Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 15

I- Mối quan hệ biện chứng giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất

1. Phương thức sản xuất


- Phương thức sản xuất là phạm trù triết học dùng để chỉ cách thức con người
thực hiện quá trình sản xuất vật chất ở những giai đoạn lịch sử nhất định của
xã hội
- Mỗi phương thức sản xuất là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất và quan
hệ sản xuất
2. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất
a) Lực lượng sản xuất
- Lực lượng sản xuất là phương thức kết hợp giữa người lao động và tư liệu
lao động để tạo ra sức sản xuất và năng lực thực tiễn làm biến đổi các đối
tượng vật chất của giới tự nhiên theo nhu cầu nhất định của con người và xã
hội
- Kết cấu của lực lượng sản xuất bao gồm: người lao động (với những kinh
nghiệm, kỹ năng, thói quen, tri thức, biết sử dụng tư liệu sản xuất để tạo ra
của cải vật chất) và tư liệu sản xuất (đối tượng lao động, tư liệu lao động mà
trước hết là công cụ lao động và tư liệu phụ trợ sản xuất)
- Trong tư liệu lao động thì công cụ lao động là yếu tố quan trọng nhất. Nó là
hệ thống xương cốt và bắp thịt của quá trình sản xuất vật chất. Trong quá
trình sản xuất, công cụ lao động luôn luôn được cải tiến, nó là yếu tố động
nhất và cách mạng nhất trong quá trình sản xuất
- Trình độ phát triển của tư liệu lao động mà trước hết là công cụ lao động là
thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của loài người, là cơ sở để xác định
trình độ phát triển của sản xuất, là tiêu chuẩn để phân biệt các thời đại kinh
tế
- Vai trò của công cụ lao động trong lực lượng sản xuất
+ Công cụ lao động là cầu nối giữa người lao động và đối tượng lao động
+ Giữ vai trò quyết định đến sản xuất lao động và chất lượng sản phẩm,
ngày nay công cụ la động được tin học hóa, tự động hóa và trí tuệ hóa
+ Là yếu tố động nhất, cách mạng nhất trong lực lượng sản xuất, là nguyên
nhân sâu xa của mọi biến đổi kinh tế xã hội trong lịch sử
- Vai trò của người lao động trong lực lượng sản xuất
+ Người lao động là nhân tố hàng đầu giữ vai trò quyết định, các tư liệu sản
xuất chỉ là sản phẩm lao động của con người, giá trị và hiệu quả thực tế của
các tư liệu sản xuất phụ thuộc vào
+ Trong quá trình sản xuất, công cụ lao động bị hao thì người lao động tạo ra
giá trị lớn hơn giá trị ban đầu
+ Là nguồn gốc của mọi sự sáng tạo trong sản xuất vật chất, nguồn gốc của
sự phát triển sản xuất
- Khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp
+ Làm cho năng suất lao động, của cải xã hội tăng nhanh
+ Kịp thời giải quyết những nhu cầu do sản xuất đặt ra, thâm nhập vào tất cả
các yếu tố bên trong sản xuất
+ Được kết tinh, vật hóa vào các yếu tố của lực lượng sản xuất, kích thích sự
phát triển năng lực làm chủ sản xuất của con người
+ Trong nền kinh tế tri thức, người lao động và công cụ lao động được trí tuệ
hóa
 Như vậy, lực lượng sản xuất chính là nhân tố cơ bản, tất yếu tạo thành
nội dung vật chất của quá trình sản xuất không một hiện thực nào có thể
diễn ra nếu thiếu một trong hai nhân tố người lao động và tư liệu sản xuất
b) Quan hệ sản xuất
- Quan hệ sản xuất là toàn bộ quan hệ kinh tế vật chất giữa người với người
trong quá trình sản xuất vật chất, là sự thống nhất của ba quan hệ: quan hệ sở
hữu về tư liệu sản xuất, quan hệ tổ chức quản lý sản xuất, quan hệ phân phối
sản phẩm lao động
- Trong ba mặt thì quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất giữ vai trò quan trọng có ý
nghĩa quyết định với tất cả các quan hệ khác. Hai mặt còn lại cũng có vai trò
quan trọng có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của sản xuất do đó
tác động trở lại quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất
- Có hai hình thức sở hữu cơ bản về tư liệu sản xuất là sở hữu tư nhân và sở
hữu xã hội
+ Sở hữu tư nhân là loại hình sở hữu trong đó tư liệu sản xuất tập trung trong
tay một số ít người còn đại đa số là không có hoặc có rất ít tư liệu sản xuất.
