Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 41

Bộ môn:

PHÁP LUẬT VỀ
HỢP ĐỒNG VÀ
BỒI THƯỜNG
THIỆT HẠI
NGOÀI HỢP
ĐỒNG

buổi thảo luận thứ Tư Lớp QT47.1


BẢO ĐẢM THỰC HIỆN NGHĨA VỤ
Nhóm 4
DANH SÁCH THÀNH VIÊN
NHÓM 4 - LỚP QT47.1

CÔNG ĐÁNH
STT HỌ VÀ TÊN MSSV
VIỆC GIÁ

1 Nguyễn Ngọc Lan Anh 2153801015012

2 Đào Vũ Thảo Anh 2253801015012

3 Nguyễn Hoàng Lan Anh 2253801015021

4 Nguyễn Ngọc Vân Anh 2253801015029

5 Nguyễn Nhật Anh 2253801015030

6 Trịnh Tú Anh 2253801015038

7 Đỗ Mai Hồng Ánh 2253801015040

8 Đặng Minh Chiến 2253801015057

9 Nguyễn Thị Mỹ Dung 2253801015066

10 Đỗ Phương Hồng 2253801015117


Mục lục
VẤN ĐỀ 1: ĐỐI TƯỢNG DÙNG ĐỂ BẢO ĐẢM VÀ TÍNH CHẤT PHỤ CỦA
BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM...........................................................................................1

Tóm tắt Bản án số 208/2010/DS-PT của TAND TP. Hồ Chí Minh...............1

Tóm tắt Quyết định số 02/2014/UBTP ngày 28/02/2004 của Tòa án nhân
dân tỉnh Tiền Giang về việc tranh chấp hợp đồng cầm cố quyền sử dụng
đất..................................................................................................................1

Quyết định số 27/2017/DS-GĐT Vụ việc: “ tranh chấp hợp đồng tín dụng”
.......................................................................................................................1

1. Những điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 liên quan đến tài sản có
thể dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ..............................................................2

2. Đoạn nào của bản án số 208 cho thấy bên vay dùng giấy chứng nhận sạp để
bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả tiền vay?.............................................................3

3. Giấy chứng nhận sạp có là tài sản không? Vì sao?..........................................3

4. Việc dùng giấy chứng nhận sạp để bảo đảm nghĩa vụ dân sự có được Tòa án
chấp nhận không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?.....................................3
5. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết và cơ sở pháp lý của Tòa án đối
với việc dùng giấy chứng nhận để đảm bảo nghĩa vụ..........................................3

6. Đoạn nào của Quyết định số 02 cho thấy các bên đã dùng quyền sử dụng đất
để cầm cố?............................................................................................................4

7. Văn bản hiện hành có cho phép dùng quyền sử dụng đất để cầm cố không?
Nêu cơ sở văn bản khi trả lời?..............................................................................4

8. Trong Quyết định trên, Tòa án có chấp nhận cho phép dùng quyền sử dụng
đất để cầm cố không? Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời?........................4

9. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án trong Quyết định
số 02.....................................................................................................................5

10. Trong Quyết định số 27, thế chấp được sử dụng để bảo đảm cho nghĩa vụ
nào? Vì sao?.........................................................................................................6

11. Đoạn nào trong Quyết định số 27 cho thấy Toà án xác định hợp đồng thế
chấp đã chấm dứt? ...............................................................................................6

12. Vì sao Toà án xác định hợp đồng thế chấp nêu trên đã chấm dứt? ...............7

13. Việc Toà án xác định hợp đồng thế chấp nêu trên đã chấm dứt có thuyết
phục không? Vì sao? ...........................................................................................7

14. Khi xác định hợp đồng thế chấp chấm dứt, Tòa án theo hướng bên nhận thế
chấp (Ngân hàng) có trách nhiệm hoàn trả Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà
và quyền sử dụng đất có thuyết phục không? Vì sao? ........................................8

VẤN ĐỀ 2: ĐƠN PHƯƠNG CHẤM DỨT HỦY BỎ DO KHÔNG THỰC


HIỆN ĐÚNG HỢP ĐỒNG.......................................................................................9

Tóm tắt bản án 90/2019/KDTM-PT ngày 16/8/2019 về tranh chấp hợp


đồng tín dụng của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội................................9

Tóm tắt quyết định giám đốc thẩm số 41/2021/KDTM-GĐT ngày


08/07/2021 về vụ việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng”..............................9

1. Điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về đăng ký giao dịch đảm bảo.
..............................................................................................................................9
2. Hợp đồng thế chấp số 1013.2009/HĐTC ngày 07/09/2009 có thuộc trường
hợp phải đăng ký không.....................................................................................11

3. Hợp đồng thế chấp số 07/9/2009 đã được đăng ký phù hợp với quy định
không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?....................................................11

4. Theo Tòa án, nếu không được đăng ký, hợp đồng thế chấp số 07/9/2009 có
vô hiệu không? Vì sao?......................................................................................12

5. Hướng của Tòa án như trong câu hỏi trên có thuyết phục không? Vì sao? . .12

6. Hợp đồng thế chấp trong Quyết định số 41 có hiệu lực đối kháng với người
thứ ba không? Vì sao?........................................................................................13

7. Theo quy định về đòi tài sản (Điều 166 và tiếp theo BLDS năm 2015), Ngân
hàng có quyền yêu cầu ông Tân (người thứ ba so với hợp đồng thế chấp) trả lại
tài sản thế chấp (xe ô tô) không? Vì sao?...........................................................13

8. Việc Tòa án buộc ông Tân trả lại tài sản thế chấp (xe ô tô) cho Ngân hàng có
thuyết phục không? Vì sao?...............................................................................13

VẤN ĐỀ 3: ĐẶT CỌC............................................................................................14

Tóm tắt Quyết định số 49/2018/KDTM-GĐT ngày 18/10/2018 của Tòa án


nhân dân cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh;.....................................................14

Tóm tắt Án lệ số 25/2018/AL.......................................................................14

Tóm tắt bản án số 26/2019/DS-PT ngày 11/6/2019 “V/v Tranh chấp hợp
đồng đặt cọc” của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam...............................15

1. Khác biệt cơ bản giữa đặt cọc và cầm cố, đặt cọc và thế chấp.......................15

2. Thay đổi giữa BLDS 2015 và BLDS 2005 về đặt cọc...................................16

3. Theo BLDS, khi nào bên đặt cọc mất cọc, bên nhận cọc bị phạt cọc? ..........17

4. Nếu hợp đồng được đặt cọc không được giao kết, thực hiện vì lý do khách
quan,bên nhận cọc có nghĩa vụ trả lại tài sản đặt cọc cho bên đặt cọc không? Vì
sao?.....................................................................................................................17

 Đối viết Quyết định số 49................................................................................ 17


5. Theo Quyết định được bình luận, bên đặt cọc đã chuyển tài sản đặt cọc cho
bên nhận cọc như thế nào?.................................................................................17

6. Theo Toà giám đốc thẩm trong Quyết định được bình luận, tài sản đặt cọc
còn thuộc sở hữu của bên đặt cọc không? Vì sao?.............................................18

7. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Toà giám đốc thẩm liên
quan đến quyền sở hữu tài sản đặt cọc...............................................................18

 Đối với Bản án số 26:..................................................................................... 19

8. Đoạn nào cho thấy Tòa án đã áp dụng Án lệ số 25/2018/AL?.......................19

9. Việc Tòa án áp dụng Án lệ số 25/2018/AL vào hoàn cảnh trong vụ việc này
có thuyết phục không? Vì sao?...........................................................................19

10. Việc Toà án “không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông P, về việc yêu cầu
ông I phải trả số tiền phạt cọc là 450.000.000đ” có phù hợp với Án lệ
số 25/2018/AL không? Vì sao?..........................................................................19

VẤN ĐỀ 4: BẢO LÃNH.........................................................................................20

Tóm tắt Quyết định số 02/2013/KDTM-GĐT ngày 08/1/2013 của Hội đồng
thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao............................................................20

Tóm tắt quyết định số 968/2011/DS-GĐT ngày 27/12/2011 của Tòa dân sự
Tòa án nhân dân tối cao..............................................................................20

1. Những đặc trưng của bảo lãnh........................................................................20

2. Những thay đổi giữa BLDS 2015 và BLDS 2005 về bảo lãnh......................22

 Đối với Quyết định số 02................................................................................ 23

3. Đoạn nào cho thấy Tòa án xác định quan hệ giữa ông Miễn, bà Cà với Quỹ
tín dụng là quan hệ bảo lãnh?.............................................................................23

4. Suy nghĩ của anh/chị về việc xác định trên của Hội đồng thẩm phán............23

5. Theo Tòa án, quyền sử dụng đất của ông Miễn, bà Cà được sử dụng để bảo
đảm cho nghĩa vụ nào? Vì sao?..........................................................................23

 Đối với Quyết định số 968.............................................................................. 23


7. Hướng liên đới trên có được Tòa giám đốc thẩm chấp nhận không? ...........23

8. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm
liên quan đến vấn đề liên đới nêu trên. ..............................................................24

9. Phân biệt thời điểm phát sinh nghĩa vụ bảo lãnh và thời điểm thực hiện
nghĩa vụ bảo lãnh. .............................................................................................24

10. Theo BLDS, khi nào người bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh?....24

11. Theo Quyết định, khi nào người bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh?
............................................................................................................................25

12. Có bản án, quyết định nào theo hướng giải quyết trên về thời điểm thực hiện
nghĩa vụ bảo lãnh chưa? Nêu rõ bản án, quyết định mà anh/chị biết.................25

13. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm......25
VẤN ĐỀ 1: ĐỐI TƯỢNG DÙNG ĐỂ BẢO ĐẢM VÀ TÍNH CHẤT PHỤ CỦA
BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM
Tóm tắt Bản án số 208/2010/DS-PT của TAND TP. Hồ Chí Minh
Nguyên đơn là ông Bá Minh (chủ doanh nghiệp cầm đồ), bị đơn là bà Khen và
ông Thảo. Đây là vụ kiện tranh chấp hợp đồng dịch vụ vay tiền. Vào năm 2007, bà
Khen và ông Thảo có thế chấp cho ông Minh một giấy sử dụng sạp D2-9 tại chợ
Tân Hương để vay 60 triệu đồng. Đến nay, bị đơn chưa trả hết nợ vốn và tiền lãi
tổng cộng là 70 triệu đồng nên nguyên đơn khởi kiện. Hướng giải quyết Tòa án:
giấy chứng nhận sạp là giấy đăng ký sử dụng sạp, không phải quyền sở hữu nên
giấy chứng nhận trên không đủ cơ sở pháp lý để bà Khen thi hành án trả tiền cho
ông Minh.
____________________________________
Tóm tắt Quyết định số 02/2014/UBTP ngày 28/02/2004 của Tòa án nhân
dân tỉnh Tiền Giang về việc tranh chấp hợp đồng cầm cố quyền sử dụng đất.
- Nguyên đơn: ông Nguyễn Văn Ôn, bà Lê Thị Xanh, bị đơn: ông Nguyễn Văn
Rành, bà Hồ Thị Hết.
- Nội dung: Ngày 30/08/1995, ông Ôn và bà Xanh cùng ông Rành thỏa thuận
việc thục đất. Hai bên có lập “Giấy thục đất làm ruộng” với giá 30 chỉ vàng 24k,
thỏa thuận 3 năm sẽ chuộc, quá hạn không chuộc thì vợ chồng ông Rành sẽ canh tác
vĩnh viễn. Hiện tại, phần đất tranh chấp vợ chồng ông Rành đang canh tác và còn
2,5 tháng sẽ thu hoạch. Theo lời khai của nguyên đơn và bị đơn đều thừa nhận là
cầm cố đất. Quyết định dân sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành:
Hủy hợp đồng cầm cố quyền sử dụng đất đối với phần đất 3.072,7m2, buộc ông
Rành phải giao trả lại phần đất 3.072,7m2 cho ông Ôn, bà Xanh và yêu cầu ông Ôn,
bà Xanh liên đới trả cho ông Rành hết 30 chỉ vàng 24k (loại vàng nhẫn). Tại Quyết
định Giám đốc thẩm đã chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
dân tỉnh Tiền Giang và cho rằng: giao dịch giữa ông Ôn, bà Xanh và ông Rành là
giao dịch tương tự như là giao dịch cầm cố tài sản do đó phải áp dụng nguyên tắc
tương tự là các quy định về cầm cố tài sản để giải quyết, cũng như hủy Bản án dân
sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành về việc “Tranh chấp hợp đồng
cầm cố quyền sử dụng đất.”

