Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 13

Họ tên: Lê Quỳnh Trúc

Mã SV: 11226595
Học phần: Kinh tế thương mại

Đề bài: Phân tích thực trạng thương mại Việt Nam số liệu 10 năm xuất nhập thương mại nội địa đi
vào nội dung hàng hoá có những thay đổi gì vấn đề gì hàng hoá doanh số kim ngạch xuất nhập đóng
góp thương mại vào gdp, thị trường, kênh bán, đối tác quốc tế, số lượng doanh nghiệp quy mô doanh
nghiệp như thế nào?
I. Thực trạng và đánh giá về tình hình xuất nhập khẩu của nền kinh tế Việt Nam

1. Kết quả đạt được

Thứ nhất, cán cân xuất, nhập khẩu hàng hóa được cải thiện rõ rệt, chuyển từ thâm hụt sang thặng dư:
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa tăng từ 327,8 tỷ USD năm 2015 lên khoảng 517 tỷ USD năm
2019 và trong năm 2020, mặc dù ảnh hưởng nặng nề của dịch bệnh Covid-19 vẫn đạt 543,9 tỷ USD
(tăng gần 1,7 lần so với năm 2005 và tăng 5,2% so với năm 2019). Xuất khẩu hàng hóa tăng từ 162 tỷ
USD năm 2015 lên đạt 281,5 tỷ USD năm 2020, tăng bình quân 11,7%/năm giai đoạn 2016-2020, là
động lực quan trọng cho tăng trưởng kinh tế. Đặc biệt, cán cân thương mại hàng hóa đạt thặng dư từ
năm 2016, năm sau cao hơn năm trước, từ mức thặng dư 1,78 tỷ USD năm 2016 tăng lên đạt 2,11 tỷ
USD năm 2017, năm 2018 đạt 6,83 tỷ USD, đạt 10,87 tỷ USD năm 2019 và năm 2020 đạt mức ấn tượng
là 19,1 tỷ USD, tạo điều kiện cải thiện cán cân thanh toán, góp phần ổn định các chỉ số kinh tế vĩ mô
khác. Năm 2021, dù chịu ảnh hưởng nặng nề bởi dịch bệnh, sản xuất, xuất khẩu gặp nhiều khó khăn,
song hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa của nước ta tiếp tục vẫn là điểm sáng của nền kinh tế, đạt tăng
trưởng ấn tượng so với năm 2020 với tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa đạt 668,5 tỷ USD (tăng
22,6% so với năm 2020), trong đó xuất khẩu tăng 19%, nhập khẩu tăng 26,5 % so với năm 2020. Theo
số liệu của Tổng cục Thống kê, 6 tháng đầu năm 2022, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa đạt
371,17 tỷ USD (tăng 16,4% so với cùng kỳ năm 2021), trong đó xuất khẩu tăng 17,3% và nhập khẩu
tăng 15,5%.

Thứ hai, cơ cấu hàng hóa xuất, nhập khẩu chuyển dịch theo hướng tích cực, tăng xuất khẩu sản phẩm
chế biến, chế tạo, giảm xuất khẩu thô; nhập khẩu chủ yếu ở nhóm hàng cần thiết phục vụ sản xuất, xuất
khẩu và phục vụ các dự án đầu tư trong lĩnh vực năng lượng, điện tử, cụ thể là: Tỷ trọng giá trị hàng
hóa xuất khẩu đã qua chế biến trong tổng giá trị xuất khẩu hàng hóa tăng từ 65% năm 2016 lên 85%
năm 2020; tỷ trọng giá trị xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao trong tổng giá trị sản phẩm công nghệ cao
tăng từ 63,9% năm 2016 lên 77,7% năm 2019... Năm 2021, cơ cấu hàng hóa xuất khẩu tiếp tục chuyển
dịch theo hướng tích cực. Nhóm hàng công nghiệp chế biến tiếp tục là động lực cho tăng trưởng chung
của xuất khẩu, cụ thể: kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng công nghiệp chế biến đạt 290 tỷ USD, tăng
20,4% so với năm 2020, chiếm 86,2% tổng kim ngạch xuất khẩu. Tỷ trọng trong tổng kim ngạch của
nhóm hàng nhiên liệu, khoáng sản và nông, thủy sản giảm. Các nhóm hàng như nông sản, thủy sản,
điện thoại, linh kiện, máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng, sản phẩm nội thất từ chất liệu khác gỗ, dệt
may và da giày... tuy chịu ảnh hưởng nặng nền từ dịch bệnh Covid-19 nhưng đã có sự phục hồi và tăng
trưởng, đóng góp lớn vào mức tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu. 6 tháng đầu năm 2022, trong cơ cấu
nhóm hàng xuất khẩu nhóm hàng công nghiệp chế biến chiếm tỷ trọng cao nhất với 88,7% trong tổng
kim ngạch xuất khẩu; trong cơ cấu nhóm hàng nhập khẩu, nhóm hàng tư liệu sản xuất chiếm nhiều nhất
với 94% trong tổng kim ngạch nhập khẩu cả nước.

