Professional Documents
Culture Documents
Vận dụng quan điểm về cái đẹp hãy phân tích
Vận dụng quan điểm về cái đẹp hãy phân tích
Trong thơ xưa, thiên nhiên không chỉ là trung tâm của cái đẹp mà còn là nơi gửi gắm tâm tình
của con người. Và trong “Truyện Kiều”bất hủ đại thi hào Nguyễn Du đã dành tới 222 câu thơ
miêu tả cảnh thiên nhiên. Trong đó đoạn trích”cảnh ngày xuân”có thể coi là một bức tranh đẹp
vào loại bậc nhất của “Truyện Kiều”. Chỉ với 18 câu thơ hàm súc, Nguyễn Du đã gieo vào lòng
người đọc sức sống tràn trề của mùa xuân. Đồng thời, giúp ta nhận được sự tinh tế trong bút
pháp miêu tả giàu chất tạo hình của Nguyễn Du.
Đoạn thơ đã mở ra trước mắt ta một khung cảnh mùa xuân trong tiết thanh minh, qua bốn câu
thơ đầu:
Mùa xuân là mùa khởi đầu trong một năm là mùa cây cối đâm chồi nảy lộc, tâm hồn con người
phơi phới, mùa xuân cũng là mùa có nhiều lễ hội diễn ra nhiều nhất, trong thơ của Nguyễn Du,
đó là khung cảnh lễ hội trong tiết thanh minh, tám câu thơ tiếp theo tả cảnh trẩy hội tưng bừng,
náo nhiệt:
Nếu như những dòng thơ trên phác họa khung cảnh nhộn nhịp, đông vui của lễ hội thì sáu câu
thơ cuối tạo nên một nhịp điệu trữ tình man mác buồn theo từng bước chân của chị em Thúy
Kiều:
Tóm lại, bằng cách sử dụng hệ thống từ ghép, từ láy giàu chất tạo hình, giàu sức gợi tả, đoạn
trích “cảnh ngày xuân”xứng đáng là bức tranh đẹp vào loại bậc nhất, tạo nên sức hấp dẫn cho tác
phẩm “Truyện Kiều”. Đồng thời, với cây bút miêu tả thiên nhiên tài tình của Nguyễn Du, cảnh
vật hiện lên tươi đẹp, trong sáng và còn nhuộm màu tâm trạng, đây là yếu tố tạo nên thành công
của đoạn trích và đưa tên tuổi của đại thi hào Nguyễn Du đến gần với bạn đọc khắp năm châu ở
mọi thế kỷ.
BÀI 2
Nguyễn Du sinh năm 1820, là một người con của làng quê Tiên Điền, Hà Tĩnh. Vốn là con của
một gia đình có truyền thống văn học qua bao đời nên Nguyễn Du được thừa hưởng khả năng
văn học từ gia đình cùng với tấm lòng gắn bó, yêu thương với con người đã mang đến màu sắc
nhân đạo đặc sắc trong thơ Nguyễn Du. Sống trong thời kỳ xã hội loạn lạc, từng đến nhiều nơi và
có trải nghiệm gắn bó với cuộc sống của người dân nên ông hiểu hơn ai hết những vất vả, khổ
cực mà những người dân phải gánh chịu, vì lẽ đó là lòng ông luôn hướng về những người khốn
khổ, thương cảm và dành họ họ sự yêu thương, cảm thông sâu sắc.
Truyện Kiều là kiệt tác của Nguyễn Du viết về cuộc đời và số phận của người con gái tài hoa bạc
mệnh Thúy Kiều, không chỉ xuất sắc trong việc khắc họa chân dung, số phận của nàng Kiều mà
Nguyễn Du còn có tài năng miêu tả thiên nhiên bậc thầy, ta có thể thấy rõ điều này qua đoạn
trích Cảnh ngày xuân.
Không chỉ thành công trong việc khắc hoạ nhân vật, Nguyễn Du còn mang đến cho ta những câu
thơ viết về thiên nhiên đầy gợi cảm, xinh đẹp và êm đềm. Đoạn trích “Cảnh ngày xuân” là một
trong những đoạn trích miêu tả cảnh thiên nhiên hay và mượt mà nhất của tác phẩm. “Cảnh ngày
xuân” nằm sau đoạn miêu tả chị em Thúy Kiều, được mở đầu bằng bốn câu thơ mượt mà giới
thiệu cảnh xuân:
Và còn đây nữa cánh hoa lê trắng tinh khôi, được điểm xuyết tự nhiên mà hài hòa nên nền xanh
của lá, sắc trắng hoa lê mang nét gợi cảm đầy hấp dẫn, thu hút. Trong thơ cổ Trung Quốc cũng
có những câu thơ miêu tả xuân tiết tháng ba bằng những câu thơ rất hay: “Phương thảo niên bích
Lê chỉ số điểm hoa”.
Nguyễn Du trong tác phẩm này cũng đã vận dụng một cách đầy sáng tạo để viết về nét xuân của
dân tộc, nét xuân của Việt Nam, thiên nhiên mang cả hồn đất Việt. Nếu câu thơ cổ gợi xuân bằng
hương vị, đường nét, trong thơ Nguyễn Du không chỉ có màu sắc, đường nét và còn thấy cả cái
nhịp vận động khẽ khàng nhưng đầy tinh tế của những cánh hoa lê qua nghệ thuật đảo ngữ, đẩy
“trắng” lên trước từ “điểm”, khiến cho hoa lê như đang bừng nở trong không khí mùa xuân.
Có thể thấy, chỉ bốn câu thơ đầu ấy thôi, mà Nguyễn Du đã vẽ nên một bức hoạ, vừa khoáng đạt,
thanh bình lại vừa sinh động, tươi vui. Dường như, lòng người cũng đang thư thái hạnh phúc xốn
xang tận hưởng thứ thiên nhiên tuyệt diệu lúc này.
Mùa xuân là mùa của niềm vui sum họp, của những cuộc dạo chơi, những lễ hội vui tươi. Ở Việt
Nam, vào tiết tháng ba âm lịch, có lễ hội đạp thanh, tảo mộ truyền thống. Nguyễn Du cũng đã tái
hiện lại khung cảnh của lễ hội này qua những câu thơ:
Và đâu đây, ta thấy có bóng hình chị em nàng Kiều tuyệt sắc trong đó, họ cũng đang hòa mình
trong niềm vui, sức sống của tuổi trẻ, của những đẹp đẽ thanh xuân lúc này. Sau phần hội vui
chơi là đến phần lễ đầy thiêng liêng, long trọng:
Rồi cuộc vui nào cũng đến lúc phải kết thúc, cuộc gặp gỡ nào cũng có lúc chia xa, mời vừa sớm
bình minh còn vui chơi, cười nói thì giờ cũng đã thấm thoắt chiều tà, mọi người phải ra về trong
niềm tiếc nuối, nỗi bâng khuâng:
Thơ hay không chỉ đẹp thôi đâu mà nó còn có tình trong đó. Thơ hay đâu chỉ nói lên giấc mộng,
nỗi lòng người thi sĩ mà còn nói lên khát khao, mơ ước của những người thưởng thức. Đoạn trích
“Cảnh ngày xuân” đã cho thấy một tâm hồn nhạy cảm, tinh tế và tài năng xuất chúng của đại thi
hào dân tộc Nguyễn Du.
Vận dụng quan điểm về cái đẹp hãy phân tích đoạn thơ sau (Trích Việt Bắc -
Tố Hữu)
BÀI 1
Tố Hữu được coi là cây đại thụ của làng thơ ca Việt Nam hiện đại. Thơ ca của ông phần nhiều
gắn bó sâu sắc với cách mạng và kháng chiến với những tác phẩm có sự hòa quyện chặt chẽ và
sâu sắc giữa nội dung trữ tình chính trị và nghệ thuật biểu hiện đậm đà tính dân tộc. Việt Bắc là
một trong những bài thơ có độ phổ biến với công chúng bạn đọc nhiều nhất của ông. Qua bài thơ
bạn đọc có thể cảm nhận được một thời đại cách mạng và kháng chiến gian khổ mà anh hùng,
nhất là nghĩa tình gắn bó thắm thiết của những người kháng chiến với Việt Bắc, với nhân dân,
đất nước. Thấy rõ nội dung bài thơ đậm tính dân tộc, làm dào dạt thêm tình yêu quê hương đất
nước trong tâm hồn mỗi con người Việt Nam.
