Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 9

Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh

Khoa Các chương trình đào tạo Chất lượng cao


Lớp Chất lượng cao Quản trị - Luật 47B

Buổi thảo luận lần 7 – Cụm 3:

Bộ môn: Luật hình sự phần tội phạm

DANH SÁCH SINH VIÊN THỰC HIỆN


Nhóm 3:

STT HỌ VÀ TÊN MSSV


1 Tô Gia Hưng 2253401020084
2 Đỗ Ngọc Khánh Phương 2253401020202
3 Lưu Thị Thanh Ngân 2253401020144
4 Đinh Ngọc Song Thy 2253401020250
5 Nguyễn Phương Anh 2253401020306

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 31 tháng 3 năm 2024


THẢO LUẬN LUẬT HÌNH SỰ CỤM 2
PHẦN 1. NHẬN ĐỊNH
Câu 26: Mọi hành vi buôn bán trái phép hàng hóa có trị giá từ 100 triệu đồng trở
lên qua biên giới đều cấu thành Tội buôn lậu (Điều 188 BLHS).

Nhận định SAI.


Theo Điều 188 BLHS thì không chỉ hành vi buôn bán phải qua biên giới mà còn từ
khu phi thuế quan vào nội địa hoặc ngược lại thì vẫn cấu thành tội phạm. Do đó, cấu
thành tội phạm này không chỉ qua biên giới. Đồng thời, đối tượng tác động tội này là
hàng hóa không có tính chất đặc biệt vì nếu có tính chất đặc biệt như ma túy,.. thì cấu
thành Tội buôn bán trái phép chất ma túy Điều 251 BLHS.

Câu 27: Hàng hóa có hàm lượng, định lượng chất chính thấp hơn so với tiêu chuẩn
chất lượng đã đăng ký công bố áp dụng hoặc ghi trên nhãn, bao bì hàng hóa là giả.

Nhận định này là SAI. CSPL: Điểm b Khoản 1 Điều 4 Nghị định 08/2013.
Không phải cứ là hàng hóa có hàm lượng, định lượng chất chính thấp hơ so với
tiêu chuẩn đã đăng ký, công bố, ghi trên bào bì là hàng giả. Trong trường hợp trên, để
hàng hóa đó là hàng giả thì phải đáp ứng điều kiện: “Hàng hóa có hàm lượng, định lượng
chất chính, tổng các chất dinh dưỡng hoặc đặc tính kỹ thuật cơ bản khác chỉ đạt mức từ
70% trở xuống so với tiêu chuẩn chất lượng, quy chuẩn kỹ thuật đã đăng ký, công bố áp
dụng hoặc ghi trên nhãn, bao bì hàng hóa”. Nếu hàng hóa có hàm lượng, định lượng chất
chính trên mức 70% so với tiêu chuẩn đã được đăng ký công bố áp dụng hoặc ghi trên
dãn thì hàng hóa đó là hàng hóa kém chất lượng.

Câu 28: Không phải mọi loại hàng cấm đều là đối tượng tác động của các Tội sản
xuất, buôn bán hàng cấm (Đ190 BLHS).

Nhận định ĐÚNG. CSPL: Điều 190 BLHS.


Căn cứ Điều 190 BLHS 2015, đối tượng tác động của các Tội này là những hàng
hoá mà Nhà nước cấm kinh doanh, cấm lưu hành, cấm sử dụng thuộc một trong các
trường hợp được quy định tại điểm a,b,c,d,đ,e khoản 1 điều 190 BLHS 2015. Đồng thời
để cấu thành tội này thì loại trừ những tội phạm thuộc vào điều
232,234,244,246,248,251,253,254,304,305,306,309, 311. Như vậy hàng hoá mà nhà
nước cấm kinh doanh, cấm lưu hành, cấm sử dụng có nhiều loại, tuy nhiên nếu thuộc một
trong các điều kể trên thì không còn là đối tượng tác động của tội sản xuất, buôn bán
hàng cấm.

Câu 29: Hàng giả chỉ là đối tượng tác động của các tội phạm được quy định tại Điều
192,193,194,195 BLHS.

