Professional Documents
Culture Documents
nhan đề + câu 1
nhan đề + câu 1
静 [Tĩnh] (bộ Thanh 青): tĩnh, trái với động; yên tĩnh, không tiếng động; yên
ổn, không có giặc giã khuấy rối
思 [Tư, Tứ] (bộ Tâm 心): nghĩ ngợi; nghĩ đến; mến nhớ như tương tư; thương
床 前 明 月 光
床/ 牀 [Sàng] (bộ Tường 爿): cái giường; cái giá gác đồ; cái sàn bắc trên giếng
để đỡ con quay kéo nước
前 [Tiền] (bộ Đao 刀): trước, như “đình tiền” là trước sân; cái trước, như “tiền
biên” là quyền trước; sớm trước, như “tiền hiền” là người hiền trước
明 [Minh] (bộ Nhật 日): sáng, như “minh tinh” là sao sáng; sáng suốt, trong
sạch, không bị ngoại vật che lấp; phát minh, tỏ rõ
光 [Quang] (bộ Nhân 儿): sáng; vẻ vang, như “quang học”; rực rỡ; bóng, sáng
bóng
疑 是 地 上 霜
霜[SƯƠNG] (bộ thủ 雨): sương; hàng năm; thuốc nghiền thấy nhỏ trắng ra
舉 頭 望 明 月
Phiên âm: Cử đầu vọng minh nguyệt
Dịch nghĩa: Ngẩng đầu (lên) trông thấy trăng sáng
Cử đầu vọng minh nguyệt
- Cử đầu là một ngữ động từ: cử là động từ chính, đầu là danh từ bổ ngữ
cho động từ, tạo thành cụm động từ Cử đầu – ngẩng đầu.
- Vọng Minh nguyệt là một ngữ động từ:
+ Minh nguyệt là danh từ chính đồng thời là tân ngữ cho hành động
Vọng. Với Minh là tính từ bổ ngữ cho danh từ nguyệt, tạo thành cụm
danh từ Minh nguyệt – trăng sáng.
+ Vọng là động từ chính, minh nguyệt là cụm danh từ bổ ngữ cho vọng,
tạo thành cụm động từ Vọng minh nguyệt – trông thấy trăng sáng
舉 [Cử] – Bộ cữu: Cất lên, giơ, ngẩng/ Tuyển chọn, đề cử/ Đề xuất/ Phát động/
Bay/ Sinh đẻ, nuôi dưỡng,…
望 [Vọng] – Bộ nguyệt: trông xa/ có cái để cho người chiêm ngưỡng/ quá mong
(trách vọng)/ ước mong/ ngày rằm,…
明 [Minh] – Bộ nhật: sáng/ sáng suốt trong sạch/ phát minh/ mắt sáng (tang
minh)/ mới sáng/ nhà Minh
低 [Đê] (bộ Nhân 人): thấp, đối lại với chữ cao; cúi như “đê đầu”; khẽ, như “đê
ngữ” là nói khẽ.
頭 [Đầu] (bộ Hiệt 貞): Bộ đầu, bộ đầu lâu; phàm cái gì ở bộ vị cao nhất cũng
gọi là đầu, như “sơn đầu” là đầu núi; bực nào hạn hơn hết cả đều gọi là đầu, như
“đầu đẳng” là hạng đầu
思 [Tư] (bộ Tâm 心): nghĩ ngợi; nghĩ đến; mến nhớ như tương tư; thương
故 [Cố] (bộ Phộc 攴): việc, như “đại cố”; cớ, nguyên nhân như “hữu cố” là có
cớ; cũ như “cố sự” là việc cũ; gốc, của mình vẫn có từ trước như “cố hương”
là làng của mình trước (quê cha đất tổ)
鄕 [Hương] (bộ Ấp 邑): làng; một tiếng gọi tóm cả khu vực; nhà quê
Tự dịch nghĩa:
Cảm nghĩ trong đêm thanh vắng
Đầu giường, trăng sáng soi vằng vặc
Ngỡ là (trên) mặt đất (có) phủ sương
Ngẩng đầu (lên) trông thấy (vầng) trăng sáng
Cúi đầu nhớ (về) quê cha
Bản dịch nghĩa trong sách ngữ văn 7 tập 1 (bản cũ)
Cảm nghĩ trong đêm thanh vắng
Ánh trăng sáng đầu giường,
Ngỡ là sương trên mặt đất
Ngẩng đầu ngắm vầng trăng sáng
Cúi đầu nhớ quê cũ.
(Tương Như, trong Thơ Đường, tập II, NXB Văn học, Hà Nội, 1987)
Phần 3: So sánh và nhận xét bản dịch sách giáo khoa
Câu thơ đầu tiên
Tự dịch: Đầu giường, trăng sáng soi vằng vặc
Bản dịch SGK: Ánh trăng sáng đầu giường,
Theo nhóm đề xuất, cụm từ “minh nguyệt quang” nên dịch là “trăng sáng
soi vằng vặc”. Vì bản thân từ “minh nguyệt” đã mang nghĩa trăng sáng.
Nếu dịch như bản dịch SGK sẽ lược bỏ mất nghĩa của từ “quang” vốn để
nhấn mạnh thêm phần ánh sáng lung linh, huyền ảo, sáng tỏ của mặt trăng
và đồng thời mất đi nét thi vị, lãng mạn của hình tượng này trong thơ Lý
Bạch.
Câu thơ thứ tư
Tự dịch: Cúi đầu nhớ (về) quê cha
Bản dịch SGK: Cúi đầu nhớ quê cũ.
Theo nhóm đề xuất, cụm từ “Cố hương”, trong đó từ “Cố” nên hiểu là
“gốc, của mình vẫn có từ trước”. Vậy, cụm từ nên dịch là “quê cha” trong
cụm “quê cha đất tổ”/ “quê gốc”.
Ở bản dịch thơ trong sách giáo khoa của tác giả Tương Như, từ “cố
hương”, trong đó chữ “cố” được hiểu theo nghĩa là cũ, xưa – không thể
hiện được đầy đủ nét nghĩa là gốc gác, nơi xuất thân thân và tạo cảm giác
xa cách, không còn mối liên hệ giữa hai đối tượng.