Professional Documents
Culture Documents
2 -P2 ONLINE HỌC THUYẾT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ CỦA C.MÁC
2 -P2 ONLINE HỌC THUYẾT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ CỦA C.MÁC
2 -P2 ONLINE HỌC THUYẾT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ CỦA C.MÁC
HỌC THUYẾT
GIÁ TRỊ THẶNG DƯ CỦA C.MÁC
VÀ Ý NGHĨA THỜI ĐẠI
Số tiết giảng: 10 tiết
• (Nên nhớ: Chi phí của xã hội cho sản xuất hàng hóa là:
W=c+v+m)
• Xem: C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, Tập 23, NXb Chính
trị Quốc gia Sự Thật, H2002 Sđd, tr.48-49.
• Chi phí sản xuất trong nền kinh tế tư bản chủ
nghĩa (ký hiệu là k).
• Khi xuất hiện phạm trù chí phí sản xuất thì giá
trị hàng hóa sẽ biểu hiện ra dưới hình thái khác:
• W=k+m
• C.Mác đã nêu ra sự khác biệt của chi phí
sản xuất so với phạm trù chi phí lao
động tạo ra hàng hóa.
– Về lượng, chi phí sản xuất nhỏ hơn chi phí lao
động để sản xuất hàng hóa:
k< k + m
– Về chất, nếu chi phí lao động (W = k + m)
quyết định giá trị của hàng hóa thì chi phí sản
xuất ( k ) chỉ “biểu thị tính chất đặc thù của
sản xuất tư bản chủ nghĩa…” (Nghĩa là, cứ có
tư bản bỏ ra là phải có giá trị thặng dư.)
• 1-Lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận.
• Như vậy, để sản xuất hàng hóa cần phải chi
phí một lượng lao động nhất định bao gồm:
-Lao động quá khứ, biểu hiện dưới hình thái
giá trị tư liệu sản xuất (c) và
-Lao động sống ( v).
• Giữa giá trị hàng hóa và chi phí sản xuất tư bản
chủ nghĩa luôn có một khoản chênh lệch về
lượng ngang bằng với giá trị thặng dư, nên
sau khi bán hàng hóa, nhà tư bản thu về
lượng tiền không chỉ bù đắp số tư bản đã chi
dùng, mà còn được thêm một lượng tiền
ngang bằng với giá trị thặng dư.
• 1-Lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận.
• Về bản chất của lợi nhuận :“Giá trị thặng
dư, được quan niệm là con đẻ của toàn bộ
tư bản ứng trước, mang hình thái chuyển
hóa là lợi nhuận”.
• Như vậy, lợi nhuận là hình thái chuyển hóa
của giá trị thặng dư do lao động sống tạo ra,
nhưng (được nhà tư bản) quan niệm là do
toàn bộ tư bản ứng trước sinh ra.
• Lợi nhuận được ký hiệu là p
• 1-Lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận.
• Tỷ suất lợi nhuận là tỷ lệ phần trăm giữa giá trị
thặng dư với chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa .
• Tỷ suất lợi nhuận ký hiệu là p’
, 𝒎
• p = x 100%
(𝒄+𝒗)
• Tỷ suất lợi nhuận hàng năm được tính bằng:
,
•P =
𝑴
X 100%
𝑪+𝑽
• Trong đó:M là khối lượng giá trị thặng dư
hàng năm; (C+V) là tổng tư bản ứng trước.
• Lợi nhuận trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa
• Sự hình thành phạm trù chi phí sản xuất làm
cho bộ phận còn lại của giá trị hàng hóa – giá
trị thặng dư chuyển hóa sang hình thái mới,
che mờ nguồn gốc của nó.
• Lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận là động lực
kinh tế của kinh tế thị trường.
• Từ đây, hình thành nhiều quan niệm khác nhau về
nguồn gốc của phần dôi ra của giá trị - hàng hóa
ngoài chi phí sản xuất: là phần lớn thêm lên của
số tư bản đã được chi phí vào sản xuất hàng
hóa, từ lưu thông; là phần giá trị tăng thêm của
toàn bộ tư bản, do bản thân tư bản sinh ra.
• Xem: C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, Tập 23, NXb
Chính trị Quốc gia Sự Thật, H2002 Sđd, tr.61-65.
