Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 19

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

BÀI TẬP LỚN


HỌC PHẦN: KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC-LÊ NIN
ĐỀ TÀI:
“TRÌNH BÀY LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC
LÊ NIN VỀ QUY LUẬT GIÁ TRỊ VÀ LIÊN HỆ VỚI
THỰC TIỄN Ở VIỆT NAM”

Họ và tên sinh viên: Ngô Kim Ngọc Nhi


Mã SV: 2234296446
Lớp: Mar_K55_Công Đoàn
STT: 65

Hà Nội, 2023
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU............................................................................................................................................3
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC LÊ NIN VỀ QUY LUẬT GIÁ TRỊ.....................4
I. Nội dung của quy luật giá trị.................................................................................................................4
II. Một số quan điểm khác về giá trị:.......................................................................................................6
III . Kết luận:.............................................................................................................................................9
CHƯƠNG 2: LIÊN HỆ VỚI THỰC TIỄN Ở VIỆT NAM....................................................................9
II. Biểu hiện của quy luật giá trị trong nền kinh tế Việt Nam..............................................................11
CHƯƠNG III. KẾT LUẬN.....................................................................................................................17
Tài liệu tham khảo:.................................................................................................................................18

2
LỜI MỞ ĐẦU
Kinh tế Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cho tới năm 1986 đã chuyển sang kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là nền kinh tế hỗn hợp, phụ thuộc cao vào xuất
khẩu thô và đầu tư trực tiếp nước ngoài. Xét về mặt kinh tế, Việt Nam là quốc gia thành
viên của Liên Hiệp Quốc, Tổ chức Thương mại Thế giới, Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Nhóm
Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng Phát triển Châu Á, Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á -
Thái Bình Dương, ASEAN,…Kinh tế Việt Nam dưới sự điều hành của chính phủ còn
nhiều vấn đề tồn tại cần giải quyết, các vấn đề tồn tại gắn liền với gốc rễ của bất ổn kinh
tế vĩ mô đã ăn sâu, bám chặt vào cơ cấu nội tại của nền kinh tế nước này, cộng với việc
điều hành kém hiệu quả, liệu dẫn đến liên tục gặp lạm phát cũng như nguy cơ đình đốn
nền kinh tế.
Chúng ta đã biết được Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất hàng
hóa, quy định bản chất của sản xuất hàng hóa. Ở đâu có sản xuất và trao đổi hàng hóa thì
ở đó có sự xuất hiện của quy luật giá trị. Mọi hoạt động của chủ thể kinh tế trong sản xuất
và lưu thông hàng hóa đều chịu sự tác động của quy luật này. Chính vì thế, chúng ta cần
nghiên cứu về quy luật giá trị, tìm hiểu vai trò và tác động của nó tới nền kinh tế, đặc biệt
trong nền kinh tế thị trường hiện nay, để có thể vận dụng nó khắc phục những nhược
điểm của nền kinh tế và phát triển đất nước. Vì vậy em đã quyết định lựa chọn đề tài “
Trình bày quy luật giá trị và liên hệ với thực tiễn ở Việt Nam”.
Em xin chân thành cảm ơn!

3
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC LÊ NIN VỀ QUY LUẬT GIÁ
TRỊ
I. Nội dung của quy luật giá trị
1. Quan điểm của Mác về giá trị:
Sản xuất hàng hóa chịu sự tác động của nhiều quy luật kinh tế như : quy luật giá trị, quy
luật cung-cầu, quy luật lưu thông tiền tệ,…Nhưng vai trò cơ sở cho sự chi phối nền sản
xuất hàng hóa thuộc về quy luật giá trị.
a) Nội dung và yêu cầu chung của quy luật giá trị:
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế căn bản của sản xuất và trao đổi hàng hóa, ở đâu có sản
xuất và trao đổi hàng hóa thì ở đó có sự tồn tại và phát huy tác dụng của quy luật giá trị.
Yêu cầu chung của quy luật giá trị là việc sản xuất và trao đổi hàng hóa dựa trên cơ sở giá
trị của nó, tức là dựa trên hao phí lao động xã hội cần thiết. Cụ thể:
- Trong kinh tế hàng hóa, mỗi người sản xuất tự quyết định hao phí lao động cá biệt của
mình, nhưng giá trị của hàng hóa không phải được quyết định bởi hao phí lao động cá
biệt của từng người sản xuất hàng hóa, mà bởi hao phí lao động xã hội cần thiết. Vì vậy,
muốn bán được hàng hóa, bù đắp được chi phí và có lãi, người sản xuất phải điều chỉnh
làm sao cho hao phí lao động cá biệt
của mình phù hợp với mức chi phí mà xã hội chấp nhận được.
- Trong lưu thông, hay trao đổi hàng hóa cũng phải dựa trên cơ sở hao phí lao
động xã hội cần thiết, có nghĩa trao đổi phải theo nguyên tắc ngang giá.
- Sự vận động của quy luật giá trị thông qua sự vận động của giá cả hàng hóa. Vì giá trị là
cơ sở của giá cả, còn giá cả là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị, nên trước hết giá cả phụ
thuộc vào giá trị. Hàng hóa nào nhiều giá trị thì giá cả của nó sẽ cao và ngược lại. Trên
thị trường, ngoài giá trị còn , giá cả còn phụ thuộc vào các nhân tố khác như cạnh tranh,
cung cầu, sức mua của đồng tiền. Sự tác động của các nhân tố này làm cho giá cả hàng
hóa trên thị trường tách rời với giá trị và lên xuống xoay quanh trục giá trị của nó. Sự vận
động giá cả thị trường của hàng hóa xoay quanh trục giá trị của nó chính là cơ chế hoạt

