Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 27

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

VIỆN THƯƠNG MẠI VÀ KINH TẾ QUỐC TẾ

......................... 0O0.......................

BÀI TẬP NHÓM MÔN THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ


ĐỀ TÀI: TÌM HIỂU VỀ QUỸ TIỀN TỆ QUỐC TẾ IMF

Nhóm sinh viên : Nhóm 2

Lớp tín chỉ : : TMQT1151(223)_01

GVHD : : TS. Nguyễn Thị Liên Hương

Hà Nội - tháng 04/2024

1
THÀNH VIÊN NHÓM 2

STT Họ và tên Mã sinh viên

1 Trần Tuấn Hoàng (trưởng nhóm) 11222510

2 Trần Thanh Tâm 11225700

3 Nguyễn Thị Vui 11226970

4 Đào Thu Thảo 11225848

5 Lê Phương Linh 11223473

6 Lê Thị Tâm 11225674

7 Trương Khả Tú 11216919

MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU..........................................................................................................5
I. Tổng quan về IMF...............................................................................................6
1.1. IMF là gì?.......................................................................................................6
1.2. Lịch sử hình thành và phát triển của IMF..................................................6

2
1.3. Mục đích của IMF.........................................................................................6
1.4. Cơ cấu của tổ chức của IMF.........................................................................7
1.5. Chức năng cơ bản của IMF..........................................................................8
1.5.1. Xác định hệ thống ngang giá tiền tệ và tỷ giá hối đoái của các thành
viên......................................................................................................................8
1.5.2. Cấp tín dụng cho các nước thành viên có khó khăn tạm thời về cán
cân thanh toán....................................................................................................8
1.5.3. Theo dõi tình hình của hệ thống tiền tệ quốc tế và chính sách kinh tế
của các nước thành viên....................................................................................8
II. Hoạt động của IMF............................................................................................9
2.1. Các hoạt động chính của IMF......................................................................9
2.1.1. Kiểm soát chính sách tiền tệ của các nước hội viên...............................9
2.1.2. Giúp đỡ tài chính......................................................................................9
2.1.3. Hỗ trợ kỹ thuật.........................................................................................9
2.2. Nguồn tài chính của IMF............................................................................10
2.2.1. Phần đóng góp (Quotas-quotes-parts P)...............................................10
2.2.2. Quyền SDR (special drawing right).......................................................10
2.2.3. Bán vàng.................................................................................................12
2.3. IMF đối với kinh tế toàn cầu trong đại dịch Covid-19............................15
III. Việt Nam trong IMF.......................................................................................16
3.1. Bối cảnh gia nhập........................................................................................16
3.2. Hoạt động của IMF tại Việt Nam..............................................................18
3.2.1. Giai đoạn 1976-1983..............................................................................18
3.2.2. Giai đoạn 1984-1993..............................................................................18
3.2.3. Giai đoạn 1993-2004..............................................................................18
3.2.4. Giai đoạn 2004-nay................................................................................18
3.3. Tác động của việc gia nhập IMF đến Việt Nam.......................................19
3.3.1. Tác động tích cực...................................................................................19
3.3.2. Tác động tiêu cực...................................................................................21

3
3.4 Giải pháp của Việt Nam trong việc tăng cường mối quan hệ Việt Nam -
IMF......................................................................................................................21
IV. Đánh giá hoạt động của IMF..........................................................................23
4.1. Đánh giá.......................................................................................................23
4.1.1. Tích cực..................................................................................................23
4.1.2. Tiêu cực..................................................................................................24
4.2. Kiến nghị giải pháp hoàn thiện IMF.........................................................25
KẾT LUẬN............................................................................................................26
TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................27

LỜI NÓI ĐẦU

Thế giới ngày nay đang chứng kiến sự gia tăng mạnh mẽ của hoạt động thương
mại quốc tế, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và liên kết các quốc gia với
nhau. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích to lớn, thương mại quốc tế cũng tiềm ẩn
nhiều rủi ro và thách thức, đòi hỏi sự hợp tác và hỗ trợ giữa các quốc gia.

4
Trong bối cảnh sự phát triển toàn cầu ngày càng đa dạng và phức tạp, vai trò của
quỹ tiền tệ quốc tế IMF trở nên vô cùng quan trọng và không thể phủ nhận. Quỹ
Tiền tệ Quốc tế (IMF) là tổ chức quốc tế có tầm ảnh hưởng lớn trong hệ thống tài
chính toàn cầu, với hơn 190 quốc gia thành viên. Được thành lập năm 1945, IMF
không chỉ đóng vai trò là một tổ chức tài chính quốc tế mà còn là một cơ quan
đóng vai trò quyết định trong việc duy trì ổn định tài chính và kinh tế trên toàn cầu.
Đề tài này nhằm nghiên cứu sâu hơn về vai trò, chức năng cũng như tác động của
IMF đối với Việt Nam, từ đó đề xuất các phương hướng cải thiện và tối ưu hóa
hoạt động của tổ chức này. Bằng cách tìm hiểu sâu hơn về IMF, chúng ta có thể
hiểu rõ hơn về cách mà tổ chức này ảnh hưởng đến sự ổn định tài chính toàn cầu và
vai trò của nó trong việc giải quyết các thách thức kinh tế và tài chính mà thế giới
đang đối mặt. Là một trong những cơ quan quốc tế quan trọng nhất, IMF đóng vai
trò không thể thay thế trong việc duy trì và thúc đẩy sự phát triển bền vững trên
khắp thế giới.

Với mong muốn giúp người học hiểu rõ hơn về Quỹ tiền tệ Quốc tế IMF, dựa vào
những kiến thức thuộc bộ môn thương mại quốc tế cũng như sự nghiên cứu, tìm
hiều của các thành viên trên các tạp chí, website nhóm 2 đã có bài nghiên cứu và
tổng hợp về đề tài IMF.

Tuy rằng đã có sự chuẩn bị kỹ lưỡng nhưng vẫn khó tránh khỏi một số sai sót nên
nhóm chúng em rất mong nhận được những gợi ý đóng góp của cô và các bạn để
nhóm có thể rút kinh nghiệm và điều chỉnh để bản báo cáo hoàn chỉnh hơn.

I. Tổng quan về IMF


1.1. IMF là gì?
IMF là từ viết tắt của Quỹ Tiền tệ Quốc tế - International Monetary Fund:
Đây là một tổ chức quốc tế phi chính phủ, một tổ chức quốc tế giám sát hệ thống
tài chính toàn cầu thông qua việc theo dõi tỷ giá hối đoái và cán cân thanh toán của

5
các quốc gia, đồng thời, cũng sẽ giúp đỡ tài chính và hỗ trợ kỹ thuật khi nhận được
yêu cầu từ các hội viên của tổ chức.
Trụ sở chính của IMF đặt ở Washington DC, thủ đô của Hoa Kỳ.
1.2. Lịch sử hình thành và phát triển của IMF
Trong bối cảnh những mậu dịch thương mại và tài chính thế giới phát triển
mạnh mẽ thì việc không thể thiếu là có một hệ thống tiền tệ quốc tế đảm bảo được
sự cân đối giữa giá trị của các đồng tiền quốc gia. Một đồng tiền quốc gia mà
không thể trao đổi với một đồng tiền của quốc gia khác nó chỉ có giá trị nội địa và
nó sẽ không thể tham gia vào những cuộc trao đổi kinh tế trên thế giới.
IMF được thành lập sau khi Chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc. Để
tránh lặp lại những chính sách kinh tế sai lầm đã dẫn đến cuộc đại suy thoái năm
1930 các quốc gia đã hợp lại để tìm cách xây dựng khuôn khổ hợp tác kinh tế quốc
tế. Năm 1944, Liên hợp quốc tổ chức Hội nghị Bretton Woods ở New Hampshire
(Hoa Kỳ). Tại đây, 44 quốc gia đã cùng nhau xây dựng một khuôn khổ hợp tác
kinh tế chung.
Ngày 27/12/1945, Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF được thành lập. Tổ chức này có
trách nhiệm kiểm soát việc chấp hành hiệp định về tiền tệ của các hội viên và góp
phần thúc đẩy mậu dịch kinh tế quốc tế. Bắt đầu từ ngày 01/03/1947, tổ chức IMF
chính thức đi vào hoạt động và đến ngày 15/11/1947, Liên hợp quốc tán thành biểu
quyết về việc công nhận IMF là cơ quan chuyên môn của khối. Ngày 08/05/1947,
khoản vay vốn đầu tiên được tổ chức IMF thông qua.
1.3. Mục đích của IMF
Mục đích thành lập IMF là nhằm kêu gọi, khuyến cáo sự hợp tác quốc tế về
tiền tệ, ổn định tỷ giá hối đoái giữa các đơn vị tiền tệ nhằm tránh sự phá giá tiền tệ
do cạnh tranh giữa các quốc gia, thiết lập hệ thống thanh toán đa phương, cung ứng
cho các quốc gia hội viên ngoại tệ cần thiết để quân bình hoặc giảm bớt thiếu hụt
trong cán cân thanh toán quốc tế. Khi gia nhập IMF, mỗi nước phải đóng một
khoản tiền nhất định được coi là phí hội viên. Tuy nhiên, khoản đóng này chỉ được
thực hiện khi quỹ có nhu cầu.
IMF được thành lập nhằm mục đích thúc đẩy hợp tác quốc tế thông qua một
thiết chế thường trực có trách nhiệm cung cấp một bộ máy tư vấn và cộng tác
nhằm giải quyết các vấn đề tiền tệ quốc tế, nuôi dưỡng tập đoàn tiền tệ toàn cầu,
thiết lập tài chính an toàn, tạo điều kiện cho thương mại quốc tế phát triển, góp
phần đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế, tăng trưởng việc làm, giảm bớt đói nghèo.
Thông qua các hoạt động tư vấn và cộng tác IMF thúc đẩy các hoạt động hợp tác
quốc tế, mở rộng và đẩy mạnh các hoạt động mậu dịch quốc tế, từ đó, tỷ lệ việc
làm và thu nhập thực tế của các nước hội viên tăng trưởng hơn. IMF cũng giúp ổn
định ngoại hối, đảm bảo việc giao dịch ngoại hối giữa các thành viên có quy luật,
trật tự, tránh phá giá tiền tệ, cạnh tranh không lành mạnh. Ngoài ra, tổ chức này
cũng góp phần gỡ bỏ các rào cản về ngoại hối để tăng cường các hoạt động mậu
6
dịch quốc tế và hỗ trợ thành lập một hệ thống thanh toán chung giữa các nước hội
viên, tạo niềm tin cho các nước thành viên bằng cách cung cấp cho cung cấp nguồn
lực dự trữ của quỹ để đảm bảo an toàn.
1.4. Cơ cấu của tổ chức của IMF
Cơ cấu tổ chức của IMF bao gồm những bộ phận chính như sau:
 Hội đồng thống đốc: là cơ quan quyết định tối cao. Hội đồng thống đốc bao
gồm các thống đốc (Thống đốc được chỉ định bởi quốc gia thành viên và
thông thường là Bộ trưởng Tài chính hoặc Thống đốc Ngân hàng Trung
ương) và một thống đốc dự khuyết do từng nước hội viên IMF bổ nhiệm .
Hội đồng thống đốc có một số quyền hạn cụ thể như kết nạp hội viên mới,
quyết định cổ phần và phân bổ đồng SDR cũng như các quyền hạn khác
không phân cấp cho Ban giám đốc điều hành hoặc Tổng giám đốc.
 Các ủy ban Bộ trưởng: Hội đồng thống đốc được tham vấn bởi hai Ủy ban
Bộ trưởng: Ủy ban Tiền tệ và Tài chính quốc tế( IMFC- International
Monetary and Financial Committee) và Ủy ban Phát triển (Development
Committee). Ủy ban phát triển là sự phối hợp của IMF và ngân hàng phát
triển thế giới để cố vấn cho Hội đồng quản trị về những nhu cầu của các
nước đặc biệt là các nước nghèo.
 Ban Giám đốc điều hành: Ban Giám đốc điều hành gồm 1 tổng giám đốc
điều hành và 24 Giám đốc điều hành chịu trách nhiệm quản lý các công việc
hàng ngày của IMF. Ban Giám đốc Điều hành bàn luận và giải quyết tất cả
các vấn đề từ việc xem xét tình trạng kinh tế của các nước thành viên được
chuẩn bị bởi nhân viên của IMF cho đến các vấn đề về chính sách kinh tế có
liên quan đến nền kinh tế toàn cầu.
 Các cán bộ Quỹ: Có khoảng 2600 cán bộ từ hơn 100 nước, được tổ chức
thành:
+ 5 Vụ khu vực (Vụ Châu Phi, Vụ Châu Âu, Vụ Trung đông và Trung Á,
Vụ Châu Á Thái Bình Dương và Vụ Tây Bán cầu).
+ 9 Vụ chức năng và nghiệp vụ đặc biệt (Vụ Tài chính, Vụ Các vấn đề
ngân sách, Học viện IMF, Vụ Thị trường vốn quốc tế, Vụ Pháp luật, Vụ các
Hệ thống Tài chính Tiền tệ, Vụ Kiểm điểm và Xây dựng Chính sách, Vụ
Nghiên cứu, Vụ Thống kê).
+ 3 Vụ về thông tin liên lạc (Vụ Đối ngoại, Văn phòng thông tin liên lạc
khu vực Châu Á Thái Bình Dương, Văn phòng Quỹ tại Liên Hợp Quốc).
+ 3 Bộ phận giúp việc (Vụ thư ký. Vụ Nguồn nhân lực, và Vụ Dịch vụ
Tổng hợp và Công nghệ).
Ngoài ra, IMF có hơn 60 Văn phòng đại diện tại nhiều nước thể giới có trách
nhiệm bảo cáo cho các Vụ khu vực tương ứng.

