảm bảo cho chính các khoản vay.
Ví dụ: Ở các nước phát triển, thị trường các khoản vay thế chấp có quy mô rất lớn, đặc
biệt thị trường các khoản vay thế chấp để mua nhà ở. Tại Mỹ, thị trường các khoản vay thế

33
chấp là thị trường nợ lớn nhất, trong đó các khoản vay thế chấp để mua nhà gấp bốn lần các
khoản vay thế chấp thương mại và nông trại.
4. Quá trình phát triển của thị trường tài chính Việt Nam
4.1. Quá trình phát triển của thị trường tài chính ở Việt Nam
Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến nay, Việt Nam được xem là một trong
những quốc gia chuyển đổi thành công và sau hơn 30 năm đổi mới đã đạt được nhiều thành
tựu quan trọng trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó
có TTTC. Đến nay, TTTC Việt Nam đã được hình thành về cơ bản và có thể khẳng định sự
phát triển của TTTC là động lực quan trọng góp phần phát triển các loại thị trường khác
trong nền kinh tế như thị trường hàng hóa, dịch vụ; thị trường sức lao động; thị trường bất
động sản; thị trường khoa học, công nghệ,.. Thực tiễn quá trình hình thành các thị trường
trên thế giới và ở nước ta cho thấy TTTC là một trong những yếu tố cấu thành không thể
thiếu được trong nền kinh tế thị trường, có vai trò đặc biệt quan trọng đối với việc huy động
tiết kiệm và phân bổ các nguồn vốn. TTTC phát triển lành mạnh là nhân tố thiết yếu đảm
bảo ổn định kinh tế vĩ mô, nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế và thúc đẩy kinh tế
phát triển bền vững.
* Một số đặc điểm của TTTC Việt Nam:
- TTTC chưa phát triển đồng bộ về cơ cấu, chưa đồng đều về trình độ giữa các bộ phận
hợp thành
- Quy mô thị trường còn nhỏ, các hàng hoá và dịch vụ tài chính còn nghèo nàn, đơn
giản và tính chuyên nghiệp chưa cao.
- TTTC hoạt động chưa mang tính thị trường cao và chưa gắn đồng bộ với các thị
trường khác trong nền kinh tế.
- TTTC đang từng bước được xây dựng, củng cố và phát triển phù hợp với quá trình
chuyển đổi cơ chế và đáp ứng các cam kết hội nhập và thông lệ quốc tế.
4.2. Các công cụ thị trường tài chính Việt Nam
Do TTTC chưa phát triển nên các công cụ của TTTC Việt Nam còn chưa đa dạng, hạn
chế về số lượng. Hiện nay, chỉ có một số công cụ chủ yếu như: trái phiếu kho bạc; trái phiếu
công trình; kỳ phiếu ngân hàng; tiền gửi tiết kiệm; cổ phiếu công ty.
- Trái phiếu kho bạc (hay còn gọi là tín phiếu kho bạc): Là một loại trái phiếu do
Nhà nước phát hành với lãi suất cố định và thời hạn ấn định trước, nhằm huy động vốn để
bổ sung ngân sách nhà nước. Trái phiếu kho bạc phát hành nhằm bù đắp thâm hụt ngân sách
và giải quyết thiếu hụt tạm thời (khi giữa thu chi không ăn khớp về mặt thời gian). Như vậy
ngay cả khi bội thu ngân sách vẫn cần phát hành trái phiếu kho bạc. Trên TTTC Việt nam,
trái phiếu kho bạc là công cụ phát hành rộng rãi và phổ biến nhất và là công cụ an toàn nhất
(được xem như không có rủi ro khi thanh toán). Trái phiếu kho bạc chủ yếu do các tổ chức

