N I Dung Tím CKPS - New

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 9

PHÂN BIỆT QUYỀN CHỌN MUA VÀ QUYỀN CHỌN BÁN

Bên mua quyền Bên bán quyền


-Trả một khoản phí -Trả một khoản phí
- Có quyền mua. - Có nghĩa vụ bán.
Mua - Có quyền huỷ hợp đồng. -Không được quyền huỷ hợp đồng
- Nếu lỗ thì lỗ tối đa bằng khoản phí - Nếu lãi thì lãi tối đa bằng khoản
đã trả. phí đã thu.
- Nếu lãi thì có thể lãi vô hạn. - Nếu lỗ thì có thể lỗ vô hạn
-Trả một khoản phí. - Thu được một khoản phí.
- Có quyền bán. - Có nghĩa vụ mua.
- Có quyền huỷ hợp đồng. - Không được quyền huỷ hợp
Bán - Nếu lỗ thì lỗ tối đa bằng khoản phí đồng.
đã trả. - Nếu lãi thì lãi tối đa bằng khoản
- Nếu lãi thì có thể lãi hữu hạn phí.
- Nếu lỗ thì có thể lỗ hữu hạn.

VAI TRÒ CỦA THỊ TRƯỜNG QUYỀN CHỌN


 Giảm thiểu rủi ro: Thị trường quyền chọn cung cấp cho các nhà đầu tư
một công cụ để quản lý rủi ro giá cả của các tài sản cơ sở.
Ví dụ: một nhà đầu tư nắm giữ cổ phiếu của một công ty và lo ngại về khả năng
giá cổ phiếu giảm sút có thể mua quyền chọn bán cổ phiếu đó. Nếu giá cổ phiếu
giảm, nhà đầu tư có thể thực hiện quyền mua cổ phiếu của mình với giá đã được
xác định trước, từ đó giảm thiểu thiệt hại.
 Trong trường hợp quyền chọn mua, nhà đầu tư có thể kiểm soát khả năng
nắm giữ một loại cổ phiếu với một khoản tiền đầu tư thấp hơn nhiều so
với số tiền đầu tư trực tiếp vào cổ phiếu đó.
Ví dụ: một nhà đầu tư có thể mua quyền chọn mua cổ phiếu với giá thấp hơn
giá thị trường hiện tại. Nếu giá cổ phiếu tăng lên, nhà đầu tư có thể thực hiện
quyền chọn bán và kiếm được lợi nhuận từ khoản chênh lệch giá.
 Mang lại hiệu quả đòn bẩy: Tỉ suất lợi nhuận đầu tư trên vốn đầu tư cao
hơn nhiều so với cổ phiếu.
ỨNG DỤNG HỢP ĐỒNG QUYỀN CHỌN
 Đối với người phòng hộ: Quyền chọn xem như là một dạng hợp đồng bảo
hiểm trước những rủi ro, thay đổi bất thường của thị trường.
Ví dụ, nếu ta muốn nhập khẩu 1 tỷ yên hàng điện tử của Nhật trong thời hạn 1 năm
kể từ bây giờ với tỷ giá 200 yên/bảng, có thể thực hiện một quyền chọn cam kết
chi trả cho bạn 1 tỷ yên sau một năm nếu tỷ giá hối đoái chỉ còn 181.23 yên/bảng
tại bất kỳ thời điểm nào trong 1 năm đó. Điều này có nghĩa là, khi giá đồng yên
tăng tương đối với đồng bảng thì ta có thể thực thi quyền chọn và mua hàng hóa.
Còn nếu tỷ giá tiếp tục duy trì ở mức thấp thì ta sẽ mất số tiền bỏ ra để mua quyền
chọn và sẽ mua hàng tại tỷ giá mà ta sẵn sàng chi trả. Chi phí của chiếnlược phòng
hộ này chỉ là mua một quyền chọn với giá tương đối rẻ so với những biến động lớn
của thị trường tiền tệ.
 Đối với nhà đầu cơ: Hợp đồng quyền chọn có thể được sử dụng để đặt
cược vào sự biến động của giá tài sản. Họ đầu tư tùy thuộc vào niềm tin
của mình, lãi hoặc lỗ hoàn toàn ngẫu nhiên. Họ coi chứng khoán phái
sinh như một công cụ tăng ga cho hoạt động đầu tư của họ.
Ví dụ: Bạn mua một HĐQC để được quyền mua cổ phiếu trên với giá 10 bảng
trong một năm, và bạn phải mất chi phí, giả sử, 0.5 bảng một cổ phiếu, bạn có thể
mua được 20.000 nghìn cổ phiếu. Nếu giá cổ phiếu tăng lên 11 bảng, bạn thực thi
quyền chọn, mua 20.000 cổ phiếu với giá 10 bảng và bán lại chúng trên thị trường
với giá 11 bảng, bạn sẽ lãi 10.000 bảng. Nếu giá cổ phiếu tụt xuống chỉ 9.99 bảng,
bạn sẽ mất toàn bộ số tiền bỏ ra mua quyền chọn.
 Đối với nhà cơ lợi phi rủi ro: Hợp đồng quyền chọn có thể được sử dụng
để thu lợi nhuận từ chênh lệch giá giữa hai thị trường. Họ quan sát thị
trường và cố gắng tìm ra những tình huống thu lời phi rủi ro. Sau đó kết
hợp việc mua hàng hóa tại một thị trường này và bán lại tại một thị
trường khác sao cho độ chênh lệch giá đảm bảo một khoản lãi.
Ví dụ: khi một cổ phiếu được giao dịch tại hai mức giá khác nhau trên hai thị
trường. Nếu một cổ phiếu được giao dịch tại London với giá 100 bảng và 285 mác
Đức tại Frankfurt, trong khi tỷ giá hối đoái là 2.82 mác/bảng, thì cổ phiếu đó rẻ
hơn tương đối ở London. Bạn có thể mua 1.000 cổ phiếu tại London và bán lại
chúng tại Frankfurt rồi đổi mác Đức sang bảng và thu được một khoản 1063.3
bảng mà không phải chịu bất kỳ rủi ro nào. Những cơ hội như vậy là vô cùng hiếm
và ngay lập tức nó bị chộp mất bởi những người săn cơ hội kiếm lời. Khi mọi
