Professional Documents
Culture Documents
Tổng Hợp CH Trong Tập
Tổng Hợp CH Trong Tập
Tổng Hợp CH Trong Tập
Nội Điều 70 Hiến pháp 1946 Điều 147 Hiến pháp 1992 Điều 120 Hiến pháp 2013
dung
Thẩm Quốc hội Quốc hội Quốc hội
quyền
Trình tự Hội đồng Quốc dân thảo luận, Quốc hội thảo luận, thông qua dự Quốc hội thảo luận, thông qua dự
thông qua dự thảo sửa đổi Hiến thảo sửa đổi Hiến pháp. Dự thảo thảo sửa đổi Hiến pháp. Dự thảo
pháp, gửi dự thảo đến các địa sửa đổi Hiến pháp phải được Ủy sửa đổi Hiến pháp phải được Ủy
phương để lấy ý kiến của nhân ban Thường vụ Quốc hội trình ra ban Thường vụ Quốc hội trình ra
dân. Sau khi nhận được ý kiến của trước Quốc hội ít nhất 60 ngày trước Quốc hội ít nhất 90 ngày
nhân dân, Hội đồng Quốc dân lại trước kỳ họp Quốc hội xem xét, trước kỳ họp Quốc hội xem xét,
thảo luận, thông qua dự thảo sửa thông qua thông qua
đổi Hiến pháp và trình Quốc hội
thông qua
Số Ít nhất hai phần ba tổng số đại Ít nhất hai phần ba tổng số đại Ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu
lượng biểu có mặt biểu Quốc hội Quốc hội
đại biểu
biểu
quyết
tán
thành
Từ bảng so sánh trên, có thể thấy thủ tục sửa đổi Hiến pháp đã có những thay đổi đáng kể qua các bản Hiến
pháp của Việt Nam.
Về thẩm quyền, thủ tục sửa đổi Hiến pháp từ Điều 70 Hiến pháp 1946 đến Điều 120 Hiến pháp 2013 đều do cơ
quan lập pháp cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Quốc hội thực hiện. Điều này thể
hiện sự dân chủ, pháp quyền trong việc sửa đổi Hiến pháp.
Về trình tự, thủ tục sửa đổi Hiến pháp đã được quy định chặt chẽ hơn qua các bản Hiến pháp. Theo Điều 70
Hiến pháp 1946, Hội đồng Quốc dân chỉ cần thảo luận, thông qua dự thảo sửa đổi Hiến pháp và trình Quốc hội
thông qua. Tuy nhiên, theo Điều 147 Hiến pháp 1992 và Điều 120 Hiến pháp 2013, Quốc hội phải tiến hành lấy
ý kiến của nhân dân trước khi thông qua dự thảo sửa đổi Hiến pháp. Điều này nhằm đảm bảo tính dân chủ, công
khai, minh bạch trong việc sửa đổi Hiến pháp.
Về thẩm quyền: Cả ba bản Hiến pháp đều quy định thẩm quyền sửa đổi Hiến pháp thuộc về Ủy ban Thường vụ
Quốc hội. Tuy nhiên, Hiến pháp 2013 đã bổ sung quy định cụ thể hơn về thẩm quyền của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội, bao gồm: dự thảo và trình Quốc hội dự kiến sửa đổi Hiến pháp; soạn thảo dự thảo Hiến pháp sửa đổi;
tổ chức Hội đồng Quốc gia về Hiến pháp để lấy ý kiến nhân dân về dự thảo Hiến pháp sửa đổi.
Về quy trình: Quy trình sửa đổi Hiến pháp của ba bản Hiến pháp đều tương tự nhau, bao gồm 6 bước cơ bản.
Tuy nhiên, Hiến pháp 2013 đã bổ sung một bước mới, đó là tổ chức trưng cầu ý dân về dự thảo Hiến pháp sửa
đổi. Đây là một bước quan trọng nhằm thể hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân đối với việc sửa đổi Hiến
pháp.
Bình luận
Những thay đổi về thủ tục sửa đổi Hiến pháp trong các bản Hiến pháp của Việt Nam thể hiện sự coi trọng vai
trò của nhân dân trong việc xây dựng và sửa đổi Hiến pháp. Việc bổ sung quy định về trưng cầu ý dân về dự
thảo Hiến pháp sửa đổi là một bước tiến quan trọng trong việc bảo đảm tính dân chủ, đại diện của Hiến pháp.
Tuy nhiên, việc tổ chức trưng cầu ý dân về dự thảo Hiến pháp sửa đổi cũng có những hạn chế nhất định, như:
12) Điều 88 Hiến pháp 2013: Chủ tịch nước có quyền phủ quyết các pháp lệnh của UBTVQH (18 người).
Giải thích và bình luận. Vì sao các pháp lệnh của UBTV cần bị phủ quyết?
- Vì trong Khoa học-pháp lý, pháp lệnh của UBTV được coi là 1 loại lập pháp ủy quyền: trong đời sống xã hội luôn
phát sinh quan hệ xã hội mới, những quan hệ này không ổn định và không có luật điều chỉnh, lẽ ra Quốc hội cần
ban hành 1 đạo luật ngay được. Vì vậy Quốc hội mới phải giao cho UBTVQH ban hành những pháp lệnh để điều
chỉnh những quan hệ xã hội đó, chờ đến khi nào những quan hệ xã hội đó ổn định và Quốc hội có điều kiện hơn
thì Quốc hội sẽ mang những pháp lệnh đó lên thành Luật.
