Chương 5 Luật ngoại giao và lãnh sự đã sửa chi tiết lần cuối

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 32

Chương VII

Luật ngoại giao và lãnh sự

1. Khái quát về luật ngoại giao và lãnh sự


1.1. Khái niệm luật ngoại giao và lãnh sự
Luật ngoại giao, lãnh sự được hiểu là tổng thể các nguyên tắc và quy phạm pháp luật
quốc tế điều chỉnh việc thiết lập, tổ chức và thực hiện quan hệ ngoại giao, lãnh sự
giữa các quốc gia và các chủ thể khác của luật quốc tế. Đồng thời, điều chỉnh các vấn
đề về quyền ưu đãi, miễn trừ của cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự, phái
đoàn đại diện thường trực của quốc gia tại các tổ chức quốc tế liên chính phủ, tổ
chức quốc tế liên chính phủ và thành viên của các cơ quan này.
1.2. Nguồn của luật ngoại giao lãnh sự
Với tính chất là một ngành luật độc lập của hệ thống pháp luật quốc tế, vì vậy
nguồn của luật ngoại giao và lãnh sự cũng chính là hình thức biểu hiện sự tồn tại của
các nguyên tắc và quy phạm pháp luật quốc tế điều chỉnh quan hệ ngoại giao và lãnh
sự giữa các quốc gia và các chủ thể khác của luật quốc tế, do chính các chủ thể luật
quốc tế thỏa thuận xây dựng nên dưới dạng các điều ước quốc tế hoặc thừa nhận các
tập quán quốc tế.
- Công ước về quyền ưu đãi miễn trừ của Liên Hợp Quốc năm 1946;
- Công ước về quyền ưu đãi và miễn trừ của các tổ chức chuyên môn Liên Hợp
Quốc năm 1947;
- Công ước Vienna về quan hệ ngoại giao năm 1961;
- Công ước Vienna về quan hệ lãnh sự năm 1963;
- Công ước Vienna về phái đoàn đặc biệt năm 1969;
- Công ước Vienna về ngăn ngừa và trừng trị các tội phạm chống những cá nhân
được hưởng sự bảo hộ quốc tế năm 1977;
- Công ước Vienna về cơ quan đại diện của quốc gia tại các tổ chức quốc tế phổ
cập năm 1975;
- Công ước về quy chế pháp lý, các quyền ưu đãi và miễn trừ của các tổ chức
quốc tế liên chính phủ năm 1980.
Trong các điều ước quốc tế nói trên, Công ước Vienna 1961 về quan hệ ngoại giao
và Công ước Vienna 1963 về quan hệ lãnh sự là hai công ước phổ cập nhất, quan
trọng nhất.
Ngoài ra, các quy phạm pháp luật ngoại giao và lãnh sự còn được chứa đựng trong các
điều ước quốc tế song phương giữa các quốc gia, các chủ thể khác của luật quốc tế với
nhau.
Việt Nam cũng đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật phù hợp với quy định
của luật quốc tế. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đã ký kết nhiều điều ước quốc tế với
nhiều quốc gia, tổ chức quốc tế liên chính phủ về quan hệ ngoại giao, lãnh sự .
Trong đó quan trọng cần lưu ý: Luật cơ quan đại diện NCHXHCNVN…2009
1.3. Các nguyên tắc của luật ngoại giao và lãnh sự
1.3.1. Nguyên tắc bình đẳng không phân biệt đối xử (đọc tham khảo)
Bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia là một trong các nguyên tắc cơ bản của luật
quốc tế hiện đại . Chính vì vậy, quan hệ ngoại giao, lãnh sự giữa các quốc gia cũng
phải được thiết lập và thực hiện trên cơ sở tự nguyện về ý chí và bình đẳng về chủ
quyền, không phân biệt đối xử giữa các quốc gia có chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa,
xã hội khác nhau.
Xuất phát từ nguyên tắc này, Công ước Vienna năm 1961 về quan hệ ngoại giao và
Công ước Vienna năm 1963 về quan hệ lãnh sự đã quy định:
1. Trong khi thi hành những điều khoản của các Công ước này, nước nhận đại diện
không được có sự phân biệt đối xử giữa các nước.
2. Tuy nhiên, không coi là phân biệt đối xử nếu:
a) Việc nước nhận đại diện áp dụng hạn chế một trong những điều khoản của Công
ước này vì lý do điều khoản ấy cũng đã áp dụng như vậy đối với đoàn ngoại giao (lãnh
sự) của nước đó tại nước cử đại diện.
b) Việc các nước cho nhau hưởng theo tập quán hoặc theo sự thỏa thuận với nhau, một
sự đối xử thuận lợi hơn những điều kiện của các Công ước này .
1.3.1. Nguyên tắc tôn trọng quyền ưu đãi, miễn trừ của cơ quan đại diện ngoại giao,
cơ quan lãnh sự và thành viên của các cơ quan này
Nội dung của nguyên tắc này đặt ra nghĩa vụ pháp lý cho nước nhận đại diện. Theo
đó, trong quan hệ với cơ quan ngoại giao, lãnh sự nước ngoài, nước nhận đại diện phải
tôn trọng tư cách đại diện chính thức cho nhà nước cử đại diện của các cơ quan này.
Đồng thời, nước nhận đại diện phải tôn trọng và cam kết dành cho cơ quan, thành viên
của cơ quan đại diện ngoại giao, lãnh sự được hưởng đầy đủ quyền ưu đãi và miễn trừ
theo đúng quy định của Công ước Vienna 1961 về quan hệ ngoại giao, Công ước
Vienna năm 1963 về quan hệ lãnh sự hoặc theo tập quán và thông lệ quốc tế trong lĩnh
vực ngoại giao, lãnh sự.
Bên cạnh việc tôn trọng và cam kết dành các quyền ưu đãi, miễn trừ cho cơ quan và
thành viên của cơ quan đại diện ngoại giao, lãnh sự nước ngoài, nước nhận đại diện
còn phải tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất trong điều kiện, khả năng có thể để cơ quan
và thành viên của các cơ quan này được hưởng một cách tốt nhất, đầy đủ nhất các
quyền ưu đãi và miễn trừ theo quy định của điều ước quốc tế, tập quán quốc tế đã
được các quốc gia hữu quan thừa nhận .
1.3.2. Nguyên tắc tôn trọng pháp luật và phong tục tập quán của nước nhận đại diện
Nguyên tắc này đặt ra nghĩa vụ pháp lý cho các cơ quan và thành viên của cơ quan
ngoại giao, lãnh sự khi đại diện cho nhà nước của mình thực hiện chức năng ngoại
giao, lãnh sự trên lãnh thổ nước nhận đại diện. Theo đó, cùng với việc được hưởng các
quyền ưu đãi, miễn trừ khi thực hiện chức năng ngoại giao, lãnh sự thì các cơ quan và
thành viên của các cơ quan ngoại giao, lãnh sự phải có nghĩa vụ tuân thủ, tôn trọng
pháp luật cũng như phong tục, tập quán của nước nhận đại diện.
Tinh thần của nguyên tắc này đã được khẳng định trong Công ước Vienna năm 1961
về quan hệ ngoại giao và Công ước Vienna năm 1963 về quan hệ lãnh sự rằng: Tất cả
những người được hưởng những quyền ưu đãi và quyền miễn trừ có nhiệm vụ phải tôn
trọng luật lệ của nước nhận đại diện, điều này không làm tổn hại gì đến những quyền
ưu đãi và miễn trừ đó .
1.3.3. Nguyên tắc không lạm dụng quyền ưu đãi và miễn trừ ngoại giao, lãnh sự
Theo nguyên tắc này, cơ quan và thành viên của cơ quan đại diện ngoại giao, lãnh sự
không được lạm dụng các quyền ưu đãi, miễn trừ để thực hiện những công việc không
phù hợp với chức năng của cơ quan, của thành viên cơ quan đại diện ngoại giao, cơ
quan lãnh sự. Nguyên tắc này được thể hiện ở một số nội dung sau:
- Không được dùng trụ sở của cơ quan đạif diện ngoại giao, lãnh sự vào những mục
đích trái với mục đích, chức năng của cơ quan đại diện ngoại giao, lãnh sự đã được
quy định trong công ước hoặc trong các quy phạm khác của công pháp quốc tế hoặc
trong những điều ước riêng hiện hành giữa nước cử đại diện và nước nhận đại diện .
- Thành viên của cơ quan ngoại giao, lãnh sự không được can thiệp vào công
việc nội bộ của nước sở tại .
- Viên chức ngoại giao và viên chức lãnh sự chuyên nghiệp không được hoạt
động nghề nghiệp hoặc thương mại ở nước nhận đại diện để kiếm lợi riêng .
- Không được mang vào hoặc mang ra khỏi lãnh thổ nước nhận đại diện những
vật phẩm mà việc xuất khẩu hoặc nhập khẩu bị luật pháp nước nhận đại diện ngăn
cấm .
- Không được đi vào khu vực nước sở tại cấm đi lại hoặc vì lý do an ninh quốc
gia cũng như không được lắp đặt và sử dụng máy phát tin bằng vô tuyến điện nếu
không được nước nhận đại diện chấp nhận .
- Viên chức ngoại giao và viên chức lãnh sự không được hoạt động bất hợp
pháp, trái với luật pháp quốc tế và pháp luật nước sở tại…
1.3.4. Nguyên tắc thỏa thuận
Xuất phát từ nguyên tắc bình đẳng không phân biệt đối xử, trong việc thiết lập và thực
hiện quan hệ ngoại giao, lãnh sự, nguyên tắc thỏa thuận được các quốc gia tôn trọng
và áp dụng một cách triệt để nhất. Theo nguyên tắc này, quốc gia cử đại diện và quốc
gia nhận đại diện đều phải thông qua trao đổi, thỏa thuận bình đẳng để đi đến sự thống
nhất trong các quyết định cuối cùng, ví dụ như trong một số vấn đề cơ bản sau đây:
- Trong việc thiết lập quan hệ ngoại giao, lãnh sự, xác định cấp ngoại giao, lãnh sự,
đặt trụ sở, số lượng thành viên của cơ quan đại diện ngoại giao, lãnh sự, hoạt động
ngoại giao của viên chức lãnh sự .
- Trong việc bổ nhiệm người đứng đầu cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự,
việc để một cơ quan ngoại giao, lãnh sự kiêm nhiệm nhiều nước, việc nhiều nước
cùng bổ nhiệm một viên chức ngoại giao, lãnh sự làm người đứng đầu cơ quan đại
diện hoặc cùng làm đại diện cho nhiều quốc gia tại một nước, việc bổ nhiệm viên chức
ngoại giao, lãnh sự là công dân của nước sở tại hoặc công dân nước thứ ba, việc thực
hiện chức năng lãnh sự ngoài khu vực lãnh sự .
- Các quốc gia thỏa thuận trên cơ sở có đi có lại cho cơ quan đại diện ngoại giao,
cơ quan lãnh sự và nhân viên của các cơ quan này được hưởng các quyền ưu đãi, miễn
trừ một cách thuận lợi hơn so với yêu cầu của công ước liên quan …
1.4. Hệ thống cơ quan quan hệ đối ngoại của nhà nước
Các cơ quan quan hệ đối ngoại của nhà nước là các cơ quan do nhà nước thành lập ra,
đại diện cho nhà nước trong quan hệ đối ngoại và thi hành chính sách đối ngoại của
nhà nước đó. Dựa vào thẩm quyền, phạm vi hoạt động của các cơ quan này trong việc
thiết lập và thực hiện quan hệ đối ngoại của nhà nước, có thể chia các cơ quan quan hệ
đối ngoại ra hai nhóm là cơ quan quan hệ đối ngoại của nhà nước ở trong nước và cơ
quan quan hệ đối ngoại của nhà nước ở nước ngoài.
1.4.1. Cơ quan quan hệ đối ngoại của nhà nước ở trong nước (tham khảo)
Cơ quan quan hệ đối ngoại của nhà nước ở trong nước là những cơ quan do nhà nước
thành lập có trụ sở ở trong nước, đại diện cho nhà nước để thực hiện chức năng đối
ngoại với các quốc gia và các chủ thể khác của luật quốc tế.
Căn cứ vào thẩm quyền và phạm vi hoạt động của chúng, cơ quan quan hệ đối ngoại
của nhà nước ở trong nước được chia thành hai loại là cơ quan quan hệ đối ngoại có
thẩm quyền chung và cơ quan quan hệ đối ngoại có thẩm quyền chuyên môn.
1.4.1.1. Cơ quan có thẩm quyền chung
Cơ quan quan hệ đối ngoại có thẩm quyền chung là cơ quan nhà nước có chức năng
thực hiện quan hệ đối ngoại với các quốc gia và các chủ thể khác của luật quốc tế ở
tầm vĩ mô, đại diện cho quốc gia trong quan hệ quốc tế, gồm: Nguyên thủ quốc gia;
Quốc hội; Chính phủ, người đứng đầu Chính phủ; Bộ ngoại giao và Bộ trưởng Bộ
ngoại giao.
1.4.1.2. Cơ quan có thẩm quyền chuyên môn
Các cơ quan có thẩm quyền chuyên môn chỉ tham gia vào các hoạt động đối ngoại
trong từng lĩnh vực nhất định của nhà nước phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn của từng cơ quan. Ví dụ:
- Ủy ban UNESCO của Việt Nam, tham gia vào các hoạt động đối ngoại về văn hóa,
khoa học, giáo dục;
- Ủy ban ASEAN, điều phối hoạt động đối ngoại của Việt Nam với các nước thành
viên ASEAN khác;
- Ủy ban kinh tế đối ngoại, thực hiện hoạt động đối ngoại về kinh tế;
- Các bộ và các cơ quan ngang bộ, thực hiện chức năng đối ngoại với các đối tác nước
ngoài trong lĩnh vực mà Bộ, cơ quan ngang bộ có thẩm quyền...
