Professional Documents
Culture Documents
KHUYNH HƯỚNG SỬ THI VÀ CẢM HỨNG LÃNG MẠN TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM TỪ 1945 - 1975
KHUYNH HƯỚNG SỬ THI VÀ CẢM HỨNG LÃNG MẠN TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM TỪ 1945 - 1975
Sử thi gắn với những sự kiện lịch sử nhất định và thường là những cuộc
chiến tranh có ý nghĩa toàn dân, đánh dấu sự hưng thịnh hay suy vong của một
bộ tộc, một quốc gia. Sử thi miêu tả bức tranh cuộc sống rộng lớn của một dân
tộc, một thời đại với tất cả sự đa dạng và phong phú của nó. Nhân vật chính
trong sử thi là những anh hùng, tráng sĩ tiêu biểu cho sức mạnh và lí tưởng của
cộng đồng. VD: Đăm Săn, Khinh Dú, Xinh Nhã.
Khuynh hướng sử thi là xu hướng thiên về những tình cảm, cảm xúc ngợi
ca, tự hào khi viết về những vấn đề lớn lao, quyết định vận mệnh chung của
cộng đồng. Vì thế, những tác phẩm văn học mang khuynh hướng sử thi là những
tác phẩm:
+ Tập trung vào các đề tài – chủ đề có ý nghĩa toàn dân tộc, phản ánh
những vấn đề cơ bản nhất, có ý nghĩa sống còn của đất nước: tổ quốc
còn hay mất, độc lập tự do hay nô lệ.
+ Hình tượng nghệ thuật mang tính sử thi, tiêu biểu cho lý tưởng chung
của dân tộc, gắn số phận mình với số phận đất nước, thể hiện và kết tinh
những phẩm chất cao đẹp của cả cộng đồng.
+ Giọng điệu, ngôn ngữ đậm chất sử thi. Đó là giọng điệu trang trọng,
ngợi ca hào sảng, đẹp một cách tráng lệ, hào hùng.
Chất sử thi không phải đến giai đoạn này mới xuất hiện mà nó đã từng
xuất hiện trong những giai đoạn văn học trước đó. Nhưng, chỉ đến giai đoạn
này, chất sử thi mới phát triển mạnh mẽ, trở thành một khuynh hướng nổi bật
trong văn học, tác động mạnh mẽ đến tình cảm và hành động của con người Việt
Nam trong cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc.
+ Văn học hướng về thể hiện nhịp sống lao động chủ nghĩa xã hội. Cuộc sống
xây dựng khẩn trương sôi nổi trong nhịp điệu mới đang diễn ra trên khắp mọi
miền đất nước, từ rừng sâu núi cao đến vùng trung du, đồng bằng duyên hải và
các hải đảo xa xôi.
+ Văn học thể hiện niềm tự hào, niềm vui lớn của nhân dân khi được sống trong
hòa bình, tự do, làm chủ cuộc đời, làm chủ thiên nhiên, làm chủ xã hội.
+ Đề tài: Cuộc sống lao động của người dân miền biển trong công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
+ Chủ đề: Bài thơ viết về niềm vui và khí thế lao động hăm hở, hăng say của
những ngư dân miền biển khi được làm chủ cuộc đời, làm chủ thiên nhiên, làm
chủ xã hội.
+ Đề tài: Cuộc sống lao động ở nông trường Điện Biên trong công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
+ Chủ đề: Tác phẩm ngợi ca những đổi thay của đất nước, con người, thể hiện
niềm vui sướng, hạnh phúc của con người khi đất nước bước vào thời kì mới
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Từ đó, tác phẩm đưa ra những triết lí về cuộc sống.
+ Đề tài: Cuộc sống lao động xây dựng chủ nghĩa xã hội.
+ Chủ đề: Ngợi ca những con người tình nguyện làm việc ở những nơi xa xôi,
những điều kiện khắc nghiệt để xây dựng vào bảo vệ Tổ quốc.
