Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 20

BỘ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TỔNG CỤC THỐNG KÊ Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Số: 165/BC-TCTK Hà Nội, ngày 28 tháng 10 năm 2019

BÁO CÁO
TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI
THÁNG 10 VÀ 10 THÁNG NĂM 2019

1. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản


Sản xuất nông nghiệp trong tháng tập trung vào chăm sóc, thu hoạch lúa
mùa, lúa thu đông trên cả nước và gieo trồng cây màu vụ đông ở phía Bắc.
Mặc dù năng suất thu hoạch lúa tăng so với cùng kỳ năm trước nhưng do diện
tích gieo cấy giảm nên sản lượng lúa ước tính năm nay sẽ giảm. Chăn nuôi bò
và gia cầm phát triển tốt, dịch tả lợn châu Phi tại nhiều địa phương được kiểm
soát. Ngành thủy sản tiếp tục giữ đà tăng về sản lượng nuôi trồng và khai thác.
a) Nông nghiệp
Vụ lúa mùa năm 2019 cả nước gieo cấy được 1.621,9 nghìn ha, bằng 96,4%
vụ mùa năm trước, trong đó các địa phương phía Bắc đạt 1.075,9 nghìn ha, bằng
97,4% (giảm 28,3 nghìn ha); các địa phương phía Nam đạt 546 nghìn ha, bằng
94,3% (giảm 33,1 nghìn ha). Diện tích gieo cấy lúa vụ mùa năm nay giảm do các
địa phương phía Bắc chuyển đổi mục đích sử dụng đất, chuyển đổi cơ cấu sản
xuất, thiếu lao động nông nghiệp và do ảnh hưởng bởi các đợt nắng nóng kéo dài
làm thiếu nước tưới; ở phía Nam, thời tiết nắng nóng gây khô hạn ở một số địa
phương, chuyển đổi cơ cấu mùa vụ từ lúa mùa sang lúa đông xuân tại Cà Mau, đất
nhiễm mặn là những nguyên nhân chính làm giảm diện tích lúa mùa chung toàn
miền.
Tiến độ thu hoạch lúa mùa năm 2019 nhanh hơn cùng kỳ năm trước do
được gieo trồng sớm. Tính đến trung tuần tháng Mười, cả nước thu hoạch được
888,7 nghìn ha, chiếm 54,8% diện tích gieo cấy và bằng 101,7% cùng kỳ năm
trước. Trong đó các địa phương phía Bắc thu hoạch được 711,1 nghìn ha,
chiếm 66,1% diện tích gieo cấy và bằng 101,2%; các địa phương phía Nam thu
hoạch được 177,6 nghìn ha, chiếm 32,5% diện tích gieo cấy và bằng 103,7%.
Mặc dù thời tiết trong vụ nắng nóng hơn so với trung bình nhiều năm nhưng do
có mưa xen kẽ nên nguồn nước được bảo đảm, nông dân tích cực chăm bón, lúa
sinh trưởng và phát triển tốt, đồng thời các địa phương tích cực chuyển đổi cơ
2

cấu cây trồng, sử dụng giống lúa chất lượng, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản
xuất, kịp thời phòng trừ dịch bệnh trên cây trồng nên ước tính năng suất lúa
mùa năm nay đạt 49,9 tạ/ha, tăng 0,8 tạ/ha so với năm trước. Tuy nhiên, do
diện tích gieo trồng giảm nên sản lượng lúa mùa năm nay ước tính đạt 8,09
triệu tấn, giảm 176,6 nghìn tấn so với vụ mùa trước.
Cùng với chăm sóc và thu hoạch lúa mùa, các địa phương trên cả nước đã
cơ bản kết thúc sản xuất lúa hè thu với diện tích gieo trồng đạt 2.009,3 nghìn
ha, giảm 43,7 nghìn ha so với vụ hè thu năm 2018 1, trong đó một số địa phương
có diện tích lúa hè thu giảm nhiều: Kiên Giang giảm 14,4 nghìn ha do chuyển
đổi cơ cấu mùa vụ từ hè thu sang vụ thu đông; Tiền Giang giảm 11,9 nghìn ha;
Bình Thuận giảm 4,7 nghìn ha; Đồng Tháp giảm 2,3 nghìn ha. Tính đến giữa
tháng Mười, cả nước đã thu hoạch được 2.004,2 nghìn ha lúa hè thu, bằng
97,6% vụ hè thu năm trước, trong đó vùng Đồng bằng sông Cửu Long thu
hoạch 1.565,7 nghìn ha, bằng 97,6%. Theo báo cáo của các địa phương, năng
suất lúa hè thu cả nước năm nay ước tính đạt 54,8 tạ/ha, tăng 0,2 tạ/ha so với vụ
hè thu trước nhưng do diện tích gieo cấy giảm nên sản lượng chung toàn vụ hè
thu năm 2019 đạt 11,01 triệu tấn, giảm 197 nghìn tấn, trong đó vùng Đồng bằng
sông Cửu Long đạt 8,7 triệu tấn, giảm 96,6 nghìn tấn.
Tính đến giữa tháng Mười, vùng Đồng bằng sông Cửu Long gieo cấy
được 713,2 nghìn ha lúa thu đông, bằng 98% cùng kỳ năm trước. Tiến độ sản
xuất vụ lúa thu đông năm nay chậm hơn cùng kỳ năm trước do một số địa
phương dừng sản xuất để xả lũ tạo phù sa cho đất, chuyển đổi mùa vụ và cơ cấu
cây trồng. Đến nay, toàn vùng đã thu hoạch 277,1 nghìn ha, chiếm 38,9% diện
tích gieo cấy và bằng 113% cùng kỳ năm trước; năng suất ước tính đạt 54,4
tạ/hạ, tăng 0,2 tạ/ha. Diện tích lúa còn lại hiện nay chủ yếu ở giai đoạn chắc
xanh đến chín, sinh trưởng và phát triển khá tốt.
Tính đến thời điểm 15/10/2019, cả nước gieo trồng được 74,9 nghìn ha
ngô, bằng 101,6% cùng kỳ năm trước; 11,8 nghìn ha khoai lang, bằng 99,2%;
4,4 nghìn ha đậu tương, bằng 91,7%; 7,3 nghìn ha lạc, bằng 101,4%; 80,4 nghìn
ha rau, đậu, bằng 103,9%.
Tình hình chăn nuôi trâu, bò trên cả nước trong tháng Mười nhìn chung ổn
định. Đàn trâu ước tính tiếp tục giảm 3,1% so với cùng thời điểm năm trước do
hiệu quả kinh tế không cao và diện tích chăn thả bị thu hẹp; đàn bò trong tháng
ước tính tăng 2,4%. Chăn nuôi gia cầm tăng khá 11,5% so với cùng thời điểm

1
Do các địa phương tiếp tục chuyển đổi mục đích sử dụng đất, cơ cấu cây trồng và mùa vụ: 2,4 nghìn ha
chuyển sang đất phi nông nghiệp để xây dựng các công trình thủy lợi, cơ sở hạ tầng; 6,2 nghìn ha chuyển
sang trồng cây hằng năm khác; 14,5 nghìn ha chuyển sang trồng cây lâu năm; 3,3 nghìn ha chuyển sang nuôi
trồng thủy sản; 7,4 nghìn ha diện tích không sản xuất do ảnh hưởng của nắng nóng, khô hạn; số còn lại giảm
do ngừng sản xuất để cải tạo đất hoặc chuyển đổi mùa vụ.
3

năm trước do nhiều hộ chăn nuôi chuyển hướng từ nuôi lợn sang nuôi gia cầm
và các cơ sở chăn nuôi chủ động tăng đàn gia cầm trước tình hình dịch bệnh ở
lợn. Tuy nhiên, người nuôi cần theo dõi sát tình hình thị trường, tránh tình trạng
tăng đàn ồ ạt dẫn đến cung vượt quá cầu, giá bán giảm sâu gây thua lỗ. Đàn lợn
cả nước tháng 10/2019 giảm mạnh 20% so với cùng thời điểm năm trước do
chịu ảnh hưởng của dịch tả lợn châu Phi, nguồn cung giảm là yếu tố chủ yếu
khiến giá thịt lợn hơi trên thị trường gia tăng. Tính đến ngày 22/10/2019, dịch
tả lợn châu Phi đã xảy ra tại 8.296 xã thuộc 660 huyện của 63 tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương với tổng số lợn tiêu hủy gần 5,7 triệu con, tương đương
với tổng trọng lượng hơn 327 nghìn tấn, trong đó có 3.681 xã thuộc 412 huyện
của 56 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương dịch bệnh đã qua 30 ngày. Tính
đến ngày 23/10/2019, cả nước không còn dịch lở mồm, long móng và dịch tai
xanh trên lợn; dịch cúm gia cầm còn ở An Giang, Kon Tum.
b) Lâm nghiệp
Trong tháng Mười, diện tích rừng trồng tập trung ước tính đạt 29 nghìn ha,
giảm 3,3% so với cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 7,2
triệu cây, tăng 1,3%; sản lượng gỗ khai thác đạt 1.539 nghìn m 3, tăng 5,4%; sản
lượng củi khai thác đạt 1,6 triệu ste, bằng cùng kỳ năm trước. Sản lượng gỗ
tăng cao ở một số tỉnh có nguồn nguyên liệu lớn đang trong mùa khai thác như:
Quảng Ngãi đạt 140,1 nghìn m 3, tăng 20,7% so với cùng kỳ năm trước; Nghệ
An đạt 104,4 nghìn m3, tăng 17%; Quảng Trị đạt 64,6 nghìn m 3, tăng 16,4%;
Bắc Kạn đạt 18 nghìn m3, tăng 23,3%; Bắc Giang đạt 64,3 nghìn m3, tăng 8,3%.
Tính chung 10 tháng, diện tích rừng trồng tập trung ước tính đạt 206,7
nghìn ha, giảm 4,6% so với cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân
tán đạt 67,9 triệu cây, giảm 2,4%; sản lượng gỗ khai thác đạt gần 13 triệu m3,
tăng 4,6%; sản lượng củi khai thác đạt 15,6 triệu ste, giảm 1,4%.
Diện tích rừng bị thiệt hại trong tháng Mười là 55,7 ha, tăng 49,3% so với
cùng kỳ năm trước, trong đó diện tích rừng bị cháy là 1,7 ha, giảm 63,9% do
thời tiết dịu mát và có mưa; diện tích rừng bị chặt, phá là 54 ha, tăng 65,4%.
Tính chung 10 tháng, diện tích rừng bị thiệt hại là 3,2 nghìn ha, gấp 3 lần cùng
kỳ năm trước, trong đó diện tích rừng bị cháy là 2,7 nghìn ha, gấp gần 5 lần;
diện tích rừng bị chặt, phá là 517 ha, tăng 2%.
c) Thủy sản
Trong tháng Mười, sản lượng thủy sản cả nước ước tính đạt 733,8 nghìn
tấn, tăng 5,4% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm cá đạt 527,3 nghìn tấn, tăng
4,9%; tôm đạt 108,4 nghìn tấn, tăng 9,6%; thủy sản khác đạt 98,1 nghìn tấn, tăng
3,6%.
4