• Từ đó C.Mác nêu ra định nghĩa lợi nhuận: “Giá
trị thặng dư, được quan niệm là con đẻ của
toàn bộ tư bản ứng trước, mang hình thái
chuyển hóa là lợi nhuận”,
• đồng thời nêu rõ: “Vậy, cứ thoạt nhìn, ta thấy
rằng lợi nhuận và giá trị thặng dư cũng là một:
lợi nhuận chẳng qua chỉ là một hình thái thần
bí hóa của giá trị thặng dư, hình thái mà
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa tất
nhiên phải đẻ ra”.
• C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, Tập 23, NXb Chính trị Quốc gia
Sự Thật, H2002 Sđd, tr.65.
• Sđd, tr.65.
• Xem: Sđd, tr.65-66.
• Tóm lại: Khi xuất hiện phạm trù lợi nhuận
thì giá trị hàng hóa sẽ biểu hiện thành: W = k
+p
• So với giá trị thặng dư, lợi nhuận không
những có sự khác biệt về chất, mà cả về
lượng.
• Về lượng, nếu hàng hóa bán ra theo giá trị, thì
lợi nhuận bằng toàn bộ giá trị thặng dư chứa
đựng trong giá trị của hàng hóa, song nếu giá cả
hàng hóa chênh lệch với giá trị của nó thì lợi
nhuận sẽ không ngang bằng giá trị thặng dư.
• Về chất, nếu trong phạm trù giá trị thặng dư, bản
chất bóc lột của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa
được thể hiện rõ, thì trong lợi nhuận người ta
chỉ thấy được sự lời lãi của đầu tư tư bản mà
thôi. (Tôi bỏ bây nhiều tiền và thu được bây nhiêu, so
sánh với anh?...)
• Sự hình thành phạm trù chi phí sản xuất và lợi
nhuận đã gây ra sự hiểu không đúng về giá trị
hàng hóa và giá trị thặng dư.
• Nhà tư bản thiên về việc coi chi phí sản xuất là
giá trị nội tại thật sự của hàng hóa, vì đó là giá cả
cần thiết để đơn thuần duy trì tư bản của hắn.
• Giá trị thặng dư, thực hiện được trong khi bán
hàng hóa, chính là phần của giá bán cao hơn giá
trị của nó do bản thân việc bán sinh ra.
• Do đó, trong một xã hội mà nền sản xuất tư bản
chủ nghĩa thống trị, thì ngay đến cả người sản
xuất không phải là nhà tư bản cũng bị hệ tư tưởng
tư bản chủ nghĩa chi phối. (Nghĩa là, người ta cho
rằng có tư bản bỏ ra thì đương nhiên phải có một phần lời
dôi là là tự nhiên, là hợp lý như nó phải có)
• Xem: C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, Tập 23, NXb
Chính trị Quốc gia Sự Thật, H2002, Sđd, tr.67-71.
• Từ phân tích về lợi nhuận và tỷ suất lợi
nhuận C.Mác đã rút ra:
Những lý do làm cho nhà tư bản không coi lợi
nhuận là đồng nhất với giá trị thặng dư, tức là
lao động thặng dư không được trả công gồm:
• Thứ nhất, việc thực hiện giá trị của hàng hóa,
- trong đó gồm cả việc thực hiện giá trị thặng
dư chứa đựng trong hàng hóa, - đối với hắn ta
là sáng tạo ra giá trị thặng dư đó.
• Thứ hai, tỷ suất lợi nhuận vẫn có thể rất khác
nhau tùy theo nguyên liệu đắt hay rẻ, và
người ta có khéo mua hay không;
• tùy theo máy móc sử dụng có năng suất cao hay
thấp, có thích hợp hay không và đắt hay rẻ;
• tùy theo sự tổ chức chung của quá trình sản xuất
ở các giai đoạn khác nhau hoàn bị nhiều hay ít,
những sự lãng phí về vật liệu được loại trừ hay
không, việc quản lý và việc kiểm soát có đơn
giản và có hiệu quả hay không, v.v..
• Thứ ba, nguyên nhân khác nữa; nhưng nó
cũng có thể chỉ do sự khác nhau về tài khéo
léo trong việc điều khiển hai xí nghiệp đó mà
ra.
