PHẬT GIÁO, SỬ ẢNH

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 23

BỘ CÔNG THƯƠNG

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP TP HỒ CHÍ MINH

KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ


PHẬT GIÁO , SỬ ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI XÃ HỘI VÀ CON
NGƯỜI VIỆT NAM

A. MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài:
Thế kỷ 21 là một kỷ nguyên đột phá của xã hội loài người. Con người đã có những bước
tiến dài trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong đó, khoa học kỹ thuật và
công nghệ thông tin đặc biệt phát triển với tốc độ vũ bão, đủ sức chứng mình giải thích
phần lớn các hiện tượng của đời sống xã hội loài người, biến những ước mơ của con
người thành hiện thực... Việt Nam chúng ta, là một nước đang phát triển, nhưng cũng đã
tiếp thu, áp dụng triệt để những thành tựu của khoa học kỹ thuật sâu rộng vào cuộc sống.
Hòa cùng với sự phát triển đó, sự phát triển của tôn giáo mà đặc biệt là Phật Giáo cũng
không ngừng phát triển và thịnh hành trong một thời gian dài gắn liền cùng thăng trầm
suốt lịch sử của xã hội Việt Nam. Tại sao xã hội Việt Nam ngày cũng tiến bộ, Khoa học
kỹ thuật ngày càng phát triển, có thể biển những sự việc không thể thành có thể thì Phật
Giáo cũng căng phát triển Tầm quan trọng và sự ảnh hưởng của nó đến xã hội và con
người Việt Nam như thể nào? Đô là lý do chọn đề tài “PHẬT GIÁO, SỰ ẢNH HƯỞNG
CỦA NÓ ĐẾN XÃ HỘI VÀ CON NGƯỜI VIỆT NAM".

B. NỘI DUNG

CHƯƠNG 1: TÌM HIỂU LỊCH SỬ HÌNH THÀNH PHẬT GIÁO

1.1. Nguồn gốc ra đời


- Đạo Phật mang tên người sáng lập là Đà (hay buddha). Đạo phật chính là giáo lý mà
Phật Đà đã thuyết giảng. Sau khi ra đời ở Ấn Độ vào thế kỷ thứ 9 đến thế kỷ thứ 6 trước
Công nguyên, đạo Phật được lưu hành rộng rãi ở các quốc gia trong khu vực á - Phi, gần
đây được truyền tới các nước Âu - Mỹ. Trong quá trình truyền bá của mình, đạo Phật đã
kết hợp với tin ngưỡng, tập tục, dân gian, văn hoá bản địa để hình thành rất nhiều tông
phải và học phải, có tác động võ cùng quan trọng với đời sống xã hội và văn hoá của rất
nhiều quốc gia.
-Sự ra đời đạo Phật còn gắn liền với tên tuổi người sáng lập là thái tử Cồ đàm Tất Đạt Đa
sinh năm 563 TCN, con vua Tĩnh Phạm nước Ca tỳ la vệ ở chân núi Hymalaya – miền
đất bao gồm một phần miền Nam được Nepal và một phần của Ấn Độ ngày nay.

-Ngay từ nhỏ, Thái tử Tất Đạt Đa đã được sống trong nhung lụa, không tiếp xúc với xã
hội bên ngoài, không hề biết rằng trong cuộc đời lại có những đói khát, bệnh tật, già yếu
và chết chóc.

-Năm 17 tuổi, Thái tử cưới vợ là công chúa Da giu đà la sinh ra một con trai là La ầu la.
Từ đó thái tử mới được tiếp xúc với hiện thực cuộc sống ngoài chốn cung đình. Những
cuộc gặp gỡ bất ngờ với những cảnh già yếu, bệnh tật, chết chóc,…đã tác động mạnh đến
tâm hồn nhạy cảm của Ngài.

-Năm 29 tuổi, Ngài quyết định rời bỏ ngôi cao quyền lực, rời bỏ cuộc sống nhung lụa xa
hoa để dấn thân vào con đường tu hành khổ hạnh, mong tìm được sự giải thoát cho chúng
sinh.

-Sau 6 năm tu hạnh ở núi Tuyết Sơn mà không đạt được sự yên tĩnh trong tâm hồn và
cũng không nhận thức được chân lý, Ngài nghiệm ra là cả cuộc sống tràn đầy vật chất,
thỏa mãn dục vọng, lẫn cuộc sống khổ hạnh đều không giúp tìm con đường giải thoát, chỉ
có con đường trung đạo là đúng đắn nhất. Do đó, Ngài tự mình đào sâu suy nghĩ để nhận
thức chân lý và bỏ lối tu khỏ hạnh, đi sâu vào tư duy trí tuệ.

-Sau 49 ngày thiền định dưới gốc bồ đề tại làng Uruvela, chìm đắm trong tư duy sâu
thẳm, Ngài tuyên bố đã đến được với chân lý, hiểu được bản chất của tồn tại, nguồn gốc
của khổ đau và con đường cứu vớt. Ngài tự xưng là Phật – có nghĩa là giác ngộ. Người
đời gọi Ngài là Thích ca Mâu ni - bậc thánh của dòng họ Thích ca.

1.2. Nội dung chủ yếu của phật giáo


Những nguyên lý cơ bản của Phật giáo được thể hiện trong giáo lý. Hệ thống giáo lý của
Phật giáo là một hệ thống rất đồ sộ nằm chủ yếu trong Tam tạng kinh điển, gồm Kinh
tạng (ghi lời Phật dạy), Luật tạng (các giới luật), và Luận tạng (các bài kinh, tác phẩm
luận giải, bình chú về giáo pháp của các cao tăng và học giả sau này).

Phật giáo đưa ra tư tưởng “vô ngã”, “vô thường”

- Vô ngã: Tất cả sự vật, hiện tượng cũng như chính bản thân ta là không có thực. Thế giới
(nhất là thế giới hữu hình - con người) là do sự hợp lại của các yếu tố vật chất (Sắc) và
tinh thần. (Danh ). Đó là 5 yếu tố (ngũ uẩn )

+ Sắc (vật chất )


+ Thụ (cảm giác)

+ Tưởng (ấn tượng )

+ Hành (Tư duy nói chung )

+ Thức (ý thức )

Nhưng Danh và Sắc chỉ tụ hội trong thời gian ngắn rồi chuyển sang trạng thái khác, do
vậy “ không có cái tôi” (vô ngã - natman).

- Vô thường: Bản chất sự tồn tại của thế giới là một dòng biến chuyển không ngừng (vô
thường). Không thể tìm ra nguyên nhân đầu tiên, do vậy không có ai tạo ra thế giới và
cũng không có gì vĩnh hằng. Sự biến hiện của thế giới theo chu trình: sinh - trụ - dị - diệt
theo luật nhân quả.

- Phật giáo tiếp thu tư tưởng luân hồi và nghiệp của Upanisa là bộ phận kinh Veda của
đạo Bà la môn phần nói về tri thức. Theo Phật giáo, sự vật mất đi ở chỗ này là để sinh ra
ở chỗ khác. Quá trình thác sinh luân hồi đó do nghiệp chi phối theo nhân quả.

- Theo quan niệm của đạo Phật, để đến được sự giải thoát, mọi người phải nhận thức
Bốn chân lý thiêng liêng tuyệt diệu (Tứ diệu đế). Đó là:

+ Khổ đế:

Phật giáo cho rằng đời là bể khổ. Cái khổ ấy không ngoài 8 nỗi khổ: Sinh, lão, bệnh, tử,
thụ biệt ly (yêu mà phải xa), oán tăng hội (ghét mà phải ở gần), sở cầu bất đắc (muốn mà
không được), thủ ngũ uẩn (khổ vì có sự tồn tại của thân xác).

+ Tập đế (Nhân đế)

Mọi nỗi khổ đều có nguyên nhân. Phật giáo đưa ra “Thập nhị nhân duyên” để chỉ ra
nguyên nhân của sự khổ. Đó là: vô minh, hành, thức, danh sắc, lục căn, xúc, thụ, ái, thủ,
hữu, sinh, lão tử.

+ Diệt đế: Phật giáo khẳng định có thể tiêu diệt nỗi khổ và chấm dứt luân hồi.

+ Đạo đế: Con đường giải thoát, diệt khổ thực chất là tiêu diệt vô minh (sự tăm tối, không
sáng suốt), gồm 8 con đường (Bát chính đạo). Đó là:

Chính kiến : hiểu biết đúng.

Chính tư duy: suy nghĩ đúng.


Chính ngữ: giữ lời nói chân chính.

Chính nghiệp : Nghiệp có hai loại là tà nghiệp và chính nghiệp. Tà nghiệp phải sửa, chính
nghiệp phải giữ. Nghiệp có thân nghiệp (do hành động gây ra), khẩu nghiệp, ý nghiệp.

Chính mệnh: tiết chế dục vọng, giữ điều răn.

Chính tinh tiến: hăng hái truyền bá chân lý của Phật.

Chính niệm: hằng nhớ Phật, niệm Phật.