4
động của quy luật giá trị. Thông qua sự vận động của giá cả thị trường mà quy luật giá trị
phát huy tác dụng.
b) Tác động của quy luật giá trị:
Trong sản xuất hàng hóa , quy luật giá trị có ba tác động chủ yếu sau:
- Thứ nhất, điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa
• Điều tiết sản xuất tức là điều hòa , phân bổ các yếu tố sản xuất giữa các ngành, các lĩnh
vực của nền kinh tế. Tác động này của quy luật giá trị thông qua thông qua sự biến động
của giá cả hàng hóa trên thị trường dưới tác động của quy luật cung cầu. Nếu ở ngành nào
đó khi cung nhỏ hơn cầu, giá cả hàng hóa sẽ lên cao hơn giá trị, hàng hóa bán chạy, lãi
cao, thì người sản xuất sẽ đổ xô vào ngành ấy. Do đó, tư liệu sản xuất và sức lao động
được chuyển dịch vào ngành ấy tăng lên. Ngược lại, khi cung ở ngành ấy vượt quá cầu,
giá cả hàng hóa sẽ giảm xuống, hàng hóa bán không chạy và có thể lỗ vốn. Tình hình ấy
buộc người sản xuất phảo thu hẹp quy mô sản xuất lại hoặc chuyển sang
đầu tư vào nhành có giả cả hàng hóa cao.
• Điều tiết lưu thông của quy luật giá trị cũng thông qua giá cả trên thị trường.
Sự biến động của giá cả thị trường cũng có tác dụng thu hút luồng hàng từ nơi giá cả thấp
đến nơi giá cả cao, do đó làm cho lưu thông hàng hóa thông suốt.
- Thứ hai, kích thích cải tiến kĩ thuật, hợp lý hóa sản xuất, tăng năng suất lao động. thúc
đẩy lực lượng sản xuất xã hội phát triển.
Trong nền kinh tế hàng hóa, mỗi người sản xuất hàng háo là một chủ thể kinh tế độc lập,
tự quyết định hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Nhưng do điều kiện sản xuất khác
nhau nên hao phí lao động cá biệt của mỗi người khác nhau, người sản xuất nào có hao
phí lao động xá biệt nhỏ hơn hao phí lao động xã hội của hàng hóa ở thế có lợi, sẽ thu
được lãi cao. Người sản xuất nào có hao phí lao động cá biệt lớn hơn hao phí lao đỗng xã
hội cần thiết sẽ ở thế bất lợi, lỗ vốn. Để giành lợi thế trong cạnh tranh và tránh nguy cơ
vỡ nợ, phá sản, họ phải hạ thấp hao phí lao động cá biệt của mình, sao cho bằng hao phí
lao động xã hội cần thiết. Muốn vậy, họ phải luôn tìm cách cải tiến kỹ thuật, cải tiến tổ
chức quản lý, thực hiện tiết kiệm chặt chẽ, tăng năng suất lao động. sự cạnh tranh quyết