• Và tình hình đó làm cho nhà tư bản nghĩ rằng, -
làm cho hắn ta tin chắc rằng, - lợi nhuận của hắn
không phải do bóc lột lao động mà có, mà ít ra
một phần cũng là do những trường hợp khác
không liên quan gì tới việc bóc lột lao động cả,
nhất là do sự hoạt động cá nhân của hắn.
• Thứ tư, sự tăng lên của tỷ suất lợi nhuận bao
giờ cũng là do chỗ giá trị thặng dư tăng lên
tương đối hay tuyệt đối so với chi phí sản xuất
của nó, tức là so với tổng tư bản đã ứng ra.
• Thứ năm, Giá trị của mọi hàng hóa - và do đó
giá trị của những hàng hóa cấu thành tư bản
cũng vậy - không phải là do thời gian lao động
cần thiết chứa đựng trong bản thân hàng hóa
đó quyết định, mà là do thời gian lao động xã
hội cần thiết để tái sản xuất ra hàng hóa đó
quyết định.
• Chú ý yếu tố tái sản xuất:
• -Đầu vào tăng thì các yếu tố cấu thành sản phẩm
đều tăng, kể cả đang trên dây chuyền sản
xuất…do đó giá bán tăng
• -Ngược lại…
• Trong thực tế, cạnh tranh làm cho những tỷ
suất lợi nhuận khác nhau san bằng đi thành
một tỷ suất lợi nhuận chung, đó là con số trung
bình của tất cả những tỷ suất lợi nhuận khác
nhau đó. Từ đó hình thành nên lợi nhuận trung
bình.
• Lợi nhuận mà một tư bản có một lượng nhất
định thu được theo tỷ suất lợi nhuận chung đó,
không kể cấu tạo hữu cơ của nó như thế nào,
gọi là lợi nhuận trung bình.
• Khi đã hình thành lợi nhuận trung bình thì giá
trị của hàng hóa chuyển hóa thành giá cả sản
xuất.
• 2-Lợi nhuận của tư bản thương nghiệp
• Tư bản thương nghiệp là một bộ phận của tổng
tư bản xã hội tồn tại trên thị trường để thực
hiện sự chuyển hóa hình thái tư bản tiền tệ
thành tư bản hàng hóa và tư bản hàng hóa
thành tư bản tiền tệ (T-H-T) và một khi chức
năng này nằm trong quá trình lưu thông nói
chung tách riêng thành một chức năng đặc biệt
của một loại tư bản đặc biệt – tư bản thương
nghiệp .
• C.Mác, Ăngghen, Toàn tập, tập 25, phần I, Nxb CTQG,
HN, 1994, tr.406 - 407
Sự chuyển hóa tiền thành tư bản
và sức lao động thành hàng hóa
𝟏 𝟐
• 720C + 180V + (900 x 17 %) = 1054
𝟕 𝟕
• Giá bán hàng của tư bản thương nhân: (bằng giá bán
hàng của tư bản công nghiệp + lợi nhuận thương nghiệp +
chi phí lưu thông):
𝟐 𝟏
• 1054 ) + (150 x 17 %) + 50 = 1130
𝟕 𝟕
• Thực chất lợi nhuận của tư bản thương
nghiệp bằng: giá bán – giá mua – chi phí lưu
thông:
•
𝟐 𝟓
• 1130 – 1054 - 50 = 25
𝟕 𝟕
• Sự phát triển của tín dụng tư bản chủ nghĩa và nhu cầu
mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh đã tạo ra một trong
những tiền đề quan trọng cho sự ra đời và phát triển của
công ty cổ phần.
• Công ty cổ phần có vốn được tập hợp từ nhiều
nhà tư bản và nguồn tiết kiệm trong dân chúng
thông qua phát hành cổ phiếu.
• Cổ phiếu là một thứ chứng khoán có giá, ghi
nhập quyền sở hữu cổ phần, nó đảm bảo cho chủ
sở hữu cổ phần có quyền lĩnh một phần thu nhập
từ công ty cổ phần tương ứng với số tiền ghi trên
cổ phiếu (gọi là lợi tức cổ phần hay cổ tức).
• Cổ phiếu có có nhiều loại như cổ phiếu thường
và cổ phiếu đặc quyền. Cổ phiếu cũng như các
chứng khoán có giá khác như trái phiếu, tín
phiếu đều có thể mua đi bán lại trên thị trường
chứng khoán.