34
tài chính tín dụng mua thông qua hình thức đấu thầu. Lãi suất trái phiếu kho bạc thông
thường cao hơn lãi suất tiền gửi ngân hàng cùng kỳ hạn.
- Trái phiếu đầu tư (hay trái phiếu công trình): Là một loại trái phiếu được phát hành
để huy động vốn sử dụng vào các công trình đầu tư của Chính phủ hoặc của các tỉnh và
thành phố. Trái phiếu công trình chủ yếu được bán lẻ qua hệ thống Kho bạc Nhà nước.
- Trái phiếu công ty: Cho đến nay, trái phiếu công ty được phát hành trên thị trường
trái phiếu Việt Nam vẫn còn rất ít. Các doanh nghiệp nhà nước mặc dù có nhu cầu về vốn
lớn song ít phát hành trái phiếu để huy động vốn dài hạn.
Ví dụ: Một số tổ chức tài chính đã phát hành trái phiếu ra công chúng như Công ty Tài
chính quốc tế Việt nam phát hành 20 tỷ VNĐ trái phiếu thông qua Ngân hàng công thương
Việt nam nhưng kỹ thuật phát hành còn hạn chế nên các trái phiếu này không được chuẩn
hoá, chỉ giống như kỳ phiếu có kỳ hạn và không được giao dịch trên thị trường chứng
khoán.
- Kỳ phiếu ngân hàng: Để huy động được khối lượng vốn lớn trong thời gian ngắn, lãi
suất thông thường cao hơn lãi suất tiền gửi tiết kiệm, trả lãi trước hoặc sau. Bởi vậy, nếu so
sánh với trái phiếu kho bạc thì loại kỳ phiếu này có mức độ rủi ro cao hơn, do có thể các
ngân hàng này không có khả năng thanh toán.
Ví dụ: Trên thực tế, để phục vụ mục đích đầu tư trung hạn cho các chương trình mục
tiêu, Chính phủ chỉ định các ngân hàng, chủ yếu là ngân hàng thương mại quốc doanh phát
hành kỳ phiếu ngân hàng để thu hút vốn. Tuy nhiên thực tế cho thấy các ngân hàng này là
các ngân hàng của Chính phủ, do vậy việc mất khả năng thanh toán của ngân hàng rất khó
có thể xảy ra.
- Tiền gửi ngân hàng: Do cơ chế tự chủ trong tài chính và độc lập trong kinh doanh,
các tổ chức tín dụng không ngừng đa dạng hoá các hình thức huy động vốn như tiền gửi
không kỳ hạn, có hạn, gửi tiết kiệm. Lãi suất huy động do các ngân hàng tự quyết định căn
cứ quy định theo từng thời kỳ của Ngân hàng nhà nước. Các ngân hàng cổ phần, ngoài quốc
doanh, thông thường có lãi suất cao hơn và mức độ rủi ro cũng cao hơn so với các ngân
hàng thương mại quốc doanh. Tuy nhiên kỳ hạn huy động tiền gửi còn hạn chế, chủ yếu
dưới một năm. Lãi suất huy động ngoại tệ thấp hơn nhiều so với lãi suất huy động đồng nội
tệ.
- Cổ phiếu: Hiện nay vẫn chưa phổ biến ở Việt nam, do số lượng công ty cổ phần còn
ít. Thị trường chứng khoán mới được hình thành chưa phát triển, các giao dịch còn ít. Người
mua cổ phiếu có ý định đầu tư dài nhằm kiếm lợi từ cổ tức chứ chưa thực sự có ý định mua
bán trao đổi các cổ phiếu đó.
- Các công cụ tài chính khác: Ngoài một số công cụ tài chính kể trên, hiện nay một số
ngành đã phát hành trái phiếu dài hạn trong nước và nước ngoài để thu hút vốn.

35
4.3. Điều kiện phát triển thị trường tài chính Việt Nam
- Phải có một cơ chế lãi suất linh hoạt và chịu sự điều tiết của thị trường. Trên TTTC,
lãi suất là phương tiện quan trọng nhất điều tiết cung cầu tiền vốn. Cơ chế lãi suất linh hoạt
nhạy bén sẽ cung cấp cho người vay những thông tin tài chính kịp thời, chính xác để từ đó
có những quyết sách phù hợp với thực tế, thúc đẩy lưu thông tiền vốn và tăng cạnh tranh thị
trường. Trái lại, khi cơ chế lãi suất cứng nhắc sẽ làm mất tính linh hoạt trên thị trường và
không kích thích sự phát triển các công cụ tài chính, hạn chế cung cầu vốn…
Ví dụ: Trên thực tế chính sách lãi suất của Việt nam đang dần được nới lỏng, tăng
quyền tự chủ cho các tổ chức tài chính, tín dụng.
- Phải có các công cụ tài chính phong phú, đa dạng. Số lượng và hình thức các công cụ
này sẽ quyết định phạm vi giao dịch và quy mô TTTC. Với sự ra đời của thị trường chứng
khoán thì các công cụ tài chính sẽ dần được bổ sung và phát triển hoàn thiện.
- Xây dựng và đa dạng hoá các tổ chức tài chính ngân hàng, các công ty tài chính…
những chủ thể chính tham gia thị trường trong môi trường cạnh tranh. Việc xây dựng và
phát triển các loại hình tổ chức tài chính sẽ khuyến khích sự đa dạng về cạnh tranh, giúp đẩy
nhanh quá trình luân chuyển vốn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
- Phải xây dựng và phát triển mạng lưới thông tin tài chính minh bạch.
- Kinh tế xã hội phải tương đối ổn định để các nhà đầu tư yên tâm và phải có một hệ
thống pháp luật toàn diện, bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư.

36
Câu hỏi ôn tập

Câu 1: Trình bày bản chất và chức năng của thị trường tài chính?
Câu 2: Trình bày vai trò của thị trường tài chính? Cho ví dụ minh hoạ?
Câu 3: Khi nghiên cứu kết cấu thị trường tài chính chúng ta cần xem xét, nghiên cứu theo
các tiêu thức nào? Lấy ví dụ minh họa?
Câu 4: Trình bày các bộ phận chủ yếu của thị trường tiền tệ? Lấy ví dụ doanh nghiệp có thể
tham gia vào bộ phận nào của thị trường tiền tệ?
Câu 5: Trình bày các bộ phận chủ yếu của thị trường vốn? Lấy ví dụ minh họa?
Câu 6: Nêu các đặc điểm của thị trường tài chính Việt Nam? Lấy ví dụ minh họa?