Bài thơ Việt Bắc được viết trong chặng đường thơ vào giai đoạn (1947-1954) trong kháng chiến
chống Pháp. Bài thơ như một bản hùng ca về cuộc kháng chiến chống Pháp gian khổ mà anh
hùng. Ca ngợi những con người kháng chiến là Đảng và Bác Hồ. Trong tác phẩm nhiều tình cảm
sâu đậm được thể hiện: tình quân dân, miền xuôi và miền ngược, tình yêu đất nước…. Bài thơ
được coi là một trong những thành tựu xuất sắc của văn học kháng chiến chống Pháp đậm đà
tính dân tộc và sử thi hùng tráng.
Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là cảm hứng lịch sử dân tộc chứ không phải là cảm hứng thế sự –
đời tư nên con người trong thơ Tố Hữu là con người của sự nghiệp chung, mang phẩm chất tiêu
biểu cho cả dân tộc, mang tầm vóc lịch sử và thời đại. Giọng thơ mang chất tâm tình, rất tự
nhiên, đằm thắm, chân thành, đậm đà tính dân tộc khi vận dụng những thể thơ truyền thống của
dân tộc lục bát ca dao dạt dào âm hưởng, nghĩa tình của hồn thơ dân tộc. Sử dụng những từ ngữ,
những cách nói quen thuộc với dân tộc. Phát huy cao độ tính nhạc, sử dụng tài tình các từ láy,
các thanh điệu, các vần thơ,….Sử dụng lối ví von, chuyển nghĩa rất quen thuộc, gần gũi với ca
dao, dân ca.
Khúc hồi tưởng ân tình về Việt Bắc trong những năm cách mạng và kháng chiến gian khổ, bản
anh hùng ca về cuộc kháng chiến, bản tình ca về nghĩa tình cách mạng và kháng chiến được mở
đầu:
Kỉ niệm trong 15 năm kháng chiến được tác giả miêu tả một cách rất chi tiết:
Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù?
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai? …..
Bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, thơ mộng, vừa hiện thực vừa thi vị, mang nét riêng độc đáo, khác
hẳn với những vùng quê khác với những cảnh vật núi rừng Việc Bắc hiện lên với vẻ đẹp vừa
hiện thực vừa mơ mộng:
Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người.
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình.
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.
Thiên nhiên Việt Bắc hiện lên với vẻ đẹp đa dạng, sinh động, thay đổi theo từng mùa. Mùa đông
tươi tắn, không lạnh lẽo với hình ảnh “hoa chuối đỏ tươi”, gắn bó với thiên nhiên là những con
người bình dị, người đi làm nương rẫy. Mùa xuân trong sáng, tinh khôi và đầy sức sống với “mơ
nở trắng rừng”. Mùa hè rực rỡ “ Rừng phách đổ vàng”, sôi động với âm thanh “ve kêu”, con
người đi hái măng giữa rừng tre nứa, đó là những con người cần mẫn, chịu thương chịu khó.
Mùa thu yên ả, thanh bình, lãng mạn với hình ảnh “trăng rọi hòa bình” cùng với đó là những con
người ân tình, ân nghĩa. Bằng những việc làm nhỏ bé, họ góp phần tạo nên sức mạnh vĩ đại của
cuộc kháng chiến. Tuy họ nghèo về vật chất nhưng lại giàu về nghĩa tình.
Việt Bắc là quê hương của cách mạng, là căn cứ địa vững chắc, là đầu não của cuộc kháng chiến,
nơi hội tụ tình cảm, suy nghĩ, niềm tin và hi vọng của mọi người Việt Nam yêu nước. Việt Bắc là
chiến khu kiên cường, nơi nuôi dưỡng bao sức mạnh đấu tranh, nơi khai sinh những địa danh
mãi mãi đi vào lịch sử dân tộc. Bài thơ khẳng định niềm tin yêu của cả nước với Việt Bắc bằng
những vần thơ mộc mạc, giản dị mà thắm thiết nghĩa tình.
Trong nền văn học Việt Nam, Tố Hữu được biết đến với tiếng thơ mang đậm tính trữ tình –
chính trị. Những vấn đề mang tính lịch sử khi đi vào thơ ông đều mang âm hưởng của sự ngọt
ngào, tha thiết. Điều này đã được thể hiện rõ qua tác phẩm “Việt Bắc” – một bài ca về tình quân
dân gắn bó thủy chung, son sắt.
Bài thơ đã tái hiện thành công tình cảm gắn bó sâu nặng và nghĩa tình đầy thủy chung của người
cán bộ cách mạng và đồng bào Việt Bắc. Trước hết, tình cảm đó được thể hiện rõ thông qua kết
cấu của tác phẩm. Bài thơ là lời đối đáp của nhân dân Việt Bắc và người cán bộ cách mạng trong
hoàn cảnh những người kháng chiến từ chiến khu Việt Bắc trở về xuôi. Cuộc chia tay lịch sử đó
đã được tái hiện thông qua những cung bậc tình cảm đầy da diết về biết bao kỉ niệm đẹp cùng
hoài niệm tha thiết về năm tháng đã qua. Tác giả Tố Hữu đã khéo léo vận dụng lối đối đáp gần
gũi, quen thuộc với những khúc hát ca dao, dân ca thông qua đại từ “mình” – “ta”, tạo nên những
vần thơ chan chứa yêu thương và sâu nặng nghĩa tình nhân dân, nghĩa tình cách mạng.
Khúc hát đầy ân tình thủy chung được tái hiện ngay từ những phút giây đầu tiên qua lời của
người ở lại:
Đáp lại tiếng lòng của nhân dân Việt Bắc, “người đi” – những chiến sĩ cách mạng không tránh
khỏi sự “bâng khuâng”, “bồn chồn”:
Vẻ đẹp nghĩa tình cùng sự gắn bó trong tình cảm của “người đi” – “kẻ ở” đã được tái hiện thành
công thông qua các biện pháp nghệ thuật giàu tính dân tộc mang đặc trưng của thơ Tố Hữu – một
tiếng thơ có sự hòa quyện giữa tính trữ tình và chính trị. Tác giả đã khéo léo vận dụng thành
công thể thơ lục bát truyền thống kết hợp lối kết cấu giao duyên quen thuộc trong ca dao, dân ca.
Bên cạnh đó, các biện pháp nghệ thuật như so sánh, nhân hóa, ẩn dụ cùng lối nói giàu hình ảnh
đã được sử dụng nhuần nhuyễn để tạo nên một giọng thơ tâm tình, ngọt ngào của bài ca về tình
cảm son sắt thủy chung mang đậm nghĩa tình cách mạng.
Như vậy, qua bài thơ “Việt Bắc”, chúng ta có thể thấy được tình cảm gắn bó đầy nghĩa tình thủy
chung giữa quân và dân ta trong những năm tháng kháng chiến gian khổ cũng như tài năng của
nhà thơ Tố Hữu trong việc diễn đạt một câu chuyện mang tính chính trị trở nên da diết, trữ tình
và thiết tha.
