Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 37

Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo trong tác phẩm Vợ nhặt

Bài làm 1

Vợ nhặt được rút ra từ tập Con chó xấu xí, xuất bản năm 1945. Đây là tác
phẩm xuất sắc nhất trong sự nghiệp sáng tác của ông, đồng thời cũng là một
những tác phẩm tiêu biểu viết về đề tài người nông dân và thể hiện đầy đủ quan
điểm sáng tác của tác giả. Tác phẩm thấm đẫm giá trị hiện thực và nhân đạo.

Trước hết giá trị hiện thực của tác phẩm được thể hiện trong việc Kim
Lân đã tái hiện thành công nạn đói khủng khiếp năm 1945. Nạn đói năm 1945
phần lớn người dân đã bị đẩy tới cái chết. Kim Lân đã tập trung tất cả bút lực
của mình để tạo dựng bối cảnh, không khí nạn đói ấy. Trong văn ông cái đói, cái
chết đã hiện hình, nổi cộm sắc nét tạo nên những ám ảnh ghê rợn. Ấn tượng về
cái đói cái chết đã được Kim Lân tạo dựng từ nhiều yếu tố, nhưng ấn tượng nhất
là thị giác, khứu giác và thính giác. Ở thị giác, ông đã hai lần sử dụng hình ảnh
đầy sức ám ảnh: bên cạnh những người chết như ngả rạ, là những người còn
sống vật vờ như những bóng ma.

Ở đây cái đói đã trở thành nỗi ám ảnh thường trực, giữa sự sống và cái
chết là ranh giới vô cùng mong manh. Nạn đói đã vắt kiệt toàn bộ sự sống của
con người để hiện hình thành những bóng ma dật dờ. Ở khứu giác, cái đói cái
chết trong văn Kim Lân không chỉ nhìn thấy mà còn có thể ngửi thấy đó là mùi
gây của xác người và mùi khét lẹt của các nhà đốt đống rấm. Còn thính giác
cũng là những ấn tượng ghê rợn. Âm thanh của những đàn quạ liên thanh cất
lên, là tiếng hờn khóc tỉ tê của những gia đình có người chết.
Không chỉ dừng lại ở đó, giá trị hiện thực còn được thể hiện trong thân
phận rẻ rúng của những người nông dân nghèo. Người đàn bà chết đói, người
gầy sọp đi, hai mắt trũng sâu vào, vì cái đói, vì miếng ăn đã đồng ý lấy Tràng
một cách nhanh chóng. Chính cái đói đã khiến người đàn bà ấy mất đi danh dự,
sự e thẹn vốn có của một người con gái, mà trở thành một kẻ chỏng lỏn, vì
miếng ăn sẵn sàng đánh mất lòng tự trọng của mình. Chỉ với vài bát bánh đúc và
một lời nói vu vơ, thị đã chạy đến híp mắt cười tình, đánh mất đi sự e lệ, kín đáo
và chấp nhận về làm vợ của Tràng khi không hề biết đến tính cách, con người
của Tràng ra sao. Trong hoàn cảnh bị cái đói, cái chết dồn đuổi, thị sẵn sàng
bám víu vào bất cứ thứ gì đảm bảo sự sống cho thị. Những chi tiết mà Kim Lân
miêu tả đã cho thấy, người vợ nhặt là một người nông dân khốn khổ, bị đẩy đến
bước đường cùng nên nhân cách và lòng tự trọng đã bị tha hóa.

Đám cưới với mỗi người là một nghi thức quan trọng nhất trong cuộc đời,
nhưng đám cưới của Tràng và người vợ nhặt lại diễn ra hết sức sơ sài, sơ sài đến
mức đáng thương. Bữa cơm đầu tiên của nàng dâu mới là nồi cháo cám đắng
ngắt mà mọi người ngồi ăn không ai nói với nhau một câu. Nhưng bên cạnh
những mảng màu xám ngắt của hiện thực, ta còn thấy tác phẩm ánh lên giá trị
nhân đạo sâu sắc. Trong tăm tối, khi cái đói đeo đuổi tất cả mọi người, tưởng
chừng như người ta chỉ quan tâm đến sự sống chết của mình, thì người nông dân
Việt Nam vẫn sẵn sàng giang tay cứu vớt những con người có số phận bất hạnh
hơn mình. Nó thể hiện rất rõ truyền thống yêu thương đùm bọc “lá lành đùm lá
rách” của nhân dân ta.

Tấm lòng nhân đạo của nhà văn trước hết thể hiện trong sự bao dung, tình
yêu thương mẹ con Tràng dành cho người vợ nhặt. Tràng mặc dù có ngoại hình
xấu xí nhưng lại có tấm lòng nhân hậu, yêu thương con người. Dù chỉ làm công
việc tạm thời, không có ruộng đất nhưng Tràng sẵn sàng mua đồ ăn cho người
đàn bà không quen biết. Tràng thương cảm cho người đàn bà khi nhìn thấy hình
dáng tiều tụy hẳn đi của thị. Và nhất là Tràng còn đồng ý đem người đàn bà ấy
về nhà làm vợ của mình, dù trong Tràng lúc ấy cũng thoáng chút lo âu. Việc lấy
vợ của Tràng không phải là một chuyện ngẫu nhiên mà đó là cả một mạch vận
động hợp lí.

Lần đầu gặp gỡ, Tràng lần đầu tiên nhận được sự quan tâm, đó là cái híp
mắt cười tình của một người con gái. Đến lần thứ hai, Tràng xót xa khi người
đàn bà phốp pháp lần trước đã biến mất, thay vào đó là một kẻ quần áo rách như
tổ đỉa, gầy hẳn đi. Sự thay đổi bất ngờ nhanh chóng ấy đã dấy lên trong Tràng
lòng thương cảm, với bản chất lương thiện và sự đồng cảm của những người
đồng cảnh ngộ, Tràng đã nhanh chóng quyết định đưa người phụ nữ đó về nhà
để làm vợ của mình. Quyết định nhanh chóng, bất ngờ đó vừa thể hiện khát
khao hạnh phúc của Tràng, vừa là sự cưu mang, nghĩa cử cao đẹp mà Tràng
dành cho người phụ nữ khốn khổ, bất hạnh hơn mình.

Lấy vợ là bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời Tràng, bằng những cử
chỉ hết sức đơn giản, nhưng cũng đủ cho thấy sự trân trọng của Tràng với người
vợ nhặt. Anh cho chị ăn một bữa thật no, mua một cái thúng con và mua ít dầu
về đốt cho sáng. Hành động mua hai hào dầu đó còn như thắp lên một tương lai,
hi vọng mới cho hai vợ chồng. Đặc biệt, sáng hôm sau khi lấy vợ, Tràng đã có
những sự thay đổi hoàn toàn. Tràng thấy trong người lửng lơ, một niềm vui khó
tả, khi lần đầu tiên được sống và cảm nhận niềm hạnh phúc gia đình. Và niềm
hạnh phúc đó đã dẫn đến những biến chuyển trong nhận thức của Tràng, Tràng
dấy lên tinh thần trách nhiệm với gia đình. Ý thức được vai trò trụ cột của mình,
cùng tham gia với vợ và mẹ để xây dựng cuộc sống mới.
Còn với bà mẹ của Tràng, có con dâu trong hoàn cảnh éo le này làm bà
vô cùng ngỡ ngàng, nhưng sau giây phút bất ngờ, bà đã hiểu ra mọi chuyện.
Bằng tình yêu thương với người con trai, sự cảm thông với người vợ nhặt bất
hạnh, bà hiểu rằng người ta chỉ dựng vợ gả chồng khi ăn nên làm ra, chứ không
ai lấy vợ trong cái đói. Nhưng cùng với tình yêu thương con bà còn tự trách
mình, thân phận làm mẹ nhưng lại không lo nổi hạnh phúc cho con. Thương
con, lo lắng cho con bao nhiêu bà lại càng ngậm ngùi, xót xa cho thân phận
người đàn bà kia bấy nhiêu.

Bà không nhìn người con dâu mới bằng ánh mắt cay nghiệt, phán xét mà
là cái nhìn đầy cảm thông, bao dung: “Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ,
người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có được vợ”. Như vậy, bà cụ
không chỉ là hiện thân của tình mẫu tử cao cả thiêng liêng mà còn là hiện thân
của tình người ấm áp, bao dung, bà đã đưa bàn tay yêu thương để nâng đỡ bao
bọc cho những thân phận khốn khổ dù cuộc sống của mình còn muôn vàn khó
khăn.

Không dừng lại ở đó, giá trị nhân đạo của tác phẩm còn được nhìn nhận
từ góc của người vợ nhặt. Người phụ nữ này bị cái đói dồn đuổi đến bước
đường cùng, nhưng với lòng ham sống, cô đã cố bám víu đến cùng, cho dù phải
biến thành thân phận vợ nhặt. Khát khao được sống đó cho thấy một trái tim
khỏe mạnh, một nghị lực sống kiên cường và bền bỉ ở người phụ nữ này. Như
vậy, qua ba nhân vật Tràng, bà mẹ và cô vợ nhặt Kim Lân đã một lần nữa khẳng
định lối sống nhân ái, giàu tình cảm và lòng vị tha của nhân dân ta. Không chỉ
vậy, trong họ còn tồn tại sức sống mãnh liệt, sẵn sàng vượt qua mọi đói khổ,
khó khăn.
Cuối cùng giá trị nhân đạo của tác phẩm thể hiện ở cuối bài với hình ảnh
lá cờ đỏ phấp phới trong sự tiếc rẻ của nhân vật Tràng. Chắc chắn với tinh thần
lành mạnh, lòng yêu cuộc sống Tràng và vợ sẽ tham gia hoạt động cách mạng.
Hình ảnh lá cờ đỏ như một gợi mở về tươi lai tương sáng đang đón đợi họ ở
phía trước.

Bằng nghệ thuật miêu tả bậc thầy, Kim Lân đã vẽ ra bức tranh hiện thực
tàn khốc về nạn đói năm 1945, khi mạng người bị rẻ rúng đến cùng cực. Nhưng
đằng sau bức tranh hiện thực đen tối ấy là ánh sáng của lòng nhân đạo, tình yêu
thương, sự bao bọc, chở che lẫn nhau giữa những con người khốn khổ. Sự hòa
quyện giữa hai giá trị hiện thực và nhân đạo đã tạo nên sự thành công cho tác
phẩm.

Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo trong tác phẩm Vợ nhặt

Bài làm 2

Kim Lân là một nhà văn tài năng và đặc biệt ông bén duyên với những tác
phẩm mang tính chất rất giản dị đặc biệt là các tác phẩm về những số phận khó
khăn. Tác phẩm “Vợ nhặt “ là một trong số những tác phẩm tiêu biểu mà trong
đó tác giả đưa ra cho ta những cách nhìn rất chân thực về người nông dân trong
cảnh đói nghèo, tù túng. Tác phẩm đã thể hiện rất rõ hai giá trị, giá trị nhân đạo
và giá trị hiện thực rất sâu sắc.