5
liệt càng thúc đẩy quá trình này diễn ra mạnh mẽ hơn, mang tính xã hội. Kết quả là lực
lượng sản xuất xã hội được thúc đẩy phát triển mạnh mẽ.
- Thứ ba, thực hiện sự lựa chọn tự nhiên và phân hóa người sản xuất hàng hóa thành
người giàu, người nghèo.
Quá trình cạnh tranh theo đuổi giá trị tất yếu dẫn đến kết quả là: những người có điều
kiện sản xuất thuận lợi, có trình độ, kiến thức cao, trang bị kỹ thuật tốt nên có hao phí lao
động cá biệt thấp hơn hao phí lao động xã hội cần thiết, nhờ đó phát tài, giàu lên nhanh
chóng. Họ mua sắm them tư liệu sản xuất, mở rộng sản xuất kinh doanh. Ngược lại,
những người không có điều kiện thuận lợi, làm ăn kém cỏi, hoặc găoj rủi ro trong kinh
doanh nên bị thua lỗ dẫn đến phá sản, trở thành nghèo khó.
c) Biểu hiện của quy luật giá trị trong tư bản tự do canh tranh và tư bản độc quyền:
- Trong thời kì tư bản tự do cạnh tranh: giá trị biểu hiện thành quy luật giá cả sản xuất.
Giá cả sản xuất bằng chi phí sản xuất cộng với lợi nhuận bình quân. Tiền đề của giá cả
sản xuất là sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân. Điều kiện để giá trị biến thành giá
cả sản xuất gồm có: đại công nghiệp cơ khí tư bản chủ nghĩa phát triển, tư bản tự do di
chuyển từ ngành này sang ngành khác, sư liên hệ rộng rãi giữa các ngành sản xuất, quan
hệ tín dụng phát triển.Trước đây,khi chưa xuất hiện phạm trù giá cả sản xuất, giá cả xoay
quanh giá trị. Giờ đây, giá cả hàng hóa xoay quanh giá cả sản xuất. Giá trị là cơ sở, là nội
dung bên trong của giá cả sản cuât; giá cả sản xuất là cơ sở của giá cả thị trường, giá cả
thị trường xoay quanh giá cả sản xuất.
- Thời kì tư bản độc quyền: giá trị biểu hiện thành quy luật giá cả độc quyền. Do chiếm
được vị trí độc quyền nên các tổ chức độc quyền đã áp đặt giá cả độc quyền; giá cả độc
quyền thấp khi bán, cao khi mua. Tuy vậy, giá cả độc quyền vẫn không thoát ly và không
phủ định cơ sở của nó là giá trị. Các tổ chức độc quyền thi hành chính sách giá cả độc
quyền nhằm chiếm đoạt một phần giá trị và giá trị thặng dư của người khác.
II. Một số quan điểm khác về giá trị:
1. William.Petty:

6
Theo ông, nếu như giá cả tự nhiên là giá trị hàng hoá, thì giá cả nhân tạo là giá cả thị
trường của hàng hoá. Giá cả nhân tạo thay đổi phụ thuộc vào giá cả tự nhiên và quan hệ
cung – cầu hàng hoá trên thị trường.
Đối với W.Petty, việc phân biệt giá cả tự nhiên - hao phí lao động trong điều kiện bình
thường với giá cả chính trị – lao động chi phí trong điều kiện chính trị không thuận lợi có
ý nghĩa to lớn. Ông là người đầu tiên trong lịch sử đặt nền móng cho lý thuyết giá trị lao
động.
Lý thuyết giá trị lao động của W.Petty còn chịu ảnh hưởng tư tưởng chủ nghĩa trọng
thương. Ông có luận điểm nổi tiếng là: “Lao động là cha còn đất là mẹ của mọi của cải ”.
Về phương diện của cải vật chất, đó là công lao to lớn của ông, nhưng ông lại xa rời tư
tưởng giá trị – lao động khi kết luận “Lao động và đất đai là cơ sở tự nhiên của giá cả mọi
vật phẩm” tức là cả lao động và đất đai là nguồn gốc của giá trị.
2. A.Đam.Simith
Ông chỉ ra rằng tất cả các loại lao động sản xuất đều tạo ra giá trị, lao động là thước đo
cuối cùng của giá trị. Ông phân biệt sự khác nhau giữa giá trị sử dụng và giá trị trao đổi
và khẳng định giá trị sử dụng quyết định giá trị trao đổi. Ông chỉ ra lượng giá trị hàng hoá
là do hao phí lao động trung bình cần thiết quyết định và đưa ra 2 định nghĩa về giá cả là
giá cả tự nhiên và giá cả thị trường. Về bản chất, giá cả thị trường là biểu hiện tiền tệ của
giá trị.
Lý thuyết giá trị – lao động của A.Smith còn có hạn chế. Ông nêu lên 2 định nghĩa: Thứ
nhất, giá trị do lao động hao phí để sản xuất hàng hoá quyết định. Lao động là thước đo
thực tế của mọi giá trị. Với định nghĩa này, ông là người đứng vững trên cơ sở lý thuyết
giá trị–lao động. Thứ hai, ông cho rằng, giá trị là do lao động mà người ta có thể mua
được bằng hàng hoá này quyết định. Từ định nghĩa này, ông suy ra giá trị do lao động tạo
ra chỉ đúng trong nền kinh tế hàng hoá giản đơn. Còn trong nền kinh tế TBCN, giá trị do
các nguồn thu nhập tạo thành, nó bằng tiền lương cộng với lợi nhuận và địa tô.. Ông cho
rằng “Tiền lương, lợi nhuận, địa tô là 3 nguồn gốc đầu tiên của mọi thu nhập cũng như là
của bất kỳ giá trị trao đổi nào”. Tư tưởng này xa rời lý thuyết giá trị – lao động “Giá trị là