1
_____________________________________
Quyết định số 27/2017/DS-GĐT Vụ việc: “ tranh chấp hợp đồng tín dụng”
- Nguyên đơn: Ngân hàng liên doanh V, bị đơn: Công ty PT và những người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Năm 2014, ngân hàng liên doanh V và công ty PT đã
ký kết một số hợp đồng. Tính đến ngày 05/9/2019, Công ty PT còn thiếu Ngân hàng
Liên doanh V số tiền hơn 5 tỷ đồng và 69.444,52 USD (bao gồm cả nợ gốc và lãi).
Để đảm bảo cho khoản vay 1,5 tỷ đồng của Công ty PT theo Hợp đồng tin dụng số
60 thì giữa ông Trần T, bà Trần Thị H và Ngân hàng có ký kết hợp đồng thế chấp.
Theo đó, ông T và bà H đồng ý thế chấp tài sản là quyền sử dụng đất. Tuy nhiên,
xét thấy rằng ngày 17/6/2014 và ngày 23/9/2014, giữa Ngân hàng V và Công ty PT
ký phụ lục hợp đồng để nâng hạn mức tín dụng từ 1,5 tỷ đồng lên thành 5 tỷ đồng
và 10 tỷ đồng. Đến ngày 23/4/2015, giữa Ngân hàng và Công ty PT tiếp tục ký hợp
đồng với hạn mức tín dụng tối đa 10 tỷ đồng. Việc ký nâng hạn mức vay tín dụng
không hề có ý kiến của người thế chấp là ông Trần T và bà H. Việc Ngân hàng ký
nâng hạn mức vay từ 1,5 tỷ đồng lên 10 tỷ đồng đã vượt quá giá trị tài sản thế chấp
là điều bất hợp lý. Nguyên đơn Ngân hàng V thừa nhận Công ty PT đã tất toán các
khoản vay từ Hợp đồng tín dụng. Vì vậy, việc thế chấp tài sản của ông T, bà H đã
chấm dứt theo quy định tại khoản 1 Điều 357 BLDS 2005 và khoản 1 Điều 327
BLDS 2015.
- Quyết định của Tòa: Chấp nhận Kháng nghị số 10/KNGĐT-VKS-KDTM
ngày 07/12/2020 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ
Chí Minh và hủy bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm và giữ nguyên bản án
kinh doanh thương mại sơ thẩm
____________________________________
1. Những điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 liên quan đến tài sản
có thể dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.
 Cơ sở pháp lý: Điều 320, 321, 322 BLDS 2005 và Điều 295 BLDS 2015
- Điểm mới thứ nhất là BLDS 2015 không dùng phương pháp liệt kê như BLDS
cũ để tránh tình trạng quy định không đầy đủ. Cụ thể, BLDS 2015 đã có sự thay đổi
về chế định liên quan đến tài sản có thể dùng để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự
so với BLDS 20015. BLDS mới chỉ có một điều luật quy định, trong khi BLDS cũ

2
có tới ba điều luật. Việc quy định theo hướng liệt kê của BLDS 2005, do vậy BLDS
2005 dường như cũng chỉ là sự lặp lại các loại tài sản theo quy định tại Điều 163
của Bộ luật và sự liệt kê sẽ dẫn đến tình trạng quy định không đầy đủ. Về sau,
BLDS 2015 đã khắc phục được những nhược điểm này.
- Dựa vào khoản 1 Điều 320 BLDS 2005 và khoản 1 Điều 295 BLDS 2015, ta
ghi nhận điểm mới thứ hai là quy định tại BLDS 2015 đã bỏ đi quy định “được phép
giao dịch” và chỉ quy định “trừ trường hợp cầm giữ, bảo lưu quyền tài sản”. Bởi
việc bỏ quy định này không phải là cho phép sử dụng tài sản không được phép giao
dịch để đảm bảo mà là ở các quy định chung đã có hướng giải quyết. Trong Báo cáo
tổng hợp của Bộ Tư pháp về ý kiến nhân dân có Dự thảo đã nêu: “về nguyên tắc, tài
sản được đem vào giao dịch phải phù hợp với quy định của pháp luật; nguyên tắc
này áp dụng chung chung cho các loại giao dịch, trong đó có giao dịch đảm bảo”.
- Điểm mới thứ ba là BLDS 2015 bỏ bớt quy định giải thích về tài sản hiện có
hay tài sản hình thành trong tương lai mà BLDS 2005 đã nêu một cách “rườm rà”
(dựa vào khoản 2 Điều 320 BLDS 2005 và khoản 3 Điều 295 BLDS 2015). Theo
đó, BLDS 2005 có liệt kê những vật hình thành trong tương lai là động sản, bất
động sản thuộc sở hữu của bên bảo đảm sau thời điểm nghĩa vụ được xác lập hoặc
giao dịch đảm bảo được giao kết. BLDS 2015 đã bỏ phần quy định này, không làm
rõ thế nào là tài sản hiện có hay tài sản hình thành trong tương lai. Việc thay đổi
như vậy là tránh được sự khó hiểu và rườm rà vì đã có quy định trong phần Tài sản
thuộc vấn đề chung của BLDS.
2. Đoạn nào của bản án số 208 cho thấy bên vay dùng giấy chứng nhận sạp
để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả tiền vay?
Đoạn của bản án số 208 cho thấy bên vay dùng giấy chứng nhận sạp để bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ trả tiền vay: “Vào ngày 14/9/2007 bà Bùi Thị Khen và ông
Nguyễn Khắc Thảo có thế chấp cho ông một giấy sử dụng sạp D2 – 9 tại chợ Tân
Hương để vay 60.000.000 đồng, thời hạn vay là 6 tháng, lãi suất thỏa thuận là
3%/tháng”.
3. Giấy chứng nhận sạp có là tài sản không? Vì sao?
Để xét một thứ có phải là tài sản hay không, đầu tiên, ta đối chiếu với những
mục được liệt kê tại khoản 1 Điều 105 BLDS 2015 về tài sản: “Tài sản là vật, tiền,
giấy tờ có giá và quyền tài sản”. Nhận thấy, giấy chứng nhận sạp không phải là tiền,

3
cũng không phải là giấy tờ có giá1 và không phải là quyền tài sản2 nhưng nó là vật
vì nó tồn tại ở dạng sản phẩm vật lý hiện hữu (có thể sờ, cầm, nắm được) mà ta xem
nó là tờ giấy và có chữ viết trên đó.
4. Việc dùng giấy chứng nhận sạp để bảo đảm nghĩa vụ dân sự có được
Tòa án chấp nhận không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?
Việc dùng giấy chứng nhận sạp để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự KHÔNG
được Tòa án chấp nhận. Đoạn của bản án cho câu trả lời: “Xét sạp thịt heo do bà
Khen đứng tên và cầm cố, nhưng giấy chứng nhận sạp D2-9 tại chợ Tân Hương là
giấy đăng ký sử dụng sạp, không phải quyền sở hữu, nên giấy chứng nhận trên
không đủ cơ sở pháp lý để bà Khen thi hành án trả tiền cho ông Minh”.
5. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết và cơ sở pháp lý của Tòa án
đối với việc dùng giấy chứng nhận để đảm bảo nghĩa vụ.
- Có lẽ, lý do mà bà Khen đem giấy chứng nhận sạp để đem đi thế chấp vì bà
nghĩ giấy chứng nhận sạp này là vật chứng minh bà có quyền sở hữu đối với sạp và
quyền sở hữu ấy mới chính là thứ mà bà đem đi thế chấp. Thế nhưng, giấy chứng
nhận sạp chỉ ghi nhận quyền được sử dụng sạp để bà Khen buôn bán tại chợ Tân
Hương, chứ sạp đó không thuộc quyền sở hữu của bà Khen, bà chỉ được sử dụng
chứ không có đặc quyền nào khác đối với sạp. Nên giấy chứng nhận trên không đủ
cơ sở pháp lý để bà Khen thi hành án trả tiền cho ông Minh.
- Tòa án căn cứ vào khoản 1 Điều 320 BLDS 2005 về vật đảm bảo thực hiện
nghĩa vụ dân sự là hợp lý. Theo đó, tài sản cầm cố ấy nếu không thuộc quyền sở
hữu của bà Khen thì bà Khen có quyền sử dụng nó chứ không có quyền định đoạt
trong giao dịch cầm cố sạp để trả nợ.
6. Đoạn nào của Quyết định số 02 cho thấy các bên đã dùng quyền sử dụng
đất để cầm cố?
Trong Quyết định số 02 có các đoạn như sau cho thấy các bên đã dùng quyền
sử dụng đất để cầm cố:

1
Khoản 9 Điều 3 Nghị định số 163/2006/NĐ-CP quy định giấy tờ có giá bao gồm cổ phiếu, trái phiếu, hối phiếu, kỳ
phiếu, chứng chỉ tiền gửi, séc, giấy tờ có giá khác theo quy định của pháp luật, trị giá được thành tiền và được phép giao
dịch
2
Điều 115 BLDS 2015 có quy định quyền tài sản là quyền trị giá tính bằng tiền, gồm có quyền tài sản đối với đối tượng
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu trí tuệ và các quyền tài sản khác

4
- Trong phần “Nhận thấy” của Quyết định số 02 có đoạn: “...Theo thỏa thuận
này thì ông Ôn, bà Xanh là người có tài sản là quyền sử dụng đất (QSDĐ) hợp
pháp, ông Rành có tài sản là 30 chỉ vàng. Thực hiện giao dịch ông Ôn, bà Xanh giao
QSDĐ cho ông Rành canh tác, đổi lại ông Rành đưa cho ông Ôn, bà Xanh 30 chỉ
vàng 24k để sử dụng, hai bên thỏa thuận nếu quá 03 năm ông Ôn, bà Xanh không
chuộc lại đất cũng bằng số vàng trên thì ông Rành có quyền canh tác số ruộng đất
này vĩnh viễn...”
- Trong phần “Xét thấy” của Quyết định số 02 có đoạn: “Ngày 30/8/1995 vợ
chồng ông Võ Văn Ôn và Lê Thị Xanh cùng ông Nguyễn Văn Rành thỏa thuận việc
thục đất. Hai bên có lập “Giấy thục đất làm ruộng” với nội dung giống như việc
cầm cố tài sản.”
7. Văn bản hiện hành có cho phép dùng quyền sử dụng đất để cầm cố
không? Nêu cơ sở văn bản khi trả lời?
- Văn bản hiện hành có cho phép dùng quyền sử dụng đất để cầm cố.
- Theo quy định tại khoản 1 Điều 105 BLDS 2015: “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ
có giá và quyền tài sản” và Điều 115 BLDS 2015: “Quyền tài sản là quyền trị giá
được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ,
quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác”. Vì quyền sử dụng đất được Luật thừa
nhận là quyền tài sản, nên quyền sử dụng đất là tài sản thuộc sở hữu của một chủ
thể có quyền sử dụng đất đó. Bên cạnh đó, Điều 310 BLDS 2015 quy định cho phép
cầm cố bất động sản đồng thời tại khoản 1 Điều 167 Luật Đất đai 2013 quy định
người sử dụng đất được thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê,
cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp, góp vốn quyền sử dụng đất theo quy định
của Luật này mà không có quy định hạn chế quyền của người sử dụng. Do đó mà
người sử dụng đất hoàn toàn có quyền cầm cố quyền sử dụng đất theo quy định của
BLDS 2015.
8. Trong Quyết định trên, Tòa án có chấp nhận cho phép dùng quyền sử
dụng đất để cầm cố không? Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời?
- Trong Quyết định trên, Tòa án có chấp nhận cho phép dùng quyền sử dụng đất
để cầm cố.

