Professional Documents
Culture Documents
CHỦ ĐỀ 5 TÌM HIỂU VỀ ROM
CHỦ ĐỀ 5 TÌM HIỂU VỀ ROM
PHẦN I: MỞ ĐẦU..............................................................................................1
2
PHẦN II. NỘI DUNG
2.1. Khái niệm Rom
ROM (Read-only Memory) hay còn được gọi là bộ nhớ trong hoặc dung
lượng của điện thoại. Có chức năng lưu trữ các tệp chương trình, phần
mềm của hệ thống, thông tin dữ liệu,.. trên thiết bị.
2.2. Lịch sử phát triển
Mọi chương trình được lưu trữ có thể sử dụng một dạng lưu trữ cố định trên
ROM (nghĩa là dữ liệu của nó không bị mất khi bị ngắt nguồn) để lưu trữ
chương trình ban đầu khởi chạy khi máy tính được bật hoặc bắt đầu thực thi
(một quá trình được gọi là bootstrapping, thường được viết tắt là "booting" hoặc
"booting up").
Các dạng bộ nhớ chỉ đọc được sử dụng làm bộ lưu trữ không mất dữ liệu cho
các chương trình trong hầu hết các máy tính, chẳng hạn như ENIAC từ năm
1948. Bộ nhớ chỉ đọc thực hiện nó đơn giản hơn vì nó chỉ cần một cơ chế để
đọc các giá trị được lưu trữ, và không thay đổi chúng, và do đó có thể được
thực hiện với các thiết bị điện tử thô.
Với sự ra đời của các mạch tích hợp vào những năm 1960, cả ROM và
RAM có thể thay đổi đã được triển khai dưới dạng các mảng bóng bán dẫn
trong chip silicon; tuy nhiên, một ô nhớ ROM có thể được sản xuất bằng cách
sử dụng ít bóng bán dẫn hơn một ô nhớ SRAM. Do đó, ROM có thể được sản
xuất với chi phí thấp hơn so với RAM trong nhiều năm.
Ví dụ, Commodore 64 bao gồm 64 KB RAM và 20 KB ROM chứa trình
thông dịch BASIC và "kernel" (hạt nhân) của hệ điều hành. Các máy tính gia
đình hoặc văn phòng sau này như IBM PC XT thường bao gồm các ổ đĩa từ và
dung lượng RAM lớn hơn, cho phép chúng tải hệ điều hành từ ổ cứng vào
RAM, chỉ còn một chương trình khởi động phần cứng tối thiểu trong ROM
(được gọi là BIOS trong các máy tính tương thích IBM).
Trong các PC hiện đại, "ROM" (hoặc flash) được sử dụng để lưu trữ
phần cứng khởi động (firmware) cơ bản cho bộ xử lý chính, cũng như các
3
phần firmware khác nhau cần thiết để điều khiển các thiết bị độc lập như card đồ họa,
đĩa cứng, ổ đĩa DVD, màn hình, v.v.. trong hệ thống.
tính. Khác với RAM chỉ là bộ nhớ tạm thời, ROM là bộ nhớ có tính chất bất
4
biến. Tức là nếu bạn đã lưu trữ thì dữ liệu sẽ không bị mất đi, kể cả khi bạn đã
tắt máy.
ROM thường được trang bị bằng cách lắp đặt thẳng trên mainboard để chứa
Trên máy tính, laptop: ROM sẽ được lắp đặt bên trong thùng máy,
thường nằm ở CPU, đóng vai trò là bộ nhớ đệm giúp thiết bị tăng tốc độ
truy xuất dữ liệu.
Trên điện thoại: ROM hiểu đơn giản như là một phân vùng bí mật, dùng
để lưu trữ hệ điều hành. Khách hàng sẽ không thể ghi dữ liệu lên ROM,
nhưng hệ thống có thể ghi đè lên ROM khi cập nhật (up ROM).