Với tư cách là một nhà văn của nông thôn, Kim Lân là người rất hiểu
người nông dân, lại là người trong cuộc của cái nạn đói khủng khiếp này, Vợ
nhặt được tái hiện là một bức tranh cô đọng mà đầy đủ, khái quát mà cụ thể,
khắc sâu thành ấn tượng rõ nét.
Qua tác phẩm ta có thể thấy bức tranh toàn cảnh về nạn đói khủng khiếp
năm 1945 với cảnh người đói "bồng bế, dắt díu nhau xanh xám như những bóng
ma, và nằm ngổn ngang khắp lều chợ", "bóng những người đói dật dờ đi lại lặng
lẽ như những bóng ma", và sau đó là "người chết như ngả rạ", "thây nằm còng
queo bên đường", "không khí vẩn lên mùi gây của xác người", rồi "mùi đốt
đống rấm ở những nhà có người chết theo gió thoảng vào khét lẹt" và "tiếng hờ
khóc tỉ tê trong đêm khuya"…như thế cái đói đó đã tràn đến xóm ngụ cư, ùa vào
gia đình anh Tràng, bủa vây và đe dọa số phận từng con người, không trừ một
ai.

Tác phẩm cũng vẽ ra “Bức tranh về số phận những con người trên bờ vực
thẳm của nạn đói: "những khuôn mặt hốc hác u tối trong "cuộc sống đói khát",
"không nhà nào có ánh đèn, lửa", đến cả trẻ con cũng ngồi ủ rũ dưới những xó
đường không buồn nhúc nhích. Trong gia đình Tràng thì bà cụ Tứ già lão không
làm được gì, anh con trai đẩy xe bò thuê để kiếm sống qua ngày, người con dâu
"áo quần tả tơi như tổ đỉa, gầy sọp hẳn đi, hai con mắt trũng hoáy, cái ngực gầy
lép nhô hẳn lên"… Số phận của họ có khác gì "cái nhà vắng teo đứng rúm ró
trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại” và bữa cơm ngày đói với nồi
cháo cám "đắng chát và nghẹn bứ trong cổ"…

Vợ nhặt của Kim Lân còn là niềm khát khao tới cháy bỏng với tổ ấm gia
đình trọn vẹn. Niềm khát khao tổ ấm gia đình được thể hiện chân thực và có
chiều sâu qua tâm trạng nhân vật Tràng: từ trên bờ vực thẳm của cái chết, họ đã
dám khát khao đến tổ ấm gia đình, đến một cuộc sống đích thực và cao đẹp của
con người. Cho nên, tuy "chợn" khi nghĩ "thóc gạo này đến cái thân mình cũng
chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng", nhưng Tràng vẫn "Chậc, kệ!" và
dẫn vợ về nhà. Trong tác phẩm Vợ nhặt “Anh vừa xấu hổ lại vừa tự hào khi đưa
vợ đi qua xóm ngụ cư, bởi vì có "một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy"
dâng lên "ôm ấp, mơn man khắp da thịt..,"; và nhất là, trong buổi sáng đầu tiên
khi có vợ, Tràng thấy cuộc đời mình bỗng nhiên thay đổi hẳn: "Hắn thấy thương
yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng", "một nguồn vui sướng, phấn chấn đột
ngột tràn ngập trong lòng", "bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn
có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này". Đây là đoạn văn đầy cảm hứng
nhân đạo với các nhân vật của ông. Chính vì yêu thương chính vì khát khao có
một mái ấm gia đình nên con người ta biết quý trọng những thứ xung quanh
hơn.

Ở “Vợ Nhặt” giá trị hiện thực tuy chưa rõ nét nhưng đã hiện ra ở cuối
truyện trong ý nghĩ của Tràng: "cảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi
trên đê Sộp. Đằng trước có lá cờ đỏ to lắm". Đoàn người đi phá kho thóc Nhật
và lá cờ của Việt Minh. Đây là hiện thực nhưng cũng là ước mơ của những
người giống như Tràng.

Không những truyện thể hiện giá trị hiện thực mà còn là giá trị nhân đạo
sâu sắc. ở đây chúng ta có thể nhận ra tình thương yêu giai cấp, sự cưu mang lẫn
nhau của những người nghèo khổ được thể hiện rất cao đẹp và cảm động qua
tấm lòng bà cụ Tứ đối với con trai và con dâu. Vượt lên tình thương con – nhất
là đổi với người đàn bà lạ bỗng nhiên thành con dâu mới – đó là tình thương yêu
giai cấp của những người nghèo khổ. Bà cụ tứ đã gọi thị là "con", tôn trọng thị,
nói chuyện thân mật với thị ngay đêm đầu gặp mặt. Và sáng hôm sau, bà cụ tứ
cố tạo ra niềm vui cho con trai và con dâu vui. Trong tác phẩm” Chi tiết nồi
cháo cám thật cảm động trong bữa cơm ngày đói đón dâu mới. Không chỉ là tấm
lòng người mẹ thương con mà trong tình thương ấy còn có cả đức vị tha cao cả.
Truyện kết thúc với một cái kết đầy gợi mở đã tạo cho người đọc những
cảm hứng trong tìm tòi và chiêm nghiệm. Dưới ngòi bút tài hoa của tác giả Kim
Lân chúng ta có cơ hội đắm chìm trong không gian ấy, và nhận ra những vẻ đẹp
của hai giá trị lớn: giá trị hiện thực sâu sắc và giá trị nhân đạo cao cả.

Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo trong tác phẩm Vợ nhặt

Bài làm 3

Kim Lân đã có lần tâm sự "Ý nghĩa của truyện: trong sự túng đói quay
quắt, trong bất cứ hoàn cảnh khốn khổ nào, người nông dân ngụ cư vẫn khao
khát vươn lên trên cái chết, cái thảm đạm để mà vui, để mà hi vọng" (Cách
mạng, kháng chiến và đời sống văn học - NXB Tác phẩm mới, 1985)

Với một ý đồ như thế, Kim Lân chọn nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu
làm bối cảnh cho truyện thì quả là đắc địa. Vợ nhặt trước hết là thiên truyện nói
về cái đói. Chỉ mấy chữ "Cái đói tràn đến..." đủ gợi lên hoài niệm kinh hoàng
cho người dân xứ Việt về một thảm hoạ lớn của dân tộc đã quét đi xấp xỉ gần
một phần mười dân số trên đất nước ta. Đúng như chữ nghĩa Kim Lân, hiểm hoạ
ấy "tràn đến", tức là mạnh như thác dữ. Cách tả của nhà văn gây một ám ảnh thê
lương qua hai loại hình ảnh: con người năm đói và không gian năm đói. Ông
đặc tả chân dung người năm đói "khuôn mặt hốc hác u tối" nhưng đáng sợ nhất
là có tới hai lần ông so sánh người với ma: "Những gia đình từ những vùng
Nam Định, đội chiếu lũ lượt bồng bế , dắt díu nhau lên xanh xám như những
bóng ma", và "bóng những người đói đi lại lặng lẽ như những bóng ma". Kiểu
so sánh ấy thể hiện một cảm quan đặc biệt của Kim Lân về cái thời ghê rợn: đó
là cái thời ranh giới giữa người và ma, cái sống và cái chết chỉ mong manh như
sợi tóc. Cõi âm nhoà vào cõi dương, trần gian mất mép miệng vực của âm phủ.
Trong không gian của thế giới ngổn ngang người sống kẻ chết ấy, cái tiếng quạ
"gào lên từng hồi thê thiết" cùng với "mùi gây gây của xác người" càng tô đậm
cảm giác tang tóc thê lương. Quả là cái đói lộ hết sức mạnh huỷ diệt cuộc sống
đến mức kinh khủng. Trong một bối cảnh như thế, Kim Lân đặt vào đó một mối
tình thì quả thật là táo bao. Cứ như thủ thuật "trêu tức" của điện ảnh, Kim Lân
tạo ra một "xen" thật bi hài. Khi cái dạ dày còn chưa được đầy đủ thì ngay cái
sản phẩm tinh thần kì diệu nhất của loài người là tình yêu cũng làm sao tránh
được sự méo mó. Chao ôi, toàn chuyện cười ra nước mắt: bốn bát bánh đúc
ngày đó mà làm nên một mối tình, nồi cám ngày đói đủ làm cỗ tân hôn...Ngòi
bút khắc khổ của Kim Lân không né tránh mà săn đuổi hiện thực đến đáy, tạo
cho thiên truyện một cái "phông" đặc biệt, nhàu nát, ảm đạm , tăm tối và phải
nói là có phần nghiệt ngã.

Nhưng quan tâm chính của nhà văn không phải là dựng nên một bản cáo
trạng trong Vợ nhặt, mà dồn về phía khác, quan trọng hơn. Từ bóng tối của
hoàn cảnh, Kim Lân muốn tỏa sáng một chất thơ đặc biệt của hồn người. Mảng
tối của bức tranh hiện thực đau buồn là một phép đòn bẩy cho mảng sáng về
tình người tỏa ra ánh hào quang đặc biệt của một chủ nghĩa nhân văn tha thiết
cảm động.

Trong văn chương, người ta nhấn mạnh chữ tâm hơn chữ tài. Song nếu
cái tài không đại đến một mức độ nào đó thì cái tâm kia làm sao bộc lộ ra được.
Vợ nhặt cũng thế: tấm lòng tha thiết của Kim Lân sở dĩ lay động người đọc
trước hết là nhờ tài dựng truyện và sau đó là tài dẫn truyện. Tài dựng truyện ở
đây là tài bạo nên tình huống truyện độc đáo. Ngay cái nhan đề Vợ nhặt đã bao
chứa một tình huống như thế. Trong một bài phỏng vấn, Kim Lân đã hào hứng
giải thích: "Nhặt tức là nhặt nhạnh, nhặt vu vơ. Trong cảnh đói năm 1945, người
dân lao động dường như khó ai thoát khỏi cái chết. Bóng tối của nó phủ xuống
xóm làng. Trong hoàn cảnh ấy giá trị của một con người thật vô cùng rẻ rúng,
người ta có thể có vợ theo, chỉ nhờ mấy bát bánh đúc bán ngoài chợ - đúng là
"nhặt được vợ như tôi nói trong truyện " (Báo văn nghệ số 19, ngày 8 -5- 1993
-tr5). Như vậy thì cái thiêng liêng (vợ) đã trở thành rẻ rúng (nhặt). Nhưng tình
huống truyện còn có một mạch khác: cái chủ thể của hành động "nhặt" kia là
Tràng, một gã trai nghèo xấu xí, dân ngụ cư đang thời đói khát mà đột nhiên lấy
được vợ, thậm chí được vợ theo thì quả là điều lạ. lạ tới mức nó tạo nên hàng
loạt những kinh ngạc cho xóm làng, bà cụ Tứ và chính bản thân Tràng nữa: "cho
đến bây giờ hắn vẫn còn ngờ ngợ như không phải như thế . Ra hắn đã có vợ rồi
đấy ư?".Tình huống trong gợi ra một trạng thái tinh tế của lòng người: trạng thái
chông chênh khó nói - cái gì cũng chập chờn, như có như không. Đây là niềm
vui hay nỗi buồn? Nụ cười hay nước mắt?... Cái thế đặc biệt của tâm trạng này
đã khiến ngòi bút truyện ngắn của Kim Lân mang dáng dấp của thơ ca.