1.5. Chức năng cơ bản của IMF

7
1.5.1. Xác định hệ thống ngang giá tiền tệ và tỷ giá hối đoái của các thành viên
Theo Hiệp định của IMF: “Tất cả các thành viên công nhận là chỉ cho phép
diễn ra trên lãnh thổ của nước mình những hoạt động hối đoái giữa các đồng tiền
của mình với đồng tiền của những nước thành viên nào tôn trọng một sự cách biệt
không quá 1% chế độ đồng giá."
Hệ thống tiền tệ mà IMF quản lý từ năm 1978 đến nay được gọi là hệ thống
tỷ giá thả nổi có quản lý. Theo cơ chế này, IMF có vai trò lớn tác động đến chính
sách quản lý tỷ giá của các nước thông qua các điều kiện tín dụng. Mặc dù quản lý
hệ thống tiền tệ bằng nhiều cách gián tiếp nhưng IMF đã thực hiện chức năng này
một cách có hiệu quả.
1.5.2. Cấp tín dụng cho các nước thành viên có khó khăn tạm thời về cán cân
thanh toán
Để thực hiện mục tiêu trọng tâm là duy trì sự ổn định của hệ thống tiền tệ
quốc tế, IMF đã cung cấp cho các nước thành viên các khoản tín dụng khi họ gặp
khó khăn tạm thời về cán cân thanh toán. Khi một nước rơi vào tình trạng này buộc
họ phải giảm dự trữ ngoại hối hoặc đi vay để tài trợ cho các hoạt động này. Hậu
quả là các nước đó phải đối mặt với sức ép ngày càng tăng về tỷ giá hối đoái. Đây
chính là lúc IMF thực hiện chức năng của mình. Nếu gặp khó khăn về cán cân
thanh toán, nước đó có thể lập tức rút lại 25% phần vốn góp của mình bằng vàng
hoặc ngoại tệ có thể chuyển đổi.
Để đáp ứng nhu cầu về vốn, IMF đã thực hiện nhiều biện pháp để tăng vốn.
Năm 1962, IMF đã ký kết tổng nghị định thư về vay mượn GAB được gia hạn
nhiều lần và đến nay vẫn đang hoạt động ổn định.
1.5.3. Theo dõi tình hình của hệ thống tiền tệ quốc tế và chính sách kinh tế của
các nước thành viên
Theo Hiệp định thành lập thì mục tiêu và hoạt động trọng tâm của IMF là
"thực hiện sự giám sát chặt chẽ tỷ giá hối đoái của các nước thành viên". Đồng thời
IMF có quyền áp dụng các nguyên tắc cụ thể để hướng dẫn các thành viên trên cơ
sở tôn trọng chính sách của họ. Để thực hiện chức năng này, IMF tiến hành kiểm
tra các vấn đề tiền tệ quốc tế và phân tích các khía cạnh của chính sách đó có thể
tạo ra tác động đến hệ thống tỷ giá hối đoái.
Trong những năm gần đây, tầm quan trọng của việc giám sát kịp thời và hiệu
quả đã tăng lên do nhiều chuyển biến cơ bản trong nền kinh tế: tăng trưởng nhanh
chóng của thị trường vốn tư nhân, hội nhập khu vực và thế giới, gia tăng, chỉnh
đốn tài khoản vãng lai và cải cách kinh tế theo hướng thị trường nhiều nước.
II. Hoạt động của IMF
2.1. Các hoạt động chính của IMF
2.1.1. Kiểm soát chính sách tiền tệ của các nước hội viên
Để bảo đảm một hệ thống tiền tệ quốc tế quân bình và tạo điều kiện cho
những trao đổi thương mại thế giới phát triển, hiện nay Quỹ có một hoạt động
8
nghiên cứu quan trọng về tình trạng kinh tế tổng quát, chính sách tiền tệ của mỗi
nước hội viên để có thể nhìn trước những khó khăn một nước để có thể phải đối
đầu và do đó cần sự giúp đỡ của Quỹ. Trong những tài liệu làm việc của Quỹ, một
phần quan trọng liên quan đến những dữ kiện kinh tế và tài chính của mỗi nước hội
viên, bởi vì giá trị của đồng tiền quốc gia tùy thuộc vào những điều kiện kinh tế
này.
Theo quy chế (Article IV), IMF tham khảo mỗi nước mỗi năm một lần hoặc
nhiều lần nếu Quỹ nhận định là nước có nhiều nguy hiểm sẽ rơi vào tình trạng khó
khăn kinh tế. Hằng năm, một nhóm chuyên viên của Quỹ được cử tới thủ đô mỗi
nước quãng hai tuần để thu thập tại chỗ những dữ kiện kinh tế có ảnh hưởng đến
giá trị đồng tiền như những thống kê về xuất nhập khẩu, lương bồng, giá cả, việc
làm, chỉ số phân lãi, số lượng tiền quốc gia đang lưu hành, đầu tư, thuế vụ, ngân
sách quốc gia và đối thoại với những vị đại diện chính phủ về sự hữu hiệu của
những chính sách kinh tế đang được áp dụng, những dự trù thay đổi để có một
chính sách trao đổi ngoại tệ một cách tự do không bị kiểm soát hay giới hạn. Nhóm
chuyên viên trở về trụ sở Washington và lập một bản tường trình chi tiết để ban
điều hành có thể góp ý kiến cho nước hội viên phải sửa đổi hay canh tân trong
những lĩnh vực có nhiều thiếu sót. Những tài liệu này là yếu tố cơ bản để IMF
quyết định giúp đỡ hay không khi cần thiết.
2.1.2. Giúp đỡ tài chính
IMF chỉ cho vay tiền những nước nào gặp khó khăn về vấn đề thanh toán
trong cán cân chi tiêu ngoại địa, nghĩa là số tiền ngoại tệ có từ xuất khẩu không đủ
để thanh toán những hàng hoá nhập khẩu. Nguồn ngoại tệ của một nước có là do từ
những xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ, từ những chỉ tiêu tại chỗ của những du
khách ngoại quốc, từ những đầu tư của các hãng xưởng ngoại quốc, từ những giúp
đỡ tài chánh của các nước giàu cho những nước nghèo.
Những nước gặp khó khăn có thể rút ra ở IMF 25% phần mình đã đóng góp
trả bằng vàng hay tiền những nước lớn. Nếu không đủ, Quỹ có thể cho vay một số
tiền tương đương với 75% phần đóng góp, chia ra làm ba lần, mỗi năm có thể rút
một lần. Nếu lần rút 25% là tiền nước đã đóng góp thì 75% sau là tiền Quỹ cho
mượn. Khi Quỹ đồng ý giúp 75%, điều này có nghĩa là Quỹ sẽ chỉ định một hay
nhiều nước hội viên khác có nền kinh tế vững chắc đổi tiền nước họ lấy tiền nước
đang cần trợ giúp.
2.1.3. Hỗ trợ kỹ thuật
IMF hỗ trợ kỹ thuật, hỗ trợ sự phát triển của các nguồn nhân lực sản xuất
của các nước thành viên bằng cách giúp họ quản lý để có hiệu quả chính sách kinh
tế và các vấn đề tài chính.
Trong thập niên 60, nhiều nước châu Phi và châu Á độc lập đã nhờ IMF giúp đỡ để
thiết lập hạ tầng tài chính quốc gia như ngân hàng trung ương, bộ kinh tế tài chính.
Sự giúp đỡ kỹ thuật này càng ngày càng được mở rộng không những về số nước
9
được giúp đỡ, mà còn trong chương trình huấn luyện kỹ thuật như phương thiết
lập chính sách tiền tệ, ngân sách quốc gia, kiểm soát hệ thống ngân hàng, kế toán
quốc gia, thống kê. Trong thập niên 90, nhiều nước chuyển từ nền kinh tế kế hoạch
hóa sang kinh tế thị trường đã được Quỹ giúp đỡ trong lĩnh vực này.
2.2. Nguồn tài chính của IMF
Tổ chức IMF có tính chất tổ hợp tương trợ tài chính, mỗi hội viên đóng góp
một số tiền được hội quy định. Nguồn tài chính này được dùng để giúp các nước
hội viên trong trường hợp cần thiết. Nhưng Quỹ cũng có những phương cách phụ