Sản lượng thủy sản nuôi trồng trong tháng ước tính đạt 427,4 nghìn tấn,
tăng 6,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá đạt 291 nghìn tấn, tăng 5,5%;
tôm đạt 95,7 nghìn tấn, tăng 11,1%. Nuôi cá tra tiếp tục đạt khá, sản lượng cá tra
tháng Mười ước tính đạt 142,3 nghìn tấn, tăng 7,3% so với cùng kỳ năm trước,
trong đó Đồng Tháp đạt 44,8 nghìn tấn, tăng 4,9%; An Giang đạt 43,2 nghìn tấn,
tăng 12,4%; Cần Thơ đạt 15,3 nghìn tấn, tăng 11,3%. Tuy nhiên, hiện nay xuất
khẩu cá tra sang một số thị trường lớn như Trung Quốc, Mỹ, EU… giảm làm
nguồn cung dư thừa nên giá cá tra vẫn ở mức thấp hơn giá thành sản xuất. Thời
tiết trong tháng thuận lợi cho tôm nuôi phát triển, tôm thẻ chân trắng đạt sản
lượng cao, giá ổn định, trong khi tôm sú tiếp tục xu hướng giảm. Sản lượng tôm
thẻ chân trắng tháng Mười ước tính đạt 67,6 nghìn tấn, tăng 17,6% so với cùng
kỳ năm trước, trong đó Cà Mau đạt 9,3 nghìn tấn, tăng 19,2%; Sóc Trăng đạt
26,5 nghìn tấn, tăng 37,6%; Bến Tre đạt 9,1 nghìn tấn, tăng 12,9%. Sản lượng
tôm sú tháng 10/2019 ước tính đạt 22,2 nghìn tấn, giảm 4,1% so với cùng kỳ
năm trước.
Sản lượng thủy sản khai thác tháng Mười ước tính đạt 306,4 nghìn tấn,
tăng 3,6% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm cá đạt 236,3 nghìn tấn; tăng
4,1%; tôm đạt 12,7 nghìn tấn, giảm 0,8%; thủy sản khác đạt 57,4 nghìn tấn,
tăng 2,5%. Tháng Mười là thời điểm cuối vụ cá Nam, thời tiết biển thuận lợi
tạo điều kiện cho ngư dân bám biển, sản lượng thủy sản khai thác biển trong
tháng ước tính đạt 286 nghìn tấn, tăng 4,1% so với cùng kỳ năm trước.
Tính chung 10 tháng năm 2019, sản lượng thủy sản ước tính đạt 6.698,7
nghìn tấn, tăng 5,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó sản lượng thủy sản
nuôi trồng đạt 3.541,4 nghìn tấn, tăng 6,2%; sản lượng thủy sản khai thác đạt
3.157,3 nghìn tấn, tăng 4,4% (sản lượng khai thác biển đạt 2.991,7 nghìn tấn,
tăng 4,7%).
2. Sản xuất công nghiệp
Sản xuất công nghiệp 10 tháng năm 2019 đạt mức tăng khá 9,5% so với
cùng kỳ năm trước, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 10,8%, ngành
khai khoáng tăng nhẹ nhờ khai thác than tăng cao, bù đắp cho sự sụt giảm của
khai thác dầu thô; sản xuất và phân phối điện bảo đảm cung cấp đủ điện cho
sản xuất và tiêu dùng của nhân dân.
Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) tháng 10/2019 ước tính tăng
2,7% so với tháng trước và tăng 9,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó
ngành khai khoáng giảm nhẹ 0,2%; chế biến, chế tạo tăng khá 10,8%; sản xuất
và phân phối điện tăng 8,1%; cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng
6,9%.
5

Tính chung 10 tháng năm 2019, IIP ước tính tăng 9,5% so với cùng kỳ
năm trước, thấp hơn mức tăng 10,3% của cùng kỳ năm 2018. Trong đó, ngành
khai khoáng tăng 1,2% (cùng kỳ năm trước giảm 2,3%), đóng góp 0,2 điểm
phần trăm vào mức tăng chung; ngành chế biến, chế tạo tăng 10,8% (cùng kỳ
năm trước tăng 12,5%), đóng góp 8,3 điểm phần trăm; ngành sản xuất và phân
phối điện tăng 9,9%, đóng góp 0,9 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước và xử
lý rác thải, nước thải tăng 7,2%, đóng góp 0,1 điểm phần trăm.
Trong các ngành công nghiệp cấp II, một số ngành có chỉ số sản xuất 10
tháng tăng cao so với cùng kỳ năm trước, đóng góp chủ yếu vào mức tăng
chung của toàn ngành công nghiệp: Sản xuất kim loại tăng 34,3%; sản xuất
than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế tăng 31,8%; khai thác quặng kim loại tăng
20,7%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 14,3%; in, sao chép bản ghi
các loại tăng 12,3%; khai thác than cứng và than non tăng 12,2%; sản xuất giấy
và sản phẩm từ giấy tăng 11,4%; dệt tăng 11,2%; sản xuất giường, tủ, bàn ghế
tăng 10,9%. Một số ngành có mức tăng thấp hoặc giảm: Sản xuất sản phẩm
điện tử, máy tính và sản phẩm quang học tăng 7,5% (cùng kỳ năm trước tăng
12,4%); sản xuất thuốc lá tăng 3,7%; hoạt động dịch vụ hỗ trợ khai thác mỏ và
quặng tăng 2,7%; khai khoáng khác (đá, cát, sỏi...) tăng 1,8%; sửa chữa, bảo
dưỡng và lắp đặt máy móc, thiết bị giảm 0,3%; khai thác dầu thô và khí đốt tự
nhiên giảm 2,5% (khai thác dầu thô giảm 7,2%, khai thác khí đốt tự nhiên tăng
1,9%); sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu giảm 3,4%; sản xuất mô tô, xe
máy giảm 6,3%.
Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu 10 tháng năm nay tăng cao so với
cùng kỳ năm trước: Sắt, thép thô tăng 42,8%; xăng, dầu tăng 33,2%; thép
thanh, thép góc tăng 17,7%; tivi tăng 16,4%; vải dệt từ sợi nhân tạo tăng
13,3%; điện thoại di động tăng 13% (điện thoại thông minh tăng 16%); thức ăn
cho thủy sản tăng 12,6%; sơn hóa học tăng 12,1%; than sạch tăng 10,5%; vải
dệt từ sợi tự nhiên tăng 10,2%; bia tăng 10,1%; điện sản xuất tăng 9,8%. Một
số sản phẩm tăng thấp hoặc giảm: Khí đốt thiên nhiên dạng khí tăng 1,9%; sữa
bột tăng 1,3%; thức ăn cho gia súc giảm 0,4%; phân hỗn hợp NPK giảm 0,5%;
phân u rê giảm 0,8%; dầu thô khai thác giảm 7,2%; xe máy giảm 9,5%; linh
kiện điện thoại giảm 11%; đường kính giảm 14%.
Số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp tại thời
điểm 1/10/2019 tăng 1,3% so với cùng thời điểm tháng trước và tăng 2% so với
cùng thời điểm năm trước, trong đó lao động khu vực doanh nghiệp Nhà nước
giảm 1,9%; doanh nghiệp ngoài Nhà nước tăng 0,6%; doanh nghiệp có vốn đầu
tư trực tiếp nước ngoài tăng 3,4%. Tại thời điểm trên, số lao động đang làm
việc trong các doanh nghiệp ngành khai khoáng giảm 1,5% so với cùng thời
điểm năm trước; ngành chế biến, chế tạo tăng 2,1%; ngành sản xuất và phân
phối điện tăng 3,7%; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng
1,6%.
6

