Professional Documents
Culture Documents
Chương 5 Luật ngoại giao và lãnh sự đã sửa chi tiết lần cuối
Chương 5 Luật ngoại giao và lãnh sự đã sửa chi tiết lần cuối
Chương 5 Luật ngoại giao và lãnh sự đã sửa chi tiết lần cuối
c. Đối với các thành viên khác trong cơ quan lãnh sự (tham khảo)
Quyền ưu đãi dành cho nhân viên hành chính kỹ thuật, nhân viên phục vụ và những
người phục vụ riêng của thành viên cơ quan lãnh sự cũng được quy định tương tự như
đối với các nhân viên này trong cơ quan đại diện ngoại giao, với điều kiện những
người này không được thực hiện các hoạt động nghề nghiệp hoặc thương mại để tự
kiếm lợi ở nước tiếp nhận (Điều 57)
Theo quy định của Việt Nam tại Chương III (Từ Điều 21 đến Điều 38), Pháp lệnh về
quyền ưu đãi và miễn trừ dành cho cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự…
năm 1993, viên chức lãnh sự, nhân viên hành chính kỹ thuật và nhân viên phục vụ
trong cơ quan lãnh sự của nước ngoài tại Việt Nam cũng được hưởng các quyền ưu
đãi và miễn trừ tương tự như trong Công ước Vienna 1963.
3.8.4 Thời điểm hưởng, thời điểm kết thúc và vấn đề từ bỏ quyền ưu đãi và miễn trừ
lãnh sự
- Thời điểm hưởng
Mỗi thành viên của cơ quan lãnh sự đều được hưởng quyền ưu đãi và miễn trừ
kể từ khi họ đặt chân lên lãnh thổ nước tiếp nhận lãnh sự để nhậm chức. Nếu họ đã ở
trên lãnh thổ nước đó thì kể từ khi bắt đầu nhận chức ở cơ quan lãnh sự. (Khoản 1,
Điều 53)
- Thời điểm kết thúc
Khi một thành viên của cơ quan lãnh sự thôi công tác thì quyền ưu đãi và miễn
trừ của người đó và của các thành viên gia đình cùng sống trong hộ với họ, các nhân
viên phục vụ riêng của họ thông thường là chấm dứt kể từ ngày đương sự rời khỏi
lãnh thổ nước tiếp nhận hoặc ngày cuối cùng của một thời hạn hợp lý để rời khỏi nước
đó, ngay cả trong trường hợp có xung đột vũ trang (Khoản 3, Điều 53)
- Vấn đề từ bỏ quyền ưu đãi và miễn trừ
Thẩm quyền từ bỏ quyền các quyền ưu đãi và miễn trừ dành cho các thành viên
của cơ quan lãnh sự thuộc về nước cử lãnh sự. Việc từ bỏ đó phải được thể hiện rõ
ràng bằng văn bản và gửi cho nước tiếp nhận lãnh sự.
Khi một viên chức lãnh sự hoặc nhân viên lãnh sự đứng ra khởi kiện về một
vấn đề mà người đó có thể được hưởng quyền miễn trừ tài phán thì họ sẽ không được
hưởng quyền miễn trừ nữa đối với mọi sự phản tố liên quan trực tiếp đến đơn khởi tố.
Việc từ bỏ quyền miễn trừ tài phán về một vụ tố tụng dân sự hay hành chính
không được coi như bao hàm cả việc từ bỏ quyền miễn trừ đối với các biện pháp thi
hành án, đối với những biện pháp đó cần có sự từ bỏ quyền miễn trừ riêng. (Điều 45)
4. PHÁI ĐOÀN ĐẠI DIỆN CỦA CÁC QUỐC GIA TẠI CÁC TỔ CHỨC QUỐC TẾ,
PHÁI ĐOÀN ĐẠI DIỆN CỦA TỔ CHỨC QUỐC TẾ TẠI CÁC QUỐC GIA. (tham
khảo thêm)
4.1 Phái đoàn đại diện của các quốc gia tại các tổ chức quốc tế
4.1.1 Khái niệm
Hiện nay, số lượng các tổ chức quốc tế ngày càng nhiều, hoạt động ngoại giao của các
phái đoàn đại diện ngoại giao của quốc gia tại các tổ chức quốc tế càng trở nên quan
trọng trong quan hệ quốc tế.
