Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 12

MỤC LỤC

5.3 THỊ TRƯỜNG ĐỘC QUYỀN ........................................................................................2


5.3.1 Đặc điểm và nguồn gốc của thị trường độc quyền .....................................................2
5.3.2 Đường cầu và đường doanh thu cận biên của hãng độc quyền ................................2
5.3.3 Quyết định sản xuất của hãng độc quyền trong ngắn hạn ........................................3
5.3.4 Đường cung của hãng độc quyền .................................................................................4
5.3.5 Sức mạnh thị trường của hãng độc quyền ..................................................................6
5.3.6 Thiệt hại do sức mạnh độc quyền gây ra cho xã hội ..................................................6
5.3.7 Phân biệt giá ..................................................................................................................8

1
5.3 THỊ TRƯỜNG ĐỘC QUYỀN
5.3.1 Đặc điểm và nguồn gốc của thị trường độc quyền
Xét từ góc độ người bán, thị trường độc quyền là thị trường chỉ có một doanh nghiệp
duy nhất hoạt động và cung ứng một loại hàng hóa duy nhất, không có hàng hóa thay thế.
Trên thị trường độc quyền, doanh nghiệp không bị nguy cơ gia nhập ngành từ phía các
đối thủ tiềm năng đe dọa. Đối với độc quyền tự nhiên, điều đó bắt nguồn từ lợi thế kinh tế
nhờ quy mô. Khi doanh nghiệp độc quyền có khả năng sản xuất ở mức sản lượng tối thiểu có
hiệu quả (ở đó LAC là tối thiểu) và mức sản lượng này quá lớn so với quy mô chung của thị
trường, một doanh nghiệp mới khó có thể tham gia được vào ngành. Đối với các trường hợp
độc quyền khác, những rào cản pháp lý (giấy phép kinh doanh độc quyền, bằng sáng chế…)
không cho phép các doanh nghiệp mới xâm nhập vào ngành.
5.3.2 Đường cầu và đường doanh thu cận biên của hãng độc quyền
Hãng độc quyền là người đặt giá: Khác với hãng CTHH, hãng độc quyền có khả năng
tự đặt giá, thay đổi giá sản phẩm của mình thông qua việc điều chỉnh mức sản lượng.
Hãng độc quyền cung cấp toàn bộ sản lượng cho thị trường nên đường cầu của hãng
cũng chính là đường cầu của thị trường – là đường dốc xuống về bên phải, nằm ở phía trên
đường doanh thu biên.
Để đơn giản hóa, hãy hình dung đường cầu đối diện với hãng độc quyền (cũng là đường
cầu thị trường) là một đường thẳng có phương trình P = a + bQ (trong đó b < 0). Khi đó:
• Tổng doanh thu của hãng: TR = P. Q = aQ + bQ2
• Doanh thu biên của hãng: MR = (TR)’Q = a + 2bQ
• Vì b < 0 nên MR < P, ngoại trừ trường hợp Q = 0.
• Đường doanh thu cận biên của hãng là đường thẳng; cắt trục tung tại cùng một
điểm với đường cầu và luôn nằm dưới đường cầu trừ điểm đầu tiên.

2
5.3.3 Quyết định sản xuất của hãng độc quyền trong ngắn hạn
Theo đúng điều kiện tổng quát, để tối đa hóa lợi nhuận, nhà độc quyền sẽ lựa chọn sản
lượng theo nguyên tắc chi phí biên bằng doanh thu biên (MC = MR):
• Sản lượng tối đa hóa lợi nhuận của doanh nghiệp là sản lượng Q* được xác định
tương ứng với giao điểm E của đường MC và đường MR.
• Mức giá P* mà doanh nghiệp đặt sẽ là mức giá mà những người tiêu dùng sẵn sàng
trả ứng với sản lượng là Q*. Do đó, P* được xác định như là tung độ của điểm A,
là một điểm nằm trên đường cầu được dóng lên từ mức sản lượng Q*.
• Rõ ràng, tại sản lượng Q* thì P* > MR mà MR = MC nên P* > MC. Như vậy,
hãng độc quyền sẽ định giá với mức giá P cao hơn chi phí biên MC ở đơn vị sản
lượng cuối cùng.