1.4.2. Cơ quan quan hệ đối ngoại của nhà nước ở nước ngoài (quan trọng)
Cơ quan quan hệ đối ngoại của nhà nước ở nước ngoài là những cơ quan được nhà
nước thành lập và hoạt động ở nước ngoài để thực hiện các hoạt động đối ngoại của
nhà nước dựa trên sự thỏa thuận giữa các quốc gia hữu quan hoặc giữa quốc gia với
các tổ chức quốc tế liên chính phủ hoặc với các chủ thể khác của luật quốc tế.
Các cơ quan này được chia thành hai nhóm: cơ quan thường trực và cơ quan lâm thời.
1.4.2.1. Cơ quan thường trực (quan trọng)
Cơ quan thường trực là cơ quan quan hệ đối ngoại được nhà nước thành lập và hoạt
động thường trực ở nước ngoài gồm:
- Cơ quan đại diện ngoại giao (Đại sứ quán, Công sứ quán, Đại biện quán);
- Cơ quan lãnh sự (Tổng lãnh sự quán, Lãnh sự quán, Phó lãnh sự quán và Đại lý lãnh
sự quán);
- Phái đoàn đại diện thường trực của quốc gia tại các tổ chức quốc tế liên chính phủ .
Các cơ quan nói trên được gọi là các cơ quan thường trực vì các cơ quan này có trụ sở
cố định ở nước ngoài, cán bộ, nhân viên được bổ nhiệm và làm việc ổn định, lâu dài
theo nhiệm kỳ công tác phục vụ cho hoạt động đối ngoại của nhà nước.
1.4.2.2. Cơ quan lâm thời (tham khảo)
Cơ quan lâm thời là những cơ quan được thành lập tạm thời để thực hiện hoạt động
đối ngoại của nhà nước theo từng công vụ cụ thể. Khi các công vụ này được hoàn
thành thì cơ quan lâm thời sẽ chấm dứt sự tồn tại của nó. Chính vì vậy, cơ quan lâm
thời không có trụ sở cố định ở nước ngoài, cán bộ, nhân viên tham gia các cơ quan
lâm thời theo sự triệu tập, chỉ định hay điều động công tác tùy thuộc vào nội dung,
tính chất của từng công vụ đối ngoại cụ thể.
Cơ quan lâm thời có thể là các phái đoàn đại diện của Đảng, Nhà nước, Chính phủ
tham dự các hội nghị quốc tế; đàm phán ký kết điều ước quốc tế; đi thăm hữu nghị các
nước; tham dự các ngày lễ long trọng ở nước có quan hệ đối ngoại; phái đoàn đại diện
đặc biệt (adhoc)…
2. Cơ quan đại diện ngoại giao (quan trọng)
2.1. Khái niệm và phân loại cơ quan đại diện ngoại giao
Cơ quan đại diện ngoại giao là cơ quan do nhà nước thành lập theo sự thỏa thuận giữa
các quốc gia hữu quan, để thực hiện quan hệ ngoại giao với quốc gia sở tại cũng như
với các cơ quan đại diện ngoại giao của các quốc gia khác cùng đóng trên lãnh thổ
nước sở tại.
Cơ quan đại diện ngoại giao là cơ quan đại diện, thay mặt nhà nước, nhân danh nhà
nước để thực hiện quan hệ ngoại giao trên tất cả các lĩnh vực với nước sở tại.
Căn cứ vào mức độ của quan hệ và sự thỏa thuận giữa các quốc gia hữu quan, cơ quan
đại diện ngoại giao được chia thành ba loại:
- Đại sứ quán: Là cơ quan đại diện ngoại giao cao nhất của quốc gia ở nước ngoài. Đại
sứ quán là cơ quan đại diện cho nhà nước một cách toàn diện và đầy đủ nhất. Người
đứng đầu cơ quan Đại sứ quán là Đại sứ đặc mệnh toàn quyền do Nguyên thủ quốc gia
hoặc Giáo hoàng bổ nhiệm.
- Công sứ quán: Là cơ quan đại diện ngoại giao ở mức thấp hơn Đại sứ quán. Người
đứng đầu cơ quan Công sứ quán là Công sứ đặc mệnh toàn quyền do Nguyên thủ quốc
gia hoặc Giáo hoàng bổ nhiệm.
- Đại biện quán: Là cơ quan đại diện ngoại giao ở mức thấp nhất trong quan hệ ngoại
giao giữa hai quốc gia. Người đứng đầu cơ quan Đại biện quán là Đại biện do Bộ
trưởng Bộ ngoại giao bổ nhiệm.
Trên thực tế hiện nay, khi thiết lập quan hệ ngoại giao, các quốc gia thường thỏa thuận
thành lập cơ quan Đại sứ quán còn cơ quan Công sứ quán và cơ quan Đại biện quán
rất ít được thành lập.
Lưu ý: Trong thực tiễn chúng ta còn bắt gặp thuật ngữ “đại biện lâm thời”. Đại biện
lâm thời là người được chỉ định thi hành nhiệm vụ của người đứng đầu cơ quan đại
diện ngoại giao (Đại sứ đặc mệnh toàn quyền, Công sứ đặc mệnh toàn quyền hoặc Đại
biện) trong trường hợp chức vụ người đứng đầu cơ quan đại diện bị khuyết hoặc
người đứng đầu cơ quan đại diện không thể thực hiện được chức năng của mình. Đại
biện lâm thời sẽ do người đứng đầu cơ quan đại diện ngoại giao cử hoặc trong trường
hợp người đứng đầu cơ quan đại diện ngoại giao không làm được việc đó thì sẽ do Bộ
ngoại giao nước cử thông báo cho Bộ ngoại giao nước nhận đại diện hoặc một bộ nào
khác như đã thỏa thuận . Người được chỉ định làm Đại biện lâm thời thường là viên
chức ngoại giao có hàm cao nhất trong số các viên chức ngoại giao còn lại của cơ
quan đại diện ngoại giao . Đại biện lâm thời được hưởng mọi quyền ưu đãi, miễn trừ
ngoại giao dành cho người đứng đầu cơ quan đại diện ngoại giao trừ một số ưu đãi về
lễ tân.
Theo Luật cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài
năm 2009, cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài
là cơ quan đại diện thực hiện chức năng đại diện chính thức của nhà nước Việt Nam
trong quan hệ với quốc gia, vùng lãnh thổ, tổ chức quốc tế tiếp nhận và thống nhất
quản lý hoạt động đối ngoại ; cơ quan đại diện bao gồm cơ quan đại diện ngoại giao,
cơ quan đại diện lãnh sự, cơ quan đại diện tại tổ chức quốc tế ; cơ quan đại diện được
hưởng đầy đủ quyền ưu đãi, miễn trừ phù hợp với pháp luật quốc tế .
Cơ quan đại diện ngoại giao của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là cơ quan Đại
sứ quán và người đứng đầu cơ quan đại diện ngoại giao là Đại sứ đặc mệnh toàn
quyền hoặc Đại biện trong trường hợp chưa cử Đại sứ đặc mệnh toàn quyền .
2.2. Chức năng của cơ quan đại diện ngoại giao
Chức năng của cơ quan đại diện ngoại giao là các phương diện hoạt động chủ yếu của
cơ quan đại diện ngoại giao được quy định trong các điều ước quốc tế và pháp luật
quốc gia.
Trong luật quốc tế, theo Công ước Vienna năm 1961 về quan hệ ngoại giao, cơ quan
đại diện ngoại giao có các chức năng chính sau đây :
- Thay mặt cho nước cử đại diện tại nước nhận đại diện;
- Bảo vệ quyền lợi của nước cử đại diện và của những người thuộc quốc tịch nước đó
tại nước nhận đại diện, trong phạm vi được luật quốc tế thừa nhận;
- Đàm phán với Chính phủ nước nhận đại diện;
- Tìm hiểu bằng những phương tiện hợp pháp điều kiện và sự tiến triển của tình hình
nước nhận đại diện vào báo cáo tình hình đó cho Chính phủ nước cử đại diện;
- Đẩy mạnh những quan hệ hữu nghị và phát triển những quan hệ kinh tế, văn hóa và
khoa học giữa nước cử đại diện và nước nhận đại diện.
Ngoài các chức năng nêu trên, cơ quan đại diện ngoại giao có thể thực hiện cả chức
năng lãnh sự . Về vấn đề này, Khoản 2 Điều 3 Công ước Vienna 1961 về quan hệ
ngoại giao đã quy định: “Không một điều khoản nào trong Công ước có thể được giải
thích như là cố ý ngăn cấm một đoàn ngoại giao thực hiện chức năng lãnh sự”.
Theo Luật cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài
năm 2009, chức năng của cơ quan đại diện ngoại giao được cụ thể hóa thông qua quy
định về nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan đại diện tại Chương II như sau:
- Thúc đẩy quan hệ chính trị- xã hội, quốc phòng-an ninh, cụ thể:
+ Tổng hợp, đánh giá và cung cấp thông tin cho cơ quan có thẩm quyền về tình hình
chính trị-xã hội, quốc phòng-an ninh của quốc gia, tổ chức quốc tế tiếp nhận;
+ Kiến nghị cơ quan có thẩm quyền về biện pháp cần thiết để thúc đẩy sự phát triển
quan hệ chính trị-xã hội, quốc phòng-an ninh giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam và quốc gia, tổ chức quốc tế tiếp nhận.
+ Thiếp lập, duy trì và phát triển quan hệ giữa cơ quan đại diện với cơ quan, tổ chức
và cá nhân tại quốc gia, tổ chức quốc tế tiếp nhận; tạo điều kiện thuận lợi cho việc tổ
chức thực hiện chính sách đối ngoại trong quan hệ với quốc gia, tổ chức quốc tế tiếp
nhận .
- Phục vụ phát triển kinh tế đất nước, cụ thể:
+ Nghiên cứu chiến lược, chính sách, pháp luật, xu hướng phát triển kinh tế, thương
mại, đầu tư, viện trợ phát triển khoa học-công nghệ, bảo vệ môi trường, giáo dục-đào
tạo, du lịch, hợp tác sử dụng nguồn nhân lực và các vấn đề liên quan khác của quốc
gia, tổ chức quốc tế tiếp nhận; báo cáo cơ quan có thẩm quyền về chủ trương, quyết
sách có ý nghĩa chiến lược của quốc gia, tổ chức quốc tế tiếp nhận có tác động đến
nền kinh tế Việt Nam.
+ Cung cấp thông tin, giới thiệu tình hình, khả năng và nhu cầu hợp tác giữa doanh
nghiệp Việt Nam và doanh nghiệp của quốc gia tiếp nhận.
+ Kiến nghị cơ quan có thẩm quyền về chính sách, biện pháp thích hợp và tổ chức
thực hiện nhằm phát triển quan hệ kinh tế giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam và quốc gia, tổ chức quốc tế tiếp nhận.
+ Tham gia xúc tiến, thúc đẩy hợp tác thương mại, đầu tư; vận động tranh thủ viện trợ
và quảng bá về du lịch Việt Nam tại quốc gia, tổ chức quốc tế tiếp nhận; thúc đẩy hợp
tác khoa học-công nghệ giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và quốc gia
tiếp nhận; xúc tiến phát triển thị trường lao động ngoài nước; hỗ trợ xác minh thông
tin liên quan đến hoạt động kinh tế và tư cách pháp nhân của doanh nghiệp tại quốc
gia tiếp nhận khi có yêu cầu .
- Thúc đẩy quan hệ văn hóa, cụ thể:
+ Tổng hợp, đánh giá và cung cấp thông tin cho cơ quan có thẩm quyền về kinh
nghiệm xây dựng và phát triển văn hóa của quốc gia, tổ chức quốc tế tiếp nhận.
+ Kiến nghị biện pháp thúc đẩy hợp tác văn hóa giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam và quốc gia, tổ chức quốc tế tiếp nhận.
+ Tuyên truyền, quảng bá về lịch sử, văn hóa, hình ảnh đất nước, con người Việt Nam
tại quốc gia, tổ chức quốc tế tiếp nhận.
+ Giới thiệu với cơ quan, tổ chức và nhân dân Việt Nam về lịch sử, văn hóa, hình ảnh
đất nước, con người của quốc gia tiếp nhận và hoạt động liên quan đến văn hóa của tổ
chức quốc tế tiếp nhận.
+ Hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi cho việc trao đổi đoàn và hoạt động giao lưu văn
hóa giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và quốc gia, tổ chức quốc tế tiếp
nhận.
+ Tổ chức hoặc tham gia tổ chức hoạt động, sự kiện văn hóa Việt Nam tại quốc gia, tổ
chức quốc tế tiếp nhận.
2.3. Cấp, hàm và chức vụ ngoại giao
2.3.1. Cấp ngoại giao
Cấp ngoại giao là cấp của người đứng đầu cơ quan đại diện ngoại giao. Cấp ngoại
giao được xác định theo thỏa thuận giữa quốc gia cử đại diện với quốc gia nhận đại
diện. Cấp của người đứng đầu cơ quan đại diện ngoại giao tương ứng với cấp của cơ
quan đại diện ngoại giao mà các nước đã thỏa thuận thiết lập.
Cấp ngoại giao do luật quốc tế quy định, theo Công ước Vienna năm 1961, người
đứng đầu của cơ quan đại diện ngoại giao được chia thành ba cấp:
- Cấp Đại sứ hoặc Đại sứ của Giáo hoàng, do nguyên thủ quốc gia hoặc Giáo hoàng
bổ nhiệm.