thuộc khác để có thể đáp ứng những nhu cầu của các nước hội viên.
2.2.1. Phần đóng góp (Quotas-quotes-parts P)
Phần đóng góp của mỗi nước là nguồn tài chính của Quỹ ngay từ khi được
thành lập. IMF không vay mượn trên thị trường tài chính quốc tế. Phần đóng góp
không những đóng vai trò của nguồn tài chính, nó còn là tiêu chuẩn để xác định số
tiền mà nước hội viên có thể vay mượn, để phân chia SDR và số phiếu bầu của mỗi
nước
Phần đóng góp được xác định theo tiêu chuẩn: tổng sản lượng quốc gia, dự trữ
vàng và USD, kim ngạch xuất - nhập khẩu. Nước càng giàu đóng góp càng nhiều.
Nguồn tài chính Quỹ tăng nhiều vì 2 lý do:
 Thứ nhất, thành viên gia nhập ngày càng nhiều, từ 44 nước lúc ban đầu cho
đến bây giờ là 190 quốc gia, Việt Nam là hội viên từ năm 1956.
 Thứ hai, phần đóng góp có thể tăng lên hay giảm xuống mỗi 5 năm theo
quyết định của những Thống đốc với ít nhất 85% phiếu thuần. Những phần
đóng góp quan trọng nhất hiện nay là Mỹ (17,68%), Nhật Bản (6,56%),
Trung Quốc (6,49%), Đức, (5,67%), Pháp (4,29%). Phần đóng góp càng
nhiều thì ảnh hưởng trong IMF càng mạnh về đường hướng và quyết định
quan trọng. Rất nhiều nước nhỏ có phần đóng góp rất ít, khoảng 50 nước có
phần đóng góp dưới 65 triệu USD, phần đóng góp của Mỹ cao hơn 2 lần so
với phần đóng góp của các nước Châu Mỹ Latinh
Cách thức xác định tiền của mỗi hội viên rất đặc biệt. Theo quy chế Quỹ, mỗi nước
thanh toán 25% phần đóng góp bằng vàng và 75% bằng tiền nước mình. Số vàng
được dự trữ trong 4 ngân hàng TW lớn nhất, số tiền mỗi nước được giữ dưới hình
thức 1 chương mục của Quỹ tại ngân hàng TW mỗi nước. Trong thực tế, các nước
thanh toán bằng vàng ít hơn là 25% như quy định.
2.2.2. Quyền SDR (special drawing right)
Nguồn dự trữ trong các ngân hàng TW để bảo đảm cho ngoại thương là vàng
và các tiền lớn như Dollar Mỹ, Yên Nhật, Bảng Anh, EURO (thay thế các đồng
tiền lớn của Cộng Đồng Tiền Tệ châu Âu như Mark Đức, Franc Pháp). Từ năm
1969, IMF quyết định phân chia cho các nước hội viên một loại quyền lợi đặc biệt
gọi là SDR. Quyền này được coi như 1 loại tiền dự trữ ghi trên sổ kế toán của ngân
hàng TW mỗi nước. Lúc đầu, ban lãnh đạo IMF đặt rất nhiều hy vọng vào SDR và
10
dự trù nó sẽ trở thành đồng tiền quốc tế thay thế cho USD. Nhưng không được, bởi
vì các nước lớn nghĩ nhiều đến quyền lợi riêng của họ hơn là quyền lợi chung và
cũng vì dự tính trên lý thuyết thì hay nhưng khó thực hiện trong thực tế. Lúc ban
đầu, SDR được phân chia cho các nước hội viên theo phần đóng góp đã trình bày ở
trên, do đó các nước nhỏ ít đóng góp không được nhiều SDR. Trong những lần
phân chia sau này, Quỹ có khuynh hướng tăng phần dành cho những nước này.
Giá trị của SDR ban đầu được tính giá tương đương 1/35 ounce vàng, do đó 1 SDR
= 1 USD. Sau năm 1971, USD không còn được đổi ra vàng, giá trị của SDR được
xác định dựa trên giá trị 16 đồng tiền của 16 nước có hoạt động xuất khẩu cao nhất
và thay đổi theo giá thị trường của những đồng tiền này. Từ năm 1980, để đơn giản
hoá cách tính, giá trị dựa trên 5 đồng tiền lớn và mức quan trọng của mỗi đồng
tiền: USD (45%), EUR (29%), Yên Nhật (15%), Bảng Anh (11%), Franc Pháp
(11%)
Sứ mệnh:
 SDR ra đời là sự kiện đánh dấu sự thay đổi của hệ thống tỷ giá hối đoái cố
định sang tỷ giá hối đoái linh hoạt hơn
 Giảm thiểu những hạn chế trong việc sử dụng đồng USD và vàng. SDR ra
đời đã bổ sung vào IMF, làm hoạt động thanh toán quốc tế được thông suốt
hơn, thị trường hối đoái ổn định hơn
Sau CTTG thứ II, Anh, Mỹ và các nước đồng minh đã cùng nhau xây dựng nên hệ
thống tỷ giá hối đoái cố định: Hệ thống Bretton Woods (1944-1973). Trong đó, các
quốc gia thành viên phải cố định tiền tệ của họ với đồng USD theo tỷ giá hối đoái
chính thức, NHTW phải đảm bảo có thể chuyển đổi USD thành vàng với giá 35
USD/1 ounce vàng
 Năm 1969, SDR được IMF đề ra theo đề nghị của 10 nước trong CLB Paris
gồm: Bỉ, Canada, Pháp, Ý, Nhật, Hà Lan, Thụy Điển, Anh, Mỹ, Đức. Khi
được khai sinh, SDR ra tài sản dự trữ có tính chất quốc tế nhằm bổ sung cho
tài sản dự trữ của các quốc gia thành viên, góp phần giúp duy trì tỷ giá hối
đoái của đồng nội tệ.
 Ban đầu, SDR được tính theo vàng: 1 SDR = 0,888671 gam vàng = 1 USD.
Năm 1974, SDR không được xác định bằng vàng nữa mà căn cứ vào giá trị
đồng tiền của một số nước chủ yếu, gồm 16 nước mà mỗi loại chiếm tỷ
trọng từ 1% trở lên trong thương mại quốc tế: Hoa Kỳ, Anh, Pháp, CHLB
Đức, Italia, Tây Ban Nha, Nhật, Canada, Hà Lan, Bỉ, Thụy Điển, Đan Mạch,
Na Uy, Oxtraylia, Áo, Nam Phi. Đến năm 1980 giảm xuống còn 5 nước: Mỹ
(USD), Anh (Bảng Anh), Nhật (Yên), Pháp (Franc), Đức (Mark).
 Từ năm 1999 đến nay, khi đồng tiền chung châu Âu (EURO) ra đời và có sự
thay đổi về tiềm lực tài chính của các nước phát triển, IMF đã đưa EURO
vào rỏ tiền tệ và bỏ Franc, Mark ra khỏi rỏ tiền tệ.

11
Sau khi hệ thống tỷ giá hối đoái cố định bị sụp đổ và áp dụng tỷ giá thả nổi, tỷ giá
của các đồng tiền thường xuyên biến động. Vì vậy, IMF công bố hàng ngày tỷ giá
hối đoái của từng đồng tiền quốc gia với SDR.
Ngày nay, SDR ít được sử dụng như tài sản dự trữ mà chức năng chính của nó là
sử dụng như 1 tài khoản tại IMF của các nước thành viên và một số tổ chức quốc tế
khác, sử dụng như 1 đơn vị tính toán. Quốc gia nắm giữ SDR có thể đổi ra các
đồng tiền khác theo 2 cách:
 Thông qua thỏa thuận trao đổi tiền với các nước thành viên khác
 Thông qua 1 thành viên được chỉ định, có địa vị đối ngoại cao để dễ trao đổi
với 1 thành viên khác có vị thế yếu hơn
Tỷ lệ đóng góp vào ngân sách của IMF liên quan đến quyền bỏ phiếu của từng
thành viên đối với các quyết định tài trợ, cho vay… của IMF. Ngày nay, giá trị
SDR được xác định dựa trên 1 nhóm các đồng tiền mạnh theo tỷ lệ bình quân gia
quyền theo USD.
IMF tiến hành phân bổ SDR cho các nước thành viên, đồng thời được chính phủ
các nước thành viên hỗ trợ. Giá quy đổi USD theo SDR được niêm yết hàng ngày
trên website của IMF. Giá này được xác định dựa vào số lượng giao dịch của 4
đồng tiền trên quy đổi ra USD dựa theo tỷ giá hối đoái niêm yết vào buổi trưa mỗi
ngày trên thị trường tiền tệ London. Nếu thị trường London đóng cửa thì dùng tỷ
giá trên thị trường New York, cuối cùng là thị trường Frankfurt.