Chính định: tĩnh tâm, tập trung tư tưởng nghĩ về Tứ diệu đế, vô ngã, vô thường…

Theo Bát chính đạo, con người có thể diệt trừ vô minh, giải thoát, nhập vào cõi niết bàn -
Nirvana. Niết Bàn là trạng thái yên tĩnh, sáng suốt, chấm dứt sinh tử, luân hồi. Như vậy
Phật giáo có tư tưởng biện chứng, mang tính duy tâm chủ quan.

Chú ý: Bát chính đạo còn gọi là Tam học: Tuệ (chính kiến, chính tư duy, chính ngữ),
Giới (chính nghiệp, chính mệnh), Định (chính tinh tiến, chính niệm, chính định)

- Đặc điểm của Phật giáo là không đề cập vị thần sáng tạo thế giới và con người. Đây là
nét độc đáo trong thế giới quan Phật giáo. Về nhân sinh quan, Phật giáo đề cao vai trò của
con người trong cuộc sốnh hiện thực.

Kinh luật tạng trình bày những phép tắc, giới luật. Về cơ bản, đạo Phật có hai giới luật
quan trọng là ngũ giới và thập thiện, quy định những điều mà những người theo đạo phải
tuân theo

- Ngũ giới :

+ Giới sát (không sát sinh).

+ Giới đạo (không trộm cắp).

+ Giới dâm (không tà dâm).

+ Giới vọng ngữ (không được nói điều sai trái).

+ Giới tửu (không uống rượu).

- Thập thiện :

+ Về thân: Không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm.

+ Về khẩu: không nói dối, không nói hai chiều, không ác khẩu, không thêu dệt.
+ Về ý: Không tham lam, không giận dữ, không tà kiến.

- Ngoài những quy định trên, người tu hành còn phải thực hiện một số điều cấm khác.
Các vị sư từ Đại đức trở lên phải theo giới luật nghiêm hơn:

+ Hàng Tỳ kheo : nam 250 giới, Tì kheo nữ 348 giới.

+ Hàng Sa di: phải thực hiện 10 giới: không sát sinh, không trộm cắp, không dâm dục,
không nói điều sai, không uống rượu, không trang điểm, không nằm giường nệm, không
xem ca hát, không giữ vàng bạc, không ăn quá giờ quy định).

Tổ chức của đạo Phật:

- Tổ chức Phật giáo không chặt chẽ. Phật giáo không có giáo quyền, không thống nhất
cách tu hành, có nhiều tông phái và sơn môn.

- Người theo đạo Phật được chia làm hai loại:

+ Người tu hành: phải thoát ly gia đình và các sinh hoạt xã hội, đi tu ở chùa theo quy
định. Nam tu sĩ gọi là Tăng, nữ tu sĩ gọi là Ni.

+ Người tu tại gia: thờ Phật, lễ Phật tại nhà và tuân theo Ngũ giới và Thập thiện.

- Về hệ thống chức sắc và các nhà tu hành:

+ Đối với Tăng:

* Hòa thượng : có 40 năm tu, 60 năm tuổi đời và từ Thượng tọa được tấn phong lên.

* Thượng tọa: có 30 năm tu, 50 năm tuổi đời và từ Đại đức được tấn phong lên.

* Đại đức: là hàng Tỳ kheo, được thọ giới sau khi xuất gia khoảng 10 năm trở lên.

* Sa di: được thọ giới từ Tiểu lên.

* Tiểu: người xuất gia tu hành.

+ Đối với Ni:

Gồm có Ni trưởng, Ni sư, Ni cô, Sadini, Tiểu cũng phải thọ giới và tấn phong như bên
Tăng.

- Phật giáo gồm hai phái là Đại thừa, Tiểu thừa. Từ hai phái đó mỗi phái lại chia thành
nhiều tông nên hay gọi là “tông phái”.
+ Đại thừa (cỗ xe lớn ): phái này cho rằng con người có thể giác ngộ bằng tự lực và bằng
tha lực tức bằng sự dẫn dắt của người khác, đặc biệt là của các vị Bồ Tát. Do đó phải “tự
giác giác tha, tự độ độ tha” tức mình đã giác ngộ thì phải giác ngộ người khác. Ở Việt
Nam phái Đại thừa còn gọi là Bắc tông.

+ Tiểu thừa (cỗ xe nhỏ): Mỗi người phải lo tu thân, giác ngộ chỉ bằng tự lực. Ở Việt Nam
phái Tiểu thừa còn gọi là Nam tông.

Chương II: Thế giới quan và nhân sinh quan của Phật Giáo

2.1 Thế giới quan


2.1.1. Khái quát về thế giới quan của Phật pháp

Nói đến vũ trụ quan là nói đến cách nhìn của chúng ta về sự cấu thành và hủy hoại của vũ
trụ, cũng tức là nói đến sự hiểu biết của nhân loại về hiện tượng giới.

Như chúng ta đã biết, thế giới quan là một khái niệm triết học, tức là cá nhân đối với thế
giới, cho đến cách nhìn rất căn bản về vũ trụ, từ năng lực tư duy của nhân loại hiện khởi,
chứ không phải dừng lại ở sự nghiên cứu hay suy xét đối với một vấn đề nào đó. Như
vậy, Phật giáo có cách nhìn ra sao về vấn đề trên?

Lúc còn tại thế, suốt bốn mươi chín năm thuyết giảng, khai mở hơn ba trăm pháp hội, đức
Phật luôn luôn lấy hai phạm trù : phá ngã chấp[1] và phá pháp chấp[2] làm ý nghĩa trọn
vẹn cho giáo pháp của mình. Ngã chấp chính là cái “ta” mang tính chủ quan, và pháp
chấp chính là vũ trụ vạn hữu mang tính khách quan. Nói chung, nội dung của phật pháp
không ngoài việc giải thích rõ thực tướng của nhân sinh tức “ngã” (cái ta) và vũ trụ tức là
hoàn cảnh nơi mà chúng ta nương ghá để sinh tồn. Phật pháp cho rằng nếu nhận thức
được chân tướng của “ngã” và “pháp”, thì chúng ta không bị tự ngã và hoàn cảnh khách
quan gây bức bách. Nghĩa là chúng ta hân hoan chuyển mê khai ngộ, từ đó lìa khổ được
vui và đạt đến giải thoát vĩnh cửu.

Do vậy, thực chất “pháp” được đức Phật thuyết giảng chính là nguyên tắc tự nhiên của vũ
trụ, là bản hữu của vũ trụ, chứ không phải mơ hồ như một số tôn giáo khác nói “pháp là
do thần linh sáng tạo ra”. Đức Phật luôn huấn thị: “pháp vốn như vậy”, nghĩa là vạn hữu
vũ trụ xưa nay đều hiện tồn theo nguyên tắc tự nhiên và được đức Thích Ca Mâu Ni
khám phá nhờ vào trí tuệ vô thượng của Ngài. Đức Phật phát hiện sự bí áo của nhân sinh
và vũ trụ để rồi tự tại an nhiên giải thoát trở thành bậc Giác Ngộ. Tuy nhiên, đức Phật
không hề lấy đó làm niềm hạnh phúc tuyệt đối cho chỉ riêng bản thân mình, ngược lại,
Ngài vô cùng hoan hỷ đem sự bí áo ấy thuyết giảng cho chúng sanh khiến họ nương vào
giáo pháp thâm diệu để học tập tu hành, đồng thời thấu triệt huyền cơ bí yếu và trở thành
người giác ngộ như Ngài. Trong lịch sử nhân loại, chúng ta có thể nói rằng chưa có vị
giáo chủ nào vĩ đại như thế, và điều ấy đã trở thành bản ý trong sự nghiệp thuyết pháp độ
sanh của đức Phật.

Nói đến nhân sinh và vũ trụ, thực sự đây là một vấn đề hết sức nan giải khiến chúng ta
khó mà nắm bắt hết được. Ví dụ vấn đề được đặt ra: Vũ trụ do đâu sanh khởi? Nó nương
vào đâu để hình thành? Thời gian tồn tại của nó là bao lâu? Phạm vi hay không gian
chiếm hữu của nó rộng bao nhiêu? Với muôn hình vạn trạng hết sức phức tạp của nó rốt
cuộc liệu có hay không có quy luật? Hoặc nó có một chủ tể? Hơn nữa, vũ trụ nhân sinh
do đâu mà có? Đến đi về đâu? Giá trị của sinh mạng nằm ở chỗ nào? Ý nghĩa của nó tồn
tại ở đâu? Những vấn đề này, từ xưa đến nay, rất nhiều các nhà tư tưởng, các triết gia, các
nhà khoa học đã hơn một lần tìm tòi nghiên cứu, nhưng thực chất không ai đưa ra lời giải
đáp hoàn toàn thích đáng.

Vũ trụ này, theo Phật giáo, đó chính là thế giới. Duy Nam Tử nói: “bốn phương trên dưới
là Vũ; xưa, nay và mai sau là Trụ”. Kinh Phật nói: “quá khứ, hiện tại và tương lai là Thế;
Đông, Tây, Nam, Bắc, trên, dưới là Giới”. Như vậy, cả hai quan điểm này đều nói đến sự
hợp xướng của thời gian và không gian vô lượng. Do đó, thế giới quan của phật giáo
cũng chính là vũ trụ quan mà chúng ta thường gọi.