1,2. Đề tài đấu tranh đánh giặc, thống nhất đất nước:
+ Trong suốt 30 năm ròng, dân tộc ta phải liên tục kháng chiến chống lại hai đế
quốc sừng sỏ là Pháp, Mỹ. Bởi vậy, đề tài đấu tranh chống giặc ngoại xâm,
thống nhất đất nước là một đề tài nổi bật, thu hút nhiều tài năng văn học như
Chính Hữu, Phạm Tiến Duật, Lê Minh Khuê, Tố Hữu, Nguyễn Trung Thành,
Nguyễn Thi, Nguyễn Minh Châu…
+ Văn học thể hiện những đau thương mất mát của nhân dân khi đất nước bị
giặc ngoại xâm giày xéo.
+ Văn học thể hiện khí thế ra trận hăm hở, hào hùng, mãnh liệt của những con
người khát khao độc lập, tự do. Ra trận chiến đấu với kẻ thù là nhiệm vụ của
toàn dân tộc, là trách nhiệm thiêng liêng của mỗi người dân Việt Nam, là sự
kiện lịch sử lớn, gắn bó chặt chẽ với vận mệnh, số phận của nhân dân. Ra trận
không có gì đáng sợ mà được ra trận là niềm vui, là hạnh phúc.
+ Văn học thể hiện tinh thần chiến đấu dũng cảm, kiên cường, không ngại gian
khổ, hi sinh của những người lính trong cuộc kháng chiến chống giặc ngoại
xâm. Ra trận, đối diện với kẻ thù, sự sống và cái chết gần nhau trong tấc gang
nhưng họ không lùi bước, dẫu bị thương vẫn sẵn sàng xung phong đánh giặc.
+ Đề tài: Cuộc nổi dậy của nhân dân Tây Nguyên trong kháng chiến chống Mỹ
+ Chủ đề: Tác phẩm ngợi ca sức sống mãnh liệt, lòng yêu nước, tinh thần chiến
đấu dũng cảm kiên cường và ý chí một lòng hướng về Đảng, về Cách mạng của
đồng bào Tây Nguyên trong những năm kháng chiến chống Mỹ ác liệt.
VD: “Những đứa con trong gia đình” của Nguyễn Thi
+ Chủ đề: Tác phẩm ngợi ca lòng yêu nước, tinh thần chiến đấu dũng cảm kiên
cường của nhân dân Nam Bộ trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
VD: “Tây Tiến” của Quang Dũng
+ Đề tài: Hình tượng người lính trong kháng chiến chống Pháp
+ Chủ đề: Ngợi ca vẻ đẹp hình tượng người lính Tây Tiến, những con người vừa
hào hùng lại rất hào hoa, sẵn sàng hiến dâng tuổi xuân cho đất nước.
+ Kế thừa những quan niệm về Tổ quốc của ông cha ta, những nhà thơ thời
kháng chiến đã có cái nhìn mới mẻ về Tổ quốc trong chiều sâu văn hóa, lịch sử.
VD: Đất nước – Nguyễn Khoa Điềm. Nguyễn Khoa Điềm đã có những cảm
nhận mới mẻ về Đất Nước từ chiều sâu văn hóa, lịch sử. Đất Nước là của Nhân
Dân, chính nhân dân là người hóa thân làm nên sông núi, chính những con
người bình dị, vô danh ấy đã làm nên Đất Nước.
2.1. Hình tượng mang tính sử thi đại diện cho vẻ đẹp, ý chí, sức mạnh của
cả dân tộc, đất nước Việt Nam.
* Hình ảnh anh chiến sĩ giải phóng quân:
Hình ảnh anh chiến sỹ giải phóng quân là nhân vật trung tâm của cuộc
kháng chiến . Họ hiện lên với vẻ đẹp sáng ngời, đại diện cho tinh hoa, sức mạnh
của dân tộc, nhân danh cộng đồng mà chiến đấu vì sự sống còn của Tổ quốc
Việt Nam. Các anh chiến sĩ giải phóng quân là những con người giàu nghị lực,
giàu ý chí, có tình cảm đẹp, chiến đấu anh dũng kiên cường,lạc quan tin tưởng
và là những con người chiến thắng.Hình tượng người lính giải phóng quân đã
trở thành bức tượng đài kì vĩ về những người chiến sĩ anh hùng vô danh đã ngã
xuống trong cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại
VD: Hình ảnh người lính Tây Tiến của thơ Quang Dũng.