- Cấp Công sứ hoặc Công sứ của Giáo hoàng, do nguyên thủ quốc gia hoặc Giáo
hoàng bổ nhiệm.
- Cấp Đại biện do Bộ trưởng Bộ Ngoại giao bổ nhiệm.
Công ước quy định rằng, trừ những việc liên quan đến ngôi thứ và nghi thức, không
được có sự phân biệt nào giữa những người đứng đầu cơ quan đại diện vì cấp bậc của
họ .
2.3.2. Hàm ngoại giao
Hàm ngoại giao là chức danh do nhà nước phong cho công chức ngành ngoại giao để
thực hiện công tác đối ngoại ở trong nước và nước ngoài. Hàm ngoại giao do pháp
luật quốc gia quy định.
Thông thường, hàm ngoại giao gồm: hàm Đại sứ, hàm Công sứ, hàm Tham tán, hàm
Bí thư thứ nhất, hàm Bí thứ thứ hai, hàm Bí thư thứ ba và hàm Tùy viên.
Theo Pháp lệnh về hàm, cấp ngoại giao ngày 31/5/1995 của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, hệ thống cấp và hàm ngoại giao Việt Nam được quy định như sau:
- Cấp ngoại giao cao cấp có: hàm Đại sứ, hàm Công sứ, hàm Tham tán;
- Cấp ngoại giao trung cấp có: hàm Bí thư thứ nhất, hàm Bí thư thứ hai;
- Cấp ngoại giao sơ cấp có: hàm Bí thư thứ ba, Tùy viên.
Những đối tượng có thể được phong hàm ngoại giao là các công chức đang công tác
trong ngành ngoại giao có đủ các tiêu chuẩn về chính trị, đạo đức, chuyên môn,
nghiệp vụ ngoại giao và năng lực hoạt động trong lĩnh vực đối ngoại thì được xét
phong hàm ngoại giao và được xếp vào một cấp ngoại giao theo quy định của Pháp
lệnh này .
Lưu ý: Công chức thuộc cơ quan, tổ chức khác được điều động sang công tác tại
ngành ngoại giao, nếu có đủ tiêu chuẩn theo quy định của pháp lệnh này thì được xét
phong hàm ngoại giao. Người đã mang hàm ngoại giao đã được điều động sang cơ
quan, tổ chức khác, khi được điều động trở lại ngành ngoại giao thì được xét phong
hàm ngoại giao phù hợp với trình độ hiện có . Những người mang hàm ngoại giao khi
được điều động sang công tác tại cơ quan, tổ chức khác hoặc về hưu thì được giữ
nguyên hàm, cấp ngoại giao như một vinh dự của ngành ngoại giao . Người mang
hàm ngoại giao nào được giữ hàm ngoại giao đó khi được cử đi công tác ở nước ngoài
với cương vị ngoại giao hoặc cương vị lãnh sự .
2.3.3. Chức vụ ngoại giao
Chức vụ ngoại giao là chức vụ được bổ nhiệm cho thành viên có cương vị ngoại giao
công tác tại các cơ quan quan hệ đối ngoại của nhà nước ở nước ngoài.
Người được bổ nhiệm vào chức vụ ngoại giao có thể là công chức ngành ngoại giao
và cũng có thể là công chức của các ngành khác được nhà nước điều động, có nghĩa
là những người có thể có chức vụ ngoại giao nhưng không có cấp, hàm ngoại giao.
Trên thực tế những người này thường giữ các chức vụ liên quan đến hoạt động chuyên
môn về thương mại (tùy viên thương mại), văn hóa (tùy viên văn hóa), quân đội (tùy
viên quân sự), cảnh sát, an ninh (tùy viên an ninh)…
Theo Luật cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài
năm 2009, chức vụ ngoại giao Việt Nam gồm có:
Đại sứ đặc mệnh toàn quyền; Đại sứ; Công sứ; Tham tán Công sứ; Tham tán; Bí thư
thứ nhất; Bí thư thứ hai; Bí thư thứ ba; Tùy viên .
Thông thường, chức vụ ngoại giao được bổ nhiệm tương đương với hàm ngoại giao
như người mang hàm Đại sứ thường được bổ nhiệm chức vụ Đại sứ đặc mệnh toàn
quyền. Nhưng trên thực tế, do nhu cầu và năng lực cán bộ mà những người mang hàm
ngoại giao có thể được bổ nhiệm giữ một chức vụ ngoại giao hoặc chức vụ lãnh sự
cao hơn hoặc thấp hơn so với hàm ngoại giao của họ. Người có hàm ngoại giao từ
Tham tán trở lên có thể giữ chức vụ người đứng đầu cơ quan đại diện ngoại giao .
2.4. Trình tự bổ nhiệm người đứng đầu cơ quan đại diện ngoại giao (hiểu ngắn gọn để
trả lời cho nhận định)
Theo Công ước Vienna 1961, trước khi bổ nhiệm chính thức người đứng đầu cơ quan
đại diện, nước cử phải bảo đảm rằng người mà mình định bổ nhiệm làm người đứng
đầu cơ quan đại diện tại nước nhận đại diện đã được nước này chấp thuận .
Trên thực tế, nước nhận đại diện có thể chấp thuận hoặc không chấp thuận người do
nước cử đại diện dự kiến bổ nhiệm. Tuy nhiên, nước nhận đại diện không bắt buộc
phải cho nước cử đại diện biết lý do tại sao mình không chấp nhận . Thủ tục chấp
thuận và trả lời chấp thuận được tiến hành qua con đường ngoại giao.
Cũng theo Công ước Vienna 1961, một nước có thể cử đại diện ngoại giao của nước
mình kiêm đại diện ngoại giao ở nước khác hoặc một số nước khác, nếu các nước đó
không phản đối.
Người đứng đầu cơ quan đại diện ngoại giao hay bất kỳ viên chức ngoại giao nào của
cơ quan đại diện ngoại giao có thể đại diện cho nước cử tại bất kỳ tổ chức quốc tế
nào .
Nhiều nước có thể cử chung một người làm người đứng đầu cơ quan đại diện tại một
nước khác, trừ khi nước nhận đại diện phản đối .
Về nguyên tắc, khi cử người đứng đầu cơ quan đại diện ngoại giao hoặc những viên
chức ngoại giao khác nước cử phải cử công dân của nước mình, thế nhưng nước cử
cũng có thể cử công dân nước nhận đại diện hoặc công dân của nước thứ ba nếu
được nước nhận đại diện chấp thuận nhưng họ cũng có thể bị nước nhận đại diện hủy
bỏ chấp thuận bất cứ lúc nào .
Khi đến nhận nhiệm vụ, các vị đại diện ngoại giao ở cấp đại sứ và công sứ phải mang
theo quốc thư do Nguyên thủ quốc gia và Bộ trưởng Bộ ngoại giao của nước cử đại
diện ký. Nội dung quốc thư có nội dung cơ bản là yêu cầu nước tiếp nhận tín nhiệm
người mang quốc thư là người đại diện ngoại giao của nước cử trong quan hệ với
nước nhận đại diện. Quốc thư được làm thành hai bản, một bản chính và một bản sao
(bản sao giao cho Bộ trưởng Bộ ngoại giao nước nhận đại diện lúc đến, bản chính giao
cho Nguyên thủ quốc gia nước nhận đại diện trong lễ trình quốc thư).
Người được bổ nhiệm làm đại diện ngoại giao ở cấp Đại biện thì chỉ cần mang theo
thư của Bộ trưởng Bộ ngoại giao nước mình gửi cho Bộ trưởng Bộ ngoại giao nước sở
tại.
Ngoài thủ tục bổ nhiệm các viên chức ngoại giao cần có sự đồng thuận của nước nhận
đại diện nói trên, nước cử được tự do lựa chọn bổ nhiệm các thành viên của cơ quan
đại diện. Tuy nhiên, đối với các tùy viên quân sự, an ninh, nước nhận đại diện có thể
yêu cầu được thông báo trước họ tên những người này để xét duyệt .
2.5. Khởi đầu và kết thúc chức vụ của người đứng đầu cơ quan đại diện ngoại giao
((hiểu ngắn gọn để trả lời cho nhận định hoặc tình huống)
Thời điểm khởi đầu chức vụ của người đứng đầu cơ quan đại diện ngoại giao được
quy định khá cụ thể tại Công ước Vienna 1961, cụ thể:
Người đứng đầu cơ quan đại diện ngoại giao coi như đã đảm nhiệm những chức vụ tại
nước nhận đại diện: ngay sau khi báo tin đã đến và đã trao bản sao Quốc thư cho Bộ
ngoại giao của nước nhận đại diện, hoặc cho một Bộ khác như đã thỏa thuận, theo
thủ tục hiện hành ở nước nhận đại diện, thủ tục này phải được áp dụng một cách
thống nhất .
Như vậy, theo Công ước Vienna 1961, thời điểm bắt đầu chức vụ của người đứng đầu
cơ quan đại diện ngoại giao là thời điểm người đứng đầu cơ quan đại diện ngoại giao
đến nước sở tại và đã trình bản sao Quốc thư cho cơ quan có thẩm quyền của nước sở
tại, còn nghi thức trình Quốc thư chính thức cho Nguyên thủ quốc gia nước sở tại sẽ
do luật pháp và tập quán của nước đó quy định nhưng phải được áp dụng thống nhất
cho tất cả những người đứng đầu của các cơ quan đại diện ngoại giao .
Người đứng đầu cơ quan đại diện ngoại giao sẽ kết thúc chức vụ của mình trong
các trường hợp sau đây:
- Hết nhiệm kỳ công tác mà không được tiếp tục bổ nhiệm chức vụ người đứng đầu cơ
quan đại diện ngoại giao của nước cử tại nước nhận đại diện đó hoặc không được gia
hạn thêm nhiệm kỳ công tác;
- Khi bị nước cử đại diện triệu hồi về nước;
- Khi họ bị Chính phủ nước nhận đại diện tuyên bố là người không được chấp nhận
(persona non grata);
- Khi họ từ trần;
- Khi họ từ chức (sẽ chấm dứt khi nước nhận đại diện nhận được thông báo này);
- Khi quan hệ ngoại giao giữa hai nước bị cắt đứt;
- Khi nước cử hoặc nước nhận đại diện chấm dứt sự tồn tại với tư cách là chủ thể của
luật quốc tế (ví dụ như chia tách, hợp nhất quốc gia).
2.6. Thành viên của cơ quan đại diện ngoại giao
Theo Công ước Vienna 1961, căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của thành viên của cơ
quan ngoại giao, thành viên của cơ quan này được chia thành ba loại: Viên chức
ngoại giao; nhân viên hành chính-kỹ thuật; nhân viên phục vụ.
- Viên chức ngoại giao là người có hàm hoặc chức vụ ngoại giao (là những người có
thân phận ngoại giao), ví dụ: các Đại sứ, Công sứ, Đại biện, Tham tán, Bí thư thứ
nhất, thứ hai, thứ ba và Tùy viên…
- Nhân viên hành chính- kỹ thuật là những người không có hàm ngoại giao, thực hiện
các công việc hành chính-kỹ thuật trong cơ quan đại diện ngoại giao, ví dụ: tài vụ,
phiên dịch, văn thư, đánh máy, mật mã…
- Nhân viên phục vụ là những người không có hàm ngoại giao, làm những công việc
phục vụ cho cơ quan đại diện ngoại giao, ví dụ: lái xe, gác cổng, làm vườn, cấp
dưỡng…
Số lượng thành viên của cơ quan đại diện ngoại giao do nước cử và nước nhận đại
diện thỏa thuận. Trong trường hợp không có thỏa thuận cụ thể về số lượng thành viên
của cơ quan đại diện ngoại giao, nước tiếp nhận có thể yêu cầu giữ con số đó trong
giới hạn mà nước tiếp nhận cho là hợp lý và bình thường, căn cứ vào hoàn cảnh, điều
kiện của nước tiếp nhận và các nhu cầu của cơ quan đại diện .
Về nguyên tắc, viên chức ngoại giao phải là công dân nước cử đại diện nhưng công
dân nước nhận đại diện hoặc công dân nước thứ ba cũng có thể được bổ nhiệm làm
viên chức ngoại giao của cơ quan đại diện ngoại giao nước cử nếu được nước nhận
đại diện đồng ý. Đối với nhân viên hành chính-kỹ thuật và nhân viên phục vụ thì
không cần phải có sự đồng ý của nước nhận đại diện.
Mọi sự thay đổi về nhân sự trong cơ quan đại diện ngoại giao kể cả nhân viên phục
vụ, cơ quan đại diện ngoại giao phải thông báo cho Bộ ngoại giao nước nhận đại diện
biết. Bởi lẽ, sự thay đổi này ảnh hưởng đến việc hưởng hay chấm dứt việc hưởng các
quyền ưu đãi và miễn trừ ngoại giao.