Nói đến vũ trụ quan là nói đến cách nhìn của chúng ta về sự cấu thành và hủy hoại của vũ
trụ, cũng tức là nói đến sự hiểu biết của nhân loại về hiện tượng giới. Từ xưa đến nay, các
học giả phương Đông cũng như phương Tây đã đưa ra nhiều quan điểm lý luận cho vấn
đề này dưới nhiều phạm thức như duy tâm, duy vật.., và hiện tại chỉ lược nêu ra một số
luận điểm của các trường phái như sau.
2.1.2. Duy Vật Luận

Vũ trụ quan của duy vật luận khẳng định vũ trụ chỉ là hình thái tồn tại của vật chất. Nếu
loại trừ vật chất, thì không có thế giới. Do vậy, trường phái này đi đến quyết định rằng
con người cũng do vật chất tạo ra. Các học giả của duy vật luận nói nếu con người không
có buồng tim hay võ não, thì không thể suy nghỉ. Do đó, họ cho rằng tư tưởng đều nương
vào vật chất để tồn tại; con người sau khi chết, nhục thân sẽ biến mất và tinh thần theo đó
cũng tiêu vong. Họ không thừa nhận có một tinh thần tồn tại trong vũ trụ. Trường phái
này khẳng định bất cứ một hoạt động nào của vũ trụ, đều là hoạt động của vật chất. Các
phạm trù như không gian, thời gian, trật tự vv cũng đều trực thuộc đặc tính của vật lý,
chứ con người không thể căn cứ vào hư không để sáng tạo ra quy luật vật lý. Do đó,
nguyên lý của thế giới tự nhiên không lệ thuộc vào con người để tồn tại mà nó tồn tại độc
lập. Họ vẫn công nhận rằng con người có tâm linh, nhưng tâm linh đều do vật chất tạo ra.
Nói chung, Duy vật luận đã chứng minh rõ mối quan hệ giữa vật chất và tinh thần qua ba
luận cứ: tinh thần là thuộc tính của vật chất, tinh thần là sản phẩm của vật chất, tinh thần
là một phần của vật chất. Thuyết duy vật luôn chú trọng vào yếu tố vật chất để hình thành
nên thế giới hiện tượng cũng như nội tại nhằm lý giải sự xuất hiện của vũ trụ trong phạm
trù duy vật biện chứng. Họ cho rằng xã hội là do con người quyết định và con người đều
bắt nguồn từ vật chất, sau đó mới nảy sinh tinh thần để suy nghỉ hay định liệu. Trên cơ sở
này, họ chối bỏ khởi nguyên của tinh thần và đặt tinh thần vào bậc thứ yếu. Trong khi đó,
mọi hiện tượng cũng được đúc khuôn theo một hệ thức không thay đổi “vật chất có trước,
tinh thần có sau”. Do vậy, họ khẳng định tinh thần là sản phẩm của vật chất và đã phá
những luận điểm của các tôn giáo có mặt trong thế giới này. Thế giới, theo họ, là sự đúc
kết của một khối vật chất tạo nên.
2.1.3. Duy Tâm Luận

Duy tâm luận còn được gọi là Quan niệm luận. Trường phái này lấy tinh thần làm nền
tảng căn bản của vũ trụ, đối lập với thuyết duy vật. Do vậy họ đưa ra quan điểm rằng bất
cứ một sự vật nào tồn tại trong vũ trụ đều xuất phát từ tinh thần. Tác dụng của loại tinh
thần này được biểu hiện qua quan niệm của con người và ngay nơi năng lực của sự vật.
Như vậy, vật chất là sản phẩm của tinh thần và chính tinh thần quyết định vật chất. Con
người có quan niệm cũng như sự vật có năng lực. Con người hiểu rõ vũ trụ là nhờ vào
quan niệm nắm bắt sự vật một cách thực sự. Nếu không có tinh thần, thì vũ rụ vạn hữu
không thể hình thành và diệt vong ngay từ buổi đầu sơ khởi. Do tinh thần vốn mang ý
nghĩa như vậy nên nguồn gốc của vũ trụ có sự phát triển hợp lý để tạo thành. Có tinh thần
thì có sự vật. Chính tinh thần là nền tảng làm phát sinh mọi thứ trong vũ trụ. Một sự vật
tồn tại, nếu vắng bóng tinh thần, thì sự vật ấy chết cứng ngay khi chưa thể mường tượng.
Tinh thần là nguyên nhân tạo ra vật thể, đồng thời tự thân của nó có đủ lý tánh để điều
phối sự vật. Tất cả vạn vật trong vũ trụ đều bắt nguồn từ tinh thần, chịu sự chi phối của
tinh thần, cho nên chúng mới hình thành có trật tự và không bị hổn loạn.
2.1.4. Nhị Nguyên Luận

Quan điểm của trường phái này chủ trương vũ trụ được tạo thành từ tính chất dung hợp
của hai phạm trù vật chất và tinh thần. Tâm và vật hiện hữu trong vũ trụ là hai chủng tánh
tương quan tương liên không thể tách rời. Nguồn gốc của tâm và vật là thuộc tính hòa
hợp, bản thân của chúng là thực thể bất biến. Trường phái này đem mối quan hệ tinh thần
và vật chất chuyển biến thành mối quan hệ của thân và tâm, lấy quá trình bất đồng giữa
tư tưởng và vật chất tổ chức thành nhất thể, đem thân tâm và vật chất tổng hợp làm một
không thể tách rời. Thuyết nhị nguyên đem vật chất và tinh thần dung hợp ở đỉnh cáo của
vạn hữu. Sự chia chẻ hay phân biệt giữa tinh thần và vật chất, theo thuyết này, là một
cách nhìn sai lầm không có tính thống nhất. Vạn hữu vũ trụ là sự dung hòa chặt chẻ của
tinh thần và vật chất. Nếu tách rời tinh thần để tìm vật chất, thì hoàn toàn không thấy sự
tồn tại của vật chất. Ngược lại, nếu tách rời vật chất để nắm bắt tinh thần, thì tuyệt đối
không có tinh thần tồn tại độc lập. Thế giới này là quá trình dung hợp của cả tinh thần lẫn
vật chất. Nếu vắng bóng sự hòa hợp của hai yếu tố này thì thế giới nhất định không thể
hình thành và tồn tại. Như vậy, theo Nhất nguyên luận, vũ trụ vạn hữu được tạo nên nhờ
vào sự kết hợp nhuần nhuyển và có thứ tự của hai lãnh vực vật chất và tinh thần.
2.1.5. Đa Nguyên Luận

Tương phản với Nhất nguyên luận, Đa nguyên luận cho rằng yếu tố tạo nên vũ trụ không
phải là một cá thể mà tổ hợp nhiều cá thể. Vì bản thể của vũ trụ vạn hữu mang nhiều yếu
tố, cho nên vũ trụ mới có nhiều hiện tượng. Do đó, trong hiện tượng bất đồng này vốn đã
chứa đựng nguồn gốc bất đồng, chứ không phải chỉ có một căn nguyên nào đó biến dịch
ra hiện tượng.

Căn cứ vào tính chất của bản thể vũ trụ mà nói, thì vốn có sự hiện hữu của duy vật, duy
tâm, nhị nguyên, đa nguyên bất đồng. Nhưng nếu dựa vào sự hình thành của bản thể vũ
trụ để trình bày, thì vốn có nhiều phương pháp diễn thuyết như cơ giới luận, mục địa
luận, điều hòa phái, siêu việt phái .v.v Tuy nhiên, các học thuyết trên, mỗi học thuyết đều
có khuyết điểm của nó. Thực chất của bản thể vũ trụ, nếu nói theo duy vật, thì sự sáng tạo
của sinh mạng, tác dụng của tinh thần, chuyển biến của năng lực đơn thuần không thể
chấp nhận được. Nếu căn cứ vào duy tâm mà nói, thì sự tồn tại của vật chất cũng là sự
thực, và tinh thần không thể sáng tạo ra vật chất. Theo thuyết nhị nguyên, tâm và vật đều
có đặc tính không tương quan của nó, nhưng tinh thần không thể tách rời nhục thể để tồn
tại và hoạt động độc lập. Đa nguyên luận cho rằng có nhiều yếu tố tạo thành vũ trụ chứ
không phải chỉ một yếu tố, và các yếu tố này có tính mâu thuẩn thống nhất với căn
nguyên của vũ trụ. Ngay cả sự lý giải về diễn biến hình thành vũ trụ của cơ giới luận,
mục địa luận, điều hòa phái, siêu việt phái, mỗi thuyết cũng có sở trường và sở đoản của
nó, nhưng không thể giải đáp được tính viên mãn của vũ trụ mà chúng ta đề cập đến.

