Professional Documents
Culture Documents
Quảng Nam
Quảng Nam
Phố cổ Hội An hay Hoài Phố - là một khu vực phố cổ trong thành
phố Hội An, được xây từ thế kỷ 16 và vẫn còn tồn tại gần như nguyên vẹn
đến nay. Phố cổ Hội An được công nhận là một di sản thế giới UNESCO từ
năm 1999.
Cách thành phố Đà Nẵng 30km về phía Nam, phố cổ Hội An in mình
duyên dáng bên dòng sông Hoài xanh biếc. Đã hơn 400 năm từ ngày hình
thành, vượt qua biết bao thử thách của bom đạn chiến tranh, vượt qua sức tàn
phá khốc liệt của tự nhiên, đặt biệt là vượt qua chính xu thế hiệ đại hóa kiến
trúc của con người, phố Hội vẫn hiện tồn tại gần như nguyên vẹn, mang đậm
nét cổ xua cả về không gian phố thị, kiểu dáng kiến trúc lẫn lối sống truyền
thống, các lễ hội văn hóa dân gian độc đáo.
Hội An trước mắt du khách với những đường phố chật hẹp đan xen
kiểu bàn cờ, nhà cửa cao một hai tầng san sát bên lối đi, những mái ngói
rêu phong cổ kính và cuộc sống cho đến hôm nay vân bình lặng êm ả trôi
xuôi.
Khu di tích đô thị cổ nằm ở phía Nam thành phố Hội An. Phố Lê Lợi
hiện nay được xây dựng đầu tiên, sau người Nhật mới xây tiếp những dãy phố
này là đường Trần Phú còn gọi là phố cầu Nhật Bản. Đến giữa thế kỉ 17, người
Hoa sang xây dựng phố Quảng Đông tức phố Nguyễn Thái Học hiện nay. Tiếp
đến các phố Phan Chu Trinh, Trần Quý Cáp, Nguyễn Thị Minh Khai và một
phố ven sông ở Hội An. Những phố trên đây với sông rạch, cầu đường, đình,
hội quán, miếu đền , nhà ở,… lưu dấu một tổng thể không gian đô thị cổ xưa
gần như nguyên vẹn.
Về mặt kiến trúc ở Hội An, nhà cửa mang đậm nét dáng vẻ truyền thống
ở các đô thị cổ ở nước ta, đó là kiểu nhà gỗ hình ống, dài 40- 60m thông suốt
hai mặt phố, nội dung và hình thức kiến trúc rất đặc sắc đã tồn tại trên 200
năm.Phần lớn nhà ở có mặt tiền tiếp giáp với đường phố để buôn bán, mặt Nam
hướng về bến sông có cầu cảng riêng, vẻ đẹp không kém phần hấp dẫn dành
làm nơi chứa hàng hóa và các công trình phụ. Khu ở, khu sinh hoạt và thờ gia
tiên đặt ở giữa kế với với sân trời sáng sủa và thông thoáng. Cạnh sân nhà có
cầu nối các gian nhà với nhau để đi lại không bị mưa nắng. Trong khu ở thường
được chú ý trang trí làm đẹp không gian. Trên các kết cấu kiến trúc được chạm
trổ rất tinh xảo về các đề tài hoa lá chim muông,…
Các di tích tiêu biểu trong đô thị cổ Hội An gồm có: Chùa Cầu, nhà cổ
Tấn Ký, nhà cổ Phùng Hưng, Hội Quán Phúc Kiến, Hội Quán Quảng Đông,
chùa Ông, Quan Âm Phật tự Minh Hương, đêm rằm phố cổ, ẩm thực phố cổ,…
Chùa Cầu
Chùa Cầu là ngôi chùa nằm trên chiếc cầu trong đô thị cổ Hội An,
tỉnh Quảng Nam. Chiếc cầu này được các thương nhân người Nhật Bản
xây dựng vào khoảng thế kỉ 17, nên đôi khi người ta còn gọi là cầu Nhật
Bản. Theo truyền thuyết ngôi chùa này được coi như một thanh kiếm đâm
xuống lưng con quái vật mamazu, khiến nó không quẫy đuôi, gây ra những trận
động đất ở Nhật vì họ cho rằng đầu con quái vật nằm ở Ấn Độ, lưng ở Việt
Nam và đuôi ở Nhật Bản. Mỗi lần nó quẫy đuôi là nó gây ra những trận động
đất kinh hoàng ở Nhật Bản. Năm 1653, người ta dựng thêm phần chùa, nối liền
vào lan can phía Bắc, nho ra giữa cầu, từ đó người dân địa phương gọi là chùa
Cầu. Năm 1719, chúa Nguyễn Phúc Chu thăm Hội An, đã đặt tên cho chiếc cầu
này là “ Lai Viễn kiều”, với ý nghĩa là “bạn phương xa đến”. Theo niên đại
được ghi lại ở xà nóc và văn bia còn lại ở đầu cầu thì chiếc cầu đã được dựng
lại vào năm 1817. Ngôi chùa óc lẽ cũng được dựng lại vào thời gian này.