Lưu ý: Liên quan đến tư cách thành viên của cơ quan đại diện ngoại giao, Công ước
Vienna năm 1961 quy định rằng nước nhận đại diện, vào bất cứ lúc nào, có quyền
thông báo cho nước cử đại diện về việc người đứng đầu cơ quan đại diện ngoại giao
hoặc viên chức ngoại giao của cơ quan đại diện ngoại giao hoặc hoặc bất cứ thành
viên nào khác của cơ quan đại diện là không được chấp nhận (persona non grata) mà
không cần phải nêu lý do. Trong trường hợp này, nước cử đại diện phải triệu hồi
người đó về nước hoặc đình chỉ chức vụ của người đó trong cơ quan đại diện. Nếu
nước cử đại diện từ chối thi hành hoặc không thi hành trong một thời hạn hợp lý
những nghĩa vụ nói trên thì nước nhận đại diện có quyền không thừa nhận người đó là
thành viên của cơ quan đại diện ngoại giao . Trên thực tiễn, nước nhận đại diện
thường tuyên bố không chấp nhận đối với các thành viên của cơ quan đại diện ngoại
giao có các hành vi như can thiệp vào công việc nội bộ của nước nhận đại diện, vi
phạm pháp luật của nước nhận đại diện, không thân thiện với nước đó hoặc được áp
dụng như một biện pháp “trả đũa” ngoại giao đối với nước cử đại diện.
2.7. Đoàn ngoại giao (tham khảo)
Khái niệm đoàn ngoại giao (ngoại giao đoàn) được hiểu theo hai nghĩa: Theo nghĩa
rộng, đoàn ngoại giao bao gồm tất cả những viên chức ngoại giao công tác tại cơ quan
đại diện ngoại giao của các nước tại nước sở tại và thành viên trong gia đình họ.
Theo nghĩa hẹp, đoàn ngoại giao bao gồm tất cả những người đứng đầu các cơ quan
đại diện ngoại giao của các nước đóng tại nước sở tại . Chính vì vậy, có thể kết luận:
- Đoàn ngoại giao không phải là một tổ chức, không phải là một cơ quan mà là một cơ
cấu bao gồm tổng thể các viên chức ngoại giao nhất định;
- Đoàn ngoại giao không hoạt động thường xuyên mà được thành lập để thực hiện một
số hoạt động có tính chất lễ tân ngoại giao (như chúc mừng, chia buồn với nước sở tại,
đón tiếp, chiêu đãi ngoại giao…)
Thông thường, người được chọn đứng đầu đoàn ngoại giao là một viên chức ngoại
giao có cấp ngoại giao cao nhất hoặc công tác lâu nhất ở nước nhận đại diện. Ở các
quốc gia mà quốc giáo là Thiên chúa giáo La Mã, có truyền thống cử vị Đại sứ của
Tòa thánh Vatican làm Trưởng đoàn ngoại giao.
2.9. Quyền ưu đãi, miễn trừ ngoại giao
2.9.1. Khái niệm
Trong luật quốc tế, quyền ưu đãi, miễn trừ ngoại giao được hiểu là những quyền ưu
đãi đặc biệt mà nước nhận đại diện dành cho cơ quan đại diện ngoại giao, phái đoàn
đại diện thường trực của quốc gia tại các tổ chức quốc tế liên chính phủ và thành viên
của các cơ quan này cũng như thành viên của gia đình họ, nhằm tạo điều kiện thuận
lợi nhất cho các cơ quan và thành viên của các cơ quan này thực hiện có hiệu quả
chức năng, nhiệm vụ ngoại giao trên cơ sở phù hợp với luật quốc tế và pháp luật của
các quốc gia hữu quan.
Về bản chất, quyền ưu đãi, miễn trừ ngoại giao là quyền những quyền ưu đãi đặc biệt
trong quan hệ quốc tế mà các quốc gia dành cho nhau trên cơ sở thỏa thuận, tôn trọng
nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền, phù hợp với luật quốc tế và pháp luật của các
quốc gia hữu quan. Tuy nhiên, đối tượng được hưởng các quyền ưu đãi, miễn trừ là cơ
quan đại diện ngoại giao, phái đoàn đại diện thường trực quốc gia tại các tổ chức quốc
tế và thành viên của các cơ quan này cũng như thành viên trong gia đình của họ.
Chính vì vậy, chỉ có nước cử đại diện với tư cách là chủ thể của quyền này mới có thể
từ bỏ quyền miễn trừ về tài phán của các viên chức ngoại giao của những người được
hưởng quyền ưu đãi, miễn trừ .
Về mục đích, Công ước Vienna về quan hệ ngoại giao năm 1961 khẳng định rằng mục
đích của việc trao các quyền ưu đãi miễn trừ không phải để làm lợi cho các cá nhân
mà để bảo đảm cho cơ quan đại diện ngoại giao và các nhà ngoại giao thực hiện có
hiệu quả các chức năng, nhiệm vụ của họ với tư cách là đại diện cho nước cử đại
diện .
2.9.2. Quyền ưu đãi, miễn trừ đối với cơ quan đại diện ngoại giao (quan trọng)
Quyền ưu đãi và miễn trừ đối với cơ quan đại diện ngoại giao được quy định tập trung
từ Điều 20 đến Điều 28 và trong một số điều khoản khác của Công ước Vienna về
quan hệ ngoại giao năm 1961, theo đó cơ quan đại diện ngoại giao sẽ được hưởng các
quyền ưu đãi và miễn trừ ngoại giao cơ bản sau đây:
- Quyền bất khả xâm phạm về trụ sở
Trụ sở của cơ quan đại diện ngoại giao được hiểu là tòa nhà hoặc bộ phận của tòa nhà
và đất đai thuộc các nhà đó, không kể người sở hữu là ai, được dùng vào mục đích của
cơ quan đại diện, kể cả nhà ở của người đứng đầu cơ quan đại diện . Trụ sở của cơ
quan đại diện ngoại giao là bất khả xâm phạm. Chính quyền nước sở tại không được
vào nếu không có sự đồng ý của người đứng đầu cơ quan đại diện ngoại giao.
Nước nhận đại diện có nghĩa vụ đặc biệt phải thi hành mọi biện pháp thích đáng, để
ngăn ngừa việc xâm nhập, làm hư hại trụ sở của cơ quan đại diện ngoại giao, phá rối
trật tự hoặc làm tổn hại đến danh dự của cơ quan đại diện ngoại giao. Trụ sở của cơ
quan đại diện ngoại giao, đồ đạc và tài sản khác ở trong đó cũng như các phương tiện
giao thông của cơ quan đại diện ngoại giao không thể bị khám xét, trưng dụng, tịch
thu hoặc thi hành án .
Như vậy, quyền bất khả xâm phạm về trụ sở của cơ quan đại diện ngoại giao là quyền
có tính chất tuyệt đối. Tuy nhiên, trụ sở của cơ quan đại diện ngoại giao sẽ không
được sử dụng một cách không phù hợp với những chức năng của cơ quan đại diện như
đã ghi trong bản Công ước này hoặc trong các quy phạm khác của công pháp quốc tế
hoặc trong những hiệp định riêng hiện hành giữa nước cử đại diện và nước nhận đại
diện .
Nhà riêng của viên chức ngoại giao cũng được hưởng quyền bất khả xâm phạm và
được bảo vệ như trụ sở cơ quan đại diện ngoại giao .
- Quyền bất khả xâm phạm về hồ sơ và tài liệu
Hồ sơ và tài liệu của cơ quan đại diện ngoại giao là bất khả xâm phạm bất kể thời gian
và địa điểm . Nếu không có sự đồng ý của cơ quan đại diện ngoại giao thì không được
lục soát, khám xét hồ sơ, tài liệu.
- Quyền bất khả xâm phạm về thư tín và túi ngoại giao, valy ngoại giao
Khi thực hiện chức năng của mình, thư tín ngoại giao, túi ngoại giao, vali ngoại giao
của cơ quan đại diện ngoại giao không bị mở ra, không bị giữ lại. Tuy nhiên, thư tín
ngoại giao, valy ngoại giao, túi ngoại giao phải được ghi rõ bên ngoài những dấu hiệu
dễ nhận thấy, chỉ rõ tính chất của nó và chỉ được đựng những tài liệu ngoại giao hoặc
những đồ dùng vào chức năng chính thức của cơ quan đại diện ngoại giao .
Giao thông viên ngoại giao khi thực hiện chức năng của mình trong việc giao nhận
thư tín, túi, valy ngoại giao cũng được hưởng quyền bất khả xâm phạm về thân thể và
không thể bị bắt hoặc giam giữ dưới bất kỳ hình thức nào .
- Quyền tự do thông tin liên lạc
Nước nhận đại diện phải cho phép và bảo vệ quyền tự do liên lạc của cơ quan đại diện
ngoại giao về mọi công việc chính thức. Trong khi liên lạc với Chính phủ cũng như
với các cơ quan đại diện ngoại giao khác và cơ quan lãnh sự của nước cử đại diện ở
bất kỳ nơi nào, cơ quan đại diện ngoại giao của nước cử đại diện có thể sử dụng tất cả
các phương tiện liên lạc thích hợp, kể cả giao thông viên ngoại giao và điện tín bằng
mật mã hay bằng số hiệu. Tuy nhiên, mỗi cơ quan đại diện ngoại giao chỉ có thể đặt và
sử dụng máy phát tin bằng vô tuyến điện nếu được nước nhận đại diện đồng ý .
- Quyền miễn thuế, lệ phí
Trụ sở của cơ quan đại diện ngoại giao được miễn tất cả các thứ thuế và lệ phí, trừ các
loại thuế và lệ phí là các khoản thu về các dịch vụ cụ thể . Cơ quan đại diện ngoại giao
còn được miễn thuế và lệ phí đối với các khoản tiền mà cơ quan đại diện thu được từ
các công việc chính thức , các đồ vật dùng vào công việc chính thức của cơ quan đại
diện .
- Quyền được treo quốc kỳ và quốc huy của nước cử đại diện tại trụ sở của cơ quan
đại diện ngoại giao, nhà ở, phương tiện đi lại của người đứng đầu cơ quan đại diện
ngoại giao .
2.9.3. Quyền ưu đãi và miễn trừ đối với thành viên của cơ quan đại diện ngoại giao
2.9.3.1. Quyền ưu đãi và miễn trừ đối với viên chức ngoại giao (quan trọng)
Quyền quyền ưu đãi và miễn trừ đối với viên chức ngoại giao được quy định tập trung
từ Điều 29 đến Điều 36 và trong một số điều khoản khác của Công ước Vienna năm
1961, bao gồm một số quyền ưu đãi và miễn trừ cơ bản sau đây:
- Quyền bất khả xâm phạm về thân thể
Thân thể của các viên chức ngoại giao là bất khả xâm phạm. Họ không thể bị bắt hoặc
bị giam giữ dưới bất kỳ hình thức nào. Bên cạnh đó, nước nhận đại diện cần phải đối
xử với họ một cách trọng thị và thực hiện những biện pháp thích hợp để ngăn chặn các
hành vi xâm phạm thân thể, tự do và danh dự của viên chức ngoại giao .
- Quyền bất khả xâm phạm về nơi ở, tài liệu, thư tín, tài sản
Nơi ở của viên chức ngoại giao (bao gồm nhà riêng, căn hộ trong khu tập thể, phòng ở
khách sạn) được hưởng quyền bất khả xâm phạm và được bảo vệ như trụ sở của cơ
quan đại diện ngoại giao.
Tài liệu, thư tín, tài sản của viên chức ngoại giao cũng được hưởng quyền bất khả xâm
phạm , trừ những trường hợp nêu ở đoạn 3 Điều 31.
- Quyền miễn trừ về tài phán
Viên chức ngoại giao được hưởng quyền miễn trừ tài phán về hình sự của nước nhận
đại diện.
Viên chức ngoại giao cũng được hưởng quyền miễn trừ tài phán về hành chính và dân
sự, trừ những trường hợp sau đây:
a) Một vụ kiện về một bất động sản tư nhân trên lãnh thổ nước nhận đại diện,
trên danh nghĩa của nước cử đại diện và vì các mục đích để phục vụ cho cơ quan đại
diện ngoại giao.
b) Một vụ kiện về thừa kế trong đó viên chức ngoại giao là người thực hiện di
chúc, người quản lý, người thừa kế hoặc người hưởng tài sản theo di chúc, với tư cách
cá nhân chứ không phải nhân danh nước cử đại diện.
c) Một vụ kiện liên quan đến bất cứ hoạt động nghề nghiệp hoặc thương mại nào
mà viên chức ngoại giao làm ngoài chức vụ chính thức của mình ở nước nhận đại
diện.
Như vậy, viên chức ngoại giao được hưởng quyền miễn trừ tài phán về hình sự, hành
chính là tuyệt đối (chỉ có nước cử đại diện mới có quyền từ bỏ quyền miễn trừ về tài
phán của các viên chức ngoại giao và của những người được hưởng các quyền ưu đãi,
miễn trừ khác ). Quyền miễn trừ xét xử về dân sự chỉ mang tính chất tương đối. Tuy
nhiên, quyền được miễn trừ tài phán của một viên chức ngoại giao đối với pháp luật
nước nhận đại diện không miễn trừ cho người đó đối với pháp luật của nước cử đại
diện .
- Quyền được miễn thuế, lệ phí
Viên chức ngoại giao được miễn mọi thứ thuế và lệ phí, trừ thuế gián thu; thuế và lệ
phí đối với bất động sản tư nhân có trên lãnh thổ nước tiếp nhận thuộc sở hữu riêng
của viên chức ngoại giao; thuế và lệ phí thừa kế, trừ những quy định nêu ở đoạn 4 của
Điều 39; thuế và lệ phí đánh vào các khoản thu nhập tư nhân có nguồn gốc ở nước
nhận đại diện và thuế đánh vào vốn đầu tư các cơ sở thương mại đóng tại nước nhận
đại diện; thuế và lệ phí đối với những dịch vụ cụ thể; các lệ phí trước bạ, chứng thư,
tòa án, cầm cố, cước tem về bất động sản, trừ các quy định tại Điều 23 .