Quyền rút vốn đặc biệt (SDR):


Đó là loại tiền đặc biệt mà IMF tạo ra để bổ sung vào tài sản dự trữ mà hầu
hết các nước thành viên dùng để đảm bảo nhu cầu thanh toán ngoại tệ và giao dịch
với nước ngoài. Việc này để giải quyết nguy cơ khan hiếm những công cụ thanh
toán quốc tế.
Hội nghị thường niên IMF ngày 3/10/1969 đã biểu quyết chấp thuận dự án cấu tạo
9.5 tỷ SDR. Lần phân phối đầu tiên là 3.5 tỷ SDR thi hành ngày 1/1/1970, hai lần
phân phối sau đó mỗi lần 3 tỷ vào đầu năm 1971 và 1972. Đến năm 1979 có thêm
3 đợt phân phối nữa vào đầu năm 1979, 11980, 1981. Tính chung, từ 1970 đến
1986, Quỹ đã tạo ra và phân phối tổng cộng 21.4 tỷ SDR, trị giá gần 29 tỷ USD,
chiếm khoảng 2% tổng dự trữ thế giới.

2.2.3. Bán vàng


Báo cáo của IMF dự kiến thúc đẩy nhu cầu vàng.
Một báo cáo của IMF cho rằng các nền kinh tế mới nổi châu Á như Ấn Độ,
Trung Quốc và Indonesia vẫn đang dẫn đầu phục hồi kinh tế toàn cầu, điều này sẽ
hỗ trợ thị trường vàng trong những tuần tới. Báo cáo IMF sẽ thúc đẩy nhu cầu vàng
ở Trung Quốc và Ấn Độ - những thị trường có nhu cầu mua vàng mạnh trong thời
gian gần đây. Mùa lễ hội ở Ấn Độ cũng sẽ cung cấp hỗ trợ cho vàng. Theo IMF,

12
các hoạt động của các nền kinh tế mới nổi rất sôi động nhờ nhu cầu trong nước khá
mạnh của sự phục hồi thương mại toàn cầu. Các nền kinh tế lớn ở châu Á vẫn đang
dẫn đầu, sau đó là Brazil ở khu vực Mỹ Latinh.
Nói về vấn đề lạm phát, báo cáo của IMF cho rằng lạm phát vẫn đang chịu nguy cơ
nền kinh tế phát triển, tỷ lệ thất nghiệp cao khiến áp lực lạm phát chưa đáng lo ngại
lắm. Với mức lạm phát cơ bản chỉ dưới 1%, giảm phát sẽ là vấn đề được chú ý
nhiều hơn. Tuy nhiên IMF cũng cảnh báo về nguy cơ nợ quốc gia và sự yếu kém
trên thị trường tài chính có thể làm chệch hướng phục hồi kinh tế toàn cầu. Trước
nỗi lo về sức khoẻ của các ngân hàng châu Âu và tài chính công ở châu Âu, Nhật
và Mỹ, sự hồi phục kinh tế sẽ bắt đầu chậm lại. Điều này có thể tăng áp lực mua
trú ẩn lên vàng. Trong khi Ấn Độ và Trung Quốc mua vàng vì kinh tế phát triển thì
Mỹ, châu Âu và Nhật có thể mua vàng vì lựa chọn nơi trú ẩn, Cả 2 tình huống này
đều tốt cho vàng. Tính tới ngày 30/4/2000, số lượng vàng dự trữ của IMF cỡ vào
khoảng 103 triệu ounces (3217 tấn) và được định theo giá thị trường vào khoảng
30 tỷ USD.
Tuy nhiên, trong thời gian 1976 đến 1980, Quỹ đã thoả thuận với các nước hội
viên để giảm bớt số vàng dự trữ. Quỹ đã bán khoảng 50 triệu ounces vàng. Một
nửa trả lại cho các nước hội viên theo giá 1 ounce = 35 SDR, nửa còn lại để bán
theo giá thị trường và là nguồn tài chính giúp đỡ các nước hội viên nghèo. Hội
đồng điều hành IMF đã phê chuẩn việc bán ra 403 tấn vàng, trị giá khoảng 13 tỷ
USD để tăng năng lực cho vay tới các nước nghèo.

Bán vàng một cách có trách nhiệm và minh bạch


IMF cho rằng quyết định bán vàng là một yếu tố then chốt trong mô hình thu
nhập mới giúp IMF bớt lệ thuộc vào lợi tức từ cho vay để trang trải các khoản chi
phí giám sát chính sách kinh tế và tài chính của các quốc gia thành viên. Số vàng
được bán ra lần này chiếm ⅛ kho vàng 3217 tấn mà IMF đang cất giữ tại thủ đô
Washington (Mỹ). IMF là cơ quan có nhiều vàng đứng thứ 3 thế giới sau Mỹ và
Đức. Là cổ đông lớn nhất của IMF, mỹ đã bật đèn xanh cho việc bán vàng này của
IMF. Quyết định quan trọng này được thông qua với hơn 855 số phiếu thuận.
Theo kế hoạch, IMF sẽ chào bán vàng trực tiếp cho các ngân hàng trung ương. Một
khách hàng tiềm năng nổi bật là ngân hàng TW Trung Quốc, hiện nắm giữ khoảng
2000 tỷ USD dự trữ ngoại tệ và có nhu cầu đa dạng hoá nguồn dự trữ này. Trung
Quốc cũng đang thường xuyên tìm mua vàng và dự trữ của nước này đã tăng 75%
trong thời gian từ 2003 đến năm 2008.
Trường hợp nhhu cầu mua vàng của ngân hàng TW không đủ 403 tấn, IMF sẽ xem
xét việc bán vàng ra thị trường theo cách mà các ngân hàng TW vẫn đang làm, “sẽ
thông tin trên thị trường trước khi bắt đầu cuộc bán vàng và báo cáo thường xuyên
cho công chung về tiền đồ việc bán vàng” IMF cho biết.

13
Nước nghèo được vay tiền dễ hơn, nhiều hơn
Khoản tiền thu được từ bán vàng lần này dự kiến sẽ tăng năng lực cho vay
tới các nước nghèo nhất thế giới như ở châu Phi. IMF cũng đã quyết định xoá các
khoản tiền lãi vay mà các nước nghèo đang nợ từ nay tới cuối năm 2011 và tiến
hành cải tổ thủ tục để việc cho vay diễn ra nhanh và dễ dàng hơn.

Vốn hoạt động


Khi gia nhập IMF, mỗi thành viên đề phải đóng 1 khoản tiền nhất định gọi là
1 khoản lệ phí hội viên. Khoản này chỉ thực hiện khi Quỹ có nhu cầu: khi ai cần
vay tiền của quốc gia đó thì quốc gia đó mới phải đóng. Số tiền này được sử dụng
với nhiều mục đích khác nhau:
 Tạo thành khoản vốn IMF có thể cho các thành viên vay khi gặp khó khăn
về tài chính
 Căn cứ để quyết định số lượng tiền mà các nước thành viên được vay
 Số tiền ký quỹ này còn có vai trò quyết định bỏ phiếu của các nước thành
viên
Bản thân IMF là người quyết định số tiền mà mỗi nước thành viên phải nộp
vào quỹ sau khi phân tích đánh giá mức độ giàu có và tình hình kinh tế của nước
đó. Nước càng giàu, lệ phí càng cao. Khoản tiền đóng góp của các nước thành viên
tạo nên nguồn tài chính cho IMF sử dụng. Tổng số tiền đóng góp của các nước
thành viên cho đến nay khoảng 210 tỷ USD, mặc dù trên thực tế số tiền sử dụng
được không thể coi là lớn hơn vì các nước thành viên nộp 75% số lệ phí của họ
bằng tiền nội địa và hầu hết đồng tiền quốc gia của nhiều nước không phổ biến
trong thanh toán quốc tế.
Các nước thành lập IMF hồi năm 1994 lập luận rằng Quỹ sẽ hoạt động hiệu quả
nhất và các quyết định sẽ được đưa ra 1 cách trách nhiệm nhất nếu gắn liền quyền
bỏ phiếu của các nước thành viên với số lượng tiền đóng vào Quỹ của họ. Nước
nào đóng góp nhiều nhất đương nhiên tiếng nói sẽ có trọng lượng nhất khi quyết
định chính sách của Quỹ. Mỹ, Anh, Pháp là những nước khi thành lập đã đóng góp
nhiều nhất và cũng là những nước có ảnh hưởng nhiều hơn hết đối với các quyết
định của IMF. Mỗi nước có 250 phiếu và cộng thêm phiếu cho mỗi 100.000 SDR
của phần đóng góp. Bởi vậy, Mỹ hiện nay có 265.000 phiếu, chiếm 18% trong tổng
số phiếu đã phát ra.

Mượn tiền
IMF có thể mượn tiền của những nước hội viên giàu như các nước có lượng
dự trữ vàng lớn hay có nhiều dầu hỏa trong trường hợp cần thiết. Năm 1962, 11
nước hội viên ký giao kèo GAB (General arrangements to borrow) cho Quỹ vay 23
tỷ USD. Năm 1997, 25 nước ký thoả thuận NAB (New arrangements to borrow)
cho Quỹ mượn 47 tỷ USD. Saudi Arabia là cho mượn nhiều nhất, từ năm 1981

14
nước này đã cho Quỹ mượn 10 tỷ USD. Điều này giải thích tại sao Saudi có 1 giám
đốc trong ban điều hành IMF.
Trung Quốc cho biết các nước này sẵn sàng mua lại khoảng 50 tỷ USD trái
phiếu do IMF phát hành. Đây là 1 phần trong cam kết hỗ trợ IMF của Trung Quốc.
Lần đầu tiên, đại diện nhà nước Trung Quốc đưa ra số tiền cụ thể về việc sẽ rót vào
IMF bao nhiêu tiền. Trong hội nghị thượng đỉnh G20 tháng 4/2009, thủ tướng
Trung Quốc có thể mua 40 tỷ USD trái phiếu như 1 phần trong kế hoạch bơm thêm
500 tỷ USD vào quỹ tiền tệ của các nước. Nhật đã cam kết thực hiện cho IMF vay
tiền, Mỹ và châu Âu cũng đã thực thi quyết định của mình. Trung Quốc và 3 nền
kinh tế mới nổi có quy mô lớn là Brazil, Nga và Ấn Độ đã thông báo họ muốn
đóng góp cho IMF thông qua trái phiếu thay cho việc bơm tiền theo hình thức
khác. Bơm tiền theo hình thức này giúp họ có thể đóng góp tạm thời cho Quỹ,
không phải thực hiện cam kết dài hạn trong khi họ đang muốn thương lượng để có
tiếng nói lớn trong tổ chức. Bộ trưởng bộ tài chính Nga cũng cho biết, nước ông
đang cân nhắc kế hoạch mua khoảng 10 tỷ USD trái phiếu IMF, phía Ấn Độ cũng
ra thông báo tương tự. Mỹ cho đến nay vẫn ủng hộ Trung Quốc có vai trò lớn hơn
trong IMF bởi điều này phản ánh đúng đóng góp toàn cầu của kinh tế Trung Quốc.
2.3. IMF đối với kinh tế toàn cầu trong đại dịch Covid-19
Được mô tả như “Một tổ chức của 190 quốc gia”, IMF thực hiện các công
việc nuôi dưỡng tập đoàn tiền tệ toàn cầu, thiết lập tài chính an toàn, tạo điều kiện
thuận lợi cho thương mại quốc tế, đẩy mạnh việc làm và tăng trưởng kinh tế cao,
giảm bớt đói nghèo. Do đó IMF đã đóng vai trò quan trọng trong việc ứng phó với
tác động của đại dịch COVID-19 đối với nền kinh tế toàn cầu.