Dựng truyện hay chưa đủ. Tài dựng truyện giống như tài của anh châm
ngòi pháo. Có lửa đốt, châm đúng ngòi nhưng pháo có nhiều quả điếc thì vẫn cứ
xịt như thường. Cho nên tài dựng truyện phải gắn với tài dẫn truyện nữa mới tạo
sự sâu sắc, hấp dẫn. Tài dẫn truyện của Kim Lân thể hiện qua lối sử dụng ngôn
ngữ nông dân đặc biệt thành công, qua lời văn áp sát vào tận cái lõi của đời thực
khiến mỗi câu chữ như được "bứng" ra từ chính cái ngồn ngộn của cuộc sống.
Song quan trọng nhất vẫn là ở bút pháp hiện thực tâm lý. Phải nói, tình huống
truyện trên kia thật đắc địa cho Kim Lân trong việc khơi ra mạch chảy tâm lý
cực kỳ tinh tế ở mỗi nhân vật. Rất đáng chú ý là hai trường hợp: bà cụ Tứ và
Tràng. Đây là hai kiểu phản ứng tâm lý trước một tình thế như nhau, song
không ai giống ai. Trước hết là Tràng, một thân phận thấp hèn nhưng lại là một
chú rể có thể coi là hạnh phúc. Hạnh phúc đích thực bao giờ cũng gây một chấn
động tâm lí lớn. Chấn động ở Tràng tạo một mạch tâm lý ba chặng. Khởi đầu là
ngỡ ngàng. Hạnh phúc gây men ở Tràng thành cảm giác mới mẻ kì diệu. Cảm
giác ấy hút lấy toàn bộ con người hắn: vừa lặn vào tâm linh (Trong người êm ái
lửng lơ như người ở trong giấc mơ đi ra) vừa tỏa ra, vật chất hóa thành cảm giác
da thịt (Một cái gì đó mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn ông nghèo
khổ ấy, nó ôm ấp, mơn man khắp da thịt Tràng, tựa hồ như có bàn tay vuốt nhẹ
trên sống lưng). Với cây bút hiện thực, những đoạn văn như thế đã đạt đến "thần
bút", vì trạng thái người viết như nhập vào làm một với trạng thái nhân vật (còn
gọi là năng lực "hóa thân" trong văn xuôi, năng lực "nhập thần" trong thơ ca).
Rồi cái ngỡ ngàng hạnh phúc kia cũng nhanh chóng đẩy thành niềm vui hữu
tình cụ thể. Đó là niềm vui về hạnh phúc gia đình - một niềm vui giản dị nhưng
lớn lao không gì sánh nổi. Chẳng thế mà một người nổi tiếng như Tsecnưsepxki
từng mơ ước: "Tôi sẵn sàng đánh đổi cả sự nghiệp nếu biết rằng trong một căn
phòng nhỏ ấm áp nào đó, có một người đàn bà đang ngóng đợi tôi về ăn bữa
tối". Chàng thanh niên nghèo hèn của Kim Lân đã thực sự đạt được một niềm
vui như thế: "Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ
lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng với vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà
như cái tổ ấm che mưa che nắng. Một nguồn sung sướng, phấn chấn đột ngột
tràn ngập trong lòng". Một niềm vui thật cảm động, lẫn lộn cả hiện thực lẫn giấc
mơ. Điều này thì anh Tràng của Kim Lân còn may mắn hơn Chí Phèo của Nam
Cao: hạnh phúc đã nằm gọn tay Tràng, còn Thị Nở mới chấp chới tầm tay Chí
Phèo thì đã bị cái xã hội đen tối cướp mất. Có một chi tiết rất đắt của Kim Lân:
"Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu
sửa lại căn nhà". So với cái dáng "ngật ngưỡng" mở đầu tác phẩm, hành động
"xăm xăm" này của Tràng là một đột biến quan trọng, một bước ngoặt đổi thay
cả số phận lẫn tính cách của Tràng: từ khổ đau sang hạnh phúc, từ chán đời sang
yêu đời, từ ngây dại sang ý thức. Chẳng thế mà Kim Lân đã thấy đủ điều kiện
đặt vào dòng suy nghĩ của Tràng một ý thức bổn phận sâu sắc: "Bây giờ hắn
mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận lo lắng cho vợ con sau này".
Tràng đã thực sự "phục sinh tâm hồn" - đó là giá trị lớn lao của hạnh phúc. Cô
Kiều xưa "xăm xăm băng lối vườn khuya một mình" thì táo bạo đấy mà vẫn cứ
chênh vênh, đơn độc thế nào. Cái xăm xăm của Tràng mới thực khỏe, tự tin làm
sao!

Bình luận truyện Vợ nhặt, không hiểu sao có một câu rất quan trọng của
Kim Lân mà mọi người cứ bỏ qua. Đó là câu kết truyện: "Trong óc Tràng vẫn
thấy đám người đói lả và lá cờ đỏ bay phấp phới...". Một câu kết như thế, chứa
đựng bao sức nặng về nghệ thuật sẽ sa vào lối kết cấu khép của văn học hiện
thực phê phán. Sự bổ sung chi tiết này tạo ra một kết cấu mở khiến Vợ nhặt
thực sự vượt qua phạm trù của văn học 1930 - 1945 để bước tới phạm trù của
nền văn học mới. Nhờ thế, thiên truyện đã đóng lại mà một số phận mới vẫn
tiếp tục được mở ra. Cái "lá cờ đỏ" kia như tín hiệu của một sự đổi đời. Nhân
vật Tràng tiếp tục vận động về phía niềm tin, về phía cuộc sống. "Lá cờ đỏ" như
gợi mở một sự thanh toán triệt để ở Tràng một số phận bế tắc kiểu anh Pha, chị
Dậu, Chí Phèo... Chi tiết này không phải là một mơ ước viển vông, một ảo
tưởng cổ tích mà có cơ sở chắn chắn từ trong hiện thực đời sống.

Quá trình tâm lý của cụ Tứ có phần còn phức tạp hơn nhân vật Tràng.
Nếu ở đứa con trai, niềm vui làm chủ, tâm lý phát triển theo chiều thẳng đứng
phù hợp với một chàng rể trẻ tuổi đang tràn trề hạnh phúc thì ở bà mẹ, tâm lí
vận động theo kiểu gấp khúc, hợp với những nỗi niềm trắc ẩn trong chiều sâu
riêng của người già từng trải và nhân hậu.
Cũng như con trai, khởi đầu tâm lý ở bà cụ Tứ là ngỡ ngàng. Anh con trai
ngỡ ngàng trước một cái dường như không hiểu được. Cái cô gái xuất hiện
trong nhà bà phút đầu như một hiện tượng lạ. Trạng thái ngỡ ngàng của cụ Tứ
được khơi sâu bởi hàng loạt những câu hỏi nghi vấn: "Quái sao lại có người đàn
bà nào ở trong ấy nhỉ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con
trai mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u? Không phải con cái Đục. Ai thế
nhỉ? Rồi lại: "Ô hay, thế là thế nào nhỉ". Trái tim người mẹ có con trai lớn vốn
rất nhạy cảm về điều này, vậy tại sao Kim Lân lại để cho nhân vật người mẹ ngơ
ngác lâu đến thế? Một chút quá đà, một chút "kịch" trong ngòi bút Kim Lân?
Không, nhà văn của đồng nội vốn không quen tạo dáng. Đây là nỗi đau của
người viết: Chính sự cùng quẫn của hoàn cảnh đã đánh mất ở người mẹ sự nhạy
cảm đó.

Nếu ở Tràng, sự ngỡ ngàng đi thẳng tới niềm vui thì ở bà cụ Tứ, sự vận
động tâm lý phức tạp hơn. Sau khi hiểu ra mọi chuyện, bà lão "cúi đầu im lặng".
Cái thương của bà mẹ nhân hậu mới bao dung làm sao: "Biết chúng nó có nuôi
nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?". Trong chữ "chúng nó" ,
người mẹ đã đi từ lòng thương con trai sang con dâu. Trong chữ "cúi đầu", bà
mẹ tiếp nhận hạnh phúc của con bằng kinh nghiệm sống, bằng sự trả giá của
một chuỗi đời nặng nhọc, bằng ý thức sâu sắc trước hoàn cảnh, khác hẳn anh
con trai tiếp nhận hạnh phúc bằng một nhu cầu, bằng một ước mơ tinh thần phơi
phới.

Rồi tình thương lại chìm vào nỗi lo, tạo thành một trạng thái tâm lý triền
miên day dứt. Tác giả xoáy vào dòng ý nghĩ của bà mẹ: nghĩ đến bổn phận làm
mẹ chưa tròn, nghĩ đến ông lão, đến con gái út, nghĩ đến nỗi khổ đời mình, nghĩ
đến tương lai của con... để cuối cùng dồn tụ bao lo lắng, yêu thương trong một
câu nói giản dị "Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá". Trên đống buồn
lo, niềm vui của mẹ vẫn cố ánh lên: Cảm động thay, Kim Lân lại để cái ánh
sáng kì diệu đó tỏa ra từ ...nồi cháo cám. Hãy nghe người mẹ nói: "chè đây - bà
lão múc ra một bát - Chè khoán đây, ngon đáo để cơ". Chữ "ngon" này cần phải
cảm thụ một cách đặc biệt. Đó không phải là xúc cảm về vật chất (xúc cảm về vị
cháo cám) mà là xúc cảm về tinh thần: ở người mẹ, niềm tin về hạnh phúc của
con biến đắng chát thành ngọt ngào. Chọn hình ảnh nồi cháo cám, Kim Lân
muốn chứng minh cho cái chất người: trong bất kì hoàn cảnh nào, tình nghĩa và
hy vọng không thể bị tiêu diệt. Con người vẫn muốn sống cho ra sống, và cái
chất người thể hiện ở cách sống tình nghĩa và hy vọng. Nhưng Kim Lân không
phải là nhà văn lãng mạn. Niềm vui của cụ Tứ vẫn cứ là niềm vui tội nghiệp,
bởi thực tại vẫn nghiệt ngã với nồi cháo cám "đắng cay và nghẹn bùi".