BÀI 2
Tố Hữu là một nhà thơ lớn của dân tộc Việt Nam thế kỉ XX và là cánh chim đầu đàn của thơ ca
Cách mạng. Sự nghiệp thơ ca của Tố Hữu luôn song hành với sự nghiệp Cách mạng của dân tộc
từ gian khó hy sinh cho đến thắng lợi cuối cùng. Sau khi cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân
dân ta thành công vào tháng 10/1945, thay mặt cho toàn dân tộc, Tố Hữu sáng tác bài thơ Việt
Bắc nhằm ôn lại một chặng đường lịch sử hào hùng và oanh liệt mà nhiều thế hệ Việt Nam đã đổ
máu xương dựng nên trang sử vàng chói lọi. Bài thơ Việt Bắc được coi là đỉnh cao thơ ca Tố
Hữu và cũng là một trong những vần thơ hay nhất của thơ ca kháng chiến chống Pháp. Việt Bắc
được viết vào hoàn cảnh sau khi cách mạng ở miền Bắc đạt được thắng lợi to lớn đó là trận Điện
Biên Phủ năm 1954. Sau thắng lợi Điện Biên Phủ thì những người kháng chiến rời căn cứ địa ở
Việt Bắc để trở về miền xuôi để tiếp tục lãnh đạo công cuộc kháng chiến giải phóng miền Nam
và thống nhất Tổ quốc. Tố Hữu viết bài thơ này như là lời tri ân gửi đến những người dân miền
rừng núi. Đồng thời cũng là lời nhắc nhớ về những tháng ngày gian khổ với biết bao kỷ niệm ở
nơi đây. Qua đó ta thấy được tình cảm sâu nặng của bộ đội cụ hồ với nhân dân, với Việt Bắc và
với Đảng. Xuyên qua bài thơ với ba nội dung thứ nhất là lòng dân thắm thiết, thứ hai là tinh thần
kháng chiến kiên cường, gian khổ và cuối cùng vẫn là cảnh đẹp thiên nhiên núi rừng Tây Bắc.
Mở đầu bài thơ là sự tri ân đầy cảm động của người cộng sản với quê hương Việt Bắc. Sự kiện
lịch sử trọng đại này đã được nhà thơ chuyển thể thành khúc ca giao duyên “ta – mình” nồng nàn
tha thiết. Hai mươi tư câu thơ đầu hướng về đề tài cách mạng quen thuộc trong văn chương đã
ghi lại tình cảm ấm áp nghĩa tình của cơ quan trung ương Đảng và chính phủ với chiến khu Việt
Bắc, một cuộc tiễn đưa đầy xúc động, nồng nàn yêu thương. Đây là bài thơ khá tiêu biểu về cảm
hứng trữ tình chính trị trong thơ Tố Hữu, đó là cảm xúc mạnh mẽ đối với các vấn đề trọng đại
của đất nước, được thể hiện qua hình ảnh lãng mạn đầy tình cảm. Mở đầu cho bài hát này là
tiếng lòng, là tình cảm của Việt Bắc – những người ở lại làm cho người kháng chiến về xuôi:
Câu thơ “Mình về rừng núi nhớ ai” cũng mang hình thức của câu hỏi nhưng không phải để hỏi
người đi mà là nhằm bày tỏ nỗi niềm người ở lại. “Rừng núi” là hình ảnh đại diện cho người dân
Việt Bắc, hỏi “ai” là người ra đi. Nỗi nhớ nhung và sự mặc cảm cũng được thể hiện rõ ràng
thông qua lối nói né tránh cùng cấu trúc câu khiến ý thơ càng trở nên da diết, đầy ngậm ngùi day
dứt. Tính chất ẩn dụ khiến hình ảnh người mất đi càng trở nên xa xăm thêm qua đôi mắt nhớ
nhung của người dân Việt Bắc mộc mạc và chân tình. Câu thơ 8 gồm hai vế đối xứng đề cập đến
hai hình ảnh “trám bùi “,” măng mai “– đặc sản thân quen giản dị của núi rừng Việt Bắc, chỉ rõ
miền rừng núi này đã trở thành quê hương thứ hai của người lính. Phép điệp cấu trúc “để rụng”,
“để già” gợi nên hình ảnh cuộc sống như đình trệ, núi rừng như hoang tàn sau lưng người đi, để
lại nỗi xót xa trống trải trong lòng người ở lại. Sự gắn bó khiến ta – mình càng yêu nhau, càng
quý trọng nhau hơn, thể hiện trong những hình ảnh thơ chất chứa lòng thương nỗi nhớ khôn
nguôi của Việt Bắc dành cho Đảng, cho Bác Hồ: “Mình đi có nhớ những nhà/Hắt hiu lau xám
đậm đà lòng son”.
Câu thơ là lời nhắc nhở cảm động với người ra đi: đừng bao giờ quên những con người nghèo
khổ mà son sắt kiên trung – những con người đã một lòng thủy chung với cách mạng và kháng
chiến. Hình ảnh “hắt hiu lau xám” vừa gợi tả không gian hoang vắng, tiêu sơ, buồn bã của núi
rừng vừa mang ý nghĩa ẩn dụ chỉ cuộc sống nghèo khổ của người dân nơi đây. “Đậm đà lòng
son” vì thế cũng là hình ảnh ẩn dụ ngợi ca tấm lòng trung hậu, nghĩa tình của người dân Việt
Bắc. Và có lẽ chính màu lau xám hắt hiu của núi rừng càng làm đậm thêm sắt son nghĩa tình Việt
Bắc: “Mình đi, mình có nhớ mình/Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa”. Một lần nữa, nhà thơ
khẳng định lại tấm lòng gắn bó thuỷ chung của Việt Bắc với Cách mạng và kháng chiến. Từ
“mình” ở cuối câu sáu tạo nên nhiều cách hiểu.
Có thể “mình” là “ta” – người ở lại, thì câu thơ là sự xuyến xao, day dứt trăn trở trong suốt bài
thơ, liệu người chiến sĩ khi trở về thành phố, trở về quê hương, trở về nơi “ánh điện cửa gương”
có còn nhớ đến Việt Bắc nghĩa tình không, có nghĩ đến những con người “sương lau xám đậm đà
lòng son” nữa không? Cách hiểu như thế cho thấy sự gần gũi gắn bó rất bền chặt của người với
đất, dù hai mà một không thể nào tách rời. Lại cũng có thể hiểu “mình” là người ra đi – câu thơ
trở thành sự liên tưởng nhẹ nhàng, sâu lắng, tha thiết: mình đi, mình sẽ vẫn là con người của
ngày xưa ấy, con người anh dũng, tình nghĩa, thuỷ chung nhân hậu đã cùng Việt Bắc sát cánh kề
vai, trong mười lăm năm ấy không? Đó là sự nhắc nhở không đánh mất con người mình nơi cuộc
sống phồn hoa, chớ quên miếng vá giữa rừng khi đã quen với ánh đèn phố thị và đừng quên
những ngày tháng năm khói lửa, hào hùng khi trở về cuộc sống đời thường.
Nhà thơ đã nhắc đến sự kiện lịch sử trọng đại của dân tộc ở câu tám. Câu thơ đã được nhà thơ thể
hiện nhiều tầng nghĩa sâu sắc khi “Mái đình Hồng Thái”, “Cây đa Tân Trào” được tách làm hai
vế với những tập hợp ngôn từ mới mẻ. Vế thứ nhất là hai danh từ riêng “Tân Trào”, “Hồng
Thái”, các địa danh gắn liền với những sự kiện lịch sử lớn của dân tộc và kháng chiến: đình
Hồng Thái là nơi tổ chức Quốc dân Đại hội tháng 8 năm 1945, ra mắt Uỷ ban dân tộc giải phóng
quân và phát lệnh Tổng khởi nghĩa; gốc đa Tân Trào là nơi đội Việt Nam Giải phóng quân đã
làm lễ xuất phát chuẩn bị cho cách mạng.