+ Bài thơ Tây Tiến xây dựng một hình ảnh đẹp về những người lính của đoàn
quân Tây Tiến trong kháng chiến chống Pháp. Họ phần đông là những thanh
niên, học sinh đất Hà thành, sẵn sàng “xếp bút nghiên lên đường đi chiến đấu”,
hướng về miền Tây rừng thiêng nước độc mà lòng chẳng gợn chút sầu lo.
+ Ở những chàng trai trẻ tuổi ấy có một ý chí, sức mạnh vô song, đối diện với
gian khổ mà vẫn oai hùng, lẫm liệt “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc / Quân
xanh màu lá dữ hoai hùm”, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng “chiến trường đi
chẳng tiếc đời xanh / Áo bào thay chiếu anh về đất”. Họ là đại diện cho ý chí,
sức mạnh của cả dân tộc trong những năm tháng đầy máu lửa ác nghiệt.
VD: Nhân vật Việt trong “Những đứa con trong gia đình” của Nguyễn Thi.
+ Việt là một cậu lính trẻ, tiêu biểu cho ý chí và sức mạnh của nhân dân Nam
Bộ trong những ngày chống Mỹ ác liệt. Anh đến chiến trường từ những đau
thương và căm hận, xung phong đi bộ đội khi còn chưa đủ tuổi, xông pha giữa
mưa bom bão đạn với tinh thần “coi giặc cũng như không”, “liều mình như
chẳng có” và lập được những chiến công oanh liệt. Những vết thương trên thịt
da chẳng làm vơi đi tinh thần chiến đấu. Dẫu mắt không nhìn thấy rõ, dẫu toàn
thân đau nhức, dẫu lạc mất đồng đội, bơ vơ giữa chiến trường, Việt vẫn luôn sẵn
sàng nổ súng, đạn đã lên nòng, chỉ chờ giặc tới.
+ Ý chí và sức mạnh phi thường của một cậu lính trẻ khiến người đọc phải
khâm phục, ngưỡng mộ. Đó cũng là sức mạnh và ý chí của dân tộc Việt Nam
trong kháng chiến. Ta hiểu vì sao một đế quốc hùng mạnh phải thất bại trước
một dân tộc từng một thời chưa có tên trên bản đồ thế giới.
VD: Người giải phóng quan trong “Dáng đứng Việt Nam” của Lê Anh Xuân.
+ Lê Anh Xuân đã ghi lại tư thế hiên ngang của anh chiến sĩ giải phóng quân
trong lúc hi sinh. Dáng đứng của anh không còn là dáng đứng của một cá nhân
cụ thể nào mà trở thành dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỉ :
+ Người lính dù đối mặt với muôn vàn thử thách, gian khổ, hi sinh nhưng trong
các anh vẫn biểu hiện niềm lạc quan chiến thắng.
VD: Người lính lái xe trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến
Duật.
+ Giữa tuyến đường Trường Sơn khốc liệt, giữa mưa bom, lửa đạn, cái chết cận
kề, những người lính lái xe vẫn luôn nở nụ cười lạc quan, nụ cười của một dân
tộc đang chiến đấu và nắm chắc chiến thắng. Họ coi thường mọi khó khăn, vẫn
hóm hỉnh, vui đùa dẫu cuộc sống chiến đấu có nhiều gian khổ
* Hình ảnh thanh niên xung phong, cô gái mở đường, cô du kích, giao liên…
Họ được gọi là những “nàng tiên dũng sĩ”, đã in bóng vào văn học với vẻ đẹp
dịu dàng mà vẫn kiên cường, dũng cảm, mang đậm chủ nghĩa anh hùng cách
mạng. Các chị cũng chính là kết tinh của sức mạnh Việt Nam, đại diện cho tinh
hoa, khí phách của con người Việt Nam trong những năm tháng không thể nào
quên.