Chiếc cầu dài khoảng 18m, có mái che, vắt cong qua lạch nước chảy
ra sông Thu Bồn giáp ranh giữa hai đường Nguyễn Thị Minh Khai và
Trần Phú. Chùa Cầu là một trong những di tích óc kiến trúc khá đặt biệt, mái
chùa lợp ngói âm dương che kín cả cây cầu. Trên cửa chính của chùa Cầu có
một tấm biển lớn chạm nổi ba chữ Hán là “Lai Viễn kiều”. Chùa và cầu đều
bằng gỗ sơn son chạm trổ rất công phu, mặt chùa quay về phía bờ sông. Hai
đầu cầu có tượng thú bằng gỗ đứng chầu, một đầu là tượng chó, một đầu là
tượng khỉ (có lẽ được xuất phát từ ý nghĩa cây cầu được xây dựng từ năm
Thân, hoàn thành năm Tuất). Tương truyền đó là những con vật mà người sùng
bái thờ tự từ cổ xưa. Tuy gọi là chùa nhưng bên trong không có tượng Phật.
Phần gian chính giữa thờ một tượng gỗ Bắc Đế Trấn Vũ, vị thần bảo hộ xứ sở,
ban niefm vui hạnh phúc cho mọi người, thể hiện khát vọng thiêng liêng mà
con người muốn gửi gắm cùng trời đất nhằm cầu mong mọi điều tốt lành. Chùa
Cầu mang tính chất một ngôi chùa Hoa kiều. Ở miền Nam Việt Nam thường có
các ngôi chùa Hoa, thực chất là đền thờ các vị thần hay nữ thần.
Chùa Cầu là tài sản vô giá và đã được chính thức chọn làm biểu tượng
của đô thị cổ Hội An. Hình Chùa Cầu được in trên tờ giấy bạc polymer 20.000đ
của Ngân hàng Nhà nước Việt nam.
Nhà cổ Tấn Ký
Một điều dễ thấy là tất cả các ngôi nhà cổ ở Hội An đều hình ống và
lấy bộ sườn nhà làm cơ sở chịu lực. Bộ sườn ấy được cấu thành bằng sự liên
kết các vì kèo. Việc liên kết ấy được thực hiện bởi các thanh xà, đó có thể là sự
liên kết bằng những thanh dầm dọc gọi là kèo, kẻ hoặc là liên kết bằng các
thanh dầm ngắn xếp theo chiều ngang gọi là con rường. Nhà cổ Tấn Ký gồm
nhiều nếp nối với nhau, nếp thứ nhất có 6 hàng cột tạo thành 3 gian nhà, 2
gian hai bên và gian giữa. Xuất xứ của những tảng đá tròn nằm bên dưới
những cây cột kia được chở về từ Thanh Hóa, chỉ có loại đá chắc khỏe này mới
giúp cho những thanh cột tránh được mục ruỗng, điều đó cũng lý giải vì sao đã
mấy trăm năm nay, ngôi nhà cổ này vẫn còn như nguyên trạng.