- Quyền ưu đãi hải quan
Viên chức ngoại giao được phép nhập khẩu và miễn thuế và lệ phí hải quan, các loại
thuế và các khoản thu khác có liên quan (trừ phí lưu kho, cước vận chuyển và cước
phí về những dịch vụ tương tự) đối với đồ dùng cá nhân của họ và thành viên trong
gia đình cùng sống chung với họ, kể cả những đồ vật dùng vào việc bố trí nơi ở.
Hành lý của viên chức ngoại giao được miễn khám xét, trừ khi có lý do xác đáng để
khẳng định rằng hành lý đó có những thứ hàng hóa không thuộc loại miễn thuế, lệ phí
nói trên đây hoặc những vật phẩm mà pháp luật nước nhận đại diện cấm xuất hoặc
nhập cảnh hoặc phải tuân theo quy định về miễn dịch của nước nhận đại diện. Tuy
nhiên, trong trường hợp này, việc khám xét chỉ được tiến hành trước mặt viên chức
ngoại giao hoặc người được ủy quyền đại diện cho họ .
- Quyền tự do đi lại
Trừ trường hợp có các luật lệ của nước nhận đại diện về các khu vực mà việc ra vào
bị ngăn cấm hoặc có sự quy định vì lý do an ninh quốc gia, nước nhận đại diện đảm
bảo cho tất cả các thành viên của cơ quan đại diện ngoại giao được quyền tự do đi lại
trên lãnh thổ của mình .
- Các quyền ưu đãi và miễn trừ khác
Viên chức ngoại giao không bắt buộc phải ra làm chứng . Viên chức ngoại giao được
miễn mọi nghĩa vụ lao động bất luận tính chất nào và những nghĩa vụ liên quan đến
quân sự như trưng dụng, các thứ đảm phụ, cung cấp nơi ở cho quân đội của nước nhận
đại diện . Viên chức ngoại giao được miễn thực hiện các quy định hiện hành về chế độ
bảo hiểm ở nước nhận sở tại đối với các công việc phục vụ cho nước cử đại diện …
Vấn đề cần lưu ý là: “Trừ phi được nước nhận đại diện cho phép hưởng thêm những
quyền ưu đãi và quyền miễn trừ, viên chức ngoại giao thuộc quốc tịch nước nhận đại
diện hoặc có trú quán thường xuyên ở nước đó, chỉ được hưởng những quyền miễn trừ
về tài phán và quyền bất khả xâm phạm đối với những công vụ thực hiện trong khi
thừa hành chức trách của mình ”. Như vậy, nếu viên chức ngoại giao là công dân
nước sở tại hoặc có nơi thường trú trên lãnh thổ nước sở tại thì họ cũng được hưởng
các quyền ưu đãi và miễn trừ dành cho viên chức ngoại giao như đã được quy định
trong Công ước Vienna năm 1961 nhưng phạm vi và mức độ hưởng các quyền ưu đãi
và miễn trừ của họ hẹp hơn và hạn chế hơn so với viên chức ngoại giao là công dân
của nước cử đại diện, công dân nước thứ ba và không có nơi thường trú trên lãnh thổ
nước nhận đại diện (cụ thể là họ chỉ được hưởng quyền miễn trừ về tài phán và quyền
bất khả xâm phạm đối với các hành vi thực hiện trong khi thừa hành chức trách của
mình). Trong khi đó, nếu viên chức ngoại giao là công dân của nước cử đại diện hoặc
công dân của nước thứ ba và không thường trú trên lãnh thổ nước nhận đại diện thì
họ sẽ được hưởng các quyền ưu đãi và miễn trừ đầy đủ trong mọi trường hợp theo
đúng quy định của Công ước Vienna về quan hệ ngoại giao 1961.
Các thành viên của gia đình viên chức ngoại giao, cùng sống chung với viên chức
ngoại giao, nếu không phải là công dân nước sở tại cũng được hưởng đầy đủ các
quyền ưu đãi, miễn trừ như viên chức ngoại giao được quy định từ các Điều 29 đến
Điều 36 của Công ước Vienna về quan hệ ngoại giao 1961 .
2.9.3.2. Quyền ưu đãi và miễn trừ đối với nhân viên hành chính-kỹ thuật và nhân viên
phục vụ (tham khảo)
 Đối với nhân viên hành chính và kỹ thuật
Điều kiện, phạm vi, mức độ hưởng các quyền ưu đãi và miễn trừ của nhân viên hành
chính và kỹ thuật được quy định tại Điều 37 Công ước Vienna 1961 (khoản 2). Theo
đó, nhân viên hành chính và kỹ thuật cũng như các thành viên trong gia đình cùng
sống chung với họ, nếu không phải công dân nước nhận đại diện hoặc không cư trú
thường xuyên tại nước này, được hưởng các quyền ưu đãi và miễn trừ được quy định
trong các Điều từ 29 đến 35, tuy nhiên quyền miễn trừ tài phán về dân sự và hành
chính đối với pháp luật của nước nhận đại diện ghi ở đoạn 1 Điều 31 không áp dụng
đối với các hành vi làm ngoài chức năng của họ. Họ cũng được hưởng các quyền ưu
đãi nêu ở đoạn 1 của Điều 36 đối với những đồ vật nhập khẩu dùng vào việc bố trí nơi
ở lần đầu của họ.
Cụ thể, họ sẽ được hưởng các quyền bất khả xâm phạm về thân thể, nơi ở, tài liệu, thư
tín, tài sản, quyền miễn trừ xét xử về hình sự, quyền được miễn thuế và lệ phí, quyền
tự do đi lại, quyền miễn trừ về chế độ bảo hiểm đối với các công việc phục vụ cho
nước cử ở nước nhận đại diện, quyền miễn trừ về nghĩa vụ lao động, nghĩa vụ liên
quan đến quân sự của nước nhận đại diện, quyền miễn trừ việc làm chứng.
Tuy nhiên, nhân viên hành chính và kỹ thuật được hưởng các quyền ưu đãi và miễn
trừ ngoại giao hẹp hơn so với viên chức ngoại giao, cụ thể là:
- Họ chỉ được hưởng quyền miễn trừ tài phán dân sự và xử phạt hành chính đối
với các hành vi trong khi thi hành công vụ (chức năng chính thức) của mình.
- Họ chỉ được hưởng quyền ưu đãi, miễn trừ về hải quan đối với những vật dụng
nhập khẩu lần đầu bố trí chỗ của họ ở nước nhận đại diện.
 Đối với nhân viên phục vụ
Điều kiện, phạm vi, mức độ hưởng các quyền ưu đãi và miễn trừ của nhân viên phục
vụ được quy định tại Điều 37 Công ước Vienna 1961 (khoản 3, khoản 4). Theo đó,
nhân viên phục vụ của cơ quan đại diện ngoại giao nếu không phải là công dân nước
sở tại hoặc không thường trú ở nước sở tại sẽ được hưởng các quyền miễn trừ đối với
các hành vi trong khi thi hành công vụ (chức năng chính thức) của họ. Nhân viên phục
vụ cũng được miễn các thứ thuế và lệ phí đánh vào tiền lương mà họ lĩnh được từ
công vụ và được hưởng những quyền miễn trừ nêu ở Điều 33 (quyền miễn trừ thực
hiện các quy định hiện hành về chế độ bảo hiểm ở nước tiếp nhận đối với các công
việc phục vụ cho nước cử đại diện).
Đối với những người không phải công dân nước tiếp nhận hoặc không có nơi cư trú
thường xuyên ở nước nhận đại diện làm người phục vụ riêng cho các thành viên của
cơ quan đại diện ngoại giao thì được miễn các thứ thuế và lệ phí đánh vào tiền lương
mà họ lĩnh từ công việc chính thức của mình. Còn về các mặt khác, họ chỉ được
hưởng các quyền ưu đãi và miễn trừ trong phạm vi mà nước nhận đại diện cho phép.
Một điểm lưu ý chung về việc hưởng các quyền ưu đãi và miễn trừ của nhân viên
hành chính-kỹ thuật và nhân viên phục vụ là:
Đối với nhân viên hành chính-kỹ thuật và nhân viên phục vụ của cơ quan đại diện
ngoại giao và những người phục vụ riêng thuộc quốc tịch của nước nhận đại diện hoặc
cư trú thường xuyên ở nước đó thì chỉ được hưởng những quyền ưu đãi và quyền miễn
trừ trong phạm vi mà nước nhận đại diện thừa nhận cho họ. Tuy nhiên, nước nhận đại
diện phải thi hành quyền tài phán của nước mình sao cho không cản trở một cách quá
đáng việc thực hiện các chức năng của cơ quan đại diện ngoại giao .
Về thời điểm bắt đầu và chấm dứt việc hưởng các quyền ưu đãi và miễn trừ ngoại
giao, Công ước Vienna về quan hệ ngoại giao năm 1961 cũng đã quy định cụ thể:
Người nào được hưởng quyền ưu đãi và quyền miễn trừ thì được hưởng những quyền
đó ngay từ khi vào lãnh thổ của nước nhận đại diện để nhậm chức hoặc nếu người ấy
đã ở trên lãnh thổ đó rồi thì kể từ khi việc cử người ấy được thông báo cho Bộ ngoại
giao hoặc một Bộ nào khác như đã thỏa thuận .
Khi chức trách của một người được hưởng quyền ưu đãi và quyền miễn trừ kết thúc
thì thông thường những quyền ưu đãi và miễn trừ đó sẽ chấm dứt vào lúc người đó rời
khỏi nước nhận đại diện hoặc sau khi hết một thời hạn hợp lý dành cho việc đó, ngay
cả trong trường hợp có xung đột vũ trang. Tuy nhiên, đối với những hành vi của người
này thực hiện trong khi thừa hành chức năng của mình với tư cách là thành viên của
cơ quan đại diện ngoại giao thì quyền miễn trừ vẫn tiếp tục tồn tại .
Trong trường hợp một thành viên của cơ quan đại diện ngoại giao từ trần, thì các
thành viên trong gia đình họ vẫn tiếp tục được hưởng những quyền được ưu đãi và
quyền miễn trừ cho đến khi hết một thời hạn hợp lý để họ rời khỏi lãnh thổ nước nhận
đại diện .
3 CƠ QUAN LÃNH SỰ
3.1 Khái niệm, chức năng của cơ quan lãnh sự
3.1.1 Khái niệm quan hệ lãnh sự
Quan hệ lãnh sự ra đời từ rất sớm ở các nhà nước Hy Lạp và La Mã cổ đại.
Ban đầu xuất hiện các Proconsul – là những công dân có danh tiếng của thành bang,
giúp đỡ công dân hoặc quan chức của các thành bang khác với tư cách là trung gian
trong mối quan hệ với chính quyền sở tại . Cơ quan lãnh sự phát triển nhanh vào thời
trung cổ, cận đại và ngày càng được mở rộng cho đến ngày nay, gắn liền với sự phát
triển của các mối quan hệ hàng hải, thương mại, văn hóa, du lịch… giữa các quốc gia
và giữa các cá nhân, pháp nhân các nước với nhau trên mọi lĩnh vực.
Quan hệ lãnh sự là một bộ phận chức năng đối ngoại của nhà nước nhằm bảo
vệ quyền lợi của nước cử lãnh sự trong phạm vi khu vực lãnh sự, góp phần thúc đẩy
và phát triển quan hệ kinh tế, thương mại, văn hóa, khoa học và quan hệ hữu nghị giữa
nước cử và nước tiếp nhận lãnh sự; đồng thời quản lý về mặt đối ngoại đối với những
người nước ngoài tại nước mình theo quy định của luật pháp nước mình và luật quốc
tế về lãnh sự .
Để thực hiện quan hệ lãnh sự, các nước đã thiết lập ra các cơ quan lãnh sự ở
nước ngoài, đây là cơ quan quan hệ đối ngoại của nhà nước đặt ở nước khác nhằm
thực hiện chức năng lãnh sự trong một khu vực lãnh thổ của nước tiếp nhận trên cơ sở
thỏa thuận giữa hai quốc gia hữu quan.
3.1.2 Chức năng của cơ quan lãnh sự (quan trọng)
Theo Điều 5, Công ước Vienna 1963, cơ quan lãnh sự thực hiện các chức năng chủ
yếu sau:
Chức năng chung:
- Bảo vệ quyền lợi của nước cử lãnh sự, của cá nhân cũng như pháp nhân nước
đó tại nước tiếp nhận lãnh sự trong phạm vi Luật Quốc tế cho phép.
- Tạo điều kiện thuận lợi để phát triển quan hệ thương mại, kinh tế, văn hoá và
phát triển bằng mọi cách khác những quan hệ hữu nghị giữa hai nước theo tinh thần
của Công ước.
- Bằng mọi phương tiện hợp pháp, tìm hiểu tình hình sinh hoạt, thương mại, kinh
tế, văn hoá và khoa học của nước tiếp nhận lãnh sự, báo cáo tình hình đó cho Chính
phủ nước mình và cung cấp tài liệu cho những người hữu quan.
Chức năng hành chính - Tư pháp:
- Cấp hộ chiếu và giấy tờ đi đường cho công dân nước mình cũng như cấp thị
thực và các tài liệu thích hợp cho những người muốn đến nước cử lãnh sự
- Cứu trợ và giúp đỡ công dân cũng như pháp nhân của nước cử lãnh sự
- Thực hiện chức năng công chứng viên, hộ tịch viên và chức năng có tính chất
hành chính phù hợp với pháp luật nước tiếp nhận lãnh sự
- Thực hiện các trách nhiệm đối với tàu thuyền, máy bay cũng như đoàn thủy
thủ, phi hành đoàn của nước mình tại khu vực lãnh sự;
- Thực hiện các chức năng khác theo quy định pháp luật nước mình và trong
phạm vi Luật Quốc tế cho phép trên cơ sở tôn trọng pháp luật nước tiếp nhận lãnh sự.