(Thu Bồn)
VD :Những cô gái thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn trong
“Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê
VD :Cô gái thanh niên xung phong trong “Khoảng trời hố bom” của Lâm Thị
Mỹ Dạ”:
VD: Nữ thanh niên xung phong trong bài “Người con gái Việt Nam” của Tố
Hữu
Bằng cái nhìn sử thi, Tố Hữu nhìn chị Trần Thị Lý không phải là một cá
nhân mà là một con người của dân tộc, của đất nước. Vì thế nhà thơ không gọi
nhân vật của mình là chị Lý mà gọi là “Người con gái Việt Nam”, người con gái
anh hùng với “trái tim vĩ đại”, không phải “đập cho em” mà đập cho “lẽ phải
trên đời, cho quê hương em, cho Tổ quốc loài người”. Vẻ đẹp của chị Trần Thị
Lý lấp lánh vẻ đẹp sử thi. Chị là hình ảnh đại diện tiêu biểu cho tinh hoa, khí
phách của toàn dân tộc Việt Nam.
Dân tộc Việt Nam là một dân tộc anh hùng nên không chỉ có “những
chàng trai, những cô gái yêu” xung phong ra mặt trận diệt thù mà “mỗi em bé
đều nằm mơ ngựa sắt/ Mỗi con sông đều muốn hóa Bạch Đằng”. Bởi vậy,
không chỉ có những anh chiến sĩ giải phóng quân để lại “dáng đứng Việt Nam”,
những nàng tiên dũng sĩ được gọi là “Người con gái Việt Nam” mà thậm chí
“những em thơ cũng hóa anh hùng”.Dẫu tuổi nhỏ nhưng các em đã chiến đấu
kiên cường và hi sinh anh dũng tuyệt vời. Các em cũng là tiêu biểu cho vẻ đẹp
phẩm chất của cả dân tộc.
VD: Hình ảnh chú bé liên lạc trong bà thơ “Lượm” của Tố Hữu:
Cái chết thật nhẹ nhàng. Em hòa mình vào thiên nhiên, quê hương, đất
nước:
Những người em chiến sĩ vô danh góp sức mình làm nên lịch sử:
VD: Cậu bé Tnú trong “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành.
Trong muôn vàn những người Việt Nam anh hùng cao đẹp, Hồ Chí Minh
là “Người Việt Nam đẹp nhất”. Bác là tinh hoa của dân tộc, là hội tụ những vẻ
đẹp cao quý của con người Việt Nam. Vẻ đẹp của Bác trong thơ trở thành vẻ
đẹp mang tính sử thi trong văn học.
Bác đã không quản ngại gian khổ, hi sinh, hiến dâng trọn đời cho sự
nghiệp đấu tranh giành độc lập, tự do cho dân tộc. Người không yên lòng khi
đất nước bị giày xéo, nhân dân cực khổ, Người trăn trở tìm đường cứu nước
– Bác là người đưa đường chỉ lối cho nhân dân, cho dân tộc. Hình ảnh Bác được
miêu tả với chiều sâu lịch sử:
– Bác còn là một người cha, người bác, người anh hiền từ, giản dị, gần gũi:
– Trái tim Bác chan chứa tình yêu thương vô hạn đối với con người, từ đồng
chí, đồng bào đến muôn kiếp người đau khổ khắp năm châu, bốn biển :
2.2. Vẻ đẹp của hình tượng sử thi là tiêu biểu cho lẽ sống lớn, tình cảm lớn
của thời đại, của cộng đồng.
* Tình yêu đất nước:
VD: Cuộc đời Tnú đi từ đau thương đến hành động. Anh trở thành anh chiến sĩ
giải phóng, trực tiếp giết giặc trả thù cho gia đình, cho bản làng. Trong anh cháy
bỏng một tình yêu bản làng mà sâu thẳm là lòng yêu nước.
* Hình tượng mang tính sử thi còn mang trong mình tình đồng đội, tình
quân dân ấm áp.