Nhận định SAI. CSPL: Điều 226 BLHS 2015


Có hai loại hàng giả:
- Hàng giả về nội dung: là đối tượng tác động của các tội quy định tại Điều 192,
193,194, 195 BLHS
- Hàng giả về hình thức: là đối tượng tác động của tội phạm quy định tại Điều 226
BLHS
Do vậy hàng giả còn có thể là đối tượng tác động của Tội xâm phạm quyền sở hữu
công nghiệp nếu hàng hóa giả về nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý đuợc quy định tại
Điều 226 BLHS

Câu 34: Mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước quy
định tại Điều 203 BLHS chỉ là hành vi mua, bán hóa đơn chưa ghi nội dung hoặc ghi
nội dung không đầy đủ, không chính xác theo quy định.

Nhận định sai. CSPL: khoản 1 Điều 203.

Theo đó, mua, bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước gồm
các hành vi sau:

- Mua, bán hóa đơn chưa ghi nội dung hoặc ghi nội dung không đầy đù, không chính xác
theo quy định

- Mua, bán hóa đơn đã ghi nội dung, nhưng không có hàng hóa, dịch vụ kèm theo

- Mua, bán hóa đơn giá, hóa đơn chưa có giá trị sử dụng, hóa đơn đã hết giá trị sử dụng,
hóa đơn của cơ sở kinh doanh, dịch vụ khác để hợp thức hóa hàng hóa, dịch vụ mua vào
hoặc cấp cho khách hàng khi bán hàng hóa dịch vụ

- Mua, bán, sử dụng hóa đơn có sự chênh lệch về giá trị hàng hóa, dịch vụ giữa các liên
của hóa đơn

Câu 44: Mọi hành vi thải vào nguồn nước các chất gây ô nhiễm môi trường thì cấu
thành Tội gây ô nhiễm môi trường (Điều 235 BLHS).

Nhận định sai.


Để cấu thành tội phạm này thì các chất thải ra môi trường phải theo định lượng
được quy định tại khoản 1 Điều này. Ví dụ theo khoản a thì chất thải nguy hại đặc biệt
phải từ 1.000 kilôgam đến 3.000 kilôgam nên nếu chất thải đặc biệt này dưới 1.000
kilôgam thì không cấu thành tội này.

PHẦN 2. BÀI TẬP


Bài tập 20: IN NGHIÊNG CÁC MẶT KHÁCH QUAN…
Khoảng tháng 12/2018, qua Zalo L kết bạn với anh Nguyễn Minh V, L thường
xuyên nhắn tin trao đổi với anh V để tạo mối quan hệ thân thiết, sau đó L có ý định
tiếp xúc với anh V để tìm cơ hội chiếm đoạt tài sản. Tối ngày 28/01/2019, L ở thành
phố H gọi điện thoại cho anh V hẹn gặp mặt thì anh V đồng ý. Khoảng 08 giờ ngày
29/01/2019, L đi xe khách từ thành phố H về đến bến xe VL rồi đón taxi đến bến phà
AP, huyện M, tỉnh V. Anh V mượn xe mô tô biển số 71B1-849.87 của anh Trần
Thanh T đến đón và chờ L đến chỗ làm của anh tại trang trại nuôi cá ba sa ở huyện
C, tỉnh B.
Khoảng 16 giờ cùng ngày, L rủ anh V đến khu du lịch TA chơi, khi đến thành
phố V, L kêu anh V đưa đến chợ VL để L vào mua cái bóp nam. Sau đó, anh V tiếp
tục chở L đến khu du lịch TA, cả hai ngồi trên băng đá uống bia, lúc này L kêu anh
V đưa cái bóp của anh V đang sử dụng để L sang giấy tờ, tiền qua cái bóp mà L vừa
mua, anh V nghĩ mình được tặng cái bóp nên đồng ý. Lợi dụng lúc anh V không để
ý L lén lấy số tiền 1.950.000 đồng trong bóp của anh V cất giấu vào túi quần. Sau đó
L tìm cách lấy xe mô tô của anh V nên nói là muốn tìm chỗ đi vệ sinh và kêu anh V
đưa xe L điều khiển chở anh V ngồi sau. L điều khiển xe được khoảng 500m thì giả
vờ làm rơi bịch đồ treo trước xe xuống đường (đựng khô, hột vịt lộn) rồi dừng xe lại
kêu anh V xuống xe nhặt. Khi anh V xuống xe nhặt bịch đồ thì L bất ngờ tăng ga
chạy xe thẳng về thành phố H và lúc sau L nhắn tin cho anh V mang theo 7.000.000
đồng đến thành phố C để chuộc xe lại rồi L tháo bỏ sim điện thoại. Sau đó, L bán xe
được 2.000.000 đồng và dùng số tiền này tiêu xài cá nhân.
Kết luận định giá số 67/HĐĐG&TTHS ngày 21/7/2020 của Hội đồng định giá
thành phố V kết luận: Xe mô tô biển số 71B1- 849.87 hiệu Yamaha màu sơn trắng
đen tại thời điểm bị thiệt hại có giá 14.535.000 đồng.
Anh (chị) hãy xác định hành vi của L có phạm tội không? Tại sao?
Trả lời:
Hành vi của L là có phạm tội, cụ thể vi phạm tội Cướp giật tài sản quy định tại
điều 171 BLHS 2015