Thứ ba, đa dạng hóa thị trường xuất nhập khẩu với quy mô giá trị xuất nhập khẩu tăng. Từ năm 2016
đến nay, thị trường xuất khẩu được mở rộng và đa dạng, nhiều sản phẩm của doanh nghiệp trong nước
đã dần có chỗ đứng và khả năng cạnh tranh trên nhiều thị trường có yêu cầu cao về chất lượng. Về xuất
khẩu, từ 24 thị trường xuất khẩu đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD (2016) tăng lên 31 thị trường (2020) và
đạt 33 thị trường (2021). Hiện nay, doanh nghiệp tiếp tục duy trì những thị trường truyền thống lớn và
tận dụng khá tốt cơ hội từ các FTA, đã góp phần quan trọng vào kết quả tăng trưởng xuất khẩu 2 con
số trong 6 tháng đầu năm 2022, xuất khẩu hàng hóa sang các thị trường chủ lực của Việt Nam và những
thị trường mà nước ta có ký kết FTA cũng tăng trưởng khá, chẳng hạn như: Mỹ đạt 55,9 tỷ USD, tăng
22,5 %; EU 23,6 tỷ USD, tăng 21,6 %; Trung Quốc đạt 26,3 tỷ USD, tăng 7 %. Về nhập khẩu, thị trường
nhập khẩu máy móc, nguyên liệu cho sản xuất đã dịch chuyển dần từ khu vực Châu Á sang thị trường
Châu Âu và Châu Mỹ, nhập khẩu đáp ứng nhu cầu cho sản xuất, tiêu dùng trong nước. Kim ngạch nhập
khẩu năm 2021 đạt 332,2 tỷ USD, tăng 26,5% so với năm 2020. Nhập khẩu đáp ứng nguồn cung nguyên
liệu cho sản xuất của doanh nghiệp, không có tình trạng thiếu hụt hay đứt gãy nguồn cung. Nhóm hàng
cần nhập khẩu chiếm tỷ trọng cao, đạt 294,6 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 88,7% trong tổng kim ngạch nhập
khẩu.

Năm 2021, dù ảnh hưởng nặng nề của dịch bệnh Covid-19, song hoạt động xuất nhập khẩu của cả nước
vẫn khá sôi động.

Về hoạt động xuất khẩu, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa thực hiện tháng 11/2021 đạt 31,87 tỷ USD, cao
hơn 1,97 tỷ USD so với số ước tính. Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tháng 12/2021 ước đạt 34,5 tỷ
USD, tăng 8,3% so với tháng trước. Trong quý IV/2021, kim ngạch xuất khẩu ước đạt 95,6 tỷ USD,
tăng 19,4% so với cùng kỳ năm trước và tăng 16,4% so với quý III/2021 (tăng 19,5% so với quý II/2021
và tăng 21,9% so với quý I/2021).

Tính chung năm 2021, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa ước đạt 336,25 tỷ USD, tăng 19% so với năm
trước. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước đạt 88,71 tỷ USD, tăng 13,4%, chiếm 26,4% tổng kim
ngạch xuất khẩu; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 247,54 tỷ USD, tăng 21,1%,
chiếm 73,6%.

Trong năm 2021, có 35 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 93,8% tổng kim ngạch
xuất khẩu (có 8 mặt hàng xuất khẩu trên 10 tỷ USD, chiếm 69,7%). Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu một
số mặt hàng chủ lực năm 2021 thuộc về khu vực có vốn đầu tư nước ngoài: Điện thoại các loại và linh
kiện chiếm 99,3%; điện tử, máy tính và linh kiện chiếm 98,1%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng
chiếm 93%; dệt may chiếm 61,7%; giầy dép các loại chiếm 79,3%.

Về cơ cấu nhóm hàng xuất khẩu năm 2021, nhóm hàng công nghiệp chế biến chiếm 89,2%, tăng 0,6
điểm phần trăm so với năm trước; nhóm hàng nông sản, lâm sản chiếm 7,1%, giảm 0,2 điểm phần trăm;
nhóm hàng thủy sản chiếm 2,6%, giảm 0,4 điểm phần trăm; nhóm hàng nhiên liệu và khoáng sản chiếm
1,1%, bằng năm trước.
Về hoạt động nhập khẩu, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa thực hiện tháng 11/2021 đạt 30,61 tỷ USD,
cao hơn 810 triệu USD so với số ước tính. Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa tháng 12/2021 ước đạt 32 tỷ
USD, tăng 4,5% so với tháng trước. Trong quý IV/2021, kim ngạch nhập khẩu ước đạt 89,07 tỷ USD,
tăng 16% so với cùng kỳ năm trước và tăng 6,2% so với quý III/2021.