5
- Đoạn của Quyết định cho câu trả lời: “Xét việc giao dịch thục đất nêu trên là
tương tự với giao dịch cầm cố tài sản, do đó phải áp dụng nguyên tắc tương tự để
giải quyết. Về nội dung thì giao dịch thục đất nêu trên phù hợp với quy định về cầm
cố tài sản của Bộ luật dân sự (tại Điều 326, 327), do đó cần áp dụng các quy định về
cầm cố tài sản của Bộ luật dân sự để giải quyết mới đảm bảo quyền lợi hợp pháp
của các bên giao dịch.”
9. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án trong Quyết
định số 02.
- Theo nhóm thảo luận thì hướng giải quyết trên của Tòa án trong Quyết định
số 02 là hoàn toàn hợp lí vì một số lí do như sau:
+ Căn cứ vào Điều 309 BLDS 2015 có quy định: “Cầm cố tài sản là việc một
bên (sau đây gọi là bên cầm cố) giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên
kia (sau đây gọi là bên nhận cầm cố) để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ” và khoản 2
Điều 310 BLDS 2015 quy định: “Trường hợp bất động sản là đối tượng của cầm cố
theo quy định của luật thì việc cầm cố bất động sản có hiệu lực đối kháng với người
thứ ba kể từ thời điểm đăng ký” => Điều này đã cho thấy khả năng cầm cố bất động
sản nếu luật cho phép.
+ Như vậy, theo quy định của BLDS 2015 chúng ta hoàn toàn có thể sử dụng
quyền sử dụng đất để cầm cố:
 Thứ nhất: Theo khoản 1 Điều 107 BLDS 2015 quy định: “1. Bất động sản
bao gồm:
a) Đất đai;
b) Nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất đai;
c) Tài sản khác gắn liền với đất đai, nhà, công trình xây dựng;
d) Tài sản khác theo quy định của pháp luật”; và theo quy định tại khoản 1 Điều
105 BLDS 2015; Điều 115 BLDS 2015: “Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng
tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng
đất và các quyền tài sản khác”. Mặc dù BLDS 2015 không quy định quyền sử dụng
đất là bất động sản nhưng trong Luật Kinh doanh bất động sản đã có nhiều điều
khoản quy định cho thấy quyền sử dụng đất là bất động sản.

6
 Thứ hai, BLDS 2015 cho phép cầm cố bất động sản, Luật Đất đai 2013
không cấm cầm cố quyền sử dụng đất. Luật Đất đai 2013 quy định người sử dụng
đất được thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại,
thừa kế, tặng cho, thế chấp, góp vốn quyền sử dụng đất theo quy định của Luật Đất
đai (khoản 1 Điều 167) mà không có quy định hạn chế quyền của người sử dụng.
 Thứ ba, theo khoản 2 Điều 3 BLDS 2015 quy định: “Cá nhân, pháp nhân xác
lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình trên cơ sở tự do, tự
nguyện cam kết, thỏa thuận. Mọi cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của
luật, không trái đạo đức xã hội có hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải được
chủ thể khác tôn trọng”. Điều này cho thấy chỉ cần giao dịch cầm cố quyền sử dụng
đất được xác lập trên nguyên tắc này thì sẽ được pháp luật chấp nhận.
→ Vậy nên, với quy định hiện nay của BLDS 2015 và Luật Đất đai 2013 thì
hoàn toàn có thể cầm cố quyền sử dụng đất miễn không vi phạm điều cấm của luật,
không trái đạo đức xã hội.
10. Trong Quyết định số 27, thế chấp được sử dụng để bảo đảm cho nghĩa
vụ nào? Vì sao?
- Trong Quyết định số 27, thế chấp được sử dụng để đảm bảo cho nghĩa vụ
thanh toán các khoản vay của công ty PT. Được thể hiện qua đoạn: “Bên thế chấp
đồng ý dùng toàn bộ tài sản thế chấp được mô tả tại Điều 2 Hợp đồng này để bảo
đảm thực hiện toàn bộ nghĩa vụ đã, đang và sẽ phát sinh trong tương lai theo toàn
bộ các Hợp đồng tín dụng đã và sẽ ký giữa Ngân hàng với Bên vay trong giới hạn
số tiền tối đa bằng giá trị tài sản thế chấp theo quy định tại Điều 3 Hợp đồng
này…”.
- Vì hợp đồng thế chấp bất động sản số 63/2014/HĐTC giữa ông Trần T, bà
Trần Thị H với Ngân hàng V là nhằm đảm bảo quyền lợi của Ngân hàng V cũng
như đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản vay của công ty PT. Nhằm
hạn chế các rủi ro trong trường hợp công ty PT không có khả năng thanh toán các
khoản nợ của mình thì sẽ dùng tài sản thế chấp để thanh toán.
11. Đoạn nào trong Quyết định số 27 cho thấy Toà án xác định hợp đồng
thế chấp đã chấm dứt?
Đoạn trong quyết định số 27 cho thấy tòa án xác định hợp đồng thế chấp đã
chấm dứt là: “Căn cứ thỏa thuận tại cơ sở kết lập hợp đồng và khoản 2 Điều 1 của

7
Hợp đồng thế chấp bất động sản số 63 /2014/HĐTC ngày 06/6/2014 thì ông T, bà H
chỉ chịu trách nhiệm bảo đảm “thực hiện toàn bộ nghĩa vụ đã, đang và sẽ phát sinh
trong tương lai theo toàn bộ các Hợp đồng tín dụng đã và sẽ ký giữa Ngân hàng với
Bên vay” mà các hợp đồng tín dụng cụ thể đó chịu sự điều chỉnh và cho phép bởi
Hợp đồng tín dụng hạn mức số 60/2014/HĐTD ngày 14/4/2014. Nghĩa là, ông T và
bà H chỉ chịu trách nhiệm bảo đảm đối với các khoản nợ được giải ngân trên cơ sở
chịu sự điều chỉnh và cho phép bởi Hợp đồng tín dụng hạn mức số 60/2014/HĐTD
ngày 14/4/2014, cụ thể là các hợp đồng tín dụng cụ thể số 106/2014/HĐTDCT ngày
11/6/2014, số 65/2014/HĐTDCT ngày 15/4/2014 và số 73/2014/HĐTDCT ngày
25/4/2014. Tuy nhiên, theo sự xác nhận của phía Ngân hàng thi Công ty PT đã
thanh toán tất cả các khoản nợ theo các hợp đồng tín dụng cụ thể nêu trên và phía
Ngân hàng cũng đã tất toán các hợp đồng này vào ngày cuối cùng là 25/11/2014.
Do vậy, căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 357 Bộ luật dân sự năm 2005 về việc
thể chấp tài sản chấm dứt khi nghĩa vụ được bảo đảm bằng thế chấp chấm dứt thì
Hợp đồng thế chấp bất động sản số 63/2014/HĐTC ngày 06/6/2014 đã chấm dứt,
hết hiệu lực từ ngày 25/11/2014.”

12. Vì sao Toà án xác định hợp đồng thế chấp nêu trên đã chấm dứt?
- Vì trong quá trình giải quyết vụ án, xét thấy giữa Ngân hàng V và Công ty PT
ký nâng hạn mức vay tín dụng từ 1.500.000.000 đồng lên 10.000.000.000 đồng
nhưng không hề có ý kiến của người thế chấp là ông Trần T và bà Trần Thị H là
không đúng quy định. Mặt khác, việc Ngân hàng ký nâng hạn mức vay từ
1.500.000.000 đồng lên 10.000.000.000 đồng đã vượt quá giá trị tài sản thế chấp là
điều bất hợp lý.
- Ngoài ra thì phía Ngân hàng có cung cấp “Bản cam kết thể chấp" để chứng
minh ông T. bà H cam kết dùng tài sản để đảm bảo nghĩa vụ trả nợ thay cho Công
ty PT tuy nhiên chữ ký, chữ viết trong đó lại không phải chữ ký, chữ viết thật của
ông T, bà H. Như vậy, ông T, bà H không cam kết dùng tải sản của minh để đảm
bảo nghĩa vụ trả nợ thay cho Công ty PT đối với khoản nợ của Ngân hàng với hạn
mức là 5.000.000.000 đồng.

8
- Đối với hạn mức vay 10.000.000.000 đồng, phía Ngân hàng cũng không có tài
liệu, chứng cứ để chứng minh ông T, bà H đồng ý ký năng hạn mức vay tín dụng
này.
- Theo đó,Tòa xác nhận được nguyên đơn Ngân hàng Việt Nga thừa nhận Công
ty PT đã tất toán các khoản vay từ Hợp đồng tín dụng số 60/2014/HĐTD ngày
14/4/2014 lần lượt vào các ngày 15/10/2014: ngày 25/10/2014 và ngày 12/11/2014.
→ Vì vậy, việc thế chấp tài sản của ông T, bà H đã chấm dứt theo quy định tại
khoản 1 Điều 357 Bộ luật dân sự năm 2005 và khoản 1 Điều 327 Bộ luật dân sự
năm 2015.
13. Việc Toà án xác định hợp đồng thế chấp nêu trên đã chấm dứt có
thuyết phục không? Vì sao?
Việc tòa án xác định hợp đồng thế chấp nêu trên đã chấm dứt là thuyết phục.
- Thứ nhất, tại khoản 2 Điều 1 của Hợp đồng thế chấp mà 2 bên đã thỏa thuận
có ghi: “Hợp đồng này để bảo đảm thực hiện toàn bộ nghĩa vụ đã, đang và sẽ hình
thành trong tương lai theo toàn bộ các Hợp đồng tín dụng đã và sẽ ký giữa Ngân
hàng với bên vay trong giới hạn số tiền tối đa bằng giá trị tài sản thế chấp...". Tuy
nhiên, không hề có ý kiến của người thế chấp là ông Trần T và bà H, Ngân hàng đã
tự nâng hạn mức vay từ 1.500.000.000 đồng lên 10.000.000.000 đồng đã vượt quá
giá trị tài sản thế chấp. Điều này là trái với quy định hợp đồng hai bên đã thỏa
thuận.
- Thứ hai, trên thực tế, Công ty PT đã tất toán các khoản vay từ Hợp đồng tín
dụng số 60/2014/HĐTD ngày 14/4/2014
- Thứ ba, theo điều 327 BLDS 2015 về việc chấm dứt thế chấp tài sản:
“Thế chấp tài sản chấm dứt trong trường hợp sau đây:
1. Nghĩa vụ được bảo đảm bằng thế chấp chấm dứt.
2. Việc thế chấp tài sản được hủy bỏ hoặc được thay thế bằng biện pháp bảo
đảm khác.
3. Tài sản thế chấp đã được xử lý.
4. Theo thỏa thuận của các bên.”

9
- Vì các lẽ trên, Tòa xác định hợp đồng thế chấp đã chấm dứt là vô cùng thuyết
phục
14. Khi xác định hợp đồng thế chấp chấm dứt, Tòa án theo hướng bên
nhận thế chấp (Ngân hàng) có trách nhiệm hoàn trả Giấy chứng nhận quyền
sở hữu nhà và quyền sử dụng đất có thuyết phục không? Vì sao?
Khi xác định hợp đồng thế chấp chấm dứt toán theo hướng bên nhận thế chấp
có trách nhiệm hoàn trả giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất có
thuyết phục. Vì:
- Theo khoản 1 Điều 317 BLDS 2015: “ thế chấp tài sản là việc một bên (sau
đây gọi là bên thế chấp) dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ và không giao tài sản cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận thế chấp).
- Theo khoản 1 Điều 322 BLDS 2015 về nghĩa vụ của bên nhận thế chấp: “ trả
các giấy tờ cho bên thế chấp sau khi chấm dứt thế chấp đối với trường hợp các bên
thỏa thuận bên nhận thế chấp giữ giấy tờ liên quan đến tài sản thế chấp”.

