Professional Documents
Culture Documents
TTDS LẦN 6
TTDS LẦN 6
TTDS LẦN 6
1. Biện pháp khẩn cấptạm thời có thể bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.
Nhận định sai.
Theo Điều 112 BLTTDS 2015, việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm
thời do Thẩm phán xem xét, quyết định (trước khi mở phiên tòa) và do Hội đồng xét
xử xem xét, quyết định (tại phiên tòa). Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp
khẩn cấp tạm thời có hiệu lực thi hành ngay (khoản 1 Điều 139 BLTTDS 2015).
Theo quy định tại Điều 140 BLTTDS 2015, đương sự có quyền khiếu nại, Viện kiểm
sát có quyền kiến nghị với Chánh án Tòa án đang giải quyết vụ án về áp dụng, thay
đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc việc Thẩm phán không quyết định áp
dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời trong thời hạn 03 ngày làm việc,
kể từ ngày nhận được quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm
thời hoặc trả lời của Thẩm phán về việc không ra quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ
biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Như vậy, biện pháp khẩn cấp tạm thời chỉ có thể được khiếu nại, kiến nghị theo quy
định tại Điều 140 BLTTDS 2015 chứ không thể bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc
thẩm.
CSPL: Điều 112, khoản 1 Điều 139 và Điều 140 BLTTDS 2015.
2. Nếu đương sự là người khuyết tật thì sẽ được miễn nộp án phí.
Nhận định sai.
Theo khoản 5 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định, người khuyết tật
thuộc trường hợp được miễn nộp tạm ứng án phí, án phí và đồng thời được miễn các
khoản tạm ứng lệ phí Tòa án, lệ phí Tòa án quy định tại khoản 1 Điều 4 của Nghị
quyết này.
Theo khoản 1 Điều 14 Nghị quyết 325/2016/UBTVQH14, người đề nghị được miễn,
giảm tạm ứng án phí, tạm ứng lệ phí Tòa án, án phí, lệ phí Tòa án thuộc trường hợp
quy định tại Điều 12, Điều 13 của Nghị quyết này phải, có đơn đề nghị nộp cho Tòa
án có thẩm quyền kèm theo các tài liệu, chứng cứ chứng minh thuộc trường hợp được
miễn, giảm.
Như vậy, nếu đương sự là người khuyết tật phải, có đơn đề nghị nộp cho Toà án có
thẩm quyền kèm theo các tài liệu, chứng cứ chứng minh thuộc trường hợp được miễn,
giảm tạm ứng án phí, tạm ứng lệ phí, án phí, lệ phí.
CSPL: khoản 5 Điều 12, khoản 1 Điều 14 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14.
3. Khi bản án sơ thẩm bị sửa, các bên đương sự không phải chịu án phí sơ thẩm
và án phí phúc thẩm.
Nhận định sai.
Theo khoản 2 Điều 148 BLTTDS 2015 quy định, khi bản án sơ thẩm bị sửa thì đương
sự kháng cáo không phải chịu án phí phúc thẩm; Tòa án cấp phúc thẩm phải xác định
lại nghĩa vụ chịu án phí sơ thẩm theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật này.
Như vậy, đương sự kháng cáo không phải chịu án phí phúc thẩm nếu Tòa án cấp phúc
thẩm sửa bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo nhưng các bên đương sự vẫn phải
chịu án phí sơ thẩm theo quy định tại Điều 147 BLTTDS 2015.
CSPL: khoản 2 Điều 148 BLTTDS 2015.
4. Người yêu cầu Tòa án áp dụng BPKCTT phải gửi đơn yêu cầu kèm chứng cứ
để chứng minh cho sự cần thiết của việc áp dụng biện pháp này.
Nhận định đúng.
Căn cứ theo khoản 1 Điều 133 BLTTDS 2015, người yêu cầu Tòa án áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời phải làm đơn gửi đến Tòa án có thẩm quyền, đồng thời tùy
theo yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời mà người yêu cầu phải cung cấp
cho Tòa án chứng cứ để chứng minh cho sự cần thiết phải áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời đó.
CSPL: khoản 1 Điều 133 BLTTDS 2015.
5. Trước khi mở phiên tòa, khi giải quyết khiếu nại về việc áp dụng BPKCTT,
nếu nhận thấy việc áp dụng BPKCTT không đúng, Chánh án Tòa án có quyền
đồng thời ra Quyết định giải quyết khiếu nại và Quyết định hủy bỏ việc áp dụng
BPKCTT.
Nhận định sai
Căn cứ theo khoản 1 Điều 12 BLTTDS 2015, trước khi mở phiên tòa, việc áp dụng,
thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời do một Thẩm phán xem xét, quyết định.
Cho nên, trước khi mở phiên tòa, khi giải quyết khiếu nại về việc áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời, nếu nhận thấy việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không
đúng thì Chánh án Tòa án chỉ có thẩm quyền ra Quyết định giải quyết khiếu nại theo
quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 141 BLTTDS 2015 chứ Chánh án Tòa án không
có thẩm quyền ra Quyết định hủy bỏ việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
CSPL: Điều 112, Điều 141 BLTTDS 2015
Phần 2. Bài tập
Ngày 30/8/2017, ông N, bà X có vay của anh T số tiền vốn 345.000.000đ, lãi suất theo
thỏa thuận là 0,75%/tháng, thời hạn vay 03 tháng. Khi vay, ông N, bà X có làm biên
nhận giao cho anh giữ.