Tính chung năm 2021, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa ước đạt 332,25 tỷ USD, tăng 26,5% so với năm
trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 114,07 tỷ USD, tăng 21,8%; khu vực có vốn đầu tư nước
ngoài đạt 218,18 tỷ USD, tăng 29,1%.

Trong năm 2021 có 47 mặt hàng nhập khẩu đạt trị giá trên 1 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 94,1% tổng kim
ngạch nhập khẩu.

Về cơ cấu nhóm hàng nhập khẩu năm 2021, nhóm hàng tư liệu sản xuất chiếm 93,5%, tăng 0,2 điểm
phần trăm so với năm trước, trong đó: Nhóm hàng máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng chiếm 46,6%,
giảm 2,1 điểm phần trăm; nhóm hàng nguyên, nhiên, vật liệu chiếm 46,9%, tăng 2,3 điểm phần trăm.
Nhóm hàng vật phẩm tiêu dùng chiếm 6,5%, giảm 0,2 điểm phần trăm.

Về thị trường xuất, nhập khẩu hàng hóa năm 2021, Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt
Nam với kim ngạch ước đạt 95,6 tỷ USD. Trung Quốc là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam
với kim ngạch ước đạt 109,9 tỷ USD. Năm 2021 xuất siêu sang EU ước đạt 23 tỷ USD, tăng 12,1% so
với năm trước; nhập siêu từ Trung Quốc 54 tỷ USD, tăng 53%; nhập siêu từ Hàn Quốc 34,2 tỷ USD,
tăng 22,9%; nhập siêu từ ASEAN 12 tỷ USD, tăng 63,1%; nhập siêu từ Nhật Bản 2,4 tỷ USD, tăng
127,9%.

Cán cân thương mại hàng hóa thực hiện tháng Mười một xuất siêu 1,26 tỷ USD5; 11 tháng xuất siêu
1,46 tỷ USD; tháng Mười hai ước tính xuất siêu 2,54 tỷ USD. Tính chung năm 2021, cán cân thương
mại hàng hóa ước tính xuất siêu 4 tỷ USD (năm trước xuất siêu 19,94 tỷ USD). Trong đó: Khu vực kinh
tế trong nước nhập siêu 25,36 tỷ USD; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) xuất siêu
29,36 tỷ USD.
Về xuất, nhập khẩu dịch vụ, trong quý IV/2021, kim ngạch xuất khẩu dịch vụ ước đạt 985 triệu USD,
giảm 3,3% so với cùng kỳ năm 2020 và tăng 9,2% so với quý trước; kim ngạch nhập khẩu dịch vụ ước
đạt 5,1 tỷ USD, tăng 12,4% so với cùng kỳ năm trước và tăng 5,5% so với quý trước.

Trong năm 2021, kim ngạch xuất khẩu dịch vụ ước đạt 3,67 tỷ USD, giảm 51,7% so với năm 2020,
trong đó dịch vụ du lịch đạt 149 triệu USD (chiếm 4,1% tổng kim ngạch), giảm 95,4%; dịch vụ vận tải
đạt 446 triệu USD (chiếm 12,1%), giảm 61,4%.

Kim ngạch nhập khẩu dịch vụ năm nay ước đạt 19,41 tỷ USD, tăng 8,5% so với năm trước, trong đó
dịch vụ vận tải đạt 9,99 tỷ USD (chiếm 51,5% tổng kim ngạch), tăng 34,2%; dịch vụ du lịch đạt 3,63 tỷ
USD (chiếm 18,7%), giảm 21,3%. Nhập siêu dịch vụ năm 2021 là 15,73 tỷ USD (trong đó phí dịch vụ
vận tải và bảo hiểm hàng hóa nhập khẩu là 8,24 tỷ USD)./.

Năm 2022, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu dự kiến cán mốc 732 tỷ USD, tăng 10% so với 2021, theo
Bộ Công Thương.
Số liệu vừa công bố của Bộ Công Thương công bố tại hội nghị tổng kết 2022 chiều 26/12, cho thấy xuất
khẩu năm 2022 đạt khoảng 371,5 tỷ USD, tăng 10,5% so với 2021. Đây là lần đầu kim ngạch xuất nhập
khẩu Việt Nam vượt mốc 700 tỷ USD.

Trong số các mặt hàng xuất khẩu, có 39 mặt hàng đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD, tăng 4 so với năm
ngoái. 9 mặt hàng ghi nhận kim ngạch trên 10 tỷ USD.

Nhóm hàng công nghiệp chế biến tiếp tục chiếm tỷ trọng chủ yếu trong cơ cấu xuất khẩu, chiếm hơn
86% tổng kim ngạch xuất khẩu.

Ở chiều nhập khẩu, kim ngạch ghi nhận cả năm là 360,5 tỷ USD, tăng 8,5% so với 2021, kiểm soát tốt

các mặt hàng hạn chế nhập khẩu.