Do đó quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất là quan hệ
thống trị và bị trị, giữa người đi bóc lột và người bị bóc lột
+ Sở hữu xã hội (sở hữu công hữu) là loại hình sở hữu trong đó tư liệu sản
xuất thuộc về mọi thành viên trong cộng đồng nhờ đó quan hệ giữa con
người với con người trong mỗi cộng đồng đều là quan hệ bình đẳng, hợp tác
và giúp đỡ lẫn nhau
c) Nội dung quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất
- Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt cơ bản của quá trình sản
xuất. Trong đó lực lượng sản xuất là nội dung thường xuyên biến đổi theo
chiều hướng phát triển, quan hệ sản xuất là hình thức của sản xuất, tương đối
ổn định
- Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tồn tại trong tính quy định lẫn nhau,
thống nhất với nhau, trong đó
+ Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất
Tương ứng với trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất phải có
một quan hệ sản xuất phù hợp với nó trên cả ba phương diện: sở hữu tư liệu
sản xuất, tổ chức quản lí sản xuất và phân phối sản phẩm lao động
+ Lực lượng sản xuất như thế nào thì cũng có quan hệ sản xuất phù hợp
tương ứng
 Khi lực lượng sản xuất biến đổi, mâu thuẫn với quan hệ sản xuất thì sớm
hay muộn thì quan hệ sản xuất cũng phải thay đổi để phù hợp với trình độ
mới của lực lượng sản xuất
 Lực lượng sản xuất là yếu tố cách mạng, luôn thay đổi: trình độ người
lao đông ngày càng được nâng cao, công cụ lao động luôn được cải
tiến. Trong đó quan hệ sản xuất lại là yếu tố tương đối ổn định. Sự vận
động, phát triển của lực lượng sản xuất dẫn đến sự thay đổi quan hệ
sản xuất. Sự thay đổi của quan hệ sản xuất có thể diễn ra theo hai cách
\ Cải tạo quan hệ sản xuất khi nó con những yếu tố tiến bộ (thay đổi
những mặt tiêu cực, giữ lại những mặt tích cực)
\ Xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ thay bằng quan hệ sản xuất cũ
- Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất
+ Sở dĩ quan hệ sản xuất có thể tác động trở lại lực lượng sản xuất là bởi vì:
nó quy định mục đích sản xuất, quy định hệ thống tổ chức quản lý sản xuất,
quy định phương thức phân phối và phần của cải ít hay nhiều mà người lao
động được hưởng
+ Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất có thể
diễn ra theo hai chiều hướng là phù hợp hoặc không phù hợp. Khi quan hệ
sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất thì nó trở thành động lực thúc đẩy
lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ. Ngược lai, khi quan hệ sản xuất đã
lỗi thời lạc hậu hoặc tiên tiến hơn một cách giả tạo so với lực lượng sản xuất
thì nó sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất
+ Song, tác động kìm hãm của quan hệ sản xuất đã lỗi thời với sự phát triển
của lực lương sản xuất chỉ là tạm thời. Theo tính tất yếu khách quan, cuối
cùng nó sẽ bị thay thế bằng một kiểu quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất, mở đường cho lực lượng sản xuất phát
triển
d) Ý nghĩa trong đời sống xã hội
- Phát triển kinh tế phải bắt đầu từ phát triển lực lượng sản xuất trước hết là
phát triển lực lượng lao động và công cụ lao động
- Muốn xóa bỏ một quan hệ sản xuất cũ, thiết lập một quan hệ sản xuất mới
phải xuất phát từ tính tất yếu kinh tế, yêu cầu khách quan của quy luật kinh
tế, chống tùy tiện, chủ quan, duy tâm, ý chí
II- Ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật
1. Quy luật sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất (Lượng-Chất)
 Vị trí của quy luật: chỉ ra cách thức của sự vận động và phát triển của sự vật,
hiện tượng
 Khái niệm
- Thuộc tính
+ Khái niệm: Thuộc tính của sự vật là những đặc điểm, những tính chất,
những trạng thái vốn có của sự vật, cấu thàn sự vật, nhờ đó sự vật tồn tại và
qua đó con người mới nhận thức được sự vật và phân biệt chúng với sự vật
khác
+ Thuộc tính bao gồm
 Thuộc tính căn bản: cấu thành chất của sự vật. Khi nó thay đổi thì chất
của sự vật thay đổi
 Thuộc tính không căn bản: không quyết định chất của sự vật. Nó thay đổi
thậm chí mất đi có thể không làm cho chất thay đổi
- Chất: là dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật hiện tượng
là sự thống nhất hữu cơ giữa các thuộc tính làm cho nó là nó mà không phải
là cái khác
- Lượng: là dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật hiện
tượng về phương diện: số lượng các yếu tố cấu thành, quy mô của sự tồn tại,
tốc độ, nhịp điệu của các quá trình vận động, phát triển của sự vật
 Sự phân biệt giữa chất và lượng chỉ là tương đối, nghĩa là có cái ở trong
quan hệ này thì là chất nhưng ở quan hệ khác lại là lượng và ngược lại.