2.2 Nhân sinh quan


Triết học Phật giáo đã đặt ra và giải quyết nhiều vấn đề của tư duy triết học. Đó là những
vấn đề thuộc bản thể luận, nhận thức luận và nhân sinh quan triết học. Nhân sinh quan
Phật giáo là một hệ thống gồm các quan điểm về con người, đời sống của con người.
(Tiểu Luận Ảnh hưởng nhân sinh quan phật giáo trong đời sống)

*Về con người

Phật giáo tập trung ở học thuyết cấu tạo con người, học thuyết về sự xuất hiện và tái sinh.
Theo Phật con người được cấu tạo từ những yếu tố thể hiện trong thuyết Danh sắc và
thuyết Lục đại.

Thuyết Danh sắc: Con người được cấu tạo từ hai yếu tố vật chất và tinh thần.

Thuyết Lục đại: Con người được cấu tạo từ sáu yếu tố:

Thuyết Ngũ ẩn: Xem con người được cấu tạo từ năm yếu tố.

Trong các thuyết về cấu tạo con người của Phật giáo, thì thuyết Ngũ uẩn là phổ biến hơn
cả. Có bốn loại thực:

Đoạn thực: Thức ăn là động, thực vật, thức ăn vật chất, là cơm ăn nước uống hàng ngày.

Xúc thực: Thức ăn là những cảm xúc, cảm giác.

Tư thực : Thức ăn là sự suy tư, nghĩ ngợi.

Thức thực: Thức ăn là tinh thần, là thức ăn ở cõi vô sắc, sống bằng tinh thần thanh cao.

Phật giáo quan niệm sự vật đều luôn vận động biến đổi, không có cái gì là thường hằng,
bất biến. Còn tương tục vô thường chỉ trong một chu kỳ nối tiếp nhau đều có sinh – trụ –
dị – diệt (đối với sinh vật), hay thành – trụ – hoại – không (đối với sự vật), đối với con
người là sinh – lão – bệnh- tử. (Tiểu Luận Ảnh hưởng nhân sinh quan phật giáo trong đời
sống)

Quan niệm của nhà Phật cho rằng, con người là sự kết hợp động của những yếu tố động,
cho nên là giả tạm, suy cho cùng là vô ngã.

Học thuyết nhân quả của Phật giáo cho rằng, con người gieo nhân nào hưởng quả ấy, ở
hiền gặp lành, gieo gió gặt bão.

Theo quan niệm của Phật giáo, xét đến cùng muôn vật trong vũ trụ là hệ thống nhân
duyên của nhau, cứ thế sinh sinh diệt diệt mãi nối tiếp nhau vô cùng tận. Thân xác con
người được đề cập trong các thuyết Danh sắc, thuyết Lục đại, thuyết Ngũ uẩn của Phật
giáo.

*Nội dung triết học nhân sinh của Phật giáo tập trung ở bốn luận điểm (gọi là “tứ diệu
đế”). Bốn luận điểm này được Phật giáo coi là bốn chân lý vĩ đại về cuộc sống nhân sinh
cho bất cứ cuộc sống nhân sinh nào thuộc đẳng cấp nào.

Luận điểm thứ nhất (khổ đế): (Tiểu Luận Ảnh hưởng nhân sinh quan phật giáo trong đời
sống)
Triết lý nhân sinh Phật giáo cho rằng, bản chất cuộc đời con người là khổ: “Đời là bể
khổ, đời là cả những chuỗi bi kịch liên tiếp, bốn phương đều là bể khổ, nước mắt chúng
sinh nhiều hơn nước biển, vị mặn của máu và nước mắt chúng sinh mặn hơn nước biển“.

Nỗi khổ của thế gian là khôn cùng, song có thể chia làm ba loại khổ hay tám thứ khổ.

Ba loại khổ (Tam khổ) là: khổ khổ, hoại khổ và hành khổ.

Tám thứ khổ (Bát khổ): Sự thật nơi cuộc sống nhân sinh không có gì khác ngoài sự đau
khổ, ràng buộc hệ luỵ, không có tự do. Đó là 8 nỗi khổ trầm lâm bất tận mà bất cứ ai
cũng phải gánh chịu: Sinh, Lão, Bệnh, Tử, Thụ biệt Ly (yêu thương chia lìa), Oán tăng
hội (oán ghét nhau mà phải sống với nhau), Sở cầu bất đắc (cái mong muốn mà không đạt
được), và Ngũ thụ uẩn (5 yếu tố vô thường nung nấu làm khổ).

Luận điểm thứ hai Tập đế (hay Nhân đế):

Tập đế nói lên sự tập hợp, tích chứa những nguyên nhân đưa tới cái khổ. Đức Phật cho
rằng, mọi cái khổ đều có nguyên nhân của nó (Thập nhị nhân duyên) : (Tiểu Luận Ảnh
hưởng nhân sinh quan phật giáo trong đời sống)

Trong thế giới sinh vật, khi đã giải thích về nguyên nhân biến hoá vô thường của nó, từ
quá khứ đến hiện tại, từ hiện đại tới tương lại. Phật giáo đã trình bày thuyết “ Thập Nhị
Nhân Duyên” ( mười hai quan hệ nhân duyên) được coi là cơ sở của mọi biến đổi trong
thế giới hiền sinh, một cách tất yếu của sự liên kết nghiệp quả.

Vô minh: ( là cái không sáng suốt, mông muội, che lấp cái bản nhiên sáng tỏ).

Hành: ( là suy nghĩ mà hành động, do hành động mà tạo nên kết quả, tạo ra cái nghiệp,
cái nếp. Do hành động mà có thức ấy là hành làm quả cho vô minh và là nhân cho Thức).

Thức: ( Là ý thức là biết. Do thức mà có Danh sắc, ấy là Thức làm quả cho hành và làm
nhân cho Danh sắc).

Danh sắc: ( Là tên và hành ta đã biết tên ta là gì thì phải có hình và tên của ta. Do danh
sắc mà có Lục xứ, ấy danh sắc làm quả cho thức và làm nhân cho Lục xứ).

Lục xứ hay lục nhập: ( Là sáu chỗ, sáu cảm giác: Mắt, mũi, lưỡi, tai, thân và tri thức. Đã
có hình hài có tên phải có Lục xứ để tiếp xúc với vạn vật. Do Lục nhập mà có xúc – tiếp
xúc. ấy là Lục xứ làm quả cho Danh sắc và làm nhân cho Xúc.)

Xúc: ( Là tiếp xúc với ngoại cảnh qua sáu cơ quan xúc giác gây nên cmở rộng xúc, cảm
giác. Do xúc mà có thụ ấy là xúc làm quả cho Lục xứ và làm nhân cho Thụ.)
Thụ: (Là tiếp thu, lĩnh nạp, những tác động bên ngoài tác động vào mình. Do thụ mà có
ái. ấy là thụ làm quả cho Xúc và làm nhân cho ái. (Tiểu Luận Ảnh hưởng nhân sinh quan
phật giáo trong đời sống)

Ái: (Là yêu, khát vọng, mong muốn, thích. Do ái mà có Thủ. Do ấy, ái làm quả cho Thụ
và làm nhân cho Thủ.)

Thủ: ( Là lấy, chiếm đoạt cho minh. Do thủ mà có Hữu. Do vậy mà Thủ làm quả cho ái
và làm nhân cho Hữu.)

Hữu: ( Là tồn tại, hiện hữu, ham, muốn, nên có dục gây thành cái nghiệp. Do Hữu mà có
sinh, do đó Hữu là quả của Thủ và làm nhân của Sinh).

Sinh: ( Hiện hữu là ta sinh ra ở thế gian làm thần thánh, làm người, làm súc sinh. Do sinh
mà có Tử, ấy là sinh làm quả cho Hữu và làm nhân cho Tử).

Lão tử: ( Là già và chết, đã sinh ra là phải già yếu mà đã già là phải chết. Nhưng chết –
sống là hai mặt đối lập nhau không tách rời nhau. Thể xác tan đi là hết nhưng linh hồn
vẫn ở trong vòng vô minh. Cho nên lại mang cái nghiệp rơi vào vòng luân hồi ( khổ não).

Thập nhị nhân duyên như nước chảy kế tiếp nhau không bao giờ cạn, không bao giờ
ngừng, nên đạo Phật là Duyên Hà. Các nhân duyên tự tập nhau lại mà sinh mãi mãi gọ là
Duyên hà mãn. Đoạn này do các duyên mà làm quả cho đoạn trước, rồi lại do các duyên
mà làm nhân cho đoạn sau. Bởi 12 nhân Duyên mà vạn vật cứ sinh hoá vô thường.