Tính chung xuất nhập khẩu năm 2022 đã lần đầu vượt 700 tỷ USD, đạt 732 tỷ USD đưa Việt Nam vào

nhóm các nền kinh tế hàng đầu về thương mại quốc tế. Nhờ đó, cán cân thương mại thặng dư năm thứ

7 liên tiếp, với giá trị gần 11 tỷ USD, góp phần ổn định tỷ giá, dự trữ ngoại hối…

2. Hạn chế, bất cập

Thứ nhất, xu hướng cán cân xuất, nhập khẩu hàng hóa thặng dư ngày càng tăng cao và nhanh đã tạo ra
sức ép lên việc quản lý và điều hành chính sách tiền tệ, tỷ giá của Chính phủ bởi những biến động lớn
trong cán cân thương mại đều gây ra những khó khăn trong công tác quản lý, điều hành chính sách xuất
nhập khẩu cũng như các lĩnh vực liên quan.

Thứ hai, cơ cấu hàng hóa xuất, nhập khẩu chuyển dịch tích cực tuy nhiên sự chênh lệch giữa các nhóm
hàng còn chênh lệch lớn.Sự phát triển mạnh mẽ của nhóm hàng chế biến, chế tạo trong những năm qua
cũng tiềm ẩn sự phát triển không bền vững bởi hiện nay chủ yếu Việt Nam chỉ tham gia khâu gia công,
lắp ráp cho nước ngoài, giá trị gia tăng của sản phẩm thấp, chậm đổi mới, hàm lượng chất xám, công
nghệ còn hạn chế. Bên cạnh đó, nhập khẩu nguyên vật liệu đầu vào chiếm 94% trong tổng kim ngạch
nhập khẩu cả nước cho thấy sự phụ thuộc quá lớn vào nguồn nguyên phụ liệu nước ngoài, trước những
khó khăn của tình hình dịch bệnh Covid-19 phức tạp như hai năm qua, việc đứt gãy nguồn cung nguyên
phụ liệu tại một số thị trường lớn đã bộc lộ những khó khăn, nguy cơ đứt gãy chuỗi cung ứng luôn
thường trực.

Thứ ba, xu hướng đa dạng hóa thị trường xuất nhập khẩu hàng hóa đạt được kết quả tích cực tuy nhiên,
tỷ trọng xuất nhập khẩu hiện nay vẫn tập trung quá nhiều và ngày càng tăng cao tại một số thị trường
lớn điển hình: Về xuất khẩu, Hoa Kỳ đang là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam hiện nay, cụ
thể như năm 2020 đạt 77,1 tỷ USD tăng 25,7% so với năm 2019, đạt 111 tỷ USD năm 2021, trong 6
tháng đầu năm 2022, ước đạt 55,9 tỷ USD. Việc xuất khẩu hàng hóa tập trung quá nhiều tại một số thị
trường lớn sẽ gây ra tình trạng quá phụ thuộc và sẽ chịu ảnh hưởng lớn vào các chính sách áp thuế, hạn
chế, bảo hộ sản phẩm trong nước của nước sở tại. Về nhập khẩu, thị trường nhập khẩu máy móc, nguyên
liệu cho sản xuất đã dịch chuyển dần từ khu vực Châu Á sang thị trường Châu Âu và Châu Mỹ. Tuy
nhiên, việc nhập khẩu được chuyển dịch sang các thị trường mới vẫn đang chiếm tỷ trọng còn quá nhỏ,
thị trường Trung Quốc hiện nay vẫn là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam, đã lập đỉnh nhập
khẩu chiếm 35,3 tỷ USD năm 2020 tăng 3,7% so với năm 2019 trở thành thị trường có thâm hụt thương
mại lớn nhất, đứng thứ 2 là Hàn Quốc mức đạt 27,8 tỷ USD năm 2020 tăng 1,8% so với năm 2019.

II. Thương mại nội địa


Thị trường bán lẻ đang chứng kiến sự sụt giảm về doanh thu cũng như lợi nhuận của hàng loạt tên tuổi
lớn. Đơn cử như Fivimart và Citimart sau 3 năm hợp tác với Aeon đã mở rộng hệ thống, doanh thu tăng
trưởng tốt, song lợi nhuận lại liên tục thua lỗ. Các DN chủ chốt của hệ thống Big C Việt Nam như Big
C Thăng Long (khu vực Hà Nội), Big C An Lạc (TP. Hồ Chí Minh), Big C Hải Phòng (khu vực Bắc
Giang, Đà Nẵng, Ninh Bình, Phú Thọ, Hạ Long), Bình Dương hay Đồng Nai… đều có doanh thu sụt
giảm hoặc đi ngang trong nhiều năm trở lại đây. Một số chuỗi bán lẻ điện máy lớn như Trần Anh, HC
Home Center, Samnec, Pico... cũng đều trong tình trạng sụt giảm doanh thu trong năm 2017.