37
CHƯƠNG 4
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÝ THUYẾT TIỀN TỆ

Giới thiệu: Những kiến thức cơ bản về lạm phát, các loại lạm phát, nguyên nhân của lạm
phát, hậu quả và các biện pháp khắc phục lạm phát. Nội dung cơ bản về bản chất và chức
năng của ngân hàng trung ương.
Mục tiêu:
- Thấy được những luận điểm khác nhau về lạm phát, nguyên nhân, tác động và các
giải pháp hạn chế và phòng chống lạm phát.
- Trình bày được bản chất và chức năng của ngân hàng trung ương.
- Trình bày được lý luận và cơ chế phát hành tiền của ngân hàng trung ương.
- Trình bày được vai trò và chức năng của ngân hàng đối với nền kinh tế.
Nội dung chính:
1. Lạm phát
1.1. Khái niệm và các loại lạm phát
* Khái niệm :
Lạm phát là một hiện tượng đi liền với nền kinh tế thị trường. Có nhiều nhà kinh tế đã
đi tìm một định nghĩa đúng cho thuật ngữ này nhưng nói chung chưa có sự thống nhất hoàn
toàn. Trong khi đó lạm phát luôn diễn ra và tác động đến nhiều mặt đối với nền kinh tế các
nước bao gồm các nước phát triển và đang phát triển. Không chỉ dừng lại ở việc không
thống nhất được với nhau một định nghĩa đúng về lạm phát mà còn không thống nhất được
với nhau những tác động do lạm phát mang lại.
Có thể thấy lạm phát là sự lớn lên quá mức của tiền tệ trong thực thế so với nhu cầu
cần thiết. Có hai nhóm nguyên nhân tạo áp lực lạm phát là :
- Các nguyên nhân là cho khối tiền thực tế trong lưu thông tăng;
- Các nguyên nhân làm cho khối tiền cần thiết trong lưu thông giảm.
Tuy nhiên, vẫn tồn tại những quan điểm sai về lạm phát như: Lạm phát là việc phát
hành tiền quá mức dẫn đến biện pháp cơ bản là kiềm chế lạm phát bằng cách hạn chế phát
hành tiền. Biện pháp này kém hiệu quả vì trong thực tế, lạm phát vẫn xảy ra trong điều kiện
nhà nước không phát hành thêm tiền hoặc thậm chí rút bớt tiền khỏi lưu thông.
Như vậy, lạm phát là hiện tượng khi khối tiền thực tế trong lưu thông vượt quá nhu
cầu cần thiết làm cho đồng tiền bị mất giá, giá cả hầu hết các loại hàng hoá tăng lên.
* Các loại lạm phát
Căn cứ vào tỷ lệ lạm phát, các nhà kinh tế chia lạm phát thành 3 loại khác nhau: lạm
phát vừa phải, lạm phát phi mã và siêu lạm phát.
- Lạm phát vừa phải
Lạm phát vừa phải là loại lạm phát một con số, biểu hiện mức tăng giá ở tỷ lệ thấp,
dưới 10% trong một năm. Với loại lạm phát này, mức giá cả tăng chậm, được giới hạn ở
38
mức một con số hàng năm. Với lạm phát vừa phải, giá cả tăng chậm đến nỗi người ta không
cảm nhận là đang có lạm phát và do đó được coi như là giá cả tương đối ổn định. Trong
trường hợp này, dân chúng vẫn còn tin vào giá trị đồng tiền.
- Lạm phát phi mã
Lạm phát phi mã là loại lạm phát hai hay ba con số trong vòng một năm. Với mức lạm
phát này, mức độ tăng giá gây tác hại nghiêm trọng đối với nền kinh tế, thể hiện bằng đồng
tiền mất giá một cách nhanh chóng. Trong trường hợp này người dân tránh giữ tiền mặt mà
muốn bảo tồn của cải dưới dạng phi tiền tệ.
- Siêu lạm phát
Siêu lạm phát là loại lạm phát với tốc độ tăng giá trên ba con số trong vòng một năm.
Đồng tiền bị mất giá đến mức chóng mặt. Dân chúng chìm ngập trong khối tiền để tìm kiếm
một chút ít hàng hóa vì hàng hóa đều hết sức khan hiếm. Trong trường hợp này, chức năng
quan trọng đầu tiên của tiền là làm phương tiện trao đổi bị triệt tiêu. Tiền có sẵn nhưng
không mua được hàng hóa vì không ai muốn bán hàng hóa để đổi lấy những đồng tiền bị
mất giá quá mức.
1.2. Nguyên nhân của lạm phát
Lạm phát xuất phát từ những nguyên nhân chủ yếu sau:
- Nền kinh tế quốc dân bị mất cân đối, sản xuất sút kém, ngân sách quốc gia bị thâm
hụt. Đây được coi là nguyên nhân của mọi nguyên nhân, nói cách khác sự khủng hoảng về
kinh tế và tài chính của một quốc gia là nguyên nhân cơ bản và sâu xa đưa đến lạm phát.
- Gắn liền với bội chi ngân sách là bộc phát tiền mặt, cung tiền tệ tăng trưởng quá mức
cũng là nguyên nhân trực tiếp của lạm phát.
- Hệ thống chính trị bị khủng hoảng do những tác động bên trong và bên ngoài làm
cho lòng tin của dân chúng vào chế độ tiền tệ của Nhà nước giảm dần, từ đó làm cho uy tín
và sức mua của đồng tiền bị giảm sút.
- Lạm phát còn xuất phát từ nguyên nhân chủ quan, đó là việc nhà nước chủ động sử
dụng lạm phát như là một công cụ để thực thi chính sách kinh tế của Nhà nước
1.3. Hậu quả và biện pháp khắc phục lạm phát
1.3.1. Hậu quả của lạm phát
Ngoại trừ trường hợp lạm phát vừa phải có tác động tích cực đến sự phát triển của nền
kinh tế, còn lại nói chung lạm phát đều ảnh hưởng xấu đến quá trình phát triển đi lên của
nền kinh tế - xã hội.
- Trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh
Khi có lạm phát, giá cả vật tư hàng hóa, nguyên liệu tăng làm cho việc sản xuất kinh
doanh giảm sút, ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, làm tăng tình trạng
phát triển không đều, mất cân đối giữa các ngành.
- Trong lĩnh vực lưu thông buôn bán