- Bảo vệ quyền và lợi ích của cá nhân cũng như pháp nhân nước mình trong
trường hợp thừa kế di sản trên lãnh thổ nước tiếp nhận lãnh sự; bảo vệ lợi ích của
những người chưa thành niên và những người không đủ năng lực hành vi là công dân
của nước mình; bảo vệ quyền và lợi ích của công dân nước mình trong quá trình tố
tụng tại nước tiếp nhận lãnh sự;
- Chuyển giao các tư liệu, tài liệu uỷ thác tư pháp cho cơ quan có thẩm quyền
của nước cử lãnh sự;
Theo quy định pháp luật của một số nước và pháp luật quốc tế, cơ quan lãnh sự có
thể được giao thực hiện một số chức năng của cơ quan đại diện ngoại giao nếu hai
nước chưa thiết lập quan hệ ngoại giao. Trong trường hợp này, viên chức thực hiện
chức năng ngoại giao không được hưởng các quyền ưu đãi và miễn trừ ngoại giao.
3.1.3 Mối liên hệ giữa quan hệ ngoại giao với quan hệ lãnh sự (hiểu ngắn gọn để trả
lời cho nhận định)
Quan hệ ngoại giao và quan hệ lãnh sự có mối liên hệ chặt chẽ, thường gắn liền
với nhau, là hai bộ phận thuộc chức năng đối ngoại của nhà nước. Theo Điều 2,
Khoản 2 Công ước Vienna 1963 về quan hệ lãnh sự quy định: “Hai nước thỏa thuận
thiết lập quan hệ ngoại giao thì mặc nhiên đã thỏa thuận thiết lập quan hệ lãnh sự trừ
trường hợp có nói rõ không làm như thế”. Tuy nhiên, quan hệ lãnh sự có những nét
khác biệt thể hiện sự độc lập tương đối so với quan hệ ngoại giao, cụ thể:
- Các nước có thể thoả thuận với nhau về việc thiết lập quan hệ lãnh sự ngay cả
khi không có quan hệ ngoại giao với nhau. Điều này có thể thấy khi hai nước chỉ có
sự công nhận Defacto. Mối quan hệ của hai nước chỉ giới hạn trên một số lĩnh vực
nhất định nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, pháp nhân giữa hai
nước với nhau chứ không mở rộng đến quan hệ ngoại giao giữa hai nước.
- Việc cắt đứt quan hệ ngoại giao không mặc nhiên dẫn tới việc cắt đứt quan hệ
lãnh sự . Như trên đã phân tích, mặc dù quan hệ lãnh sự có thể được thiết lập do hai
nước thiết lập quan hệ ngoại giao với nhau. Nhưng trong nhiều trường hợp, vì lý do
nào đó hai nước cắt đứt quan hệ ngoại giao với nhau thì chức năng lãnh sự vẫn có thể
được tiếp tục duy trì, vì chức năng của cơ quan lãnh sự chủ yếu mang tính hành chính
– pháp lý, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp về kinh tế, pháp lý, văn hóa… của nước cử
lãnh sự, công dân, pháp nhân nước cử lãnh sự tại nước tiếp nhận lãnh sự chứ không
phải chủ yếu đại diện về mặt chính trị như cơ quan đại diện ngoại giao.
- Khác với cơ quan đại diện ngoại giao đại diện cho quốc gia mình trên tất cả
các lĩnh vực, đặc biệt là về mặt chính trị trong mối quan hệ với quốc gia sở tại, cơ
quan lãnh sự chỉ đại diện cho quốc gia mình trong một số vấn đề nhất định và tại một
khu vực lãnh thổ nhất định (khu vực lãnh sự). Chỉ trong trường hợp đặc biệt, viên
chức lãnh sự mới có thể thi hành chức năng của mình ngoài khu vực lãnh sự và phải
có sự đồng ý của nước tiếp nhận . Chính vì vậy, cơ quan lãnh sự chỉ liên hệ trực tiếp
với chính quyền địa phương trong phạm vi khu vực lãnh sự. Nếu muốn liên hệ với
chính quyền trung ương của nước sở tại và chính quyền khu vực khác thì phải được
nước tiếp nhận đồng ý theo pháp luật, tập quán của nước đó hoặc điều ước quốc tế có
liên quan .
- Một nước có thể có nhiều cơ quan lãnh sự ở nước khác theo những khu vực
khác nhau , khác với cơ quan đại diện ngoại giao khi nước cử đại diện chỉ đặt một cơ
quan duy nhất tại nước nhận đại diện ở cấp mà hai bên thỏa thuận.
3.2 Cấp của cơ quan lãnh sự và người đứng đầu cơ quan lãnh sự
Theo Điều 9, Công ước Vienna 1963 về quan hệ lãnh sự, cơ quan lãnh sự bao gồm
bốn cấp:
- Tổng lãnh sự quán - đứng đầu là tổng lãnh sự
Tổng lãnh sự là người đứng đầu cơ quan tổng lãnh sự và lãnh đạo tất cả các lãnh sự
của nước mình ở nước sở tại, hay ở một khu vực lãnh sự. Tổng lãnh sự là hàm cao
nhất trong lãnh sự.
- Lãnh sự quán - đứng đầu là lãnh sự
Lãnh sự là người chấp hành chức năng lãnh sự ở một khu vực lãnh sự. Lãnh sự là hàm
thấp hơn tổng lãnh sự, chịu sự chỉ đạo của tổng lãnh sự (nếu quốc gia xác lập cả hai
hình thức này).
- Phó lãnh sự quán - đứng đầu là phó lãnh sự
Phó lãnh sự là người chấp hành chức năng lãnh sự ở một khu vực lãnh sự ít quan
trọng.
- Đại lý lãnh sự quán - đứng đầu là tuỳ viên lãnh sự (Đại lý lãnh sự)
Tuỳ viên lãnh sự (Đại lý lãnh sự) là người lãnh đạo ở một cơ quan lãnh sự nhỏ. Tuỳ
viên lãnh sự thấp hơn phó lãnh sự.
Việc thiết lập cơ quan lãnh sự ở cấp nào là do sự thoả thuận giữa hai quốc gia hữu
quan. Thông thường, các nước đặt cơ quan lãnh sự ở cấp tổng lãnh sự quán và lãnh sự
quán .
3.3 Bổ nhiệm người đứng đầu cơ quan lãnh sự (tham khảo)
Người đứng đầu cơ quan lãnh sự do nước cử lãnh sự bổ nhiệm và do nước tiếp nhận
lãnh sự chấp nhận cho phép được thực hiện chức năng của mình.
Nước cử lãnh sự căn cứ vào pháp luật nước mình, bổ nhiệm người đứng đầu cơ quan
lãnh sự bằng cách cấp bằng lãnh sự, trong đó ghi họ tên, cấp lãnh sự, khu vực lãnh sự
và địa chỉ cơ quan lãnh sự. Cấp và khu vực lãnh sự cần được thoả thuận trước với
nước tiếp nhận lãnh sự. Bằng lãnh sự do nguyên thủ quốc gia hoặc bộ trưởng bộ ngoại
giao cấp, tuỳ theo quy định của pháp luật mỗi nước. Tiếp đó, bằng lãnh sự được gửi
đến chính phủ (thường là bộ ngoại giao) nước tiếp nhận để xin giấy chứng nhận lãnh
sự (Exquatur). Nếu được nước tiếp nhận lãnh sự cấp giấy chứng nhận lãnh sự thì
người đứng đầu cơ quan lãnh sự và cơ quan lãnh sự bắt đầu thực hiện các chức năng
lãnh sự của mình. Nước tiếp nhận có quyền từ chối không cấp giấy chứng nhận lãnh
sự mà không bắt buộc phải cho nước cử lãnh sự biết lý do .
Theo Điều 13 Công ước Vienna 1963, trong lúc chờ cấp giấy chứng nhận lãnh sự,
người đứng đầu cơ quan lãnh sự có thể được tạm thời thừa nhận thi hành chức năng
của mình. Trong trường hợp đó, người đứng đầu cơ quan lãnh sự vẫn có các chức
năng, quyền hạn và nhiệm vụ như quy định trong Công ước. Điều 15 Công ước quy
định trong trường hợp người đứng đầu cơ quan lãnh sự không thi hành chức năng
được hoặc chức vụ người đứng đầu cơ quan lãnh sự đang khuyết, thì một người phụ
trách có thể tạm thời làm nhiệm vụ đứng đầu cơ quan lãnh sự. Việc bổ nhiệm tạm thời
một người phụ trách lãnh sự vẫn phải báo cho nước tiếp nhận lãnh sự biết và vẫn phải
có sự đồng ý của nước tiếp nhận. Tuy nhiên trong trường hợp này, nước tiếp nhận
lãnh sự không bắt buộc phải dành cho người phụ trách cơ quan lãnh sự đó các quyền
ưu đãi và miễn trừ như đối với người đứng đầu cơ quan lãnh sự.
Thủ tục bắt buộc phải có bằng lãnh sự và giấy chứng nhận lãnh sự chỉ đặt ra đối với
người đứng đầu cơ quan lãnh sự độc lập. Đối với người phụ trách phòng lãnh sự thuộc
đại sứ quán các nước thì không cần phải áp dụng thủ tục này.
3.4 Cơ cấu tổ chức và thành viên của cơ quan lãnh sự
3.4.1 Cơ cấu tổ chức
Cơ cấu tổ chức của cơ quan lãnh sự tùy thuộc phạm vi cung cấp các dịch vụ lãnh sự
và hoạt động đối ngoại của cơ quan này, thông thường, trong lãnh sự quán sẽ có các
phòng ban như: văn phòng, phòng thị thực, phòng hộ tịch, phòng di trú và nhập tịch,
phòng thông tin và văn hóa …
3.4.2 Thành viên
Theo Khoản 1 Điều 1 Công ước Vienna 1963, thành viên của cơ quan lãnh sự bao
gồm: viên chức lãnh sự, nhân viên lãnh sự và nhân viên phục vụ.
- Viên chức lãnh sự: Là những người thực hiện chức năng lãnh sự. Viên chức
lãnh sự phải là công dân của nước cử lãnh sự. Nước cử lãnh sự không được cử người
có quốc tịch nước tiếp nhận lãnh sự hoặc quốc tịch nước thứ ba làm viên chức lãnh sự,
trừ khi nước tiếp nhận lãnh sự đồng ý rõ ràng và bất cứ lúc nào cũng có thể không
đồng ý nữa. (Điều 22, Công ước Vienna 1963). Viên chức lãnh sự bao gồm Tổng lãnh
sự, lãnh sự, Phó lãnh sự, đại lý lãnh sự và Tuỳ viên lãnh sự.
- Nhân viên lãnh sự: Gồm những người làm công việc hành chính kỹ thuật trong
cơ quan lãnh sự như: phiên dịch, tài vụ, văn thư, đánh máy…
- Nhân viên phục vụ: Gồm những người làm công việc phục vụ nội bộ trong cơ
quan lãnh sự, Ví dụ: lái xe, bảo vệ, thợ điện nước, nấu ăn, quét dọn…
3.5 Khởi đầu và kết thúc chức năng lãnh sự
3.5.1 Khởi đầu chức năng lãnh sự
Người đứng đầu cơ quan lãnh sự có thể bắt đầu thực hiện chức năng lãnh sự của mình
trong các trường hợp sau đây:
- Sau khi được cấp giấy chứng nhận lãnh sự (Khoản 3, Điều 12 Công ước
Vienna 1963).
- Sau khi được tạm thời thừa nhận cho thi hành chức năng lãnh sự trong thời
gian chờ được cấp giấy chứng nhận lãnh sự (Điều 13, Công ước Vienna 1963).
3.5.2 Kết thúc chức năng lãnh sự
Chức trách của viên chức lãnh sự sẽ chấm dứt trong các trường hợp
- Khi hết nhiệm kỳ
- Khi bị thu hồi giấy chứng nhận lãnh sự
- Khi nước tiếp nhận lãnh sự tuyên bố bất tín nhiệm đối với viên chức lãnh sự
- Khi bị triệu hồi về nước
(Điều 25, Công ước Vienna 1963 về quan hệ lãnh sự
- Khu vực lãnh sự không còn thuộc chủ quyền của nước tiếp nhận lãnh sự
- Khi cơ quan lãnh sự đóng cửa.
Tùy điều kiện cụ thể trong những trường hợp trên và theo quyết định của chính phủ
nước mình, nước cử lãnh sự có thể uỷ quyền bảo vệ lợi ích của công dân và pháp nhân
cũng như của nhà nước cho lãnh sự nước thứ ba nếu được nước tiếp nhận lãnh sự chấp
nhận (Điểm c, Khoản 1, Điều 27 ).
3.6 Lãnh sự danh dự (tham khảo)
Lãnh sự danh dự là người không nằm trong biên chế của bộ máy cơ quan lãnh sự và
cơ quan đại diện ngoại giao nhưng thực hiện một số chức năng lãnh sự nhất định do
Việt Nam giao cho, sau khi có sự đồng ý của nước tiếp nhận lãnh sự .
Lãnh sự danh dự được áp dụng rộng rãi từ lâu. Công ước Vienna 1963 về quan hệ
lãnh sự cũng dành hẳn chương III để quy định về quyền ưu đãi và miễn trừ dành cho
lãnh sự danh dự. Hiện nay trên thế giới có khoảng 15.000 lãnh sự danh dự . Cơ quan
này được thành lập ở những khu vực có nhu cầu lãnh sự, nhưng do khó khăn về tài
chính hoặc do nước cử lãnh sự chưa lập được cơ quan lãnh sự chuyên nghiệp. Lãnh sự
danh dự thường được bổ nhiệm từ những luật gia, những nhà kinh doanh, nhà hoạt
động xã hội, nghề nghiệp. Họ thường là công dân của nước sở tại có vị trí xứng đáng
và uy tín trong giới hoạt động chính trị, giới chuyên môn nghề nghiệp và kinh doanh ..