Thành công của nhà văn là đã thấu hiểu và phân tích được những trạng
thái khá tinh tế của con người trong hoàn cảnh đặc biệt. Và vượt lên hoàn cảnh
vẫn là một vẻ đẹp tinh thần của những người nghèo khổ. Cái thế vượt hoàn cảnh
ấy tạo nên nội dung nhân đạo độc đáo và cảm động của tác phẩm. Thông điệp
của Kim Lân là một thông điệp mang ý nghĩa nhân văn. Trong tiểu thuyết nổi
tiếng Thép đã tôi thế đấy, nhà văn Nga Nhicôlai Ôxtrôpxki đã để cho nhân vật
Paven Coocsaghin ngẫm nghĩ: "Hãy biết sống cả những khi cuộc đời trở nên
không thể chịu được nữa". Vợ nhặt là bài ca về tình người ở những kẻ nghèo
khổ, đã "biết sống" cho ra người ngay giữa thời túng đói quay quắt.

Thông điệp của Kim Lân đã được chuyển hóa thành một thiên truyện
ngắn xuất sắc với cách dựng tình huống truyện và dẫn truyện độc đáo, nhất là
bút pháp miêu tả tâm lí tinh tế, khiến tác phẩm mang chất thơ cảm động và hấp
dẫn.
Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo trong tác phẩm Vợ nhặt

Bài làm 4

Nông thôn và nông dân vốn là đề tài quen thuộc của thể loại truyện ngắn
tưf xưa và nay. Dù ta phân loại dòng văn học tiểu thuyết theo phương diện nào
cũng không thể bỏ qua dòng tiểu thuyết về nông thôn. Với đề tài đó, nhiều nhà
văn đã trở nên nổi tiếng và học cũng đã cho ra đời nhiều tác phẩm có giá trị.
Chẳng hạn trước Cách mạng tháng Tám có tác phẩm Tắt đèn của Ngô Tất Tố,
tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao, rồi tác phẩm Con trâu của Trần Tiêu... Những
tác phẩm này đã được viết với nội dung đơn giản nhưng mang tư tưởng khá sâu
sắc. Trong số những nhà văn viết về nông thôn đó, có một người tuy viết sau và
viết ít, nhưng khi tác phẩm vừa ra đời thì đã cho mọi người ưa thích và hoan
nghênh. Đó chính là truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân. Với truyện
ngắn Vợ nhặt, Kim Lân đã viết rất chân thật và hết sức sắc sảo và để lại ấn
tượng sâu đậm trong lòng người đọc. Thông thường một tác phẩm chỉ có thể
đứng vững khi nhà văn có nội dung mới, cách nói mới. Tác phẩm Vợ nhặt của
Kim Lân cũng vậy.

Trước hết, mới qua cái tựa đề Vợ Nhặt thôi mà nó cũng đã mang lớp ý
nghĩa, nó gây cho độc giả một sự chú ý hết sức đặc biệt trước khi thưởng thức
tác phẩm. Bởi xưa nay trên thế gian người ta nói là nhặt được cái này, cái nọ
chớ có ai nói là nhặt được vợ bao giờ. Vả lại, lấy vợ vốn là một trong ba việc
khó nhất đời của người đàn ông: "tậu trâu, lấy vợ, làm nhà". Bởi vì việc dựng
vợ, dựng chồng phần nhiều được tổ chức thế này thế nọ, hết sức long trọng. Ấy
vậy mà anh Tràng tự nhiên nhặt được cô vợ thì quả thật là việc bất ngờ, lý thú.
Và với cái nội dung đó thì chỉ có cái nhan đề Vợ nhặt mói nói đúng và sát với
diễn biến câu chuyện mà thôi. Cũng với nhan đề độc đáo đó mà Kim Lân đã nói
lên được thân phận con người lao động nông dân trong những năm bốn mươi
lăm đói kém đến nỗi vợ mà người ta có thể nhặt được một cách dễ dàng như
nhặt một cọng rơm, cọng cỏ vậy.

Một điều quan trọng hơn góp phần tạo nên sự thành công của tác phẩm
đó chính là nghệ thuật dựng truyện. Đọc qua những trang truyện ngắn Vợ nhặt
của Kim Lân một sự tưởng tượng hết sức phong phú cứ gợi và diễn ra trong tâm
trí của chúng ta. Một bức tranh nông dân trong những năm bị cái đói hoành
hành của một phần tư đất nước, cứ như rõ mồn một. Nhân dân lao động bị đói,
tiều tuỵ đáng thương cứ hiện lên trước mắt. Còn nỗi đau đớn nào hơn khi chứng
kiến cái cảnh " Cái đói đã tràn về" trẻ con vì đói khát mà "chúng ngồi ủ rũ
không buồn nhúc nhích". Trẻ em vì thế, người lớn phải trôi dạt nay đây mai đó.
Một cọng rau cho đỡ đói cũng không, đâu tới hạt cơm hạt thóc... bởi thế những
góc tường, phố chợ người đói nằm "la liệt như ngã rạ" càng kinh tởm và đớn
đau khi có "cái mùi gây gây của xác người chết".

Kim Lân đã dân truyện dựng cảnh hiện thực một cách độc đáo như vậy
nhưng về phương diện khác cách xây dựng nhân vật và diễn biến tâm lí nhân
vật lại càng độc đáo hơn. Nhân vật Tràng hiện lên qua trang văn với đầy đủ
những gì chân thật nhất của người nông dân - người nông dân bị đói khát:
"Chiếc áo vắt trên vai , dường như mỏi mệt, vật vã của buổi chiều đè nặng trên
cái lưng to của hắn". Ôi tiếng "hắn" cái tiếng xưng gọi mà ta đã quen thuộc ở
Chí Phèo của Nam Cao nay lại hiện lên trước mắt: "Hắn ngồi khóc, khóc rồi
chửi, hắn chửi ai? Hắn chửi đời, chửi trời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi cả những
thằng cha mẹ nào đẻ ra hắn... ." Tiếng hắn vẻn vẹn vậy thôi, ghê tởm ư? Thù
ghét ư? Khinh bạc ư? Không ! Cả hai nhà văn Kim Lân và Nam Cao đều gợi lên
tiếng hắn với tất cả niềm đau xót, thương cảm ,trân trọng. Ai đã một lần đọc Vợ
nhặt,làm sao không xúc động và có thể quên được một nhân vật - bà cụ Tứ - mẹ
anh Tràng.

Không biết được chuyện con mình - Tràng - nhặt được vợ mang về tâm
trạng của cụ diễn biến thật phong phú, phức tạp. Trong những ngày tháng bị cái
đói bất hạnh, bà thấu hiểu. Bà rất ý thức về việc dựng vợ, dựng chồng cho con
mình "phải làm thế này, thế nọ". Nhưng trời ơi " cái khó bó cái khôn". Con
người ta có thấu hiểu cái lo lắng đến đâu thì cũng chỉ là con số không. Bởi vậy,
cụ Tứ chỉ biết nghĩ "tủi thân, tủi phận" mà thôi. Bà thương con mình rồi thương
con dâu. Cun nhìn người đàn bà lòng đầy thương xót. Hỡi ơi ! Có ai thấu hiểu
cho cụ không ? Tình thương yêu, sự đồng cảm, chịu đựng hoàn cảnh không chỉ
riêng ai - cái đói cái khát - đã khiến lòng cụ không nghĩ gì khác, lời nói đầy xúc
động của cụ "Chúng mày lấy nhau lúc này"... thương quá ! Sao nó mặn mà , sâu
đậm đến vậy.Hoàn cảnh đói khát đến chết người vậy mà nổi lên cái nền ấy một
khối đầm ấm yêu thương làm sao, có lẽ truyền thống ngàn đời của dân tộc
"Thương người như thể thương thân", "Lá lành đùm lá rách" được Kim Lân gửi
gắm qua những trang văn xúc động này.

Việc Tràng đã có vợ vừa là niềm vui, vừa là nỗi lo của bà cụ Tứ. Có cha
mẹ nào không sung sướng, hạnh phúc khi con cái của mình đủ lông đủ cánh trải
qua thời niên thiếu nay trưởng thành đã có vợ có chồng... . Còn lo là lo vì hoàn
cảnh hiện tại từ trước đến giờ chỉ có hai mẹ con, nạn đói hoành hành vốn đã khó
đủ ăn nay thêm một miệng ăn lại càng khó khăn vất vả thêm. Tuy vậy, niềm vui
vẫn là phần nhiều "khuôn mặt bủng beo của bà rạng rỡ hẳn lên", "bà cụ nói toàn
chuyện vui, chuyện tương lai sau này", bà cố giấu nỗi lo để cho con dâu được
vui vẻ. Tuy vậy bà vẫn "nghẹn" lời. Bà vẫn tin tưởng ở con, ở tương lai rạng rỡ
hơn. Một câu nói đầy tự tin của cụ "Tụi mày đang bảo nhau mà làm ăn may ra
trời cho khá hơn không... có ai giàu ba họ có ai khó ba đời đâu". Quả là một sự
tin tưởng hoàn toàn khách quan, có căn cứ, khó khăn rồi nhất định sung sướng,
hạnh phúc. Nếu nói như Hồ Chí Minh trong Trời hửng thì cũng chẳng khác nào:
Hết mưa là hửng nắng lên thôi, hết khổ là vui vốn lẽ đời. Vì thực tế là như vậy,
hình ảnh lá cờ đỏ tung bay cùng với đám người cướp kho thóc ở cuối truyện
cũng hiện lên trong tâm trí Tràng đã mở ra một số phận nhân vật một khung trời
mới đi làm cách mạng với những thắng lợi vang dậy non sông như Cách mạng
tháng Tám, Điện Biên Phủ sau này.

Với cách dựng truyện độc đáo, xây dựng nhân vật với sự chuyển biến tâm
lý, tinh tế Kim Lân đã thành công đáng kể với truyện ngắn Vợ Nhặt. Có thể với
nhân vật, tình tiết câu chuyện đi qua số phận nhân vật là sự mở đầu cho ý thức
đấu tranh, giác ngộ cách mạng. Dù chỉ thông qua một vài câu nói đến "lá cờ đỏ',
"Việt Minh" nhưng Kim Lân đã thành công được và không để cho số phận nhân
vật mình tối tăm bế tắc như chị Dậu - anh Pha như Chí Phèo, anh kép Tư Bền...
trước đó.