39
Giá cả hàng hóa tăng dẫn đến tình trạng đầu cơ tích trữ hàng hóa, làm cho quan hệ
cung - cầu hàng hóa bị mất cân đối giả tạo, lĩnh vực lưu thông bị rối loạn.
- Trong lĩnh vực tiền tệ tín dụng
Lạm phát làm cho sức mua đồng tiền giảm, lưu thông tiền tệ diễn biến khác thường.
Hoạt động của ngân hàng rơi vào tình trạng khủng hoảng do nguồn tiền gửi trong xã hội bị
giảm sút nghiêm trọng làm nhiều ngân hàng bị mất khả năng thanh toán và thua lỗ trong
kinh doanh. Điều này làm cho hệ thống tiền tệ bị rối loạn và không kiểm soát được.
- Trong lĩnh vực tài chính nhà nước
Mặc dù lúc đầu lạm phát mang lại thu nhập cho NSNN qua cơ chế phân phối lại và cơ
chế phát hành, nhưng do ảnh hưởng nặng nề của lạm phát, những nguồn thu của NSNN mà
chủ yếu là thuế ngày càng giảm (do hiệu quả kinh doanh bị giảm sút). Có thể nói, hậu quả
của lạm phát là rất nặng nề và nghiêm trọng. Lạm phát gây hậu quả đến toàn bộ đời sống
kinh tế - xã hội. Lạm phát dẫn đến việc phân phối lại sản phẩm và thu nhập quốc dân, khiến
quá trình phân hóa giàu nghèo càng nghiêm trọng hơn. Bên cạnh đó, lạm phát làm cho một
nhóm người này thu được lộc lớn còn nhóm khác bị thiệt hại nặng nề. Suy cho cùng, gánh
nặng của lạm phát lại đè lên vai người lao động.
1.3.2. Biện pháp khắc phục lạm phát
Lạm phát tăng cao và kéo dài gây ra những hậu quả lớn trong đời sống dân cư và tăng
trưởng kinh tế. Trong từng trường hợp cụ thể, Chính phủ có thể áp dụng các biện pháp tình
thế và biện pháp mang tính chiến lược sau:
* Biện pháp tình thế: Áp dụng với mục tiêu giảm tức thời cơn sốt lạm phát.
- Biện pháp giảm lượng tiền giấy trong nền kinh tế (ngừng phát hành tiền vào lưu
thông): Biện pháp này còn được gọi là biện pháp đóng băng tiền tệ.
+ Ngừng thực hiện nghiệp vụ chiết khấu, tái chiết khấu đối với các ngân hàng thương
mại và các tổ chức tín dụng khác.
+ Ngừng việc mua các chứng khoán ngắn hạn trên thị trường tiền tệ.
+ Không phát hành tiền bù đắp bội chi NSNN.
+ Ngân hàng trung ương bán các chứng khoán ngắn hạn trên thị trường tiền tệ, bán
ngoại tệ, và phát hành các công cụ nợ của chính phủ để vay tiền trong nền kinh tế nhằm bù
đắp bội chi NSNN.
+ Tăng lãi suất tiền gửi, đặc biệt là lãi suất tiết kiệm.
- Thực hiện chính sách tài chính thắt chặt
+ Cắt giảm chi tiêu đến mức có thể
+ Tạm hoãn các khoản chi chưa cần thiết
+ Áp dụng các biện pháp cân đối lại thu chi NSNN.
- Tăng quỹ hàng hóa tiêu dùng để cân đối với số lượng tiền có trong lưu thông, bằng
cách:

40
+ Giảm thuế quan kích thích sản xuất
+ Khuyến khích tự do mậu dịch
+ Biện pháp thu hút hàng hóa từ nước ngoài vào.
- Vay, xin viện trợ từ nước ngoài
- Cải cách tiền tệ
* Biện pháp chiến lược: Là các biện pháp có tác động lâu dài đến sự phát triển của
nền kinh tế quốc dân.
- Thúc đẩy phát triển sản xuất hàng hóa và mở rộng lưu thông hàng hóa.
- Kiện toàn bộ máy hành chính, cắt giảm biên chế quản lý hành chính nhằm giảm chi
thường xuyên của NSNN, góp phần hạn chế tình trạng bội chi NSNN.
- Tăng cường quản lý công tác điều hành NSNN nhằm tăng thu NSNN, hạn chế thất
thu NSNN, nâng cao hiệu quả các khoản chi NSNN.
2. Bản chất chức năng của Ngân hàng trung ương (NHTW)
2.1. Bản chất của Ngân hàng trung ương
2.1.1. Sự ra đời của Ngân hàng trung ương
Quá trình hình thành NHTW ở các nước khác nhau là một quá trình lâu dài và thường
là đa dạng, do ở mỗi nước có những điều kiện đặc thù về lịch sử, chính trị, kinh tế, xã hội.
Nhìn chung sự ra đời của NHTW được phát triển theo một trật tự nhất định.
Thời kỳ đầu (từ khoảng thế kỷ 12 đến thế kỷ 18) ở hầu hết các nước Châu Âu, các
ngân hàng kinh doanh tiền tệ lần lượt ra đời, nói chung thực hiện những chức năng tương tự
nhau, bao gồm nhận tiền gửi, cho vay, phát hành kỳ phiếu của ngân hàng mình vào lưu
thông, thực hiện các dịch vụ tiền tệ khác.
Về sau (từ khoảng thế kỷ 18 và thế kỷ 19) do quy mô và phạm vi lưu thông hàng hóa
được mở rộng, trong lưu thông có quá nhiều loại kỳ phiếu ngân hàng tư nhân đã gây cản trở
cho giao lưu và phát triển kinh tế. Do đó, nhà nước của các nước đã bắt đầu can thiệp vào
hoạt động của hệ thống ngân hàng bằng cách hạn chế số lượng các ngân hàng được phép
phát hành kỳ phiếu ngân hàng. Nhà nước ban hành luật lệ chỉ cho phép một hoặc một số
ngân hàng có năng lực tài chính lớn và có tín nhiệm hơn cả được thực hiện chức năng phát
hành kỳ phiếu ngân hàng.
Từ đó hệ thống ngân hàng được phân định thành hai loại:
- Những ngân hàng được phép phát hành tiền được gọi là ngân hàng phát hành
Đây là những ngân hàng lớn, có uy tín, tài chính vững mạnh. Ngân hàng phát hành
giảm dần và đi đến không giao dịch với công chúng mà chỉ giao dịch với các ngân hàng
trung gian.
- Những ngân hàng không được phép phát hành tiền được gọi chung là ngân hàng
trung gian