+ Cây xà nu ham ánh sáng mặt trời hay chính là con người Tây Nguyên luôn
hướng về Đảng, về Cách mạng. Mỗi người dân làng Xô Man đều khắc sâu một
câu nói của cụ Mết. Câu nói ấy đã trở thành phương châm sống của dân làng.
* Thế giới tình cảm của hình tượng mang tính sử thi cũng có tình yêu đôi lứa
nhưng tình yêu ấy hài hòa trong tình yêu đất nước.
VD : Tình yêu của Nguyệt và Lãm trong “Mảnh trăng cuối rừng” của Nguyễn
Minh Châu.
Trong văn học giai đoạn 1945-1975, hình tượng thiên nhiên cũng được
miêu tả đậm nét và mang đậm tính sử thi. Thiên nhiên được miêu tả như một
phông nền hoành tráng, kì vĩ để tôn lên vẻ đẹp của con người.
VD: Hình tượng rừng xà nu trong tác phẩm “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung
Thành.
+ Rừng xà nu được miêu tả xuyên suốt chiều dài tác phẩm, gắn với cuộc đời, số
phận của mỗi người dân làng Xô Man nhưng đậm nét nhất ở đoạn mở đầu và
đoạn cuối của tác phẩm.
+ Rừng xà nu chịu nhiều đau thương, mang trong mình những nỗi đau lớn.
+ Mặc dù vậy, xà nu vẫn vượt lên đạn bom với một sức sống mãnh liệt, phi
thường, vẫn ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho dân làng. Đặc biệt, xà
nu là một loài cây ham ánh sáng mặt trời, luôn vươn lên để đón ánh nắng.
+ Để toát lên vẻ đẹp của xà nu, tác giả luôn đặt hình tượng xà nu trong thế tương
phản với đại bác của giặc. VD : Chúng nó bắn đã thành lệ…Cả rừng xà nu hàng
vạn cây k có cây nào k bị thương…Hiếm có loài cây nào lại sinh sôi nảy nở
khỏe đến vậy…
– Hình tượng xà nu vừa như một bức phông nền hoành tráng, kì vĩ, tôn lên vẻ
đẹp con người, vừa là tượng trưng cho những phẩm chất anh hùng của con
người Tây Nguyên.
+ Bức tranh thiên nhiên miền Tây vừa hùng vĩ, hiểm trở, lại vừa thơ mộng, trữ
tình, góp phần tôn lên vẻ đẹp hào hùng mà rất hào hoa của những người lính
Tây Tiến.
* Giọng ngợi ca, hào hùng, mang sắc thái khẳng định, đậm chất anh hùng
ca:
Đoạn thơ viết về Việt Bắc trong những đêm ra quân với khí thế hào hùng,
mãnh liệt. Nhịp thơ nhanh, giọng thơ mạnh mẽ, hào sảng thể hiện sức mạnh và
niềm tin chiến thắng của dân tộc.
VD: Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi
+ Đoạn văn miêu tả tinh thần chiến đấu của Việt là đoạn văn đầy hào sảng,
mang âm hưởng anh hùng ca: “Một loạt đạn súng lớn văng vẳng…. Lựu đạn ta
đang nở rộ”
* Khi viết về Hồ Chí Minh, giọng thơ chủ yếu là giọng ngợi ca, khẳng định
trong sự kính phục và yêu thương vô hạn.
(Bác ơi – Tố Hữu)
* Giọng bi hùng, bi tráng khi nói về những mất mát, hy sinh.
Cuộc kháng chiến trường kỳ chống lại những tên đế quốc sừng sỏ không
thể tránh khỏi những mất mát, hy sinh. Văn học thời kì này không né tránh mà
đã tái hiện chân thực những đau thương của dân tộc. Tuy nhiên, giọng điệu
không hề bi lụy mà bi hùng, bi tráng, tác động mạnh mẽ đến tâm can người đọc,
khiến ta cảm nhận được chiều sâu và vẻ đẹp của đất nước, con người Việt Nam
trong những năm tháng không thể nào quên. Giọng điệu bi hùng còn có ý nghĩa
thúc đẩy tinh thần đấu tranh của toàn dân tộc.