7
do lao động hao phí để sản xuất hàng hoá quyết định, lao động là thước đo thực tế của
mọi giá trị”.
3. David Ricardo
Ông phân biệt rõ 2 thuộc tính của hàng hoá là giá trị sử dụng và giá trị trao đổi và chỉ rõ
giá trị sử dụng là điều kiện cần thiết cho giá trị trao đổi, nhưng không phải là thước đo
của nó. Ricardo đặt vấn đề là bên cạnh giá trị tương đối, còn tồn tại giá trị tuyệt đối. Giá
trị trao đổi là hình thức cần thiết và có khả năng duy nhất để biểu hiện giá trị tuyệt
đối. .Ricardo chỉ ra là định nghĩa “Giá trị lao động hao phí quyết định” là đúng, còn định
nghĩa “Giá trị lao động mà người ta có thể mua được bằng hàng hoá này quyết định” là
không đúng. Theo ông, không phải chỉ trong nền sản xuất hàng hoá giản đơn mà ngay cả
trong nền sản xuất lớn TBCN, giá trị vẫn do lao động quyết định.
Ricardo cũng khẳng định “Giá trị là do lao động hao phí quyết định” và cấu tạo giá trị
hàng hoá bao gồm 3 bộ phận là: c+v+m, nhưng ông cũng chưa phân tích được sự dịch
chuyển “c” vào sản phẩm mới diễn ra như thế nào.
Phương pháp nghiên cứu của ông còn có tính siêu hình. Ông coi giá trị là phạm trù vĩnh
viễn. Ông chưa phân biệt được giá trị hàng hoá và giá cả sản xuất, chưa thấy được mâu
thuẩn giữa giá trị và giá trị sử dụng vì chưa có được lý thuyết tính hai mặt của lao động.
4. J.Batis.SAY
J.B.Say đã đồng nhất giá trị với giá trị sử dụng và phủ nhận vai trò duy nhất của lao động
trong việc tạo ra giá trị của hàng hoá. Ông còn cho rằng, giá trị chỉ được xác định trên thị
trường – tức là chỉ được xác định trong trao đổi. Thước đo giá trị của một vật phẩm chính
là số lượng vật phẩm khác mà người khác đưa lại để đổi lấy vật phẩm đó. Nói khác đi
theo ông, giá trị được quyết định với quan hệ cung – cầu. Rõ ràng ở đây, Say đã đồng
nhất giá trị với giá cả thị trường.
5. Sismondi
Ông thấy được mâu thuẫn giữa giá trị sử dụng và giá trị của hàng hoá. Ông đã tiến thêm 1
bước so với D.Ricardo là đưa ra thước đo giá trị hàng hoá: “thời gian lao động xã hội cần
thiết”. Do đó, ông đã qui lao động thành mối liên hệ giữa nhu cầu xã hội và thời gian lao
động xã hội cần thiết để thoả mãn nhu cầu.

8
Tuy nhiên, so với D.Ricardo thì Sismondi còn có chỗ thụt lùi: D.Ricardo coi giá trị tương
đối của hàng hoá được đo bằng lượng lao động chi phí để sản xuất ra hàng hoá, còn
Sismondi, giá trị tương đối của hàng hoá được qui định bởi cạnh tranh, bởi lượng cầu về
hàng hoá.
6. Pi-e Giô-Dép PruĐông

Giá trị bao gồm 2 mặt mâu thẫn với nhau: Giá trị sử dụng và giá trị trao đổi, chúng phản
ánh hai mặt khuynh hướng mâu thuẫn: dồi dào và khan hiếm.
Theo ông, giá trị sử dụng là hiện thân của sự dồi dào, còn giá trị trao đổi là hiện thân của
sư khan hiếm. Mâu thuẫn tưởng tượng này chỉ có thể xoá đi bằng việc thiết lập sự trao
đổi ngang giá, tức là “giá trị xác lập”. Do đó, ông đề nghị không chỉ sản xuất những hàng
hoá, mà còn đòi hỏi tạo ra sự trao đổi ngang giá để tất cả các hàng hoá được thực hiện,
tức là biến thành “giá trị xác lập”. Tức là, giá trị mà nó xuất hiện trong trao đổi và thị
trường chấp nhận, ông cho rằng trao đổi và lao động là nguồn gốc giá trị.
C.Mác đã nhận xét. “Lý luận giá trị của Prudong” là sự giải thích một cách không tưởng
lý luận của Ricardo. Và bằng chính cách đó đã bóp méo, tầm thường hoá cả những phạm
trù giá trị khác.
III . Kết luận:
Mác là người đầu tiên phát hiện ra tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa, đó là lao
động cụ thể và trìu tượng, lao động tư nhân và lao động xã hội. Mác định nghĩa lượng giá
trị hàng hóa đo được bằng thời gian lao động xã hội cân thiết, phê phán các quan điểm đi
trước. Mác là người đầu tiên phát hiện ra tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa.
Trên cơ ở phát hiện này, Mác đã thực hiện một cuộc cách mạng trong khoa học kinh tế
chính trị. Ông viết:” Tôi là người đầu tiên phát hiện ra tính hai mặt của lao động sản xuất
hàng hóa và khoa học kinh tế chính trị xoay quanh điểm này”.
Những tác động của quy luật giá trị đến nền kinh tế hàng hóa có ý nghĩa lý luận và thực
tiễn hết sức to lớn: một mặt, quy luật giá trị chi phối sự lựa chọn tự nhiên, dào thải các
yêu kém, kích thích các nhân tố tích cực phát triển; mặt khác, phân hóa xã hội thành kẻ
giàu người nghèo, tạo ra sự bất bình đẳng trong xã hội. Như vậy, quy luật giá trị vừa có