Sự khó khăn của lĩnh vực bán lẻ cũng được thể hiện qua con số vĩ mô ghi nhận trong báo cáo Đánh giá
giữa kỳ thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016-2020, do Bộ Kế hoạch và Đầu tư thực
hiện. Theo đó, báo cáo ghi nhận tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng có mức tăng
trưởng nhanh, tuy nhiên tốc độ giai đoạn sau đã chậm lại so với giai đoạn trước.

Mức tăng bình quân giai đoạn 2006-2010 là 16,1%/năm; đã giảm xuống còn 11,38%/năm giai đoạn
2011-2015; và dự kiến chỉ còn 10,2%/năm trong giai đoạn 2016-2018. Trong năm 2018, dự kiến diễn
biến thị trường sẽ ít có những biến động bất thường, các yếu tố về nguồn cung được bảo đảm, các yếu
tố từ phía cầu cũng khả quan... Tổng mức bán lẻ năm 2018 có thể đạt mục tiêu khoảng 4,33 triệu tỷ
đồng, tăng 10,5%-10,8% so với năm 2017, đảm bảo hoàn thành kế hoạch năm 2018 đã đặt ra.

Tuy nhiên, để phấn đấu hoàn thành mục tiêu kế hoạch 2016-2020 đã đặt ra (tổng mức bán lẻ hàng hóa
và doanh thu dịch vụ đạt tốc độ tăng bình quân 12,5 -13%/năm) đòi hỏi cần phải có sự nỗ lực rất lớn
trong việc đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại nội địa và khuyến khích tiêu dùng trong nước.
Hiện nay kết cấu hạ tầng thương mại bán lẻ có sự tăng trưởng nhanh chóng, nhất là các hình thức bán
lẻ hiện đại. Các loại hình thương mại hiện đại như siêu thị, trung tâm thương mại thu hút DN FDI và
tập trung chủ yếu ở các đô thị. Tính đến hết năm 2017, cả nước có 957 siêu thị tại 62/63 tỉnh, thành phố
(Hà Giang là tỉnh chưa có siêu thị) và 189 trung tâm thương mại tại 51/63 tỉnh, thành phố. Phần lớn các
siêu thị và trung tâm thương mại chỉ tập trung tại các thành phố lớn và khu vực nội thành. Riêng số
lượng siêu thị và trung tâm thương mại tại 5 thành phố lớn: Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, TP. Hồ Chí
Minh, Cần Thơ lần lượt chiếm 47% và 50% so với số lượng siêu thị và trung tâm thương mại cả nước.

Với thực trạng đó, Hiệp hội Các nhà bán lẻ Việt Nam cho rằng dư địa để phát triển thị trường bán lẻ
hiện đại vẫn còn rất lớn, đặc biệt là ở thị trường nông thôn. Tính chung giá trị hàng hóa dịch vụ qua hệ
thống chợ chiếm trung bình từ 35% - 40%, trong khi đó thị phần hàng hóa lưu thông qua chợ nông thôn
chiếm khoảng từ 50% - 70%, cao hơn mức bình quân cả nước. Do đó, cần tiếp tục đẩy mạnh thực hiện
Đề án phát triển thị trường trong nước gắn với Cuộc vận động Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt
Nam. Tiếp tục thực hiện chương trình đưa hàng Việt về nông thôn, vùng sâu, vùng xa, các khu công
nghiệp, khu chế xuất nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người dân cũng như góp phần tăng tổng mức
bán lẻ hàng hóa cả nước vì các khu vực này còn nhiều dư địa để phát triển.

Bên cạnh đó, theo bà Đinh Thị Mỹ Loan - Chủ tịch Hiệp hội Các nhà bán lẻ Việt Nam, mặc dù được
coi là một trong những trụ đỡ quan trọng của nền kinh tế, song các DN bán lẻ nội hiện nay đang rất lép
vế trước sự xâm lấn ngày càng mạnh mẽ của các DN bán lẻ nước ngoài. Bà cho rằng DN nội hiện gặp
nhiều hạn chế do không tiếp cận được mặt bằng tại các tỉnh và gặp khó khăn trong khâu quản lý. Vì
vậy, bà Loan đề xuất thành lập một tập đoàn bán lẻ đa sở hữu của Việt Nam trên cơ sở các tập đoàn,
tổng công ty nhà nước hàng đầu hiện tại. Nếu được xây dựng, tập đoàn này sẽ có quy mô doanh thu từ
4 - 5 tỷ USD mỗi năm. Các tập đoàn này sẽ đủ lớn để chủ động trong công tác kết nối nhà phân phối và
nông dân tại các vùng sản xuất nông sản để thúc đẩy tiêu dùng trong nước.