Về địa vị pháp lý, phái đoàn đại diện ngoại giao của các quốc gia tại các tổ chức quốc
tế đều là những cơ quan đại diện của quốc gia có chủ quyền, được nhà nước lập ra để
đại diện cho quốc gia đó tại các tổ chức hay hội nghị quốc tế.
Phái đoàn đại diện ngoại giao của các quốc gia tại các tổ chức quốc tế bao gồm phái
đoàn đại diện thường trú và phái đoàn quan sát viên thường trú, các đoàn đại biểu lâm
thời của các nước đi dự hội nghị quốc tế hay các cuộc họp quốc tế do các tổ chức quốc
tế triệu tập (kể cả đoàn đại biểu chính thức và đoàn đại biểu quan sát).
Theo quy định tại Điều 4, khoản 3 Luật Cơ quan đại diện Việt Nam năm 2009, phái
đoàn đại diện của Việt Nam tại các tổ chức quốc tế là “Phái đoàn thường trực, Phái
đoàn, Phái đoàn quan sát viên thường trực và cơ quan có tên gọi khác thực hiện chức
năng đại diện của Nhà nước Việt Nam tại tổ chức quốc tế liên chính phủ”.
Địa vị pháp lý, chức năng và chế độ ưu đãi, miễn trừ của phái đoàn đại diện ngoại
giao của các quốc gia tại các tổ chức quốc tế được quy định trong các điều ước quốc tế
như: Công ước chung về ưu đãi và miễn trừ của Liên Hợp Quốc năm 1946, Công ước
chung về ưu đãi và miễn trừ của các tổ chức chuyên môn của Liên Hợp Quốc năm
1947, Hiệp định giữa Liên Hợp Quốc với Mỹ năm 1947, Công ước Vienna về phái
đoàn đại diện của các quốc gia tại các tổ chức quốc tế phổ cập năm 1975.
4.1.2 Cơ sở thành lập
Phái đoàn đại diện thường trực của quốc gia tại các tổ chức quốc tế được thành
lập theo quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia, trên cơ sở quốc gia là
thành viên của tổ chức quốc tế đó. Tuy nhiên, nhiều trường hợp các quốc gia chưa là
thành viên của một tổ chức quốc tế nhưng vẫn cử phái đoàn quan sát viên thường trực
của mình tại tổ chức quốc tế , và về cơ bản, các phái đoàn này cũng được hưởng các
quyền ưu đãi và miễn trừ ngang bằng như phái đoàn của các quốc gia thành viên chính
thức.
Công ước Vienna 1975 về phái đoàn đại diện của các quốc gia tại các tổ chức
quốc tế phổ cập quy định các vấn đề như: việc đặt phái đoàn đại diện, chức năng,
nhiệm vụ, thành phần của phái đoàn thường trực, phái đoàn quan sát viên thường trực,
việc cử người đứng đầu và cán bộ, nhân viên của phái đoàn quyền ưu đãi và miễn trừ
của phái đoàn và các thành viên… Bên cạnh đó, pháp luật của các quốc gia thành viên
đã tiến hành nội luật hóa các quy định của công ước này, ghi nhận nội dung của nó
vào pháp luật quốc gia làm cơ sở pháp lý cho việc thành lập phái đoàn. Ví dụ theo
Điều 13, Luật Cơ quan đại diện của Việt Nam thì phái đoàn đại diện của Việt Nam tại
các tổ chức quốc tế được Chính phủ thành lập và do Bộ Ngoại giao chịu trách nhiệm
quản lý. Điều 20 quy định chủ tịch nước có thẩm quyền cử, triệu hồi người đứng đầu
cơ quan đại diện thường trực tại Liên Hợp Quốc và đại diện chủ tịch nước tại các tổ
chức quốc tế…
4.1.3 Chức năng
Theo Công ước Vienna 1975, phái đoàn đại diện của các quốc gia tại các tổ chức quốc
tế có các chức năng sau:
- Đại diện cho nhà nước mình tại tổ chức quốc tế
- Duy trì và phát triển mọi mối quan hệ giữa nhà nước mình với tổ chức quốc tế