10
VẤN ĐỀ 2: ĐƠN PHƯƠNG CHẤM DỨT HỦY BỎ DO KHÔNG THỰC
HIỆN ĐÚNG HỢP ĐỒNG
Tóm tắt bản án 90/2019/KDTM-PT ngày 16/8/2019 về tranh chấp hợp đồng tín
dụng của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
- Nguyên đơn : Ngân hàng N, bị đơn: Công ty TNHH Xây dựng và Thương mại V
- Nội dung: Theo hợp đồng mua bán nợ giữa công ty Q với ngân hàng thì công ty Q
mua lại toàn bộ khoản nợ của Công ty V với các hợp đồng tín dụng giữa Ngân hàng
với Công ty V. Theo đó ngân hàng tiếp tục gia hạn cho công ty thêm 12 tháng với
hạn mức tín dụng như cũ. Quá trình thực hiện hợp đồng này, Ngân hàng chưa giải
ngân mà chỉ theo dõi phần dư nợ chuyển sang.Vì vậy, công ty Q có quyền khởi kiện
Công ty V đến Tòa án để yêu cầu Công ty V phải trả các khoản nợ theo hợp đồng
tín dụng đã ký. Trong quá trình khởi kiện và Toà án giải quyết thì Ngân hàng mua
lại khoản nợ của Công ty V từ công ty Q. Qua quá trình xét xử Tòa Án đã chấp
nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng buộc công ty V phải thanh toán trả nợ gốc
lẫn lãi chậm trả phát sinh từ Hợp đồng tín dụng hạn mức. Quá trình thực hiện hợp
đồng này, Ngân hàng chưa giải ngân mà chỉ theo dõi phần nợ.
___________________________________
Tóm tắt quyết định giám đốc thẩm số 41/2021/KDTM-GĐT ngày
08/07/2021 về vụ việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng”.
- Nguyên đơn: Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng, bị đơn: ông Lê Vĩnh
Thọ; bà Nguyễn Thị Ngọc Loan.
- Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng (bên cho vay) và ông Lê Vĩnh
Thọ, bà Nguyễn Thị Ngọc Loan (bên vay) ký kết hợp đồng vay tiền số
HCM/15/1636/HĐTD ngày 19/06/2015. Tài sản thế chấp để đảm bảo cho khoản
tiền vay nói trên là xe ô-tô tải. Trong thời gian thế chấp, ông Thọ-bà Loan tự ý
chuyển nhượng xe ô-tô trên cho bà Giao theo hợp đồng ủy quyền 05/01/2017, mà
không có sự đồng ý của VP bank. Sau đó bà Giao chuyển nhượng xe cho ông Tân.
Sau khi nhận xe ô-tô, ông Tân trả tiền cho VP bank, một phần trong số tiền nợ còn
lại thay ông Thọ-bà Loan. Tòa xác định giao dịch chuyển nhượng xe là trái pháp
luật và buộc ông Tân phải trả lại xe cho VP bank để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả

11
nợ của ông Thọ-bà Loan. Đồng thời xem xét giải quyết về số tiền mà ông Tân và bà
Giao đã phải trả cho VP bank thay cho ông Thọ-bà Loan, xuất phát từ giao dịch
chuyển nhượng xe giữa các đơn sự. Đây là hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu mà
Tòa phải giải quyết cùng trong một vụ án để bảo đảm quyền lợi của đương sự theo
luật định.
_______________________________
1. Điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về đăng ký giao dịch đảm
bảo.
 BLDS 2005: Vị trí: Điều 323 BLDS 2005
- Khoản 1 Điều 323 : Giao dịch đảm bảo là giao dịch dân sự do các bên thỏa
thuận hoặc pháp luật quy định về việc thực hiện biện pháp đảm bảo được quy định
tại Khoản 1 Điều 318 của Bộ luật này
- Khoản 2 Điều 323 : Việc đăng ký là điều kiện để giao dịch đảm bảo có hiệu
lực chỉ trong trường hợp pháp luật có quy định
- Khoản 3 Điều 323: “Trường hợp giao dịch đảm bảo được đăng ký theo quy
định của pháp luật thì giao dịch đảm bảo đó có giá trị pháp lý đối với người thứ ba,
kể từ thời điểm đăng ký”
 BLDS 2015: Vị trí: Điều 298 BLDS 2015
- Khoản 1 Điều 298 : Biện pháp đảm bảo được đăng ký theo thỏa thuận hoặc
theo quy định của pháp luật. Việc đăng ký là điều kiện để giao dịch bảo đảm có hiệu
lực chỉ trong trường hợp luật có quy định.
- Khoản 2 Điều 298: Việc đăng ký là điều kiện để giao dịch bảo đảm có hiệu
lực chỉ trong trường hợp luật có quy định
- Khoản 3 Điều 298: Trường hợp được đăng ký thì biện pháp bảo đảm phát sinh
hiệu lực đối kháng với người thứ ba kể từ thời điểm đăng ký.
- Ở Khoản 1 Điều 323 BLDS 2005 và Khoản 1 Điều 298 BLDS 2015 ta thấy:
Trong BLDS 2005 chỉ đề cập đến vấn đề đăng kí giao dịch đảm bảo còn trong
BLDS 2015 có quy định về việc đăng kí biện pháp đảm bảo mà theo các khoản nêu
trên thì “biện pháp bảo đảm” được đăng ký theo thỏa thuận hoặc theo quy định của
luật còn “giao dịch bảo đảm” là giao dịch dân sự do các bên hoả thuận hoặc pháp

12
luật quy định về việc thực hiện biện pháp bảo đảm. Như vậy, ta có thể nói rằng việc
sử dụng “biện pháp đảm bảo” là từ ngữ phù hợp hơn.
- Ở Khoản 2 Điều 323 BLDS 2005 và Khoản 2 Điều 298 BLDS 2015 ta thấy:
BLDS 2015 đã thay thế cụm từ “pháp luật” thành “luật”. Bởi vì phạm vi điều chỉnh
của luật sẽ hẹp hơn (chỉ điều chỉnh 1 ngành, lĩnh vực) so với pháp luật (cả hệ thống
các quy tắc gắn liền với nhà nước, giúp nhà nước điều chỉnh bộ máy của mình).
Nhờ vậy nên hạn chế các chủ thể có thẩm quyền để quy định về giao dịch đảm bảo
và các điều kiện giúp cho giao dịch đảm bảo có hiệu lực.
- Ở Khoản 3 Điều 323 BLDS 2005 và Khoản 3 Điều 298 BLDS 2015 ta thấy:
BLDS 2015 đã thay thế cụm từ “giá trị pháp lý” bằng “hiệu lực đối kháng”. Hiệu
lực đối kháng chỉ phát sinh trong 4 trường hợp đảm bảo thực hiện nghĩa vụ: Cẩm cố
tài sản; Thế chấp tài sản; Bảo lưu quyền sở hữu; Cầm giữ tài sản. Vậy, điều này đã
làm hạn chế những ràng buộc pháp lý đối với bên thứ 3 trong giao dịch đảm bảo tài
sản. Sự điều chỉnh này cũng đã cụ thể hóa hơn các quy định của luật giúp cho việc
sử dụng và áp dụng pháp luật trong thực tiễn đời sống trở nên thuận lợi hơn.
- Thực tế , đây không phải là một quy định hoàn toàn mới của BLDS 2015, mà
chỉ mới về khái niệm. Nội dung, bản chất của vấn đề này đã được quy định tại
khoản 3 Điều 323 BLDS 2005: “Trường hợp giao dịch bảo đảm được đăng ký theo
quy định của pháp luật thì giao dịch bảo đảm đó có giá trị pháp lý đối với người thứ
ba, kể từ thời điểm đăng ký” và tại khoản 1 Điều 11 Nghị định 163/2006/NĐ-CP về
giao dịch bảo đảm (Nghị định 163/2006/NĐ-CP): “Giao dịch bảo đảm có giá trị
pháp lý đối với người thứ ba kể từ thời điểm đăng ký. Thời điểm đăng ký được xác
định theo quy định của pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm”. Như vậy, có thể
hiểu “hiệu lực đối kháng với người thứ ba” đồng nghĩa với “giá trị pháp lý đối với
người thứ ba” theo quy định của BLDS năm 2005.
- Ngoài ra, Khoản 3 Điều 298 cũng có quy định: “Việc đăng ký biện pháp bảo
đảm được thực hiện theo quy định của pháp luật về đăng ký biện pháp đảm bảo.”
Việc này giúp cho việc xử lý các vụ việc trở nên dễ dàng hơn, tránh sai xót dẫn đến
những tranh chấp không đáng có.
2. Hợp đồng thế chấp số 1013.2009/HĐTC ngày 07/09/2009 có thuộc
trường hợp phải đăng ký không

13
Hợp đồng thế chấp số 1013.2009/HĐTC ngày 07/09/2009 thuộc trường hợp
phải đăng ký vì:
- CSPL: Khoản 1 Điều 317 BLDS 2015
- Hợp đồng thế chấp này có nội dung thể hiện rằng ông Q, bà V tự nguyện dùng
tài sản thuộc quyền sở hữu của mình, cụ thể là nhà đất tại 60 V, phường T, quận H,
Hà Nội để đảm bảo cho các khoản vay của công ty V tại Ngân hàng. Bởi lẽ, ta có
thể thấy hợp đồng này là hợp đồng thế chấp quyền sử dụng nhà đất theo Khoản 1
Điều 317 BLDS 2015 quy định.
- Căn cứ theo quy định tại Khoản 1, Điều 2, Nghị định 08/2000/NĐ-CP về đăng
ký giao dịch bảo đảm có quy định: Những trường hợp sau đây phải được đăng ký tại
cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm: a) Việc cầm cố, thế chấp tài sản mà pháp luật
quy định tài sản đó phải đăng ký quyền sở hữu;
- Vì vậy nên hợp đồng thế chấp số 1013.2009/HĐTC ngày 7/9/2009 thuộc
trường hợp phải đăng ký.
3. Hợp đồng thế chấp số 07/9/2009 đã được đăng ký phù hợp với quy định
không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?
- Hợp đồng thế chấp số 07/9/2009 đã được đăng ký phù hợp với quy định pháp
luật.
- Đoạn của bản án cho câu trả lời: “Đối với hợp đồng thế chấp quyền sử dụng
đất và tài sản gắn liền với đất của bên thứ ba ngày 07/9/2009. Sau khi các bên ký
hợp đồng thì công chứng viên thực hiện công chứng theo trình tự. Bên thế chấp, bên
nhận thế chấp và bên vay ghi nhận rõ việc bên thế chấp và bên vay ký tên và Hợp
đồng trước mặt công chứng viên. Công chứng viên khẳng định khi ký kết hợp đồng,
ông Q và bà V đã xuất trình đầy đủ chứng minh thư nhân dân, hộ khẩu và Giấy
chứng nhận QSDĐ. Biên bản định giá tài sản có đầy đủ chữ ký của bên thế chấp là
vợ chồng ông Q và bà V; Bên khách hàng vay là Công ty V ký tên và đóng dấu.
Văn phòng công chứng đã thực hiện đúng pháp luật công chứng, nội dung văn bản
công chứng không trái với quy định pháp luật, không vi phạm Điều 122 BLDS 2005
nên không thể tự vô hiệu.”
- Và đoạn “Tại thời điểm ngày 30/9/2009 chỉ cần một bên là bên thế chấp hoặc
bên nhận thế chấp, bảo lãnh ký là được. Mà theo yêu cầu đăng ký thế chấp ngày