Dựa vào công thức tính lợi nhuận chúng ta có thể xác định lợi nhuận của hãng độc
quyền như sau: π = TR – TC
Chúng ta có thể đưa công thức trên về dạng:
π = P.Q – ATC × Q = (P – ATC) × Q
Phương trình xác định lợi nhuận này cho chúng ta biết trong ngắn hạn:
• Hãng có lợi nhuận kinh tế dương khi P > ATC.
• Hãng có lợi nhuận kinh tế bằng 0 khi P = ATC.
• Hãng bị thua lỗ nhưng vẫn tiếp tục sản xuất khi AVC < P < ATC.
• Hãng đóng cửa sản xuất khi P < AVC.
Tùy theo quy mô chung của thị trường cũng như quy mô (sản lượng) tối thiểu có hiệu
quả, trong ngắn hạn, doanh nghiệp độc quyền có thể thu được lợi nhuận kinh tế dương, lợi
nhuận bằng 0 hoặc bị thua lỗ:
3
- Thông thường, khi quy mô thị trường không quá nhỏ (biểu hiện ở chỗ, đường cầu thị
trường nằm xa gốc tọa độ), với vị thế độc quyền, doanh nghiệp có thể thu được lợi nhuận kinh
tế dương (như hình bên trên). Ở một thị trường cạnh tranh hoàn hảo, điều này sẽ kích thích
các doanh nghiệp mới tham gia vào ngành và về dài hạn, lợi nhuận kinh tế của các doanh
nghiệp có xu hướng tiến tới 0. Tuy nhiên, tình hình sẽ không diễn ra như vậy nếu thị trường
là độc quyền. Nếu doanh nghiệp độc quyền có khả năng thu được lợi nhuận kinh tế dương
trong ngắn hạn, nó có thể duy trì được khả năng này trong cả dài hạn. Ở đây những rào cản
đối với sự gia nhập ngành khiến cho doanh nghiệp độc quyền vẫn có thể duy trì được mức lợi
nhuận tương đối cao của mình. Đây cũng là điểm khiến cho doanh nghiệp có động cơ gia tăng
đầu tư cho các hoạt động nghiên cứu, triển khai, cải tiến kỹ thuật… nhằm hạ thấp chi phí sản
xuất để có thể thu được lợi nhuận cao. Những động cơ kiểu này vẫn có thể có ở một doanh
nghiệp cạnh tranh hoàn hảo. Song xu hướng làm biến mất những khoản lợi nhuận siêu ngạch
trong dài hạn ở một ngành cạnh tranh hoàn hảo khiến cho động cơ này bị suy yếu đi nhiều.
- Trong ngắn hạn, nếu quy mô thị trường là quá nhỏ, doanh nghiệp độc quyền có thể
bị thua lỗ. Khi gặp nguy cơ thua lỗ, quyết định của doanh nghiệp vẫn tuân thủ theo nguyên
tắc chung: doanh nghiệp chỉ sản xuất nếu mức giá không nhỏ hơn chi phí biến đổi bình quân
ngắn hạn. Trong trường hợp ngược lại, doanh nghiệp sẽ đóng cửa. Trong dài hạn, doanh
nghiệp độc quyền sẽ không chấp nhận tình trạng thua lỗ. Nếu điều này có khả năng xảy ra,
doanh nghiệp sẽ rút lui khỏi ngành.
- Doanh nghiệp độc quyền cũng có thể chỉ thu được lợi nhuận kế toán thông thường,
tức chỉ đạt mức lợi nhuận kinh tế bằng 0. Tuy nhiên, trạng thái này vẫn đủ để giữ doanh
nghiệp ở lại trong ngành cả trong dài hạn.
Khi doanh nghiệp độc quyền lựa chọn sản lượng tối đa hóa lợi nhuận theo nguyên tắc
MC = MR, vì MC phải dương nên MR tương ứng với mức sản lượng tối ưu cũng phải dương.
Điều đó có nghĩa là: sản lượng tối đa hóa lợi nhuận phải nhỏ hơn sản lượng tối đa hóa doanh
thu (sản lượng tương ứng với khi MR = 0). Tại mức sản lượng tối đa hóa lợi nhuận, bằng
cách hạ giá hàng hóa, doanh nghiệp vẫn có thể gia tăng được tổng doanh thu.
5.3.4 Đường cung của hãng độc quyền
Khi chúng ta đã giả định doanh nghiệp theo đuổi mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận, có thể
khẳng định đường cung của doanh nghiệp là đường mô tả các cặp giá cả và sản lượng cho
phép doanh nghiệp tối đa hóa lợi nhuận. Đối với một doanh nghiệp cạnh tranh hoàn hảo, như
ta đã biết, đó chính là một phần của đường MC. Tuy nhiên, trong trường hợp thị trường độc
quyền, các cặp giá và sản lượng tối ưu của doanh nghiệp lại không kết nối được với nhau
thành một đường cung xác định. Đó là lý do người ta nói rằng, không có đường cung trong
trường hợp độc quyền. Có thể giải thích điều này như sau:

4
• Vì không phải là người chấp nhận giá, các quyết định về sản lượng và giá cả của
doanh nghiệp độc quyền diễn ra đồng thời. Chúng phụ thuộc vào vị trí của đường
cầu, đường doanh thu biên và chi phí biên.
• Với một đường MC xác định, khi đường cầu là D1 và đường doanh thu biên tương
ứng là MR1, sản lượng và mức giá mà doanh nghiệp độc quyền lựa chọn là Q1 và
P1. Tuy nhiên, ta không thể nói được rằng, tại mức giá P1, lượng cung duy nhất của
nhà độc quyền là Q1. Khi đường cầu và đường doanh thu biên thay đổi, sản lượng
và mức giá mà doanh nghiệp lựa chọn sẽ thay đổi.
• Tại cùng mức giá P1, nếu đường cầu là D2 và đường doanh thu biên tương ứng là
MR2, sản lượng tối ưu của nhà độc quyền sẽ là Q2. Ngược lại, nếu đường cầu là
D3, đường doanh thu biên tương ứng là MR3, doanh nghiệp độc quyền sẽ sản xuất
ở mức sản lượng Q1, nhưng lại định giá là P2 khác với mức giá P1.
Trạng thái không có đường cung của một doanh nghiệp độc quyền phản ánh: tại cùng
một mức giá, doanh nghiệp có thể sẵn sàng cung ứng với những mức sản lượng khác nhau;
và tại cùng một mức sản lượng doanh nghiệp có thể định những mức giá khác nhau.