Do đó, cần chống quan điểm siêu hình tuyệt đối hóa ranh giới giữa chất
và lượng
Bất cứ sự vật hiện tượng nào cũng bao gồm mặt chất và lượng. Chất và
lượng là hai mặt quy định lẫn nhau không thể tách rời, một chất nhất định
trong sự vật có lượng tương ứng với nó
 Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng
- Sự thay đổi về lượng dẫn đến sự biến đổi về chất
+ Các sự vật hiện tượng đều là thể thống nhất giữa chất và lượng. Chất và
lượng là hai mặt đối lập: chất tương đối ổn định còn lượng thường xuyên
biến đổi. Song hai mặt đó không tách rời nhau mà chúng tác động lẫn nhau
một cách biện chứng
+ Bên cạnh sự thống nhất, sự biến đổi về chất bắt đầu từ sự thay đổi dần về
lượng
Lượng biến đổi dần dần: tăng, giảm
 Biến đổi về lương tăng hoặc giảm đều dẫn đến biến đổi về chất
+ Lượng của sự vật có thay thay đổi đến một giới hạn nào đó mà không làm
thay đổi căn bản chất của sự vật đó, giới hạn chưa thay đổi ấy người ta gọi là
độ
 Độ là khoảng giới hạn mà trong đó sự thay đổi về lượng chưa làm thya
đổi căn bản chất của sự vật, hiện tượng
+ Khi lượng đạt tới điểm nút thì chất cũ sẽ chuyển sang chất mới, tại thời
điểm đó người ta gọi là điểm nút
 Điểm nút là điểm giới hạn mà tại đó sự thay đổi về lượng sẽ làm thay đổi
chất của sự vật
+ Chất mới sẽ thay thế chất cũ, sự vật mới ra đời thay thế sự vật cũ: Bước
nhảy
 Bước nhảy
\ Dùng để chỉ sự chuyển hóa về chất của sự vật do sự thay đổi về lượng
của sự vật trước đó gây nên
\ Là sự kết thúc của một giai đoạn phát triển của sự vật và là điểm khởi
đầu của một giai đoạn phát triển mới
\ Các hình thức của bước nhảy
# Theo nhịp điệu bước nhảy
Bước nhảy đột biến là bước nhảy được thực hiện trong một thời
gian rất ngắn làm thay đổi chất cuẩ toàn bộ kết cấu cơ bản của sự vật
Bước nhảy dần dần: là bước nhảy được thực hiện bằng cách
tích lũy dần dần những nhân tố của chất mới và mất đi dần dần những
nhân tố của chất cũ
# Theo quy mô bước nhảy
Bước nhảy toàn bộ là bước nhảy làm thay đổi chất của toàn bộ
các mặt, các bộ phận, các yếu tố cấu thành sự vật
Bước nhảy cục bộ là bước nhảy làm thay đổi chất của những
mặt, những yếu tố riêng lẻ của sự vật
- Sự tác động trở lại của những biến đổi về chất với những biến đổi về lượng
+ Chất mới của sự vật ra đời sẽ tác động trở lại lượng của sự vật
+ Chất mới ấy có thể làm thay đổi kết cấu, quy mô, trình độ, nhịp điệu của
sự vận động và phát triển của sự vật
 Ý nghĩa phương pháp luận
- Trong nhận thức và thực tiễn trước hết phải biết tích lũy để có biến đổi về
chất, không được nôn nóng cũng như không được bảo thủ
- Khi lượng đã đạt đến điểm nút thì thực hiện bước nhảy là yêu cầu khách
quan của sự vận động của sự vật hiện tượng vì vậy tránh chủ quan nóng vội
đốt cháy giai đoạn hoặc baoar thủ thụ động
- Phải có thái độ khách quan, khoa học và thái độ quyết tâm thực hiện bước
nhảy, trong lĩnh vực xã hội phải chú ý đến các điều kiện chủ quan
- Phải nhận thức được phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành sự vật
hiện tượng để lựa chọn phương hướng một cách phù hợp
2. Quy luật phủ định của phủ định
 Vị trí của quy luật: chỉ ra khuynh hướng vận động, phát triển của sự vật hiện
tượng: tiến lên nhưng theo chu kỳ quanh co phức tạp
 Khái niệm
- Phủ định thông thường nói chung là sự thay thế một sự vật hiện tượng này
bởi một sự vật hiện tượng khác
- Quan điểm siêu hình: phủ định là kết quả của sự tác động từ bên ngoài, là sự
phá hủy thủ tiêu sự vật, chấm dứt sự tồn tại và phát triển của nó