14
30/9/2009 thì bên nhận thế chấp là Ngân hàng có ký đóng dấu vào đơn này nên Đơn
đăng ký vẫn đúng quy định và phát sinh hiệu lực.” cho thấy Hợp đồng thế chấp số
07/9/2009 đã được đăng ký phù hợp với quy định pháp luật
4. Theo Tòa án, nếu không được đăng ký, hợp đồng thế chấp số 07/9/2009
có vô hiệu không? Vì sao?
- Theo Tòa án, nếu không được đăng ký, hợp đồng thế chấp số 07/9/2009
không vô hiệu.
- Vì tại thời điểm làm thủ tục đăng ký thế chấp ngày 07/9/2009 thì Thông tư số
05/TTLB-BTP-BTNMT ngày 16/6/2005 đang có hiệu lực, tại Điều 4 về người yêu
cầu đăng ký có quy định “người yêu cầu đăng ký là một bên trong các bên hoặc các
bên ký hợp đồng thế chấp, bảo lãnh” chi đến ngày 01/3/2010 thì mới có Thông tư số
06/2010/TTLT-BTP-BTNMT và tại Điều 1 mà Thông tư số 06 mới có quy định là
khi đăng ký thế chấp mới (lần đầu) thì các bên phải ký còn đăng ký thay đổi, bổ
sung thì chỉ cần một bên.
- Như vậy, tại thời điểm ngày 07/9/2009 chỉ cần một bên là bên thế chấp hoặc
bên nhận thế chấp, bảo lãnh ký là được. Mà theo đơn yêu cầu đăng ký thế chấp
ngày 07/9/2009 thì bên nhận thế chấp là Ngân hàng có ký đóng dấu vào đơn này
nên đơn đăng ký vẫn đúng quy định và phát sinh hiệu lực.
5. Hướng của Tòa án như trong câu hỏi trên có thuyết phục không? Vì
sao?
- Hướng của Tòa án như trong câu hỏi ở trên là thuyết phục.
- Vì bởi vì tại thời điểm làm thủ tục đăng ký thế chấp ngày 30/9/2009 thì Thông
tư số 05/TTLB-BTP-BTNMT ngày 16/6/2005 đang có hiệu lực, tại Điều 4 về người
yêu cầu đăng ký có quy định “người yêu cầu đăng ký là một bên trong các bên hoặc
các bên ký hợp đồng thế chấp, bảo lãnh”. Nên là chỉ cần có 1 bên thế chấp hoặc bên
nhận thế chấp, bảo lãnh ký là được.Vậy nếu không được đăng ký thì hợp đồng thế
chấp số 07/9/2009 không vô hiệu. Tạo điều kiện thuận lợi cho bên thế chấp, chỉ cần
được bên bảo lãnh đồng ý thì bên thế chấp vẫn có thể tiếp tục thực hiện được hợp
đồng thế chấp mà không cần phải đăng ký giao dịch đảm bảo và cũng không cần
phải phát sinh thêm các tài sản thế chấp khi phát sinh thêm các hợp đồng thế chấp
ký sau đó.

15
6. Hợp đồng thế chấp trong Quyết định số 41 có hiệu lực đối kháng với
người thứ ba không? Vì sao?
- Hợp đồng thế chấp trong Quyết định số 41 không có hiệu lực đối kháng với
người thứ ba.
- Bởi vì trong thời gian thế chấp, ông Thọ và bà Loan tự ý chuyển nhượng xe ô-
tô cho bà Giao theo hợp đồng uỷ quyền mà không có sự đồng ý của VP Bank, tiếp
đó bà Giao chuyển nhượng lại xe ô- tô cho ông Tân. Do đó, ông Tân chính là người
thứ ba - bên nhận bảo đảm đang nắm giữ và chiếm giữ tài sản bảo đảm.
Cơ sở pháp lý: Khoản 1 Điều 297 Bộ Luật Dân Sự 2015.
7. Theo quy định về đòi tài sản (Điều 166 và tiếp theo BLDS năm 2015),
Ngân hàng có quyền yêu cầu ông Tân (người thứ ba so với hợp đồng thế chấp)
trả lại tài sản thế chấp (xe ô tô) không? Vì sao?
- Ngân hàng không có quyền yêu cầu ông Tân (người thứ ba so với hợp đồng
thế chấp) trả lại tài sản thế chấp (xe ô tô).
- Bởi vì sự thoả thuận về việc chuyển nhượng xe ô tô của bà Giao với ông Tân
là xuất phát từ thiện chí của hai bên, do đó ông Tân được bà Giao chuyển giao
quyền chiếm hữu thông qua giao dịch dân sự phù hợp với quy định của pháp luật,
điều này phù hợp với điều khoản quy định tại Điều 165 BLDS 2015 về chiếm hữu
có căn cứ pháp luật. Vì vậy, ngân hàng không có quyền yêu cầu ông Tân trả lại tài
sản thế chấp trong khi ông Tân không thuộc đối tượng quy định tại Khoản 1 Điều
166 BLDS 2015.
8. Việc Tòa án buộc ông Tân trả lại tài sản thế chấp (xe ô tô) cho Ngân
hàng có thuyết phục không? Vì sao?
- Việc Tòa án buộc ông Tân trả lại tài sản thế chấp (xe ô-tô) cho Ngân hàng là
không thuyết phục vì ông Tân trả một phần trong số tiền nợ còn lại thay ông Thọ-bà
Loan cho ngân hàng VP bank. Toà án không có quyền đòi lại tài sản từ người chiếm
hữu về tài sản có căn cứ pháp luật.

16
VẤN ĐỀ 3: ĐẶT CỌC
Tóm tắt Quyết định số 49/2018/KDTM-GĐT ngày 18/10/2018 của Tòa án
nhân dân cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh;
Ngày 20/02/2008, Công ty Cổ phần du lịch Ninh Thuận ký kết biên bản thỏa
thuận bán 3.912 cổ phiếu, mệnh giá 100.000 đồng/cổ phiếu, tổng là3.919.200.000
đồng, thuộc sở hữu của Tổng Công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn Nhà nước (SCIC)
tại Công ty Cổ phần du lịch Ninh Thuận cho Công ty Cổ phần TV-TM-DV Địa ốc
Hoàng Quân. Ngày 22/02/2008 Công ty Cổ phần TV-TM-DV Địa ốc Hoàng Quân
chuyển 1 tỷ đồng tiền đặt cọc mua cổ phiếu vào tài khoản của Công ty du lịch Ninh
Thuận tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam và Ngân
hàng này đã trích tài khoản này để thu nợ ấy của Công ty Ninh Thuận. Thỏa thuận
không đạt được, Công ty Ninh Thuận cam kết hoàn trả 1 tỷ đồng và lãi suất. Sau đó
Công ty Ninh Thuận đổi thành Công ty TNHH du lịch Ninh Thuận và hiện nay đã
sáp nhập vào Công ty TNHH Thương mại và Xây dựng Sơn Long Thuận. Vì vậy,
nguyên đơn (gọi tắt là Công ty Hoàng Quân) khởi kiện buộc Công ty TNHH
Thương mại và Xây dựng Sơn Long Thuận hoặc Ngân hàng Thương mại cổ phần
Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh tỉnh Ninh Thuận hoàn trả 1 tỷ đồng và
không yêu cầu lãi suất
____________________________________
Tóm tắt Án lệ số 25/2018/AL

17
Về "không phải chịu phạt cọc vì lý do khách quan" được Hội đồng Thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 17 tháng 10 năm 2018 và được
công bố theo Quyết định số 269/QĐ-CA ngày 06 tháng 11 năm 2018 của Chánh
án Tòa án nhân dân tối cao.
- Nguyên đơn: ông Phan Thanh L.
- Bị đơn: bà Trương Hồng Ngọc H.
- Nội dung: Ông Phan Thanh L đặt cọc 2.000.000.000 đồng cho bà Trương
Hồng Ngọc H để mua nhà do bà H đứng tên. Hết thời hạn hoàn tất các thủ tục để
được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu đối với căn nhà nêu trên là 30 ngày theo
như được nêu trong Hợp đồng đặt cọc, bà H không thực hiện đúng cam kết nên ông
L khởi kiện yêu cầu bà H trả lại tiền cọc 2.000.000.000 đồng và phạt cọc
2.000.000.000 đồng. Bà H không đồng ý phạt cọc, chỉ đồng ý trả tiền cọc cùng với
lãi suất theo mức lãi suất của ngân hàng, vì cho rằng nguyên nhân dẫn đến việc bà
không thực hiện được đúng cam kết là do cơ quan thi hành án dân sự chậm sang tên
cho bà.
Nội dung án lệ:
[1] “…Tại Điều 5 của hợp đồng đặt cọc có nêu, trong thời hạn 30 ngày kể từ
ngày ký hợp đồng, bà H phải hoàn tất các thủ tục để được cấp giấy chứng nhận
quyền sở hữu đối với căn nhà nêu trên, sau đó sẽ ký hợp đồng mua bán có công
chứng; nếu vi phạm thời hạn nêu trên, bà H chịu phạt số tiền tương đương với tiền
cọc là 2.000.000.000 đồng. Hết thời hạn trên, bà H không thực hiện đúng cam kết,
nên ông L khởi kiện yêu cầu bà H trả lại tiền cọc 2.000.000.000 đồngvà phạt cọc
2.000.000.000 đồng.
[3] …tại thời điểm ông L đặt cọc 2.000.000.000 đồng cho bà Trương Hồng
NgọcH, bà H đã nhận nhà nhưng chưa làm thủ tục sang tên do cơ quan thi hành án
Dân sự Thành phố Hồ Chí Minh đang quản lý toàn bộ giấy tờ có liên quan đến căn
nhà…
[4] …Nếu có căn cứ xác định cơ quan thi hành án dân sự chậm trễ trong việc
chuyển tên quyền sở hữu cho bà H thì lỗi dẫn tới việc bà H không thể thực hiện
đúng cam kết với ông L thuộc về khách quan, và bà H không phải chịu phạt tiền
cọc…

18
__________________________________
Tóm tắt bản án số 26/2019/DS-PT ngày 11/6/2019 “V/v Tranh chấp hợp
đồng đặt cọc” của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam.
- Nguyên đơn: ông Vũ Đình P. Bị đơn: ông Trần Xuân I.
- Nhờ có mối quan hệ làm ăn với ông I nên ông P đã nhờ ông I mua hộ xe oto
Huyndai. Ngày 24/8/2016, ông P với ông I ký thỏa thuận đặt cọc 450.000.000 đồng
cam kết mua xe nhưng sau đó ông I không được giao xe đúng hạn theo hợp đồng
đặt cọc. Tháng 11/2017, ông P và ông I tiếp tục ký biên bản cảm kết, gia hạn thời
hạn bàn giao xe vào 08/01/2018. Nhưng ông I không thực hiện được nên đã trả lại
tiền cọc cho ông P. Ông P khởi kiện, yêu cầu Tòa án buộc ông I phải trả
thêm450.000.000 đồng tiền phạt cọc.Kết quả xét xử: cả ông P và ông I khi ký hợp
đồng đặt cọc đã không xem xét các quy định của pháp luật về điều kiện mua bán xe
oto nhập khẩu, nên cả hai bên cùng có lỗi làm cho giao dịch dân sự vô hiệu, nên
thiệt hại các bên phải tự chịu và yêu cầu phạt cọc của ông P là không có căn cứ.
______________________________
1. Khác biệt cơ bản giữa đặt cọc và cầm cố, đặt cọc và thế chấp.
- Khác biệt cơ bản giữa đặt cọc và cầm cố:
+ Theo khoản 1, Điều 328, Bộ luật Dân sự 2015 quy định: “1. Đặt cọc là việc
một bên (sau đây gọi là bên đặt cọc) giao cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận đặt
cọc) một khoản tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc vật có giá trị khác (sau đây gọi
chung là tài sản đặt cọc) trong một thời hạn để bảo đảm giao kết hoặc thực hiện hợp
đồng” và Điều 309 Bộ luật Dân sự 2015 về Cầm cố tài sản: “Cầm cố tài sản là việc
một bên (sau đây gọi là bên cầm cố) giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho
bên kia (sau đây gọi là bên nhận cầm cố) để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ”.
→ Tài sản dùng để bảo đảm trong đặt cọc là “tiền hoặc kim khí quý, đá quý
hoặc vật có giá trị khác”, do vậy tài sản dùng cho đặt cọc là một hiện vật, không thể
là quyền tài sản. Trong khi đó, về việc cầm cố, pháp luật không giới hạn về loại tài
sản được sử dụng để bảo đảm.
→ Cầm cố chỉ được sử dụng để “bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự”, trong
khi đó đặt cọc thường được sử dụng để “bảo đảm giao kết hoặc thực hiện hợp đồng
dân sự”.