5
5.3.5 Sức mạnh thị trường của hãng độc quyền

5.3.6 Thiệt hại do sức mạnh độc quyền gây ra cho xã hội
Do thuộc về các cấu trúc thị trường khác nhau, các quyết định về giá cả và sản lượng
của các doanh nghiệp cạnh tranh hoàn hảo và doanh nghiệp độc quyền là không giống nhau.
Các doanh nghiệp cạnh tranh hoàn hảo là những doanh nghiệp có quy mô nhỏ, không có
quyền lực thị trường, luôn chịu áp lực từ sự gia nhập ngành dễ dàng của các doanh
nghiệp mới tiềm năng. Chúng là người chấp nhận giá và lựa chọn sản lượng theo nguyên tắc
MC = P. Là người sản xuất duy nhất trên thị trường, không chịu áp lực từ việc gia nhập ngành
của các đối thủ tiềm năng do những rào cản hữu hiệu được thiết lập chống lại sự thâm nhập
vào ngành, doanh nghiệp độc quyền lại có quyền lực thị trường lớn. Nó có khả năng tác động
vào mức giá thị trường tùy theo mức sản lượng mà nó định cung ứng. Tuy nhiên, để tối đa
hóa lợi nhuận, doanh nghiệp độc quyền phải lựa chọn sản lượng và định giá tương ứng theo
nguyên tắc MC = MR < P. Sự khác nhau như vậy có thể làm cho các kết cục thị
trường chung trên hai thị trường là khác nhau.
Để so sánh mức giá và sản lượng của một thị trường cạnh tranh hoàn hảo với một thị
trường độc quyền, ta phải giả định chúng có các điều kiện giống nhau về cầu và chi phí. Có
thể coi đường cầu D là chung cho cả hai thị trường và đường chi phí biên MC của doanh
nghiệp độc quyền trên thị trường độc quyền cũng chính là đường tổng hợp theo chiều
ngang của các đường chi phí biên của các doanh nghiệp trên thị trường cạnh tranh hoàn hảo.
Giả định về chi phí như vậy, trên thực tế, không phải lúc nào cũng hợp lý. Ở những ngành mà
độc quyền có thể xuất hiện nhờ lợi thế kinh tế nhờ quy mô, việc chia nhỏ thị trường cho nhiều
doanh nghiệp sẽ làm cho mỗi doanh nghiệp đều hoạt động ở quy mô không hiệu
quả (chi phí bình quân của chúng sẽ rất lớn) so với việc tập trung sản lượng của ngành vào
một doanh nghiệp. Vì lý do này mà một doanh nghiệp lớn nào đó sẽ dần dần thâu tóm được
toàn bộ thị trường và trở thành nhà độc quyền tự nhiên. Bởi thế, để giả định của chúng ta có
thể chấp nhận được, hãy tưởng tượng một ngành cạnh tranh hoàn hảo có thể biến thành ngành
6
độc quyền một cách đơn giản chỉ nhờ việc ra quyết định sản lượng và định giá một cách tập
trung (giống như việc các doanh nghiệp thỏa thuận với nhau để thành lập một cacten-độc
quyền duy nhất trong ngành: hoạt động sản xuất vẫn được từng doanh nghiệp riêng rẽ tiến
hành, song cacten lại quyết định mức giá và sản lượng chung của ngành và phân bổ sản lượng
đó cho mỗi doanh nghiệp). Điều chúng ta quan tâm ở đây là: sản lượng và mức giá của ngành
thay đổi như thế nào khi một ngành cạnh tranh hoàn hảo bị cacten hóa?
Khi ngành là ngành cạnh tranh hoàn hảo, mức giá cân bằng PC trên thị trường được
xác định bởi giao điểm của đường cầu D và đường cung S – đường tổng hợp theo chiều ngang
các đường MC của các doanh nghiệp. Tại mức giá PC này, sản lượng cân bằng thị trường là
QC. Sản lượng của mỗi doanh nghiệp được xác định theo nguyên tắc chi phí biên của đơn vị
sản lượng cuối cùng của doanh nghiệp bằng PC.

Nếu ngành bị cacten hóa, đường cung S nói trên cũng chính là đường MC của cacten.
Để tối đa hóa lợi nhuận cho cả cacten, nó phải lựa chọn sản lượng QM tương ứng với giao
điểm của đường MC nói trên với đường MR. Vì đường MR nằm phía trong và bên dưới
đường cầu D, sản lượng QM nhỏ hơn sản lượng QC. Một cách tương ứng, mức giá PM mà
cacten – độc quyền này định sẽ lớn hơn PC. Như vậy, ở những hoàn cảnh tương tự nhau, nhà
độc quyền có xu hướng sản xuất với một sản lượng thấp hơn và định giá cao hơn so với sản
lượng và mức giá cân bằng trên trên thị trường cạnh tranh hoàn hảo.