- Tiến hành đàm phán trong khuôn khổ của các tổ chức quốc tế
- Tìm hiểu và báo cáo với chính phủ nước mình về hoạt động của tổ chức quốc tế
- Đảm bảo sự tham gia của nhà nước mình trong các hoạt động của tổ chức quốc
tế
- Bảo vệ quyền lợi của nhà nước mình trong quan hệ với tổ chức quốc tế
- Thúc đẩy sự phát triển hợp tác giữa các nước thành viên của tổ chức nhằm thực
hiện mục đích và tôn chỉ của tổ chức
4.1.4 Thành phần
Thành phần của phái đoàn đại diện thường trực về cơ bản giống như cơ quan đại diện
ngoại giao (Bao gồm người đứng đầu, các viên chức ngoại giao, nhân viên hành chính
- kỹ thuật, nhân viên phục vụ). Tuy nhiên, một điểm đặc biệt khi thành lập phái đoàn
đại diện của quốc gia tại các tổ chức quốc tế là: việc bổ nhiệm trưởng phái đoàn đại
diện của quốc gia không đòi hỏi phải có sự chấp thuận của tổ chức quốc tế và nước
chủ nhà, nơi có trụ sở của phái đoàn. Nước chủ nhà không có quyền đơn phương
tuyên bố bất tín nhiệm (Persona non grata) đối với thành viên của phái đoàn đại diện .
Đồng thời, các nước có thể cử phái đoàn đại diện của quốc gia mình tại tổ chức quốc
tế với tư cách là cơ quan độc lập hoặc cơ quan kiêm nhiệm. Ví dụ, người đứng đầu
pháp đoàn đại diện ngoại giao của quốc gia tại Liên Hợp quốc có thể đồng thời là đại
sứ đặc mệnh toàn quyền của quốc gia đó tại Hoa Kỳ, hoặc như phái đoàn đại diện
thường trực của Việt Nam tại Liên hợp quốc ở Geneva cũng kiêm luôn là phái đoàn
đại diện tại WTO và các tổ chức quốc tế khác tại thành phố này …
4.1.5 Quyền ưu đãi và miễn trừ
Về cơ bản, phái đoàn đại diện thưởng trực của quốc gia tại các tổ chức quốc tế cũng
như thành viên của phái đoàn được hưởng các quyền ưu đãi và miễn trừ tương tự như
các cơ quan đại diện ngoại giao và thành viên của cơ quan đó. Tuy nhiên, các quyền
ưu đãi và miễn trừ này cũng có những đặc điểm riêng nhất định:
Thứ nhất, các quyền ưu đãi và miễn trừ của phái đoàn đại diện thường trực của quốc
gia tại các tổ chức quốc tế và thành viên phái đoàn được ghi nhận trong điều lệ hoặc
hiến chương của tổ chức, trong các điều ước quốc tế song phương và đa phương giữa
tổ chức quốc tế với nước chủ nhà. Các quyền ưu đãi và miễn trừ này do tổ chức quốc
tế dành cho phái đoàn đại diện của các quốc gia và thành viên của phái đoàn, thông
qua thoả thuận với nước chủ nhà, không phụ thuộc vào quan hệ của nước chủ nhà với
các nước thành viên của các tổ chức quốc tế.
Thứ hai, không áp dụng nguyên tắc có đi có lại trong quan hệ giữa nước có phái đoàn
đại diện thường trực và nước chủ nhà. Như trên đã phân tích, điều này bởi vì mối quan
hệ giữa tổ chức quốc tế liên chính phủ với các nước thành viên độc lập so với mối
quan hệ giữa nước thành viên đó với nước chủ nhà nơi đặt tổ chức.
4.2 Phái đoàn đại diện của tổ chức quốc tế tại các quốc gia
- Khái niệm
Tổ chức quốc tế liên chính phủ là thực thể liên kết chủ yếu giữa các quốc gia
độc lập, có chủ quyền, được thành lập trên cơ sở điều ước quốc tế, phù hợp với luật
quốc tê hiện đại, có quyền năng chủ thể riêng biệt và một hệ thống cơ cấu tổ chức phù
hợp để thực hiện quyền năng đó theo đúng mục đích, tôn chỉ của tổ chức .