Vế sau là hai danh từ chung trong đó “mái đình”, “cây đa” đều là những hình ảnh gần gũi, thân
thuộc của làng quê Việt, nơi gặp gỡ, nơi hò hẹn. Phép ẩn dụ trong câu thơ đã thể hiện tình cảm
vô cùng sâu đậm của người dân Việt Bắc với Cách mạng và kháng chiến. Những tên đất, tên làng
Việt Bắc đã trở thành những địa danh, những cột mốc lịch sử mà các thế hệ Việt Nam khi nhớ lại
đều cảm động và tự hào. Việt Bắc đã trở thành căn cứ địa Cách mạng và người dân Việt Bắc
cũng một lòng hướng về Cách mạng. Như một khúc hát biệt ly, đoạn thơ tái hiện lại cuộc chia
tay lịch sử khép lại trong tiếng lòng của người ra đi dành cho Việt Bắc nặng nghĩa nặng tình:
Hình ảnh so sánh “nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu” nhấn mạnh tính chất và mức độ
của nỗi nhớ – một khái niệm trừu tượng – được cụ thể hoá, được đo lường, hiển hiện như nước
trong nguồn, mênh mông, lặng lẽ và cô đặc. Hơn nữa, hình ảnh nước trong nguồn cũng gợi
những suy nghĩ về quê hương, về đạo lí thủy chung ngàn đời của người dân Việt. Thời gian vẫn
không ngừng cuốn theo để mỗi thế hệ Việt Nam sẽ không bao giờ quên đi con đường lịch sử hào
hùng của cuộc kháng chiến chống Pháp cũng như mãi ghi nhớ công ơn của ông cha, của Việt
Bắc đã cùng nhau làm nên trang sử vàng rực rỡ vinh quang. Mười tám câu thơ cuối cùng là lời
tiếp nối bài ca chia tay đầy quyến luyến tình cảm của người và đất. Đây cũng là bài thơ tượng
trưng cho nỗi nhớ Việt Bắc thiết tha mặn nồng của người về xuôi khi cuộc kháng chiến chấm
dứt. Qua bài thơ, khung cảnh núi rừng Việt Bắc cũng như tấm chân tình của người dân nơi đây
được thể hiện rất sinh động. Sáu câu thơ đầu là nỗi nhớ về khung cảnh núi rừng Việt Bắc. Cả ba
cặp lục bát đều bắt đầu với một chữ “nhớ” rất da diết. Sắc thái và mức độ của nỗi nhớ được thể
hiện bằng hình ảnh so sánh ngọt ngào hơn:
Từng cảnh vật của Việt Bắc trong mọi thời điểm và không gian đan xen, dồn dập hiện ra trong
nỗi nhớ người đi. Việt Bắc khi thơ mộng với ánh trăng sao lung linh nơi đỉnh đồi, khi ấm áp nhạt
nhòa trong “nắng chiều lưng nương”, lúc thì như hồ huyền ảo giữa lòng “bản khói cùng sương”
và đặc biệt là da diết nghĩa tình bởi nó gắn bó với hình ảnh con người khi “sớm khuya bếp lửa
người thương đi về”. Đó là ngọn lửa của tình yêu thương, của sự che chở bao bọc, của chia sẻ,
của tình cảm gắn kết. Việt Bắc hoang sơ mà không hề khô cứng. Trong nỗi nhớ niềm thương,
Việt Bắc đẹp ở mọi khoảnh khắc và mọi góc chụp. Nếu ở đây, người Việt Bắc mới chỉ hiện lên
khi so sánh với nỗi “nhớ người thương” thì tới câu thơ này, họ đã thực sự trở thành “người
thương trong lòng người lính”. Những cảnh vật ở Việt Bắc dù có tên gọi “ngòi Thia”, “sông
Đáy”, “suối Lê ” hay không tên thì” bờ tre “,”rừng nứa “vẫn in sâu trong nỗi nhớ người ra đi
Trong nỗi nhớ ấy, Việt Bắc trở thành một không gian của ân tình, nơi nào người nào cũng có
chút kỷ niệm của kháng chiến, quả là “khi ta đi đất đã hoá tâm hồn”. Chia tay với Việt Bắc,
người về xuôi vẫn nhớ đến tấm lòng của nhân dân nơi đây dành cho Cách mạng và cho kháng
chiến. Và cũng để trả lời câu hỏi tha thiết của người dân Việt Bắc “Mình đi có nhớ từng ngày”,
người ra đi đã khẳng định “Ta đi ta nhớ những ngày” với lời lý giải sâu sắc, chân thành cho nỗi
nhớ: “Mình đây ta đó đắng cay ngọt bùi “. Họ đã ở bên nhau xuyên suốt “mười lăm năm ấy”, từ
“thời kháng Nhật, khi còn Việt Minh” đến những ngày kháng chiến chống Pháp.
Họ đã từng sẻ chia bao đắng cay, ngọt bùi từ “mưa nguồn suối lũ” cho đến “bát cơm chấm muối,
nỗi đau trĩu vai”, cùng nhau viết lên trang sử hào hùng oanh liệt nơi Tân Trào, Hồng Thái.
Những ngày tháng gian khổ có nhau ấy đã làm nên nghĩa tình Cách mạng hôm nay. Và đó cũng
là lý do cho nỗi nhớ da diết của người ra đi với người ở lại. Mở đầu cả đoạn thơ của nỗi nhớ là
một chữ “thương” quặn lòng, để rồi quá khứ trở về với cả đắng cay và nghĩa tình:
Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng.
“Sắn lùi”, “bát cơm sẻ nửa”, “chăn sui” là các hình ảnh sống động và chân thật đã cho thấy sự
khó khăn và thiếu thốn như thế nào. Người quân không chỉ phải đối mặt với kẻ thù mà còn phải
đương đầu với cả cái đói, cái lạnh, họ đã cùng đồng bào Việt Bắc vượt lên khó khăn và gian khổ
không chỉ bằng sức mạnh của lòng quả cảm mà còn là sức mạnh của tình thương yêu. Các động
từ “chia”, “sẻ”, “đắp cùng” đã thể hiện tình nghĩa sâu nặng của người dân Việt Bắc và bộ đội,
công an. Họ đã chia sẻ với nhau từng bữa cơm ngày rét đến hơi ấm giữa mùa đông “lạnh giá”.
Gian khổ hy sinh, Việt Bắc cùng dân tộc vượt lên, khó khăn chồng chất, Việt Bắc cùng dân tộc
san sẻ.
Suốt mười lăm năm qua, đồng bào Việt Bắc đã cùng dân tộc kề vai sát cánh, chia ngọt sẻ bùi với
Cách mạng, với kháng chiến. Tình thương yêu đã đe đến sức mạnh cho người lính chiến đấu và
chiến thắng. Nói đến tấm lòng Việt Bắc, nhà thơ cũng đồng thời làm sống dậy những năm tháng
vất vả, khó khăn đó mà cả dân tộc đã cùng vượt lên trên tất cả để luôn vững niềm tin vào ngày
mai tươi sáng. Cuộc sống vất vả, khó khăn, lam lũ, nhọc nhằn của người dân Việt Bắc trong các
hoạt động âm thầm hàng ngày để phục vụ Cách mạng và chiến đấu đã trở thành nỗi nhớ sâu
trong lòng người đọc, được nhà thơ gợi lại bằng một hình ảnh rất đỗi bình dị đời thường:
Câu thơ cuối có tới ba động từ “địu”, “lên”, “bẻ” thể hiện sự nhọc nhằn, lam lũ của người mẹ
Việt Bắc nhưng đổi lại chỉ là hình ảnh “từng bắp ngô” quá đỗi nhỏ bé, khiêm nhường. Không
gian làm việc khắc nghiệt cùng sự đối lập giữa trách nhiệm và thành quả cho thấy những nhọc
nhằn của con người trong cuộc sống lao động phục vụ kháng chiến, làm tăng lên cả nỗi đau lẫn
niềm tự hào trong lòng người đi. Gánh nặng hai vai vẫn cứ thế thầm lặng nhưng hình ảnh thơ ca
đã cho ta thấy một Việt Bắc mộc mạc bình dị mà lớn lao vô cùng. Hình ảnh thơ là những đúc kết
cho Việt Bắc lam lũ, giản dị mà đậm nghĩa ân tình.