+ “Tnu nhắm mắt lại, rồi mở mắt ra, trừng trừng…..từ đỉnh núi Ngọc linh về”
Khuynh hướng sử thi thường sử dụng thủ pháp nghệ thuật phóng đại,
cường điệu và trùng điệp để nhấn mạnh cái phi thường.
– Phép cường điệu:
VD: Hình ảnh rừng xà nu được nhắc đến nhiều lần trong tác phẩm, đậm nét ở
đoạn mở đầu và đoạn cuối tác phẩm.
II. Cảm hứng lãng mạn trong văn học giai đoạn 1945-1975:
★ Lãng mạn là gì?
Lãng mạn hiểu theo nghĩa chiết tự là “sóng tràn bờ, chỉ một sự
phóng túng, tự do, vượt lên trên mọi ràng buộc” (Giáo trình lí luận văn
học – Nguyễn Thị Hồng Hạnh).
Như vậy, có thể hiểu lãng mạn là vươn lên trên hiện tại, là “sự phấn
chấn tinh thần hướng tới lí tưởng cao cả” (Mấy vấn đề lí luận văn học –
Viện văn học). Lãng mạn chỉ khát vọng vươn tới sự tốt đẹp và cao cả, có
cái nhìn đẹp hơn về thực tại, hướng tới tương lai tươi sáng và biến mơ
ước ở tương lai thành hiện thực bằng chính những hành động của mình.
Nói đến lãng mạn trong văn học giai đoạn 1945-1975 là nói đến
lãng mạn cách mạng, tràn đầy niềm tin vào thực tại và tương lai, mô tả
cuộc sống trong quá trình phát triển cách mạng, “hướng về cuộc sống
chưa đến nhưng nhất đính sẽ đến hoặc có thể đến” (Phương Lựu). Theo
Goocki, lãng mạn cách mạng chính là “chủ nghĩa lãng mạn tích cực, nó
nhằm tăng cường cái ý chí sống của con người, thức tỉnh trong tâm hồn
con người quyết tâm phản kháng với hiện thực, với mọi áp bức của hiện
thực”.
Theo Goocki, lãng mạn cách mạng bồi dưỡng trong lòng ta chí căm
hờn đối với thực tại xấu xa, hé mở một chân trời lý tưởng và củng cố cái
nhiệt tình cải tạo thế giới, xây dựng cho nhân dân một cuộc sống mới đầy
đủ, đẹp đẽ và sung sướng. Lãng mạn cách mạng vượt lên trên thực tại
nhưng không phải là thoát ly, trốn tránh mà là hướng vào hành động và đi
đôi với hành động, vỗ cánh bay bổng cũng là để bay nhanh tới tương lai
tươi sáng. Lãng mạn cách mạng mang đến niềm vui, niềm tin yêu đời và
khát vọng vươn tới tương lai tốt đẹp.
Cảm hứng lãng mạn đã thi vị hóa hiện thực chiến tranh, giúp con người
quên đi những đau thương mất mát, hướng tới một cuộc sống chiến đấu tươi đẹp
hơn, rộn ràng những tiếng cười trẻ trung, lạc quan, yêu đời. Ra trận, đi vào
mưa bom bão đạn mà lòng vui như trẩy hội:
Là những người lính, trực tiếp đối diện với bom rơi, đạn nổ, họ hiểu thấu
những mất mát, đau thương. Nhưng, họ giấu đi những tổn thất để yên lòng
người ra trận, họ vượt lên bom đạn, hi sinh bằng tiếng cười, tiếng hát của một
dân tộc nhiệt tình chiến đấu và nắm chắc chiến thắng. Tiếng cười như một biểu
hiện của sức sống mãnh liệt, sức chống chọi dẻo dai của dân tộc trước mọi thử
thách.