Mối quan hệ Nhân – Duyên là mối quan hệ biện chứng trong không gian và thời gian
giữa vạn vật. Mối quan hệ đó bao trùm lên toàn bộ thế giới không tính đến cái lớn nhỏ,
không tính đến sự giản đơn hay phức tạp. Một hạt cát nhỏ được tạo thành trong mối quan
hệ nhân quả của toàn vũ trụ. Cả vũ trụ hoà hơp tạo nên nó. Cũng như nó hoà hợp tạo nên
cả vũ trụ bao la. Trong một có tất cả trong tất cả có một. Do nhân Duyên mà vạn vật sinh
hay diệt. Duyên hợp thì sinh, Duyên tan thì diệt. Vạn vât sinh hoá vô cùng là do ở các
duyên tan hợp, hợp tan nối nhau mà ra. Nên vạn vật chỉ tồn tại ở dạng tương đối, trong
dòng biến hoá vô tận vô thường vô thực thể, vô bản ngã, chỉ là hư ảo. Chỉ có sự biến đổi
vô thường của vạn vật, vạn sự theo nhân duyên là thường còn không thay đổi. Do vậy
toàn bộ thế giới đa dạng, phong phú, nhiều hình, nhiều vẻ cũng chỉ là dòng biến hoá hư
ảo vô cùng, không có gì là thường định, là thực, là không thực có sinh, có diệt, có người,
có mình, có cảnh, có vật, có không gian, có thời gian. Đó chính là cái chân lý cho ta thấy
được cái chân thế tuyệt đối của vũ trụ. Thấy được điều đó gọi là “ chân như” là đạt tới cõi
hạnh phúc, cực lạc, không sinh, không diệt, niết bàn. (Tiểu Luận Ảnh hưởng nhân sinh
quan phật giáo trong đời sống)
Trong 12 nguyên nhân đưa ra thì Đức Phật cho rằng, vô minh và ái dục là hai nguyên
nhân chủ yếu đưa đến đau khổ cho con người. Sự kết hợp giữa ái dục và vô minh xuất
phát từ nguồn gốc của ba thứ mà phật gọi là tam độc: tham, sân, si.

Luận điểm thứ ba (Diệt đế):

Đức Phật khẳng định, cái khổ có thể tiêu diệt được, chấm dứt được luân hồi. Đức Phật đã
giảng cho môn đệ về vấn đề này ở thành Ba Nại Na: “Này các Thầy xa môn đến đạo diệt
khổ, diệt lòng tham sinh hợp với thích thú và nhục dục tìm thích thú ở chỗ này chỗ khác
nhất là tham dục, tham sinh, tham vô minh, diệt hết những dục vọng ấy sẽ khỏi khổ“.

Luận điểm này cũng bộc lộ tinh thần lạc quan tôn giáo của Phật giáo; cũng thể hiện khát
vọng nhân bản của nó muốn hướng con người đến niềm hạnh phúc “tuyệt đối”; khát vọng
chân chính của con người tới Chân – Thiện – Mỹ.

Luận điểm thứ tư (Đạo đế): (Tiểu Luận Ảnh hưởng nhân sinh quan phật giáo trong đời
sống)

Sau khi chỉ ra các nỗi khổ ở cuộc đời con người cũng như nguyên nhân gây nên các nỗi
khổ ấy. Đức Phật khẳng định, có thể tiêu diệt được khổ, tiêu diệt nỗi khổ nhân sinh bằng
trải qua tu luyện để thoát khổ đạt đến cõi Niết bàn tuyệt đối tịch tịnh sung sướng, an lạc
và tốt đẹp nhất. Đó không phải là con đường sử dụng bạo lực mà là con đường “tu đạo”.
Thực chất của con đường này là hoàn thiện đạo đức cá nhân. Sự giải phóng mang ý nghĩa
của sự thự hiện cá nhân, không mang ý nghĩa của những phong trào cách mạng hay cải
cách xã hội. Đây là nét đặc biệt của “tinh thần giải phóng nhân sinh” của Phật giáo.

Con đường “giải phóng cá nhân” này gồm 8 nguyên tắc:

Chính kiến: Là sự hiểu biết đúng đắn, nhận thức rõ về tứ diệu đế, hiểu đúng sự vật khách
quan. Người có chính kiến sẽ biết phân biệt đúng sai, chi phối mọi hành động, tâm trí
sáng suốt.

Chính tư duy: Sự suy nghĩ phán xét đúng với lẽ phải. Người tu hành theo chính tư duy
biết suy xét vô minh là nguyên nhân của khổ đau, tìm ra phương pháp tu luyện để thoát
khổ cho mình và mọi người; đó là diệt trừ vô minh, tam độc.

Chính ngữ: Lời nói ngay thẳng, là đưa chính tư duy vào thực hành trong lời nói cụ thể:
không nói dối, không tạo ra sự bất hòa giữa mọi người, không nói lời ác dữ, không thừa
lời vô ích. .

Chính nghiệp: Đức Phật dạy chúng sinh rằng: (Tiểu Luận Ảnh hưởng nhân sinh quan
phật giáo trong đời sống)
Nếu là tà nghiệp như sát sinh, trộm cắp, tà dâm, thì phải cải tạo, cải tà quy chính, làm
điều thiện tránh điều ác. Còn nếu là chính nghiệp việc làm hợp với lẽ phải, có ích cho
mọi người thì phải giữ gìn. Trong chính nghiệp lại có thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp.

Thân nghiệp: Không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm.

Khẩu nghiệp: Không nói dối, không nói ác, không nói hai lưỡi, không nói thêu dệt.

Nghiệp: Không tham dục, không nóng giận, không tà kiến.

Chính mệnh: Lối sống trong sạch, lương thiện, ngay thẳng của con người; không tham
lam gian ác, ăn bám kẻ khác, không gian dối bất chính; sống chân chính bằng nghề
nghiệp chính đáng.

Chính tịnh tiến: Đức Phật dạy con người cố gắng làm điều thiện, tránh điều ác; không
quên lý tưởng tu đạo, luôn cảnh giác tỉnh táo trong từng việc làm; phải chủ động tích cực
trong việc tìm kiếm truyền bá chân lý nhà Phật.

Chính niệm: Trong đầu con người luôn có ý niệm trong sạch ngay thẳng, ghi nhớ những
đạo lý chân chính, điều hay lẽ phải ở đời, chăm lo thường xuyên niệm Phật. (Tiểu Luận
Ảnh hưởng nhân sinh quan phật giáo trong đời sống)

Chính định: Sự tập trung tư tưởng vào một việc chính đáng, đúng chân lý, tĩnh lặng suy
tư về tứ diệu đế của vô ngã vô thường về nỗi khổ của con người, là cơ sở cho chính kiến,
chính tư duy ở trình độ cao.

Triết học Mác – Lênin cũng nghiên cứu con người, lấy đó làm điểm xuất phát đồng thời
cũng là mục đích cuối cùng để phục vụ đời sống con người. Nhưng con người trong triết
học Mác là con người hiện thực sống trong một xã hội nhất định, với các quan hệ xã hội
cụ thể. Còn con người trong Phật giáo là con người nô lệ của các sở cầu tham vọng của
mình.

Chương III: Ảnh hưởng của đạo Phật đối với đời sống con người Việt Nam

3.1 Đạo Phật với việc hình thành nhân cách con người Việt Nam
Suốt hơn 2.000 năm lịch sử qua, Đạo Phật luôn gắn bó với con người Việt Nam. Những
triết lý nhân sinh của Đạo Phật đã thẩm thấu vào tinh thần dân tộc và có ảnh hưởng sâu
sắc đến nhân sinh quan con người Việt Nam, góp phần đắc lực vào việc xây dựng nhân
cách người Việt. Có thể nói, đạo đức Phật giáo đã thực sự ăn sâu vào đạo lý truyền thống
dân tộc, ảnh hưởng sâu sắc đến tâm lý, lối sống, phong tục, tập quán của con người. Hầu
như người dân Việt nào cũng tin rằng sống có đạo đức thì sẽ gặt hái được những điều
thiện, điều tốt; sống vô đạo đức, trái luân thường đạo lý, ắt sẽ bị quả báo.

Hầu như người dân Việt nào cũng tin rằng sống có đạo đức thì sẽ gặt hái được những
điều thiện, điều tốt,sống vô đạo đức, trái luân thường đạo lý, ắt sẽ bị quả báo.

Triết lý của đạo Phật về Phật tính bình đẳng, tư tưởng từ bi đối với nhân sinh mang một
giá trị tư tưởng đạo đức nhân bản sâu sắc, có giá trị tích cực đối với nhân dân lao động.
Có thể tìm thấy trong Phật giáo những giá trị đạo đức mang tính mẫu mực, phù hợp tâm
lý, cốt cách người Việt. Đó là tư tưởng nhân đạo, tinh thần bác ái, tinh thần cứu khổ, cứu
nạn, hướng lợi trừ hại, vì cuộc sống bình yên của con người. Nhờ sự tương hợp ở một
mức độ nhất định giữa đạo đức Phật giáo và đạo đức truyền thống người Việt mà Phật
giáo đã có những đóng góp trong việc hình thành tâm lý, đạo đức nhân cách người Việt.