3. Tình hình đăng ký doanh nghiệp2


Trong tháng Mười, số lượng doanh nghiệp thành lập mới đạt mức cao với
hơn 12 nghìn doanh nghiệp, đặc biệt số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động
tăng mạnh, gấp 3 lần tháng trước và tăng 109,9% so với cùng kỳ năm trước.
Tính chung 10 tháng năm nay, tổng số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới và
quay trở lại hoạt động đạt hơn 149 nghìn doanh nghiệp, tăng 8,6% so với cùng
kỳ năm 2018.
Trong tháng 10/2019, cả nước có 12.182 doanh nghiệp thành lập mới với
số vốn đăng ký là 143,6 nghìn tỷ đồng và tổng số lao động đăng ký là 94,7
nghìn lao động, tăng 3,4% về số doanh nghiệp, tăng 2,5% về vốn đăng ký và
giảm 3% về số lao động so với tháng 9/2019 3. Vốn đăng ký bình quân một
doanh nghiệp thành lập mới trong tháng đạt 11,8 tỷ đồng, giảm 0,9% so với
tháng trước và tăng 0,5% so với cùng kỳ năm trước. Trong tháng, cả nước còn
có 7.247 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, gấp 3 lần tháng trước và tăng
109,9% so với cùng kỳ năm trước; 2.086 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng
kinh doanh có thời hạn, tăng 37,1% và tăng 9,2%; 5.012 doanh nghiệp ngừng
hoạt động chờ làm thủ tục giải thể, tăng 84,5% và tăng 97,9%; 1.410 doanh
nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, giảm 7,3% và giảm 20,4%.
Tính chung 10 tháng năm 2019, cả nước có 114,4 nghìn doanh nghiệp
đăng ký thành lập mới với tổng số vốn đăng ký là 1.434,4 nghìn tỷ đồng và
tổng số lao động đăng ký là 1.024,5 nghìn lao động, tăng 4,4% về số doanh
nghiệp, tăng 28,5% về vốn đăng ký và tăng 10,8% về số lao động so với cùng
kỳ năm trước. Vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới trong
10 tháng đạt 12,5 tỷ đồng, tăng 23,1% so với cùng kỳ năm trước. Nếu tính cả
1.893,4 nghìn tỷ đồng vốn đăng ký tăng thêm của 33,1 nghìn doanh nghiệp
thay đổi tăng vốn thì tổng số vốn đăng ký bổ sung vào nền kinh tế trong 10
tháng năm 2019 là 3.327,8 nghìn tỷ đồng. Bên cạnh đó, còn có 34,9 nghìn
doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, tăng 24,8% so với cùng kỳ năm 2018,
nâng tổng số doanh nghiệp thành lập mới và doanh nghiệp quay trở lại hoạt
động trong 10 tháng 2019 lên 149,3 nghìn doanh nghiệp, trung bình mỗi tháng
có hơn 14,9 nghìn doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động.
Theo khu vực kinh tế, trong 10 tháng năm nay có 1,7 nghìn doanh nghiệp
thành lập mới thuộc khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, chiếm 1,5% tổng
số doanh nghiệp thành lập mới; có 30,7 nghìn doanh nghiệp thuộc khu vực
công nghiệp và xây dựng, chiếm 26,8%; có 82 nghìn doanh nghiệp thuộc khu
2
Nguồn: Hệ thống thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia, Cục Quản lý đăng ký kinh doanh, Bộ Kế hoạch
và Đầu tư.
3
So với cùng kỳ năm trước, số doanh nghiệp giảm 6,3%; số vốn đăng ký giảm 5,9%; số lao động đăng ký giảm
9,9%.
7

vực dịch vụ, chiếm 71,7%. Trong đó, đa số các lĩnh vực hoạt động có số doanh
nghiệp thành lập mới tăng so với cùng kỳ năm trước: Có 14,45 nghìn doanh
nghiệp công nghiệp chế biến, chế tạo (chiếm 12,6% tổng số doanh nghiệp
thành lập mới), tăng 6,8%; 14,41 nghìn doanh nghiệp xây dựng (chiếm 12,6%),
tăng 2%; 9,6 nghìn doanh nghiệp khoa học, công nghệ, dịch vụ tư vấn, thiết kế,
quảng cáo và chuyên môn khác (chiếm 8,4%), tăng 15,1%; gần 6,8 nghìn
doanh nghiệp dịch vụ việc làm, du lịch, cho thuê máy móc thiết bị, đồ dùng và
các dịch vụ hỗ trợ khác (chiếm 5,9%), tăng 5,9%; 6,6 nghìn doanh nghiệp kinh
doanh bất động sản (chiếm 5,8%), tăng 15,4%... Có 4 lĩnh vực có số doanh
nghiệp thành lập mới giảm so với cùng kỳ năm trước: Bán buôn, bán lẻ, sửa
chữa ô tô, xe máy có 37,4 nghìn doanh nghiệp (chiếm 32,7% tổng số doanh
nghiệp thành lập mới), giảm 1,8%; dịch vụ lưu trú và ăn uống có 5,5 nghìn
doanh nghiệp (chiếm 4,8%), giảm 3,8%; tài chính, ngân hàng và bảo hiểm có
1,2 nghìn doanh nghiệp (chiếm 1,1%), giảm 21,2%; nghệ thuật vui chơi và giải
trí có 1,1 nghìn doanh nghiệp (chiếm 1%), giảm 0,3%.
Cũng trong 10 tháng năm nay, tất cả các vùng kinh tế đều có số doanh
nghiệp đăng ký thành lập mới tăng so với cùng kỳ năm trước: Vùng Đồng bằng
sông Hồng có 34,7 nghìn doanh nghiệp, tăng 6,5% (vốn đăng ký đạt 426,2
nghìn tỷ đồng, tăng 30,9%); Trung du và miền núi phía Bắc 4,5 nghìn doanh
nghiệp, tăng 1,1% (vốn đăng ký đạt 52,4 nghìn tỷ đồng, tăng 36,7%); Bắc
Trung Bộ và Duyên hải miền Trung 16 nghìn doanh nghiệp, tăng 4% (vốn đăng
ký đạt 150,8 nghìn tỷ đồng, tăng 11,9%); Tây Nguyên 2,9 nghìn doanh nghiệp,
tăng 11,4% (vốn đăng ký đạt 39,5 nghìn tỷ đồng, tăng 116,3%); Đông Nam Bộ
48,5 nghìn doanh nghiệp, tăng 3,6% (vốn đăng ký đạt 675,3 nghìn tỷ đồng, tăng
32,9%); Đồng bằng sông Cửu Long 7,8 nghìn doanh nghiệp, tăng 1% (vốn
đăng ký đạt 90,2 nghìn tỷ đồng, giảm 0,6%).
Số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn trong 10 tháng năm
nay là 26,3 nghìn doanh nghiệp, tăng 7,6% so với cùng kỳ năm trước. Theo lĩnh
vực hoạt động, có 10,2 nghìn doanh nghiệp ngành bán buôn, bán lẻ, sửa chữa ô
tô, xe máy tạm ngừng kinh doanh có thời hạn (chiếm 38,7%), tăng 6,4% so với
cùng kỳ năm trước; có 3,8 nghìn doanh nghiệp xây dựng (chiếm 14,3%), tăng
3,5%; 3,4 nghìn doanh nghiệp công nghiệp chế biến, chế tạo (chiếm 12,8%),
tăng 10,1%; có 1,6 nghìn doanh nghiệp khoa học, công nghệ, dịch vụ tư vấn,
thiết kế, quảng cáo và chuyên môn khác (chiếm 6,1%), tăng 13,1%; có gần 1,6
nghìn doanh nghiệp vận tải, kho bãi (chiếm 6%), tăng 4,2%; có 1,4 nghìn doanh
nghiệp dịch vụ lưu trú và ăn uống (chiếm 5,3%), tăng 3,8%... Trong 10 tháng
còn có 34,5 nghìn doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể, tăng
8

34,8% so với cùng kỳ năm 2018, trong đó có 14,3 nghìn doanh nghiệp bị thu
hồi giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp theo chương trình chuẩn hóa dữ liệu
năm từ năm 2018, chiếm 41,5% tổng số doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ
làm thủ tục giải thể; 11,2 nghìn doanh nghiệp thông báo giải thể, chiếm 32,5%;
gần 9 nghìn doanh nghiệp chờ làm thủ tục giải thể với cơ quan thuế, chiếm
26%.
Số doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể trong 10 tháng năm 2019 là 13,5
nghìn doanh nghiệp, tăng 1,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó có 12,2
nghìn doanh nghiệp có quy mô vốn dưới 10 tỷ đồng (chiếm 90,4% tổng số
doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể), giảm 0,1%. Doanh nghiệp hoàn tất thủ
tục giải thể tập trung chủ yếu ở các lĩnh vực: Bán buôn, bán lẻ, sửa chữa ô tô,
xe máy có 5,5 nghìn doanh nghiệp (chiếm 40,4%), tăng 9,3% so với cùng kỳ
năm trước; công nghiệp chế biến, chế tạo có 1,5 nghìn doanh nghiệp (chiếm
10,9%), giảm 21%; xây dựng có 1,3 nghìn doanh nghiệp (chiếm 9,6%), giảm
17%.
4. Đầu tư
Tình hình thực hiện vốn đầu tư từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước tháng
Mười và 10 tháng năm 2019 mặc dù đã được đẩy mạnh theo chỉ đạo của Thủ
tướng Chính phủ nhưng tỷ lệ thực hiện so với kế hoạch năm 4 và tốc độ tăng so
với cùng kỳ năm trước vẫn đạt mức thấp so với các năm trong giai đoạn 2015-
20195. Trong khi đó, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tiếp tục giữ đà phát triển
với số vốn thực hiện cao nhất trong nhiều năm trở lại đây6.
Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước tháng Mười ước tính
đạt 37 nghìn tỷ đồng, tăng 10% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Vốn Trung
ương 6,7 nghìn tỷ đồng, tăng 7,6%; vốn địa phương 30,3 nghìn tỷ đồng, tăng
10,5%. Tính chung 10 tháng năm nay, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách
Nhà nước đạt 260,4 nghìn tỷ đồng, bằng 69,2% kế hoạch năm và tăng 5,3% so
với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2018 bằng 70,3% và tăng 12,1%), gồm
có:

4
Tỷ lệ vốn đầu tư thực hiện từ nguồn NSNN tháng Mười so với kế hoạch năm giai đoạn 2015-2019 lần lượt
là: 9,8%; 9,5%; 9,4%; 9,6%; 9,8%. Tỷ lệ vốn đầu tư thực hiện từ nguồn NSNN 10 tháng so với kế hoạch năm
giai đoạn 2015-2019 lần lượt là: 82,5%; 75,0%; 71,7%; 70,3%; 69,2%.
5
Tốc độ tăng vốn đầu tư từ nguồn NSNN tháng Mười so với cùng kỳ năm trước: năm 2015 là 13,3%; năm
2016 là 20,5%; năm 2017 là 10,7%; năm 2018 là 16,9%; năm 2019 là 10%. Tốc độ tăng vốn đầu tư từ nguồn
NSNN 10 tháng so với cùng kỳ năm trước: năm 2015 là 8,7%; năm 2016 là 14%; năm 2017 là 7,1%; năm
2018 là 12,1%; năm 2019 là 5,3%.
6
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện các năm 2015-2019 lần lượt là: 11,8 tỷ USD; 12,7 tỷ USD; 14,2 tỷ
USD; 15,1 tỷ USD; 16,2 tỷ USD.
9

- Vốn Trung ương quản lý đạt 36,6 nghìn tỷ đồng, bằng 61,3% kế hoạch
năm và giảm 19,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó Bộ Giao thông Vận tải
đạt 9.739 tỷ đồng, bằng 55,1% và giảm 31,9%; Bộ Y tế 2.976 tỷ đồng, bằng
56,3% và tăng 40,2%; Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn 2.229 tỷ đồng,
bằng 65,6% và giảm 56,0%; Bộ Giáo dục và Đào tạo 851 tỷ đồng, bằng 57,6%
và tăng 7,7%; Bộ Tài nguyên và Môi trường 743 tỷ đồng, bằng 56,6% và giảm
22,8%; Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch 475 tỷ đồng, bằng 63,7% và giảm
5,2%; Bộ Khoa học và Công nghệ 227 tỷ đồng, bằng 70,8% và tăng 36,2%; Bộ
Công Thương 173 tỷ đồng, bằng 70,9% và tăng 3,6%; Bộ Xây dựng 173 tỷ
đồng, bằng 69,2% và giảm 13,8%; Bộ Thông tin và Truyền thông 106 tỷ đồng,
bằng 60,9% và tăng 10,7%.
- Vốn địa phương quản lý đạt 223,8 nghìn tỷ đồng, bằng 70,6% kế hoạch
năm và tăng 10,8% so với cùng kỳ năm 2018, trong đó: Vốn ngân sách Nhà
nước cấp tỉnh đạt 150,8 nghìn tỷ đồng, bằng 67,7% và tăng 7,5%; vốn ngân
sách Nhà nước cấp huyện đạt 61,5 nghìn tỷ đồng, bằng 76,4% và tăng 18,4%;
vốn ngân sách Nhà nước cấp xã đạt 11,5 nghìn tỷ đồng, bằng 85,1% và tăng
18,2%. Vốn thực hiện từ nguồn ngân sách nhà nước 10 tháng năm 2019 của
một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương như sau: Hà Nội đạt 34,8 nghìn
tỷ đồng, bằng 70,3% kế hoạch năm và tăng 22,9% so với cùng kỳ năm trước;
thành phố Hồ Chí Minh 16,7 nghìn tỷ đồng, bằng 45,4% và giảm 11,2%;
Quảng Ninh 8.377 tỷ đồng, bằng 72,5% và tăng 8,9%; Hải Phòng 7.888 tỷ
đồng, bằng 87,0% và tăng 1,1%; Bình Dương 7.320 tỷ đồng, bằng 60,3% và
tăng 23,6%; Thanh Hóa 6.268 tỷ đồng, bằng 80,3% và tăng 22,9%; Bà Rịa -
Vũng Tàu 5.427 tỷ đồng, bằng 82,3% và tăng 2,9%; Đồng Nai 5.413 tỷ đồng,
bằng 81% và tăng 5,1%; Quảng Nam 5.271 tỷ đồng, bằng 71% và tăng 29%.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài từ đầu năm đến thời điểm 20/10/2019 thu hút
3.094 dự án cấp phép mới với số vốn đăng ký đạt 12.833,8 triệu USD, tăng
25,9% về số dự án và giảm 14,6% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2018.
Bên cạnh đó, có 1.145 lượt dự án đã cấp phép từ các năm trước đăng ký điều
chỉnh vốn đầu tư so với số vốn tăng thêm đạt 5.468,6 triệu USD, giảm 16,4%
so với cùng kỳ năm trước. Như vậy, tổng số vốn đăng ký cấp mới và vốn tăng
thêm trong 10 tháng năm nay đạt 18.302,4 triệu USD, giảm 15,2% so với cùng
kỳ năm 2018. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện 10 tháng ước tính đạt
16,2 tỷ USD, tăng 7,4% so với cùng kỳ năm trước. Trong 10 tháng còn có
7.509 lượt góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài với tổng giá trị góp
vốn là 10,8 tỷ USD, tăng 70,5% so với cùng kỳ năm 2018, trong đó có 1.673
lượt góp vốn, mua cổ phần làm tăng vốn điều lệ của doanh nghiệp với giá trị
10

vốn góp là hơn 6,5 tỷ USD và 5.836 lượt nhà đầu tư nước ngoài mua lại cổ
phần trong nước mà không làm tăng vốn điều lệ với giá trị gần 4,3 tỷ USD.
Trong 10 tháng năm nay, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo thu hút đầu
tư trực tiếp nước ngoài lớn nhất với số vốn đăng ký của các dự án được cấp
phép mới đạt 9.132,5 triệu USD, chiếm 71,2% tổng vốn đăng ký cấp mới;
ngành hoạt động kinh doanh bất động sản đạt 1.281,8 triệu USD, chiếm 10%;
các ngành còn lại đạt 2.419,5 triệu USD, chiếm 18,8%. Nếu tính cả vốn đăng
ký bổ sung của các dự án đã cấp phép từ các năm trước thì vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài vào ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong 10 tháng đạt
13.872,9 triệu USD, chiếm 75,8% tổng vốn đăng ký; ngành kinh doanh bất
động sản đạt 1.235 triệu USD (có 22 lượt dự án điều chỉnh vốn với tổng số vốn
đăng ký điều chỉnh giảm 46,8 triệu USD), chiếm 6,7%; các ngành còn lại đạt
3.194,5 triệu USD, chiếm 17,5%. Đối với hình thức góp vốn, mua cổ phần của
nhà đầu tư nước ngoài, vốn đầu tư vào ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đạt
5.952,3 triệu USD, chiếm 55,0% tổng giá trị góp vốn; hoạt động kinh doanh bất
động sản đạt 1.748 triệu USD, chiếm 16,2%; các ngành còn lại đạt 3.111,9 triệu
USD, chiếm 28,8%.
Trong số 74 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư được cấp phép mới
tại Việt Nam trong 10 tháng, Hàn Quốc là nhà đầu tư lớn nhất với 2.752,9 triệu
USD, chiếm 21,5% tổng vốn đăng ký cấp mới; tiếp đến là Trung Quốc 2.115,6
triệu USD, chiếm 16,5%; Xin-ga-po 1.839,8 triệu USD, chiếm 14,3%; Đặc khu
hành chính Hồng Công (TQ) 1.639,1 triệu USD, chiếm 12,8%; Nhật Bản
1.630,8 triệu USD, chiếm 12,7%; Thái Lan 538,1 triệu USD, chiếm 4,2%; Xa-
moa 499,6 triệu USD, chiếm 3,9%; Đài Loan 454,6 triệu USD, chiếm 3,5%.
Đầu tư của Việt nam ra nước ngoài trong 10 tháng năm nay có 128 dự án
được cấp mới giấy chứng nhận đầu tư với tổng vốn của phía Việt Nam là 311,9
triệu USD; có 28 lượt dự án điều chỉnh vốn với số vốn tăng thêm là 100 triệu
USD. Tính chung tổng vốn đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài (vốn cấp mới và
tăng thêm) 10 tháng năm 2019 đạt 411,9 triệu USD, trong đó lĩnh vực bán buôn
và bán lẻ; sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác đạt 110,7 triệu
USD, chiếm 26,9% tổng vốn đầu tư; nông, lâm nghiệp và thủy sản đạt 65,6 triệu
USD, chiếm 15,9%; hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ đạt 59,4
triệu USD7, chiếm 14,4%; hoạt động kinh doanh bất động sản 57,9 triệu USD,
chiếm 14,1%. Trong 10 tháng có 30 quốc gia, vùng lãnh thổ nhận đầu tư của
Việt Nam, trong đó Ô-xtrây-li-a là nước dẫn đầu với 140,6 triệu USD, chiếm
34,1%; Hoa Kỳ 61,5 triệu USD, chiếm 14,9%; Tây Ban Nha 59,8 triệu USD,