9
tác động tích cực, vừa có tác động tiêu cực. Do đó, đồng thời với việc thúc đẩy sản xuất
hàng hóa phát triển, nhà nước cần có những biện pháp để phát huy mặt tích cực, hạn chế
mặt tiêu cực của nó, đặc biệt trong điều kiện phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
CHƯƠNG 2: LIÊN HỆ VỚI THỰC TIỄN Ở VIỆT NAM
I. Kinh tế thị trường:
- Kinh tế thị trường là nền kinh tế mà trong đó người mua và người bán tác động với
nhau theo quy luật cung cầu, giá trị để xác định giá cả và số lượng hàng hoá, dịch vụ trên
thị trường. Có thể trừu tượng hoá một số đặc điểm cụ thể, phản ánh sự giao thoa, chuyển
tiếp và đan xen giữa các mô hình để quy về ba mô hình chủ yếu sau:
● Mô hình kinh tế thị trường tự do
● Mô hình kinh tế thị trường - xã hội
● Mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN (ở Việt Nam)
Mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN hiện đang được thực thi chỉ ở hai nước
(Việt Nam - kinh tế thị trường định hướng XHCN và Trung Quốc - kinh tế thị trường
XHCN). Thời gian tồn tại của nó cũng chỉ mới hơn 1/4 thế kỷ thử nghiệm. Tuy vậy, các
kết quả thực tế đã chứng tỏ đây là mô hình có sức sống mạnh mẽ và có triển vọng lịch sử
to lớn.
Hệ thống kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có các đặc trưng sau:
• Là một nền kinh tế hỗn hợp, nghĩa là vừa vận hành theo cơ chế thị trường, vừa có sự
điều tiết của nhà nước. Các quy luật khách quan của nền kinh tế thị trường được tôn
trọng, các mạch máu kinh tế và các ngành trọng yếu (khai mỏ, ngân hàng, quốc phòng...)
được nhà nước quản lý. Các thông lệ quốc tế trong quản lý và điều hành kinh tế được vận
dụng một cách hợp lý. Nền kinh tế chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế xã hội chủ
nghĩa.
• Là một nền kinh tế đa dạng các hình thức sở hữu, nhưng khu vực kinh tế nhà nước giữ
vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể ngày càng trở thành
nền tảng vững chắc của nền kinh tế. Đất đai thuộc sở hữu toàn dân.

10
• Là nền kinh tế phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững và chủ động hội nhập kinh tế thành
công.
• Việc phân phối được thực hiện chủ yếu theo kết quả lao động và theo hiệu quả kinh tế,
đồng thời theo cả mức đóng góp vốn. Chú trọng phân phối lại qua phúc lợi xã hội. Việc
phân bổ các nguồn lực vừa được tiến hành theo hướng nâng cao hiệu quả, vừa theo
hướng giúp thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các địa phương. Phát triển kinh tế gắn
với tiến bộ, công bằng xã hội; công bằng xã hội được chú ý trong từng bước, từng chính
sách phát triển.
• Phát triển kinh tế gắn với bảo vệ môi trường.
• Các tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức xã hội, nghề nghiệp và nhân dân được khuyến
khích tham gia vào quá trình phát triển kinh tế.
II. Biểu hiện của quy luật giá trị trong nền kinh tế Việt Nam
1. Khái quát về nền kinh tế thị trường Việt Nam
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là tên gọi một hệ thống kinh tế được
Đảng Cộng sản Việt Nam sáng tạo và chủ trương triển khai tại Việt Nam từ thập niên
1990
Cho đến nay, chính Đảng Cộng sản Việt Nam cũng thừa nhận rằng chưa có nhận thức rõ,
cụ thể và đầy đủ về thế nào là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà chỉ
có giải thích nguyên lý chung rằng, đó là một nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường
có sự quản lý chặt chẽ của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hướng tới mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Nguyên nhân của tình trạng này
là hệ thống kinh tế này là hoàn toàn mới, chưa có tiền lệ trong lịch sử. Thêm vào đó, công
tác lý luận ở Việt Nam về hệ thống kinh tế này còn chưa theo kịp thực tiễn. Gần 20 năm
theo đuổi chủ trương xây dựng hệ thống kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
nhưng các thể chế cho hệ thống này hoạt động vẫn chưa có đầy đủ. Mãi tới hội nghị lần
thứ 6 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa X, Đảng mới ra
nghị quyết số 21- NQ/TW ngày 30 tháng 1 năm 2008 về tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Và, mãi tới ngày 23 tháng 9 năm 2008, Chính