5
do tại sao việc sản xuất ra một con chip ROM nguyên mẫu thường là một quá
trình rất mất thời gian và đầy những rủi ro. Thế nhưng những lợi ích mà ROM
mang lại luôn lớn hơn rất nhiều những khó khăn gặp phải trong khâu sản xuất.
Sau khi bản ROM mẫu được hoàn thành, chi phí để sản xuất những mẫu ROM
khác cũng vì thế mà rẻ hơn. Bộ nhớ ROM sử dụng rất ít năng lượng, cực kỳ
đáng tin cậy và là một bộ phận không thể thiếu trên các thiết bị điện tử nhỏ.
Chúng chứa đựng tất cả các chương trình cần thiết để chúng ta sử dụng thiết bị.
Một đi-ốt thường chỉ cho phép dòng điện chạy theo một hướng duy nhất
với một ngưỡng nhất định, được gọi là forward breakover (điện áp chuyển tiếp
dự phòng). Khái niệm này giúp xác định cần bao nhiêu dòng điện trước khi
chúng đi qua các đi-ốt. Đối với các sản phẩm được sản xuất từ silicon như bộ vi
xử lý và chip nhớ, điện áp chuyển tiếp dự phòng lý tưởng là khoảng 0,6 volt.
Bằng cách tận dụng các tính chất độc đáo của một đi-ốt, ROM có thể truyền
một dòng điện vượt quá ngưỡng chuyển tiếp tới các cột thích hợp thông qua các
hàng thích hợp đã được lựa chọn, để tạo thành những ô kết nối nhất định. Nếu
một đi-ốt có mặt tại ô đó, thì theo hệ nhị phân, giá trị được hiểu sẽ là "on" (giá
trị 1). Nếu giá trị của ô là 0 thì tức là không có đi-ốt ở các ô giao điểm kết nối
cột và hàng. Vì vậy, dòng điện trên cột không được truyền tới hàng.
6
Ngược lại những vị trí không có diode thì sẽ cho phép lưu trữ số liệu “1”. Khi
đọc một từ số liệu thứ i của ROM, bộ giải mã sẽ đặt dây từ đó xuống mức logic
thấp, các dây còn lại ở mức cao. Do vậy chỉ những diode nối với dây này được
phân cực thuận, do đó nó sẽ dẫn làm cho điện thế lối ra trên các dây bit tương
ứng ở mức logic thấp, các dây bit còn lại sẽ giữ ở mức cao.
Cả hai công nghệ MOS và lưỡng cực được dùng để chế tạo MROM. Thời
gian truy nhập của bộ nhớ lưỡng cực khoảng từ 50 – 90 ns, bộ nhớ MOS lâu
hơn khoảng 10 lần. Do đó ROM lưỡng cực nhanh hơn và có khả năng kích hoạt
tốt hơn trong khi mạch nhớ MOS cùng dung lượng có kích thước nhỏ hơn và
tiêu thụ năng lượng ít hơn.