- Về mặt lí thuyết cái pháp lệnh của UBTV được xem là những văn bản giá trị dưới Luật nhưng trên thực tế trong
lĩnh vực đó không có Luật nên mới cần có pháp lệnh. Vì vậy cái pháp lệnh có giá trị như 1 đạo luật. Vì vậy nhằm
kiểm tra tính hợp hiến, hợp pháp tránh tình trạng cẩu thả, vội vàng ban hành các pháp lệnh và cũng để Quốc hội
yên tâm hơn nên Quốc hội đã trao cho Chủ tịch nước quyền phủ quyết các pháp lệnh như 1 hình thức kiểm tra.
13) Việc phủ quyết các pháp lệnh này chỉ trao cho Chủ tịch nước chứ không giao cho Thủ tướng, Chánh án tối cao vì lí
do gì?
Có 2 lí do:
- Chủ tịch nước có quyền công bố các pháp lênh cho nên ông sẽ được đọc đầu tiên các pháp lệnh nên ông sẽ biết
được pháp lệnh có vấn đề gì và chữ kí sẽ quyết pháp lệnh có hiệu lực hay ko.
- Trong thời gian Quốc hội họp, Quốc hội là cao nhất còn lúc Quốc hội không họp thì Chủ tịch nước và UBTV là
ngang cơ. Hai thiết chế này không ai chịu trách nhiệm báo cáo công tác cho nhau. Tạo nên sự cân bằng và kiểm
soát chéo mới có hiệu quả (lúc Quốc hội họp Thủ tướng, Chánh án, Viện trưởng phải báo cáo công tác và chịu
trách nhiệm trước UBTVQH
14) Có nên bỏ chức vụ Chủ tịch nước?
- Không nên. Vì nếu chúng ta coi Nhà nước như 1 tổ chức thì bao giờ cũng phải có người đứng đầu và chỉ có Chủ
tịch nước mới đủ tư cách để đại diện cho đất nước đó (Thủ tướng chỉ đứng đầu và đại diện cho Chính phủ ->
Chủ phủ là 1 cơ quan quan trọng trong bộ máy nhà nước). Người ta chỉ đặt vấn đề trong 1 nhà nước có chức
danh Thủ tướng hay không mà thôi vì quốc gia nào chọn chính thể Cộng hòa Tổng thống như Mỹ và 41 nước
khác thì không có chức danh Thủ tướng.
- Chủ tịch nước tuy không nằm trong 1 cơ quan cụ thể, không nắm loại quyền lực nào cụ thể nhưng lại có mối
quan hệ mật thiết với từng cơ quan. Chủ tịch nước được ví như 1 “mắt xích” có vai trò điều hòa, phối hợp, nối
kết hoạt động giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương với nhau để đưa cả bộ máy nhà nước đi đến việc thực
hiện các chức năng và mục tiêu chung.
- Tóm lại nếu nhìn từng cơ quan riêng lẻ thì không cần Chủ tịch nước. Nhưng nếu nhìn tổng thể bộ máy nhà nước
rất cần người đại diện, đứng đầu bộ máy nhà nước.
15) Vì sao Trong các thành viên của Chính phủ chỉ có Thủ tướng mới bắt buộc là đại biểu Quốc hội, còn Phó Thủ
tướng, Bộ trưởng, TTCQNB không nhất thiết là đại biểu Quốc hội?
Thủ tướng phải là đại biểu quốc hội vì:
- Để đảm bảo tính chấp hành của Chính phủ. Nếu là đại biểu quốc hội thì Thủ tướng đương nhiên tham dự kì họp
Quốc hội và qua đó Thủ tướng nghe và nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng, đường lối chủ trương của Quốc hội -
> Từ đó Thủ tướng về triển khai cho Chính phủ thi hành.
- Để thể hiện sự tín nhiệm nào đó của người dân đối với người đứng đầu của cơ quan hành chính cao nhất của
đất nước, bối cảnh người đứng đầu không do dân trực tiếp bầu ra (người đứng đầu cơ quan hành pháp ở các
nước trên thế giới hầu như do dân trực tiếp bầu).
Những thành viên khác của Chính phủ không nhất thiết là đại biểu quốc hội vì 3 lý do sau:
- Tạo ra 1 cơ sở xã hội rộng rãi cho Thủ tướng trong việc lựa chọn những chức danh này, nhằm mục đích thu hút
nhân tài (nếu những người này là đại biểu quốc hội thì Thủ tướng chỉ được chọn trong số 500 đại biểu mà thôi .
Nếu quyết định không nhất thiết thì Thủ tướng được chọn trong số 96 triệu người dân)
- Quy định này đảm bảo cho Quốc hội giám sát Chính phủ được khách quan, tránh tình trạng vừa đá bóng vừa
thổi còi.
- Quy định này thể hiện tư duy mới cần có sự phân công rành mạch giữa Lập pháp và Hành pháp tránh tình trạng
ôm đồm, kiêm nhiệm.
16) Vì sao nếu làm Thủ tướng mà phát hiện 1 UBND cấp tỉnh lỡ ban hành văn bản sai -> Thủ tướng được quyền đình
chỉ hoặc bãi bỏ luôn >< nếu phát hiện Hội đồng nhân dân cấp tỉnh ra Nghị quyết sai -> Thủ tướng chỉ tạm đình chỉ
thi hành và đề nghị UBTVQH ra Nghị quyết bãi bỏ Nghị quyết của HDND?
- Bởi vì, HDND là cơ quan dân cử do nhân dân địa phương bầu ra, nó không nằm trong hệ thống quản lí của Thủ
tướng, khi phát hiên HDND sai thì Thủ tướng chỉ được quyền đình chỉ.
- Trong khi đó UBND là cơ quan hành chính nằm trong hệ thống hành chính, chịu sự quản lí trực tiếp của Thủ
tướng. Vì thế Thủ tướng được quyền thành lập, chỉ đạo, UBND phải báo cáo công tác và chịu trách nhiệm trước
Thủ tướng.