Ngày 01/11/2018 giữa vợ chồng ông N, bà X và vợ chồng ông M kí hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất có số công chứng 3750 đối với thửa 1557, tờ bản đồ 35,
diện tích 5.959m2. Việc chuyển nhượng này có sự đồng ý của Ngân hàng Kiên Long
chi nhánh thành phố S, vì tại thời điểm chuyển nhượng các thửa đất trên, ông N, bà X
đã thế chấp quyền sử dụng đất cho Ngân hàng để bảo đảm nghĩa vụ đối với số tiền vay
là 720.651.047đ (vốn là 640.000.000đ, lãi là 80.651.047đ) cho Ngân hàng, Anh T biết
việc ông N, bà X chuyển nhượng các thửa đất và ông N hứa sau khi chuyển nhượng sẽ
trả tiền cho Ngân hàng xong, còn dư sẽ trả lại cho anh.
Trong đơn khởi kiện, anh yêu cầu Tòa án buộc vợ chồng nông N phải trả cho anh
khoản tiền vay và lãi suất, yêu cầu Tòa án tuyên vô hiệu hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất ngày 01/11/2018 đối với thửa 1557, tờ bản đồ số 35 và yêu cầu Tòa
án áp dụng BPKCTT đối với thửa đất trên. Tòa án đã ra Quyết định số 11/2018/QĐ-
BPKCTT ngày 06/11/2018 phong tỏa quyền sử dụng đất theo giấy chứng nhận QSD
đất cấp cho ông N, bà X ngày 09/12/2009 (số vào sổ cấp giấy chứng nhận QSD đất
H03536 của UBND huyện C), đối với thửa 1557 trên.
Tại phiên tòa sơ thẩm, vợ chồng ông M yêu cầu Tòa án công nhận hợp đồng chuyển
nhượng QSD đất giữa ông Trần Văn N, bà Nguyễn Thị X với ông Nguyễn Văn M, bà
Trần Thanh Th đối với thửa đất 1557, tờ bản đồ 35, diện tích 5.959m2, mục đích sử
dụng đất trồng lúa, đất tọa lạc tại ấp Phú A, xã An Phú T, huyện C, tỉnh Đồng Tháp,
do Phòng Công chứng huyện C chứng thực vào ngày 01/11/2018 và yêu cầu hủy
Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 11/2018/QĐ- BPKCTT
ngày 06/11/2018.
Anh T vẫn giữ nguyên yêu cầu Tòa án tuyên vô hiệu hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất ngày 01/11/2018 đối với thửa 1557, tờ bản đồ số 35 và yêu cầu tiếp tục
duy trì biện pháp khẩn cấp tạm thời số11/2018/QĐ- BPKCTT ngày 06/11/2018 đối
với thửa đất trên.
Hội đồng xét xử đã chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh T về việc buộc vợ chồng
nông N phải trả cho anh khoản tiền vay và lãi suất, công nhận hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất ngày 01/11/2018 đối với thửa 1557, tờ bản đồ số 35 và
Hủy bỏ Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 11/2018/QĐ-
BPKCTT ngày 06/11/2018 về phong tỏa quyền sử dụng đất đối với thửa 1557, tờ bản
đồ 35, diện tích 5.959m2, giấy chứng nhận QSD đất số H03536 cấp ngày 09/12/2009
do ông Trần Văn N, bà Nguyễn Thị X đứng tên.
Nhận xét quyết định của Tòa án?
Quyết định của Tòa án: Công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất ngày 01/11/2018 đối với thửa 1557, tờ bản đồ số 35, Hủy bỏ Quyết định áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời số 11/2018/QĐ-BPKCTT ngày 06/11/2018 về phong tỏa
quyền sử dụng đất đối với thửa 1557, tờ bản đồ 35, diện tích 5.959m2, giấy chứng
nhận QSD đất số H03536 cấp ngày 09/12/2009 do ông Trần Văn N, bà Nguyễn Thị X
đứng tên.
Trước khi xét xử só thấm. Tòa án đã phong tỏa quyền sử dụng đất theo giấy
chứng nhận QSD đất cấp cho ông N, bà X ngày 09/12/2009, thời điểm này các đương
sự chưa có yêu cầu áp dụng BPKCTT nên căn cứ theo khoản 3 Điều 111, Điều 135
BLTTDS 2015 thì Tòa án chỉ được áp dụng các BPKCTT tại khoản 1, 2, 3, 4, 5, và 14
Điều 114, trong khi đó, Tòa án lại áp dụng biện pháp phong tỏa quyền sử dụng đất
theo giấy chứng nhận QSD đất mà biện pháp này không thuộc các biện pháp thuộc các
khoản vừa nên nên Tòa án ra quyết định này là chưa hợp lý.
Tại phiên tòa sơ thẩm, Quyết định của Tòa án về việc hủy bỏ Quyết định áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 11/2018/QĐ-BPKCTT ngày 06/11/2018 về
phong tỏa quyền sử dụng đất đối với thửa 1557, tờ bản đồ 35, diện tích 5.959m2, giấy
chứng nhận QSD đất số H03536 cấp ngày 09/12/2009 do ông Trần Văn N, bà Nguyễn
Thị X đứng tên là hoàn toàn hợp lý.