Một số nước đã ban hành quy chế về lãnh sự danh dự. trong đó quy định tiêu chuẩn
đòi hỏi đối với người được bổ nhiệm lãnh sự danh dự, đó là các tiêu chuẩn về vị trí xã
hội, về chuyên môn nghiệp vụ, về phẩm chất… để có thể hoàn thành chức năng lãnh
sự của mình.
Chức năng của lãnh sự danh dự tùy thuộc vào sự thỏa thuận giữa nước cử lãnh sự và
nước tiếp nhận, nhưng thông thường họ chỉ được giao những nhiệm vụ chung như
thúc đẩy quan hệ mọi mặt giữa nước cử và nước tiếp nhận, bảo vệ quyền lợi của công
dân nước cử. Thông thường, lãnh sự danh dự không được giao các nhiệm vụ chuyên
môn như: cấp hộ chiếu, thị thực, các giấy tờ về hộ tịch, quốc tịch, công chứng, hợp
pháp hóa …
Ở Việt Nam, mặc dù Luật Cơ quan đại diện của Việt Nam năm 2009 quy định: Trong
trường hợp có yêu cầu về công tác lãnh sự nhưng chưa có điều kiện thành lập cơ quan
đại diện lãnh sự hoặc bổ nhiệm viên chức lãnh sự thì Bộ trưởng Bộ Ngoại giao có thể
bổ nhiệm Lãnh sự danh dự” nhưng so với các quốc gia khác, số lượng lãnh sự danh dự
của Việt Nam tại nước ngoài còn rất ít. Việt Nam hiện chỉ có một Tổng Lãnh sự danh
dự tại Pusan (Hàn Quốc), Lãnh sự danh dự ở Anvers (Bỉ), Lima (Peru),Lãnh sự danh
dự tại Nagoya, Kushiro (Nhật Bản). Cục Lãnh sự đang xúc tiến hoàn thành thủ tục mở
lãnh sự danh dự tại Italia, bổ nhiệm Tổng lãnh sự danh dự mới tại Hamburg (Đức)”.
Đại sứ quán Việt Nam tại Pháp và một số nơi khác cũng đang đề nghị mở lãnh sự
danh dự ở một số nơi tập trung nhiều người Việt . Thực trạng trên cho thấy số lượng
cơ quan lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài nói chung, lãnh sự danh dự nói riêng vẫn
chưa đáp ứng đủ nhu cầu thực tế và cần phải được mở rộng hơn nữa.
3.7 Đoàn lãnh sự (tham khảo)
Cũng giống như đoàn ngoại giao, đoàn lãnh sự có thể hiểu theo nghĩa hẹp là tập hợp
tất cả những người đứng đầu cơ quan lãnh sự trong một địa phương của nước tiếp
nhận lãnh sự. Còn nghĩa rộng thì đoàn lãnh sự là tất cả viên chức lãnh sự của các cơ
quan lãnh sự nước ngoài ở một địa phương và thành viên gia đình họ. Đoàn lãnh sự
còn bao gồm cả những lãnh sự danh dự và cán bộ của các cơ quan lãnh sự.
Đoàn lãnh sự chỉ thực hiện chức năng lễ tân tại một địa phương ở nước tiếp nhận.
Trưởng đoàn lãnh sự thường là người có hàm cao nhất, thâm niên công tác tại nước
tiếp nhận lâu nhất. Trưởng đoàn lãnh sự đại diện cho đoàn lãnh sự giới thiệu cho các
thành viên mới đặc điểm, phong tục tập quán của nước sở tại, giải quyết những vấn đề
nội bộ, bảo vệ quyền lợi của thành viên đoàn lãnh sự trong trường hợp bị vi phạm.
Khác với đoàn ngoại giao, trong một nước có thể có vài đoàn lãnh sự, theo địa điểm
đóng cơ quan lãnh sự. Ví dụ ở Việt Nam có hai đoàn lãnh sự : Tại TP. Hồ Chí Minh
và tại Đà Nẵng .
3.8 Quyền ưu đãi và miễn trừ lãnh sự (quan trọng)
Cũng tương tự như quyền ưu đãi và miễn trừ ngoại giao, quyền ưu đãi và miễn trừ
lãnh sự dành cho 5 nhóm đối tượng là Cơ quan Lãnh sự; Viên chức lãnh sự và thành
viên gia đình họ; nhân viên hành chính, kỹ thuật; nhân viên phục vụ và những người
phục vụ riêng của thành viên cơ quan lãnh sự.
Tùy vào từng đối tượng mà phạm vi được quyền ưu đãi và miễn trừ lãnh sự có thể
khác nhau. Các quyền này do nước tiếp nhận dành cho cơ quan lãnh sự và các thành
viên của cơ quan này không phải nhằm mục đích tạo điều kiện thuận lợi cho các cá
nhân mà nhằm giúp cho cơ quan lãnh sự và thành viên của cơ quan này hoàn thành
một cách có hiệu quả chức năng của mình . Do đó, nếu thành viên cơ quan lãnh sự
thực hiện một hành vi vi phạm pháp luật nước tiếp nhận không phải vì lý do công vụ
thì quyền ưu đãi và miễn trừ này cũng không được áp dụng .
Công ước Vienna năm 1963 quy định các quyền ưu đãi và miễn trừ lãnh sự về cơ bản
giống như quyền ưu đãi và miễn trừ ngoại giao nhưng ở mức độ hạn chế hơn, cụ thể:
a. Đối với cơ quan lãnh sự
Cơ quan lãnh sự được được hưởng quyền bất khả xâm phạm về trụ sở không
được tuyệt đối như cơ quan đại diện ngoại giao. Theo quy định tại Điều 31, chính
quyền nước tiếp nhận lãnh sự không được phép vào trụ sở của cơ quan lãnh sự nếu
không được sự đồng ý của người đứng đầu cơ quan lãnh sự hoặc người đứng đầu cơ
quan đại diện ngoại giao của nước cử lãnh sự, trừ trường hợp có hoả hoạn, thiên tai,
tai biến khác cần có biện pháp bảo vệ khẩn cấp. Điều nầy có nghĩa là nếu cơ quan lãnh
sự lâm vào hoàn cảnh cần cấp cứu khẩn cấp thì dù chưa được người đứng đầu cơ quan
này đồng ý, các lực lượng cứu hộ vẫn có quyền vào trong trụ sở cơ quan lãnh sự để
thực hiện công tác cứu hộ.
Trụ sở, đồ đạc, tài sản và phương tiện giao thông của cơ quan lãnh sự không bị
trưng dụng vì lý do an ninh, quốc phòng hoặc lợi ích công cộng. Nếu cần lấy để dùng
vào mục đích đó thì phải áp dụng mọi cách xử lý thích hợp tránh làm cản trở việc thi
hành chức năng lãnh sự, và phải bồi thường một cách thoả đáng và hiệu quả cho nước
cử lãnh sự Quy định như vậy mở cho nước tiếp nhận khả năng được phép trựng dụng
tài sản của cơ quan lãnh sự vì lý do quốc phòng an ninh hoặc lợi ích công cộng, miễn
là hành vi đó không ảnh hưởng đến chức năng của cơ quan lãnh. Tuy nhiên, việc xác
định như thế nào là lý do an ninh quốc phòng hoặc lợi ích công cộng thì Công ước
không quy định rõ mà điều này được xác định theo pháp luật của chính nước tiếp nhận
lãnh sự. Một quy định như thế rất có thể sẽ gây ra những trường hợp nước tiếp nhận
áp dụng tùy tiện để xâm phạm đến quyền và lợi ích của cơ quan lãnh sự.
Các quyền bất khả xâm phạm về hồ sơ lưu trữ, tài liệu (Điều 33), quyền tự do
thông tin liên lạc (Điều 35), quyền được treo quốc kỳ, quốc huy (Điều 29), quyền
được miễn các thứ thuế và lệ phí (Điều 39) được quy định tương tự như đối với cơ
quan đại diện ngoại giao.
b. Đối với viên chức lãnh sự
Quyền bất khả xâm phạm về thân thể của viên chức lãnh sự hạn chế hơn viên chức
ngoại giao, cụ thể: Nếu viên chức lãnh sự phạm tội nghiêm trọng và theo quyết định
của một cơ quan có thẩm quyền, hoặc để thi hành một quyết định chung thẩm của toà
án một quốc gia thì vẫn có thể bị bắt hoặc bị tạm giam giữ để chờ xét xử (Điều 41).
Viên chức lãnh sự không phải chịu quyền tài phán của các nhà chức trách tư pháp
hoặc hành chính của nước tiếp nhận lãnh sự về các hành động của mình trong khi thi
hành nhiệm vụ lãnh sự (Điều 43). Điều này có nghĩa là viên chức lãnh sự được hưởng
quyền miễn trừ xét sử về hình sự trong khi thi hành công vụ, trừ trường hợp phạm tội
nghiêm trọng. Đồng thời, viên chức lãnh sự cũng được hưởng quyền miễn trừ xét xử
về dân sự và xử phạt vi phạm hành chính trừ trường hợp liên quan đến một vụ kiện
dân sự về một hợp đồng mà họ ký kết với tư cách cá nhân hoặc về tai nạn giao thông
xảy ra tại nước tiếp nhận lãnh sự mà do một nước thứ ba đòi bồi thường thiệt hại.
(Khoản 2, Điều 43)
Viên chức lãnh sự có thể được mời ra làm chứng trong quá trình tiến hành tố tụng về
tư pháp hoặc hành chính, nhưng không bắt buộc phải cung cấp những chứng cứ về các
vấn đề liên quan đến việc thực hiện chức năng của mình (Điều 44)
Bên cạnh đó, các viên chức lãnh sự không được phép hoạt động nghề nghiệp hoặc
thương mại gì ở nước tiếp nhận lãnh sự để kiếm lợi cho cá nhân (Khoản 1 Điều 57),
so viên chức ngoại giao thì đây là điểm hạn chế hơn vì Công ước Vienna 1961 về
quan hệ ngoại giao vẫn cho phép viên chức ngoại giao được có các hoạt động nghề
nghiệp riêng. Trong trường hợp này, nếu có các vụ kiện dân sự liên quan đến các nghề
nghiệp riêng đó thì viên chức ngoại giao không được hưởng quyền miễn trừ xét xử
dân sự .
Các quyền bất khả xâm phạm đối với hành lý riêng (Điều 50), Quyền tự do đi lại
(Điều 34). Quyền được bảo vệ và tôn trọng (Điều 40), Quyền được miễn thuế và lệ phí
(Điều 49), viên chức lãnh sự cũng được hưởng tương tự như các viên chức ngoại giao.

c. Đối với các thành viên khác trong cơ quan lãnh sự (tham khảo)
Quyền ưu đãi dành cho nhân viên hành chính kỹ thuật, nhân viên phục vụ và những
người phục vụ riêng của thành viên cơ quan lãnh sự cũng được quy định tương tự như
đối với các nhân viên này trong cơ quan đại diện ngoại giao, với điều kiện những
người này không được thực hiện các hoạt động nghề nghiệp hoặc thương mại để tự
kiếm lợi ở nước tiếp nhận (Điều 57)
Theo quy định của Việt Nam tại Chương III (Từ Điều 21 đến Điều 38), Pháp lệnh về
quyền ưu đãi và miễn trừ dành cho cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự…
năm 1993, viên chức lãnh sự, nhân viên hành chính kỹ thuật và nhân viên phục vụ
trong cơ quan lãnh sự của nước ngoài tại Việt Nam cũng được hưởng các quyền ưu
đãi và miễn trừ tương tự như trong Công ước Vienna 1963.
3.8.4 Thời điểm hưởng, thời điểm kết thúc và vấn đề từ bỏ quyền ưu đãi và miễn trừ
lãnh sự
- Thời điểm hưởng
Mỗi thành viên của cơ quan lãnh sự đều được hưởng quyền ưu đãi và miễn trừ
kể từ khi họ đặt chân lên lãnh thổ nước tiếp nhận lãnh sự để nhậm chức. Nếu họ đã ở
trên lãnh thổ nước đó thì kể từ khi bắt đầu nhận chức ở cơ quan lãnh sự. (Khoản 1,
Điều 53)
- Thời điểm kết thúc
Khi một thành viên của cơ quan lãnh sự thôi công tác thì quyền ưu đãi và miễn
trừ của người đó và của các thành viên gia đình cùng sống trong hộ với họ, các nhân
viên phục vụ riêng của họ thông thường là chấm dứt kể từ ngày đương sự rời khỏi
lãnh thổ nước tiếp nhận hoặc ngày cuối cùng của một thời hạn hợp lý để rời khỏi nước
đó, ngay cả trong trường hợp có xung đột vũ trang (Khoản 3, Điều 53)
- Vấn đề từ bỏ quyền ưu đãi và miễn trừ
Thẩm quyền từ bỏ quyền các quyền ưu đãi và miễn trừ dành cho các thành viên
của cơ quan lãnh sự thuộc về nước cử lãnh sự. Việc từ bỏ đó phải được thể hiện rõ
ràng bằng văn bản và gửi cho nước tiếp nhận lãnh sự.