Tóm lại , đồng cảm với Kim Lân, xót thương, cảm thông cho những con
người trong Vợ nhặt, ta hãy hát cùng Tố Hữu ca khúc vốn là truyền thống của
dân tộc Việt Nam ngàn đời:

Có gì đen trên đời hơn thế

Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo trong tác phẩm Vợ nhặt

Bài làm 5
Vợ nhặt là một trong những truyện ngắn hay nhất của Kim Lân và văn
học Việt Nam sau năm 1945, truyện được in trong tập Con chó xấu xí năm
1962. Vốn xuất thân từ làng quê Việt Nam nên Kim Lân đã viết nên Vợ nhặt
bằng tất cả tâm hồn, tình cảm của một con người là con đẻ của đồng ruộng.
Truyện được xây dựng với nhiều tình huống gây ấn tượng mạnh đối với người
đọc. Song nổi bật trong tác phẩm là giá trị hiện thực và nhân đạo.

Truyện đã phản ánh được những mặt cơ bản của hiện thực xã hội Việt
Nam những ngày trước Cách mạng tháng Tám 1945. Chỉ thông qua tình huống
“Nhặt được vợ của Tràng”, truyện đã tái hiện được bức tranh về nạn đói thê
thảm của người dân Việt Nam “từ Quảng Trị đến Bắc kỳ hai triệu người bị đói”.
Ở đây mở đầu truyện là cảnh “cái đói đã tràn đến xóm này tự lúc nào. Những
gia đình từ vùng Nam Định, Thái Bình đội nón lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên
xanh xám như những bóng ma, và nằm ngổn ngang khắp lều chợ. Người chết
như ngả rạ. Không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng không
gặp ba bốn cái thây nằm chỏng queo bên đường. Không khí vẩn lên một mùi ẩm
thối của rác rưởi và mùi gây của xác người… Dưới gốc đa… những người đói
dật dờ lặng lẽ đi như những bóng ma. Tiếng quạ… cứ gào lên từng hồi thê
thiết”.

Qua đây, người đọc cũng có thể hình dung được bộ mặt thật của bọn phát
xít, thực dân và tay sai của chúng. Điều này được gói gọn trong một câu nói đầy
phẫn uất của bà mẹ già “Tiếng thúc thuế đấy. Đằng thì nó bắt giồng đay, bằng
thì nó bắt đóng thuế. Giời đất này không chắc gì đã sống qua được đâu các con
ạ!…”.

Tác phẩm còn phản ánh được một hiện thực cơ bản khác. Đó là tấm lòng
người dân hướng về cách mạng và sự vận động của cuộc sống hướng về tương
lai. Giữa những tiếng trống thúc thuế dồn sưu dồn dập là hình ảnh “những người
nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp. Đằng trước có lá cờ đỏ to lắm” vụt
hiện lên trong ỷ nghĩ của Tràng. Nó báo hiệu một bình minh mới của cách mạng
sẽ đến.

Bên cạnh nội dung hiện thực rộng lớn là giá trị nhân đạo sâu sắc. Qua
tình huống truyện độc đáo, qua tâm lý và số phận nhân vật, tác phẩm không cần
đao to búa lớn vẫn tố cáo được một cách sâu sắc tội ác tày trời của thực dân
Pháp và phát xít Nhật đã gây nên nạn đói thảm khốc khiến hai triệu người phải
chết đói. Bóng đen tử thần bao trùm lên tất cả, đè nặng lên số phận mỗi người
dân và mọi xóm làng. Trong bối cảnh bi thảm ấy, giá trị con người quá rẻ mạt.
Nếu như trong truyện thơ Tiễn dặn người yêu, cô gái Thái bị ép duyên, đã đau
khổ thở than: “Ngẫm thân em chỉ bằng thân con bọ ngựa” thì ở đây người đàn
bà mà Tràng “nhặt được” chỉ bằng mấy bát bánh đúc, một bữa cơm no và hai
hào dầu. Nạn đói đã đẩy con người đến chỗ xem miếng ăn là tất cả. Ngay cả đến
cái chuyện tỏ tình thường vẫn mang màu sắc tình tứ, e lệ, duyên dáng, thì giờ
đây cũng chỉ còn trơ trọi là một câu chuyện lăn xả vào miếng ăn. Vì đói khát
cùng đường mà không còn giữ được sự e thẹn thông thường của người phụ nữ
Việt Nam. Chỉ mấy bát bánh đúc và một lời nói “tầm phào” của gã đàn ông xa
lạ, mà người đàn bà kia đã “ton ton” chạy theo để trở thành vợ nhặt của Tràng.
Ý nghĩa nhân đạo không chỉ được toát ra từ sự cảm thông cho thân phận khổ
đau của người dân nước Việt mà còn được toát ra từ sự tố cáo ấy.

Truyện Vợ nhặt còn cho ta thấy rằng người dân lao động vốn có bản chất
lành mạnh, luôn luôn hướng về ánh sáng với một niềm tin bất diệt. Dù hoàn
cảnh có hiểm nghèo bi thảm tuyệt vọng đến đâu, dù có kề bên cái chết, vẫn khát
khao hạnh phúc, tổ ấm gia đình, vẫn hướng về sự sống và hy vọng ở tương lai
tươi sáng. Đúng như tác giả đã có lần phát biểu: “Trong sự túng đói quay quắt,
trong bất cứ hoàn cảnh khốn khổ nào, người nông dân ngụ cư vẫn khao khát
vươn lên trên cái chết, cái ảm đạm mà vui mà hy vọng”…”Những người đói họ
không nghĩ đến cái chết, mà nghĩ đến cái sống”. Vợ chồng Tràng vẫn lấy nhau
giữa cảnh ngổn ngang xác người chết đói là vì vậy. Chút hạnh phúc nhỏ nhoi,
mong manh của hai người tuy bị bủa vây, bởi cái đói, cái chết nhưng “sự sống
chẳng bao giờ chán nản”, vẫn là bất diệt, vần sinh sôi nảy nở từ bãi tha ma sặc
mùi tử khí. Hạnh phúc tình yêu vẫn như làn gió xuân thổi về làm xôn xao sự
sống. Trong một lúc Tràng dường như quên hết những cảnh ê chề tăm tối trước
mắt, những tháng ngày đầy đe doạ phía trước. Lúc này trong lòng hắn chỉ còn
tình nghĩa với người đàn bà. Một cái gì lạ lắm… nó ôm ấp, mơn man khắp da
thịt Tràng. Sáng dậy thấy nhà cửa đổi khác, hắn cảm thấy lâng lâng và thấy từ
đây phải có trách nhiệm hơn với người thân và chính cuộc đời mình, Ở bà cụ Tứ
càng có những biểu hiện cảm động hơn. Niềm vui vì có con dâu, vì hạnh phúc
của con và niềm tin ở cuộc sống đã làm cho người mẹ nhanh nhảu hơn “Cái
khuôn mặt u ám, bủng beo của bà bỗng rạng rỡ hẳn lên”.

Qua truyện Vợ nhặt, Kim Lân còn cho ta thấy trong hoạn nạn, con người
lao động, càng yêu thương nhau hơn và dù trong cảnh khó khăn, khốn cùng, họ
vẫn giữ được phẩm chất đẹp đẽ “đói cho sạch, rách cho thơm”. Cuộc sống khắc
nghiệt đọa đầy con người, bắt họ phải sống cuộc sống của loài vật, nhưng nó
không thể dập tắt được phần người, rất người trong lòng bà mẹ khốn khổ kia.
Ba mẹ con Tràng đã tìm thấy niềm vui trong sự nương tựa, cưu mang nhau mà
sống. Tình vợ chồng, mẹ con sẽ là động lực giúp họ sức mạnh vượt qua cơn
hoạn nạn khủng khiếp này.
Như vậy “những con người đã vượt qua mặc cảm đói nghèo, tủi hờn để
khẳng định sự sống, chắc chắn sẽ đi theo tiếng gọi của Việt Minh để giành sự
sống cho mình trong cách mạng. Vì “Đảng ta… hồn người”. Chọn tình huống
vợ nhặt do nạn đói rùng rợn gây nên, Kim Lân “không nhằm miêu tả sự mất giá,
tha hoá con người, ngược lại đã khẳng định khát vọng sống còn và phẩm giá của
họ. Tình yêu cuộc sống của những con người nằm bên bờ cái chết đã trở thành
nguồn sáng, nguồn ấm áp sưởi ấm lòng người, thôi thúc họ đi tự cứu lấy đời
mình”. Và cách mạng, Đảng đã dang đôi tay nhân hậu cứu vớt họ thật đúng lúc:

Kiếp người cơm vãi cơm rơi

Biết đâu nào đất phương trời mà đi

Lần đếm bước đến khi hửng sáng

Mặt trời kia cờ Đảng giương cao

(Tố Hữu)

Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo trong tác phẩm Vợ nhặt

Bài làm 6

Trong những tác phẩm văn học Việt Nam, ngoài những nội dung sâu sắc
mà tác giả gửi gắm qua thì những tác phẩm đó còn thể hiện những giá trị hiện
thực và những tâm tư của tác giả. Và trong tác phẩm “Vợ nhặt’’ cũng vậy, ngoài
việc tái hiện lại bức tranh ngày đói mà con người hiện lên thê thảm thì Kim Lân
còn thổi vào trong bức tranh đó nhiều giá trị hiện thực và nhân đạo.
Trước hết, truyện ngắn “Vợ nhặt” mang giá trị hiện thực sâu sắc. Tác
phẩm đã phản ánh chân thực nạn đói 1945 khủng khiếp. Đó là một trong những
thời kỳ đen tối nhất của nước ta. Cảnh tang thương ảm đạm của nạn đói được
Kim Lân diễn tả cụ thể và sinh động. “Những gia đình từ những vùng Nam
Định…người chết như ngả rạ”. Chỉ với những câu văn ngắn ngủi mà Kim Lân
cho thấy được ranh giới của sự sống và cái chết rất mong manh. Người sống thì
thoi thóp, người chết thì như ngả rạ. Bức tranh ngày đói hiện lên như găm sâu
vào từng khúc thịt của người đọc bởi quá thê thảm và khủng khiếp. Kim Lân
không né tránh sự thật mà ông nhìn vào thẳng vấn đề để diễn tả những tang
thương này.

Đồng thời, truyện ngắn “Vợ nhặt” cho chúng ta thấy được thân phận rẻ
rúng của con người cùng với sự thê lương của số phận người nông dân trong
hoàn cảnh bấy giờ. Điều này được thể hiện rõ nhất qua nhân vật người vợ nhặt.
Cái đói cái nghèo đã đùn đẩy tới mức chỉ sau hai lần gặp Thị theo Tràng về làm
vợ với mâm cỗ ra mắt là 4 bát bánh đúc và một câu bông đùa. Chỉ vì miếng ăn,
cái đói cái nghèo mà đưa đẩy số phận của một con người. Để rồi Tràng lấy vợ
mà Kim Lân gọi là “nhặt vợ” như nhặt những đồ vật chẳng có chút giá trị nào
trên đường.