41
Ngân hàng trung gian giao dịch với công chúng, thực hiện kinh doanh tiền tệ thuần
túy. Tuy nhiên số ngân hàng được phép phát hành tiền ở từng nước cũng còn tới hàng chục
ngân hàng, đều thuộc sở hữu tư nhân. Sẽ không có gì đảm bảo rằng những tư nhân này sẽ
không đưa ra những chính sách có hại cho quốc gia, cho nền kinh tế khi mà quyền lợi cá
nhân của họ bị đe dọa hoặc là mâu thuẫn với lợi ích quốc gia. Tức là, việc ngân hàng phát
hành vẫn thuộc sở hữu tư nhân sẽ không cho phép Nhà nước có thể can thiệp một cách
thường xuyên và kịp thời vào hoạt động kinh tế thông qua các công cụ của chính sách tiền
tệ.
Vì vậy, từ khoảng đầu thế kỷ 19 trở đi, lần lượt các nước đã tiến hành thành lập ngân
hàng phát hành do Nhà nước quản lý, thực hiện cơ chế một ngân hàng độc quyền phát hành
tiền để thông qua ngân hàng này, Nhà nước có thể chủ động việc kiểm soát phát hành tiền
và điều tiết khối lượng tiền cung ứng, phục vụ cho quản lý và phát triển kinh tế. Đặc biệt từ
sau cuộc đại khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933 và sau thế chiến lần thứ hai phần lớn
các nước đều tiến hành quốc hữu hóa ngân hàng phát hành chuyển thành sở hữu của nhà
nước. Đây chính là quá trình hình thành ngân hàng phát hành và xác lập cho ngân hàng này
chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, được gọi là NHTW. Việc
quốc hữu hóa ngân hàng phát hành được thực hiện bằng cách Nhà nước bỏ tiền ra mua lại
toàn bộ cổ phiếu của ngân hàng phát hành. Toàn bộ hội viên của hội đồng quản trị và bộ
máy lãnh đạo điều hành, thanh tra, kiểm soát đều do Nhà nước bổ nhiệm trên cơ sở cơ cấu
cũ trước khi quốc hữu hóa.
Sự ra đời của NHTW là hệ quả của quá trình chuyển hóa ngân hàng thương mại thành
ngân hàng phát hành, và ngân hàng phát hành thành NHTW gắn liền với sự can thiệp của
Nhà nước trên lĩnh vực này. Sự ra đời của NHTW xuất phát từ đòi hỏi của sản xuất và lưu
thông hàng hóa, cùng với yêu cầu của Nhà nước trong điều tiết vĩ mô nền kinh tế thông qua
các công cụ của chính sách tiền tệ. Nó ra đời không vì mục đích tìm kiếm doanh lợi, mà
xuất phát từ yêu cầu của quản lý và điều tiết lưu thông tiền tệ, thực hiện nhiệm vụ ổn định
tiền tệ, đảm bảo cho hệ thống ngân hàng hoạt động ổn định, an toàn và có hiệu quả để phát
triển kinh tế. Dù tên gọi không giống nhau như Quỹ dự trữ liên bang, Ngân hàng nhà nước,
Viện phát hành,… chúng đều có chung một tính chất: NHTW.
Hiện nay, ở một số nước NHTW không hoàn toàn thuộc quyền sở hữu của nhà nước
nhưng hoạt động vẫn mang tính chất như một ngân hàng của nhà nước và cơ quan quản lý
cao nhất của nó là do nhà nước bổ nhiệm và miễn nhiệm.
Ví dụ: NHTW Nhật Bản là ngân hàng cổ phần (Nhà nước chiếm 55%) nhưng cơ quan
quản trị ngân hàng có 7 thành viên do chính phủ bổ nhiệm và miễn nhiệm. Hệ thống dự trữ
liên bang Mỹ là ngân hàng cổ phần với hội đồng thống đốc có 7 thành viên do Tổng thống
đề cử và Quốc hội bổ nhiệm,…