người mua cổ phiếu thì giá sẽ tăng trên thị trường London và khi mọi người bán cổ
phiếu đó tại Frankfurt thì giá ở đây cũng sẽ giảm đi cho đến khi nào giá ở hai nơi
được xác lập cân bằng.
SỰ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG QUYỀN CHỌN
Đầu thập niên 1900, một nhóm các công ty gọi là Hiệp hội các Nhà môi giới và
Kinh doanh quyền chọn mua và quyền chọn bán đã thành lập thị trường các quyền
chọn.
Thị trường này có tính chất là một thị trường OTC (Over-the-counter market), tức
là một thị trường không được tổ chức bởi một cơ quan trung ương. Điều này dẫn
đến một số khuyết điểm, bao gồm:
 Không có tính thanh khoản: Do không có một cơ quan trung tâm để quản
lý, nên việc mua bán quyền chọn trên thị trường OTC thường gặp khó khăn
và không thuận tiện.
 Rủi ro tín dụng rất cao: Do không có một cơ quan trung ương để đảm bảo
thanh toán, nên rủi ro tín dụng đối với các nhà giao dịch trên thị trường OTC
rất cao.
 Phí giao dịch lớn: Do không có sự cạnh tranh giữa các nhà môi giới, nên
phí giao dịch trên thị trường OTC thường cao hơn so với các thị trường
khác.
Để khắc phục những khuyết điểm này, vào năm 1973 Sàn giao dịch Chicago (tiếng
Anh là Chicago Board of Trade, viết tắt là CBOT) cho ra đời Sàn giao dịch quyền
chọn tập trung, gọi là CBOE. Điều này đã giúp cải thiện tính thanh khoản, giảm
thiểu rủi ro tín dụng và giảm phí giao dịch cho các nhà giao dịch.
 Giao dịch quyền chọn mua đầu tiên được thực hiện vào ngày 26/4/1973. Các
hợp đồng quyền chọn bán đầu tiên được đưa vào giao dịch trong tháng
6/1977.
 CBOE đã bổ sung một trung tâm thanh toán đảm bảo cho người mua rằng
người bán sẽ thực hiện đầy đủ nghĩa vụ theo hợp đồng. Vì vậy, người mua
quyền chọn không còn phải lo lắng về rủi ro tín dụng của người bán. Điều
này khiến quyền chọn trở nên hấp dẫn hơn đối với công chúng.
CẤU TRÚC THỊ TRƯỜNG QUYỀN CHỌN
Được phân chia thành hai loại chính: thị trường quyền chọn phi tập trung và thị
trường quyền chọn có tổ chức.
Thị trường quyền chọn phi tập trung:
 Được ký kết riêng giữa các doanh nghiệp lớn, tổ chức tài chính, và đôi khi là
cả chính phủ.
 Người mua quyền chọn hoặc là biết rõ mức độ đáng tin cậy của người bán
hoặc là tự giảm thiểu rủi ro tín dụng bằng một số khoản bảo đảm hoặc các
biện pháp nâng cao độ tín nhiệm khác.
 Trong thị trường phi tập trung, các quyền chọn có thể được thiết kế dành cho
nhiều công cụ hơn chứ không chỉ cổ phiếu. Các quyền chọn có thể được
dành cho trái phiếu, lãi suất, hàng hóa, tiền tệ, và nhiều loại tài sản khác
 Tính đa dạng cao
 Lợi thế của thị trường quyền chọn phi tập trung:
 Các điều kiện và qui định của quyền chọn này được thiết kế phù hợp với
nhu cầu của cả hai phía.
 Thị trường phi tập trung là thị trường tư nhân tức là công chúng hay các nhà
đầu tư khác, bao gồm cả các đối thủ cạnh tranh không được biết về các giao
dịch đã hoàn tất.
 Giao dịch phi tập trung về bản chất không bị kiểm soát. Các qui định của
giao dịch này thuộc về tính trung thực và phép cư xử thông thường trong
kinh doanh. Các tổ chức không tuân thủ sẽ không thể tìm được đối tác để
giao dịch.
 Hạn chế của thị trường quyền chọn phi tập trung:
 Rủi ro tín dụng tồn tại và loại trừ nhiều khách hàng vốn không thể thiết lập
độ tín nhiệm cho mình ra khỏi thị trường này.
 Qui mô của các giao dịch trên thị trường phi tập trung lớn hơn khả năng của
nhiều nhà đầu tư
 Sản phẩm trên thị trường OTC
 Hầu hết các quyền chọn được tạo ra trên thị trường phi tập trung không phải
là dạng quyền chọn cổ điển đối với một cổ phần thường riêng biệt.
 Chúng là các quyền chọn đối với trái phiếu, lãi suất, hàng hóa, hoán đổi và
ngoại tệ và bao gồm cả các biến thể là kết hợp quyền chọn với công cụ khác.
Thị trường quyền chọn có tổ chức:
 Sàn giao dịch có tổ chức đáp ứng việc thiếu chuẩn hóa và thanh khoản
của thị trường phi tập trung. Theo đó, sàn giao dịch sẽ qui định cụ thể
điều kiện và qui định của hợp đồng chuẩn hóa.
 Hình thành một thị trường thứ cấp dành cho các hợp đồng đã được tạo lập.
Điều này khiến cho quyền chọn dễ tiếp cận hơn và hấp dẫn hơn đối với công
chúng.
 Việc cung cấp thiết bị tiện ích, qui định cụ thể các điều lệ, qui tắc và chuẩn
hóa các hợp đồng giúp các quyền chọn có thể được mua bán như cổ phiếu.