• Khi mua và bán người ta dựa vào giá cả thị
trường của cổ phiếu hay gọi là thị giá cổ phiếu.
Thị giá cổ phiếu không phụ thuộc vào giá trị
danh nghĩa ghi trên mặt cổ phiếu hay mệnh giá
cổ phiếu mà phụ thuộc vào lợi tức cổ phiếu và
lợi tức tiền gửi ngân hàng.
Cổ tức
• Thị giá cổ phiếu =
Lãi suất tiền gửi ngân hàng
•
• Tư bản giả:
• Tư bản giả là tư bản tồn tại dưới hình thức chứng
khoán có giá đem lại thu nhập cho người sở hữu
chứng khoán.
• Tư bản giả tồn tại dưới 2 loại chứng khoán chủ
yếu: Cổ phiếu do công ty phát hành và trái khoán
do nhà nước phát hành.
• Cổ phiếu là giấy chứng nhận quyền sở hữu của cổ
đông.
•
• Tư bản giả:
• Trái phiếu (trái phiếu công ty, trái phiếu ngân
hàng, công trái) là những phiếu ghi nợ do các
công ty, các ngân hàng hay nhà nước phát hành để
vay nợ những người mua.
• Khác với cổ phiếu, các trái phiếu phát hành có kỳ
hạn và lợi tức cố định, được hoàn trả và kèm theo
lợi tức khi đến hạn.
• Người có trái phiếu công ty chỉ là chủ nợ của
công ty chứ không phải là người đồng sở hữu
công ty nên không có quyền tham gia quản lý
công ty như người có cổ phiếu (cổ đông).
• Các chứng khoán có giá là tư bản giả bởi bản
thân chúng không có giá trị; giá trị danh nghĩa
ghi trên tờ chứng khoán chỉ là chứng chỉ vay nợ
hoặc chứng chỉ đầu tư, thể hiện quyền của người
sở hữu chứng khoán đối với người phát hành.
• Chứng khoán có 2 loại: chứng chỉ vay nợ và
chứng chỉ đầu tư
• Tư bản giả có thể đem lại thu nhập cho người sở
hữu nó, có thể mua bán được và giá cả của nó do
tỷ suất lợi tức quy định. Bản thân nó không có giá
trị, vì thế có thể tăng giảm mà không cần có sự
thay đổi tương đương của tư bản thật.
• ( ví dụ cháy chung cư...thì giá cổ phiếu của nhà
đầu tư mất trăm tỷ trên TTCK; Lộ thông tin người
dùng, Ông chủ Fb thủng túi nhiều tỷ USD)
• Trong kinh tế thị trường hiện đại, tư bản giả có xu
hướng tăng nhanh hơn tư bản thật do lãi suất có xu
hướng giảm thấp nên thị giá chứng khoán tăng,
các công ty cổ phẩn phát triển nhanh chóng, đồng
thời nhà nước phát hành thêm nhiều trái khoán.
• Để chuyển hướng đầu tư, người ta đem chứng
khóa có giá bán ở sở giao dịch chứng khoán. Đó
là thị trường chứng khoán. Thị trường chứng
khoán là nơi mua, bán chứng khoán có giá.
• Thị trường chứng khoán có hai loại: thị trường
sơ cấp- là thị trường mua, bán các chứng khoán
phát hành lần đầu tiên và thị trường thứ cấp là
thị trường mua, bán các loại chứng khoán.
• 4-Địa tô tư bản chủ nghĩa
• Địa tô tư bản chủ nghĩa:
• Địa tô là một bộ phận lợi nhuận siêu ngạch
ngoài lợi nhuận bình quân do công nhân nông
nghiệp tạo ra mà nhà tư bản thuê đất phải
nộp cho người sở hữu ruộng đất.
• Địa tô được biểu hiện dưới hai hình thức là
– địa tô chênh lệch ( I và II) và
– địa tô tuyệt đối.
• Để sản xuất, bên cạnh những diện tích sản
xuất có điều kiện thuận lợi và trung bình, sản
xuất còn phải tiến hành trên cả những ruộng
đất có điều kiện kém thuận lợi mới đủ cung
cấp nông sản duy trì đời sống xã hội.