Bằng cảm hứng lãng mạn, thi vị hóa, các tác giả đã nhìn nhận cái chết
bằng cái nhìn bình thản. Đối với người lính, cái chết thật nhẹ nhàng, thanh
thản:
Nỗi đau tử biệt không làm cho người còn lại yếu đuối, bi lụy mà trái lại,
sự hi sinh ấy làm cho ta trở nên mạnh mẽ hơn, tiếp thêm sức mạnh, nghị lực để
chiến đấu và chiến thắng kẻ thù
VD: Tnú trước cái chết của những người trong làng và người thân trong gia
đình (Mai và con): “Cây sắt thứ hai đập vào trước ngực Mai…..Ông cụ buông
Tnú ra”
2. Lý tưởng hóa tương lai.
Với cái nhìn lãng mạn, đất nước Việt Nam trong những năm tháng xã hội
chủ nghĩa hiện lên thật đẹp. Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội nhất định
thắng lợi. Trong văn học ta thấy sáng lên một niềm tin vào cuộc sống tốt đẹp ở
ngày mai.
Bằng cái nhìn lãng mạn, những tác phẩm văn học giai đoạn 1945-1975
còn thể hiện cái nhìn lý tưởng về cuộc sống ra trận, tin rằng thắng lợi ắt về ta và
sự thất bại của địch là tất yếu. Chính điều đó góp phần quan trọng làm nên sức
mạnh tinh thần to lớn để vượt qua mọi thiếu thốn gian khổ, mọi thử thách nặng
nề của chiến tranh.
* Giặc Pháp, Mỹ xâm lược đất nước ta và gây ra biết bao tội ác “trời không
dung, đất không tha”. Hành động của chúng dã man như những tên ác thú.
+ Đoạn văn miêu tả cảnh bọn thằng Dục tra tấn mẹ con Mai đến chết và đốt
mười đầu ngón tay Tnú.
VD: Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi
+ Bọn giặc Mỹ giết hại những người thân trong gia đình Việt.
– Các tác giả có xu hướng tuyệt đối hóa tội ác của kẻ thù, thể hiện thái độ căm
phẫn tột độ. Đó là động lực thôi thúc ta chiến đấu:
VD: Những đứa con trong gia đình: Chị chiến quyết không đội trời chung với
giặc: “Nếu giặc còn thì tao mất”
* Nếu kẻ thù là đại diện cho cái ác, chúng sang xâm lược nước ta, gieo bao
tội lỗi thì nhân dân Việt Nam là đại diện cho chính nghĩa.
Chúng ta chiến đấu không chỉ vì độc lập, tự do, hòa bình, thống nhất
chính đáng của Tổ quốc mà còn để bảo vệ chân lý và vẻ đẹp của nhân loại trên
thế giới. Vì thế, những đoạn văn, đoạn thơ miêu tả cuộc chiến đấu vì chính
nghĩa của ta mang đậm cảm hứng lãng mạn, anh hùng ca.
VD: Cuộc nổi dậy của dân làng Xô Man là cuộc đấu tranh vì chính nghĩa, tiêu
diệt những kẻ xâm lược tàn ác và giành lại sự bình yên, hạnh phúc cho bản làng.
Phương châm : Chúng nó đã cầm súng thì mình phải cầm giáo.
“Một loạt đạn súng lớn văng vẳng……Lựu đạn ta đang nổ rộ”
VD:
Khi thể hiện sự đối lập, tuyệt đối hóa giữa ta và địch, các tác giả đã vạch
một ranh giới rõ ràng: Ta nhất định thắng, địch nhất định sẽ chuốc lấy thất bại
thảm hại.
VHVN giai đoạn 1945-1975 tràn đầy cảm hứng lãng mạn. Cảm hứng
lãng mạn như một chất men say nồng đến kì lạ, xông hương và lan tỏa khắp các
tác phẩm văn học cách mạng. Cảm hứng lãng mạn mang đến cho văn chương
một cái nhìn thi vị cuộc sống hiện tại, lý tưởng cuộc sống tương lai, tiếp thêm
niềm tin và sức mạnh, ý chí và nghị lực để con người vượt qua mọi gian khổ,
khó khăn, hi sinh, mất mát, chiến đấu và chiến thắng kẻ thù xâm lược.