7
Khi hãng khai thác sức mạnh độc quyền bằng cách định giá bán cao hơn chi phí biên,
người tiêu dùng sẽ mua ít đi. Vì giá cao hơn, những người tiêu dùng mất đi thặng dư do
có sự chênh lệch giữa mức sẵn lòng chi trả và giá thị trường trên mỗi đơn vị tiêu thụ.
Mặc dù nhà sản xuất sẽ nhận được phần lợi ích do bán lượng sản phẩm với mức giá cao
hơn nhưng cũng mất đi một phần lợi ích do không bán được thêm lượng (QC - QM) với mức
giá cạnh tranh PC. Vì thế, nhà sản xuất không chiếm hết toàn bộ phần mất mát trong
thặng dư của người tiêu dùng và gây ra tổn thất vô ích cho xã hội. Đó chính là phần thiệt
hại của xã hội do sức mạnh độc quyền. Ngay cả khi nếu lợi ích tăng thêm của nhà độc quyền
bị đánh thuế và được phân phối lại cho người tiêu dùng thì xã hội vẫn chịu thiệt hại do tổn
thất vô ích gây ra.
Khi nhà độc quyền bị đánh thuế trên sản phẩm là t thì cứ mỗi một sản phẩm làm ra
hãng bị cộng thêm chi phí là t vì vậy MCt = MC + t hay TCt = TC+t. Lúc này để tối đa hóa
lợi nhuận thì MR=MC => Sản lượng của hãng sẽ giảm, giá tăng.
Nếu như hãng bị đánh thuế một lần là T (không quan trọng là sản lượng bao nhiêu) thì
thuế sẽ được cộng vào tổng chi phí: TCt = TC + T => MCt = MC. Vì MC không đổi nên sản
lượng và giá của nhà độc quyền cũng không đổi. Khoản thuế T này sẽ làm giảm lợi nhuận
của nhà độc quyền.
5.3.7 Phân biệt giá
Trên thị trường cạnh tranh hoàn hảo, các doanh nghiệp bán những hàng hóa giống hệt
nhau theo một mức giá thống nhất. Đặc điểm của thị trường không cho phép một doanh nghiệp
có thể định giá cao hơn các doanh nghiệp khác. Trái lại, trên thị trường độc quyền, do không
có đối thủ cạnh tranh, doanh nghiệp có khả năng phân biệt đối xử về giá: nó có thể bán cho
những người tiêu dùng khác nhau theo những mức giá khác nhau; có thể định giá khác nhau

8
cho mỗi đơn vị hàng hóa tùy theo khối lượng hàng mà người tiêu dùng mua; có thể định giá
cao vào thời điểm tiêu dùng này song lại định giá thấp hơn vào thời điểm khác.

a, Phân biệt giá cấp 1 (Phân biệt giá hoàn hảo): Đặt cho mỗi một đơn vị sản phẩm
một mức giá bằng mức giá mà người tiêu dùng sẵng sàng trả cho đơn vị sản phẩm đó. Khi đó
D ≡ MR. Sản lượng tối đa hoá lợi nhuận là mức sản lượng mà tại đó MC = P

Phân biệt giá hoàn hảo là khi mà doanh nghiệp bán giá cao nhất mà mỗi người mua có
thể chịu được, có nghĩa là chiếm dụng thặng dự tiêu dùng CS để tăng thặng dư sản xuất PS.
Mặc dù khi phân biệt giá cấp 1 sẽ không còn khoản mất không (tổn thất vô ích) nhưng người
tiêu dùng không có thặng dư.
Phân biệt giá hoàn hảo rất phổ biến. Một sản phẩm mới ra (ví dụ như Iphone) luôn có
giá rất cao sau đó giá giảm dần. Khách hàng biết rõ điều này nhưng vì ham muốn được sớm
sở hữu nên họ sẵn sàng bỏ tiền ra. Như vậy, doanh nghiệp sẽ bán được giá cao cho người chấp
nhận giá cao. Còn những khách hàng không chấp nhận giá cao, họ sẽ sẵn sàng đợi cho tới khi
giá giảm. Tương tự, các thương hiệu thời trang cao cấp (Chicland, NEM, IVyModa…) bán
mỗi bộ quần áo vài triệu. Khi hết mùa, họ có thể giảm giá tới 50%, thậm chí 70%, đồng giá
199K… để vớt nốt những khách hàng còn lại.

