Professional Documents
Culture Documents
NHÓM 1 - BẢO KÍNH CẢN GIỚI SỐ 28
NHÓM 1 - BẢO KÍNH CẢN GIỚI SỐ 28
NHÓM 1 - BẢO KÍNH CẢN GIỚI SỐ 28
I. Mở bài
Nhà văn Hoài Thanh đã từng đưa ra nhận định: “Đi vào thơ Nôm
Nguyễn Trãi là chuyện vất vả, có khi thấy rối rít như đi vào rừng sâu.
Nhưng cứ chịu khó đi và đi nhiều lần sẽ thấy không uổng. Đây đó sẽ
ánh lên những lời thơ đẹp. Đọc một tập thơ, nếu chỉ thấy ánh lên một
vài lần cũng đã là không uổng. Ở đây thì không phải chỉ vài lần mà
nhiều lần và ánh lên rất đẹp”. Thật vậy, trong lịch sử phong kiến Việt
Nam không có nhiều những con người tỏa sáng ở cả hai lĩnh vực
chính trị và thơ ca, riêng có Nguyễn Trãi được biết vừa là một quân sư
tài ba, một vị quan hết lòng vì nước vì dân, vừa là một tài năng văn
chương khiến cho hậu thế phải ngợi ca. Nổi tiếng với những áng văn
thơ mộc mạc, chân thành, Nguyễn Trãi luôn tập trung thể hiện tình
yêu đối với thiên nhiên và tấm lòng trung hiếu, yêu nước thương dân.
Khi nhắc đến thơ Nguyễn Trãi, ta không thể không nhắc đến bài thơ
“Bảo kính cảnh giới 28” nằm trong tập thơ “Quốc âm thi tập” nói về
nỗi nhớ quê và sự nhàn nhã của ông khi đã rời xa chốn đô thành và
công danh.
Hai câu vào đề của bài thơ đã gợi lên được hình ảnh Nguyễn Trãi xin
cáo quan về quê sống cuộc đời ẩn dật. Cũng qua hai câu thơ này, ta
thấy được tình yêu quê hương tha thiết trong Nguyễn Trãi: ông luôn
hướng mình về nơi cội nguồn, luôn mong muốn được trở về nơi chôn
rau cắt rốn. Những dòng thơ ấy hẳn được viết ra khi Nguyễn Trãi đã
ngao ngán chuyện quan trường, vào thời điểm ông không còn được
trọng dụng nữa. Ông chẳng chờ đến ngày "cởi ấn", đã "gượng xin về"
với quê hương, lui về chốn thanh nhàn, với cuộc sống tự do và thoải
mái. Thoạt nhìn, dường như ông chỉ còn bận tâm tìm kiếm sự an
nhàn, thanh thản, thế nhưng, chính từ "gượng" trong câu thơ đã giúp
ta thấy được nỗi lo đau đáu việc dân việc nước sâu thẳm trong thâm
tâm ông. Tuy ông vẫn còn thiết tha nỗi nhớ quê hương, nhưng trong
hoàn cảnh xã hội còn nhiều thị phi, ông lại không đành lòng lui về ở
ẩn. Hai câu thơ sáu chữ đã bộc lộ cảm xúc của vị thi sĩ một cách cô
đọng và súc tích.
b. Hai câu thực:
“Một bầu phong nguyệt nhàn tự tại,
Hai chữ công danh biếng vả vê.”
- Sử dụng phép đối tương hỗ
+ Một bầu - Hai chữ
+ Phong nguyệt - công danh
+ Nhàn tự tại - biếng vả vê
→ Tạo sự cân xứng , hài hoà về ý nghĩa và nội dung
→ Cùng hỗ trợ , cộng hưởng ý nghĩa → làm rõ nét nội dung của câu
thơ cũng như cảm xúc của nhà thơ
→ Mượn thiên nhiên nói lên nỗi lòng chỉ tha thiết với cuộc sống tự
do, tự tại, đắm chìm vào thiên nhiên, không quan tâm danh lợi
- “Nhàn tự tại” : cuộc sống tự do , không bị gò bó , ràng buộc
- “Biếng vả vê” : không thiết tha , ham hư vinh , danh lợi
→ Trong thời gian lui về ở ẩn ở chốn quê nhà , Nguyễn Trãi đã sống 1
cuộc sống không vướng bận hay bị gò bó bởi những công việc của
triều đình , rời xa nơi đặt hư vinh , quyền quý lên hàng đầu .
→ Yêu quê hương , hòa mình với cuộc sống giản dị , đơn sơ mà tràn
ngập thiên nhiên , vô cùng tự do , đẹp đẽ
→ Tâm hồn nhà thơ thanh cao , trong sạch , luôn “lánh đục tìm trong”
, chẳng ham những thứ như danh lợi hay quyền quý , luôn tìm kiếm và
tận hưởng 1 cuộc sống bình yên mà hạnh phúc
→ Đi ngược với quan niệm xã hội phong kiến, không ham muốn danh
lợi, chức quyền