- Phủ định biện chứng là sự tự phủ định, tự phát triển của sự vật hiện tượng, là
mắt xích trong sợi dây chuyền dẫn đến sự ra đời của sự vật hiện tượng mới
tiến bộ hơn so với sự vật hiện tượng cũ
 Tính chất
- Tính khách quan
+ Là kết quả của việc giải quyết mâu thuẫn nội tại bên trong bản thân mỗi sự
vật
+ Là khâu tất yếu của quá trình phát triển
- Tính kế thừa: cái mới ra đời không xóa bỏ hoàn toàn mọi yếu tố của cái cũ
mà chỉ xóa bỏ những yếu tố đã lỗi thời, lạc hậu, giữ lại các yếu tố tích cực,
tiến bộ cải biến chúng trở thành những yếu tố của cái mới
 Nội dung quy luật
- Tính khách quan và kế thừa: phủ định của phủ định cũng là phủ định biện
chứng
- Tính chu kỳ: là từ một điểm xuất phát , trải qua một số lầm phủ định sự vật
dường như quay lại điểm xuất phát nhưng trên cơ sở cao hơn
+ Có sự vật chu kỳ vận động chỉ trải qua có hai lần phủ định
+ Có sự vật chu kỳ vận động phát triển tới ba lần phủ định
+ Có sự vật chu kỳ vận động phát triển tới bốn lần phủ định
+ Có sự vật chu kỳ vận động phát triển tới năm lần phủ định
 Nhưng khái quát lại vẫn chỉ có hai lần phủ định cơ bản trái ngược nhau
+ Phủ định lần thứ nhất làm cho sự vật trở thành cái đối lập với chính nó
tức là chuyển cái khẳng định thành cái phủ định
+ Phủ định lần hai (phủ điịnh củ phủ định): sự vật mới ra đời đối lập với
cái đối lập nên sự vật dường như quay lại cái cũ nhưng ở trên cơ sở cao
hơn
Đó là đặc điểm cơ bản của quy luật phủ định của phủ định
- Tính phát triển về chất
Phủ định của phủ định không đơn giản chỉ chuyển sự vật sang cái đối lập mà
là sự phủ định qua một số lần phủ định biện chứng, bao hàm trong nó sự
chuyển hóa lẫn nhau của các mặt đối lập, làm xuất hiện một sự vật mới trong
đó khôi phục lại một số đặc trưng của cái xuất phát ban đầu nhưng trên cơ sở
mới cao hơn về chất
 Bản chất của quy luật: nêu lên mối liên hệ, sự kế thừa giữa sự vật và sự tự
phủ định của nó, nhờ đó sự phủ định biện chứng là điều kiện cho sự phát
triển, nó bảo tồn một số nội dung của các giai đoạn trước và bổ sung thêm
những thuộc tính mới dẫn tới phủ định của phủ định, làm cho sự phát triển
theo khuynh hướng đường xoáy ốc
- Khuynh hướng của sự phát triển theo đường xoáy ốc
+ Thể hiện tình biện chứng của sự vật đó là tính kế thừa tính lặp lại và tính
tiến lên
+ Mỗi vòng mới của đường xoáy ốc dường như lặp lại nhưng với một trình
độ cao hơn
+ Sự tiếp nối các vòng trong đường xoáy ốc phản ánh quá trình phát triển vô
tận từ thấp đến cao của sự vật hiện tượng trong thế giới
 Ý nghĩa phương pháp luận
- Quy luật phủ định của phủ định chỉ rõ sự phát triển là khuynh hướng chung
là tất yế của các sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan. Song, quá trình
phát triển không diễn ra theo con đường thẳng mà quanh co phức tạp, trải
qua nhiều lần phủ định, nhiều khâu trung gian. Điều đó giúp chúng ta tránh
được cái nhìn phiến diện giản đơn trong việc nhận thức các sự vật hiện
tượng đặc biệt là các hình thái xã hội
- Quy luật phủ định của phủ định cũng có tính tất thắng của cái mới, vì cái
mới là cái ra đời phù hợp với quy luật phát triển của sự vật. Mặc dù khi mới
ra đời cái mới có thể còn non yếu, song nó là cái tiến bộ hơn, là giai đoạn
phát triển cao hơn về chất so với cái cũ. Vì vậy trong nhận thức và hoạt động
thực tiễn cần có ý thức phát hiện ra cái mới, tạo điều kiện cho cái mới phát
triển
- Quy luật này còn vạch rõ cái mới ra đời trên cơ sở cái cũ. Giữa cái mới và