9
Chúng ta cần lưu ý là trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo, cũng có những người mua
có khả năng mua ở mức giá khác nhau nhưng vì không có sức mạnh độc quyền nên doanh
nghiệp không thể phân biệt giá được. Ví dụ bà bán rau không thể tăng giá bán dựa vào việc
khách hàng đi xe máy hay đi ô tô bởi nếu làm thế thì khách sẽ sang hàng khác mua.
b, Phân biệt giá cấp 2: Chia sản lượng bán ra thành các khối lượng khác nhau, đặt giá
cho mỗi khối lượng bán một mức giá. Việc phân biệt giá cấp 2 thường được áp dụng trong
độc quyền tự nhiên.
Mỗi NTD mua một khối lượng hàng hóa khác nhau, khối lượng mua càng cao thì khả
năng chi trả của họ càng giảm dần. Có nghĩa là khi NTD tăng khối lượng mua mà hãng vẫn
giữ nguyên giá thì khách hàng sẽ ngừng tăng sản lượng. Do đó, hãng sẽ đặt các mức giá khác
nhau với khối lượng mua khác nhau, nhờ vậy sẽ đạt được sản lượng tối đa của mỗi khách
hàng. Phương pháp này rất phổ biến, chẳng hạn: bắt đầu giảm giá khi mua cái thứ hai hoặc là
mua 3 tặng 2…
Thặng dư tiêu dùng trong trường hợp phân biệt giá cấp hai (phân biệt giá theo khối
lượng tiêu thụ) sẽ cao hơn so với trường hợp bán với giá độc quyền vì sản lượng bán tăng lên.
Chẳng hạn, nhà độc quyền đưa ra hai mức giá khác nhau P1 và P2 ứng với khối lượng bán
Q1 và Q2, trong đó P1 > P2 (P1 là giá bán của nhà độc quyền trong trường hợp không phân
biệt giá). Với những khách hàng có mức sẵn lòng chi trả lớn hơn mức giá P1, nhưng vẫn chỉ
trả ở mức P1 thì thặng dư tiêu dùng chính là phần diện tích dưới đường cầu và mức giá P1.
Điều này cũng xảy ra với mức giá bán độc quyền. Tương tự, với những khách hàng có mức
sẵn lòng chi trả trong khoảng (P1 , P2) thì thặng dư tiêu dùng cũng được tính là phần giới hạn
diện tích dưới đường cầu, mức giá P1 và P2, khối lượng Q1 và Q2. Tổng thặng dư tiêu dùng
trong trường hợp này cao hơn so với trường hợp không phân biệt giá.

c, Phân biệt giá cấp 3: Đặt các mức giá khác nhau cho các nhóm khách hàng khác
nhau sao cho doanh thu cận biên của ở các thị trường bằng nhau và bằng chi phí cận biên của
doanh nghiệp.
10
Mục tiêu của sự phân biệt đối xử về giá là gia tăng lợi nhuận đến mức có thể nếu như
những người tiêu dùng khác nhau có những đường cầu với đọ co giãn theo giá khác nhau.
Nếu tất cả mọi người tiêu dùng đều có những đường cầu giống nhau, nhà độc quyền sẽ không
tối đa hóa được lợi nhuận khi thực hiện sự phân biệt giá.
Thật vậy, để đơn giản hóa, chúng ta tưởng tượng trên thị trường chỉ có hai người tiêu
dùng A và B. Tương ứng với các đường cầu cá nhân DA và DB là các đường doanh thu biên
MRA và MRB của hai người này. Đường cầu thị trường D cũng như đường doanh thu biên
chung MR của thị trường chính là các đường tổng hợp theo chiều ngang, một cách tương ứng,
các đường cầu và đường doanh thu biên cá nhân lại.

Để tối đa hóa lợi nhuận, trước hết doanh nghiệp độc quyền phải lựa chọn sản lượng
Q* sao cho tại đơn vị cuối cùng MC = MR. Giả sử nhà độc quyền bán cho người tiêu dùng A
số lượng hàng hóa là qA và người tiêu dùng B số lượng hàng hóa là qB. Ta có Q* = qA + qB.
Nếu doanh thu biên mà nhà độc quyền thu được từ đơn vị hàng hóa cuối cùng bán cho
người tiêu dùng A là MRA lớn hơn doanh thu biên MRB nhận được từ đơn vị hàng hóa cuối
cùng bán cho người tiêu dùng B, nhà độc quyền có thể tăng được doanh thu mà vẫn giữ
nguyên chi phí (do đó tăng được lợi nhuận) bằng cách chuyển một đơn vị hàng hóa bán cho
B sang bán cho A.
Bằng cách phân bổ lại các mức sản lượng qA và qB (trong khuôn khổ tổng sản lượng
là Q*) theo hướng chuyển hàng hóa từ nơi thu được doanh thu biên thấp về nơi có doanh thu
biên cao hơn, nhà độc quyền sẽ gia tăng được lợi nhuận. Sự phân bổ này sẽ đạt đến
điểm tối ưu khi mà doanh thu biên của hai người tiêu dùng là bằng nhau, tức ở đơn vị hàng
hóa cuối cùng, MRA = MRB = MC (1).