11
phủ Việt Nam mới có nghị quyết số 22/2008/NQ-CP ban hành Chương trình hành động
của Chính phủ để thực hiện nghị quyết 21-NQ/TW.
a) Giai đoạn trước Đại VI (1986)
Nền kinh tế vận hành trong khuôn khổ cơ chế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp. Những cải
tiến theo hướng kinh tế thị trường chủ yếu ở cấp vi mô, mang tính cục bộ, không triệt để
và thiếu đồng bộ, diễn ra trong khuôn khổ cơ chế kế hoạch hoá tập trung và nhằm duy trì,
củng cố hệ thống kinh tế công hữu, tập trung, bao cấp và đóng cửa.
b) Giai đoạn từ Đại hội VI (1986) đến hết Đại hội VIII (2001)
Đổi mới toàn diện cả cấu trúc và cơ chế vận hành nền kinh tế với nội dung chính là từ bỏ
cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành
theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng XHCN. Đại hội VI
thừa nhận sự tồn tại khách quan của “nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định
hướng XHCN, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước” trên con
đường đi lên CNXH (Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH
được thông qua tại Hội nghị giữa kỳ Đại hội VII).
c) Giai đoạn từ ĐH IX (2001) đến nay
Chuyển từ nhận thức thị trường như một công cụ, một cơ chế quản lý kinh tế sang nhận
thức thị trường là một chỉnh thể, là cơ sở kinh tế của xã hội trong giai đoạn tiến lên
CNXH, đặt vấn đề xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Từ năm 2002 đến 2020, GDP đầu người tăng 3,6 lần, đạt gần 3.700 USD. Tỉ lệ nghèo
(theo chuẩn 3,65 USD/ngày, theo PPP năm 2017) giảm từ hơn 14% năm 2010 xuống còn
3,8% năm 2020.
Nhờ có nền tảng vững chắc, nền kinh tế Việt Nam đã thể hiện sức chống chịu đáng kể
trong những giai đoạn khủng hoảng, mới đây là đại dịch COVID-19. Tăng trưởng GDP
giảm 2,6% vào năm 2021 do sự xuất hiện của biến thể Delta của virus Sars-CoV-2 và dự
kiến sẽ phục hồi lên 7,2% vào năm 2022 và 6,7% vào năm 2023.
Với tỉ lệ tăng trưởng ở mức 2,5% đến 3,5% mỗi năm trong suốt 30 năm qua, ngành nông
nghiệp đã hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và đảm bảo an ninh lương thực. Năm 2020 nông

12
nghiệp đóng góp 14% cho GDP và 38% việc làm, năm 2021 xuất khẩu đạt hơn 48 tỷ
USD giữa thời điểm đại dịch COVID-19.
Y tế đạt nhiều tiến bộ lớn khi mức sống ngày càng cải thiện. Tỉ suất tử vong ở trẻ sơ sinh
giảm từ 32,6 năm 1993 xuống còn 16,7 năm 2020 (trên 1.000 trẻ sinh). Tuổi thọ trung
bình tăng từ 70,5 năm 1990 lên 75,45 năm 2020. Chỉ số bao phủ chăm sóc sức khỏe toàn
dân là 73, cao hơn trung bình khu vực và trung bình thế giới, trong đó 87% dân số có bảo
hiểm y tế.
Số năm đi học bình quân của Việt Nam là 10,2 năm, đứng thứ hai chỉ sau Singapore theo
xếp hạng của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á. Chỉ số vốn con người của Việt Nam là
0,69 trên thang cao nhất là 1, xếp hạng cao nhất trong các nền kinh tế có thu nhập trung
bình thấp.
Khả năng người dân tiếp cận hạ tầng cơ sở được cải thiện đáng kể. Tính đến năm 2019,
99,4% dân số sử dụng điện chiếu sáng, so với tỉ lệ 14% năm 1993. Tỉ lệ tiếp cận nước
sạch nông thôn cũng được cải thiện từ 17% năm 1993 lên 51% năm 2020.
Việt Nam đã đặt ra những tầm nhìn phát triển tham vọng hơn, hướng tới mục tiêu trở
thành quốc gia có thu nhập cao vào năm 2045. Để đạt được mục tiêu này, nền kinh tế cần
tăng trưởng với tốc độ bình quân hàng năm 5,5% trên đầu người trong 25 năm tới. Việt
Nam cũng hướng tới mục tiêu phát triển theo hướng xanh hơn, bao trùm hơn đồng thời
cam kết giảm phát thải khí mêtan xuống 30% và ngăn chặn nạn phá rừng vào năm 2030
đồng thời đạt được mức phát thải carbon ròng bằng 0 vào năm 2050.
Tương lai của Việt Nam đang được định hình bởi một vài xu thế lớn. Dân số đang già đi
nhanh chóng, thương mại toàn cầu đang suy giảm, trong khi đó suy thoái môi trường, các
vấn đề biến đổi khí hậu và tự động hóa ngày gia tăng. Đại dịch COVID-19 đặt ra những
thách thức chưa từng có, có thể làm chậm tiến trình đạt được các mục tiêu phát triển.
2. Biểu hiện của quy luật giá trị
Nền kinh tế thị trường là cơ sở kinh tế của xã hội quá độ tiến lên CHXN ở Việt Nam.Mục
tiêu phát triển là nhằm “xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng
sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu”.