42
Như vậy, NHTW là cơ quan độc quyền phát hành tiền và thực hiện chức năng quản lý
Nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng nhằm ổn định giá trị tiền tệ, góp phần đảm bảo
an toàn hoạt động ngân hàng và hệ thống các tổ chức tín dụng, thúc đẩy phát triển kinh tế
xã hội.
2.1.2. Bản chất của Ngân hàng trung ương
Tuy có nhiều tên gọi khác nhau như NHTW, ngân hàng nhà nước, ngân hàng dự trữ
liên bang… nhưng chúng đều có tính chất chung, đó là một cơ quan thuộc bộ máy nhà nước,
được độc quyền phát hành giấy bạc ngân hàng và thực hiện chức năng quản lý nhà nước về
hoạt động tiền tệ, tín dụng và ngân hàng với mục tiêu cơ bản là ổn định giá trị đồng tiền,
duy trì sự ổn định và an toàn trong hoạt động của hệ thống ngân hàng.
NHTW thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ, tín dụng, ngân hàng nhưng
khác với tính chất quản lý của các cơ quan khác trong bộ máy quản lý của nhà nước. NHTW
quản lý không chỉ đơn thuần bằng các luật lệ, các biện pháp hành chính mà còn thông qua
các nghiệp vụ mang tính kinh doanh sinh lời. Hai mặt quản lý và kinh doanh gắn chặt với
nhau trong tất cả các hoạt động của NHTW. Tuy nhiên, hoạt động kinh doanh chỉ là phương
tiện để quản lý chứ không phải mục đích của NHTW. Hầu hết các khoản thu nhập của
NHTW, sau khi trừ các chi phí hoạt động đều phải nộp vào NSNN.
Có hai mô hình tổ chức NHTW:
- Mô hình NHTW trực thuộc Chính phủ
Theo mô hình này, NHTW chịu sự kiểm soát toàn diện của Chính phủ và phải thực
hiện mọi chính sách, chị thị của Chính phủ.
Ví dụ: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là NHTW của Việt Nam, trực thuộc Chính phủ
Việt Nam là cơ quan đảm trách việc phát hành tiền tệ, quản lý tiền tệ và tham mưu các chính
sách liên quan đến tiền tệ cho Chính phủ Việt Nam.
- Mô hình NHTW độc lập với chính phủ, trực thuộc Quốc hội
Mô hình này dựa trên quan điểm cho rằng nếu để NHTW trực thuộc Chính phủ thì làm
cho NHTW mất hẳn tính độc lập và chủ động trong việc thực hiện các chính sách tiền tệ.
Ví dụ: Tiêu biểu cho mô hình này là: Quỹ dự trữ liên bang Mỹ và Ngân hàng dự trữ
liên bang Đức. Ngân hàng dự trữ liên bang Đức không trực thuộc Chính phủ khi thực hiện
các nghiệp vụ của mình, đồng thời có trách nhiệm ủng hộ chính sách kinh tế chung của
Chính phủ. Quỹ dự trữ liên bang Mỹ thì cơ quan quản lý cao nhất là hội đồng thống đốc có
7 thành viên, thành viên của Hội đồng thống đốc không được tái nhiệm và Chính phủ khó có
thể chi phối hoạt động của ngân hàng trung ương.
2.2. Chức năng của Ngân hàng trung ương
2.2.1. Ngân hàng trung ương là ngân hàng phát hành và điều tiết lưu thông tiền tệ
* Nguyên tắc phát hành

43
- Nguyên tắc trữ kim: Việc phát hành tiền giấy chỉ được thực hiện khi nào có một
lượng quý kim được nhập kho. Việc tăng hay giảm số lượng tiền giấy tuỳ thuộc vào số
lượng quý kim dự trữ của ngân hàng.
- Nguyên tắc hàng hoá: Theo nguyên tắc này, ngân hàng phát hành tiền không cần
dựa trên cơ sở dự trữ vàng mà phát hành trên cơ sở của nhu cầu lưu thông hàng hoá và trên
cơ sở có tài sản hàng hoá tương đương đảm bảo.
* Kênh phát hành
- Phát hành qua kênh Chính phủ: Trong trường hợp ngân sách bội chi, Chính phủ có
thể đi vay của NHTW để bù đắp thâm hụt.
- Phát hành qua kênh ngân hàng trung gian: NHTW cho ngân hàng trung gian vay
thông qua nghiệp vụ tái chiết khấu, tái cầm cố các chứng từ có giá của các ngân hàng trung
gian. Khi NHTW cho ngân hàng trung gian vay tiền, tiền mặt sẽ thông qua các ngân hàng
trung gian để tới tay công chúng.
- Phát hành qua thị trường mở: Nghiệp vụ thị trường mở là việc NHTW tham gia
mua hoặc bán giấy tờ có giá ngắn hạn trên thị trường tiền tệ với các ngân hàng trung gian
nhằm mục đích tác động đến thị trường tiền tệ, điều hoà cung và cầu về giấy tờ có giá, gây
ảnh hưởng đến khối dự trữ của các ngân hàng trung gian, từ đó tác động đến khả năng cung
ứng tín dụng của các ngân hàng này.
- Phát hành qua thị trường vàng và ngoại tệ: Bằng việc tung tiền mặt ra thị trường
vàng và ngoại tệ để mua các đồng tiền của nước ngoài và vàng, NHTW vừa làm tăng dự trữ
vàng và ngoại tệ vừa làm tăng lượng tiền mặt trong lưu thông một khoản tương ứng.
2.2.2. Ngân hàng trung ương là ngân hàng của các ngân hàng
Trên cơ sở độc quyền phát hành tiền, ngân hàng trung ương thực hiện việc cung ứng
tiền tệ cho nền kinh tế thông qua việc cấp tín dụng cho các ngân hàng trung gian và kiểm
soát quá trình tạo tiền của các ngân hàng trung gian – khách hàng của NHTW.
* Ngân hàng trung ương mở tài khoản và nhận tiền gửi của các ngân hàng
Thông thường, các ngân hàng trung gian không sử dụng hết nguồn vốn của mình để
cho vay mà duy trì một mức dự trữ nhất định để đảm bảo khả năng thanh toán. Dự trữ gồm
tiền mặt tại quỹ và tiền gửi tại NHTW và các ngân hàng khác. Bất cứ một ngân hàng trung
gian nào cũng đều phải mở tài khoản và gửi tiền vào NHTW. Tiền gửi vào NHTW bao gồm
2 loại:
- Tiền gửi dự trữ bắt buộc
Tiền gửi dự trữ bắt buộc áp dụng bắt buộc đối với các ngân hàng trung gian có huy
động vốn tiền gửi của công chúng. Mức dự trữ cao hay thấp tùy theo quy định của NHTW
trong từng thời kỳ cho phù hợp với chính sách tiền tệ. Mục đích của việc bắt buộc dự trữ
này là để giới hạn mức tín dụng tối đa mà ngân hàng trung gian có thể cung cấp, tránh
trường hợp các ngân hàng trung gian huy động được bao nhiêu cho vay bấy nhiêu dẫn đến