Năm 2021, dịch Covid-19 tiếp tục diễn biến rất phức tạp. Theo số liệu tính chung năm 2021, tổng mức
bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng đạt 4.739.700 tỉ đồng, giảm 4,8% so với năm trước, nếu
loại trừ yếu tố giá thì giảm đến 6,2% (năm 2020 giảm 3%). Trong khi đó, riêng lĩnh vực bán lẻ hàng
hóa năm 2021 đạt 3.950.900 tỉ đồng, tương đương 173,28 tỉ USD, tăng 0,2% so với số liệu về bán lẻ
hàng hóa của năm 2020. Như vậy, thị trường bán lẻ năm 2021 tiếp tục ghi kỷ lục mới về doanh số và
tăng hơn 1,2 tỉ USD so với năm 2020.

Dịch Covid-19 lần thứ 4 bùng phát với tốc độ lây lan chưa từng có tại nhiều địa phương trong cả nước,
gây ra nguy cơ đứt gãy chuỗi cung ứng hàng hóa và chuỗi sản xuất công nghiệp. Song, Ngay từ đầu
năm 2021, Bộ Công Thương đã chủ động, linh hoạt ban hành nhiều văn bản chỉ đạo Sở Công Thương
các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương về công tác bảo đảm nguồn cung các mặt hàng thiết yếu,
thực hiện các giải pháp bảo đảm cân đối cung cầu, bình ổn thị trường; tạo điều kiện thuận lợi trong vận
chuyển lưu thông và tăng cường hỗ trợ tiêu thụ hỗ trợ các sản phẩm nông sản; siết chặt và tăng cường
các biện pháp phòng chống dịch trên địa bàn, tại hệ thống phân phối, đặc biệt là chợ đầu mối, chợ truyền
thống, siêu thị, cửa hàng; đồng thời khuyến khích đẩy mạnh các hoạt động, hình thức mua bán hàng
hóa trực tuyến, tổ chức các điểm bán hàng lưu động, các điểm bán bổ sung thay thế các cơ sở kinh
doanh bị đóng cửa do dịch bệnh… Bộ Công Thương đã tích cực tổ chức triển khai nhiều hoạt động phát
triển thị trường trong nước, kích cầu tiêu dùng nội địa. Cụ thể như: Bộ Công Thương đã phê duyệt tổ
chức Chương trình “Tháng khuyến mại tập trung quốc gia 2021 - Vietnam Grand Sale 2021” từ ngày
01 tháng 12 năm 2021 đến ngày 01 tháng 01 năm 2022 trên phạm vi toàn quốc để các doanh nghiệp
thực hiện giữ vững sản xuất, kinh doanh, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội trong tình hình
mới và thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phục hồi phát triển kinh tế.
Chương trình là một trong những giải pháp mạnh mẽ để hỗ trợ, đôn đốc các hiệp hội, ngành hàng, doanh
nghiệp, nhằm tháo gỡ khó khăn, thực hiện hiệu quả các hoạt động XTTM, tìm kiếm mở rộng thị trường,
thúc đẩy tiêu thụ hàng hóa, phục hồi kinh doanh sau dịch bệnh Covid-19.