Sâu xa hơn nữa, đó chính là hình ảnh của con người và đất nước tươi đẹp, thân thiện. Trong thơ
Tố Hữu, Việt Bắc xa xôi bỗng trở nên gần gũi và thân thương hơn. Người ra đi không chỉ nhớ
những hình ảnh của cuộc sống nghèo khó hay gian truân vất vả, tâm trí họ vẫn ghi lại những ký
ức gần gũi, thân thương và cả nếp sinh hoạt đơn sơ, giản dị của cuộc sống núi rừng thời kháng
chiến:
Như vậy, qua bài thơ “Việt Bắc”, chúng ta có thể thấy được tình cảm gắn bó đầy nghĩa tình thủy
chung giữa quân và dân ta trong những năm tháng kháng chiến gian khổ cũng như tài năng của
nhà thơ Tố Hữu trong việc diễn đạt một câu chuyện mang tính chính trị trở nên da diết, trữ tình
và thiết tha. “Việt Bắc” là tiếng hát ân tình thuỷ chung của người kháng chiến với chiến khu
kháng chiến, là khúc ca đầy tự hào về những chiến thắng hào hùng của dân tộc. Qua lời thơ, Tố
Hữu cũng cho thấy những giá trị truyền thống cao đẹp cùng với tình cảm to lớn của người Việt
Nam đã kế thừa trong thời đại Hồ Chí Minh đầy sôi động và mãnh liệt.
Vận dụng quan điểm về cái đẹp hãy phân tích vẽ đẹp của hình tượng hoa sen
trong bài ca dao: Trong đầm gì đẹp bằng sen,
Ca dao là tiếng nói tình cảm thể hiện đời sống tinh thần phong phú của nhân dân lao động. Đó là
tấm lòng đối với người thân, với quê hương đất nước. Trong số những bài ca dao được sáng tác
bởi nhân dân và được lưu truyền bởi nhân dân có không ít những kiệt tác. Bài ca dao sau là một
trong số đó, không chỉ lấp lánh vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn ánh lên vẻ đẹp trong tâm hồn con
người:
Bài ca dao mở ra hình ảnh một đầm sen bát ngát. Đã là đầm sen thì hẳn hoa sen là thứ đẹp đẽ
nhất:
"Trong đầm gì đẹp bằng sen"
Câu ca dao có dáng dấp của một câu hỏi "gì đẹp bằng sen" nhưng thực chất đó là một lời
khẳng định: Trong đầm không có gì đẹp bằng sen, sen là đẹp nhất. Cách sử dụng câu hỏi tu từ
như vậy bộc lộ niềm kiêu hãnh, tự hào về vẻ đẹp hiếm có của hoa sen.
Vậy sen đẹp như thế nào?
"Lá xanh, bông trắng lại chen nhị vàng
Những bộ phận, chi tiết của sen được ngắm nghía, nhận xét khá khắt khe từ "lá", "bông" đến
"nhị". Màu sắc của chúng rất sắc nét, rõ ràng "Lá xanh, bông trắng lại chen nhị vàng". Màu xanh,
màu trắng, màu vàng. Câu ca dao hoàn toàn tả thực đồng thời làm nổi bật những sắc màu tự
nhiên, hài hoà của sen. Từ "lại" nhấn mạnh đến sự phong phú, hài hoà rất tự nhiên, giản dị và
cũng rất đẹp đẽ ấy. Câu ca dao tiếp hoàn toàn không có ý mới, chỉ là nhắc lại ý trên có đảo trật tự
các cụm từ: "Nhị vàng, bông trắng, lá xanh". Vừa trên, bông hoa được ngắm nhìn từ ngoài vào
trong, đến đây lại được ngắm từ trong ra ngoài. Sự xem xét ấy kĩ lưỡng, tỉ mỉ lắm, các vế câu đối
nhau rất nhịp nhàng, được tách riêng ra bởi dấu phẩy (,); tưởng như người ngắm lật từng phần
của sen mà chiêm ngưỡng vậy. Đến lần thứ hai này, sắc màu của sen không hề thay đổi, vẫn là
những sắc màu rất giản dị và tự nhiên như thế. Hai câu ca dao lặp lại ý khiến người đọc tò mò về
chủ định của tác giả. Và câu cuối cùng đã tháo gỡ những thắc mắc ấy:
"Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn"
Ý thơ mới tuyệt vời làm sao! Từ những sắc màu tươi tắn, thanh khiết của sen, tác giả dân
gian liên tưởng đến sự trong sạch đến kì diệu của loài hoa này: gần chốn đầm lầy bùn đọng hôi
tanh nhưng không hề bị cái ô uế làm cho phai hương nhạt sắc. Thì ra, việc người thưởng hoa
ngắm nghía xem xét bông hoa kĩ lưỡng đến nhường kia là để chắc chắn về cái chất của nó. Khi
sự xác minh đã hoàn tất, hoa sen đã vượt qua sự kiểm định khắt khe nhất và được vinh danh
trong câu ca dao khép lại của bài: "Gần bùn ma chẳng hôi tanh mùi bùn".
Nhưng bài ca dao không dừng lại ở việc ngợi ca loài hoa thân quen của chốn hương đồng gió
nội. Ăn sau đó là những tầng nghĩa sâu xa. Bùn trong đầm hôi tanh là có thực. Nhưng vẻ đẹp
thuần khiết của hoa sen cũng là thực. Và trong cái nắng oi bức của trưa hè, mùi thơm ngát hương
của sen còn khiến ta quên đi mùi bùn kia nữa. Khi đó, sự thanh cao đã lấn át, đã chiến thấng cái
thấp hèn, nhỏ mọn. Không chỉ vậy, hoa sen còn là loài hoa rất gần gũi, thân thiết với đời sống lao
động và sinh hoạt của người nông dân Việt Nam. Bởi vậy, ngợi ca hoa sen còn là thầm kiêu hãnh
tự hào về vẻ đẹp tiềm ẩn của bản thân mình. Hoa sen đã trở thành hình ảnh ẩn dụ cho cả một giai
cấp, cả một dân tộc. Con người Việt Nam dẫu nghèo đói, bần hàn, dẫu bị áp bức bóc lột rồi bị
đẩy đến đáy cùng xã hội nhưng vẫn giữ được những bản chất tốt đẹp lương thiện. Nhắc đến đây,
ta chợt nhớ đến những chị Dậu, lão Hạc... trong các thiên truyện đầu thế kỉ XX.
"Trong đầm gì đẹp bằng sen" là một bài ca dao hay và đẹp không chỉ ở hình ảnh thơ mà còn
ở những lớp nghĩa sâu sắc, giàu tính nhân văn. Bài ca dao đã khép lại những dư âm về một loài
hoa diệu kì vẫn còn đó. Chính bởi vẻ đẹp giản dị, trong sáng và thanh cao của mình, hoa sen đã
được chọn làm biểu tượng cho tâm hồn, tính cách người Việt Nam.
Vận dụng quan điểm về cái bi hãy phân tích bi kịch của Lão Hạc trong truyện
ngắn Lão Hạc của nhà văn Nam Cao.
Nam Cao là một trong những cây bút xuất sắc nhất của nền văn học hiện thực Việt Nam trước
cách mạng tháng 8. Với quan điểm sáng tác "nghệ thuật vị nhân sinh" Nam Cao chọn viết về tài
người nông dân và người tri thức trong xã hội cũ. Các tác phẩm của ông lúc nào cũng được đào
sâu, tìm kỹ và phân tích thật cặn kẽ những tấn bi kịch về cuộc đời của nhân vật, đặc biệt là với
biệt tài miêu tả nội tâm nhân vật xuất sắc các tác phẩm của ông lại càng trở nên sâu sắc và có giá
trị hơn cả. Cùng với Đời Thừa, Chí Phèo thì Lão Hạc cũng là một trong những truyện ngắn tiêu
biểu và xuất sắc nhất của Nam Cao ghi dấu ấn sáng rõ trong sự nghiệp sáng tác của ông. Với
những bi kịch trong cuộc đời của nhân vật chính là Lão Hạc, sự nghèo đói, khổ cực đã dằn vặt
ông già tội nghiệp cả về thể xác lẫn tinh thần, từ đó độc giả lại càng thấm thía về sự tàn khốc của
chế độ cũ, của chiến tranh những năm đất nước chờ giải phóng.