Bên cạnh những giá trị hiện thực sâu sắc nhà văn Kim Lân còn gửi vào
những trang văn của mình tấm lòng nhân đạo thiết tha. Mỗi câu chữ của nhà văn
thể hiện đều thấm đượm lòng thương cảm của nhà văn đối với số phận bi thảm
của con người. Mỗi một nhân vật mà tác giả xây dựng đều cho thấy được niềm
xót thương, cảm thông với cuộc đời con người trong nạn đói ấy. Có nhiều lúc
người đọc có thể cảm nhận được như tác giả nhập thân và chính nhân vật để
chia sẻ và cảm thông với cuộc sống của họ. Có những câu văn khi đọc lên còn
thấy tác giả dường như rưng rưng xúc động. Chẳng hạn khi miêu tả tâm trạng
của các thành viên trong bữa cơm ngày đói, Kim Lân miêu tả: “Một nỗi tủi hờn
len vào tâm trí của mỗi người”.

Bên cạnh đó, nhà văn còn phát hiện, trân trọng và ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn
của con người trong nạn đói năm 45 ấy. Mặc dù cái đói, cái nghèo truy đuổi ráo
riết như vậy nhưng ở họ vẫn sáng lên tư chất của những con người có vẻ đẹp
tâm hồn. Ở bà cụ Tứ là lòng yêu thương con sâu sắc, lòng nhân ái và đức hi sinh
cao cả. Ở nhân vật Tràng để lại cho người đọc bởi vẻ chất phác, hiền lành, thật
thà. Còn ở người phụ nữ làm “vợ nhặt” kia lại là sự đảm đang, biết điều và hiền
hậu. Đặc biệt người làng xóm ngụ cư hiện lên là những người đầy tình nghĩa
làng xóm, họ quan tâm và động viên Tràng. Để có thể thấy rằng, bức tranh tối
mịt ngày đói ấy vẫn le lói thứ ánh sáng của tình người. Chấp nhận trong hoàn
cảnh “một sống hai chết” ấy nhưng con người vẫn không đầu hàng số phận.

Kim Lân còn nâng niu và trân trọng khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc
của người nông dân. Ham sống là khát vọng mang tính nhân bản của con người.
Kim Lân đã phát hiện và khẳng định điều đó ở nhân vật Thị. Thị cố gắng chạy
thoát sự rượt đuổi của tử thần. Việc Thị theo Tràng về làm vợ trong hoàn cảnh
ấy quả thực không đáng khinh mà nó là khát vọng sống chính đáng của con
người. Đồng thời, qua tác phẩm, nhà văn còn lên án mạnh mẽ đối với bọn thực
dân, phát xít. Chính thực dân Pháp và phát xít Nhật đã đẩy nhân dân lao động ta
vào cảnh khốn cùng.

Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo trong tác phẩm Vợ nhặt

Bài làm 7
Vợ nhặt có tiền thân là truyện dài Xóm ngụ cư được tác giả hoàn thành
khá lâu sau Cách mạng tháng Tám theo đơn đặt hàng của tờ báo Văn. Vợ nhặt là
một trong những tác phẩm đặc sắc của Kim Lân viết về nông thôn và người dân
nông thôn trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Một trong những giá trị cơ
bản làm nên sự thành công của tác phẩm kể đến chính là giá trị hiện thực và
nhân đạo của tác phẩm.

Tác phẩm lấy bối cảnh của truyện là khung cảnh nông thôn Việt Nam
trong cái năm mà những người lớn tuổi vẫn quen gọi là năm đói – đó là nạn đói
khủng khiếp năm 1945 – khiến cho hơn hai triệu đồng bào ta từ Quảng Trị đến
Bắc Kỳ chết đói. Có thể nói, đến bây giờ nhắc lại chúng ta cũng không khỏi
cảm thấy rùng mình.

Truyện bắt đầu bằng khung cảnh “tối sầm lại vì đói khát (…) không khí
vẩn mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người” ở cái xóm ngụ cư khi
cái đói bắt đầu tràn đến: những đứa trẻ con nhà nghèo “ngồi ủ rũ dưới những xó
tường không buồn nhúc nhích”, những người sống thì “xanh xám” dật dờ lặng
lẽ đi lại như những bóng ma dưới những gốc gạo, còn người chết thì vô số
“Không buổi sáng nào người đi chợ, đi làm đồng mà không gặp ba bốn cái thây
nằm cong queo bên đường”, những ngôi nhà thì “úp súp, tối om, không nhà nào
có ánh đèn lửa”.

Một cảnh tượng thật thê lương, ảm đạm, tối tăm, ngột ngạt. Đặc sắc nghệ
thuật của nhà văn ở đây là không hề có một dòng nào tố cáo trực tiếp tội ác của
bọn thực dân, phát xít (chúng bắt dân ta nhổ lúa trồng đay) nhưng những tội ác
dã man của bọn chúng vẫn hiện lên trong từng trang viết.

Trong hoàn cảnh đó cuộc sống của người dân lao động luôn luôn bị cái
chết rình rập, đe dọa và có lẽ khó có ai có thể thoát ra khỏi cái chết. Tính mạng
của họ lúc này thật vô cùng rẻ rúng, người ta có thể “nhặt” được vợ như nhặt
được một thứ gì đó ở ngoài đường, người ta có thể bỏ qua cả nhân phẩm để mà
có được cái ăn.

Qua tình huống anh cu Tràng “nhặt” được vợ, Kim Lân đã phản ánh một
cách rõ nét thực trạng xã hội nước ta những năm trước Cách mạng tháng Tám
1945, đồng thời cũng phản ánh một cách chân thực thân phận của người dân lao
động xã hội cũ. Tràng chỉ cần hai bận tầm phơ tầm phào và bốn bát bánh đúc
cùng với một bữa cơm no nê ngoài chợ mà có được vợ. Còn “thị” vì cái đói, vì
miếng ăn mà “thị” trở nên cong cớn và sẵn sàng đánh đổi cả nhân phẩm của
mình để được ăn và chấp nhận theo Tràng về nhà cũng chỉ vì miếng ăn mà thôi.

Đáng chú ý là hình ảnh bữa cơm trong buổi sáng đầu tiên tại nhà Tràng,
bữa cơm ra mắt của nàng dâu mới “giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối
thái rối và một đĩa muối ăn với cháo” mà mỗi người chỉ được có hai lưng lưng
đã hết và “món tráng miệng” là một nồi “chè khoán” (cháo cám) với vị đắng
chát trong cổ.

Đó là sự đồng cảm, thương xót của nhà văn trước cuộc sống tăm tối của
người dân lao động trong nạn đói, thông qua đó nói lên tiếng nói tố cáo tội ác dã
man của bọn thực dân phát xít đối với nhân dân ta.

Vợ nhặt thể hiện ra bản chất tốt đẹp của người dân lao động trong sự đói
túng quay quắt, trong bất cứ hoàn cảnh khốn khổ nào, “người nông dân ngụ cư
vẫn khao khát vươn lên trên cái chết, cái thảm đạm, mà để vui, mà hy vọng”.

Vợ nhặt cho dù được hoàn toàn thành khá lâu sau năm đói nhưng cảm
quan về cái đói thì vẫn thấm đẫm trong từng trang viết. Thông qua tác phẩm,
nhà văn đã thể hiện sự đồng cảm sâu sắc của mình đối với cuộc sống của những
người dân lao động nghèo khổ trong nạn đói khủng khiếp trên đất nước ta năm
1945. Vợ nhặt vì thế còn là tác phẩm mang giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo
rất sâu sắc.

Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo trong tác phẩm Vợ nhặt

Bài làm 8

Người ta thường nói nghèo thường đi đôi với hèn. Nhưng khi đến với
truyện ngắn “vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân, ta sẽ hiểu vẫn có những con người
đã sống rất thanh cao, rất lương thiện trong cái đói khủng khiếp với cái nghèo
bần cùng. Không những thế, tác phẩm còn ẩn chứa giá trị hiện thực và giá trị
nhân đạo vô cùng sâu sắc mà Kim Lân đã gửi gắm vào đó. Bản thân ông cũng là
một người được sinh ra và lớn lên trong cảnh nghèo khổ, nên hơn ai hết, ông
hiểu rất rõ sự kham khổ của mọi người. Vì thế, trong những trang văn của ông
vẫn thường thấp thoáng bóng dáng của những người nông dân tuy sống khắc
khổ nhưng tấm lòng trong sạch.

Trong tác phẩm “Vợ nhặt” cũng vậy, Kim Lân cũng viết về cuộc sống
cùng cực của vùng quê nghèo trong nạn đói khủng khiếp năm 1945. Khi đó,
người sống và người chết xuất hiện lẫn lộn nhau. Người chết như ngả rạ, còn
người sống dật dờ lang thang như những hồn ma. Kim Lân miêu tả rất chi tiết:
những cái thây nằm còng queo bên đường, không khí vẩn mùi ẩm thối của rác
rưởi và mùi gây của xác người, xóm chợ về chiều xơ xác hắt hiu, hai bên dãy
phố úp sụp tối om không nhà nào có ánh đèn ánh lửa. tiếng quạ trên mấy cây
gạo ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi thê thiết… Cảnh đói được nhà văn miêu
tả lại quá thê lương và xót xa. Chỉ qua một vài hình ảnh, người đọc cũng có thể
hình dung ra ngay trước mắt mình cảnh những người chết đói nằm rải rác ngoài
đường ngoài chợ, người ta không cả nghĩ đến chuyện chôn cất, ma chay.

Cái đói còn làm cho người ta không dám nghĩ đến chuyện dựng vợ, gả
chồng. Khiến cho Tràng – một người cùng khổ trong nạn đói ấy phải “nhặt” vợ.
Trong bữa cơm ngày đầu của gia đình mới lẽ ra là một mâm cơm dù không
thịnh soạn thì chí ít cũng có đầy đủ chút cơm rau dưa muối. Nhưng không,
không cơm, không rau, cũng chẳng dưa cà dưa muối. Bữa cơm ngày đói chỉ có
độc một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo. Mỗi người chỉ ăn
được hai lưng bát là hết sạch. Mẹ Tràng phải mang cháo cám ra cho cả nhà ăn.
Nồi cháo cám đắng xít nhưng lại trở thành một thứ đồ ăn hiếm có.

Chính bọn thực dân phong kiến đã nhẫn tâm bắt người dân phải nhổ lúa
trồng đay. Đay nào có thể ăn được. Rồi các loại sưu cao thuế nặng càng làm cho
người dân khổ cực. Ăn còn không có miếng mà ăn thì lấy đâu ra tiền ra thóc mà
đóng thuế. Bọn chúng đúng là muốn dồn người ta vào bước đường cùng, vào
chỗ chết.