3.1.1. Ảnh hưởng của luật Nhân quả

Là một trong những yếu tố hun đúc nên đạo đức truyền thống của dân tộc suốt hàng
nghìn năm, đạo đức Phật giáo ngày nay vẫn còn lưu giữ nhiều giá trị tích cực, có thể góp
phần xây dựng đạo đức, nhất là tính hướng thiện, bác ái của con người. Đạo Phật đã tạo
dựng cho Phật tử một niềm tin vào luật nhân quả, vào vô thường, vô ngã… Niềm tin ấy
sẽ chi phối ý thức đạo đức của con người, không chỉ ảnh hưởng đối với Phật tử mà còn
lan toả và tác động đến mọi tầng lớp nhân dân. Nó tạo ra cho con người một sức mạnh
tinh thần để vượt lên cám dỗ vật chất, những trắc trở trong cuộc sống, hướng họ vào một
lý tưởng sống tốt đẹp, vị tha. Tình thương và lòng nhân ái có thể giúp con người hạn chế
bớt tính ích kỷ, từ bỏ tham, sân, si.

Phật giáo đề cập rất nhiều đến thuyết nhân duyên, đến quan hệ nhân quả. Luân hồi nghiệp
báo là giáo lý Phật giáo dựa trên luật nhân quả. Luật nhân quả đóng vai trò quan trọng
trong việc hình thành phát triển nhân sinh quan và đạo đức trong nhân dân ta. Trong
Truyện Kiều, Nguyễn Du viết: “Cho hay muôn sự tại trời/ Phụ người chẳng bỏ khi người
phụ ta/ Những người bạc ác tinh ma/ Mình làm mình chịu kêu mà ai thương”. Những câu
thơ của Nguyễn Du cho thấy, triết lý ác giả, ác báo của Phật giáo được đề cập vần xoay
“hại nhân – nhân hại” xưa nay lẽ thường ảnh hưởng thấm sâu vào nhân sinh quan con
người Việt Nam. Truyện Kiều đã gián tiếp thể hiện triết lý nhân sinh, mang đậm màu sắc
Phật giáo, cách thử nghiệm lý giải cuộc đời đau khổ cũng như phương pháp thoát khổ.
Phật giáo nêu cao thiện tâm, bình đẳng cho mọi người như là những tiêu chuẩn đạo đức
cơ bản của đời sống xã hội.

Những quan niệm “ở hiền gặp lành, gieo gió phải gặt bão, nhân nào quả đấy”,… chứng
minh bản chất từ bi, hỷ xả trong triết lý nhân sinh Phật giáo thấm sâu vào đời sống tinh
thần dân tộc. Luật nhân quả theo Phật giáo đề cập đến dòng biến động, sinh diệt nối tiếp
nhau, là nguồn động lực thôi thúc con người hành động, vững tin vào cuộc sống; hướng
con người vào việc thiện, xa lánh điều ác. Ngoài ý nghĩa tích cực trong việc giáo dục và
xây dựng một gia đình tốt, một xã hội yên bình, Phật giáo nhấn mạnh sự nỗ lực là yếu tố
quyết định của mỗi con người trong quá trình tu tập đi đến giác ngộ. Giáo lý nhân quả
của Phật giáo không ra lệnh cũng không trừng phạt, mà đưa con người về vị trí thực sự
của họ, không tách khỏi ý thức trách nhiệm vai trò vị trí của mình trong gia đình và xã
hội, không ngừng tự giáo dục theo các chuẩn mực đạo đức, đạt đến sự hoàn thiện của bản
thân.

Tóm lại, thông qua Phật giáo, chúng ta có thể tìm thấy nhiều nội dung tư tưởng mang tính
giáo dục sâu sắc. Mục tiêu giáo dục của Đạo Phật là con người giác ngộ, có năng lực tự
giải thoát để đạt tới hạnh phúc. Có thể nói, Phật giáo đã mang đến một quan niệm tiến bộ,
bình đẳng và đề cao vai trò của con người trong hoạt động thực tiễn.

3.1.2. Ảnh hưởng của Ngũ giới

Tuy nhiên, cũng theo Phật giáo, trong quá trình vươn lên hoàn thiện mình, con người cần
phải nắm vững quy luật khách quan, phải có những phương thức hành động đúng đắn,
hợp quy luật hay còn gọi là gắn liền với đạo đức. Giới còn là phương tiện dẫn dắt con
người vượt khỏi sông mê, bể khổ, luân hồi, tới chốn an lạc, giải thoát. Không chỉ vậy,
giới còn là điều kiện tối quan trọng trong việc tu tập thiền định. Do vậy, giữ giới cũng
đồng nghĩa với việc con người tự rèn luyện, trau dồi đạo đức. Nghiên cứu Ngũ giới,
chúng ta thấy đấy là những nguyên tắc đạo đức cơ bản mà Phật đặt ra cho các Phật tử
thực hành. Ngũ giới góp phần hướng con người đi đến sự hoàn thiện trong tư tưởng, hành
vi, bồi dưỡng nhân cách theo nhân sinh quan Phật giáo.

Một mặt, những nội dung mà Ngũ giới đề cập đến không chỉ có ý nghĩa nuôi dưỡng lòng
từ bi, nhân đạo ở mỗi cá nhân mà còn hướng tới việc xây dựng một xã hội đạo đức, ổn
định. Mặt khác, Ngũ giới có tác dụng ngăn ngừa những mầm mống nguy hại đến tư cách
đạo đức con người, mặc khác khơi gợi những hành vi tốt phát triển…. Có thể thấy, Ngũ
giới bao hàm đầy đủ, toàn diện ba mặt “thể dục, trí dục, đức dục” trong việc hình thành
nhân cách con người. Không những vậy, lý luận về Ngũ giới còn có ý nghĩa thiết thực
trong việc thiết lập trật tự, an ninh cộng đồng, đảm bảo một nếp sống lành mạnh, tiến bộ
cho toàn xã hội… Chính ở điểm này, Phật giáo khẳng định ưu thế vượt trội của nó trong
việc giáo dục đạo đức xã hội. Thông qua ngũ giới, Phật giáo Việt Nam đã thể hiện vai trò
định hướng cho các cá nhân, xã hội trong việc thoát bỏ cái ác, cái xấu hướng đến các giá
trị chân, thiện, mỹ.
Gần gũi với Ngũ giới là Thập thiện, cũng đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng
nhân cách con người Việt Nam hiện nay. Đạo Phật là một tôn giáo, đồng thời có thể xem
như một phương pháp hay cách sống để làm cho con người thêm tốt đẹp và cao quý.

3.1.3. Ảnh hưởng của triết lý từ bi, hỷ xả

Đạo lý Từ-bi-hỷ-xả của Phật giáo đã ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống tinh thần người
Việt, là một trong những yếu tố tham gia vào quá trình hình thành giá trị văn hóa dân tộc.
Tư tưởng, hành vi đạo đức Phật giáo phù hợp với truyền thống nhân đạo, thương người
như thể thương thân của đạo lý người Việt Nam:

“Bầu ơi thương lấy bí cùng,

Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.”

Ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo đã trở thành một bộ phận hợp thành đạo đức của xã hội
Việt Nam từ thuở xa xưa. Thời kỳ Lý – Trần, Phật giáo chiếm vị trí chủ đạo trong đời
sống tinh thần của xã hội, thì có thể nói, đạo đức Phật giáo gần như đồng nhất với đạo
đức xã hội. Ngay cả khi Phật giáo lui vào dân gian, ảnh hưởng của nó vẫn không hề mất
đi. Nhiều giá trị đạo đức của Phật giáo nói riêng và tôn giáo nói chung có tính phổ quát.
Vì vậy, khi đánh giá vai trò của tôn giáo, Kant – nhà triết học người Đức (1724 – 1804)
cho rằng, chức năng cơ bản của tôn giáo là chức năng đạo đức. Cũng như các tôn giáo
khác, Phật giáo là niềm an ủi cho con người bằng một sự đền bù hư ảo, hay là đem lại sự
thỏa mãn nhu cầu tâm linh một cách ảo tưởng, coi sự giải thoát khỏi thế giới trần tục làm
cứu cánh cho cuộc đời đau khổ của mình. Marx đã từng nói: “Tôn giáo là tiếng thở dài
của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có trái tim, cũng giống như nó là
tinh thần của những trật tự không có tinh thần. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân” [2].
Phật giáo đem đến cho con người sự thanh thản, niềm hy vọng vào một cuộc sống tốt đẹp
ở cõi Niết bàn. Con người tin theo Đạo Phật và nhờ đó nhu cầu tâm linh của họ được an
ủi, đền đáp. Với Phật tử, Đức Phật là hình tượng của sự sáng suốt, lòng nhân từ bao dung
độ lượng luôn cứu vớt và ban phước lành cho con người.

Có thể nói, với triết lý từ bi, hỷ xả, khuyến khích con người hướng thiện, Phật giáo đã đi
vào lòng người, có tác dụng hoàn thiện nhân cách đạo đức con người và hướng tới một xã
hội bác ái, góp phần tích cực vào việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thực tế đã chứng
minh, Phật giáo tích cực tham gia các hoạt động từ thiện như: xây dựng trung tâm nuôi
dưỡng những trẻ mồ côi; thành lập viện dưỡng lão, chăm sóc, nuôi dưỡng người già cô
đơn không nơi nương tựa, cứu trợ người dân vùng thiên tai, mở lớp tình thương dạy chữ
cho các cháu không có điều kiện đến trường, lập phòng khám từ thiện, tổ chức cai
nghiện, giúp đỡ những mảnh đời éo le tái hoà nhập cuộc sống… Chính việc làm cụ thể đó
đã kêu gọi và vận động hàng trăm nghìn tấm lòng từ bi của mọi người cùng đoàn kết giúp
đỡ những cuộc đời không may mắn. Sức lan tỏa đạo đức và triết lý Phật giáo một phần
chủ yếu là do các Tăng Ni, Phật tử có nhân cách đạo đức trong sạch, thanh tao thực hiện.
Chính nhân cách đó đã cảm hoá con người góp phần xây dựng những giá trị đạo đức và
lối sống cho con người Việt Nam.