 Điều kiện niêm yết

 Loại tài sản cơ sở được phép giao dịch quyền chọn.


 Đối với quyền chọn cổ phiếu, sàn giao dịch qui định những cổ phiếu đủ điều
kiện có thể giao dịch quyền chọn.
 Tất cả các quyền chọn ở một dạng cụ thể – chọn mua hoặc chọn bán – đối
với một cổ phiếu đã định sẵn được xem là nằm trong một loại quyền chọn.

Ví dụ: Nếu một sàn giao dịch chứng khoán có quy định cho phép giao dịch
quyền chọn cổ phiếu đối với cổ phiếu Vinamilk, thì tất cả các quyền chọn
mua và bán cổ phiếu Vinamilk đều sẽ nằm trong cùng một loại quyền chọn.

 Một chuỗi quyền chọn (option series) là tất cả các quyền chọn của một loại
định sẵn có cùng giá thực hiện và ngày đáo hạn.

Ví dụ, nếu một sàn giao dịch chứng khoán có quy định cho phép giao dịch
quyền chọn cổ phiếu Vinamilk với giá thực hiện 100.000 đồng và ngày đáo
hạn là 30/09/2024, thì tất cả các quyền chọn mua và bán cổ phiếu Vinamilk
với giá thực hiện 100.000 đồng và ngày đáo hạn 30/09/2024 đều sẽ nằm
trong cùng một chuỗi quyền chọn.

 Qui mô hợp đồng quyền chọn

 Một hợp đồng quyền chọn giao dịch trên sàn tiêu chuẩn gồm 100
quyền chọn đơn lẻ.
 Trường hợp cổ phiếu bị chia tách hoặc công ty tuyên bố chi trả cổ tức
bằng cổ phiếu. Trong trường hợp đó, số cổ phiếu đại diện bởi một hợp
đồng tiêu chuẩn được điều chỉnh để phản ánh thay đổi trong mức vốn
hóa của công ty.

Giải thích:

Một hợp đồng quyền chọn là một thỏa thuận giữa hai bên, theo đó bên mua có
quyền mua hoặc bán một tài sản cơ sở với giá thực hiện được xác định trước vào
một ngày đáo hạn được xác định trước. Một hợp đồng quyền chọn tiêu chuẩn bao
gồm 100 quyền chọn đơn lẻ.