Sau 2 năm liên tục giảm do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, tổng mức bán lẻ hàng hóa cả nước đã
dần dần tăng mạnh trở lại trong những tháng cuối năm 2022 và năm 2023. Tổng mức bán lẻ hàng hóa
và doanh thu dịch vụ tiêu dùng năm 2022 tăng 15% so với năm 2019 - năm trước khi xảy ra dịch Covid-
19. Mặc dù vậy, quy mô tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng năm 2022 chỉ đạt
82.5% quy mô của chỉ tiêu này, nếu ước tính trong điều kiện bình thường không xảy ra dịch Covid-19
từ năm 2020 đến nay. Năm 2022, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng đạt 5.679,9
triệu tỷ đồng. (Xem Hình)
Hoạt động thương mại và dịch vụ tiêu dùng năm 2022 đã khôi phục mạnh mẽ khi dịch Covid-19 bước
đầu được kiểm soát. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng quý 4/2022 tăng 17.1%
so với cùng kỳ năm trước (quý 3/2022 tăng 41.2%; quý 2 tăng 20.1%). Tính chung năm 2022, tổng mức
bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 19.8% so với năm trước. Tính chung quý 4/2022,
tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng đạt 1,514.6 ngàn tỷ đồng, tăng 4.8% so với
quý trước và tăng 17.1% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 1,180.4
ngàn tỷ đồng, tăng 5.3% so với quý trước và tăng 11.1% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu dịch vụ
lưu trú, ăn uống đạt 147.7 ngàn tỷ đồng, giảm 7.7% và tăng 46.3%; doanh thu du lịch lữ hành đạt 6.5
nghìn tỷ đồng, giảm 29.4% và tăng 231.5%; doanh thu dịch vụ khác đạt 180 ngàn tỷ đồng, tăng 15.6%
và tăng 41.2%. Năm 2022, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước đạt 5,679.9
nghìn tỷ đồng, tăng 19.8% so với năm trước, nếu loại trừ yếu tố giá tăng 15.6% (năm 2021 giảm 6.7%).
Điều này đến từ việc tiếp tục thực hiện tốt các chương trình kích cầu tiêu dùng, tháng khuyến mại tập
trung được tổ chức đồng loạt ở các địa phương trên cả nước, nhu cầu mua sắm tăng. Công tác kết nối
cung cầu được thực hiện tốt, giá cả tương đối ổn định, góp phần đạt mục tiêu kiểm soát lạm phát; gắn
kết tạo nguồn hàng ổn định giữa các nhà sản xuất trong nước với các hệ thống phân phối lớn trên toàn
quốc. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ năm 2022 tăng 21%, vượt mục tiêu kế hoạch của
ngành (mục tiêu tăng 8%).
Theo Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội tháng 10/2023 của Tổng cục Thống kê cho thấy, hoạt động
thương mại dịch vụ tháng 10 diễn ra khá sôi động. Tính chung 10 tháng năm 2023, tổng mức bán lẻ
hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 9,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó doanh thu dịch
vụ lưu trú, ăn uống tăng 15%, doanh thu du lịch lữ hành tăng 47,6%. Tính chung 10 tháng năm 2023,
tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng theo giá hiện hành ước đạt 5.105,4 nghìn tỷ
đồng, tăng 9,4% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2022 tăng 20,8%), nếu loại trừ yếu tố giá tăng
6,9% (cùng kỳ năm 2022 tăng 16,7%). Doanh thu bán lẻ hàng hóa 10 tháng năm 2023 ước đạt 3.988,9
nghìn tỷ đồng, chiếm 78,1% tổng mức và tăng 8,3% so với cùng kỳ năm trước (loại trừ yếu tố giá tăng
6,8%). Trong đó, nhóm hàng vật phẩm văn hóa, giáo dục tăng 13,6%; lương thực, thực phẩm tăng
11,2%; may mặc tăng 7,7%; đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình tăng 5,5%; riêng phương tiện đi
lại (trừ ô tô) giảm 2,8%. Mạng lưới bán lẻ truyền thống và hiện đại tiếp tục “phủ sóng” trên các địa bàn,
đáp ứng sự gia tăng cả về quy mô và trình độ phát triển, nhu cầu mua sắm của các tầng lớp dân cư. Cả
nước hiện có 1.163 siêu thị và 250 trung tâm thương mại, với các thương hiệu mạnh đến từ các nước
như: Lotte, Central Group, TCCGroup, Aeon, CircleK, KMart, Auchan, Family Mart,... Toàn quốc đã
thiết lập trên 100 điểm bán hàng cố định “Tự hào hàng Việt Nam” tại 61 địa phương. Có 8.581 chợ
truyền thống (61 chợ đầu mối) cùng gần 1,4 triệu cửa hàng tạp hóa đang duy trì hoạt động. Kênh bán lẻ
truyền thống đã có những thay đổi mạnh mẽ (thanh toán điện tử, kết hợp cả bán hàng trực tuyến (online)
với trực tiếp (offline)); tiếp cận xu hướng hiện đại từ trưng bày, giới thiệu hàng hóa, kết nối phản ánh
người tiêu dùng với nhà sản xuất.

Trong 10 tháng năm 2023, một loạt giải pháp được thực hiện đồng bộ kết hợp nhằm kích cầu tiêu dùng
của người dân. Đầu tiên phải nói đến quyết định thuế giá trị gia tăng (VAT) sẽ được giảm từ 10% xuống
còn 8% theo Nghị quyết số 101/2023/QH15 của Quốc hội, giúp giá hàng hóa trên thị trường giảm 1,7%.
Mức giá giảm như vậy không chỉ giúp giảm giá bán cuối cùng đến người tiêu dùng, còn giảm giá đầu
vào cho nguyên vật liệu, linh phụ kiện để chế tạo sản phẩm. Chính điều đó tạo ra chi phí thấp hơn giá
thành, giúp giá thành rẻ hơn, giúp doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh có điều kiện hạ chi phí, giá giá
bán, tăng khuyến mại, tăng hậu mãi để kích cầu tiêu dùng. Đồng thời, từ ngày 1/7/2023, chính sách tăng
lương cơ sở của Nhà nước được áp dụng đã góp phần tăng lượng thu nhập, giúp người lao động có
nguồn chi tiêu tăng lên. Song song với đó, Chính phủ cũng ban hành chính sách miễn, giảm 36 loại phí,
lệ phí để giảm chi phí kinh doanh cho nền kinh tế. Chính phủ cũng giãn, hoãn thời gian thu thuế, miễn
giảm tiền thuê mặt đất, mặt nước, tạo năng lực tài chính tại chỗ giúp doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh
có được nguồn vốn với chi phí thấp nhất, giá thành sản xuất, kinh doanh giảm đi.
Ngoài ra, trong suốt thời gian qua, Chính phủ, Bộ Công Thương đã hỗ trợ doanh nghiệp để tổ chức các
hội chợ, quảng bá các doanh nghiệp, sản phẩm địa phương, vùng miền cũng như sản phẩm Việt Nam
có thế mạnh nhưng gặp khó khăn trong xuất khẩu như dệt may, da giày, giúp tiêu thụ sản phẩm tốt hơn.
Đặc biệt, hoạt động liên kết từ vận chuyển đến logistics, kho bãi cũng được bố trí sắp xếp để giảm chi
phí phân phối lưu thông, giảm giá.