Hỗ trợ tài chính và chính sách:


IMF cung cấp tài trợ tài chính cho các quốc gia để giúp họ vượt qua khó
khăn tài chính. Ngày 2/8/2021 (giờ Mỹ), tổ chức IMF đã duyệt chi ngân sách gói
hỗ trợ tài chính lớn nhất trong lịch sử với giá trị lên tới 650 tỷ USD. Cụ thể, Hội
đồng quản trị IMF đã phê duyệt việc mở rộng quỹ dự trữ, được gọi là Quyền rút
vốn đặc biệt (SDR) với mức tăng lớn nhất trong lịch sử của tổ chức này. Theo
Giám đốc điều hành IMF - bà Kristalina Georgieva cho biết gói tài chính này như
“một mũi vaccine đối với thế giới” qua đó sẽ giúp tăng cường ổn định kinh tế toàn
cầu. SDR được xây dựng với hình thức tương tự như cung cấp hạn mức tín dụng
cho các quốc gia, nó được phân bổ dựa theo quy mô nền kinh tế của một quốc gia
và đóng góp của quốc gia đó vào dự trữ của IMF, vì vậy, các quốc gia giàu hơn sẽ
nhận được nhiều hơn. Tuy nhiên, những quốc gia giàu có hơn không cần khoản
phân bổ này có thể chuyển chúng cho những quốc gia nghèo hơn. Gói 650 tỷ này
sẽ đặc biệt giúp ích cho những quốc gia dễ bị tổn thương nhất và đang chật vật đối
phó với ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng Covid-19. Ngoài ra, IMF cũng tăng

15
cường tìm cách, hỗ trợ để các nước giàu hơn có thể tự nguyện chuyển các SDR cho
những nước nghèo hơn.

Theo dõi và đánh giá tình hình kinh tế toàn cầu:


IMF theo dõi và đánh giá tình hình kinh tế thế giới, cung cấp thông tin và dự
báo về tình hình kinh tế, thị trường tài chính và cân cầu hàng hóa. Dựa vào các
thông tin, sự kiện và các biến động trước đó, IMF đánh giá và đưa ra các dự kiến
có thể xảy ra trong tương lai, từ đó giúp cho các quốc gia trên thế giới có thể nhanh
chóng chuẩn bị cũng như thích nghi với các trường hợp xấu nhất có thể xảy đến.

Hỗ trợ kỹ thuật và chính sách:


IMF cung cấp tư vấn chính sách cho các chính phủ thành viên, giúp họ ứng
phó với các tác động của đại dịch và tăng cường phục hồi kinh tế. Ngoài ra, IMF
còn thực hiện nghiên cứu về các chính sách kinh tế, cung cấp đào tạo cho các quốc
gia thành viên và chia sẻ kiến thức về quản lý tài chính.

Tăng cường hợp tác quốc tế:


IMF đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì luồng thương mại quốc tế và
hỗ trợ các biện pháp giảm thiểu tác động của đại dịch lên thương mại quốc tế. Mặt
khác, IMF còn là một diễn đàn quốc tế cho các quốc gia tham gia thảo luận về các
vấn đề kinh tế, tài chính. Các cuộc họp, hội thảo, và hợp tác giữa các quốc gia
thành viên giúp chia sẻ kinh nghiệm và học hỏi từ nhau. Trong tuyên bố kết thúc
đối thoại bàn tròn "1+6" lần thứ 6 với những người đứng đầu các tổ chức kinh tế
quốc tế lớn, người đứng đầu IMF - bà Kristalina Georgieva cho rằng các nước cần
thực thi hành động chính sách khẩn cấp để kiểm soát đại dịch, hạn chế tác động
tiêu cực và chuyển đổi nền kinh tế toàn cầu, đặc biệt là 4 lĩnh vực hợp tác toàn cầu.
Đó là khẩn trương hành động để đạt mục tiêu của IMF về tỷ lệ bao phủ tiêm chủng
40% dân số ở mỗi quốc gia vào cuối năm nay và 70% dân số vào giữa năm 2022;
hợp tác để giảm căng thẳng thương mại và củng cố hệ thống thương mại đa
phương; đẩy nhanh quá trình chuyển đổi sang trung hòa carbon và hỗ trợ các nỗ
lực thích ứng với khí hậu; hỗ trợ quá trình phục hồi của các nền kinh tế đang phát
triển.
Tóm lại, IMF đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc ứng phó với các
tác động của đại dịch COVID-19 đối với kinh tế toàn cầu và hỗ trợ các nước thành
viên trong việc duy trì ổn định tài chính và phục hồi kinh tế.
III. Việt Nam trong IMF
3.1. Bối cảnh gia nhập
Việt Nam Cộng hòa gia nhập IMF vào ngày 21/9/1956, mười một năm sau
khi nước ta trở thành một quốc gia độc lập. Năm 1975 ghế hội viên chuyển cho
Cộng hoà Miền Nam Việt Nam kế thừa. Năm 1976 thì CHXHCN Việt Nam chính

16
thức tham gia chiếu theo hội viên của hai quốc gia trước. Việt Nam thuộc nhóm
Đông Nam Á trong IMF, gồm 13 nước: Brunei, Campuchia, Fiji, Indonesia, Lào,
Malaysia, Myanmar, Nepal, Singapore, Thái Lan, Tonga, Việt Nam và Philippines.
Theo Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 1990 của Hội đồng Nhà
nước, Ngân hàng Nhà nước là đại diện cho Chính phủ tại các tổ chức tiền tệ, tín
dụng và ngân hàng quốc tế (khoản 10, điều 3). Tiếp đó, Luật Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam 1997 và 2010 cũng quy định Ngân hàng Nhà nước là cơ quan đại diện
cho Chính phủ tại các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế.Trên cơ sở đó, Ngân hàng
Nhà nước là đại diện cho Chính phủ Việt Nam tại IMF.
Vào thời điểm gia nhập IMF, tình hình kinh tế của Việt Nam có nhiều khó
khăn, thuận lợi đan xen. Kể từ khi trở thành một quốc gia độc lập, giai đoạn 1945-
1954 là thời kỳ đầu tiên xây dựng chế độ kinh tế mới ở Việt Nam và là giai đoạn
khó khăn nhất, gian khổ nhất vì vừa phải kháng chiến chống giặc, vừa phát triển
kinh tế trong điều kiện nghèo nàn, thiếu thốn. Đặc trưng của nền kinh tế Việt Nam
thời kỳ này là nền kinh tế nông thôn, quy mô kinh tế rất thấp, tiềm lực yếu kém.
GDP bình quân đầu người năm 1945 chỉ đạt 60 đồng, tương đương 35 USD.
Kinh tế nông thôn và sản xuất nông nghiệp có vị trí đặc biệt quan trọng
trong giai đoạn này. Cùng với việc động viên nông dân tích cực tăng gia sản xuất,
Chính phủ đã từng bước thực hiện các chính sách về ruộng đất như giảm tô, giảm
tức. Với chính sách toàn dân tăng gia sản xuất, lại được sự giúp đỡ tận tình của
Chính phủ, các cơ quan, các đơn vị bộ đội nên nông nghiệp trong suốt thời kỳ
kháng chiến được bảo đảm ổn định và cung cấp đủ lương thực cho kháng chiến.
Trong các vùng giải phóng, sản xuất nông nghiệp phát triển, sản lượng lương thực
năm 1954 đạt gần 3 triệu tấn, tăng 13,7% so với năm 1946. Nông nghiệp đã hoàn
thành sứ mệnh là nền tảng của kinh tế kháng chiến với những đóng góp to lớn giải
quyết nạn đói các năm 1945, 1946.
Công nghiệp và thủ công nghiệp kháng chiến được xây dựng, đặc biệt là
công nghiệp quốc phòng đã góp phần không nhỏ đáp ứng nhu cầu chiến đấu và tiêu
dùng. Từ năm 1946-1950 đã sản xuất 20 nghìn tấn than cốc, 800kg ăng-ti-moan; từ
năm 1950 đến cuối năm 1952 sản xuất được 29,5 tấn thiếc; 43 tấn chì; những năm
1950-1954 sản xuất được 169,3 triệu mét vải; 31,7 nghìn tấn giấy…
Chính sách khuyến khích mở rộng việc buôn bán của Chính phủ đã làm
hàng hóa được lưu thông tự do trong toàn quốc. Theo đó, một số văn bản pháp lý
như Nghị định của Chính phủ ngày 02/10/1945 về bãi bỏ các luật lệ hạn chế kinh
doanh dưới thời Pháp, Nhật; Sắc lệnh của Chủ tịch nước ngày 22/9/1945 về xóa bỏ
các tổ chức độc quyền kinh doanh của người Pháp, Nghị định ngày 19/9/1945 của
Bộ Quốc dân Kinh tế về xóa bỏ tất cả mọi hạn chế lưu thông hàng hóa thông
thường cho kinh tế và đời sống như gỗ, giấy, lương thực, thực phẩm. Mặc dù hàng
hóa trong thời kỳ này khan hiếm nhưng người dân vẫn có thể mua được dễ dàng
các loại hàng hóa thiết yếu phục vụ đời sống sinh hoạt hàng ngày ở các chợ. Tuy
17
nhiên, có thể nói đây là giai đoạn nghiêm trọng nhất về lạm phát. Chỉ số giá bán lẻ
bình quân năm trong giai đoạn 1945-1954 tăng khoảng 66%.