13
Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý
của Nhà nước, định hướng xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế vận động theo những kinh tế
vốn có của kinh tế thị trường. Các doanh nghiệp, hộ gia đình tự quyết định hành vi của
mình để trả lời thỏa đáng 3 câu hỏi: sản xuất cái gì, sản xuất cho ai, sản vuất như thế nào.
Trên thị trường hàng hóa và dịch vụ, giá cả điều tiết cung cầu. tiến hành đổi mới doanh
nghiệp nhà nước, mở rộng quyền tự chủ doanh nghiệp, xóa bỏ dần nhà nước bao cấp và
sản xuất tiêu chực, giải thể các doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả, thua lỗ lâu dài.
Nhiều thành phần kinh tế tham gia thị trường. Mỗi thành phần kinh tế theo đuổi mục đích
riêng và bằng những cách khác nhau, chịu sự tác động của quy luật kinh tế. Trong nền
kinh tế nhiều thành phần, kinh tế nhà nước phải nắm giữ vai trò chủ đạo ở một số lĩnh
vực then chốt. Đó là những "đài chỉ huy", là huyết mạch chính của nền kinh tế. Đây là
điều kiện có tính nguyên tắc bảo đảm tính định hướng XHCN. Nó thể hiện sự khác biệt
về bản chất của mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN so với các mô hình kinh tế
thị trường khác.
Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước được thể hiện trước hết và chủ yếu ở sức mạnh định
hướng, hỗ trợ phát triển và điều tiết nền kinh tế chứ không phải ở quy mô và sự hiện diện
của các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước ở tất cả hoặc hầu hết các ngành, các lĩnh vực.
Mở rộng kinh tế đối ngoại, hội nhập vào thị trường khu vực và thế giới. Chủ động hòa
nhập, thực hiện đa dạng hóa kinh tế đối ngoại, tận dụng ngoại lực để phát huy nội lực,
thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế, định hướng đi lên xã hội chủ nghĩa.
Đổi mới cơ chế quản lý: Xóa bỏ hoàn toàn cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, hình thành
cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước định hướng xã hội chủ nghĩa
3. Giải pháp để vận dụng tốt hơn quy luật giá trị vào nền kinh tế thị trường Việt
Nam
- Nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ, đẩy mạnh cơ chế quản lý, phát triển kinh tế thị
trường.
- Tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nang cao hiệu quả khu vực doanh nghiệp nhà
nước.
- Tạo lập và phát triển đồng bộ các loại thị trường.

14
- Tiếp tục chủ đồng hội nhập, thực hiện có hiệu quả các cam kết và lộ trình hội nhập kinh
tế quốc tế.
- Đổi mới cơ bản công tác xây dựng chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội và
điều chỉnh mạnh cơ cấu kinh tế.
Các hiệu quả được phản ánh đối với ý nghĩa quy luật giá trị như sau:
Trong lĩnh vực lưu thông:
Quy luật giá trị yêu cầu trao đổi phải theo nguyên tắc ngang giá. Với các hiệu quả sản
xuất dựa trên vốn cần thực hiện để tạp thành sản phẩm hàng hóa. Khi đó, ngang giá tức
giá cả bằng giá trị. Tuy nhiên, rõ ràng lợi ích không được đảm bảo. Cũng như không
mang đến các tiếp cận, tác động của các điều kiện trung gian trong quảng cáo, phương
pháp cạnh tranh trên thị trường.
Dưới tác động quy luật giá trị, hiệu quả đã được phản ánh. Phù hợp và đảm bảo với các
quá trình, hoạt động sản xuất, kinh doanh. Gắn với lưu thông và mang lại hiệu quả kinh
tế. Hàng hóa trong nền kinh tế sẽ được đưa từ nơi có giá cả thấp đến nơi có giá cả cao, từ
nơi cung nhiều đến nơi cầu nhiều. Quy luật cung cầu giúp các tiếp cận hiệu quả hơn trong
nhu cầu và khả năng. Phản ánh với các thành phần, nhóm chủ thể có đặc điểm lựa chọn
hàng hóa như nhau.
Thông qua sự biến động về giá cả trên thị trường, các đa dạng tiếp cận mới được thực
hiện. Khi các mặt hàng với chất lượng, mẫu mã, kiểu dáng đa dạng được lưu thông.
Mang đến ý nghĩa tiến hành các hoạt động, chiến lược cạnh trang. Đồng thời mang đến
luồng hàng hóa sẽ lưu thông. Từ đó tạo sự cân đối về nguồn hàng giữa các vùng miền.
Đảm bảo cho tính đa dạng và tiếp cận hiệu quả của chất lượng, các nhóm hàng hóa.
Đối với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam:
Tác động đến việc lưu thông của một số hàng hóa nhất định. Giá mua cao sẽ thúc đẩy các
chủ thể tìm kiếm thêm nguồn hàng. Giá bán hạ sẽ thúc đẩy mạnh việc tiêu thụ và ngược
lại. Khi các nhu cầu được đảm bảo đáp ứng với giá cả và giá trị. Cần thực hiện nâng cao
đối với kỹ thuật và hiệu quả trong quy mô, chất lượng hàng được phân bổ.
Giá cả được coi là một công cụ kinh tế quan trọng để kế hoạch hóa sự tiêu dùng của xã
hội. Khi biết khai thác hiệu quả các tính chất này. Tiếp cận và tác động đến nhu cầu của