Trong quá trình thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình, tổ chức quốc tế liên
chính phủ có thể đặt trụ sở, hoặc cử các đoàn đại diện của mình tại lãnh thổ của các
quốc gia. Ví dụ Liên hợp quốc đặt trụ sở chính tại NewYork, Mỹ và rất nhiều văn
phòng đại diện của mình hoặc của các tổ chức chuyên môn của mình ở các nước ;
hoặc trụ sở của Tòa án công lý Châu Âu đăt tại Luxembourg. Như vậy, phái đoàn đại
diện của tổ chức quốc tế chính là cơ quan đại diện của tổ chức quốc tế liên chính phủ
đặt tại lãnh thổ của các quốc gia để thực hiện mối quan hệ với quốc gia sở tại hoặc với
các quốc gia khác về lĩnh vực phù hợp với quyền năng chủ thể riêng biệt của tổ chức
đó.
- Cơ sở thành lập
Các cơ quan của tổ chức quốc tế đặt tại lãnh thổ các quốc gia được thành lập
trên cơ sở hiến chương, điều lệ của tổ chức và thỏa thuận giữa tổ chức đó với nước
chủ nhà, thông qua một điều ước quốc tế được ký kết giữa các bên. Ví dụ Liên Hợp
Quốc ký hiệp định về trụ sở của Liên Hợp Quốc với Hoa Kỳ ngày 26/6/1947.
- Chức năng
Chức năng của phái đoàn đại diện của tổ chức quốc tế tại quốc gia phụ thuộc
vào quyền năng chủ thế của tổ chức đó, do chính các quốc gia thành viên thỏa thuận
trao cho nó. Mỗi tổ chức quốc tế đều có quyền năng chủ thể riêng biệt, nên hoạt động
của tổ chức này cũng như các phái đoàn đại diện của tổ chức phải ở trong phạm vi
thẩm quyền riêng biệt đó. Ví dụ tổ chức Y tế thế giới (WHO) được thành trao thẩm
quyền trong việc điều phối các vấn đề sức khỏe và y tế cộng đồng trên bình diện quốc
tế, nên hoạt động của cơ quan này cũng như văn phòng đại diện của cơ quan này trên
lãnh thổ các quốc gia không được vượt quá thẩm quyền trên.
- Quyền ưu đãi và miễn trừ
Quyền ưu đãi và miễn trừ dành cho phái đoàn đại diện của các tổ chức quốc tế
tại lãnh thổ của các quốc gia nói chung được xác định dựa trên điều ước quốc tế và
các thỏa thuận có liên quan giữa tổ chức đó với quốc gia chủ nhà . Đối với Liên Hợp
Quốc và các tổ chức chuyên môn của Liên Hợp Quốc sẽ áp dụng Công ước năm 1946
về quyền ưu đãi và miễn trừ của Liên Hợp Quốc và Công ước năm 1947 về quyền ưu
đãi và miễn trừ của các tổ chức chuyên môn của Liên Hợp Quốc. Hai công ước này
quy định các quyền ưu đãi và miễn trừ dành cho các đối tượng trên về cơ bản gần
giống như quyền ưu đãi và miễn trừ dành cho cơ quan đại diện ngoại giao và thành
viên của cơ quan này.
Tóm lại, mối quan hệ giữa phái đoàn đại diện của quốc gia với các tổ chức quốc tế và
phái đoàn đại diện của tổ chức quốc tế với các quốc gia đều do hiến chương, điều lệ
hoặc điều ước quốc tế được ký kết tổ chức đó với nước chủ nhà quy định. Trong bối
cảnh toàn cầu hóa hiện nay, với vai trò không thể thiếu của các tổ chức quốc tế liên
chính phủ trong sự nghiệp bảo vệ hòa bình và an ninh quốc tế, thúc đẩy việc tôn trọng
và thực hiện quyền con người, xây dựng xã hội loài người ngày càng tiến bộ, văn
minh… sự tồn tại của các điều ước quốc tế song phương và đa phương đó là cơ sở
pháp lý quan trọng cho việc thiết lập, tổ chức và hoạt động của các cơ quan nói trên,
tạo điều kiện cho sự gắn kết và hợp tác không thể thiếu trong mối quan hệ giữa các
quốc gia để cùng giải quyết các vấn đề chung của nhân loại.