3.2. Hoạt động của IMF tại Việt Nam


3.2.1. Giai đoạn 1976-1983
Trong giai đoạn 1976-1983, IMF đã cho Việt Nam vay khoảng 200 triệu
USD Quyền rút vốn đặc biệt (SDR) theo các điều kiện ưu đãi về lãi suất và thời
hạn nhằm giúp giải quyết những khó khăn trong cán cân thanh toán.

3.2.2. Giai đoạn 1984-1993


Sau khi Việt Nam phát sinh nợ quá hạn với IMF vào năm 1984 và IMF đình
chỉ quyền vay vốn của Việt Nam, trong suốt thời gian từ 1985 đến tháng 10/1993,
quan hệ giữa Việt Nam - IMF được duy trì thông qua đối thoại chính sách chủ yếu
dưới hình thức tham khảo thường niên về kinh tế vĩ mô. Trong thời gian này, dưới
sự chỉ đạo của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước đã phối hợp với các bộ, ngành liên
quan kiên trì các nỗ lực ngoại giao để duy trì quan hệ hội viên tại IMF, tạo tiền đề
cho việc nối lại quan hệ tín dụng sau này. Tháng 10/1993, với nỗ lực to lớn và
quyết tâm thực hiện cải cách của Chính phủ Việt Nam cùng với sự vận động và
dàn xếp tài chính thiện chí của các nhà tài trợ thuộc Câu lạc bộ Paris, Việt Nam đã
nối lại quan hệ tài chính với IMF.

3.2.3. Giai đoạn 1993-2004


Trong giai đoạn 1993-2004, IMF đã cung cấp cho Việt Nam 4 khoản vay với
tổng vốn cam kết 1.094 triệu USD, giải ngân được 670,8 triệu USD – trong đó
209,2 triệu USD của chương trình Tăng trưởng và Xoá đói Giảm nghèo PRGF.

3.2.4. Giai đoạn 2004-nay


Từ tháng 4/2004 đến nay, quan hệ Việt Nam - IMF tiếp tục được duy trì tốt
đẹp mặc dù giữa hai bên không còn chương trình vay vốn. Hiện nay, quan hệ Việt
Nam - IMF tiếp tục trên nhiều lĩnh vực như giám sát kinh tế vĩ mô, đào tạo và hỗ
trợ kỹ thuật cho Việt Nam. Cụ thể:

Giám sát kinh tế vĩ mô:


Hàng năm theo định kỳ, IMF thực hiện các đợt đánh giá về tình hình kinh tế
vĩ mô Việt Nam thông qua 2 Đoàn công tác: Đoàn Điều IV (thực hiện vào Quý 2)
và Đoàn đánh giá giữa kỳ (Đoàn cán bộ, thực hiện vào Quý 3 hoặc Quý 4) để
nghiên cứu cập nhật tình hình kinh tế vĩ mô của Việt Nam để đưa ra các tư vấn,
đánh giá, đề xuất về chính sách vĩ mô trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, thương
mại, cải cách DNNN…

18
Trong năm 2020 và 2021, do ảnh hưởng bởi dịch bệnh COVID-19, IMF
không tổ chức các Đoàn công tác đánh giá định kỳ sang Việt Nam như các năm
trước, thay vào đó, là tiếp xúc, thảo luận với các Bộ, ngành, cơ quan hữu quan, các
doanh nghiệp, viện nghiên cứu, trường đại học... theo hình thức trực tuyến. Ngoài
ra, Đoàn Điều IV cũng xây dựng các kịch bản tăng trưởng và thực hiện các nghiên
cứu chuyên đề về tác động của đại dịch COVID-19 tới một số lĩnh vực, khu vực
kinh tế để từ đó đưa ra các khuyến nghị, tư vấn chính sách liên quan cho Chính phủ
và các cơ quan quản lý của Việt Nam. Kể từ khi nổ ra khủng hoảng COVID-19,
Đoàn Điều IV đã 03 lần thực hiện kịch bản tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Cùng
với đó, Đoàn cũng tích cực thực hiện các nghiên cứu chuyên đề về tác động của đại
dịch COVID-19 đối với hoạt động thương mại, khu vực doanh nghiệp, khu vực hộ
gia đình, v.v…
Năm 2022, IMF khôi phục các Đoàn đánh giá định kỳ trực tiếp tại Việt
Nam. Bên cạnh đó, Đoàn Điều IV tiếp tục thực hiện các báo cáo nghiên cứu, đánh
giá tác động của những bất ổn kinh tế toàn cầu tới kinh tế trong nước cũng như các
vấn đề có tính thời sự khác và đưa ra các khuyến nghị chính sách liên quan cho
Chính phủ và các cơ quan quản lý.

Hỗ trợ kỹ thuật:
Từ 1994 - 2022, IMF đã cung cấp hơn 200 đoàn hỗ trợ kỹ thuật cho các cơ
quan Đảng, Chính phủ, Quốc hội Việt Nam về các nội dung đa dạng về tài chính
công, nghiệp vụ ngân hàng trung ương, thống kê, phòng chống rửa tiền… Năm
2022, ngoài một số hỗ trợ kỹ thuật bị hoãn dưới ảnh hưởng dịch COVID, đa số các
dự án hỗ trợ kỹ thuật vẫn được tiếp tục dưới hình thức trực tuyến hoặc kết hợp trực
tiếp. Ngoài ra, IMF cũng thường xuyên tổ chức đối thoại tư vấn chính sách và
thông tin cho các cơ quan của Đảng, Nhà nước, Quốc hội và Chính phủ.

Đào tạo:
Hàng năm, IMF cung cấp học bổng thạc sĩ, tiến sĩ và tài trợ cho cán bộ của
Ngân hàng Nhà nước và các Bộ, ngành liên quan tham dự các khóa đào tạo dài
hạn, ngắn hạn về các chủ đề chính sách và kinh tế vĩ mô, tài chính, ngân hàng, tiền
tệ, thống kê… tại các Viện đào tạo khu vực của IMF tại Singapore, Mỹ; các Văn
phòng khu vưc của IMF như Văn phòng khu vực Châu Á - Thái Bình Dương
(OAP), Văn phòng Tăng cường Năng lực tại Thái Lan (CDOT)…; và các nước
thành viên được lựa chọn. Từ năm 1993 đến tháng 11/2022, IMF đã đào tạo
khoảng hơn 1880 lượt cán bộ của Việt Nam trong các lĩnh vực quản lý kinh tế vĩ
mô, kinh tế, tài chính, ngân hàng...
3.3. Tác động của việc gia nhập IMF đến Việt Nam
3.3.1. Tác động tích cực
Duy trì ổn định kinh tế và tài chính:

19
 IMF cung cấp cho Việt Nam nguồn vốn vay dự phòng để ứng phó với các cú
sốc kinh tế vĩ mô. Ví dụ như trong cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm
2008, Việt Nam đã vay 2,4 tỷ USD từ IMF để hỗ trợ nền kinh tế.
 IMF thường xuyên giám sát tình hình kinh tế vĩ mô của Việt Nam và đưa ra
các khuyến nghị chính sách phù hợp. Việc này giúp Việt Nam phát hiện sớm
các rủi ro tiềm ẩn và có biện pháp phòng ngừa hiệu quả.
 IMF đã hỗ trợ Việt Nam trong việc xây dựng và thực hiện các chương trình
kinh tế vĩ mô, tư vấn việc quản lý tỷ giá hối đoái và lạm phát, nâng cao năng
lực quản lý ngân hàng và thị trường tài chính.
Thúc đẩy cải cách kinh tế, xóa đói, giảm nghèo:
 Để đáp ứng các tiêu chuẩn của IMF, Việt Nam đã cam kết thực hiện một số
cải cách kinh tế quan trọng như tự do hóa thương mại, tư nhân hóa, cải thiện
môi trường kinh doanh, v.v. Các cải cách này đã góp phần thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế và giảm nghèo ở Việt Nam.
 Thông qua các chương trình tài trợ và các khoản trợ giúp kỹ thuật và dựa
trên bề dày kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực tài chính tiền tệ quốc tế,
IMF đã đưa ra những khuyến nghị, tư vấn sát hợp. Ðặc biệt, các khoản hỗ
trợ Việt Nam như khoản vay Dự phòng (SBA), Ðiều chỉnh Hệ thống (STF),
Ðiều chỉnh Cơ cấu mở rộng (ESAF), và Tăng trưởng và Xóa đói giảm nghèo
(PRGF)... đều nhấn mạnh mục tiêu hỗ trợ Việt Nam thực hiện các chương
trình cải cách của Chính phủ. Về mặt tài chính, các khoản vay này đã góp
phần hỗ trợ cán cân thanh toán của Việt Nam, cũng như góp phần trang trải
một phần chi phí phát sinh trong quá trình cải cách và chuyển đổi nền kinh
tế.
Nâng cao năng lực quản lý kinh tế và cải thiện môi trường đầu tư:
 IMF tích cực tiến hành nhiều hoạt động tư vấn chính sách và hỗ trợ kỹ thuật
cho Việt Nam trong nhiều lĩnh vực ngân hàng, tài chính, thương mại, chính
sách tài khóa, tiền tệ, ngoại hối, thống kê, cải cách doanh nghiệp nhà nước,

 Xây dựng và thực hiện các chương trình đào tạo bằng nguồn vốn của các tổ
chức này cho một số lượng khá lớn các cán bộ thuộc các cơ quan Chính phủ,
góp phần nâng cao năng lực của lực lượng cán bộ của Việt Nam. Nhiều cán
bộ ngân hàng Nhà nước và các bộ liên ngành được tham dự các khoá đào
tạo, hội thảo theo chương trình do IMF tài trợ.
 Hỗ trợ và tư vấn đối với việc điều hành chính sách kinh tế vĩ mô của Chính
phủ Việt Nam, góp phần xây dựng các khuôn khổ chính sách phù hợp với xu
thế toàn cầu, hỗ trợ Việt Nam tiếp cận các quỹ đầu tư.
Thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế, nâng cao uy tín trên trường quốc tế :

20
 Việc gia nhập IMF là minh chứng cho sự cam kết của Việt Nam đối với các
nguyên tắc kinh tế vĩ mô quốc tế, vừa giúp Việt Nam hội nhập sâu rộng hơn
vào nền kinh tế thế giới vừa giúp nâng cao uy tín quốc tế và thu hút vốn đầu
tư nước ngoài.
 Tạo điều kiện cho Việt Nam tham gia tích cực hơn vào các quá trình hợp tác
liên kết quốc tế, tham gia thiết lập trật tự kinh tế quốc tế công bằng hơn, hợp
lý hơn, thúc đẩy tiến trình dân chủ hóa và bình đẳng hóa các quan hệ quốc
tế. Việt Nam sẽ ngày càng khẳng định vị thế của mình trong bối cảnh toàn
cầu hóa hiện nay thông qua các diễn đàn tài chính tiền tệ quốc tế.
 Giúp Việt Nam có được vị thế bình đẳng như các thành viên khác trong việc
hoạch định chính sách tài chính tiền tệ toàn cầu, có tiếng nói được tôn trọng
hơn, có quyền thương lượng và khiếu nại công bằng hơn đối với các tranh
chấp trong khuôn khổ tổ chức, định chế quốc tế, do đó có điều kiện để bảo
vệ lợi ích của đất nước, của doanh nghiệp.
 Việt Nam có thể tham gia vào các diễn đàn quốc tế do IMF tổ chức, chia sẻ
kinh nghiệm và học hỏi từ các quốc gia khác.