7
Có 4 lượt dự án điều chỉnh vốn với số vốn điều chỉnh giảm 8,9 triệu USD.
11

chiếm 14,5%; Cam-pu-chia 50,6 triệu USD, chiếm 12,3%; Xin-ga-po 35,6 triệu
USD, chiếm 8,6%.
5. Thu, chi ngân sách Nhà nước
Trong 10 tháng năm 2019, tiến độ thu ngân sách Nhà nước duy trì ổn
định, có 6/12 khoản thu nội địa so với dự toán đạt tiến độ khá, có 3/12 khoản
thu trực tiếp từ hoạt động sản xuất - kinh doanh 8 tiến độ vẫn chậm và thấp hơn
mức bình quân chung; chi ngân sách tiếp tục bảo đảm đáp ứng kịp thời các
nhiệm vụ đầu tư phát triển, chi trả nợ, bảo đảm quốc phòng, an ninh và hoạt
động của bộ máy Nhà nước.
Tổng thu ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến thời điểm 15/10/2019 ước
tính đạt 1.133,6 nghìn tỷ đồng, bằng 80,3% dự toán năm, trong đó thu nội địa
908,1 nghìn tỷ đồng, bằng 77,4%; thu từ dầu thô 45 nghìn tỷ đồng, bằng 100,9%;
thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất, nhập khẩu 176,9 nghìn tỷ đồng, bằng
93,5%. Trong thu nội địa, thu từ khu vực doanh nghiệp Nhà nước đạt 121,5
nghìn tỷ đồng, bằng 68,4% dự toán năm; thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài (không kể dầu thô) 152,3 nghìn tỷ đồng, bằng 71,3%; thu thuế công,
thương nghiệp và dịch vụ ngoài Nhà nước 175,6 nghìn tỷ đồng, bằng 72,7%; thu
thuế thu nhập cá nhân 87,3 nghìn tỷ đồng, bằng 77,1%; thu thuế bảo vệ môi
trường 44,9 nghìn tỷ đồng, bằng 65,1%; thu tiền sử dụng đất 99 nghìn tỷ đồng,
bằng 109,9%.
Tổng chi ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến thời điểm 15/10/2019 ước
tính đạt 1.093,8 nghìn tỷ đồng, bằng 67% dự toán năm, trong đó chi thường
xuyên đạt 774,9 nghìn tỷ đồng, bằng 77,5%; chi đầu tư phát triển 208,6 nghìn
tỷ đồng, bằng 48,6%; chi trả nợ lãi 86,9 nghìn tỷ đồng, bằng 69,6%.
6. Thương mại, giá, vận tải và du lịch
a) Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Mặc dù giá hàng hóa trong tháng có biến động tăng nhưng tình hình thị
trường giữ ổn định, nguồn cung hàng hóa được bảo đảm nên hoạt động thương
mại dịch vụ tiếp tục tăng so với tháng trước. Tính chung 10 tháng năm 2019,
tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng đạt mức tăng cao so
với cùng kỳ năm trước (11,8%), nhờ thực hiện có hiệu quả công tác quản lý
nhà nước và triển khai kịp thời, đồng bộ các giải pháp phát triển thị trường,
thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, kích thích tiêu dùng của người dân.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng Mười
ước tính đạt 425,7 nghìn tỷ đồng, tăng 1,5% so với tháng trước và tăng 13,3%

8
Thu từ khu vực doanh nghiệp Nhà nước; thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; thu thuế công,
thương nghiệp và dịch vụ ngoài Nhà nước.
12

so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 322,7 nghìn
tỷ đồng, tăng 1,7% và tăng 14,7%; doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống đạt 49,1
nghìn tỷ đồng, tăng 0,5% và tăng 9,2%; doanh thu du lịch lữ hành đạt 3,9 nghìn
tỷ đồng, tăng 0,2% và tăng 9,5%; doanh thu dịch vụ khác đạt 50 nghìn tỷ đồng,
tăng 1,2% và tăng 9,2%.
Tính chung 10 tháng năm 2019, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu
dịch vụ tiêu dùng đạt 4.059,4 nghìn tỷ đồng, tăng 11,8% so với cùng kỳ năm
trước9, nếu loại trừ yếu tố giá tăng 9,4% (cùng kỳ năm 2018 tăng 8,9%).
Xét theo ngành hoạt động, doanh thu bán lẻ hàng hóa 10 tháng đạt 3.083,4
nghìn tỷ đồng, chiếm 76% tổng mức và tăng 12,8% so với cùng kỳ năm trước.
Trong đó, ngành hàng vật phẩm văn hoá, giáo dục tăng 15,5%; lương thực, thực
phẩm tăng 13,8%; đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình tăng 12,2%; may
mặc tăng 11,2%; phương tiện đi lại tăng 6,5%. Một số địa phương có mức tăng
khá: Quảng Ninh tăng 19,9%; Bình Dương tăng 17,1%; Thanh Hóa tăng
15,2%;
Hải Phòng tăng 15%; Đà Nẵng tăng 14%; Nghệ An tăng 13,9%; Khánh Hòa
tăng 13,4%; Hà Nội tăng 12,5%; thành phố Hồ Chí Minh tăng 12,1%.
Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống 10 tháng năm nay ước tính đạt 483,7
nghìn tỷ đồng, chiếm 11,9% tổng mức và tăng 9,6% so với cùng kỳ năm trước,
trong đó Bình Định tăng 19,9%; Quảng Ninh tăng 16,4%; Quảng Bình tăng
15,8%; Thanh Hóa tăng 15,6%; Hải Phòng tăng 15%; Đà Nẵng và Hà Nội cùng
tăng 11%; thành phố Hồ Chí Minh tăng 10,8%.
Doanh thu du lịch lữ hành 10 tháng ước tính đạt 37,5 nghìn tỷ đồng, chiếm
0,9% tổng mức và tăng 11,9% so với cùng kỳ năm trước, trong đó doanh thu
của Quảng Ngãi tăng 20,5%; Bình Định tăng 17,7%; Quảng Ninh tăng 17,1%;
Thanh Hóa tăng 15,3%; thành phố Hồ Chí Minh tăng 11,7%; Thừa Thiên - Huế
tăng 9,2%; Hải Phòng tăng 8,5%; Hà Nội tăng 5,8%.
Doanh thu dịch vụ khác 10 tháng ước tính đạt 454,8 nghìn tỷ đồng, chiếm
11,2% tổng mức và tăng 7,7% so với cùng kỳ năm 2018, trong đó doanh thu
của Quảng Ninh tăng 19,4%; Bình Định tăng 17,4%; Lâm Đồng tăng 13,9%;
Khánh Hòa tăng 12,7%; Hải Phòng tăng 10,9%; Thanh Hóa tăng 10,3%; thành
phố Hồ Chí Minh tăng 8,9%; Đà Nẵng tăng 6,9%; Hà Nội tăng 3,5%.
b) Xuất, nhập khẩu hàng hóa
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa 10 tháng năm 2019 ước tính
đạt 427,05 tỷ USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đạt 217,05 tỷ USD,

9
Thấp hơn mức tăng của 10 tháng năm 2018 nhưng cao hơn mức tăng 10 tháng của các năm giai đoạn 2015-
2017. Tốc độ tăng tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 10 tháng các năm 2015-2019 so
với cùng kỳ năm trước lần lượt là: 10,6%; 10,1%; 10,7%; 12,1%; 11,8%.
13