Khách thể:
- Xâm phạm đến quyền sở hữu của anh V
- ĐTTĐ: Số tiền 1.950.000 đồng trong bóp của anh V và chiếc xe mô tô biển số
71B1-849.87 hiệu Yamaha màu sơn trắng đen tại thời điểm bị thiệt hại trị giá
14.535.000 đồng.

Mặt khách quan:


- Hành vi L giả vờ làm rơi bịch đồ treo trước xe trong khi đang điều khiển xe và nhờ
anh V xuống nhặt rồi bất ngờ tăng ga chạy xe thẳng về thành phố H. L đã chủ
động tạo ra sự sơ hở của người quản lý tài sản là anh V để thực hiện việc chiếm
đoạt tài sản. Anh V bị lừa xuống xe lấy bịch đồ tuy nhiên sự gian dối này đóng vai
trò là hành vi đi liền trước hành vi khách quan để tiếp cận tài sản chứ không phải
hành vi khách quan, anh V chỉ đưa xe cho anh L cầm lái chứ không phải giao xe
cho anh L. Vì vậy sự gian dối này không phải là nguyên nhân làm cho nạn nhân tự
nguyện chuyển giao tài sản cho anh L.
- Đối với số tiền 1.950.000 đồng không được quy thành tội trộm cắp tài sản quy
định tại điều 173 BLHS 2015 mặc dù ở đây hành vi anh L lợi dụng lúc V không để
ý lén lấy số tiền này cất vào túi quần là hành vi lén lút với chủ sở hữu tài sản, tuy
nhiên số tiền này không đủ để cấu thành nên tội trộm cắp tài sản quy định tại điều
173 BLHS (từ 2tr - dưới 50tr)

Mặt chủ quan: Lỗi cố ý trực tiếp, L nhận thức được hành vi của mình là sai trái, gây ảnh
hưởng nguy hiểm đến xã hội và người khác nhưng vẫn thực hiện và mong muốn hậu quả
xảy ra.

Chủ thể: L là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự.

Đối với việc anh V yêu cầu anh L mang 7 triệu tới chuộc xe không đủ điều kiện để cấu
thành tội cưỡng đoạt tài sản.

Bài tập 21:

A là chủ một xe chở xăng dầu. A đã ký hợp đồng với nhà máy sản xuất bội
ngọt TH vận chuyển dầu chạy máy cho nhà máy từ công ty xăng dầu đến nhà máy.
Sau vài lần vận chuyển, A đã học được thủ đoạn bớt dầu vận chuyển cho nhà máy
như sau: Khi nhận được dầu A chạy xe tới điểm thu mua dầu của B và nhanh chóng
rút dầu ra bán cho B mỗi lần vài trăm lít. Sau đó, chất lên xe mấy thùng nước có
trọng lượng tương đương với số dầu đã rút ra. Đến địa điểm giao dầu, chiếc xe được
cân đúng trọng lượng quy định nên được nhập dầu vào kho. Trong thời gian chờ
đợi cân trọng lượng của xe sau khi giao dầu. A đã bí mật đổ hết đã chất lên xe để
khi cân chỉ còn đúng trọng lượng của xe. Với cách thức như vậy, A đã nhiều lần lấy
dầu được thuê vận chuyển của nhà máy bột ngọt TH với tổng trị giá là 38.565.000
đồng. Sau đó thì A bị phát hiện

Anh (chị) hãy xác định tội danh trong vụ án này và giải thích tại sao?

Trả lời:

Trong trường hợp này A có tội, cụ thể là Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản căn cứ theo Điều 175 BLHS.