Tất cả những điều trên đã làm nên giá trị hiện thực sâu sắc cho tác phẩm.
Thế nhưng, giữa cảnh đời thê lương ấy, tình người và niềm ước mong hạnh
phúc vẫn luôn rực sáng trong lòng mỗi người. Đây chính là giá trị nhân đạo rất
lớn mà tác phẩm đã mang lại cho người đọc. Giữa những cái xác ven đường,
giữa những người đói dật dờ như những bóng ma, Tràng và thị lại dắt díu nhau
về. Có lẽ sự kiện này có điều gì đó rất nghịch lý. Ngay chính bản thân Tràng
cũng chợn nghĩ ở cái thời buổi này đến bản thân mình còn không biết có lo nổi
không mà còn đèo bòng. Nhưng rồi, Tràng vẫn bước qua mọi lo lắng, thậm chí
là sự sợ hãi, Tràng chậc kệ một cái và cùng thị bước tiếp trong sự ngỡ ngàng của
mọi người.
Cuộc “nhặt” vợ chóng vánh đầy hài hước và rất ngẫu nhiên của Tràng
tưởng như một chuyện đùa nhưng lại chính là điểm mấu chốt thể hiện niềm tin
yêu vào cuộc sống, tin rằng ngày mai cuộc đời sẽ tươi sáng hơn, bớt khổ hơn.
Hơn thế nữa, sự kiện này còn thể hiện tình thương yêu, niềm đồng cảm lớn lao
giữa những con người cùng khổ. Đúng như câu tục ngữ lá lành đùm lá rách, lá
rách ít đùm lá rách nhiều. Chỉ có điều trong cái xã hội này, có lẽ ai cũng rách
như ai. Hai con người cùng chung một số phận nghèo nàn đói khổ, dắt nhau về
dù chưa hề có dự tính gì cho tương lai. Trước mắt họ vẫn chỉ là những xác chết
ngổn ngang, những bóng người đói dật dờ. Họ thật can đảm, hay nói một cách
khác là quá liều lĩnh. Bởi trong lúc đói khổ như thế này, có được miếng ăn đã là
một việc lớn lao lắm rồi. Vậy mà họ còn lấy vợ, lấy chồng – một việc quá lớn
lao, quá sức tưởng tượng của mọi người. Nhưng dù sao, điều này cũng khiến
cho những khuôn mặt hốc hác u tối của họ bỗng dưng rạng rỡ hẳn lên. Có cái gì
đó lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát, tăm tối ấy của họ.

Cảnh “nhặt” vợ tuy đầy bi hài nhưng lại chính là niềm khát khao hạnh
phúc của những con người đang trong tình trạng ngàn cân treo sợi tóc. Sự sống
của họ có thể bị cơn đói nhấn chìm bất cứ lúc nào. Nhưng có lẽ, càng cận kề cái
chết bao nhiêu thì niềm ham sống lại càng cao bấy nhiêu. Tràng và thị đã cùng
nhau đi qua cơn đói, cùng bước qua những xác chết ngổn ngang. Vì niềm hạnh
phúc, niềm hy vọng đang tràn ngập trong họ. Đến ngay cả bà cụ Tứ – mẹ Tràng
là người đã trải qua bao nhiêu thăng trầm trong cuộc sống, bà hiểu hơn ai hết
những khó khăn phía trước của đôi vợ chồng trẻ, nhưng bà vẫn mừng lòng. Hơn
nữa, chính bà là người khơi dậy thêm nhiều niềm tin cho con mình ngay trong
những ngày đầu tiên có vợ. Nhất là bữa cơm đầu tiên với nàng dâu. Dù chẳng có
gì cao sang ngoài rau chuối và cháo nhưng họ đã cùng nhau ăn với tất cả niềm
đồng cảm và lòng yêu thương của mình dành cho nhau. Bà nói đến những
chuyện vui: khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà. Tao tính rằng cái chỗ đầu bếp kia
làm chuồng gà thì tiện quá. Này ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn
gà cho mà xem. Một niềm ước muốn thật giản dị, thật đơn sơ nhưng đã có sức
thúc đẩy niềm hy vọng trong Tràng và vợ Tràng rất lớn. Chưa bao giờ trong nhà
này mẹ con lại đầm ấm, hòa hợp như thế. Cháo hết, bà lão nghĩ ngay đến nồi
cháo cám. Bà thừa hiểu cháo cám đắng xít, rất khó ăn. Nhưng giữa lúc vui như
thế này, bà đã hào hứng dỗ dành con ăn cháo cám như một người mẹ dỗ dành
cho con nít ăn một thứ gì đó ngon lắm. Bà hồ hởi: Tao có cái này hay lắm cơ.
Bà bưng nồi cháo cám lên, rồi vẫn với giọng vui tươi ấy: Chè đây. Chè khoán
đây, ngon đáo để cơ. Những phút giây vui vẻ dẫu chẳng bao nhiêu nhưng vẫn là
niềm hi vọng lớn lao của cả gia đình. Mỗi người đều tự nghĩ rằng mình phải có
trách nhiệm với căn nhà này.

Nếu như ở ngoài đường, ngoài chợ, người ta đang nằm la liệt, kiệt sức vì
sắp chết đói thì ở đây, trong căn nhà nhỏ bé xơ xác này dẫu cũng đói, cũng thiếu
thốn nhưng có một niềm tin đang được nhóm lên. Họ tin rằng, ngày mai sẽ tươi
sáng hơn, nạn đói sẽ sớm được đẩy lùi. Nhất là khi hình ảnh lá cờ đỏ bay phấp
phới, công cuộc phá kho thóc của Nhật nổ ra. Người nông dân sau bao cam chịu
ắt sẽ đứng lên giành lấy độc lập tự do cho chính mình. Họ sẽ không còn phải đói
phải khổ như bây giờ nữa.

Người dân càng khổ cực bao nhiêu thì lòng căm phẫn của họ dành cho
bọn đế quốc càng sâu sắc bấy nhiêu. Trước sau gì bọn chúng cũng sẽ phải trả
giá. Đó là một quy luật tất yếu: có áp bức ắt có đấu tranh. Và đấu tranh vì chính
nghĩa vẫn luôn luôn giành thắng lợi.

Như vậy, với giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc, tác phẩm đã
gieo vào lòng những đọc sự xót xa, đồng cảm cho những kiếp nghèo cùng cực.
Đồng thời cổ vũ họ hãy đoàn kết lại rồi tự đứng lên giải phóng cho cuộc đời
mình. Kim Lân đã rất thành công khi xây dựng nên câu truyện hấp dẫn này. Cho
đến nay, tác phẩm vẫn còn nguyên giá trị.

Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo trong tác phẩm Vợ nhặt

Bài làm 9

Vợ nhặt là một trong những truyện ngắn đặc sắc của nhà văn Kim Lân ,
in trong tập Con chó xấu xí. Vợ nhặt có tiền thân là truyện Xóm ngụ cư viết
ngay sau Cách mạng tháng Tám. Bản thảo chưa in thì bị thất lạc, sau này được
tác giả viết lại.

Bối cảnh của truyện ngắn Vợ nhặt là khung cảnh nông thôn Việt Nam vào
một thời kì ngột ngạt và đen tối nhất- đó là nạn đói năm Ất Dậu 1945. Bọn thực
dân Pháp và phát xít Nhật buộc người nông dân phải nhổ lúa và hoa màu để
trồng đay, phục vụ cho nhu cầu chiến tranh. Người dân các tỉnh ở đồng bằng
Bắc bộ lâm vào nạn đói khủng khiếp, gần hai triệu người chết đói. Hiện thực
đau thương đó đã được phản ánh trong nhiều truyện của Nguyên Hồng, Tô Hoài
và thơ của Văn Cao… Nhà văn Kim Lân cũng góp tiếng nói tố cáo của mình
trong tác phẩm Vợ nhặt.

Đặc sắc nghệ thuật của nhà văn Kim Lân trong tác phẩm Vợ nhặt là mặc
dù không có một dòng nào tố cáo trực tiếp tội ác của bọn thực dân Pháp và phát
xít Nhật, hình ảnh của chúng cũng không một lần xuất hiện, nhưng tội ác của
chúng vẫn hiện lên một cách rõ nét. Khung cảnh làng quê ảm đạm, tối tăm.
Những căn nhà úp súp . Những xác chết nằm còng queo bên đường. Không khí
vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người…
Cuộc sống của người nông dân bị đẩy đến bước đường cùng. Tính mạng
của con người lúc này thật rẻ rúng, người ta “ nhặt” được vợ giống như nhặt cái
rơm, cái rác ở bên đường. Thông qua tình huống truyện lấy vợ của Tràng, Kim
Lân không chỉ nói lên được thực trạng đen tối của xã hội Việt Nam trước Cách
mạng , mà còn thể hiện được thân phận đói nghèo, bị rẻ rúng của người nông
dân trong chế độ xã hội cũ ( Chú ý phân tích cảnh bữa cơm đón nàng dâu mới ở
nhà Tràng vào thời điểm đói kém: giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối
thái rối và một đĩa muối ăn với cháo…rồi nồi “ chè khoán” nấu bằng cám.) Ở
phần cuối của tác phẩm, những nhân vật nghèo khó này cũng khao khát sự đổi
thay về số phận. Chúng ta cũng thấy thoáng hiện lên niềm dự cảm của tác giả về
tương lai, về cách mạng( qua hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng và những đoàn người
đi phá kho thóc của Nhật).

Kim Lân đã viết về cuộc sống của người nông dân Việt Nam trước cách
mạng với một niềm đồng cảm, xót xa, day dứt. Nếu không có một tình cảm gắn
bó thực sự với người nông dân , không trải qua những năm tháng đen tối ấy,
không dễ gì viết nên được những trang sách xúc động và thấm thía đến thế.

Giá trị nhân đạo của tác phẩm còn được thể hiện ở chỗ, nhà văn đã phát
hiện và miêu tả những phẩm chất tốt đẹp của người lao động. Mặc dù bị xô đẩy
đến bước đường cùng, mấp mé bên cái chết, nhưng những người nông dân vẫn
cưu mang, giúp đỡ nhau, chia sẻ cho nhau miếng cơm, manh áo. Hiện thực cuộc
sống càng đen tối bao nhiêu ( chú ý phân tích cảnh bà cụ Tứ chấp nhận cô con
dâu mới trong lúc gia đình cũng đang rất khó khăn, không biết sống chết lúc
nào, để làm nổi rõ tình người của họ).

Kim Lân cũng thể hiện một sự trân trọng đối với khát vọng sống, khát
vọng hạnh phúc và mái ấm gia đình của người nông dân.
Trong hoàn cảnh khó khăn, nhưng bà cụ Tứ và vợ chồng Tràng vẫn luôn
hướng tới một cuộc sống gia đình đầm ấm, hạnh phúc ( cần chú ý những chi tiết
diễn tả tâm trạng bà cụ Tứ, thái độ của Tràng, vợ Tràng trong bữa ăn, rồi nhà
cửa , sân vườn đều được quét tước , thu dọn sạch sẽ, gọn ghẽ).Một cái gì mới
mẻ, khác lạ đang đến với mỗi thành viên trong gia đình bà cụ Tứ và hé mở trước
họ một niềm tin về tương lai.