cái cũ không có sự tách rời tuyệt đối. Do đó trong khi phê phán cái cũ cần
phải biết sàng lọc, kế thừa những yếu tố hợp lí của cái cũ, tránh thái độ hư
vô chủ nghĩa, phủ định sạch trơn hoặc kế thừa nguyên xi
III-
a) Quan niệm của triết học Mác-Lenin về vật chất
 Quan niệm của Angghen
- Vật chất với tính cách là vật chất, một sáng tạo thuần túy của tư duy, là một
trừu tượng thuần túy không có sự sáng tạo cảm tính
- Phạm trù vật chất không phải là sự sáng tạo tùy tiện của tư duy con người
mà là kết quả của con đường trừu tượng hóa tư duy con người về các sự vật
hiện tượng có thể cảm biết được bằng các giác quan
- Các sự vật hiện tượng của thế giới dù phong phú, muôn vẻ nhưng đều có
một đặc tính chung thống nhất đó là tính vật chất-tính tồn tại độc lập không
phụ thuộc vào ý thức. Để bao quát được các sự vật hiện tượng cụ thể thì tư
duy cần phải nắm lấy đặc trưng này và đưa nó vào trong phạm trù vật chất
 Quan niệm của Mác
Theo Mác, vật chất trong xã hội chính là sự tồn tại của chính bản thân con
người, cùng với những điều kiện sinh hoạt vật chất của con người, hoạt động
vật chất và những quan hệ vật chất giữa người với người
 Quan niệm của Lenin
- Lenin đã tiến hành tổng kết những thành tựu mới nhất của khoa học, đấu
tranh chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa hoài nghi duy tâm
- Lenin đã tiến hành tìm kiếm phương pháp định nghĩa mới cho phạm trù vật
chất thông qua đối lập với phạm trù ý thức trên phương diện nhận thức luận
- Định nghĩa vật chất của Lenin
“Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được
đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chụp lại,
chép lại, phản ánh lại và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”
- Nội dung định nghĩa vật chất của Lenin
+ Thứ nhất vật chất là một phạm trù triết học – nghĩa là nó là một phạm trù
rộng nhất, khái quát do đó không được hiểu vật chất theo nghĩa hẹp như
trong khoa học tự nhiên hoặc đời sống hàng ngày
+ Thứ hai, thuộc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất của vật chất là “thực tại
khách quan” – tức là tồn tại ngoài ý thức, độc lập không phụ thuộc vào ý
thức của con người, cho dù con người có nhận thức hay không nhận thức
được nó. Đây chính là tiêu chuẩn để phân biệt cái gì vật chất cái gì không
phải là vật chất
+ Thứ ba, “thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác,
được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lai, phản ánh lại, tồn tại không lệ
thuộc vào cảm giác”. Điều đó có nghĩa là thực tại khách quan dưới những
dạng tồn tại cụ thể của nó, là cái gây nên cảm giác ở con người, cảm giác
của con người là sự phản ánh đối với vật chất, còn vật chất là cái được ý
thức phản ánh
Nói cách khác, trong quan hệ giữa vật chất và ý thức thì vật chất là cái có
trước, là nguồn gốc khách quan của cảm giác, ý thức và bằng những phương
thức nhận thức khác nhau (chép lại, chụp lại, phản ánh,…) con người có thể
nhận thức được thế giới vật chất
- Ý nghĩa của định nghĩa
+ Định nghĩa vật chất của Lenin bác bỏ thuyết không thể biết, đồng thời
khắc phục được tính chất siêu hình, trực quan trong các quan niệm về vật
chất trước Mác, duy vật chất vào cái cụ thể hoặc vào một thuộc tính cụ thể
nào đấy của vật chất
+ Định nghĩa vật chất của Lenin đã chống lại các quan điểm duy tâm về vật
chất, đồng thời nó tạo ra cơ sở lý luận để khắc phục quan điểm duy tâm về
đời sống xã hội của chủ nghĩa duy vật trước Mác