19
+ Theo khoản 2 Điều 335 và Điều 303 Bộ luật dân sự 2015 thì việc xử lý tài sản
đặt cọc không cần phải qua bán đấu giá, trong khi đó việc xử lý tài sản cầm cố phải
có tiến hành theo thủ tục bán đấu giá nếu không có thoả thuận khác.
+ Đặt cọc là biện pháp bảo đảm mang tính hai chiều (bất cứ bên nào vi phạm
đều bị phạt cọc), trong khi đó cầm cố chỉ mang tính bảo đảm một chiều (bên cầm cố
bảo đảm trước bên nhận cầm cố).
- Khác biệt cơ bản giữa đặt cọc và thế chấp:
Theo khoản 1, Điều 328 và Điều 317 Bộ luật Dân sự 2015
+ Bên đặt cọc là bên dùng tiền hoặc vật có tài sản khác của mình giao cho bên
kia giữ một thời gian nhất định để bảo đảm giao kết và thực hiện hợp đồng và bên
nhận đặt cọc là bên nhận tiền hoặc tài sản khác. Còn bên thế chấp, bên nhận thế
chấp và có thể có thêm bên thứ ba giữ tài sản thế chấp.
+ Đối với đặt cọc tài sản bao gồm tiền, vật có giá trị hoặc các vật thông thường
khác mà bên đặt cọc giao cho bên nhận đặt cọc. Nhưng thế chấp tài bao gồm động
sản, bất động sản, tài sản được hình thành trong tương lai, Tài sản đang cho thuê
cũng như hoa lợi, lợi tức thu được từ việc cho thuê tài sản (nếu pháp luật có quy
định và các bên thỏa thuận) và tài sản thế chấp được bảo hiểm thì khoản tiền bảo
hiểm cũng có thể được thế chấp.
2. Thay đổi giữa BLDS 2015 và BLDS 2005 về đặt cọc.
- Tại Khoản 1 Điều 358 BLDS 2005 quy định về Đặt cọc:
“1. Đặt cọc là việc một bên giao cho bên kia một khoản tiền hoặc kim khí quý,
đá quý hoặc vật có giá trị khác (sau đây gọi là tài sản đặt cọc) trong một thời hạn để
bảo đảm giao kết hoặc thực hiện hợp đồng dân sự. Việc đặt cọc phải được lập thành
văn bản”.
Và Khoản 1 Điều 328 BLDS 2015 quy định về Đặt cọc:
“1. Đặt cọc là việc một bên (sau đây gọi là bên đặt cọc) giao cho bên kia (sau
đây gọi là bên nhận đặt cọc) một khoản tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc vật có
giá trị khác (sau đây gọi chung là tài sản đặt cọc) trong một thời hạn để bảo đảm
giao kết hoặc thực hiện hợp đồng”.

20
→ Theo đó, BLDS 2005 yêu cầu việc đặt cọc phải được lập bằng văn bản. Ở
đây, BLDS 2005 không nêu rõ yêu cầu văn bản là yêu cầu về việc chứng cứ của đặt
cọc hay là yêu cầu để đặt cọc có hiệu lực. Từ những bất cập của thực tiễn trước yêu
cầu văn bản của BLDS 2005 cùng với xu hướng không đặt nặng vấn đề hình thức
của giao dịch thì BLDS 2015 đã bỏ đi phần quy định này.
3. Theo BLDS, khi nào bên đặt cọc mất cọc, bên nhận cọc bị phạt cọc?
- Căn cứ vào khoản 2 Điều 358 BLDS 2005 quy định về Đặt cọc:
+ Bên đặt cọc bị mất cọc nếu bên đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp
đồng và tài sản đặt cọc thuộc về bên nhận cọc, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
+ Bên đặt cọc bị phạt cọc nếu bên đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp
đồng và bên đặt cọc phải trả cho bên đặt cọc tài sản đặt cọc và một khoản tiền tương
đương giá trị giá trị tài sản đặt cọc, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
- Căn cứ vào Khoản 2 Điều 328 BLDS 2015 quy định về Đăt cọc:
+ Tinh thần của BLDS 2015 cũng không có nhiều khác biêt so với BLDS 2005,
chỉ thay cuṃ từ “hợp đồng dân sư” bằng cum “hợpđồng”, cho thấy sự bao quát hơn
so với BLDS 2005.
4. Nếu hợp đồng được đặt cọc không được giao kết, thực hiện vì lý do
khách quan,bên nhận cọc có nghĩa vụ trả lại tài sản đặt cọc cho bên đặt cọc
không? Vì sao?
- Theo quy định tại khoản 2 điều 328 BLDS năm 2015 thì trong trường hợp hợp
đồng được giao kết, thực hiện thì tài sản đặt cọc được trả lại cho bên đặt cọc hoặc
được trừ để thực hiện nghĩa vụ trả tiền; nếu bên đặt cọc từ chối việc giao kết, thực
hiện hợp đồng thì tài sản đặt cọc thuộc về bên nhận đặt cọc; nếu bên nhận đặt cọc từ
chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng thì phải trả cho bên đặt cọc tài sản đặt cọc và
một khoản tiền tương đương giá trị tài sản đặt cọc, trừ trường hợp có thoả thuận
khác. Về nguyên tắc, cá nhân, pháp nhân phải tự chịu trách nhiệm về việc không
thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự. Tuy nhiên, nếu bên đặt cọc
hoặc bên nhận đặt cọc vi phạm nghĩa vụ do sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại
khách quan thì bên vi phạm có phải phạt cọc không, thì quy định tại Điều 328
BLDS năm 2015 thì không đề cập đến. Vì vậy, Nghị định số 01/2003 của Hội đồng

21
thẩm phán và Án lệ số 25/2018/AL ra đời là sự bổ sung khiếm khuyết cho pháp luật
khi không quy định về trường hợp không phải chịu phạt cọc vì lý do khách quan.
→ Do đó nếu hợp đồng được đặt cọc không được giao kết, thực hiện vì lý do
khách quan, bên nhận cọc không bị phạt cọc. Trong trường hợp này bên nhận cọc
phải có nghĩa vụ hoàn trả lại tài sản cho bên đặt cọc
 Đối viết Quyết định số 49
5. Theo Quyết định được bình luận, bên đặt cọc đã chuyển tài sản đặt cọc
cho bên nhận cọc như thế nào?
Trong nhận định của Tòa án: Ngày 20/02/2008, giữa Công ty Cổ phần du lịch
Ninh Thuận (gọi tắt là Công ty Ninh Thuận) và công ty Cổ phần TV-TM-DV Địa
ốc Hoàng Quân (gọi tắt là công ty Hoàng Quân) ký Biên bản thỏa thuận về việc
Công ty Ninh Thuận bán cho Công ty Hoàng Quân cổ phần thuộc sở hữu của Tổng
công ty đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước (gọi tắt là SCIC) tại Công ty Ninh
Thuận 39.192 cổ phiếu, mệnh giá 100.000 đồng/cổ phiếu, tổng giá trị 3.919.200.000
đồng. Công ty Hoàng Quân đặt cọc trước 1.000.000.000 đồng. Ngày 22/02/2008,
công ty Hoàng Quân đã chuyển số tiền đặt cọc vào tài khoản của Công ty Ninh
Thuận mở tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam – Chi nhánh tỉnh
Ninh Thuận theo ủy nhiệm chi ngày 22/02/2008.
6. Theo Toà giám đốc thẩm trong Quyết định được bình luận, tài sản đặt
cọc còn thuộc sở hữu của bên đặt cọc không? Vì sao?
Theo Tòa giám đốc thẩm trong Quyết định được bình luận, tài sản đặt cọc vẫn
còn thuộc sở hữu của bên đặt cọc. Vì căn cứ khoản 1 Điều 328 BLDS 2015 quy
định “Đặt cọc là việc một bên (sau đây gọi là bên đặt cọc) giao cho bên kia (sau đây
gọilà bên nhận đặt cọc) một khoản tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc vật có giá trị
khác (sau đây gọi chung là tài sản đặt cọc) trong một thời hạn để bảo đảm giao kết
hoặc thực hiện hợp đồng”. Từ đó cho ta thấy được rằng số tiền 1.000.000.000 mà
Công ty Hoàng Quân đặt cọc chưa thuộc quyền sở hữu của Công ty Ninh Thuận.
Tại ủy nhiệm chi ngày 22/02/2008, Công ty Hoàng Quân khi chuyển tiền khoản tài
khoản Công ty Ninh Thuận có ghi rõ nội dung là tiền đặt cọc mua cổ phần. Vì thế
tài sản đặt cọc vẫn còn thuộc sở hữu của bên đặt cọc.

22
7. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Toà giám đốc thẩm
liên quan đến quyền sở hữu tài sản đặt cọc.
- Hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm liên quan đến quyền sở hữu tài
sản đặt cọc là hợp lý vì Công ty Hoàng Quân đã chuyển số tiền đặt cọc vào tài
khoản của Công ty Ninh Thuận mở tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt
Nam - Chi nhánh tỉnh Ninh Thuận theo ủy nhiệm chi ngày 22-02-2008. Tuy nhiên,
khi số tiền này được chuyển vào tài khoản của Công ty Ninh Thuận thì Ngân hàng
đã căn cứ vào hợp đồng tín dụng có điều khoản thỏa thuận cho phép Ngân hàng
được quyền trích tài khoản của Công ty Ninh Thuận để cấn trừ vào số công nợ quá
hạn và lãi suất của Công ty Ninh Thuận là trái với quy định của pháp luật. Bởi lẻ số
tiền 1.000.000.000 đồng đặt cọc chưa thuộc quyền sở hữu của Công ty Ninh Thuận
quy định tại khoản 1 Điều 328 BLDS 2015 “Đặt cọc là việc một bên giao cho bên
kia một khoản tiền... trong một thời hạn để bảo đảm giao kết hoặc thực hiện hợp
đồng”. Công ty Hoàng Quân khi chuyển tiền vào tài khoản Công ty Ninh Thuận đã
ghi rõ nội dung là tiền đặt cọc mua cổ phần. Vì vậy, Ngân hàng đã chiếm hữu
không có căn cứ pháp luật đối với tài sản của Công ty Hoàng Quân.
- Trong BLDS chỉ quy định là “giao” tài sản đặt cọc “để bảo đảm giao kết hoặc
thực hiện hợp đồng” (khoản 1 Điều 328 BLDS 2015), chứ không quy định “chuyển
quyền sở hữu tài sản đặt cọc”.
- Khi việc thực hiện hợp đồng diễn ra thành công thì tài sản đặt cọc được trả lại
cho bên đặt cọc hoặc trừ vào nghĩa vụ trả tiền (khoản 2 Điều 328 BLDS 2015). Như
vậy, hướng giải quyết trên của Toà giám đốc thẩm liên quan đến quyền sở hữu tài
sản đặt cọc là hợp lý và thuyết phục vì đã phản ánh đúng với bản chất của đặt cọc
và bảo vệ tốt người đặt cọc.
 Đối với Bản án số 26:
8. Đoạn nào cho thấy Tòa án đã áp dụng Án lệ số 25/2018/AL?
- Tòa án đã áp dụng Án lệ số 25/2018/AL tại phần “Nhận định của Tòa án”, cụ
thể như sau: “Căn cứ theo Án lệ số 25/2018/AL được Hội đồng Thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao thông qua ngày 17 tháng 10 năm 2018 và được công bố theo Quyết
định số 269/QĐ-CA ngày 06 tháng 11 năm 2018 của Chánh án Tòa án nhân dân tối
cao: “Trường hợp bên nhận đặt cọc không thể thực hiện đúng cam kết là do yếu tố
khách quan và bên nhận đặt cọc không phải chịu phạt cọc”.