44
mất khả năng thanh toán, ảnh hưởng đến quyền lợi của người gửi tiền và nền kinh tế. Bên
cạnh đó, việc tập trung dự trữ của ngân hàng trung gian tại ngân hàng trung ương còn là một
phương tiện để ngân hàng trung ương có thêm quyền lực điều khiển hệ thống ngân hàng,
thực thi chính sách tiền tệ.
Hiện nay, cùng với sự phát triển của thị trường tiền tệ, các hình thức bảo hiểm tiền gửi
ra đời đã giảm bớt khả năng xảy ra nhu cầu rút tiền bất thường. Vì vậy, tỷ lệ dự trữ bắt buộc
ngày càng giảm ở hầu hết các quốc gia. Hiện nay, tỷ lệ dự trữ bắt buộc thường được đề cập
đến với tư cách là công cụ của chính sách tiền tệ.
- Tiền gửi thanh toán
Ngoài tiền gửi dự trữ bắt buộc, các ngân hàng trung gian còn gửi thêm khoản tiền gửi
thanh toán tại NHTW. Mục đích nhằm đáp ứng nhu cầu thanh toán thường xuyên giữa các
ngân hàng với nhau và để điều chỉnh mức dự trữ bắt buộc khi cần. Bên cạnh đó, các ngân
hàng trung gian mở tài khoản thanh toán tại ngân hàng trung ương còn giúp NHTW có thể
tận dụng nguồn vốn tạm thời dư thừa của các ngân hàng trung gian để thực hiện các chức
năng của mình.
* Ngân hàng trung ương cấp tín dụng cho các ngân hàng trung gian
NHTW sẽ cho các ngân hàng trung gian vay thông qua nghiệp vụ tái chiết khấu, tái
cầm cố các chứng từ có giá.
Về nguyên tắc, NHTW chỉ đóng vai trò là người cho vay cuối cùng đối với ngân hàng
trung gian vì:
- Việc NHTW cho ngân hàng trung gian vay là một hoạt động phát hành tiền.
- Nếu NHTW dễ dãi trong việc cấp tín dụng cho các ngân hàng trung gian thì sẽ tạo
cho các ngân hàng trung gian tâm lý ỷ lại, kết quả là độ rủi ro trong hoạt động ngân hàng sẽ
tăng cao, có thể gây nên một sự khủng hoảng tài chính tiền tệ. Do vậy, NHTW cần rất thận
trọng, không sử dụng thường xuyên vai trò người cho vay cuối cùng của mình.
* Ngân hàng trung ương là trung tâm thanh toán của các ngân hàng
Gắn với nghiệp vụ phát hành tiền, nghiệp vụ gửi tiền và cho vay đối với các ngân hàng
trung gian, NHTW là đầu mối thanh toán tiền ngân hàng, giúp cho các ngân hàng trung gian
thực hiện thông suốt trong quan hệ thanh toán với nhau xuất phát từ sự phát triển dịch vụ
thanh toán phục vụ khách hàng của họ.
Hoạt động của Trung tâm thanh toán gắn liền với sự phát triển dịch vụ thanh toán của
các ngân hàng trung gian, tạo lập mạng lưới thanh toán liên hoàn trong phạm vi cả nước,
cùng với việc cải tiến, hiện đại hóa công nghệ thanh toán có ý nghĩa quyết định cho việc tập
trung các luồng chu chuyển tiền tệ vận động qua ngân hàng. Nghiệp vụ thanh toán của
NHTW được tiến hành bằng các phương thức:
- Thanh toán từng lần: NHTW thực hiện thanh toán theo yêu cầu của các ngân hàng
trung gian căn cứ trên chứng từ và lệnh chi của họ. Mỗi khi có nhu cầu thanh toán, các ngân