Lão Hạc vốn là một nông dân bình thường, cuộc sống dẫu nghèo khó thế nhưng chí ít ông cũng
không đến mức thảm hại bởi ông là người chăm chỉ làm ăn, cần cù, lương thiện. Thế nhưng có lẽ
số phận và cái chế độ xã hội nghiệt ngã đã đẩy cuộc đời của một ông lão già cả, tốt bụng ấy vào
đường cùng, cuộc đời ông có hai cái bi kịch lớn nhất ấy là bi kịch làm cha và bi kịch làm người.
Đọc những truyện ngắn của Nam Cao, người ta luôn có một nhận định chung rằng tất cả cách
nhân vật chính đều lương thiện và chính cái lương thiện ấy đã khởi nguồn mọi bi kịch, dẫu là
nghịch lý nhưng cuộc đời của người nông dân, của người trí thức nghèo trước cách mạng chính
là như vậy, đau đớn và xót xa vô cùng.
Trước hết nói về tấn bi kịch làm cha, nhà Lão Hạc là gia đình đơn thân, vợ lão mất sớm, chỉ còn
mình lão với cậu con trai và một mảnh vườn nhỏ. Cậu con trai lớn lên, muốn cưới vợ nhưng
khốn nỗi nhà gái thách cưới cao quá mà lão lại chẳng có tiền, chính cái nghèo đã trực tiếp khởi
đầu mọi sự bất hạnh trong cuộc đời lão. Việc con trai lão bất đắc chí, buồn rầu vì không cưới
được vợ quyết tâm bỏ quê đi làm phu trong đồn điền cao su cũng khiến lão đau đớn và bất lực
không thôi. Lão thương con, chán chường bởi bản thân bất tài không lo nổi cho con 100 đồng
cưới vợ, rồi con lão bỏ đi, lão thui thủi một mình trong nỗi cô đơn trống vắng của một ông lão
già cả, đẵng đẵng chờ con hết kỳ đi phu trở về mà con vẫn cứ biền biệt nơi xa, thậm chí đến lúc
chết ông cũng chẳng được nhìn con lần cuối! Tấm lòng của người cha thật đáng quý muôn phần,
vợ lão mất sớm thế nên lão làm thay cả phần của vợ để yêu thương con trai, dẫu rằng chẳng bao
giờ lão nói ra. Ở nhà lão thay con trông nom vườn tược, bòn được ở mảnh vườn ấy bao nhiêu lão
cũng đem cất riêng cho con, còn phần ăn của mình lão lại đi làm thuê, làm mướn để kiếm lấy. Có
lẽ rằng cái món tiền 100 đồng bạc cưới vợ đã ám ảnh và tình yêu thương con vô bờ bến đã thôi
thúc lão phấn đấu và nỗ lực gấp đôi người khác vì con.
Thế nhưng sự đời oái oăm, chắc vì lao lực quá độ mà lão lăn ra ốm một trận "2 tháng 18 ngày",
bao nhiêu tiền tích cóp của ông lão tội nghiệp gần như đổ hết vào thuốc thang, và sau ấy lão yếu
hơn hẳn không còn xốc vác được như trước nữa, đâm ra thất nghiệp chẳng ai mướn. Rồi mảnh
vườn duy nhất cũng bị bão táp tàn phá, không thu được đồng nào, có thể nói hàng loạt bất hạnh
và xui xẻo đang đổ ập lên đôi vai của một người nông dân lương thiện và yêu con sâu sắc khiến
ông phải khổ sở chống chọi. Có thể nói rằng chính lòng thương con sâu sắc đã dựng lên một tấn
bi kịch lớn cho cuộc đời Lão Hạc, trên nền cái bi kịch nghèo khó, cái đói rình rập cuối cùng lão
quyết định bán con chó mà lão hằng yêu thương, rồi chết, chấm dứt cuộc đời mà lão cho là đã tàn
tạ và vô dụng. Đối với lão sống mà không làm ra tiền, lại còn ăn và cả phần của con thì chi bằng
chết đi để lại đất, để lại
tiền cho con hưởng dụng là lựa chọn sáng suốt mà lão có thể làm được cho con. Người ta thấy
thật xót xa và tội nghiệp cho một người cha, một kiếp làm người đau đớn, khổ cực của Lão Hạc,
trước lúc chết vẫn lo lắng đâu vào đấy, nhờ ông giáo giữ đất hộ cho con, để không ai còn tơ
tưởng đến nó nữa.
Một tấn bi kịch khác của Lão Hạc ấy chính là bi kịch làm người, lão sống lương thiện, thậm chí
bị người ta ghét vì lương thiện quá, con lão đi xa chỉ để lại 3 đồng bạc và một con chó vàng mà
ông âu yếm gọi nó là Cậu Vàng. Con chó ấy đã bầu bạn cùng ông suốt gần 4 năm giời, xua đi nỗi
trống vắng khi nhớ con trai, ông cưng chiều, yêu thương nó tựa như một đứa con cầu tự. Thế
nhưng chính cái đói nghèo, khốn khó đã ép ông phải bán Cậu Vàng, mà có phải ông bán để lấy
tiền ăn đâu, 5 đồng ấy góp với 25 đồng ông còn lại, là tiền ma chay của chính ông, ông không
muốn liên lụy hàng xóm, hay ăn phạm vào mảnh vườn của con trai. Chính cái chu toàn và lương
thiện của Lão Hạc đã giày vò ông những ngày cuối đời, từ trong cái hình ảnh "Mặt lão đột nhiên
co rúm lại . Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão nghẹo về một
bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc..." khiến người đọc bị ám
ảnh bởi một nỗi đau quặn thắt, đầy xót xa, tội nghiệp của lão. Đó là con chó mà lão hết lòng
thương yêu, Lão Hạc trong sự lương thiện, đớn đau vô cùng đã tự chửi mình là "khốn nạn", cho
rằng bản thân đã tệ hại đến mức đi lừa một con chó, lão cứ đinh ninh rằng Cậu Vàng đang trách
lão, khiến lão day dứt không thôi. Lão Hạc sống lương thiện và đau đớn thế nhưng người ta vẫn
trách ông là kẻ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, bỉ ổi, nghĩ mà xót xa. Rồi cảnh lão chết cũng khiến
người ta bàng hoàng, chẳng hiểu sao lão lại chọn cái chết vật vã và đau đớn như vậy, một nắm bả
chuột khiến lão quằn quại 2 giờ liền, đó là một cách kết thúc sinh mạng cực đoan và khủng khiếp
vô cùng. Bởi con người thường sợ đau đớn và cái chết, chết trong đau đớn lại càng đáng sợ hơn
cả, thế nhưng nghĩ thật kỹ thì người ta cũng hiểu tại sao Lão Hạc làm như vậy. Có lẽ vì bả chó
không tốn tiền, cũng có lẽ ông đang tự trừng phạt bản thân sau tội lỗi mà mình đã gây ra cho Cậu
Vàng chăng? Một con người lương thiện thế, đạo đức thế nhưng kết cục thật quá bi thương và
tàn khốc.
Cuộc đời Lão Hạc là những tấn bi kịch chất chồng, tất cả những nghèo khó, bệnh tật, đớn đau về
cả thể xác lẫn tinh thần ông đều phải gánh lấy, mà chung quy lại ấy cũng là xuất phát từ tấm lòng
của một người cha, của một con người quá đỗi lương thiện. Đọc Lão Hạc người ta thấy thấm thía
và xót xa về một kiếp người khốn khổ, là đại diện cho số phận những người nông dân ở chế độ
cũ, cái nghèo, cái đói dồn ép họ đến đường cùng, hành hạ cả về thể xác lẫn tinh thần buộc họ
phải chọn cho mình cái chết để giải thoát.
Vận dụng quan điểm về cái bi hãy phân tích bi kịch mất nước và bi kịch tình
yêu trong truyện An Dương Vương và Mỵ Châu-Trọng Thủy.
“Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thuỷ” với hình ảnh một vị vua tài giỏi trong
buổi đầu dựng nước đã đánh tan những cuộc xâm lược tàn bạo của giặc nhưng cuối cùng đã thất
bại một cách đau đớn, trong phút chủ quan đã để cho giang sơn tắc vuột khỏi tầm tay, trở thành
một bài học kinh nghiệm xương máu khó có thể nào ghi nhớ. Đọc “An Dương Vương và Mị
Châu – Trọng Thuỷ” ta sẽ không dấu được sự đau xót về bi kịch mất nước Âu Lạc và nhất là bi
kịch tình cảm của nàng công chúa Mị Châu. Trong truyện dân gian, An Dương Vương xuất hiện
như một vị vua toàn tài, luôn mang trong lòng một tinh thần chống giặc ngoại xâm mãnh liệt.
Nhờ sự giúp sức của thần Kim Quy, ngài đã xây dựng nên Loa thành vững chắc và chế tạo được
nỏ thần – một vũ khí cực kỳ lợi hại, sắc bén, có thể tiêu diệt được hàng nghìn quân giặc.
Năm đó, khi quân Triệu Đà cử binh xâm chiếm phương Nam, nhưng quân Âu Lạc có nỏ thần
nên quân Đà thua trận, đành xin giảng hoà. Không bao lâu sau, Triệu Đà tìm cách kết duyên giữa
con trai Đà với con gái An Dương Vương. Vua Âu Lạc đã vô tình gả con gái mình là Mị Châu
cho Trọng Thuỷ. Vua và Trọng Thuỷ đã tỉ tê nói chuyện với Mị Châu nhằm khám phá bí mật nỏ
thần. Và Mị Châu – một người con gái nhẹ dạ cả tin đã thật thà giải thích tường tận cho chồng từ
cách chế tạo lẫy nỏ đến cách bắn mũi tên, tạo cơ hội cho Trọng Thuỷ chế nỏ giả, đánh tráo nỏ
thần. Ít lâu sau, Trọng Thuỷ từ biệt vợ với lí do “tình vợ chồng không thể nào quên, nghĩa cha
con không thể nào dứt bỏ” rồi đưa Mị Châu về phương Bắc thăm cha. Triệu Đà được lẫy nỏ rất
quý liền đem sang đánh. Vua An Dương Vương không hề hay biết nỏ thần bị đánh cắp, khi giặc
tiến gần đến thành thì ung dung ngồi chơi cờ, cười rồi nói “Đà không sợ nỏ thần sao?”. Cho đến
khi quân Đà áp sát quá rồi, vua mới lấy nỏ thần ra dùng, nhưng nỏ đã mất, không có cách nào
khác phải bỏ chạy. Vua đặt Mị Châu ở đằng sau lưng mà nhìn xuống phương Nam. Thế là theo
lời hẹn, những chiếc lông ngỗng trên áo Mị Châu đã chỉ lối cho Trọng Thuỷ bám theo rượt bắt.
Đến đường cùng, vua lại than rằng “Trời hại ta, sứ Thanh Giang ở đâu mau mau lại cứu”. Rùa
vàng nổi lên mặt nước, gầm to “kẻ nào ngồi sau vua chính là giặc”, Vua rút gươm chặt đầu Mị
Châu và Rùa vàng rẽ nước đưa vua xuống biển. Nỏ thần là một vũ khí lợi hại, chính nhờ nó mà
An Dương Vương đã đánh thắng quân xâm lược nhưng cũng chính nhờ nó mà vua đã trở nên
chủ quan khinh địch, mất cảnh giác trước những thủ đoạn xấu xa của quân xâm lược. Vua cũng
đã quá cả tin khi nhận lời cầu hôn của Triệu Đà. Nước mất nhà tan là vì nhà vua không nắm rõ
nội bộ của đất nước Ngài không hiểu hết được nỗi lòng của con gái yêu Mị Châu là nàng gái vô
cùng ngây thơ, nhẹ dạ cả tin, không một chút mảy may hoài nghi chồng dù là một giây một phút.
Nàng đã thực sự yêu Trọng Thuỷ, cũng bởi vì quá tin tưởng ở chàng nên Mị Châu đã vô tình trao
cho chàng bí mật quốc gia. Nỗi đau mất nước ấy quả thực là quá lớn lao. Nhưng ta lại càng đau
xót cho tình yêu mù quáng của nàng công chúa phương Nam. Mị Châu có đầy đủ phẩm chất cao
đẹp của người phụ nữ Việt Nam, nhưng cũng từ những phẩm chất ấy, vì tình yêu, nàng đã hại
cha, hại vua, hại nước. Trước sau nàng chỉ nghĩ về Trọng Thuỷ và hạnh phúc của nàng. Nàng hết
lòng tin tưởng và thương yêu chồng. Nàng đã dành cho chồng một tình yêu hết sức nồng nàn và
thiết tha. Ấy vậy mà Trọng Thuỷ – con người bội bạc ấy đã nỡ lòng chà đạp lên tình yêu ấy. Hắn
cưới nàng làm vợ hắn với ý định trả thù để xâm lược Âu Lạc. Nhưng Mị Châu quá mê muội,
nàng ĐÃ bỏ qua những câu nói lạ lùng, ẩn chứa bao hàm ý của Trọng Thuỷ trong lúc hai người
chia tay: “Ta nay trở về thăm cha, nếu như đến lúc hai nước bất hòa, Bắc Nam cách biệt, ta lại
tìm nàng, lấy gì làm dấu?”. Câu hỏi ấy của Trọng Thuỷ như một nắhcn nhở, cảnh báo trước cho
ngành về chuyện không lành sẽ đến với đất nước nàng. Nhưng nàng lại thật thà đáp rằng: “Thiếp
thân phận nữ nhi, nếu gặp cảnh biệt ly thì đớn đau khôn xiết. Thiếp có áo gấm lông ngỗng
thường mặc trên mình, đi đến đâu sẽ bứt lông mà rắc ở ngã ba đường để làm dấu, như vậy có thể
cứu được nhau”.
Và chính cái dấu lông ngỗng của nàng đã đẩy hai cha con đến bước đường cùng. Tại sao trong
những giờ phút hiểm nguy ấy, quân Đà đang tiến đánh cha mình thế mà nàng lại còn cả tin một
cách mù quáng, đi rắc lông ngỗng trên đường để làm hiệu báo cho giặc? Để rồi cuối cùng nàng
nhận được từ cha một cái chết đau đớn cùng cực, một cái chết với bao nỗi niềm cay đắng, tủi
nhục, một cái chết với những lời cảnh tỉnh muộn màng từ chính cha nàng và nàng. Liệu Mị Châu
có xứng đáng để chịu hình phạt ấy không? Thật khó khăn và đau đớn đối với vua An Dương
Vương khi nhát gươm chém con chính là ranh giới của tình yêu đất nước thiêng liêng và tình yêu
con tha thiết. Nhưng tất cả đều đã muộn màng. Cảnh “quốc phá gia vong”, cơ nghiệp lớn lao
phút chốc chỉ còn mây khói đâu chỉ tại mỗi sự mù quáng của Mị Châu mà còn bởi thói chủ quan
khinh địch, thiếu cảnh giác của chính nhà vua nữa.
Vậy người xưa muốn nhắn nhủ gì cho con cháu đời sau thông qua truyền thuyết “An Dương
Vương và Mị Châu – Trọng Thuỷ “? Đó là một bài học kinh nghiệm lớn lao trong công cuộc
giành lại độc lập tự do của dân tộc. Câu chuyện nhắc nhở chúng ta hãy luôn cảnh giác cao đối
với mọi thế lực thù địch nhằm giữ gìn hạnh phúc gia đình. Chuyện cũng là bài học dành cho
những bạn đang yêu và sẽ yêu. Hãy đừng vì quá yêu mà trở nên si mê, mù quáng để rồi dẫn đến
bị phản bội, lừa dối trong tình yêu. Hãy cứ sống thật với trái tim mình, dành tặng đối phương
tình yêu xuất phát từ đáy lòng. Đừng bao giờ chà đạp lên hạnh phúc của kẻ khác như Trọng
Thuỷ – một con người mưu mô, tham vọng không biết trân trọng hạnh phúc chân chính và vĩnh
cửu trong cuộc đời.