tăng 7,4% so với cùng kỳ năm trước. Khu vực kinh tế trong nước đang dần
khẳng định vị thế với tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu đạt 16,2%, cao hơn
nhiều tốc độ tăng 10 tháng của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (3,9%), đồng
thời tỷ trọng xuất khẩu của khu vực này chiếm 30,7% tổng kim ngạch xuất
khẩu (tăng 2,3 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước). Cán cân thương mại
hàng hóa 10 tháng ước tính xuất siêu 7 tỷ USD.
Xuất khẩu hàng hóa
Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu thực hiện tháng 9/2019 đạt 23.357 triệu
USD, cao hơn 357 triệu USD so với số ước tính, trong đó điện thoại và linh
kiện cao hơn 233 triệu USD; điện tử, máy tính và linh kiện cao hơn 181 triệu
USD; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng cao hơn 104 triệu USD; dệt may thấp
hơn 155 triệu USD.
Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng 10/2019 ước tính đạt 22,40 tỷ USD,
giảm 4,1% so với tháng trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 6,88 tỷ
USD, giảm 2,6%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 15,52
tỷ USD, giảm 4,7%. Kim ngạch xuất khẩu tháng Mười giảm so với tháng trước
chủ yếu do Samsung kết thúc đợt đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm phiên bản mới
Galaxy Note 10 làm cho xuất khẩu điện thoại và linh kiện giảm sâu 13,5%. So
với cùng kỳ năm trước, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng Mười giảm 0,8%,
trong đó khu vực kinh tế trong nước tăng cao 11,7%, trong khi khu vực có vốn
đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) giảm 5,5%.
Tính chung 10 tháng năm 2019, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu ước tính
đạt 217,05 tỷ USD, tăng 7,4% so với cùng kỳ năm 201810, trong đó khu vực
kinh tế trong nước đạt 66,63 tỷ USD, tăng 16,2%, chiếm 30,7% tổng kim ngạch
xuất khẩu; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 150,42 tỷ
USD, tăng 3,9%, chiếm 69,3% (tỷ trọng giảm 2,3 điểm phần trăm so với cùng
kỳ năm trước).
Trong 10 tháng năm 2019 có 29 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên
1 tỷ USD, chiếm 91,2% tổng kim ngạch xuất khẩu (5 mặt hàng đạt kim ngạch
xuất khẩu trên 10 tỷ USD, chiếm 59,4%), trong đó điện thoại và linh kiện có
giá trị xuất khẩu lớn nhất đạt 43,5 tỷ USD, chiếm 20% tổng kim ngạch xuất
khẩu, tăng 5% so với cùng kỳ năm trước; điện tử, máy tính và linh kiện đạt 28,8
tỷ USD, tăng 17,1%; hàng dệt may đạt 27,4 tỷ USD, tăng 8,7%; giày dép đạt
14,6 tỷ USD, tăng 11,2%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 14,6 tỷ USD,
tăng 7,6%. Kim ngạch xuất khẩu của nhiều mặt hàng nông sản tiếp tục giảm so
với cùng kỳ năm trước: Thủy sản đạt 7 tỷ USD, giảm 3,4%; rau quả đạt 3,1 tỷ
USD, giảm 5,8%; hạt điều đạt 2,7 tỷ USD, giảm 3,8% (lượng tăng 22,7%); gạo
10
Thấp hơn mức tăng 21,8% của 10 tháng năm 2017 và 15,3% của 10 tháng năm 2018.
14

đạt 2,4 tỷ USD, giảm 7,8% (lượng tăng 6,1%); cà phê đạt 2,4 tỷ USD, giảm
21,5% (lượng giảm 13,8%); hạt tiêu đạt 629 triệu USD, giảm 7,4% (lượng tăng
19,6%). Riêng cao su đạt 1.750 triệu USD, tăng 5,5% (lượng tăng 6,6%); chè
đạt 187 triệu USD, tăng 7,9% (lượng tăng 3,4%).
Về thị trường hàng hóa xuất khẩu 10 tháng năm 2019, Hoa Kỳ tiếp tục là
thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch đạt 49,9 tỷ USD,
tăng 26,6% so với cùng kỳ năm trước; tiếp đến là thị trường EU đạt 34,2 tỷ
USD, giảm 1,9%; Trung Quốc đạt 32,5 tỷ USD, giảm 2,9%; thị trường ASEAN
đạt 21,3 tỷ USD, tăng 2,6%; Nhật Bản đạt 16,6 tỷ USD, tăng 7,5%; Hàn Quốc
đạt 16,6 tỷ USD, tăng 9%.
Nhập khẩu hàng hóa
Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu thực hiện tháng 9/2019 đạt 21.749 triệu
USD, thấp hơn 751 triệu USD so với số ước tính, trong đó điện tử, máy tính và
linh kiện thấp hơn 375 triệu USD; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng thấp hơn
149 triệu USD; xăng dầu thấp hơn 75 triệu USD; thức ăn gia súc và nguyên phụ
liệu thấp hơn 58 triệu USD; chất dẻo thấp hơn 49 triệu USD; điện thoại và linh
kiện thấp hơn 42 triệu USD.
Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng 10/2019 ước tính đạt 22,50 tỷ USD,
tăng 3,5% so với tháng trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 9,25 tỷ
USD, tăng 5,8%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 13,25 tỷ USD, tăng
1,9%. So với cùng kỳ năm 2018, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng Mười
tăng 3,5%, trong đó khu vực kinh tế trong nước tăng 8,6%; khu vực có vốn đầu
tư nước ngoài tăng 0,2%.
Tính chung 10 tháng năm 2019, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu ước tính
đạt 210 tỷ USD, tăng 7,8% so với cùng kỳ năm 2018, trong đó khu vực kinh tế
trong nước đạt 87,9 tỷ USD, tăng 13%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt
122,1 tỷ USD, tăng 4,4%.
Trong 10 tháng có 32 mặt hàng nhập khẩu đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD,
chiếm 88,6% tổng kim ngạch nhập khẩu (2 mặt hàng đạt trên 20 tỷ USD, chiếm
34,7%), trong đó: Điện tử, máy tính và linh kiện đạt 43 tỷ USD (chiếm 20,5%
tổng kim ngạch nhập khẩu), tăng 21,5% so với cùng kỳ năm trước; máy móc thiết
bị, dụng cụ phụ tùng đạt 30 tỷ USD, tăng 11,4%; điện thoại và linh kiện đạt 12,2
tỷ USD, giảm 3,5%; vải đạt 10,9 tỷ USD, tăng 3,5%; sắt thép đạt 8,1 tỷ USD,
giảm 3,5%; chất dẻo đạt 7,5 tỷ USD, giảm 0,4%; ô tô đạt 6,1 tỷ USD, tăng 45,8%;
kim loại thường đạt 5,4 tỷ USD, giảm 14%; sản phẩm chất dẻo đạt 5,4 tỷ USD,
tăng 9,9%.
15

Về cơ cấu hàng hóa nhập khẩu 10 tháng năm 2019, nhóm hàng tư liệu sản
xuất ước tính đạt 191,3 tỷ USD, tăng 7,2% so với cùng kỳ năm trước và chiếm
91,1% tổng kim ngạch hàng hóa nhập khẩu; nhóm hàng tiêu dùng ước tính đạt
18,7 tỷ USD, tăng 14,7% và chiếm 8,9% (tăng 0,5 điểm phần trăm so với cùng
kỳ năm 2018).
Về thị trường hàng hóa nhập khẩu 10 tháng, Trung Quốc vẫn là thị trường
nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch đạt 62 tỷ USD, tăng 16,1% so
với cùng kỳ năm trước; tiếp theo là thị trường Hàn Quốc đạt 39,4 tỷ USD, tăng
0,6%; thị trường ASEAN đạt 26,4 tỷ USD, tăng 1%; Nhật Bản đạt 16 tỷ USD,
tăng 2,1%; thị trường EU đạt 12,2 tỷ USD, tăng 7,8%; Hoa Kỳ đạt 12 tỷ USD,
tăng 12,6%.
Cán cân thương mại hàng hóa thực hiện tháng Chín xuất siêu 1,6 tỷ
USD11; 9 tháng xuất siêu 7,1 tỷ USD; tháng Mười ước tính nhập siêu 100 triệu
USD. Tính chung 10 tháng năm 2019 ước tính xuất siêu 7 tỷ USD 12, trong đó
khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 21,3 tỷ USD; khu vực có vốn đầu tư nước
ngoài (kể cả dầu thô) xuất siêu 28,3 tỷ USD.
c) Chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá vàng và chỉ số giá đô la Mỹ
Giá thịt lợn tăng do ảnh hưởng của dịch tả lợn châu Phi làm giảm nguồn
cung thịt lợn; điều chỉnh tăng giá xăng, dầu theo giá thế giới; điều chỉnh tăng
giá dịch vụ giáo dục nhằm tiệm cận với giá thị trường là những yếu tố chủ yếu
làm chỉ số giá tiêu dùng tháng 10/2019 tăng 0,59% so với tháng trước, bình
quân 10 tháng tăng 2,48% so với cùng kỳ năm 2018, đây là mức tăng bình
quân 10 tháng thấp nhất trong 3 năm gần đây13.
Trong mức tăng 0,59% của chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 10/2019 so
với tháng trước có 10/11 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng, trong đó
nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng cao nhất 1,04% (lương thực tăng
0,05%14; thực phẩm tăng 1,57%15). Nhóm giao thông tăng 0,99% do ảnh hưởng
từ đợt điều chỉnh tăng giá xăng, dầu vào thời điểm 1/10/2019 và điều chỉnh
giảm giá xăng, dầu vào thời điểm 16/10/2019 làm chỉ số giá xăng, dầu tăng
2,22% (tác động làm CPI chung tăng 0,1%). Nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng
tăng 0,53% chủ yếu do giá gas trong nước điều chỉnh tăng vào thời điểm
1/10/2019 làm chỉ số giá gas tăng 7,62% (làm CPI chung tăng 0,09%). Nhóm
11
Tháng Chín ước tính xuất siêu 0,5 tỷ USD.
12
Trong đó, 10 tháng năm 2019 xuất siêu sang EU đạt 22 tỷ USD, giảm 6,5% so với cùng kỳ năm trước; nhập siêu
từ Trung Quốc 29,5 tỷ USD, tăng 47,9%; nhập siêu từ Hàn Quốc 22,8 tỷ USD, giảm 4,8%; nhập siêu từ
ASEAN 5,1 tỷ USD, giảm 5,1%.
13
Tốc độ tăng CPI bình quân 10 tháng so với cùng kỳ năm trước: năm 2017 là 3,71%; năm 2018 là 3,6% và năm
2019 là 2,48%.
14
Mặc dù giá gạo giảm 0,04% nhưng chỉ số giá nhóm lương thực vẫn tăng do giá khoai tăng 2,56%; giá sắn
tăng 2,87%.
15
Nguyên nhân chính là do giá thịt lợn tăng 7,85% (làm CPI chung tăng 0,33%); giá các sản phẩm chế biến từ
thịt lợn tăng: giá thịt quay, giò chả tăng 2,6%, giá thịt hộp, chế biến khác tăng 0,3%. Ngoài ra giá thủy sản
tươi sống tăng 0,1%; giá thủy sản chế biến tăng 0,54%.
16