3.1.4. Ảnh hưởng đến giá trị đạo đức

Đạo đức Phật giáo thông qua những giá trị, chuẩn mực và những nghi lễ đã đi vào đời
sống người dân Việt Nam, sự ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo không còn là giáo lý,
kinh kệ trên sách vở mà đã trở thành phong tục, lối sống của nhiều người, nhiều gia đình,
và cả dân tộc. Qua quá trình lịch sử người dân Việt Nam đã tiếp thu những tư tưởng Phật
giáo đồng thời cũng sáng tạo ra các giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể mang cốt cách Phật
giáo. Mỗi một làng quê người Việt đều có một ngôi chùa, người dân luôn tự hào về ngôi
chùa của mình, nơi đó không chỉ mang giá trị tâm linh mà dường như nó mang cả phần
“hồn” dân tộc. Từ ngàn đời nay ngôi chùa là biểu tượng của làng quê Việt Nam và trở
thành một bộ phận không thể thiếu trong sinh hoạt cộng đồng của người dân Việt Nam.
Thường thì mỗi làng đều có một ngôi chùa, ngôi chùa góp phần làm tăng thêm vẻ đẹp
cho quê hương, làng xóm. Với quan điểm “trẻ vui nhà, già vui chùa”, người Việt Nam
tìm đến chùa với một tâm thành kính. Thông qua việc lễ bái, sinh hoạt tôn giáo, con
người muốn phán xét lại bản thân theo các chuẩn mực của đạo đức Phật giáo. Đó cũng
chính là dịp để con người có thể tĩnh tâm, trấn chỉnh lại mình, hoàn thiện bản thân mình.
Mỗi năm, lễ hội Phật giáo diễn ra ở các nơi với quy mô khác nhau… Đã thu hút không
chỉ Phật tử mà cả những người ngoại đạo có tác dụng khơi dậy tình yêu quê hương đất
nước, niềm tự hào dân tộc, thắt chặt tình cảm cộng đồng, hướng con người tới những giá
trị cao đẹp, thánh thiện.

Cần khẳng định rằng, từ trong lịch sử dân tộc, Phật giáo Việt Nam đã có nhiều đóng góp
trong việc hình thành những quan niệm rất tích cực, nhân bản. Những giá trị và chuẩn
mực đạo đức mà Phật giáo đề cập đến, đã đi vào cuộc sống và được duy trì cho đến tận
ngày nay. Đời sống hiện thực với những rủi ro, bất trắc đã khiến con người ngày càng
hướng về các giá trị, lời khuyên đạo đức của Đức Phật để cân bằng tâm lý. Tri thức Phật
giáo trong chừng mực nhất định đã đáp ứng được nhu cầu tâm lý của người Việt Nam
hiện đại. Chính vì lẽ đó mà nhiều phạm trù đạo đức của Phật giáo vẫn tiếp tục được lưu
trữ, sử dụng cho đến nay. Tư tưởng từ bi, hỷ xả, cứu khổ, cứu nạn của nhà Phật vẫn được
người Việt tiếp thu và phát huy trong điều kiện kinh tế thị trường. Những qui tắc đạo đức
Phật giáo có nét tương đồng với chuẩn tắc đạo đức xã hội vẫn đang được nhiều người tin
theo, định hướng cho họ đời sống thực tiễn. Không những thế, với chủ trương “Phật pháp
với đời sống, đời sống với Phật giáo”, Đạo Phật ngày nay đã bổ sung những tri thức,
chuẩn mực đạo đức phù hợp với thời đại. Điều này cũng đã góp phần làm phong phú nền
đạo đức truyền thống của người Việt Nam. Người Việt hướng tới Đức Phật với đức tâm
thành kính, tạo thành sức mạnh tâm linh, tinh thần giúp họ vượt qua những trắc trở, cám
dỗ để đạt đến cuộc sống tốt đẹp, chân thiện mỹ. Khi mà cơ chế thị trường vẫn đang bộc lộ
những mặt tiêu cực của nó thì Phật giáo với những quy tắc, chuẩn mực đạo đức cộng với
niềm tin đạo đức riêng mình vẫn còn có những tích cực, là chỗ dựa tinh thần trong quần
chúng nhân dân.

Hơn thế, Đạo Phật với nội dung giáo lý của mình đã hình thành trong tín đồ quan niệm về
một trật tự đạo đức, một xã hội tươi đẹp: cõi Niết Bàn, Tây phương cực lạc… Lý tưởng
đó đã trở thành động lực thôi thúc các tín đồ hướng đến những hành động tốt đẹp, trong
đó con người đã hoàn toàn dứt bỏ được các dục vọng, ham muốn cá nhân. Mẫu người lý
tưởng mà Đạo Phật xây dựng với phong cách đạo đức từ bi, hỷ xả, vô ngã, vị tha cũng
chính là mẫu người xã hội hiện đại cần đến.

3.2 Ảnh hưởng tích cực của Phật giáo đến văn hóa truyền thống của người Việt Nam
3.2.1. Ảnh hưởng tích cực của Phật giáo về phương diện đạo đức

Đạo Phật được truyền vào Việt Nam từ đầu Công Nguyên bằng hai con đường: đường
thuỷ thông qua buôn bán với thương gia Ấn Độ và theo đường bộ từ Trung Quốc truyền
sang (Thiền tông, Tịnh Độ tông và Mật tông). Phật giáo khi du nhập vào Việt Nam đã có
mối quan hệ mậthiết với tư tưởng, tinh thần dân tộc và đã có sự biến đổi cho phù hợp với
đặc điểm cư dân người Việt, từ đó Phật giáo Việt Nam có những đặc trưng riêng so với
Phật giáo Ấn Độ và Phật giáo Trung Quốc. Với người Việt, Đạo Phật không chỉ là một
triết thuyết, mà quan trọng hơn đó là một triết lý sống thiện, sống có đạo đức, trung thực,
nhân ái, bao dung. Đạo Phật ở Việt Nam được đông đảo quần chúng lao động nghèo khổ
tiếp nhận. Đức Phật không những khuyên con người dứt bỏ tham, sân, si, sống từ, bi, hỉ,
xả, mà còn khuyên con người tránh giáo điều, không quá nệ vào truyền thống, không xem
xét dữkiện một cách hời hợt. Phật giáo hôm nay đã có những biến đổi quan trọng theo
hướng thích ứng với nhu cầu của nhân sinh, của xã hội hiện đại.

Những chuẩn mực trong hệ thống đạo đức Phật giáo rất gần gũi với giá trị đạo đức truyền
thống của người Việt Nam, nên chúng đã nhanh chóng được người dân Việt Nam đón
nhận. Phật giáo với tư cách là tôn giáo, bên cạnh đó còn là phép dưỡng sinh, kế thừa phép
dưỡng sinh của Yoga. Phật giáo đã xây dựng được một hệ thống phép dưỡng sinh như
thiền định làm thư giãn thần kinh và cơ bắp, tập trung tư tưởng, yên với luật vô thường,
vô ngã. Đó là một phương pháp của sự tu luyện. Phương pháp đó có tác dụng làm cho
con người vượt qua những nỗi tức giận, bực bội, mệt mỏi, những trạng thái tinh thần bất
an, giúp họ trở lại trạng thái bình thường, thậm chí đạt được sự thanh thản, có lợi cho sự
sống. Nhiều người đã thấy được giá trị của phương pháp này, đã chấp nhận nó, và đồng
thời cũng chấp nhận cả Đạo Phật.