Trước hết, cái đẹp là phạm trù trung tâm của mĩ học. Trong lịch sử tư tưởng mĩ học, phạm trù cái
đẹp xuất hiện từ rất sớm. Từ xa xưa, các nhà mĩ học duy tâm khách quan (tiêu biểu như Platon,
Hegel) lí giải nguồn gốc của cái đẹp từ trong thế giới ý niệm, xem cái đẹp là hồi quang của ý
niệm siêu nhiên, thần thánh. Ngược lại, các nhà mĩ học duy tâm chủ quan lại tuyệt đối hóa cái
đẹp theo quan niệm chủ quan, tìm nguồn gốc của cái đẹp trong ý thức của chủ thể, trong cảm xúc
cá nhân.
Nhà mĩ học Hume quả quyết rằng: “Cái đẹp không phải là phẩm chất tồn tại trong bản thân sự
vật, nó tồn tại chủ yếu trong tâm linh người quan sát nó” . Còn nhà triết học học người Đức Kant
thì cho rằng: “Cái đẹp không ở trên đôi má hồng của người thiếu nữ mà ở trong con mắt của kẻ
si tình” . Đến thế kỷ XX, các nhà mĩ học dân chủ cách mạng Nga đã kéo cái đẹp trở về với mảnh
đất trần thế, họ cho rằng ở đâu có cuộc sống là ở đó có cái đẹp. Thừa nhận sự tồn tại khách quan
của cái đẹp, nhà nghiên cứu Tsernushevski đưa ra định nghĩa: “Cái đẹp là cuộc sống”. Kế thừa
thành tự của mĩ học trước đó, mĩ học Marx – Lenin lí giải rằng: “Bản chất của cái đẹp là sự
thống nhất biện chứng giữa hai yếu tố khách quan và chủ quan”.
Trên cơ sở nghiên cứu lịch sử mĩ học từ cổ đại đến hiện đại, các tác giả của cuốn sách Mĩ học đại
cương đưa ra khái niệm: “Cái đẹp là một phạm trù thẩm mĩ dùng để chỉ một phẩm chất thẩm mĩ
của sự vật khi nó phù hợp với quan niệm của con người về sự hoàn thiện và tính lí tưởng, có khả
năng gợi lên ở con người một thái độ thẩm mĩ tích cực do sự tác động qua lại giữa đối tượng và
chủ thể”.
Như vậy, nhìn vào lịch sử tư tưởng mĩ học chúng ta thấy rằng quan niệm cụ thể về cái đẹp có thể
khác nhau, thậm chí là đối lập nhau giữa các trường phái mĩ học, nhưng cái đẹp luôn được coi là
tiêu chuẩn quan trọng nhất, phổ biến nhất, và là điểm tựa trung tâm để con người đánh giá đời
sống về mặt thẩm mĩ; cái đẹp bao giờ cũng đứng ở vị trí trung tâm trong mối quan hệ thẩm mĩ
giữa con người với hiện thực.
Trong tác phẩm nghệ thuật, cái đẹp là yếu tố giữ vai trò then chốt. Bàn về phương diện này, nhà
nghiên cứu Bielinski từng khẳng định: “Cái đẹp là điều kiện không thể thiếu được của nghệ
thuật, nếu thiếu cái đẹp thì không có và không thể có nghệ thuật. Đó là một định lí”. Cũng cần
phải nói thêm rằng, nghệ thuật nói chung và văn học nói riêng không phải là nơi độc quyền sản
xuất ra cái đẹp, nhưng đó lại là nơi tập trung nhất, lãnh trách nhiệm nặng nề nhất trong việc tìm
kiếm, sáng tạo và thỏa mãn nhu cầu về cái đẹp cho xã hội.
Cái đẹp trong tác phẩm văn học được thể hiện hết sức phong phú, đa dạng. Có thể là cái đẹp của
thiên nhiên, cái đẹp của con người, cái đẹp của tư tưởng tình cảm, cái đẹp của hình thức nghệ
thuật. Xét riêng về nội dung phản ánh, văn học không chỉ phản ánh cái đẹp một chiều. Trong tác
phẩm văn học, nhà văn có thể miêu tả cả cái xấu, cái ác, nhưng ngay cả khi các nhà văn miêu tả
cái ác cái xấu thì mục đích của họ cũng là hướng về cái đẹp. Miêu tả cái ác cái xấu vì thế trở
thành một phương thức để tác động, cải tạo con người và xã hội. Đúng như nhà văn Thạch Lam
từng viết: “… văn chương là một thứ khí giới thanh
cao và đắc lực mà chúng ta có để vừa tố cáo và thay đổi một thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm
cho lòng người đọc thêm trong sạch và phong phú hơn”.
Một trong những chức năng quan trọng nhất của văn học là tìm kiếm, nâng đỡ và sáng tạo cái
đẹp, thỏa mãn nhu cầu về cái đẹp cho con người. Bởi vậy mỗi nhà văn là một vị sứ giả của cái
đẹp. Hành trình sáng tác của họ là hành trình tìm kiếm và sáng tạo cái đẹp, hướng con người và
xã hội đến với cái đẹp. Nhưng mỗi nhà văn lại có một hướng đi riêng, một cách thể hiện riêng.
Nghệ thuật là hình thái cao nhất của mối quan hệ thẩm mĩ giữa con người với hiện thực, vì thế
cái bi cũng được biểu hiện trong nghệ thuật với tính chất tập trung nhất, điển hình nhất. Bản chất
của cái bi là sự xung đột. Nội dung của cuộc xung đột này thay đổi qua các thời kì lịch sử, và có
những biểu hiện độc đáo trong từng lĩnh vực khác nhau. Chẳng hạn như, trong nghệ thuật cổ Hy
Lạp nó thường hiện ra như mâu thuẫn giữa con người và định mệnh. Còn trong chủ nghĩa cổ
điển thì đó là giữa dục vọng và nghĩa vụ. Trong nghệ thuật phương Tây hiện đại thì đó là xung
đột giữa cá nhân và xã hội, con người và hoàn cảnh.Trong lịch sử nghệ thuật thế giới, có những
tác phẩm chủ yếu mô tả số phận bi kịch của cá nhân, có những tác phẩm khác dành cho những
xung đột trong xã hội, lịch sử. Đồng thời cũng có những tác phẩm mà trong đó, đằng sau cái bi
cá nhân hiện ra những xung đột xã hội to lớn, mangtầm vóc lịch sử.Hamlet của Shakespear là
một trong những tác phẩm như vậy. Cái bi thường gắn với sự mất mát,đau thương. Song không
phải xung đột nào dẫn đến mất mát đau khổ cũng đều mang tính bi.Nhà văn Anh thể kỷ XIX là
J.Ruskin có nói rằng, thơ ca chỉ có thể lên tiếng về nỗi buồn của cô gái khóc thương tình yêu
trong trắng bị tan vỡ, chứ không thể viết về giọt nước mắt của kẻ hà tiện đánh mất tiền.Cũng
tương tự như vậy, nhân vật và lực lượng bi kịch phải có sức mạnh lớn lao, phẩm chất cao cả, đại
diện cho sự phát triển tiến bộ của lịch sử, mang trong mình những lý tưởng đẹp đē, nhữngkhát
vọng chân chính.Tính cách nhân vật bi kịch không thể yếu đuối, càng không thể tiêu cực hoặc
phản động. Sự kháng cự của những lực lượng đã mất hết ý nghĩa tiến bộ, bị lịch sử bỏ rơi không
còn chất bi, màngược lại chỉ mang tính hài sâu sắc. Cái bi là sự mất mát, nhưng là sự mất mát
của lý tưởng, của cái cao cả, cái đẹp.Bởi vậy, cái bi rất gần gũi với cái cao cả. Việc thể hiện
trong nghệ thuật, những xung đột mang tính bi có ý nghĩa nhận thức và giáo dục rất sâu sắc. Nó
giúp chung ta lĩnh hội cuộc sống trong sự phong phú, phức tạp có thật của nó. Đồng thời khơi
dậy những tình cảm cao cả, lành mạnh, kích thích những hành động mãnh liệt, và sự tham gia
tích cực hoạt động thực tiễn