Còn các cột hiên hình vuông này lắp ghép với các thanh gỗ đây tạo
thành mảng tường mặt tiền vừa giữ chức năng che chắn mưa gió cho ngôi nhà
vừa làm cho ngôi nhà kín đáo hơn. Còn mí cửa gắn 2 con mắt kia là "hình xoáy
âm dương lá đề", đôi mắt của ngôi nhà cũng giống như đôi mắt của con người
vậy, nó là thần thái của ngôi nhà cổ, là niềm mong ước thương mãi phát đạt và
đầm ấm đời sống gia đình". Vì nóc ngôi nhà chia làm hai phần. Vì nóc sát hiên
được kiến trúc theo kiểu "cột trốn kẻ chuyền" (các cột được "trốn" bằng cách
"mọc" lên từ các thanh xà ngang) gồm 3 hàng cột cộng với hàng cột hiên. Rồi
kế tiếp hàng cột thứ 4 và thứ 5, kiến trúc theo kiểu "chồng rường giả thủ" (các
rường cột chồng lên nhau giống như bàn tay 5 ngón) được chạm trổ tinh vi.
Hàng cột thứ 5 và thứ 6 có kết cấu vì vỏ cua cong vồng lên in hệt vỏ cua vậy.
Nếp thứ hai chạy dọc theo sân trời (vì rằng những ngôi nhà hình ống ở
Hội An chung tường với nhau và ít có cửa sổ, để thông thoáng cũng như tuân
theo triết lí Tam Tài của người phương Đông, chủ nhân những ngôi nhà này để
một gian chính giữa đón lấy bầu trời gọi là sân trời) gồm hai tầng kết cấu và
cũng theo lối "chồng rường giả thủ" quen thuộc nhưng nhỏ hơn, 2 cột vuông
đứng trên tảng đá vuông với các tai cột chạm khắc hình con sóc, hòm thư, quả
lựu, quả phật thủ, con dơi.
Có thể nói thêm rằng các hình chạm khắc này đều có ý nghĩa biểu
trưng của nó như con dơi là biểu trưng về hạnh phúc; hòm thư: Học hành;
quả lựu: Thật nhiều con cái. Đi hết nếp 2, nếp 3 lại xoay ngang gồm 4 hàng
cột ăn thông lên mái. Mái lợp ngói âm dương rất dày nên thoáng mát về mùa
hè, ấm áp vào mùa đông.
Nhà cổ Phùng Hưng
Từ nhà cổ Tấn Ký, ngôi nhà số 101 phố Nguyễn Thái Học, rẽ lên
chùa Cầu, đầu phố bên kia ngôi chùa cổ, số 4 phố Nguyễn Thị Minh Khai
là nhà cổ Phùng Hưng. Cũng như những ngôi nhà cổ khác ở Hội An, nhà cổ
Phùng Hưng hình ống gồm 2 tầng, với 3 nếp nhà. Từ cửa chính ngôi nhà đi vào
thấy 5 hàng cột chia ngôi nhà thành 3 gian, gian giữa rộng hơn có cửa chính
nhìn thông xuống bếp, các cây cột hình tròn đứng trên tảng đá hoa sen. Hàng
cột ngoài hiên lại có hình vuông đứng trên tảng đá hình vuông liên kết với nhau
bằng các vì vỏ cua chạm hình 2 con cá chép. Cửa gỗ thượng song hạ bản rất
tiện lợi cho việc che chắn mưa gió vào mùa đông và thông mát cho mùa hè. Vì
nóc chính làm theo kiểu cột trốn kẻ chuyền quen thuộc.
Nếp 2 của ngôi nhà cũng 2 tầng 3 gian nhưng chạy dọc ôm lấy phần sân
trời với 4 cột tròn đứng trên tảng đá tròn nối với nếp 1 và nếp 3 như một hành
lang. Nếp 3 cũng có vì nóc tương tự. Cầu thang lên tầng 2 đặt ở nếp này.