23
9. Việc Tòa án áp dụng Án lệ số 25/2018/AL vào hoàn cảnh trong vụ việc
này có thuyết phục không? Vì sao?
- Theo nhóm thì áp dụng án lệ số 25/2018/AL vào hoàn cảnh này là không phù
hợp.
- Bởi vì mua bán xe ô tô nhập khẩu là ngành nghề kinh doanh có điều kiện và
chỉ có doanh nghiệp mới được đăng ký kinh doanh ngành nghề này theo Nghị định
116/2017/CP có hiệu lực ngày 17/10/2017. Nhưng giao dịch đặt cọc mua xe nhập
khẩu giữa ông P và ông I thỏa thuận từ tháng 8/2016 ông I đã thừa nhận nhận tiền
cọc, nhưng tháng 11/2017 hai bên ký thỏa thuận gia hạn thời hạn giao xe đến
1/2018 (ông I vì tin tưởng không đọc biên bản mà ký luôn là lỗi của ông I). Về
nguyên tắc thì hành vi xảy ra ở thời điểm nào thì áp dụng văn bản ở thời điểm đó.
Trong trường hợp này thì giao dịch dân sự kéo dài từ năm 2016 đến năm 2018 và có
hình thức phù hợp với BLDS 2015 nên căn cứ điểm b khoản 1 Điều 688 BLDS
2015 và Nghị định 116/2017/CP. Vậy nên hợp đồng đặt cọc mua bán xe ô tô nhập
khẩu là vô hiệu. Hậu quả pháp lý là hai bên hoàn trả cho nhau những gì đã nhận ông
P đã nhận lại tiền từ ông I. Nên không cần áp dụng án lệ số 25/2018/AL vì hợp
đồng đặt cọc này vô hiệu.
10. Việc Toà án “không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông P, về việc yêu
cầu ông I phải trả số tiền phạt cọc là 450.000.000đ” có phù hợp với Án lệ
số 25/2018/AL không? Vì sao?
Nếu không tính đến việc án lệ hợp đồng có vô hiệu. Giả sử hợp đồng có hiệu
lực và xét theo Án lệ 25/2018/AL thì đó là phù hợp. Vì vụ việc tương tự, có tình
tiết, sự kiện pháp lý giống nhau phải được giải quyết như nhau. Trường hợp này
giống nhau đều là không thực hiện thỏa thuận đúng thời hạn do nguyên nhân khách
quan và không phải lỗi do người nhận đặt cọc.

VẤN ĐỀ 4: BẢO LÃNH

24
Tóm tắt Quyết định số 02/2013/KDTM-GĐT ngày 08/1/2013 của Hội đồng
thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
- Nguyên đơn: Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương – Chi nhánh Đồng Nai
- Bị đơn: Bà Đỗ Thị Tỉnh – Chủ Doanh nghiệp tư nhân Đại Lộc Tân
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Trần Văn Miễn và bà Nguyễn
Thị Cà
Ông Miễn và bà Cà mượn 70tr đồng chữa trị cho con bị tai nạn giao thông nên
thế chấp đất 20.408m2 cho bà Tỉnh vay Quỹ tín dụng 900tr đồng. Sau đó, bà Tỉnh đã
trả 270tr đồng tiền gốc (trong đó có 70tr đồng ông Miễn, bà Cà đã trả). Hiện tại,
Quỹ tín dụng khởi kiện đồi 630tr đồng còn lại và tiền lãi. Tại Toà án cấp sơ thẩm,
chấp nhận yêu cầu khởi kiện, quyết định bị đơn trả nợ còn lại và tiền lãi. Trả lại
quyền sử dụng đất cho ông Miễn, bà Cà. Tại Toà án cấp giám đốc thẩm, Toà cho
rằng quyết định của Toà án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm là không đúng.
Cho rằng Chủ doanh nghiệp tư nhân Đại Lộc Tân không trả nợ hoặc không trả đủ
thì ông Miễn, bà Cà phải trả thay, nếu không thì xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ.
________________________________
Tóm tắt quyết định số 968/2011/DS-GĐT ngày 27/12/2011 của Tòa dân sự
Tòa án nhân dân tối cao.
Tranh chấp giữa nguyên đơn là bà Vũ Thị Hồng Nhung và bị đơn là bà Nguyễn
Thị Thắng. Bà Vũ Thị Hồng Nhung cho bà Nguyễn Thị Mát vay 500.000.000 đồng
với lãi suất 1,2%/ tháng; có lập giấy biên nhận có sự bảo lãnh của ông Nguyễn Văn
Ân (Nhơn) và bà Nguyễn Thị Thắng. Các bên thỏa thuận trả lãi vay hàng tháng và
thanh toán tiền nợ gốc vào tháng 10 năm 2006. Tuy nhiên bà Mát chỉ trả cho bà
Nhung 8 tháng tiền lãi từ ngày 30/11/2005 đến ngày 30/7/2006, sau đó bà Mát
không trả cả tiền gốc lẫn tiền lãi. Bà Vũ Thị Hồng Nhung khởi kiện yêu cầu bà Mát
và bà Thắng phải có trách nhiệm trả tiền cho bà. Tòa xác định bà Mát là người vay
tiền của bà Nhung nên bà Mát phải là người thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với bà
Nhung, còn bà Thắng và ông Ân (Nhơn) chỉ là người bảo lãnh cho bà Mát. Nếu bà
Mát không có khả năng thực hiện nghĩa vụ dân sự hoặc chỉ có thể thực hiện được
một phần, thì phần không thực hiện được ông Ân và bà Thắng mới phải có trách
nhiệm thực hiện thay theo quy định tại Điều 361, 363 và Điều 365 BLDS. Tòa

25
quyết định hủy Bản án dân sự phúc thẩm số 24/2010/DS-PT của Tòa án nhân dân
tỉnh Đồng Nai và Bản án dân sự sơ thẩm số 376/2009/DS-PT của Tòa án nhân dân
thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.
_______________________________
1. Những đặc trưng của bảo lãnh.
 Đặc điểm:
- Là mối quan hệ 3 chủ thể giữa người có quyền, người có nghĩa vụ và người
thứ 3.
- Nghĩa vụ dân sự được bảo đảm thực hiện bằng uy tín của người bảo lãnh.
- Phát sinh đồng thời hai mối quan hệ nghĩa vụ, quan hệ giữa người bảo lãnh
với người nhận bảo lãnh, quan hệ giữa người bảo lãnh và người được bảo lãnh.
+ Nghĩa vụ của bảo lãnh là nghĩa vụ của nghĩa vụ - trên thực tế có thể gọi là
“con nợ” dự phòng)
+ Bảo lãnh là biện pháp mang tính đối nhân: bên bảo đảm trong lúc bảo lãnh
bao giờ cũng là người thứ ba.
+ Nghĩa vụ giữa những người cùng bảo lãnh với bên nhận bảo lãnh là nghĩa vụ
liên đới, trừ khi có thỏa thuận khác
+ Đây là một biện pháp mà người thứ 3 mang rủi ro cao đồng thời quyền lợi
người có quyền trong quan hệ nghĩa vụ chỉnh được bảo đảm cũng được nâng cao.
 Chủ thể:
- Người bảo lãnh: là người thứ 3 đứng ra cam kết với người có quyền trong
quan hệ nghĩa vụ chính về khả năng thực hiện nghĩa vụ của người có nghĩa vụ.
- Người được bảo lãnh: là người có nghĩa vụ trong quan hệ nghĩa vụ chính.
- Người nhận bảo lãnh: là người có quyền trong quan hệ nghĩa vụ chính.
+ Nhiều người cùng bảo lãnh một nghĩa vụ thì họ phải liên đới thực hiện việc
bảo lãnh.
+ Có quyền yêu cầu những người bảo lãnh còn lại phải thực hiện phần nghĩa vụ
của họ đối với mình.

26
+ Bên nhận bảo lãnh không được yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ thay
cho bên được bảo lãnh khi nghĩa vụ chưa đến hạn.
+ Tổ chức tín dụng có thể đóng vai trò người bảo lãnh và là một nhà kinh doanh
ngân hàng.
 Hình thức: Việc bảo lãnh phải được lập thành văn bản, có thể lập thành văn
bản riêng hoặc ghi trong hợp đồng chính. Trong trường hợp pháp luật có quy định
thì văn bản bảo lãnh phải được công chứng, chứng thực.
 Đối tượng, phạm vi, thời hạn:
- Đối tượng: Đối tượng trong quan hệ bảo lãnh là khả năng thực hiện công việc
đó của người bảo lãnh.
- Phạm vi: Bên bảo lãnh có thể cam kết bảo lãnh một phần hoặc toàn bộ nghĩa
vụ cho bên được bảo lãnh. Nếu không có thỏa thuận thì nghĩa vụ bảo lãnh bao gồm
cả tiền lãi trên nợ gốc, tiền phạt, tiền bồi thường thiệt hại.
- Thời hạn: Thường dài hơn thời hạn thực hiện nghĩa vụ chính bởi vì chỉ khi
nào hết thời hạn thực hiện nghĩa vụ chính mà người có nghĩa vụ không thực hiện,
thực hiện không đúng nghĩa vụ mới phát sinh nghĩa vụ của người bảo lãnh.
 Hủy bỏ việc bảo lãnh, xử lí tài sản của bên bảo lãnh:
- Việc bảo lãnh có thể được hủy bỏ nếu được bên nhận bảo lãnh đồng ý, trừ
trường hợp pháp luật có quy định khác.
- Trong trường hợp đã đến hạn thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh,
mà bên bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì bên bảo
lãnh phải đưa tài sản thuộc sở hữu của mình để thanh toán cho bên nhận bảo lãnh.
 Thù lao: Bên bảo lãnh được hưởng thù lao nếu bên bảo lãnh và bên được bảo
lãnh có thoả thuận.
2. Những thay đổi giữa BLDS 2015 và BLDS 2005 về bảo lãnh.
- BLDS 2015 không còn giữ Hình thức bảo lãnh như Điều 362 BLDS 2005.
- Về phạm vi bảo lãnh: BLDS 2015 bổ sung thêm “lãi trên số tiền chậm trả” về
nghĩa vụ bảo lãnh. Cho phép thoả thuận sử dụng biện pháp bảo đảm tài sản để đảm
bảo thực hiện nghĩa vụ. Bổ sung thêm về “phạm vi bảo lãnh” không bao gồm nghĩa

27
vụ phát sinh sau khi người bảo lãnh chết hay pháp nhân chấm dứt tồn tại. (Điều 336
BLDS 2015 và điều 363 BLDS 2005)
- Quan hệ giữa bên bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh: BLDS 2015 bổ sung
“trường hợp bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa
vụ của mình thì bên nhận bảo lãnh có quyền yêu cầu bên bảo lãnh phải thực hiện
nghĩa vụ bảo lãnh, trừ trường hợp các bên có thoả thuận bên bảo lãnh chỉ phải thực
hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh trong trường hợp bên được bảo lãnh
không có khả năng thực hiện nhiệm vụ”. (Điều 339 BLDS 2015 và điều 366 BLDS
2005)
- Về quyền yêu cầu của bên bảo lãnh: BLDS 2015 không yêu cầu bên bảo lãnh
đã hoàn thành nghĩa vụ thì mới có quyền yêu cầu bên được bảo lãnh thực hiện nghĩa
vụ đối với mình như BLDS 2005. (Điều 340 BLDS 2015 và điều 367 BLDS 2005)
- Miễn việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh: BLDS 2015 cho rằng khi bên bảo lãnh
được bên nhận bảo lãnh miễn việc thực nghĩa nghĩa vụ thì bên được bảo lãnh cũng
không phải thực nghĩa vụ. Ngược lại, BLDS 2005 cho rằng bên bảo lãnh được bên
nhận bảo lãnh miễn việc thực hiện nghĩa vụ nhưng bên được bảo lãnh vẫn phải thực
hiện nghĩa vụ. Ngoài ra, BLDS 2015 còn bổ sung trường hợp được một trong số
những người nhận bảo lãnh liên đới miễn thực hiện nghĩa vụ đối với mình thì bên
bảo lãnh vẫn phải thực hiện nghĩa vụ đối với các người nhận bảo lãnh liên đới còn
lại. (Điều 341 BLDS 2015 và điều 368 BLDS 2005)
- Điều 369 BLDS 2005 quy định về việc “Xử lý tài sản của bên bảo lãnh” được
sửa đổi, bổ sung thành “Trách nhiệm dân sự của bên bảo lãnh”. (Điều 342 BLDS
2015)
 Đối với Quyết định số 02
3. Đoạn nào cho thấy Tòa án xác định quan hệ giữa ông Miễn, bà Cà với
Quỹ tín dụng là quan hệ bảo lãnh?
Toà án xác định quan hệ giữa ông Miễn, bà Cà với Quỹ tín dụng là quan hệ bảo
lãnh căn cứ vào đoạn: “Trong trường hợp xác định Hợp đồng thế chấp quyền sử
dụng đất của người thứ ba số 01534 ngày 22/9/2006 giữa các bên có hiệu lực thì
phải tuyên theo đúng quy định tại khoản 1 Điều 5 và khoản 1 Điều 7 của Hợp đồng
thế chấp; Điều 361 Bộ luật dân sự là khi Chủ Doanh nghiệp tư nhân Đại Lộc Tân