Phật giáo khuyên con người làm điều lành, tu nhân tích đức hướng tới chuẩn mực đạo
đức xã hội, như hiếu thảo với cha mẹ, trung thực, nhân ái, hướng tới cái thiện, tránh xa
điều ác. Đó là những hành vi đạo đức mang tính thiện rất gần gũi trong cuộc sống. Với
những tư tưởng về “vô thường, vô ngã”, “từ, bi, hỉ, xả”, “luân hồi, quả báo”, “nhân quả”,
Phật giáo đã phần nào đáp ứng nhu cầu về tâm linh của người dân. Đạo đức Phật giáo đã
góp phần bổ sung những giá trị đạo đức mới, phù hợp với tâm lý, đạo đức của người Việt,
làm phong phú và sâu sắc thêm hệ giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc. Có thể nói,
đạo đức Phật giáo đã thực sự ăn sâu vào đạo lý truyền thống dân tộc, ảnh hưởng sâu sắc
đến tâm lý, lối sống, phong tục, tập quán của con người. Một bộ phận người dân không
am hiểu tường tận triết lý trừu tượng, cao siêu của Phật giáo như vô thường, vô ngã, thập
nhị nhân duyên, tứ diệu đế, nghiệp báo, luân hồi, nhưng họ vẫn tự coi mình là tín đồ Phật
giáo. Hằng tháng vào ngày mồng một họ lại ăn chay, niệm Phật, đến cửa Chùa cầu bình
an, sức khỏe cho gia chung. Họ tin rằng, sống có đạo đức thì sẽ gặt hái được những điều
thiện, điều tốt; sống vô đạo đức, trái luân thường đạo lý, ắt sẽ bị quả báo. Phật giáo chủ
trương thực hiện công bằng, bác ái, từ, bi, hỉ, xả, không oán ghét, thù hận. Điều đó rất
gần với tâm lý, bản sắc người dân. Người dân tìm đến với Đạo Phật không chỉ vì nhu cầu
tâm linh, cảm thấy thư thái an lạc nơi cửa Phật, mà còn vì những nội dung đạo đức xã hội
được ẩn chứa trong đạo lý Phật giáo. Đạo Phật không khuyên con người hướng tới một
thế giới an lạc hư ảo, mà khuyên con người hướng tới cuộc sống hiện thực này. Giáo lý
từ bi của nhà Phật gặp gỡ, giao thoa với tinh thần yêu nước, lòng thương người, điều đó
đã góp phần tạo dựng nên một nếp nghĩ, một cách sống, một giá trị đạo đức trong đời
sống của người Việt Nam. Đạo đức Phật giáo đã hòa quyện với chủ nghĩa yêu nước.
Người Việt tìm thấy trong Phật giáo những giá trị đạo đức mang tính mẫu mực, phù hợp
tâm lý, cốt cách người Việt, đó là tư tưởng nhân đạo, tinh thần bác ái, cứu khổ, cứu nạn,
vì cuộc sống bình yên của con người.

Niềm tin mà đạo đức Phật giáo tạo dựng đã chi phối ý thức đạo đức của người Phật tử,
hình thành ở họ một ý thức đạo đức khuyến thiện, trừ ác, làm cho họ sống khiêm nhường,
bác ái và yêu thương nhau hơn. Phật giáo khuyên con người sống hướng thiện, tin vào
nghiệp báo luân hồi... Điều đó giúp họ từ đó tự giác hành động hướng thiện. Phật giáo có
giá trị giáo dục đạo đức rất lớn. Đây là điều mà đạo đức xã hội của chúng ta đang hướng
tới. Tình thương và lòng nhân ái sẽ giúp con người từ bỏ dần tính ích kỷ, từ bỏ lòng tham
lam, sự sân hận và từ đó cũng diệt trừ được tam độc (tham, sân, si); đó chính là cội rễ nảy
sinh sự xung đột, chiến tranh, bạo hành trong xã hội.
Trong xu thế toàn cầu hoá, mặt trái của kinh tế thị trường tác động làm biến đổi rất nhiều
tới đời sống đạo đức xã hội, giải pháp tam độc “tham, sân, si” và ngũ giới của Đạo Phật
còn có ý nghĩa thiết thực đối với đạo đức của con người. Tư tưởng từ bi, cứu khổvà diệt
khổ của Đạo Phật trong thời hiện đại vẫn còn nguyên giá trị. Phật giáo dạy con người biết
yêu thương sự sống, tình yêu; đó không chỉ bó hẹp với con người, mà còn bao trùm đến
muôn loài, trong đó có thực vật, môi trường thiên nhiên, cây xanh, động vật. Chủ trương
không giết hại muôn loài chính là phát sinh từ lòng từ bi, đồng thời phát huy được lòng
nhân ái nơi mỗi con người, biết tôn trọng sinh mệnh và quyền sống của muôn loài trên
trái đất này.

Ngày nay, với chủ trương “tìm Niết bàn trong hiện thực”, Phật giáo đã và đang hướng
con người vào cuộc sống này, chứ không phải vào một thế giới ảo tưởng. Nếu chúng ta
biết sống tốt đẹp, làm chủ cuộc sống của mình, thì chúng ta tất sẽ đạt được Niết bàn. Tư
tưởng khuyên con người có ý thức tự lập, biết làm chủ bản thân là tư tưởng vô cùng cần
thiết trong xã hội hiện đại. Đạo Phật đề cao trí tuệ và khuyến khích khả năng nỗ lực của
mỗi con người.Những giá trị đạo đức phát khởi từ tinh thần đại bi, trong những điều kiện
lịch sử cụ thể, luôn có tác dụng tích cực trong đời sống đạo đức, đời sống văn hoá tinh
thần của con người Việt Nam.
3.2.2 Ảnh hưởng tích cực của Phật giáo về phương diện lối sống
Phật giáo không chỉ có ảnh hưởng sâu đậm tới đạo đức của người dân Việt, mà còn có
ảnh hưởng khá đậm nét đến lối sống, cụ thểđến cách thức giao tiếp, ứng xử, phong tục,
tập quán, từ đó góp phần hình thành những giá trị, chuẩn mực trong lối sống của
ngườidân. Đạo Phật thấm vào nền văn hóa dân tộc; lan tỏa và có một chỗ đứng nhất định
từcung đình cho đến làng xã trở thành những giá trị tinh thần vô giá cho người Việt.
Chẳng hạn, Phật giáo đề cao sự hiếu thuận của con cái với ông bà, cha mẹ thông qua việc
thực hiện Tứ ân. Trong giao tiếp, ứng xử, Phật giáo chủ trương thiết lập quan hệbình
đẳng giữa các tha nhân, Phật giáo cho rằng trong mỗi người đều có tính Phật, nếu biết
cách tu tập, con người sẽ đoạn trừ được vô minh, tham ái đạt giải thoát.

Ngoài ra, Phật giáo khuyên con người nên chung sống hài hòa với thiên nhiên, sống hòa
mình với muôn loài cây cỏ, hoa lá, chim muông, yêu thương tất cả sinh vật. Chuẩn mực
trong lối sống Phật giáo như “cấm sát sinh” là lối sống tôn trọng tựnhiên, sống hài hòa
với tự nhiên. Truyền thống sống hài hòa với tự nhiên của người Việt có một phần ảnh
hưởng từ quan niệm sống hài hòa với thiên nhiên của Phật giáo.

Phật giáo còn in đậm dấu ấn của mình trong phong tục, tập quán của người dân như tập
tục ăn chay, thờ Phật, phóng sinh và bố thí. Xuất phát từ tinh thần từ bi của Đạo Phật, tục
lệ bố thí và phóng sinh cũng đã và đang ăn sâu vào trong đời sống văn hóa tinh thần của
người dân. Theo Phật giáo phóng sinh là nhằm cứu chuộc cuộc sống cho các giống loài
trước nguy cơ bị sát sinh, để bản thân và người khác không vướng vào giới sát. Người
Việt từ xưa đã có tập tục phóng sinh trong các ngày rằm, mùng một hay một số ngày lễ.
Vào những ngày rằm, mồng một, các gia đình đều sắm lễ bày biện bàn thờ tổ tiên đểthể
hiện sự kính ngưỡng với người đã khuất, đồng thời họ đến các chùa, các nơi thờ tự để
thực hiện sự cầu khấn cho gia chung được an lành, mạnh khỏe, bình an trong cuộc sống,
mặc dù họ không phải là tín đồ Phật giáo. Họ không hiểu thấu đáo những giáo lý của nhà
Phật, như “tứ diệu đế”, hay “Bát chính đạo”; không biết cặn kẽthuyết “nhân quả”, “luân
hồi” nhưng họ có thể tin những điều đó dưới góc độ luân lý, đạo đức với mong muốn cầu
mong Thần linh đem lại cho gia đình họ nhiều may mắn, phúc lộc, tai qua nạn khỏi. Khi
đến chùa người ta cư xử với nhau có nghĩa, có tình, không ồn ào, xô bồ như các nơi khác.
Ý nghĩa đạo đức và nét đẹp chính là ở chỗ đó. Lễ Phật Đản, lễ Vu Lan, lễ phóng sinh là
nghi lễ của Phật giáo và được nhiều người dân hưởng ứng nhiệt tình. Trong suốt chiều
dài của lịch sử dân tộc, Phật giáo đã ảnh hưởng khá sâu đậm đến phong tục tập quán, lối
sống và văn hóa nghệ thuật. Đó là đạo lý sống nhân ái, vị tha, hướng thiện, có tình, có
nghĩa, nếp sống cần cù, giản dị, chịu thương, chịu khó, yêu thương, đùm bọc nhau trong
cuộc sống, điều đó giúp cho con người hướng tới chân thiện mỹ.

3.2.3. Ảnh hưởng tích cực của Phật giáo vềphương diện nghệ thuật

Phật giáo đã có rất nhiều đóng góp to lớn cho nghệ thuật, góp phần hướng thiện cho con
người, cân bằng cuộc sống. Trong tương lai, Phật giáo còn có vai trò to lớn trong đời
sống tâm linh của người dân Việt

You might also like