11
Khi hai người tiêu dùng có các đường cầu giống hệt nhau, đường doanh thu biên của
họ cũng sẽ giống nhau. Điều kiện (1) lúc này cho thấy mức giá mà nhà độc quyền định ra cho
mỗi người tiêu dùng cũng phải bằng nhau.
Tuy nhiên, khi những người tiêu dùng có các đường cầu thực sự khác nhau, do lúc này
các đường doanh thu biên của họ là khác nhau nên việc thỏa mãn điều kiện (1) thường đi đôi
với việc phân biệt đối xử về giá. Nhà độc quyền sẽ định giá cao hơn cho người tiêu dùng nào
có độ co giãn của cầu theo giá thấp hơn và ngược lại, sẽ định giá thấp hơn cho người tiêu
dùng mà nhu cầu của anh ta (hay chị ta) co giãn cao hơn theo giá.
Trên thực tế, do thu nhập và sở thích của những người tiêu dùng là khác nhau, nhu cầu
của họ về hàng hóa cũng thường có độ co giãn khác nhau. Ví dụ, nhu cầu đi lại bằng máy bay
của những người kinh doanh thường kém co giãn. Do tính chất của công việc, lợi ích của việc
tiết kiệm thời gian đối với những người này là tương đối lớn so với chi phí mua vé máy bay.
Khi giá vé máy bay tăng, lượng cầu của những khách hàng loại này giảm không đáng kể.
Trong khi đó, nhu cầu đi máy bay của những khách hàng thông thường lại khá co giãn theo
giá. Khi giá vé máy bay tăng, lượng cầu của những khách hàng này thường giảm mạnh và
ngược lại. Trong điều kiện này, việc định giá vé máy bay cao hơn đối với các nhà kinh doanh
và thấp hơn đối với những khách hàng thông thường là chiến lược định giá tối ưu của các
hãng hàng không.
Khi hai cá nhân A và B có những đường cầu cá nhân khác nhau, họ có thể bị
định giá khác nhau. Mức giá mà A phải trả là PA cao hơn mức giá PB mà nhà độc
quyền áp đặt cho B vì đường cầu DA của A kém co giãn hơn đường cầu DB của B.
Trên các thị trường độc quyền, sự phân biệt đối xử về giá thường hay xảy ra ở một số lĩnh
vực kinh doanh như hàng không (vé máy bay), điện, nước sạch, dịch vụ điện thoại… Ở những
lĩnh vực này, hàng hóa khó có thể tiêu chuẩn hóa. Với những loại hàng hóa này, người ta khó
tích trữ, và khó chuyển giao cho nhau. Việc mua đi, bán lại hàng hóa giữa các khách hàng
nhằm lợi dụng sự chênh lệch giá không thực hiện được. Trái lại, đối với những hàng hóa được
tiêu chuẩn hóa, việc những người tiêu dùng có thể mua hàng hóa với giá thấp để bán lại cho
những người sẵn sàng trả giá cao hơn sẽ làm cho sự phân biệt đối xử về giá của nhà
độc quyền trở nên vô nghĩa.
Tóm lại, đối với nhà độc quyền, sự phân biệt đối xử về giá chỉ thực hiện được khi, thứ
nhất, độ co giãn của cầu theo giá của những người tiêu dùng khác nhau là khác nhau; thứ hai,
hàng hóa mà người ta định phân biệt giá thuộc loại khó chuyển giao cho nhau.

12

You might also like