28
không trả nợ hoặc trả không đủ thì ông Miễn, bà Cà phải trả thay; nếu ông Miễn, bà
Cà không trả nợ hoặc trả không đủ thì mới xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ.”
4. Suy nghĩ của anh/chị về việc xác định trên của Hội đồng thẩm phán.
Theo em, việc xác định trên của Hội đồng thẩm phán chưa đủ tuyệt đối. Bởi vì
theo trình bày của bên bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì ông
Miễn và bà Cà trong tình thế bắt buộc đã thế chấp nhà, để bà Tỉnh vay tiền của Quỹ
tín dụng. Hiện tại ông Miễn, bà Cà đã trả đủ số tiền nợ là 70.000.000 đồng (đã trả
lãi đủ cho bà Trang) thì nên được trao trả lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và
thay thế bằng tài sản của bà Tỉnh.
5. Theo Tòa án, quyền sử dụng đất của ông Miễn, bà Cà được sử dụng để
bảo đảm cho nghĩa vụ nào? Vì sao?
Theo Tòa án, quyền sử dụng đất của ông Miễn, bà Cà được sử dụng để đảm bảo
cho nghĩa vụ thay cho bà Tỉnh – Chủ Doanh nghiệp tư nhân Đại Lộc Tân nếu không
trả nợ hoặc trả không đủ thì ông Miễn, bà Cà phải trả; nếu ông Miễn, bà Cà không
trả hay không trả đủ thì xử lý tài sản thế chấp đó (quyền sử dụng của ông Miễn, bà
Cà).
 Đối với Quyết định số 968
6. Đoạn nào cho thấy Tòa án địa phương đã theo hướng người bảo lãnh và
người được bảo lãnh liên đới thực hiện nghĩa vụ cho người có quyền?
- Tại phần xét thấy của quyết định 968 /2011/DS-GĐT cho thấy: “ Tại Bản án
dân sự sơ thẩm số 89/2008/DS-ST ngày 30/7/2008, Tòa án nhân dân huyện Trảng
Bom, tỉnh Đồng Nai quyết định: Chấp nhận đơn khởi kiện của bà Vũ Thị Hồng
Nhung. Bà Nguyễn Thị Thắng và bà Nguyễn thị Mát cùng có nghĩa vụ liên đới chịu
trách nhiệm trả cho bà Vũ Thị Hồng Nhung 700.100.000 đồng.”
7. Hướng liên đới trên có được Tòa giám đốc thẩm chấp nhận không?
- Hướng liên đới trên không được Tòa giám đốc thẩm chấp nhận. Căn cứ vào
nội dung xét thấy của quyết định 968 /2011/DS-GĐT cho thấy: “Căn cứ vào các tài
liệu nêu trên có cơ sở xác định bà Mát là người vay tiền của bà Nhung, còn bà
Thắng và ông Ân (Nhơn) chỉ là người bảo lãnh cho bà Mát nên trước hết cần xác
định bà Mát phải là người thực hiện nghĩa vụ dân sự của mình đối với bà Nhung;
nếu bà Mát không có khả năng thực hiện nghĩa vụ dân sự hoặc chỉ có thể thực hiện

29
được một phần, thì phần không thực hiện được bà Thắng và ông Ân mới phải có
trách nhiệm thực hiện thay theo quy định tại Điều 361, 363 và Điều 365 Bộ luật dân
sự.”
8. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm
liên quan đến vấn đề liên đới nêu trên.
- Theo em hướng giải quyết của Tòa giám đốc thẩm liên quan đến vấn đề liên
đới nêu trên là hoàn toàn hợp lý.
- Đối với trường hợp người bảo lãnh là cá nhân cụ thể trong trường hợp trên là
Bà Thắng và ông Ân thì ta phải xét đến khả năng thanh toán của người có nghĩa vụ
là cần thiết. Bởi trong trường hợp trên bà Mát mới là người phát sinh nghĩa vụ dân
sự đối với và Nhung; thế nên xét trong mối tương quan của quan hệ này thì nghĩa vụ
thanh toán phải là người thực hiện nghĩa vụ cụ thể là bà Mát. Bà Thắng và ông Ân
chỉ là bên thứ ba đứng ra bảo lãnh với bên có quyền là bà Nhung. Thế nên theo em
hướng giải quyết của Tòa án giám đốc thẩm đã đảm bảo đúng đắn lợi ích hợp pháp
của các bên tham gia quan hệ dân sự, giải quyết triệt để tranh chấp diễn ra.
9. Phân biệt thời điểm phát sinh nghĩa vụ bảo lãnh và thời điểm thực hiện
nghĩa vụ bảo lãnh.
- Thời điểm phát sinh nghĩa vụ bảo lãnh là từ khi cam kết bảo lãnh
- Thời điểm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh là bên bảo lãnh phải thực hiện nghĩa
vụ được bảo đảm bằng việc bảo lãnh đến thời hạn thực hiện. Không chỉ có vậy mà
pháp luật còn có quy định về việc xác định việc thực hiện nghĩa vụ của bên bảo lãnh
bắt đầu từ thời điểm này trong trường hợp các bên trong quan hệ bảo lãnh không có
thoả thuận khác về thời điểm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Bên cạnh đó, thời điểm
thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh còn được xác định từ thời điểm có đủ căn cứ để xác
định về việc bên được bảo lãnh không còn khả năng thực hiện nghĩa vụ.
10. Theo BLDS, khi nào người bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh?
Căn cứ tại khoản 1 Điều 44 Nghị định 21/2021/NĐ-CP cũng có các quy định về
việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh như sau:
“1. Bên bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh khi nghĩa vụ được bảo lãnh
bị vi phạm theo một trong các căn cứ sau đây:
a) Do bên được bảo lãnh không thực hiện nghĩa vụ đúng thời hạn;

30
b) Do bên được bảo lãnh không thực hiện nghĩa vụ trước thời hạn theo thỏa
thuận;
c) Do bên được bảo lãnh thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ;
d) Do bên được bảo lãnh thực hiện không đúng nội dung của nghĩa vụ;
đ) Do bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ quy định
tại khoản 2 Điều 335 và khoản 1 Điều 339 của Bộ luật Dân sự;
e) Căn cứ khác theo thỏa thuận hoặc theo quy định của Bộ luật Dân sự, luật
khác liên quan.”
11. Theo Quyết định, khi nào người bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo
lãnh?
Theo Quyết định, có đoạn: “nếu bà Mát không có khả năng thực hiện nghĩa vụ
dân sự hoặc chỉ có thể thực hiện được một phần, thì phần không thực hiện được bà
Thắng và ông Ân mới phải có trách nhiệm thực hiện thay theo quy định tại Điều
361, Điều 363 và Điều 365 theo Bộ luật dân sự.”
- Vậy có thể hiểu rằng chỉ khi đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên được bảo
lãnh không thể thực hiện hoặc chỉ thực hiện được một phần thì người bảo lãnh sẽ
phải chịu nghĩa vụ thay người người được bảo lãnh.
12. Có bản án, quyết định nào theo hướng giải quyết trên về thời điểm thực
hiện nghĩa vụ bảo lãnh chưa? Nêu rõ bản án, quyết định mà anh/chị biết.
Bản án 45/2018/KDTM-PT ngày 12/04/2018 về Tranh chấp yêu cầu thực
hiện nghĩa vụ bảo lãnh của Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội
- Ngân hàng TMCP SGHN và Công ty cổ phần thép SH ký Hợp đồng cấp hạn
mức tín dụng số 0082403, cấp cho Công ty hạn mức tín dụng có giá trị 300 tỷ đồng
với thời hạn 12 tháng. Biện pháp bảo đảm cho khoản vay gồm: Thư bảo lãnh vay
vốn số 435 trị giá 100 tỷ đồng. Tài sản thế chấp: thép thanh vằn các loại theo Hợp
đồng thế chấp tài sản số 0081706 ngày 01/6/2011. Công ty SH đã vi phạm nghĩa vụ
trả nợ. Ngân hàng đã yêu cầu trả nợ nhưng công ty không thực hiện dẫn đến nợ quá
hạn. Ngân hàng làm việc và yêu cầu thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh như đã cam kết tại
Thư bảo lãnh nhưng Bị đơn từ chối. Ngày 02/5/2013, Ngân hàng đã khởi kiện yêu
cầu Bị đơn phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, trả nợ. Ngày 25/9/2014, Ngân hàng đã
bán toàn bộ khoản nợ của công ty SH cho Công ty VAMC theo Hợp đồng mua, bán

31
nợ số 3309. Tính đến ngày Tòa án xét xử, Nguyên đơn yêu cầu Bị đơn phải thực
hiện nghĩa vụ bảo lãnh, trả nợ số tiền là 261.878.051.607 đồng (nợ gốc, nợ lãi trong
hạn và nợ lãi quá hạn). Nguyên đơn đề nghị Tòa án buộc Bị đơn phải trả cho
Nguyên đơn số tiền trên và phải tiếp tục trả khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ
gốc chưa thanh toán. Đối với số nợ còn lại theo Hợp đồng tín dụng số 82403,
Nguyên đơn không yêu cầu giải quyết trong vụ án này, để bị đơn tạo ra thành phẩm
để có tài sản thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho Nguyên đơn.
- Quyết định của tòa án: Chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của Tổng công
ty cổ phần SH. Sửa Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 03/2017/KDTM- ST
ngày 19/6/2017 của Tòa án nhân dân quận Tây Hồ, TP Hà Nội. Chấp nhận yêu cầu
khởi kiện của Công ty VAMC đối với Tổng công ty cổ phần SH.
13. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm.
- Em đồng ý với hướng giải quyết của Tòa giám đốc thẩm vì 2 tòa cấp sơ thẩm
và phúc thẩm chưa xác định được rõ khả năng thực hiện nghĩa vụ dân sự của bà Mát
mà đã buộc bà Thắng cùng liên đới thực hiện nghĩa vụ dân sự với bà Mát. Điều này
đồng nghĩa rằng Tòa án 2 cấp trên đã không tuân thủ theo Điều 361 BLDS 2005:
“Bảo lãnh là việc người thứ ba (say đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên có
quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có
nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn mà bên được bảo
lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Các bên cũng có thể
thoả thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ khi bên được bảo lãnh
không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình.”

32
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Bộ luật dân sự 2015, Bộ luật dân sự 2005
- Lê Minh Hùng, Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2017.
- Lê Minh Hùng (chủ biên), Hình thức của hợp đồng, Nxb. Hồng Đức 2015.
- Lê Thị Hồng Vân, Sách tình huống Pháp luật hợp đồng và bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2017.
- Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng Việt Nam-Bản án và Bình luận bản án, Nxb.
Hồng Đức 2023 (xuất bản lần thứ chín).

33
- Viên Thế Giang, Thực trạng pháp luật về tài sản bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
dân sự và hướng sửa đổi, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 04/2015;
- Đỗ Văn Đại, Bình luận khoa học những điểm mới của BLDS 2015, Nxb.
Hồng Đức – Hội luật gia Việt Nam 2016

34

You might also like