45
hàng trung gian gửi các chứng từ thanh toán đến NHTW yêu cầu trích tiền từ tài khoản của
mình để trả cho ngân hàng thụ hưởng.
- Thanh toán bù trừ: NHTW là trung tâm tổ chức thanh toán bù trừ giữa các ngân
hàng, kể cả kho bạc nhà nước. Việc thanh toán bù trừ giữa các ngân hàng được tiến hành
định kỳ hoặc cuối mỗi ngày làm việc. Việc thanh toán được dựa trên cơ sở trao đổi các
chứng từ thanh toán nợ kèm theo bảng kê khai thanh toán bù trừ của các ngân hàng hoặc
thực hiện bù trừ thông qua hệ thống vi tính, số dư cuối cùng được thanh toán bằng cách trích
tài khoản của người phải trả nợ tại NHTW.
* Ngân hàng trung ương thực hiện việc quản lý nhà nước đối với hệ thống ngân
hàng
NHTW là cơ quan quản lý và điều tiết hoạt động của hệ thống ngân hàng, cụ thể:
- NHTW thẩm định và cấp giấy chứng nhận hoạt động cho ngân hàng trung gian
- NHTW quy định nội dung, phạm vi hoạt động kinh doanh và các quy chế nghiệp vụ
đòi hỏi các ngân hàng trung gian phải tuân thủ, các hệ số an toàn trong quá trình hoạt động
của ngân hàng trung gian.
- NHTW điều tiết các hoạt động kinh doanh của ngân hàng trung gian bằng những biện
pháp kinh tế và hành chính. Chẳng hạn như: NHTW quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc, hạn mức
tín dụng, ban hành chính sách lãi suất, tỷ lệ hoa hồng, lệ phí áp dụng trong hoạt động kinh
doanh của các ngân hàng trung gian,…
- NHTW thanh tra và kiểm soát thường xuyên và toàn diện các hoạt động của toàn bộ
hệ thống ngân hàng, áp dụng các chế tài trong các trường hợp vi phạm pháp luật nhằm đảm
bảo cho cả hệ thống ngân hàng hoạt động ổn định, an toàn và có hiệu quả.
- NHTW quyết định đình chỉ hoạt động hoặc giải thể đối với các ngân hàng trung gian
trong các trường hợp vi phạm nghiêm trọng pháp luật hoặc mất khả năng thanh toán.
2.2.3. Ngân hàng trung ương là ngân hàng của nhà nước
Chức năng này của NHTW thể hiện ở một số điểm:
- NHTW thuộc sở hữu nhà nước.
- Ban hành các văn bản pháp quy theo thẩm quyền của mình về tiền tệ, tín dụng, thanh
toán, ngoại hối và ngân hàng; kiểm tra thực hiện các văn bản pháp luật có liên quan.
- Mở tài khoản, nhận và trả tiền gửi của kho bạc nhà nước.
- Tổ chức thanh toán cho kho bạc nhà nước trong quan hệ thanh toán với các ngân
hàng.
- Làm đại lý cho kho bạc nhà nước trong một số nghiệp vụ.
- Bảo quản dự trữ quốc gia về ngoại hối, các chứng từ có giá.
- Cung cấp tín dụng và tạm ứng cho NSNN trong những trường hợp cần thiết.
- Thay mặt nhà nước quản lý các hoạt động tiền tệ - tín dụng và thanh toán đối nội,
đốingoại của đất nước.

46
- NHTW thay mặt chính phủ ký kết các hiệp định tiền tệ, tín dụng và thanh toán với
nước ngoài và tham gia với cương vị là thành viên của một số tổ chức tài chính - tiền tệ
quốc tế.

Câu hỏi ôn tập

Câu 1: Lạm phát thể hiện qua những đặc trưng cơ bản nào? Nêu một số quan điểm về lạm
phát?
Câu 2: Nêu nguyên nhân dẫn tới lạm phát?
Câu 3: Trình bày hậu quả lạm phát gây ra? Ví dụ minh họa?
Câu 4: Trình bày biện pháp khắc phục lạm phát?
Câu 5: Trình bày bản chất của ngân hàng trung ương? Lấy ví dụ minh hoạ?
Câu 6: Vì sao nói ngân hàng trung ương là ngân hàng của nhà nước?
Câu 7: Ngân hàng trung ương thực hiện quản lý nhà nước đối với hệ thống ngân hàng như
thế nào?
Câu 8: Vì sao nói ngân hàng trung ương là trung tâm thanh toán của các ngân hàng?

47
IV. Nội dung và phương pháp, đánh giá
* Nội dung
- Kiến thức: Trình bày được bản chất chức năng của tiền tệ, tổng quan hệ thống tài
chính, tổng quan về thị trường tài chính và những vấn đề cơ bản về lý thuyết tiền tệ.
- Kỹ năng: Vận dụng nội dung lý thuyết tài chính tiền tệ được học vào tình huống cụ
thể.
- Năng lực tự chủ và trách nhiệm:
+ Có khả năng tư duy độc lập, làm chủ và tự đánh giá bản thân.
+ Có khả năng kiểm tra đánh giá công việc do cá nhân và nhóm thực hiện.
* Phương pháp đánh giá
- Đánh giá trong quá trình học: Kiểm tra theo hình thức: Viết, đảm bảo có ít nhất một
điểm kiểm tra thường xuyên, một điểm kiểm tra định kỳ. Điểm kiểm tra thường xuyên tính
hệ số 1, điểm kiểm tra định kỳ tính hệ số 2. Điểm trung bình các điểm kiểm tra có trọng số
0,4.
- Đánh giá cuối môn học: Người học có điểm trung bình các điểm kiểm tra đạt từ 5,0
trở lên thì được dự thi hết môn. Thi hết môn theo hình thức: Viết, điểm thi có trọng số 0,6.

48
Tài liệu tham khảo

- Thông tư 41/2018/TT-BLĐTBXH ngày 28/12/2018 của Bộ Lao động Thương binh


và Xã hội.
- Tài liệu Lý thuyết tài chính tiền tệ - Trường Trung cấp GTVT Nam Định năm 2022.
- Giáo trình Lý thuyết tài chính tiền tệ - PGS.TS. Cao Thị Ý Nhi - NXB Đại học Kinh
kế Quốc dân năm 2018.
- Giáo trình Lý thuyết tài chính tiền tệ – NXB Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh năm
2017.
- Tài liệu khác

49

You might also like