III. Doanh nghiệp

Năm 2021, sự bùng phát mạnh của làn sóng Covid-19 lần thứ tư cùng với các đợt phong tỏa nghiêm
ngặt, giãn cách kéo dài (đặc biệt là quý III/2021) đã tác động tiêu cực đến cộng đồng doanh nghiệp.
Việc ban hành các chủ trương, chính sách đúng đắn, kịp thời, công tác chỉ đạo, tổ chức thực hiện khẩn
trương, quyết liệt đã góp phần quan trọng trong khôi phục sản xuất và thúc đẩy thị trường, từng bước
tạo niềm tin cho các doanh nghiệp. Số doanh nghiệp thành lập mới trong năm 2021 đạt 116,8 nghìn
doanh nghiệp, giảm 13,4% so với năm trước; vốn đăng ký đạt 1.611,1 nghìn tỷ đồng, giảm 27,9%. Vốn
đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới trong năm 2021 đạt 13,8 tỷ đồng, giảm 16,8% so
với năm trước. Nếu tính cả 2.524,9 nghìn tỷ đồng vốn đăng ký tăng thêm của 43,5 nghìn doanh nghiệp
tăng vốn, tổng số vốn đăng ký bổ sung vào nền kinh tế trong 2021 là 4.136 nghìn tỷ đồng, giảm 25,8%
so với năm trước. Bên cạnh đó, còn có 43,1 nghìn doanh nghiệp quay trở lại hoạt động (giảm 2,2% so
với năm 2020), nâng tổng số doanh nghiệp thành lập mới và doanh nghiệp quay trở lại hoạt động năm
2021 lên gần 160 nghìn doanh nghiệp, giảm 10,7% so với năm trước. Bình quân một tháng có 13,3
nghìn doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động.

Năm 2021, số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn gần 55 nghìn doanh nghiệp, tăng 18%
so với năm trước; 48,1 nghìn doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể, tăng 27,8%; 16,7
nghìn doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, giảm 4,1%, trong đó có 14,8 nghìn doanh nghiệp có quy
mô vốn dưới 10 tỷ đồng, giảm 4%; 211 doanh nghiệp có quy mô vốn trên 100 tỷ đồng, giảm 20,7%.
Bình quân một tháng có gần 10 nghìn doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường.

Số doanh nghiệp thành lập mới trong năm 2022 đạt 148,5 nghìn doanh nghiệp, tăng 27,1% so với năm
trước; vốn đăng ký đạt 1.590,9 nghìn tỷ đồng, giảm 1,3%. Vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp
thành lập mới trong năm 2022 đạt 10,7 tỷ đồng, giảm 22,3% so với năm trước. Nếu tính cả 3.172,7
nghìn tỷ đồng vốn đăng ký tăng thêm của 50,4 nghìn doanh nghiệp tăng vốn, tổng số vốn đăng ký bổ
sung vào nền kinh tế trong 2022 là 4.763,5 nghìn tỷ đồng, tăng 15,2% so với năm trước. Bên cạnh đó,
còn có 59,8 nghìn doanh nghiệp quay trở lại hoạt động (tăng 38,8% so với năm 2021), nâng tổng số
doanh nghiệp thành lập mới và doanh nghiệp quay trở lại hoạt động năm 2022 lên gần 208,3 nghìn
doanh nghiệp, tăng 30,3% so với năm trước. Bình quân một tháng có 17,4 nghìn doanh nghiệp thành
lập mới và quay trở lại hoạt động.

Năm 2022, số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn là 73,8 nghìn doanh nghiệp, tăng 34,3%
so với năm trước; gần 50,8 nghìn doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể, tăng 5,5%;
18,6 nghìn doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, tăng 11,2%. Bình quân một tháng có 11,9 nghìn
doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường.

Trong 9 tháng năm 2023, dù gặp rất nhiều khó khăn, nhưng vẫn có trên 165 nghìn doanh nghiệp thành
lập mới và quay trở lại hoạt động, trong đó đa số là doanh nghiệp thành lập mới (trên 116 nghìn doanh
nghiệp). Đặc biệt, số doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động (165,2 nghìn doanh nghiệp)
vẫn lớn hơn số doanh nghiệp tạm ngừng và rút lui khỏi thị trường (135,1 nghìn doanh nghiệp), cho thấy
lực lượng doanh nghiệp vẫn tiếp tục tăng trưởng, là một kết quả đáng ghi nhận khi đặt trong bối cảnh
quốc tế, trong nước có rất nhiều khó khăn, biến động.

You might also like