+ Định nghĩa vật chất của Lenin còn có ý nghĩa định hướng đối với các khoa
học cụ thể trong việc đi sâu vào thế giới vật chất khách quan để phát hiện ra
những kết cấu mới, những thuộc tính của các vật thể trong thế giới
b) Các hình thức tồn tại của vật chất
 Vận động – phương thức tồn tại của vật chất
- Định nghĩa vận động
+ Theo nghĩa hẹp, giản dị: vận động là sự di chuyển vị trí trong không gian
+ Theo nghĩa đầy đủ, khoa học: Theo Angghen “Vận động hiểu theo nghĩa
chung nhất, tức được hiểu là một phương thức tồn tại của vật chất, một
thuộc tính cố hữu của vật chất, thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi, mọi quá
trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy”
- Tính chất
+ Vận động là một phương thức tồn tại của vật chất. Điều đó có nghĩa là vật
chất tồn tại bằng cách vận động và thông qua vận động để biểu hiện sự tồn
tại của mình. Không thể có vật chất mà không có vận động và ngược lại
không thể có vận động mà không phải là vận động của vật chất
+ Vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất. Điều đó có nghĩa là vật chất
tồn tại bằng vận động, nói đến vật chất là ta nói đến vận động, không ở đâu
không nơi nào có vật chất mà lại không vận động. Vận động là thuộc tính
vốn có của vật chất
+ Vận động của vật chất là sự vận động tự thân, được tạo nên từ sự tác động
lẫn nhau của chính các thành tố nội tại trong cấu trúc vật chất. Quan điểm
này đối lập với quan điểm duy tâm và siêu hình về vận động-đi tìm nguồn
gốc vận động bên ngoài sự vật hiện tượng
+ Vật chất là vô hạn vô tận, không do ai sáng tạo ra và không thể bị tiêu diệt,
cho nên vận động với tính cách là những phương thức tồn tại của vật chất
cũng không do ai sáng tạo ra và không thể tự mất đi
- Nguồn gốc của vận động
+ Chủ nghĩa duy tâm: Vận động là từ tâm linh, thượng đế, ý niệm tuyệt đối
mà ra
+ Triết học Mác Lenin
 Vận động của vật chất và vận động tự thân do mâu thuẫn bên trong
 Bản chất sự vận động đã là một mâu thuẫn
 Vận động của vật chất còn tác động qua lại giữa các yếu tố, các bộ phận
khác nhau trong bản thân sự vật hay giữa sự vật này với sự vật kia
 Nguồn gốc của sự vận động là sự vận động tự thân, do mâu thuẫn bên
trong, do tác động qua lại giữa các yếu tố trong cùng một sự vật hay giữa
các sự vật với nhau
- Các hình thức vận động của vật chất
+ Vận động cơ học: sự di chuyển vị trí của các vật thể trong không gian
+ Vận động vật lý: sự vận động của các nguyên tử, các hạt cơ bản, vận động
điện tử, các quá trình nhiệt điện ánh sáng
+ Vận động hóa học: sự vận động của các phân tử, các quá trình hóa hợp và
phân giải các chất
+ Vận động sinh học: các hoạt động sống của cơ thể, ở sự trao đổi chất giữa
cơ thể sống với môi trường
+ Vận động xã hội: sự thay đổi, thay thế của các hình thái kinh tế-xã hội, các
quá trình xã hội
 Quan hệ giữa các hình thức: Các hình thức vận động biểu hiện trình độ
phát triển từ thấp đến cao của thế giới vật chất. Các hình thức vận động
cao xuất hiện trên cơ sở các hình thức vận động thấp, bao hàm trong nó
các hình thức vận động thấp hơn. Mỗi sự vật được đặc trưng bởi một
hình thức vận động cơ bản
- Vận động và đứng im
+ Vận động là tuyệt đối vì vận động là phương thức tồn tại của vật chất, là
thuộc tính cố hữu của vật chất nên không ở đâu, không lúc nào có vật chất
mà lại không có vận động
+ Đứng im là một trạng thái của vận động, là trường hợp riêng của vận
động. Đứng im là sự vận động trong thăng bằng, trong sự ổn định tương đối.