Chủ thể: A là chủ thể thường, đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự căn cứ theo Điều 12
BLHS và không thuộc các trường hợp tại Điều 21 BLHS 2015.
Khách thể:

- Quyền sở hữu của nhà máy bột ngọt TH


- Đối tượng tác động: dầu chạy máy của nhà máy sản xuất bột ngọt mà A nhận được
thông qua hợp đồng vận chuyển dầu với nhà máy

Mặt khách quan:

- Hành vi: A ký hợp đồng với nhà máy sản xuất bột ngọt TH với nội dung vận chuyển
dầu chạy máy cho nhà máy nên A nhận được tài sản một cách hợp lý để đem đi vận
chuyển. Sau đó A dùng thủ đoạn rút dầu ra bán cho bên B và chất những thùng nước
có trọng lượng tương đương với số dầu đã rút ra nhằm gian dối việc cân xe để nhập
dầu vào kho. Như vậy A đã có thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản đem bán lấy
tiền.
- Hậu quả: hành vi của A được thực hiện nhiều lần đã gây thiệt hại đến nhà máy bột
ngọt với số tiền bị hao hụt tương đương với số tiền A bán được trị giá 38.565.000
đồng.

Mặt chủ quan: Lỗi cố ý trực tiếp

- Về lý trí:

o Với hành vi: A nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, vi phạm
hợp đồng và đem lại thiệt hại cho nhà máy nhưng vẫn làm

o Với hậu quả: mong muốn hậu quả xảy ra

- Về ý chí: để mặc việc mình đã vi phạm hợp đồng với nhà máy bột ngọt nhằm chiếm
đoạt tài sản.

Bài tập 29:


Công ty bảo vệ thực vật A nhập từ nước ngoài về Việt Nam 32 tấn nguyên liệu
sản xuất thuốc trừ sâu BPMC hàm lượng khai báo là 97%. Qua kiểm định của
Trung tâm Kiểm định thực vật phía Nam thì hàm lượng chỉ có 94,6%. Với cách thức
như vậy, Công ty sẽ không phải đóng thuế thay vì phải nộp 10% khi áp đúng mã
thuế. Do vậy Công ty A tránh được việc nộp thuế với giá trị 01 tỷ 450 triệu đồng.
Anh (chị) hãy xác định tội danh trong vụ án này và giải thích tại sao?

Trả lời:

Tội danh của Công ty A là Tội trốn thuế Điều 200 BLHS 2015.
Về chủ thể: Công ty bảo vệ thực vật A, là pháp nhân thương mại theo quy định của pháp
luật (thỏa mãn điều 75 BLDS 2015, có năng lực chịu trách nhiệm hình sự)

Về khách thể: chế độ quản lý thuế của Nhà nước trên tất cả các lĩnh vực, cụ thể là hoạt
động thu ngân sách nhà nước dẫn đến thất thu ngân sách, gây thiệt hại tiền thuế cho Nhà
nước.

Về mặt khách quan:


- Hành vi khách quan: Việc khai báo hàm lượng 97% để công ty không phải bị nộp
thuế nhưng thực tế kiểm định chỉ có 94,6%, tức là việc chênh lệch thuế đã vi phạm
vào điểm e khoản 1 Điều 200 vì khai sai với thực tế hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu.
- Hậu quả: làm tổn thất đến ngân sách nhà nước giá trị 1 tỷ 450 triệu đồng.
- Mối quan hệ nhân quả: hành vi khai báo sai là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến việc tổn
thất ngân sách.

Về mặt chủ quan: lỗi cố ý trực tiếp


- Lý trí: Công ty A nhận biết được rằng khai báo sai thực tế là hành vi nguy hiểm
- Ý chí: vẫn mong muốn hậu quả xảy ra

Câu hỏi thêm: vậy phân biệt với tội buôn lậu Điều 188 BLHS? Tội buôn lậu sẽ
khai báo sai giấy tờ không hợp pháp hoặc không khai báo nhưng Tội trốn thuế là có khai
báo nhưng khai báo thấp hơn để không cần đóng thuế hoặc đóng thuế ít hơn (hành vi
khách quan được quy định tại TTLT 10/2013).