15
con người. Có được các nguồn cung đảm bảo, các phân chia trong mức giá đối với các
sản phẩm được lưu thông phổ biến.
Ví dụ:
Giá cả của sản phẩm công nghiệp nặng thấp hơn giá trị. Mang đến các nhấn mạnh đối với
tính chất công việc thực hiện. Trong ý nghĩa cần tiết kiệm, có kế hoạch trong sử dụng.
Cũng như để khuyến khích sự đầu tư phát triển, áp dụng kỹ thuật vào sản xuất. Mang đến
chất lượng khai thác, thu được sản phẩm nhiều hơn từ nguồn nguyên liệu thô.
Các điểm hạn chế:
Do chạy theo lợi nhuận, mà các tồn tại xấu cũng được phản ánh. Vì người dân quan tâm
đến giá cả, và bên sản xuất không đảm bảo cho giá trị của sản phẩm đó. Kéo theo tình
trạng gian lận trong buôn bán, hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng.
Thực trạng ở Việt Nam:
Hàng giả hàng nhái hiện nay là một vấn nạn xã hội. Khi người dân chưa có các nhận thức
nhất định hiệu quả trong phân biệt. Dắc biệt là chưa có sự tẩy chay đối với các sản phẩm
kém chất lượng. Một phần vì các lợi ích mang đến với giá thành hợp lý, trong nhu cầu
tiếp cận. Các vấn nạn này chưa hề có dấu hiệu thuyên giảm, thậm chí đang ngày một gia
tăng.
Theo thống kê, đối với mặt hàng mỹ phẩm, mang đến các tồn tại nhất định. Khoảng 75%
thị phần mỹ phẩm bán ngoài thị trường là hàng giả và hàng nhập lậu. Trong khi hàng
chính hãng chỉ có 25% còn lại. Đặc biệt, 100% các sản phẩm nước hoa và sáp vuốt tóc
bày bán tại các chợ không phải hàng thật. Nó mang đến các cung cấp không có chất
lượng cho thị trường. Trong khi người dân chưa thấy được các ảnh hưởng đối với sức
khỏe trực tiếp. Điều đó khiến họ chưa từ bỏ đối với nhu cầu sử dụng các mặt hàng kém
chất lượng này.
Nhu cầu được đảm bảo, cũng là lý do để các nguồn cung ngày càng phổ biến. Gắn với
các quy luật giá trị, việc lưu thông không mang đến ý nghĩa trong công tác quản lý thị
trường. Cũng như hướng khách hàng đến các nhu cầu, năng lực và lợi ích tốt hơn.

16
CHƯƠNG III. KẾT LUẬN
Quy luật giá trị là quy luật cơ bản của sản xuất hàng hóa, tác động đến sản xuất và lưu
thông hàng hóa. Đây cũng là một quy luật kinh tế có vai trò quan trọng đối với sự hình
thành và phát triển nền kinh tế của nước ta trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Thực tế cho thấy rất rõ ràng rằng quy luật giá trị và những biểu hiện của nó như giá cả,
tiền tệ, giá trị hàng hóa, …là lĩnh vực tác động rất lớn đến đời sống kinh tế xã hội.
Đảng và nhà nước nước ta đã nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của việc dổi mới xã
hội và vận dụng quy luật giá trị vào nền kinh tế đất nước. Việc tuân theo nội dung của
quy luật giá trị để hình thành và xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội
chủ nghĩa đã đạt được những thành tựu đáng kể. Tuy nhiên, sự vân dụng đó vẫn còn
những hạn chế nhất định và rất cần phải thực hiện các biện pháp kịp thời để khắc phục.

17
Tài liệu tham khảo:
[1] Giáo trình. (2010). Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác–Lênin. Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
[2] Lê Thành Nghiệp. (n.d.). Quá trình phát triển kinh tế Việt Nam. Nxb Khoa học Kỹ
thuật, Hà Nội.
[3] Phạm Minh Chính, Vương Quân Hoàng. (2009). Kinh tế Việt Nam: Thăng trầm và
đột phá. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[4] BCHTW. (2008). Nghị quyết 21-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng
sản - Nghị quyết 22/2008/NQ-CP của Chính phủ Việt Nam ban hành Chương trình hành
động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết 21-NQ/TW.
[5] Nguyễn Văn Linh. (1986). “Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành trung ương (khóa
VI) tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII”. Văn kiện Đảng Cộng sản Việt Nam. Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

18
[6] Văn kiện đại hội đảng VI, VII, VIII, IX, X, XI, XII, XIII

19

You might also like