Sự đứng im của sự vật thể hiện ở hai khía cạnh sau: Thể hiện ở khoảng cách
không thay đổi giữa một sự vật này với một sự vật khác. Thể hiện trong một
khoảng thồi gian nào đó, sự vật hiện tượng chưa thay đổi một cách căn bản,
chưa biến thành sự vật hiện tượng khác
+ Trong mối quan hệ giữa vận động và đứng im thì vận động là tuyệt đối
còn đứng im chỉ là tương đối tạm thời
 Đứng im là tương đối vì đứng im chỉ xảy ra đối với một số hình thức vận
động và trong số quan hệ nhất định chứ không xảy ra với tất cả hình thức
vận động và trong tất cả các mối quan hệ
 Đứng im là tạm thời vì đứng im chỉ tồn tịa trong một khoảng thời gian
nhất định chứ không tồn tại vĩnh viễn
 Hình thức tồn tại của vật chất
- Định nghĩa
+ Không gian là khái niệm dùng để chỉ vị trí, hình thức, kết cấu, độ dài ngắn,
cao thấp của sự vật hiện tượng. Nói cách khác không gian là hình thức tồn
tại của vật chất xét về mặt quảng tính, sự cùng tồn tại, trật tự, kết cấu và sự
tác động lẫn nhau
+ Thời gian là khái niệm dùng để chỉ độ dài diễn biến biến đổi của sự vật
hiện tượng. Nói cách khác thời gian là hình thức tồn tại của vật chất xét về
mặt độ dài diễn biến, sự kế tiếp của các quá trình
- Tính chất
+ Tính khách quan: nghĩa là không gian và thời gian là thuộc tính của vật
chất, tồn tịa gắn liền với nhau và gắn liền với vật chất. Vật chất tồn tại khách
quan do đó không gian và thời gian cũng tồn tại khách quan
+ Tính vĩnh cửu và vô tận: nghĩa là không có tận cùng về một phía nào cả,
cả về quá khứ lẫn tương lai, cả về đằng trước lẫn đằng sau, cả về phía trên
lẫn phía dưới, cả về bên trái lẫn bên phải
+ Tính ba chiều của không gian và tính một chiều của thời gian. Tính ba
chiều của không gian là chiều dài chiều rộng và chiều cao. Tính một chiều
của thời gian là chiều từ quá khứ tới tương lai
IV-
a) Nguồn gốc của ý thức
 Một số quan điểm trước Mác
- Chủ nghĩa duy tâm: Cho rằng ý thức là nguyên thể đầu tiên, tồn tại vĩnh viễn
là nguyên nhân sinh thành, chi phối sự tồn tại biến đổi của toàn bộ thế giới
vật chất
+ Heghen: Ý thức là bản sao của ý niệm tuyệt đối, là ý niệm tuyệt đối di
chuyển vào bên trong bộ óc của con người
+ Beccoli: vật thể xung quanh chúng ta chỉ là sự phưc hợp của những cảm
giác
 Tách ý thức ra khỏi vật chất, lấy ý thức là điểm xuất phát để suy ra thế
giới tự nhiên
- Chủ nghĩa duy vật siêu hình: Đồng nhất ý thức với vật chất, coi ý thức là
một dạng vật chất đặc biệt, do vật chất sinh ra
+ Heraclit: ý thức là trạng thái quá dộ của lửa
+ Đemocrit: ý thức là nguyên tử, song là những nguyên tử hình cầu
 Tích cực
\ Không thừa nhận tính chất siêu tự nhiên của ý thức
\ Vật chất có trước, ý thức có sau và vật chất quyết định ý thức
\ Chỉ ra mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
 Tiêu cực
\ Đồng nhất vật chất với ý thức
\ Xem ý thức là một dạng vật chất cụ thể
\ Không giải thích được nguồn gốc, bản chất của ý thức
 Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng
- Nguồn gốc tự nhiên của ý thức thể hiện ở sự phát triển của thuộc tính phản
ánh và vai trò của bộ não người
+ Phản ánh là thuộc tính chung của mọi dạng vật chất
 Phản ánh là năng lực giữ lại, tái hiện của hệ thống vật chất này những đặc
điểm của hệ thống vật chất khác trong quá trình tác động qua lại. Kết quả
của sự phản ánh phụ thuộc vào cả hai vật (vật tác động và vật nhận tác
động). Trong quá trình ấy, vật nhận tác động bao giờ cũng mang thông
tin của vật tác động. Đây là điều quan trọng để làm sáng tỏ nguồn gốc tự
nhiên của nhận thức
 Thuộc tính phản ánh có ở mọi dạng vật chất, là thuộc tính phổ biến của
thế giới vật chất
 Cùng với sự tiến hóa của thế giới vật chất, thuộc tính phản ánh của nó
cũng phát triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp
\ Phản ánh vật lý: là hình thức phản ánh đơn giản nhất đặc trưng cho giới
tự nhiên vô sinh. Hình thức phản ánh này có tính chất thụ động, chưa có
sự định hướng, sự lựa chọn, nó thể hiện qua những biến đổi cơ lý hóa
như: sự thay đổi vị trí, quá trình biến dạng và phá hủy,… ở các dạng vật
chất vô sinh