giáo dục tăng 0,19% (dịch vụ giáo dục tăng 0,21%) do một số địa phương thực
hiện tăng học phí năm học mới 2019-2020. Nhóm văn hóa, giải trí và du lịch
tăng 0,12%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,09%; may mặc, mũ nón, giày
dép tăng 0,06%; đồ uống, thuốc lá và nhóm thuốc và dịch vụ y tế đều tăng
0,04%; nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,17%. Riêng nhóm bưu chính
viễn thông giảm 0,06%.
CPI bình quân 10 tháng năm 2019 tăng 2,48% so với bình quân cùng kỳ
năm 2018; CPI tháng 10/2019 tăng 2,79% so với tháng 12/2018 và tăng 2,24%
so với cùng kỳ năm trước.
Lạm phát cơ bản tháng 10/2019 tăng 0,15% so với tháng trước và tăng
1,99% so với cùng kỳ năm trước. Lạm phát cơ bản bình quân 10 tháng năm
2019 tăng 1,92% so với bình quân cùng kỳ năm 2018.
Giá vàng trong nước giảm theo giá vàng thế giới do đàm phán thương mại
Mỹ - Trung có những bước tiến mới và những tín hiệu từ Cục Dự trữ liên bang
Mỹ cho thấy khả năng lãi suất sẽ tiếp tục được cắt giảm để hỗ trợ tăng trưởng
kinh tế. Bình quân giá vàng thế giới đến ngày 24/10/2019 giảm 1,26% so với
tháng 9/2019. Trong nước, chỉ số giá vàng tháng 10/2019 giảm 0,57% so với
tháng trước; tăng 17,38% so với tháng 12/2018 và tăng 19,01% so với cùng kỳ
năm trước.
Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 10/2019 tăng 0,03% so với tháng trước; giảm
0,46% so với tháng 12/2018 và giảm 0,56% so với cùng kỳ năm trước.
d) Vận tải hành khách và hàng hóa
Hoạt động vận tải trong tháng Mười và 10 tháng năm 2019 tiếp tục duy
trì mức tăng khá so với cùng kỳ năm trước, đặc biệt là ngành đường bộ và
đường hàng không, do được chú trọng đầu tư cơ sở hạ tầng, đảm bảo kết nối
thuận tiện giữa các địa phương và các hãng kinh doanh không ngừng cải tiến,
nâng cao chất lượng dịch vụ, giá cả linh hoạt.
Vận tải hành khách tháng Mười ước tính đạt 438,9 triệu lượt khách, tăng
0,7% so với tháng trước và 20,6 tỷ lượt khách.km, tăng 0,6%. Tính chung 10
tháng năm 2019, vận tải hành khách đạt 4.230,5 triệu lượt khách, tăng 10,6% so
với cùng kỳ năm trước và 204,3 tỷ lượt khách.km, tăng 10,4%, trong đó vận tải
trong nước đạt 4.216 triệu lượt khách, tăng 10,7% và 160,6 tỷ lượt khách.km,
tăng 11%; vận tải ngoài nước đạt 14,5 triệu lượt khách, tăng 7,3% và 43,7 tỷ
lượt khách.km, tăng 8,1%. Xét theo ngành vận tải, đường bộ 10 tháng đạt
4.003,7 triệu lượt khách, tăng 10,9% và 134.3 tỷ lượt khách.km, tăng 10,7%;
đường hàng không đạt 45,5 triệu lượt khách, tăng 10,3% và 63,5 tỷ lượt
khách.km, tăng 10,9%; đường thủy nội địa đạt 167,9 triệu lượt khách, tăng
5,9% và 3,3 tỷ lượt khách.km, tăng 7%; đường biển đạt gần 6,4 triệu lượt
khách, tăng 5,8% và 386,6 triệu lượt khách.km, tăng 7%; đường sắt đạt hơn 7
triệu lượt khách, giảm 6,7% và 2,9 tỷ lượt khách.km, giảm 8,8%.
17

Vận tải hàng hóa tháng Mười ước tính đạt 143,2 triệu tấn, tăng 0,9% so
với tháng trước và 27,6 tỷ tấn.km, tăng 0,5%. Tính chung 10 tháng, vận tải
hàng hóa đạt 1.387,7 triệu tấn, tăng 9,3% so với cùng kỳ năm trước và 265,5 tỷ
tấn.km, tăng 7,4%, trong đó vận tải trong nước đạt 1.359,6 triệu tấn, tăng 9,4%
và 148,3 tỷ tấn.km, tăng 10,1%; vận tải ngoài nước đạt 28,1 triệu tấn, tăng 4%
và 117,2 tỷ tấn.km, tăng 4,3%. Xét theo ngành vận tải, đường bộ 10 tháng đạt
1.065,5 triệu tấn, tăng 10,6% so với cùng kỳ năm trước và 71,4 tỷ tấn.km, tăng
10,8%; đường thủy nội địa đạt 250,1 triệu tấn, tăng 5,5% và 52,2 tỷ tấn.km,
tăng 6,3%; đường biển đạt 67,5 triệu tấn, tăng 5,4% và 137,9 tỷ tấn.km, tăng
6,6%; đường hàng không đạt 365,1 nghìn tấn, tăng 10,5% và 949 triệu tấn.km,
tăng 9,8%; đường sắt đạt 4,2 triệu tấn, giảm 11,7% và hơn 3 tỷ tấn.km, giảm
8,5%.
e) Khách quốc tế đến Việt Nam
Tháng Mười là tháng đầu tiên có lượng khách quốc tế đến nước ta đạt
trên 1,6 triệu lượt người, nâng tổng số khách quốc tế đến Việt Nam trong 10
tháng năm 2019 đạt 14,5 triệu lượt người, trong đó khách đến từ Trung Quốc
và Hàn Quốc chiếm gần 56% lượng khách quốc tế đến Việt Nam.
Khách quốc tế đến nước ta trong tháng Mười ước tính đạt 1.618,3 nghìn
lượt người, tăng 3,7% so với tháng trước, trong đó khách đến bằng đường hàng
không tăng 1,8%; bằng đường bộ tăng 11,3% và bằng đường biển tăng 32,9%.
So với cùng kỳ năm trước, khách quốc tế đến nước ta trong tháng Mười tăng
34,3%, trong đó khách đến từ châu Á tăng 41,2%; từ châu Âu tăng 7,3%; từ
châu Mỹ tăng 10,2%; từ châu Úc tăng 1,5% và từ châu Phi tăng 19,4%.
Tính chung 10 tháng năm 2019, khách quốc tế đến nước ta ước tính đạt
14.488,8 nghìn lượt người, tăng 13% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khách
đến bằng đường hàng không đạt 11.510,8 nghìn lượt người, chiếm 79,4% lượng
khách quốc tế đến Việt Nam, tăng 11,1%; bằng đường bộ đạt 2.764,7 nghìn
lượt người, chiếm 19,1% và tăng 22,3%; bằng đường biển đạt 213,3 nghìn lượt
người, chiếm 1,5% và tăng 6,6%.
Trong 10 tháng năm nay, khách quốc tế đến nước ta từ châu Á đạt
11.511,6 nghìn lượt người, chiếm 79,5% tổng số khách quốc tế, tăng 15,2% so
với cùng kỳ năm trước, trong đó khách đến từ hầu hết các thị trường chính đều
tăng: Trung Quốc đạt 4.574,8 nghìn lượt người, tăng 9,4%; Hàn Quốc đạt
3.501,8 nghìn lượt người, tăng 22,1%; Nhật Bản 786,7 nghìn lượt người, tăng
15%; Đài Loan 762,5 nghìn lượt người, tăng 29,5%; Ma-lai-xi-a 480,1 nghìn
lượt người, tăng 13,6%; Thái Lan 397,9 nghìn lượt người, tăng 47,7%. Bên
cạnh đó, một số quốc gia và vùng lãnh thổ có số khách đến nước ta giảm như:
Cam-pu-chia đạt 150,2 nghìn lượt người, giảm 12,2%; Lào đạt 81,6 nghìn lượt
người, giảm 22%.
18