Khi một viên chức lãnh sự hoặc nhân viên lãnh sự đứng ra khởi kiện về một
vấn đề mà người đó có thể được hưởng quyền miễn trừ tài phán thì họ sẽ không được
hưởng quyền miễn trừ nữa đối với mọi sự phản tố liên quan trực tiếp đến đơn khởi tố.
Việc từ bỏ quyền miễn trừ tài phán về một vụ tố tụng dân sự hay hành chính
không được coi như bao hàm cả việc từ bỏ quyền miễn trừ đối với các biện pháp thi
hành án, đối với những biện pháp đó cần có sự từ bỏ quyền miễn trừ riêng. (Điều 45)
4. PHÁI ĐOÀN ĐẠI DIỆN CỦA CÁC QUỐC GIA TẠI CÁC TỔ CHỨC QUỐC TẾ,
PHÁI ĐOÀN ĐẠI DIỆN CỦA TỔ CHỨC QUỐC TẾ TẠI CÁC QUỐC GIA. (tham
khảo thêm)
4.1 Phái đoàn đại diện của các quốc gia tại các tổ chức quốc tế
4.1.1 Khái niệm
Hiện nay, số lượng các tổ chức quốc tế ngày càng nhiều, hoạt động ngoại giao của các
phái đoàn đại diện ngoại giao của quốc gia tại các tổ chức quốc tế càng trở nên quan
trọng trong quan hệ quốc tế.
Về địa vị pháp lý, phái đoàn đại diện ngoại giao của các quốc gia tại các tổ chức quốc
tế đều là những cơ quan đại diện của quốc gia có chủ quyền, được nhà nước lập ra để
đại diện cho quốc gia đó tại các tổ chức hay hội nghị quốc tế.
Phái đoàn đại diện ngoại giao của các quốc gia tại các tổ chức quốc tế bao gồm phái
đoàn đại diện thường trú và phái đoàn quan sát viên thường trú, các đoàn đại biểu lâm
thời của các nước đi dự hội nghị quốc tế hay các cuộc họp quốc tế do các tổ chức quốc
tế triệu tập (kể cả đoàn đại biểu chính thức và đoàn đại biểu quan sát).
Theo quy định tại Điều 4, khoản 3 Luật Cơ quan đại diện Việt Nam năm 2009, phái
đoàn đại diện của Việt Nam tại các tổ chức quốc tế là “Phái đoàn thường trực, Phái
đoàn, Phái đoàn quan sát viên thường trực và cơ quan có tên gọi khác thực hiện chức
năng đại diện của Nhà nước Việt Nam tại tổ chức quốc tế liên chính phủ”.
Địa vị pháp lý, chức năng và chế độ ưu đãi, miễn trừ của phái đoàn đại diện ngoại
giao của các quốc gia tại các tổ chức quốc tế được quy định trong các điều ước quốc tế
như: Công ước chung về ưu đãi và miễn trừ của Liên Hợp Quốc năm 1946, Công ước
chung về ưu đãi và miễn trừ của các tổ chức chuyên môn của Liên Hợp Quốc năm
1947, Hiệp định giữa Liên Hợp Quốc với Mỹ năm 1947, Công ước Vienna về phái
đoàn đại diện của các quốc gia tại các tổ chức quốc tế phổ cập năm 1975.
4.1.2 Cơ sở thành lập
Phái đoàn đại diện thường trực của quốc gia tại các tổ chức quốc tế được thành
lập theo quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia, trên cơ sở quốc gia là
thành viên của tổ chức quốc tế đó. Tuy nhiên, nhiều trường hợp các quốc gia chưa là
thành viên của một tổ chức quốc tế nhưng vẫn cử phái đoàn quan sát viên thường trực
của mình tại tổ chức quốc tế , và về cơ bản, các phái đoàn này cũng được hưởng các
quyền ưu đãi và miễn trừ ngang bằng như phái đoàn của các quốc gia thành viên chính
thức.
Công ước Vienna 1975 về phái đoàn đại diện của các quốc gia tại các tổ chức
quốc tế phổ cập quy định các vấn đề như: việc đặt phái đoàn đại diện, chức năng,
nhiệm vụ, thành phần của phái đoàn thường trực, phái đoàn quan sát viên thường trực,
việc cử người đứng đầu và cán bộ, nhân viên của phái đoàn quyền ưu đãi và miễn trừ
của phái đoàn và các thành viên… Bên cạnh đó, pháp luật của các quốc gia thành viên
đã tiến hành nội luật hóa các quy định của công ước này, ghi nhận nội dung của nó
vào pháp luật quốc gia làm cơ sở pháp lý cho việc thành lập phái đoàn. Ví dụ theo
Điều 13, Luật Cơ quan đại diện của Việt Nam thì phái đoàn đại diện của Việt Nam tại
các tổ chức quốc tế được Chính phủ thành lập và do Bộ Ngoại giao chịu trách nhiệm
quản lý. Điều 20 quy định chủ tịch nước có thẩm quyền cử, triệu hồi người đứng đầu
cơ quan đại diện thường trực tại Liên Hợp Quốc và đại diện chủ tịch nước tại các tổ
chức quốc tế…
4.1.3 Chức năng
Theo Công ước Vienna 1975, phái đoàn đại diện của các quốc gia tại các tổ chức quốc
tế có các chức năng sau:
- Đại diện cho nhà nước mình tại tổ chức quốc tế
- Duy trì và phát triển mọi mối quan hệ giữa nhà nước mình với tổ chức quốc tế
- Tiến hành đàm phán trong khuôn khổ của các tổ chức quốc tế
- Tìm hiểu và báo cáo với chính phủ nước mình về hoạt động của tổ chức quốc tế
- Đảm bảo sự tham gia của nhà nước mình trong các hoạt động của tổ chức quốc
tế
- Bảo vệ quyền lợi của nhà nước mình trong quan hệ với tổ chức quốc tế
- Thúc đẩy sự phát triển hợp tác giữa các nước thành viên của tổ chức nhằm thực
hiện mục đích và tôn chỉ của tổ chức
4.1.4 Thành phần
Thành phần của phái đoàn đại diện thường trực về cơ bản giống như cơ quan đại diện
ngoại giao (Bao gồm người đứng đầu, các viên chức ngoại giao, nhân viên hành chính
- kỹ thuật, nhân viên phục vụ). Tuy nhiên, một điểm đặc biệt khi thành lập phái đoàn
đại diện của quốc gia tại các tổ chức quốc tế là: việc bổ nhiệm trưởng phái đoàn đại
diện của quốc gia không đòi hỏi phải có sự chấp thuận của tổ chức quốc tế và nước
chủ nhà, nơi có trụ sở của phái đoàn. Nước chủ nhà không có quyền đơn phương
tuyên bố bất tín nhiệm (Persona non grata) đối với thành viên của phái đoàn đại diện .
Đồng thời, các nước có thể cử phái đoàn đại diện của quốc gia mình tại tổ chức quốc
tế với tư cách là cơ quan độc lập hoặc cơ quan kiêm nhiệm. Ví dụ, người đứng đầu
pháp đoàn đại diện ngoại giao của quốc gia tại Liên Hợp quốc có thể đồng thời là đại
sứ đặc mệnh toàn quyền của quốc gia đó tại Hoa Kỳ, hoặc như phái đoàn đại diện
thường trực của Việt Nam tại Liên hợp quốc ở Geneva cũng kiêm luôn là phái đoàn
đại diện tại WTO và các tổ chức quốc tế khác tại thành phố này …
4.1.5 Quyền ưu đãi và miễn trừ
Về cơ bản, phái đoàn đại diện thưởng trực của quốc gia tại các tổ chức quốc tế cũng
như thành viên của phái đoàn được hưởng các quyền ưu đãi và miễn trừ tương tự như
các cơ quan đại diện ngoại giao và thành viên của cơ quan đó. Tuy nhiên, các quyền
ưu đãi và miễn trừ này cũng có những đặc điểm riêng nhất định:
Thứ nhất, các quyền ưu đãi và miễn trừ của phái đoàn đại diện thường trực của quốc
gia tại các tổ chức quốc tế và thành viên phái đoàn được ghi nhận trong điều lệ hoặc
hiến chương của tổ chức, trong các điều ước quốc tế song phương và đa phương giữa
tổ chức quốc tế với nước chủ nhà. Các quyền ưu đãi và miễn trừ này do tổ chức quốc
tế dành cho phái đoàn đại diện của các quốc gia và thành viên của phái đoàn, thông
qua thoả thuận với nước chủ nhà, không phụ thuộc vào quan hệ của nước chủ nhà với
các nước thành viên của các tổ chức quốc tế.
Thứ hai, không áp dụng nguyên tắc có đi có lại trong quan hệ giữa nước có phái đoàn
đại diện thường trực và nước chủ nhà. Như trên đã phân tích, điều này bởi vì mối quan
hệ giữa tổ chức quốc tế liên chính phủ với các nước thành viên độc lập so với mối
quan hệ giữa nước thành viên đó với nước chủ nhà nơi đặt tổ chức.
4.2 Phái đoàn đại diện của tổ chức quốc tế tại các quốc gia
- Khái niệm
Tổ chức quốc tế liên chính phủ là thực thể liên kết chủ yếu giữa các quốc gia
độc lập, có chủ quyền, được thành lập trên cơ sở điều ước quốc tế, phù hợp với luật
quốc tê hiện đại, có quyền năng chủ thể riêng biệt và một hệ thống cơ cấu tổ chức phù
hợp để thực hiện quyền năng đó theo đúng mục đích, tôn chỉ của tổ chức .
Trong quá trình thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình, tổ chức quốc tế liên
chính phủ có thể đặt trụ sở, hoặc cử các đoàn đại diện của mình tại lãnh thổ của các
quốc gia. Ví dụ Liên hợp quốc đặt trụ sở chính tại NewYork, Mỹ và rất nhiều văn
phòng đại diện của mình hoặc của các tổ chức chuyên môn của mình ở các nước ;
hoặc trụ sở của Tòa án công lý Châu Âu đăt tại Luxembourg. Như vậy, phái đoàn đại
diện của tổ chức quốc tế chính là cơ quan đại diện của tổ chức quốc tế liên chính phủ
đặt tại lãnh thổ của các quốc gia để thực hiện mối quan hệ với quốc gia sở tại hoặc với
các quốc gia khác về lĩnh vực phù hợp với quyền năng chủ thể riêng biệt của tổ chức
đó.
- Cơ sở thành lập
Các cơ quan của tổ chức quốc tế đặt tại lãnh thổ các quốc gia được thành lập
trên cơ sở hiến chương, điều lệ của tổ chức và thỏa thuận giữa tổ chức đó với nước
chủ nhà, thông qua một điều ước quốc tế được ký kết giữa các bên. Ví dụ Liên Hợp
Quốc ký hiệp định về trụ sở của Liên Hợp Quốc với Hoa Kỳ ngày 26/6/1947.
- Chức năng
Chức năng của phái đoàn đại diện của tổ chức quốc tế tại quốc gia phụ thuộc
vào quyền năng chủ thế của tổ chức đó, do chính các quốc gia thành viên thỏa thuận
trao cho nó. Mỗi tổ chức quốc tế đều có quyền năng chủ thể riêng biệt, nên hoạt động
của tổ chức này cũng như các phái đoàn đại diện của tổ chức phải ở trong phạm vi
thẩm quyền riêng biệt đó. Ví dụ tổ chức Y tế thế giới (WHO) được thành trao thẩm
quyền trong việc điều phối các vấn đề sức khỏe và y tế cộng đồng trên bình diện quốc
tế, nên hoạt động của cơ quan này cũng như văn phòng đại diện của cơ quan này trên
lãnh thổ các quốc gia không được vượt quá thẩm quyền trên.
- Quyền ưu đãi và miễn trừ
Quyền ưu đãi và miễn trừ dành cho phái đoàn đại diện của các tổ chức quốc tế
tại lãnh thổ của các quốc gia nói chung được xác định dựa trên điều ước quốc tế và
các thỏa thuận có liên quan giữa tổ chức đó với quốc gia chủ nhà . Đối với Liên Hợp
Quốc và các tổ chức chuyên môn của Liên Hợp Quốc sẽ áp dụng Công ước năm 1946
về quyền ưu đãi và miễn trừ của Liên Hợp Quốc và Công ước năm 1947 về quyền ưu
đãi và miễn trừ của các tổ chức chuyên môn của Liên Hợp Quốc. Hai công ước này
quy định các quyền ưu đãi và miễn trừ dành cho các đối tượng trên về cơ bản gần
giống như quyền ưu đãi và miễn trừ dành cho cơ quan đại diện ngoại giao và thành
viên của cơ quan này.
Tóm lại, mối quan hệ giữa phái đoàn đại diện của quốc gia với các tổ chức quốc tế và
phái đoàn đại diện của tổ chức quốc tế với các quốc gia đều do hiến chương, điều lệ
hoặc điều ước quốc tế được ký kết tổ chức đó với nước chủ nhà quy định. Trong bối
cảnh toàn cầu hóa hiện nay, với vai trò không thể thiếu của các tổ chức quốc tế liên
chính phủ trong sự nghiệp bảo vệ hòa bình và an ninh quốc tế, thúc đẩy việc tôn trọng
và thực hiện quyền con người, xây dựng xã hội loài người ngày càng tiến bộ, văn
minh… sự tồn tại của các điều ước quốc tế song phương và đa phương đó là cơ sở
pháp lý quan trọng cho việc thiết lập, tổ chức và hoạt động của các cơ quan nói trên,
tạo điều kiện cho sự gắn kết và hợp tác không thể thiếu trong mối quan hệ giữa các
quốc gia để cùng giải quyết các vấn đề chung của nhân loại.

You might also like