Trường hợp cổ phiếu bị chia tách, số lượng cổ phiếu đại diện bởi một hợp đồng
quyền chọn sẽ được điều chỉnh theo tỷ lệ chia tách. Ví dụ, nếu một cổ phiếu bị chia
tách theo tỷ lệ 1:2, thì số lượng cổ phiếu đại diện bởi một hợp đồng quyền chọn sẽ
giảm từ 100 xuống 50.

Trường hợp công ty tuyên bố chi trả cổ tức bằng cổ phiếu, số lượng cổ phiếu đại
diện bởi một hợp đồng quyền chọn sẽ được điều chỉnh theo tỷ lệ cổ tức. Ví dụ, nếu
một công ty tuyên bố chi trả cổ tức bằng cổ phiếu với tỷ lệ 10%, thì số lượng cổ
phiếu đại diện bởi một hợp đồng quyền chọn sẽ tăng từ 100 lên 110.

 Giá thực hiện

 Các giao dịch OTC có thể nhận bất cứ mức giá thực hiện nào mà hai bên
tham gia thỏa thuận.
 Mục tiêu của sàn giao dịch trong việc thiết lập giá thực hiện là cung cấp các
quyền chọn thu hút khối lượng giao dịch

 Ngày đáo hạn:

Ngày đáo hạn quyền chọn là ngày cuối cùng mà quyền chọn có thể được
thực hiện. Ngày đáo hạn quyền chọn được xác định trước khi hợp đồng quyền
chọn được giao dịch.

Ngày đáo hạn quyền chọn được chia thành ba chu kỳ:

 Chu kỳ 1: Dành cho các quyền chọn có ngày đáo hạn vào tháng 1, tháng
4, tháng 7 và tháng 10.
 Chu kỳ 2: Dành cho các quyền chọn có ngày đáo hạn vào tháng 2, tháng
5, tháng 8 và tháng 11.
 Chu kỳ 3: Dành cho các quyền chọn có ngày đáo hạn vào tháng 3, tháng
6, tháng 9 và tháng 12.
Các chu kỳ này được gọi là chu kỳ tháng 1, 2 và 3. Các ngày đáo hạn hiện có hiệu
lực là tháng hiện tại, tháng tiếp theo và 2 tháng tiếp theo trong chu kỳ tháng 1, 2
hoặc 3 mà chứng khoán được phân vào.

Ví dụ, đầu tháng 6, cổ phiếu Coca-Cola được phân vào chu kỳ tháng 1, sẽ có quyền
chọn đáo hạn vào tháng 6 và tháng 7 cộng với hai tháng sau trong chu kỳ tháng 1:
tháng 10 và tháng 1 sắp tới.

Khi quyền chọn tháng 6 hết hiệu lực, quyền chọn tháng 8 sẽ được bổ sung; khi
quyền chọn tháng 7 đáo hạn, quyền chọn tháng 9 sẽ được bổ sung; và khi quyền
chọn tháng 8 hết hiệu lực, quyền chọn tháng 4 sẽ được đưa vào.

 Hạn mức vị thế và hạn mức thực hiện

Hạn mức vị thế và hạn mức thực hiện: được thiết kế nhằm ngăn ngừa tình trạng thị
trường quyền chọn bị chi phối quá mức bởi hành vi của một hoặc một nhóm các
nhà đầu tư cá biệt

Hạn mức vị thế (position limit): là số lượng quyền chọn tối đa mà đầu tư có thể
nắm giữ về một phía của thị trường

Hạn mức thực hiện (exercise limit): là số quyền chọn tối đa có thể được thực
hiện trong vòng 5 ngày làm việc liên tục bất kỳ bởi mỗi nhà đầu tư riêng lẻ hay
một nhóm các nhà đầu tư cùng hành động với nhau.

 Tổ chức giao dịch của sàn


 (1a) (1b) Người mua và Người bán chỉ thị cho nhà môi giới riêng của mình tiến hành
một giao dịch quyền chọn.
 (2a) (2b) Người môi giới của người mua và người bán yêu cầu nhà môi giới trên sàn
của của công ty mình thực hiện giao dịch.
 (3) Các nhà môi giới trên sàn gặp gỡ trên sàn giao dịch quyền chọn và thống nhất giá
cả
 (4) Thông tin về giao dịch được báo cho trung tâm thanh toán bù trừ.
 (5a) (5b) Nhà môi giới trên sàn thông báo giá cho người môi giới của người mua và
người bán.
 (6a) (6b) Người môi giới của người bán và người mua thông báo giá về cho người
bán và người mua.
 (7a) (7b) Người mua (người bán) ký gửi phí quyền chọn cho người môi giới
 (8a) (8b) Người môi giới của người mua và người bán ký gửi phí quyền chọn và tiền
ký quỹ cho công ty thanh toán của mình
 (9a) (9b) Công ty thanh toán của người môi giới của bên mua và bên bán ký gửi phí
quyền chọn và tiền ký quỹ cho trung tâm thanh toán bù trừ

You might also like