Vợ nhặt là một tác phẩm thành công của nhà văn Kim Lân. Qua tác phẩm
này, chúng ta không chỉ nhận thấy tài năng của nhà văn, sự hiểu biết sâu sắc,
cặn kẽ của ông về cuộc sống của người nông dân, mà điều quan trọng hơn đó
chính là cái tâm, cái tấm lòng gắn bó thiết tha, sâu nặng của Kim Lân đối với
những người lao động nghèo khó trước Cách mạng.

Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo trong tác phẩm Vợ nhặt

Bài làm 10

Trong nền văn học VN hiện đại, Kim Lân là một nhà văn có nhiều đóng
góp tích cực về thể loại truyện ngắn và đề tài nông dân. Mặc dù trong hai giai
đoạn sáng tác ông viết không nhiều tuy nhiên khi nhắc đến ông người đọc
không thể không nhớ đến các truyện ngắn như: Làng, Đứa con người vợ lẽ, Vợ
nhặt….

Trong đó có thể nói “Vợ nhặt” là truyện ngắn đặc sắc. Qua câu chuyện
Tràng tình cờ nhặt người đàn bà về làm vợ trong hoàn cảnh XH đang diễn ra
nạn đói khủng khiếp Kim Lân đã đặt ra những vấn đề hết sức sâu sắc. Đó là giá
trị nhân phẩm của con người và những phẩm chất tích cực của những người lao
động nghèo khổ trong hoàn cảnh XH tối tăm.
Tràng là một thanh niên có thân phận và địa vị XH thấp kém. Anh có một
ngoại hình xâu, quê kệch với đôi mắt nhỏ tí và hai quai hàm bạnh ra. Anh lại mồ
côi cha, sống với bà mẹ già trong một ngôi nhà rúm ró, xiêu quẹo. Bản thân anh
cũng không có một nghề nghiệp vững chắc, ổn định. Hằng ngày anh gò lưng
kéo xe bò chở thóc mướn để kiếm miếng ăn nuôi thân và nuôi bà mẹ già. Anh
lại thuộc hạng dân ngụ cư, hạng dân lép vế nhât trong hệ thống làng xã VN
trước kia.

Với thân phận và địa vị như thế theo lẽ thường cuộc đời Tràng rồi sẽ tàn
lụi trong cảnh cô đơn, bần cùng nói chi đến chuyện hạnh phúc lứa đôi. Bởi lẽ
không một người đàn bà nào lại dại dột gắn cả cuộc đời mình với một người
thanh niên như vậy. Thế nhưng trong diễn biến câu chuyện Tràng lại có vợ hay
nói đúng hơn là tình cờ nhặt được vợ không phải mất tiền tổ chức nghi lễ cưới
hỏi theo lẽ thường tình.

Tràng gặp người đàn bà ấy vỏn vẹn chỉ hai lần. Lần thứ nhất khi kéo xe
bò vào dốc tỉnh thấy mấy chị con gái đang ngồi vêu ra, Tràng cất giọng hò chơi
một câu cho đỡ mệt: “Muốn ăn cơm trắng với giò này! Lại đây mà đẩy xe bò
với anh ni”. Tràng không có chủ tâm chọc ghẹo cô nào nhưng không ngờ một
chị cong cớn hỏi lại Tràng: “Này, nhà tôi ơi nói thật hay nói khoác đấy?” Rồi
chị ta lon ton chạy lại giúp Tràng đẩy xe bò lên dốc. Lần thứ hai khi Tràng đang
ngồi uống nước ở cổng chợ tỉnh, người đàn bà xuất hiện đột ngột trước mắt
Tràng và mắng anh là “điêu”. Ban đầu Tràng không nhận ra chị là ai khi người
đàn bà gợi nhắc Tràng mới nhớ ra. Và bất đắc dĩ Tràng phải mời chị ăn trầu
nhưng chị không chịu ăn trầu mà lại đòi ăn thứ khác. Tràng đành mời liều:
“Muốn ăn gì thì ăn”. Thế là chị xà xuống ăn một chập hết bốn bát bánh đúc mà
chẳng nói năng gì. Chị ăn xong Tràng ổm ờ nửa đùa nửa thật, tán tỉnh mà như
nói chơi: “Này nói đùa chớ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về”.
Nhưng không ngờ người đàn bà đồng ý . Thế là Tràng và người đàn bà nên vợ
nên chồng.

Tràng có vợ là việc khác thường ngoài sức tưởng tượng của mọi người từ
người dân xóm ngụ cư đến bà cụ Tứ và cả chính bản thân Tràng. Càng khác
thường hơn nửa vì sự kiện ấy diễn ra trong cảnh nạn đói và nạn chết đói xảy ra
khốc liệt. Bao gia đình ở Nam Định, Thái Bình phải rời bỏ quê hương dắt díu
nhau lên xanh xám như những bóng ma và nằm ngổn ngang khắp lều chợ, người
chết đói như ngã rạ. Không buổi sáng nào, người trong làng đi chợ đi làm đồng
không gặp ba, bốn cái thây nằm còng queo bên đường. Không khí vẩn lên mùi
ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người. Nạn đói đã chẳng buông tha ai.

Trong hoàn cảnh nạn đói và nạn chết đói đang hoành hành, một thanh
niên có thân phận và địa vị xã hội thấp kém như Tràng mà vẫn nhặt được vợ
nhờ vài bát bánh đúc, sự kiện đó đã làm nổi bật lên chủ đề của tác phẩm đó là
vấn đề nhân phẩm của con người trong hoàn cảnh xã hội tối tăm. Chủ đề vừa
nêu có ý nghĩa phê phán xã hội gây gắt.

“Vợ nhặt” không chỉ được viết bằng cảm hứng tố cáo vạch tội các thế lực
thống trị, tác phẩm còn toát lên tinh thần nhân đạo sâu sắc thể hiện qua cái nhìn
phát hiện và khẳng định những phẩm chất tích cực của người lao động trong
hoàn cảnh xã hội tối tăm.

Trước hết đó là khát vọng về hạnh phúc đôi lứa của người lao động cùng
khổ. Đọc lướt qua truyện chúng ta thấy việc Tràng và người đàn bà về chung
sống với nhau diễn ra hình như là hết sức ngẫu nhiên tình cờ nhưng nếu ở cả hai
con người khốn khổ ấy không tiềm ẩn nỗi khát khao về hạnh phúc lứa đôi thì
chắc hẳn họ đã không nên vợ nên chồng và cuộc gặp gỡ ấy có thể dẫn đến một
cuộc mua bán đổi chát giữa kẻ có cái ăn trong tay và một người đang đói khát.
Chính khát vọng hạnh phúc đã khơi dậy ở họ những tình cảm mới lạ.

Trên đường về nhà mặt Tràng có vẻ gì phớn phở khác thường, anh tủm
tỉm cười nụ một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh. Có lúc Tràng quên đi
cuộc sống tối tăm ê chề hằng ngày, quên cả cái đói đang đe doạ. Anh cảm thấy
một cái gì mới mẻ lạ lắm nó ôm ấp mênh mang khắp da thịt. Còn người đàn bà
mặc dù chị có vẻ khó chịu trước ánh mắt tò mò và những lời trêu chọc trong
xóm ngụ cư nhưng vẫn không giấu được vẻ e thẹn.

Đặc biệt là sau đêm chung sống với nhau. Tràng và người đàn bà như
được lột xác biến thành hai con người khác hẳn. Người đàn bà thì trông hiền
hậu đúng mực còn Tràng thì cảm thấy một niềm vui sướng phấn chấn tràng
ngập trong lòng. Hơn nữa anh còn ý thức được rằng mình là một người chồng,
người chủ gia đình phải có trách nhiệm gánh vác.

Rõ ràng là đằng sau vẻ tình cờ ngẫu nhiên xoay quanh việc Tràng nhặt
được vợ thì chính khát vọng hạnh phúc lứa đôi đã thúc đẩy Tràng và người đàn
bà đến với nhau và nên vợ nên chồng bất chấp sự bần cùng và nạn đói đang đè
nặng lên xã hội.Đáng lưu ý hơn nữa dù sống trong cảnh tối tăm thê thảm nhưng
người lao động vẫn thể hiện một tấm lòng nhân hậu vị tha cao cả. Điều đó thể
hiện tập trung qua thái độ suy nghĩ của bà cụ Tứ đối với người đàn bà xa lạ mà
Tràng nhặt về nhà làm vợ.

Theo lẽ thường trong hoàn cảnh nạn đói đang đe doạ từng ngày, từng giờ,
bà cụ Tứ có đủ lí do ngăn cấm và xua đuổi người đàn bà kia. Bởi vì nếu bà đồng
ý cho người đàn bà về chung sống với con mình thì điều đó cũng có nghĩa là
rước về nhà thêm một miệng ăn, trước cái đói về nhà. Thế nhưng bà cụ Tứ lại
không làm như vậy. Trái lại, bà cụ còn cảm thông, tủi hổ cho chị và vui vẻ chấp
nhận chị làm con dâu: “Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này, người ta
mới lấy đến con mình mà con mình mới có được vợ”. Không xua đuổi hắt hủi
một con người cùng đường khốn khổ mà còn xem như là một ân nhân, tấm lòng
nhân hậu vị tha của bà cụ Tứ thật là cao cả hiếm thấy.Cùng với khát vọng hạnh
phúc là khát vọng đổi đời, khát vọng vùng lên giành lấy áo cơm, giành lấy sự
sống, niềm tin vào tương lai của người lao động nghèo khổ. Khát vọng chính
đáng ấy được gợi mở khéo léo qua thái độ ngạc nhiên của vợ Tràng khi nghe bà
cụ Tứ nói đến chuyện đóng thuế. Đặc biệt là hình ảnh đoàn người đi phá kho
thóc và lá cờ đỏ bay phấp phới hiện ra trong suy nghĩ của Tràng.Truyện thành
công với tình huống truyện độc đáo, tài năng thể hiện diễn biến tâm lí nhân vật
tinh tế và cách dùng ngôn ngữ lời ăn tiếng nói của người dân lao động. “Vợ
nhặt” được xem là một thành công lớn của nhà văn Kim Lân.

“Vợ nhặt” là truyện ngắn đặc sắc của Kim Lân lấy đề tài về nạn đói 1945
nhưng truyện được sáng tác sau CM tháng Tám nên Kim Lân đã có một khoảng
thời gian cần thiết để suy ngẫm nhìn nhận vấn đề và dụng công nghệ thuật. Nhờ
đó Kim Lân đã nêu lên được những vấn đề XH, con người một cách sâu sắc dựa
trên tình huống truyện độc đáo kết hợp với nghệ thuật kể chuyện linh hoạt và
ngòi bút miêu tả tinh tế.

You might also like