Có thể thấy, bMật mía mềm, tiết ra chất chua và đây là nguồn thức ăn
không bao giờ vơi cạn của cỏ, rêu và… cây xanh trên các mái phố trầm mặc
Hội An.Về mùa hè, trên các mái phố có màu thâm hơn vì cỏ đã ẩn mình vào
ngói, và… chúng kiên nhẫn đợi cho đến những ngày mưa nối nhau mới mạnh
dạn bò ra xanh lên.
Hội Quán Phúc Kiến
Tương truyền, tiền thân của Hội quán là một gian miếu nhỏ thờ pho
tượng Thiên Hậu Thánh Mẫu (bà chúa phù hộ cho thương nhân vượt sóng
gió đại dương) vớt được tại bờ biển Hội An vào năm 1697. Qua nhiều lần
trùng tu, với sự đóng góp chủ yếu của Hoa kiều bang Phúc Kiến, hội quán càng
trở nên rực rỡ, khang trang góp phần tô điểm diện mạo kiến trúc đô thị cổ Hội
An. Thông qua cách bài trí thờ phụng các hình nhân: 6 vị tiền hiền (lục tánh),
bà mụ, thần tài ... hội quán thể hiện sâu sắc triết lý Á Đông về hạnh phúc con
người.
Hàng năm, vào các ngày Nguyên Tiêu (15 tháng Giêng âm lịch), Vía
Lục Tánh (16 tháng 2 âm lịch), vía Thiên Hậu (23 tháng 3 âm lịch) ... tại
hội quán Phúc Kiến diễn ra nhiều hoạt động lễ hội thu hút rất nhiều du
khách trong và ngoài nước đến tham gia. Hội quán Phúc Kiến đã được cấp
bằng di tích lịch sử - văn hoá quốc gia ngày 17 tháng 2 năm 1990.
Hội Quán Quảng Đông
Hội quán được Hoa kiều bang Quảng Đông xây dựng vào năm 1885,
thoạt đầu để thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu và đức Khổng Tử, sau năm 1911
chuyển sang thờ Quan Công và Tiền Hiền của bang.
Với nghệ thuật sử dụng hài hoà các chất liệu gỗ, đá trong kết cấu chịu
lực và hoạ tiết trang trí đã đem lại cho hội quán vẻ đẹp đường bệ, riêng có.
Hàng năm, vào ngày Nguyên Tiêu (15 tháng Giêng Âm lịch), vía Quan Công
(24 tháng 6 Âm lịch) tại đây diễn ra lễ hội rất linh đình, thu hút nhiều người
tham gia.
Chùa Ông
Chùa Ông được xây dựng năm 1653, đã qua 6 lần trùng tu vào các năm:
1753, 1783, 1827, 1864, 1904, 1906. Chùa Ông có kiến trúc uy nghi, hoành
tráng, tại đây thờ tượng Quan Vân Trường (một biểu tượng về trung - tín
- tiết - nghĩa) nên còn có tên gọi là Quan Công Miếu. Chùa Ông đã từng là
trung tâm tín ngưỡng của Quảng Nam xưa, đồng thời cũng là nơi các thương
nhân thường lưu đến để cam kết trong việc vay nợ, buôn bán, làm ăn và xin
xăm cầu may.
Quan Âm Phật tự Minh Hương
Đây là ngôi chùa thờ Phật duy nhất còn lại giữa khu phố cổ, có kiến
trúc và cảnh quan xinh đẹp đồng thời còn lưu giữ gần như nguyên vẹn các
tác phẩm điêu khắc gỗ đặc sản do các nghệ nhân làng mộc Kim Bồng thực
hiện. Chùa thờ Quan Thế Âm Bồ Tát và một số chư vị Phật, Bồ Tát khác, vì
vậy trong những ngày lễ, ngày rằm thường có rất nhiều người đến.