2.5.2. Bộ nhớ cố định – PROM
PROM cũng gồm có các diode như ở MROM nhưng chúng có mặt đầy đủ
tạo các vị trí giao nhau giữa dây từ và dây bit. Mỗi diode được nối với một cầu
chì. Bình thường khi chưa lập trình, các cầu chì còn nguyên vẹn, nội dung của
PROM sẽ toàn là 0. Khi định vị đến một bit bằng cách đặt một xung điện ở lối
ra tương ứng, cầu chì sẽ bị đứt và bit này sẽ bằng 1. Bằng cách đó ta có thể lập
trình toàn bộ các bit trong PROM. Như vậy, việc lập trình đó có thể được thực
hiện bởi người sử dụng chỉ một lần duy nhất, không thể sửa đổi được. Bộ nhớ
bán cố định - EPROM (Erasable PROM) Số liệu vào có thể được viết vào bằng
xung điện nhưng được lưu giữ theo kiểu không bay hơi. Đó là loại ROM có thể
lập trình được và xóa được. Hình 7- 7 chỉ ra cấu trúc của một transistordùng để
làm một ô nhớ gọi là FAMOST (Floating gate avalanche injection MOS
transistor). Trong ô nhớ dùng transistor này, cực cửa được nối với đường từ, cực
máng được nối với đường bit và cực nguồn được nối với nguồn chuẩn được coi
là nguồn cho mức logic 1. Khác
với transistor MOS bình thường, transistor loại này còn có thêm một cửa gọi là
cửa nổi (floating gate); đó là một vùng vật liệu được thêm vào vào giữa lớp cách
điện cao như ở hình7-7. Nếu cửa nổi không có điện tích thì nó không ảnh hưởng
gì đến cực cửa điều khiển vàtransistor hoạt động như bình thường. Tức là
7
khidâytừ được kích hoạt (cực cửa có điện thếdương) thì transtor dẫn, cực máng
và nguồn được nối với nhau qua kênh dẫn và dây bit cómức logic 1. Nếu cửa
nổi có các điện tử trong đó với điện tích âm thì chúng sẽ ngăn trường điều khiển
của cửa cửa và dù dây từ được kích hoạt thì cũng không thể phát ra trường đủu
mạnh với cực cửa điều khiển để làm thông transistor. Lúc này đường bit không
được nối với nguồn chuẩn và ô nhớ coi như được giữ giá trị 0.
8
Cửa sổ thạch anh có giá thành khá đắt và không tiện lợi nên những năm gần
đây xuất hiện các chipPROM có thể xoá số liệu bằng phương pháp điện. Cấu
trúc của ô nhớ giống như hình 7-8.Việc nạp các điện tử cho cửa nổi được thực
hiện như cách ở EPROM. Bằng một xung điện tươngđối dài, các điện tích mang
năng lượng cao được phát ra trong đế sẽ thấm qua lớp cửa ôxit và tíchtụ trong
cửa nổi. Để xoá EEPROM, một lớp kênh màng mỏng ôxit giữa vùng cửa nổi
trải xuốngdưới đế và cực máng giữ vai trò quan trọng. Các lớp cách điện không
thể là lý tưởng được, các điệntích có thể thấm qua lớp phân cách với một xác
suất thấp. Xác suất này tăng lên khi bề dày của lớpgiảm đi và điện thế giữa hai
điện cực ở hai mặt lớp cách điện tăng lên. Muốn phóng các điện tíchtrong vùng
cửa nổi một điện thế (-20 V) được đặt vào cực cửa điều khiển và cực máng. Lúc
này cácđiện tử âm trong cửa nổi được chảy về cực máng qua kênh màng mỏng
ôxit và số liệu lưu giữ đượcxoá đi. Điều lưu ý là phải làm sao cho dòng điện tích
này chảy không quá lâu vì nếu không vùng cửanổi này lại trở nên tích điện
dương làm cho hoạt động của transistor không được trạng thái bìnhthường (mức
nhớ 1)
9
cứng chất rắn dựa trên cơ sở các bộ nhớ flash có lợi thế về công suất tiêu thụ
cũng như giá thành có dung lượng tới vài Mbyte. Các card nhớ loại này có ưu
điểm là không gặp phải vấn đề mất thông tin như trường hợp RAM CMOS khi
pin Ni-Cd bị hỏng. Thời gian lưu trữ thông tin trong bộ nhớ flash ít nhất là 10
năm, thông thường là 100 năm, với khoảng thời gian này thì các đĩa mềm và
cứng đã bị hỏng rồi. Nhược điểm của bộ nhớ flash là chỉ có thể xoá theo kiểu
lần lượt từng chip hoặc lần lượt từng trang.
10
trình được gọi là Khởi động "bootstrapping" hoặc "booting"). Tương tự như
vậy, mọi máy tính đặc biệt đều cần một số dạng bộ nhớ có thể thay đổi để ghi
lại các thay đổi về trạng thái của nó khi thực thi.
11
PHẦN III. Tài liệu tham khảo
Giáo trình kiến trúc máy tính tiến sĩ Vũ Đức Long
Giáo trình kiến trúc máy tính- Nguyễn Trung Đông
12