Khách đến từ châu Âu 10 tháng ước tính đạt 1.762,4 nghìn lượt người,
tăng 5,5% so với cùng kỳ năm trước và tăng ở hầu hết các thị trường, trong đó
khách đến từ Liên bang Nga đạt 519,7 nghìn lượt người, tăng 4,8%; Vương
quốc Anh 262,4 nghìn lượt người, tăng 5,8%; Pháp 234,8 nghìn lượt người,
tăng 1,7%; Đức 181,2 nghìn lượt người, tăng 5,6%; riêng Phần Lan giảm 8,9%
so với cùng kỳ năm trước với lượng khách đến Việt Nam đạt 17,3 nghìn lượt
người.
Khách đến từ châu Mỹ 10 tháng ước tính đạt 807,5 nghìn lượt người, tăng
7,1% so với cùng kỳ năm 2018, chủ yếu là khách đến từ Hoa Kỳ đạt 622,4
nghìn lượt người, tăng 8%. Khách đến từ châu Úc đạt 368,4 nghìn lượt người,
giảm 1,1% so với cùng kỳ năm 2018, trong đó khách đến từ Ôx-trây-li-a đạt
326,5 nghìn lượt người, giảm 0,5%. Khách đến từ châu Phi đạt 38,9 nghìn lượt
người, tăng 11,7% so với cùng kỳ năm trước.
7. Một số tình hình xã hội
a) Thiếu đói trong nông dân
Tình hình thiếu đói trong tháng Mười được cải thiện, cả nước chỉ có tỉnh
Gia Lai phát sinh thiếu đói với 553 hộ thiếu đói, giảm 72,9% so với cùng kỳ
năm 2018, tương ứng với 2,4 nghìn nhân khẩu thiếu đói, giảm 71,2%. Đây là
tháng thứ 6 liên tiếp kể từ đầu năm có số hộ và số nhân khẩu thiếu đói giảm so
với cùng kỳ. Tính chung 10 tháng năm 2019, cả nước có khoảng 68 nghìn lượt
hộ thiếu đói, giảm 33,8% so với cùng kỳ năm trước, tương ứng với gần 275,6
nghìn lượt nhân khẩu thiếu đói, giảm 32,8%. Để khắc phục tình trạng thiếu đói,
từ đầu năm đến nay, các cấp, các ngành, các tổ chức từ Trung ương đến địa
phương đã hỗ trợ các hộ thiếu đói hơn 3,9 nghìn tấn gạo.
b) Tình hình dịch bệnh, ngộ độc thực phẩm
Trong tháng (từ 19/9 đến 18/10/2019), cả nước có 24,2 nghìn trường hợp
mắc bệnh tay chân miệng; 42,8 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết (3
trường hợp tử vong); 53 trường hợp mắc bệnh viêm màng não do vi rút; 3
trường hợp mắc bệnh viêm màng não do não mô cầu; 1,4 nghìn trường hợp sốt
phát ban nghi sởi, trong đó có 218 trường hợp mắc sởi dương tính. Tính chung
10 tháng, cả nước có 67,3 nghìn trường hợp mắc bệnh tay chân miệng (2 trường
hợp tử vong); 231,3 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết (39 trường hợp
tử vong); 510 trường hợp mắc bệnh viêm màng não do vi rút (12 trường hợp tử
vong); 25 trường hợp mắc bệnh viêm màng não do não mô cầu (1 trường hợp
tử vong); 36,5 nghìn trường hợp sốt phát ban nghi sởi, trong đó có 6,7 nghìn
trường hợp mắc sởi dương tính (3 trường hợp tử vong).
Tổng số người nhiễm HIV của cả nước hiện còn sống tính đến thời điểm
18/10/2019 là 209,9 nghìn người và số trường hợp đã chuyển sang giai đoạn
19

AIDS là gần 96,96 nghìn người; số người tử vong do HIV/AIDS tính đến thời
điểm trên là 98,45 nghìn người.
Trong tháng, cả nước xảy ra 4 vụ ngộ độc thực phẩm, làm 40 người bị ngộ
độc. Tính chung 10 tháng, trên địa bàn cả nước xảy ra 58 vụ ngộ độc thực
phẩm, làm 1.668 người bị ngộ độc (9 trường hợp tử vong).
c) Tai nạn giao thông
Trong tháng (từ 15/9 đến 14/10), trên địa bàn cả nước đã xảy ra 1.576 vụ
tai nạn giao thông, bao gồm 824 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên
và 752 vụ va chạm giao thông, làm 659 người chết, 477 người bị thương và 777
người bị thương nhẹ. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao thông tháng
10/2019 giảm 1,7% (Số vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên tăng
2% và số vụ va chạm giao thông giảm 5,4%); số người chết giảm 0,5%; số
người bị thương tăng 10,9% và số người bị thương nhẹ giảm 2,9%. Đáng lưu ý,
trong tháng xảy ra một số vụ tai nạn giao thông nghiêm trọng, trong đó có
nhiều vụ liên quan đến điều khiển xe máy như: Vụ tai nạn giữa xe tải và xe máy
xảy ra ngày 30/9 tại Hải Dương làm 2 người chết và 3 người bị thương; vụ tai
nạn xảy ra ngày 8/10 trên đường cao tốc Bắc Giang làm 2 người chết và 1
người bị thương; vụ tai nạn giữa 2 xe máy xảy ra ngày 9/10 tại Lạng Sơn làm 1
người chết và 4 người bị thương; vụ tai nạn giữa ô tô và xe máy ra ngày 16/10
tại Quảng Trị làm 3 người chết; vụ tai nạn xe tải xảy ra ngày 17/10 tại Quảng
Ngãi làm 2 người chết; vụ tai nạn giữa xe tải và xe máy ra ngày 17/10 tại Bình
Phước làm 2 người chết và 1 người bị thương.
Tính chung 10 tháng năm 2019, trên địa bàn cả nước xảy ra 14.251 vụ tai
nạn giao thông, bao gồm 7.542 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên
và 6.709 vụ va chạm giao thông, làm 6.318 người chết, 4.110 người bị thương
và 6.763 người bị thương nhẹ. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao
thông trong 10 tháng năm nay giảm 4% (Số vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm
trọng trở lên giảm 1,7%; số vụ va chạm giao thông giảm 6,5%); số người chết
giảm 5,3%; số người bị thương tăng 0,2% và số người bị thương nhẹ giảm
9,2%. Bình quân 1 ngày trong 10 tháng, trên địa bàn cả nước xảy ra 47 vụ tai
nạn giao thông, gồm 25 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên và 22
vụ va chạm giao thông, làm 21 người chết, 14 người bị thương và 22 người bị
thương nhẹ.
d) Thiệt hại do thiên tai
Thiên tai xảy ra trong tháng 10/2019 chủ yếu là mưa lớn, lốc xoáy, sét
đánh, sạt lở và triều cường tại một số địa phương làm 9 người chết, 6 người bị
thương; 40 ngôi nhà bị sập đổ, cuốn trôi và 6,6 nghìn ngôi nhà bị hư hỏng; 2,4
nghìn ha lúa và hoa màu bị hư hỏng. Theo báo cáo sơ bộ từ các địa phương,
tổng giá trị thiệt hại về tài sản do thiên tai gây ra trong tháng ước tính 118,4 tỷ
đồng. Tính chung 10 tháng, thiên tai làm 125 người chết và mất tích, 170
20

người bị thương; 1.461 ngôi nhà bị sập đổ, cuốn trôi; hơn 66,1 nghìn ngôi nhà
bị hư hỏng; hơn 65,1 nghìn ha lúa và 19,5 nghìn ha hoa màu bị hư hỏng. Tổng
giá trị thiệt hại về tài sản do thiên tai xảy ra trong 10 tháng ước tính hơn 4,7
nghìn tỷ đồng.
e) Bảo vệ môi trường và phòng chống cháy, nổ
Trong tháng 10/2019, cơ quan chức năng đã phát hiện 1.058 vụ vi phạm
môi trường, trong đó xử lý 889 vụ với tổng số tiền phạt 10,7 tỷ đồng. Tính
chung 10 tháng đã phát hiện 10.187 vụ vi phạm môi trường trên địa bàn cả
nước, trong đó xử lý 9.181 vụ với tổng số tiền phạt 99,4 tỷ đồng.
Tháng 10/2019, cả nước xảy ra 235 vụ cháy, nổ, làm 6 người chết và 17
người bị thương, thiệt hại về tài sản ước tính hơn 44 tỷ đồng. Tính chung 10
tháng năm nay, trên địa bàn cả nước xảy ra 3.194 vụ cháy, nổ, làm 82 người
chết và 141 người bị thương, thiệt hại ước tính hơn 1.101 tỷ đồng./.

Nơi nhận: TỔNG CỤC TRƯỞNG


- Tổng Bí thư, Chủ tịch nước;
- Chủ tịch Quốc hội;
- Thủ tướng Chính phủ;
- Các Phó Thủ tướng Chính phủ;
- Lãnh đạo Bộ Kế hoạch và Đầu tư;
- Các cơ quan thuộc Trung ương Đảng;
- Văn phòng Chủ tịch nước;
- Các cơ quan thuộc Quốc hội;
- Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Nguyễn Bích Lâm
cơ quan thuộc Chính phủ;
- Toà án Nhân dân tối cao;
- Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao;
- Các đoàn thể Trung ương;
- Các tỉnh, thành phố trực thuộc TW;
- Phòng Thương mại và Công nghiệp VN;
- Các đơn vị thuộc Bộ KHĐT;
- Cơ quan Thông tấn, báo chí;
- Các đơn vị thuộc TCTK;
- Lưu: VT, TKTH.

You might also like