\ Phản ánh sinh học: là hình thức phản ánh cao hơn đặc trưng cho giới tự
nhiên hữu sinh thể hiện tính kích thước, tính cảm ứng, tính phản xạ
\ Phản ánh tâm lí: là phản ánh của động vật có hệ thần kinh trung ương
được thực hiện trên cơ sở điều khiển của hệ thần kinh thông qua cơ chế
phản xạ có điều kiện
\ Phản ánh năng động sáng tạo: chỉ được thực hiện ở dạng vật chất phát
triển cao nhất có tổ chức cao nhất là bộ óc của con người, thực hiện quá
trình sinh lí học thần kinh của não người khi thế giới quan tác động lên
các giác quan của con người
+ Bộ não người và ý thức
 Ý thức là thuộc tính của vật chất, nhưng không phải của mọi dạng vật
chất mà chỉ là thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao nhất là bộ
não của con người
 Bộ não con người hiện đại là sản phẩm của quá trình tiến hóa lâu dài về
mặt sinh vật-xã hội và có cấu tạo rất phức tạp, nó có khoảng từ 14-15 tỷ
tế bào thần kinh
 Hoạt động ý thức của con người chỉ diễn ra trên cơ sở hoạt động sinh lsi
thần kinh của bộ nào người. Do vậy, khi bộ não bị tổn thương thì hoạt
động ý thức sẽ bị rối loạn. Tuy nhiên, không thể đồng nhất hoạt động
sinh lí thần kinh của bộ não người với hoạt động ý thức, hoạt động ý thức
chỉ là một mặt của hoạt động sinh lí thần kinh
 Tóm lại, không có bộ não người và sự tác động của thế giới khách
quanvaif bộ não người thì không thể có ý thức. Sự phản ánh thế giới
khách quan vào bộ não người là nguồn gốc tự nhiên của ý thức
- Nguồn gốc xã hội: thể hiện ở vai trò của lao động và ngôn ngữ
+ Vai trò của lao động
 Lao động là hoạt động đặc thù của con người làm cho con người khác với
tất cả các động vật khác. Trong lao động con người đã biết chế tạo ra
công cụ và sử dụng công cụ để tạo ra của cải vật chất. Lao động của con
người là hoạt động có mục đích, tác động vào thế giới vật chất khách
quan làm biến đổi thế giới nhằm thỏa mãn nhu cầu của con người
 Trong quá trình lao động, cấu trúc cơ thể người thay đổi, bộ não người
được phát triển và ngày càng hoàn thiện làm cho khả năng tư duy trừu
tượng của con người ngày càng phát triển
 Lao động sản xuất còn là cơ sở hình thàn và phát triển ngôn ngữ
+ Vai trò của ngôn ngữ
 Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức. Ngôn ngữ
xuất hiện trở thành vỏ vật chất của tư duy, là hiện thực trực tiếp của ý
thức, là phương tiện để ý thức tồn tại với tư cách là sản phẩm xã hội-lịch
sử
 Ngôn ngữ là phương tiện để con người giao tiếp trong xã hội, phản ánh
một cách khái quát sự vật, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và trao đổi
chúng giữa các thế hệ
 Chính vì vậy, Angghen đã khẳng định: Lao động và ngôn ngữ là hai sức
kích thích chủ yếu biến bộ não con vật thành bộ não con người, phản ánh
tâm lí động vật thành phản ánh ý thức
Lao động và ngôn ngữ là nguồn gốc xã hội quyết định sự hình thành và
phát triển của ý thức
b) Bản chất của ý thức
- Chủ nghĩa duy tâm cường điệu vai trò của ý thức một cách thái quá, thoát ly
đời sống hiện thực coi nó là thực thể tồn tại độc lập, thực tại duy nhất, là
nguồn gốc sinh ra thế giới vật chất
- Chủ nghĩa duy vật siêu hình: tầm thường hóa vai trì của ý thức, coi ý thức
chỉ là một dạng vật chất hoặc coi ý thức chỉ là sự phản ánh giản đơn thụ
động thế giới vật chất
- Chủ nghĩa duy vật biện chứng: Bản chất của ý thức là hình ảnh chủ quan của
thế giới khách quan, là quá trình phản ánh tích cực, sáng tạo hiện thực khách
quan của bộ óc người
+ Bản chất khách quan của ý thức
Ý thức là sự phán ánh thế giới khách quan vào bộ óc của con người, là sự
phản ánh năng động sáng tạo chủ động chọn lọc
+ Bản chất chủ quan
Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Ý thức không có tính
vật chất, ý thức chỉ tồn tại trong bộ óc của con người và không ngoài bộ óc
của con người
+ Bản chất xã hội của ý thức
 Ý thức là sản phẩm phát triển lâu dài của lịch sử xã hội, có nguồn gốc từ
lao động và ngôn ngữ
 Tính chất xã hội của lao động quyết định tính chất xã hội của ý thức
 Angghen khẳng định: Ngay từ đầu ý thức đã mang tính xã hội và nó vẫn
như vậy chừng nào con người còn tồn tại

You might also like