Bài tập 33:

Lực lượng trinh sát đã phát hiện A đang vận chuyển số hàng có dấu hiệu nghi
vấn. Qua kiểm tra, công an phát hiện 200 gói bột ngọt nhãn hiệu Thai Fermenttiom
Ind.Co;Ltd. A khai nhận số bột ngọt này có nguồn gốc từ Trung Quốc nhưng được
đóng gói với nhãn hiệu Thai Fermenttiom Ind.Co;Ltd. Bên cạnh đó A còn có hành
vi mua bột ngọt có nguồn gốc từ Trung quốc đem về đóng gói vào bao bì mang các
nhãn hiệu Ajinomoto, Miwon, A-one, Thai Fermenttiom Ind.Co;Ltd…rồi bán ra thị
trường tổng cộng 8 tấn bột ngọt tương đương với giá trị của hàng thật là 300 triệu
đồng. Theo kết luận giám định thì bột ngọt Trung quốc có hàm lượng, định lượng
chất chính chỉ đạt mức 60% so với tiêu chuẩn chất lượng của nhà nước.
Anh (chị) hãy xác định tội danh trong vụ án nêu trên

Trả lời:

A đã phạm 2 tội: Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là phụ gia thực phẩm (Điều 193)
và Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp (Điều 226)

* Đối với Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là phụ gia thực phẩm (Điều 193)

Khách thể:
- Xâm phạm đến trật tự kinh tế hàng hóa, sản phẩm của thị trường
- Đối tượng tác động: bột ngọt

Chủ thể: A là chủ thể thường, đủ tuổi chịu TNHS theo Điều 12, có đầy đủ năng lực trách
nhiệm hình sự theo Điều 21.

Mặt khách quan:


- Hành vi: A sản xuất, buôn bán hàng giả là phụ gia thực phẩm. Cụ thể: A đã mua bột
ngọt có nguồn gốc từ Trung Quốc đem về đóng gói vào bao bì của các nhãn hiệu bột
ngọt nổi tiếng trên thị trường, rồi bán ra thị trường tổng cộng 8 tấn bột ngọt tương
đương với giá trị của hàng thật là 300 triệu đồng Theo kết quả giám định thì bột ngọt
Trung Quốc có hàm lượng, định lượng chất chính chỉ đạt mức 60% so với tiêu chuẩn
chất lượng của nhà nước
- CSPL: điểm b khoản 7 Điều 3 NĐ 98/2020/NĐ-CP quy định: “Hàng hóa có ít nhất
một trong các chỉ tiêu chất lượng hoặc đặc tính kỹ thuật cơ bản hoặc định lượng chất
chính tạo nên giá trị sử dụng, công dụng của hàng hóa chỉ đạt mức từ 70% trở xuống
so với mức tối thiểu quy định tại quy chuẩn kỹ thuật hoặc tiêu chuẩn chất lượng đã
đăng ký, công bố áp dụng hoặc ghi trên nhãn, bao bì hàng hóa”

Mặt chủ quan: Lỗi cố ý trực tiếp, A ý thức được hành vi mình thực hiện và có thể lường
trước được hậu quả nhưng vẫn thực hiện

Định tội: điểm h khoản 2 Điều 193 BLHS

* Đối với Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp (Điều 226)

Khách thể:
- Quan hệ xã hội bị xâm phạm: Xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp xâm phạm trật tự
quản lý nhà nước về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp.
- Đối tượng: Nhãn hiệu của các hãng Ajinomoto, Miwon, Aone, Thai Fermentation
Ind.Co;Ltd …đã được đăng kí bảo hộ tại Việt Nam

Chủ thể: A là chủ thể thường, đủ tuổi và đủ năng lực trách nhiệm hình sự.

Mặt khách quan


- Hành vi: A cố ý xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với các nhãn hiệu đã được
đăng kí bảo hộ ở Việt Nam. Cụ thể: A đã có hành vi mua bột ngọt có nguồn gốc từ
Trung Quốc đem về rồi đóng gói vào bao bì mang các nhãn hiệu Ajinomoto, A-one,
Miwon, … (đây là các nhãn hiệu đã được đăng ký bảo hộ) rồi đem bán ra thị trường
thu lợi bất chính với tổng giá trị tương đương với giá trị hàng thật là 300 triệu đồng.
Hành vi của A là sử dụng bất hợp pháp đối với các đối tượng sở hữu công nghiệp nêu
trên, gây nhầm lẫn đối với người tiêu dùng.
Mặt chủ quan: Lỗi cố ý

Định tội: điểm c Khoản 2 Điều 226 BLHS .

You might also like