3.3.2. Tác động tiêu cực


Tuy nhiên, việc gia nhập IMF cũng có một số tác động tiêu cực, bao gồm:
 Việt Nam phải chịu trách nhiệm thực hiện các cam kết với IMF, bao gồm
việc tuân thủ các quy định về kinh tế vĩ mô.
 Việc vay vốn từ IMF có thể dẫn đến gánh nặng nợ nần cho Việt Nam.
 Việc áp dụng các chính sách do IMF khuyến nghị có thể ảnh hưởng đến các
mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam.
IMF có ý nghĩa quan trọng trong tiến trình phát triển của Việt Nam. Ngoài nguồn
vốn hỗ trợ ưu đãi cho phát triển kinh tế và xoá đói giảm nghèo, IMF còn đem đến
cho Việt Nam những trợ giúp kỹ thuật quý báu giúp Việt Nam tiến tới áp dụng
những chuẩn mực được quốc tế công nhận, nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ
và hoàn thiện dần môi trường thể chế. Chính sách của IMF đã góp phần hỗ trợ
Chính phủ trong việc hoạch định các chính sách ổn định và phát triển kinh tế-xã
hội hiệu quả, đúng hướng, nhất là trong giai đoạn khủng hoảng bởi dịch Covid-19
và bất ổn toàn cầu hiện nay.
3.4 Giải pháp của Việt Nam trong việc tăng cường mối quan hệ Việt Nam -
IMF
Trong bối cảnh kinh tế thế giới đang có nhiều biến động, lạm phát toàn cầu tăng
cao, tăng trưởng kinh tế của nhiều nước và khu vực chậm lại, việc đảm bảo an ninh
lương thực, an ninh năng lượng gặp rất nhiều khó khăn, Việt Nam, IMF và các
nước càng phải tăng cường phối hợp, điều phối các chính sách, chủ trương nhằm
ứng phó hiệu quả với các vấn đề này.

21
Việt Nam đã thực hiện nhiều biện pháp để tăng cường mối quan hệ với IMF, bao
gồm:

 Tích cực tham gia vào các hoạt động của IMF, nâng cao hiệu quả hợp tác:
+ Việt Nam thường xuyên cử các đoàn đại biểu cấp cao tham dự các Hội
nghị thường niên và Hội nghị mùa Xuân của IMF.
+ Tích cực vào các hoạt động khác của IMF như các chương trình đào tạo,
hội thảo, hội nghị chuyên đề.
+ Tăng cường trao đổi thông tin và phối hợp giữa các cơ quan chức năng
của Việt Nam với IMF.
+ Tham gia tích cực vào các hoạt động, xây dựng chính sách, sáng kiến,
chương trình tăng vốn, cơ cấu lại và cải cách của IMF nhằm nâng cao vị thế
của Việt Nam tại các thể chế tài chính - tiền tệ - ngân hàng khu vực và quốc
tế,
 Tăng cường hỗ trợ kỹ thuật:
+ Việt Nam đã tích cực đề xuất và tiếp nhận hỗ trợ kỹ thuật từ IMF trong
các lĩnh vực như quản lý kinh tế vĩ mô, tài chính công, ngân hàng, thống kê,
v.v. Qua đó giúp Việt Nam nâng cao năng lực quản lý kinh tế vĩ mô và thực
hiện các chính sách kinh tế hiệu quả hơn.
+ Việc tiếp nhận kỹ thuật từ IMF là một phần quan trọng trong quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
 Thúc đẩy hợp tác kinh tế:
+ Việt Nam đã tích cực thu hút đầu tư từ các nhà đầu tư quốc tế thông qua
kênh IMF, mở rộng thị trường xuất khẩu cho các sản phẩm của Việt Nam,
tham gia vào các chương trình hợp tác kinh tế do IMF tài trợ.
+ Có thể thấy được nỗ lực thúc đẩy hợp tác kinh tế giữa Việt Nam và IMF
thông qua những sự kiện như:
+ Năm 2023, Việt Nam đã tổ chức thành công Hội nghị Bộ trưởng Tài
chính và Thống đốc Ngân hàng Trung ương ASEAN+3 (AMM+3) với chủ
đề "Thúc đẩy phục hồi kinh tế khu vực: Vai trò của hợp tác tài chính quốc
tế".
+ Việt Nam cũng đang tham gia vào chương trình Sáng kiến Hỗ trợ các
Quốc gia Thu nhập Thấp (LICF) của IMF. Chương trình này cung cấp hỗ trợ
tài chính và kỹ thuật cho các quốc gia thu nhập thấp để giúp họ ứng phó với
các cú sốc kinh tế và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
+ Việc thúc đẩy hợp tác kinh tế với IMF là một phần quan trọng trong
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam giai đoạn 2021-2030.
 Góp phần vào cải cách IMF:

22
+ Việt Nam đã tham gia vào các thảo luận về cải cách IMF để tổ chức này
hoạt động hiệu quả hơn và phù hợp hơn với nhu cầu của các quốc gia thành
viên.
+ Tích cực tham gia vào các hoạt động của IMF và đóng góp vào việc giải
quyết các vấn đề kinh tế toàn cầu, góp phần vào việc xây dựng một hệ thống
kinh tế quốc tế công bằng và bền vững.
 Cung cấp thông tin cập nhật về tình hình kinh tế vĩ mô của Việt Nam cho
IMF.
 Tham gia vào các chương trình giám sát kinh tế của IMF.
 Tổ chức các hội thảo và hội nghị chuyên đề về các vấn đề liên quan đến
IMF.
IV. Đánh giá hoạt động của IMF
4.1. Đánh giá
4.1.1. Tích cực
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra mạnh mẽ, sự
liên kết và ảnh hưởng lẫn nhau giữa các nền kinh tế ngày càng sâu sắc, để duy trì
sự ổn định và phát triển các mối quan hệ kinh tế quốc tế, trước hết là ổn định các
quan hệ tài chính tiền tệ trên phạm vi thế giới cần có một tổ chức tài chính chung
có khả năng điều tiết và phối hợp hành động của các quốc gia. Và sự ra đời của
Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) là kết quả tất yếu khách quan của quá trình đó. Từ khi
chính thức đi vào hoạt động đến nay IMF đã khẳng định vai trò của mình trong
việc duy trì ổn định và thúc đẩy thương mại quốc tế với nhiều chuyển biến tích
cực.
Với tư cách là tổ chức tài chính tiền tệ uy tín toàn cầu với 190 quốc gia
thành viên, IMF đã có nhiều chính sách để thúc đẩy hợp tác tiền tệ sâu rộng, kiểm
soát thường xuyên và gắt gao hệ thống ngang giá tiền tệ và tỷ giá hối đoái nhằm
duy trì sự ổn định, đảm bảo trật tự giao dịch ngoại hối giữa các thành viên, tránh
việc phá giá tiền tệ để cạnh tranh. Một trong những điều luật quan trọng nhất của
IMF là buộc các nước thành viên phải để đồng tiền của mình được trao đổi tự do
với các đơn vị tiền tệ nước ngoài và trong mọi trường hợp. Các quốc gia phải báo
cáo với IMF mọi thay đổi trong chính sách tài chính, kinh tế của nước mình nhằm
tránh gây ảnh hưởng cho nền kinh tế các nước thành viên khác. Ngoài ra, IMF còn
hỗ trợ thành lập một hệ thống thanh toán giữa các nước thành viên, dỡ bỏ các rào
cản về ngoại hối để đẩy mạnh các hoạt động hợp tác, mậu dịch, tạo điều kiện thuận
lợi để thương mại giữa các quốc gia phát triển. IMF như một “bác sĩ” của nền kinh
tế toàn cầu, chuyên chữa trị những “ung nhọt” nhức nhối trong hệ thống kinh tế.
Bên cạnh đó, IMF thực hiện tốt vai trò cung ứng cứu trợ cho nền kinh tế thế
giới trước những khó khăn. Điển hình như việc phối hợp nhịp nhàng với tiền thân
của WTO và Ngân hàng thế giới (WB) trong việc giúp nền kinh tế thế giới thoát
khỏi cuộc đại khủng hoảng những năm 1930. Hay thông qua gói hỗ trợ lớn nhất
23
lịch sử 650 tỷ USD từ phân bổ SDR nhằm giúp các nước đang đối mặt với tình
trạng nợ gia tăng và sụt giảm kinh tế vì đại dịch COVID-19. Khoản hỗ trợ này đặc
biệt giúp ích cho những quốc gia dễ bị tổn thương nhất, giúp các quốc gia chống
chọi với những tác động tiêu cực của đại dịch, phục hồi nền kinh tế. Nếu không có
sự “cứu cánh” kịp thời từ IMF nền kinh tế toàn cầu hẳn đã phải đối mặt với nhiều
tổn thương, suy yếu. Đối với nền kinh tế của từng nước thành viên, IMF giúp đưa
ra những dự báo tăng trưởng, triển vọng cũng như nguy cơ, thách thức giúp các
nước chủ động trong việc điều chỉnh chính sách, ứng phó kịp thời với những biến
động của nền kinh tế, tìm kiếm cơ hội, giảm thiểu những tác động tiêu cực. Hơn
thế, IMF còn đóng vai trò quan trọng trong việc đưa ra những kiến nghị, khuyến
cáo, trợ giúp tài chính khi các nước thành viên gặp khó khăn. Như trong cuộc
khủng hoảng nợ công ở Hy Lạp, IMF cùng với EU, Ngân hàng trung ương châu
Âu (ECB) liên tiếp thông qua những gói cứu trợ hàng tỷ Euro giúp quốc gia này
tránh được tình trạng vỡ nợ, phục hồi kinh tế, bừng sáng tăng trưởng sau khủng
hoảng.
Cùng với các khoản vay tài chính, các gói hỗ trợ kỹ thuật của IMF cũng giúp
ích cho các quốc gia trong việc nâng cao hiệu quả quản lý các chính sách kinh tế,
tài chính, tiền tệ, thống kê,... Các hỗ trợ kỹ thuật của IMF dành cho Việt Nam về
ứng phó biến đổi khí hậu, phát triển kinh tế xanh, chuyển đổi số, chuyển đổi năng
lượng, đào tạo nhân lực, đặc biệt là các báo cáo phân tích,... đã giúp cho nền kinh
tế Việt Nam ngày càng phát triển với nhiều chuyển biến tích cực, duy trì sự ổn
định và vững mạnh cả trong đại dịch COVID-19.
4.1.2. Tiêu cực
Những lợi ích tích cực mà IMF đem lại cho nền kinh tế toàn cầu cũng như
các nước thành viên là không thể phủ nhận, tuy nhiên việc gia nhập IMF cũng
mang đến một số ảnh hưởng tiêu cực.
Về lý thuyết, IMF hoạt động như một bên cung cấp cứu trợ cho các nền kinh
tế đang gặp khó khăn. Thể chế này cung cấp cho các quốc gia khoản vay ngắn hạn
với lãi suất thấp hơn thị trường để các nước này có thể trang trải các nghĩa vụ tài
chính hiện tại và trả tiền cho các chủ nợ của họ. Để duy trì khả năng thanh toán và
đảm bảo rằng các quốc gia có thể trả nợ đầy đủ, IMF khuyến nghị các quốc gia
nhận cứu trợ thực hiện một số chính sách nhất định để cải thiện bảng cân đối tài
chính và khôi phục khả năng tiếp cận thị trường vốn của họ. Những chính sách này
thường được gọi là các biện pháp “thắt lưng buộc bụng”. Những chính phủ nhận
được hỗ trợ của IMF đôi khi buộc phải đưa ra những lựa chọn khó khăn như cắt
giảm phúc lợi xã hội hoặc trợ cấp nhiên liệu và lương thực để tăng ngân sách nhà
nước - những biện pháp này có thể ảnh hưởng đến mục tiêu phát triển kinh tế - xã
hội của các quốc gia, dễ đối mặt với sự phản đối của người dân.
Vào cuối tháng 5/2022, IMF đã yêu cầu Pakistan thực hiện "các hành động
chính sách cụ thể" bao gồm loại bỏ các khoản trợ cấp nhiên liệu và năng lượng để
24
đạt được các mục tiêu trong chương trình cứu trợ thì IMF có thể giải ngân khoản
vay. Vào cuối tháng Sáu, quốc gia thiếu tiền mặt này đã tiếp tục loại bỏ trợ cấp
nhiên liệu để giảm thâm hụt tài chính - dẫn đến giá tiêu dùng tăng 17% và khiến
nhiều cuộc biểu tình trên toàn quốc nổ ra. Cả hai biện pháp trên đều được thực hiện
trong bối cảnh tình trạng thiếu nhiên liệu và cuộc khủng hoảng năng lượng ở nước
này ngày càng tồi tệ hơn.
Một người phát ngôn của IMF nói với Foreign Policy rằng, kể từ khi đại
dịch bắt đầu, IMF đã cung cấp tài chính khẩn cấp với trọng tâm là hỗ trợ tài chính
ngay lập tức và không đi kèm điều kiện nào ban đầu. Khi mở rộng hoạt động cứu
trợ thời COVID-19, IMF đã tăng cường hỗ trợ tài chính cho 90 quốc gia bằng
chương trình ngăn chặn thảm họa và ủy thác cứu trợ. Các chương trình này được
thiết kế để cung cấp các khoản tài trợ để giảm hoặc xóa nợ cũng như hỗ trợ tài
chính ưu đãi cho các quốc gia có thu nhập thấp bị ảnh hưởng nặng nề bởi đại dịch.
Tuy nhiên, phân tích do tổ chức phi chính phủ Oxfam thực hiện cho thấy 84% các
khoản vay thời COVID-19 của IMF đều khuyến khích, và trong một số trường hợp
là bắt buộc, các nước nghèo (vốn đang vật lộn với cuộc khủng hoảng COVID-19)
áp dụng nhiều các biện pháp “thắt lưng buộc bụng” hơn.
Chính sách “thắt lưng buộc bụng” theo yêu cầu, khuyến nghị của IMF giúp
cho các nước nhận được khoản vay cứu trợ, giảm bớt tình trạng thâm hụt ngân
sách tuy nhiên ảnh hưởng đến tình hình an sinh xã hội, đời sống của người dân như
tăng giá nhiên liệu, giá hàng tiêu dùng,... làm nảy sinh những làn sóng phẫn nộ lớn
trong nhân dân. Thậm chí tổ chức lao động quốc tế (ILO) còn có những nghi ngại
những biện pháp này không những không giúp giảm thâm hụt ngân sách mà còn
phá hoại thị trường lao động trong bối cảnh tỷ lệ thất nghiệp toàn cầu tăng cao.

4.2. Kiến nghị giải pháp hoàn thiện IMF


Để nâng cao hiệu quả trong trong việc duy trì ổn định tài chính và kinh tế
toàn cầu, giúp đỡ các quốc gia phát triển và quản lý tài chính cũng như thúc đẩy
quan hệ thương mại, hợp tác quốc tế IMF cần tăng cường những hoạt động sau:
Duy trì kiểm soát chặt chẽ chính sách tiền tệ của các nước hội viên nhằm
đảm bảo một hệ thống tiền tệ quốc tế ổn định, tự do và tạo điều kiện cho những
trao đổi thương mại thế giới phát triển.
Tăng cường các giúp đỡ về mặt tài chính, kỹ thuật đối với những nước
nghèo, những nền kinh tế dễ tổn thương. Tạo những tiền đề vật chất để các quốc
gia xóa đói giảm nghèo, vượt qua khủng hoảng, phục hồi kinh tế cũng như nâng
cao hiệu quả hoạt động kinh tế, phát triển bền vững.
Đẩy mạnh hoạt động giám sát kinh tế đồng thời đưa ra dự báo, phân tích,
đánh giá ở cấp độ quốc gia và quốc tế trong báo cáo Triển vọng Kinh tế Thế giới.
Qua đó đưa ra những vấn đề mới, đáng chú ý và tư vấn về phương hướng phát
triển cho các nước thành viên.

25
Nâng cao hiệu quả các cuộc họp thường niên, hợp tác tổ chức các hội nghị,
hội thảo chuyên đề cùng các nước thành viên, các tổ chức tài chính thế giới nhằm
tìm ra giải pháp cho những vấn đề, nguy cơ tài chính tiềm ẩn trên thế giới.
Giảm bớt các biện pháp “thắt lưng buộc bụng”, thay vào đó thúc đẩy bình
đẳng, an ninh môi trường và giảm bất bình đẳng thu nhập, tập trung vào “Những
lợi ích thực sự mà đôi bên cùng có lợi, chẳng hạn như đánh thuế công bằng vào
người giàu, đang bị bỏ quên trên bàn đàm phán", như ông Amitabh Behar, giám
đốc điều hành lâm thời của Oxfam International có chia sẻ.

KẾT LUẬN
Nhìn chung, IMF là một tổ chức tài chính quan trọng trong hệ thống kinh tế quốc
tế. IMF đã đóng góp nhiều cho việc duy trì ổn định hệ thống tiền tệ quốc tế và thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế trên toàn thế giới, cải cách kinh tế và chính sách ở các quốc
gia thành viên. Đối với Việt Nam, IMF có ý nghĩa rất lớn và đóng vai trò quan
trọng trong việc hỗ trợ Việt Nam phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế. Việt Nam
luôn coi trọng mối quan hệ với IMF và cũng mong muốn, trong thời gian tới, IMF
tiếp tục có những đóng góp tích cực hơn nữa tại Việt Nam, nhất là việc quan tâm
hỗ trợ, tư vấn xây dựng các chính sách về tài chính, tiền tệ để phục vụ cho quá
trình đổi mới, phát triển kinh tế và hội nhập sâu rộng của Việt Nam vào nền kinh tế
thế giới.

Tuy nhiên, bên cạnh những tác động tích cực đối với thế giới nói chung và Việt
nam nói riêng, IMF vẫn còn vấp phải một số những hạn chế cần phải khắc phục và
cải thiện như thiên vị các quốc gia phát triển, can thiệp quá nhiều vào nội bộ các
quốc gia vay nợ, và gánh nặng nợ nần cho các quốc gia vay nợ. Tương lai của IMF
sẽ phụ thuộc vào khả năng của tổ chức này trong việc thích ứng với những thay đổi
của nền kinh tế toàn cầu và giải quyết các vấn đề còn tồn tại.

26
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu Tiếng Việt
[1] Viện Thương mại và Kinh tế Quốc tế, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân,
Thương mại quốc tế, Nhà xuất bản Đại học Kinh tế Quốc dân

Báo chí, các trang web


[1] Công ty Luật TNHH Minh Khuê: https://luatminhkhue.vn/
[2] Nghiên cứu Quốc tế: https://nghiencuuquocte.org/
[3] Luận văn: https://luanvan.co/luan-van/de-tai-tong-quan-ve-quy-tien-te-quoc-te-
imf-16688/
[4] Pháp Luật và Xã hội: https://phapluatxahoi.kinhtedothi.vn/
[5] Vietstock: https://vietstock.vn/
[6] Báo tin tức: https://baotintuc.vn/
[7] Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam SBV: https://www.sbv.gov.vn/
[8] TOPI: https://topi.vn/
[9] Báo Bình Phước: https://baobinhphuoc.com.vn/
[10] Tạp chí Tuyên Giáo: https://www.tuyengiao.vn/
[11] Cổng Thông tin điện tử Bộ Tài Chính: https://www.mof.gov.vn/
[12] BNEWS: https://bnews.vn/

27

You might also like